Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2023

Một số bài viết về Phạm Quỳnh

Một số bài viết về Phạm Quỳnh

LẠ LÙNG
MỘT CUỐN SÁCH DỞ DANG
Nguyên Ngọc
Nhà văn Nguyên Ngọc là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, những bút danh khác là Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim, tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh ngày 5-11-1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm 18 tuổi, xin gia nhập quân đội, tốt nghiệp Trường Lục Quân Khu V. Hầu hết thời gian 1951-1954, hoạt động ở vùng Tây Nguyên, chiến trường chính của Liên Khu V bấy giờ. Chính điều đó đã dẫn đến thành công của tiểu thuyết đầu tay Đất nước đứng lên (1956), được tặng giải nhất về tiểu thuyết trong Giải Thưởng Văn Học 1954-1955 của Hội nhà Văn Việt Nam. Sau đó, cho in Mạch nước ngầm (1960) và tập truyện ngắn Rẻo cao (1961). Năm 1962, trở lại Tây Nguyên và Quảng Nam, ông tiếp tục sáng tác với bút danh Nguyễn Trung Thành. Năm 1969, có tập truyện và ký Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc nổi tiếng với truyện ngắn Rừng xà nu và tùy bút Đường chúng ta đi. Năm 1971 và 1974, phần 1 và 2 tiểu thuyết Đất Quảng ra mắt bạn đọc…
Sáng tác của Nguyên Ngọc không nhiều về số lượng, nhưng gây được ấn tượng mạnh với người đọc. Ông nhận thức rõ ràng về những hạn chế mang tính lịch sử của một thời đã qua để hướng tới sự đổi mới, đó chính là kết quả của sự nhạy cảm trong tư tưởng của nhà văn. Ông nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
Dịp nhà xuất bản Tri Thức và Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây tổ chức buổi ra mắt bản dịch Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932 của Phạm Quỳnh, nhà văn Nguyên Ngọc nói: “Đầu thế kỷ XX, chúng ta đã có những người khổng lồ như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi. Không phải mọi kiến giải của họ đều đúng đắn, nhưng những vấn đề họ đặt ra đến nay vẫn còn tính thời sự”.
Chúng tôi xin mời  các bạn đọc nguyên văn bài Lạ lùng một cuốn sách dở dang như sau:
*
*    *
Cuốn sách này của Thượng Chi Phạm Quỳnh, cầm lên, nhẹ tay đến xót xa (mười một bài tản văn, bài dài nhất chỉ chín trang, bài ngắn vỏn vẹn một trang; và mấy chục bài thơ dịch Đỗ Phủ). Những trang viết cuối cùng của một người, một đời. Dở dang, thậm chí bài cuối cùng còn dừng giữa dòng, mà lại rất có thể sẽ là bài tâm huyết nhất của ông, về Kiều, mà ta biết ông gắn bó đến chừng nào. Ông nói: “Tôi với Truyện Kiều không phải là thái độ một nhà văn với một tác phẩm mà là tâm lý một người có cảm giác là một hội một thuyền… Tôi đối với Truyện Kiều, Truyện Kiều đối với tôi – hay là có thể nói, tôi đối với cô kiều, cô Kiều đối với tôi…” Kiều với Đạm Tiên, một hội một thuyền. Phạm Quỳnh với Kiều, một hội một thuyền. Cả ba một hội một thuyền vậy! Đều “tài tình chi lắm cho trời đất ghen”. Nhưng Phạm Quỳnh không đổ lỗi cho trời, ông nhận lỗi về mình.
Ông viết những trang cuối cùng này ở nơi có tên là biệt thự Hoa Đường và tự gọi mình là “Thiếu Hoa Đường”, nương theo tên “Lão Hoa Đường” của danh nhân Phạm Quý Thích, “vị tiền bối chân Nho ôn hòa thuần túy” mà ông cho là ông đã dại dột không biết ứng xử cho bằng “Lão Hoa Đường sinh vào thời Lê Mạt Nguyễn sơ”, là đời loạn, tự biết “phận Nho quèn” không sao đương được với thời cục rối, quyết chí ẩn dật để giữ lấy tiết thanh cao, còn cao hơn biết bao nhiêu Thiếu Hoa Đường này, cũng sinh vào thời loạn là buổi Á Âu xung đột, mà tự khờ dại đem mình lăn lộn giữa phong trào hỗn độn, trong thời buổi nhá nhem, không biết cái thân “Nho quèn” đương nổi sao được thời thế, ở giữa cái xã hội xu thời mị chúng này, ai còn thiết đến kẻ văn nhân nho sĩ, “chỉ biết đem một thái độ ôn hòa nhà nho mà đối với cái cuồng phong bác tạp hỗn hào!…”
Trong cuộc “lăn lộn” (ngày nay ta goi là “dấn thân”) ấy, như ta biết, Phạm Quỳnh đã thất bại. Ông lui về ẩn dật, và bắt tay viết “Hoa Đường tùy bút”. Vậy Tùy bút Hoa Đường là gì? Thoạt nhìn, mươi bài tạp văn, không có chủ đề chung, không đường dây dẫn dắt nhất quán, tản mạn, rời rạc, như chợt nhớ đâu viết đấy, chợt nghĩ gì thì nói ra… Nhưng mà đọc đi đọc lại, ngẫm kỹ rất có thể đây là một sự chuẩn bị, chuẩn bị cho một cuộc tổng kết, có thể là một cuộc tổng kết lớn, và sâu, rất sâu nữa, mà tiếc thay, ông đã không kịp làm.
Ở giữa tập tùy bút này là một bài có vẻ lạc giọng so với những bài khác, với cái đầu đề trông rất thản nhiên, lối kể cũng rất thản nhiên, điềm đạm, dửng dưng nữa, “Chuyện một đêm và một ngày”. Ấy vậy mà cái đêm và cái ngày ấy, mồng 9 tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương - và Phạm Quỳnh chừng nào đó ở chính trung tâm của sự kiện chấn động ấy, sự kiện cắt ngang đứt phựt cuộc đời ông - và rộng hơn, chuẩn bị cho cả đất nước bước qua một trang hoàn toàn mới của lịch sử (chính trong cái một đêm và một ngày đó Trường Chinh dã viết Văn kiện quyết định “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”). Cuối bài ông có hứa: “… (Trong một đêm và một ngày ấy) đều là những việc quan trọng, thuộc về lịch sử, tôi được may mắn dự vào, đóng một vai chính, sau này sẽ có dịp thuật tường?” Như ta biết, cũng là một lời hứa ảo tưởng thôi, bởi cái lịch sử ông vừa nói đó nào có cho ông “có dịp”. Nó đã hất ông ra bên lề. Ở bên lề đó, ông bắt tay chuẩn bị cho một cuộc tổng kết, những trang trông rời rạc này chính là chuẩn bị cho cuộc tổng kết ấy – tôi tin vậy, bởi hai lẽ: một người như Phạm Quỳnh, vốn sống đầy suy tư, vừa có cái chất nghệ sĩ chết người của cô Kiều, vừa dẫu đã quyết về vườn chắc hẳn vẫn chưa chịu hết trách nhiệm với xã hội và nhân quần, sau cuộc lăn lộn lấm lem mấy mươi năm trong vòng danh lợi đắng cay, ắt không thể không có điều muốn nói lại với đời, và trước hết với chính mình. Lại nữa, đọc kỹ xem, chừng rời rạc vậy mà vẫn có một nhất quán: hoặc bằng đôi ba chân dung cực ngắn mà cực tinh, rất cụ thể mà sức khái quát lớn – khiến ta không thể không nhớ những trang viết nổi tiếng Các tính cách (Les caracactères) của La Bruyère; hoặc súc tích đến chỉ vẹn một trang, mỗi câu như một châm ngôn – lại khiến ta nghĩ đến La Rochefoucault; hoặc cứ như xa xôi thâm trầm bàn về căn nguyên của con người và tính người khi ngẫm nghĩ về Keyserling…; mà hóa ra tất cả đều hướng về một điều rất quán xuyến ông viết ngay từ đầu thiên tùy bút dở dang này: “Thế thái nhân tình”. Một chuẩn bị tổng kết bi quan về cuộc đời, thói đời. “Thói đời nóng lạnh, lòng người thắm phai; ai cũng nói vậy, ai cũng biết thế, nhưng có từng trải mới biết thói đời điên đảo, lòng người xấu xa là dường nào… Dù có lạc quan gì về thế sự, thấy người đời trở mặt như bàn tay, xây lưng như chớp nhóng, cũng phải sửng sốt mà tự hỏi: “Ồ! Thói đời đen bạc đến thế ru?… Cho đến nỗi, tham sống vốn là bản năng hàng đầu của con người, nhưng rồi trải thói đời điên đảo, “người ta dù có mê sống đến thế nào cũng có lúc hốt nhiên tự tỉnh, mà trong giây phút có cái cảm giác sống là nặng nề, là cực nhọc, là đau đớn cho thân thể, là phiền não cho tinh thần, mà giá có ai doạ hỏi: “Muốn sống thì…” thì cũng thản nhiên trả lời rằng: không.
… Người ta đã đến không “muốn sống” nữa, thì là thách cả mọi sự dọa nạt của đời. Đời còn làm gì được con người đó nữa?…”
Đối lại cái bi quan cùng cực đó, Phạm Quỳnh cố đưa ra hai lối thoát: Đạo đức, mà ông gọi là “Chỉ buộc chân voi”; “Nền nếp của gia đình, trật tự trong xã hội, kỷ luật của cá nhân, phần nhiều cũng chỉ căn cứ ở mấy sợi chỉ vô hình do đạo đức tôn giáo đời đời dùng để ngăn cái thị dục vô nhai của người ta, ngăn cái xuẩn động vô ý của quần chúng… Cho nên những sợi chỉ vô hình đó, chúng ta phải biết giữ gìn mà tôn tọng. Mỗi khi đụng chạm đến, phải hết sức cẩn thận, vì đã đứt rồi không sao nối lại được…
Thứ nhất là kẻ có trách nhiệm trị dân trị nước, lại phải thận trọng lắm, và phải nhớ rằng một dân không biết kính nữa là một dân bất trị vậy.”
Sâu sắc lắm, tha thiết lắm, nhưng mà liệu chính ông thật có tin, khi chính ông biết những sợi chỉ ấy là vô cùng mong manh, mà “con voi” cuộc sống thì vốn hung dữ quàng xiên. Và có khi “chỉ” cũng đã đứt rồi!
Phạm Quỳnh lại vận đến đạo Phật: “Ai đã có cái cảm giác rùng mình ghê sợ đó, sống mà hãi hùng cái sống, sống mà mệt nhọc vì sống, là người đã sẵn sàng tâm trí để nếm thử mùi thiền vậy…” Thâm thúy lắm, nhưng rồi chính ông cũng không kịp nếm được cái mùi an tịnh thâm trầm đó!
Cũng có khi ông cố tìm một con đường khác nữa: bàn về văn học và chính trị, ông bảo nhà chính trị nên có thêm văn học, bởi nhà chính trị “nếu quả có tài năng thời tài năng ấy nhờ văn học chắc cũng được cường hóa, thâm hóa thêm ra”. Nghe chừng không thuyết phục lắm, bằng cái đoạn “phản thuyết” sau đây: “Nếu nhà văn học bản sắc là văn học mà ngẫu nhĩ làm chính trị… thời đó là một sự thí nghiệm mà thành công hay thất bại không thể quyết đoán được. Nhưng cứ bình tĩnh mà xét, nhà văn học thuần túy, không nên tham dự chính trị: hoa lan phải mọc trong u cốc, không thể đem ra trưng bày nơi đầu đường góc chợ được…” Kinh nghiệm đau đớn của chính ông là một. Và ai cũng biết, xưa cũng như nay, không chỉ có một.
Như ta vẫn thấy, tổng kết sự đời của một người thành công thường nhạt. Có mấy tác phẩm lớn viết về những cuộc đời suôn sẻ đâu. Kinh nghiệm đời quan trọng và đáng giá nhất là của những người ngấm đau vì đời. Thượng Chi Phạm Quỳnh là một người như vậy. Tiếc thay ý đồ tổng kết lớn của ông, báo hiệu qua mấy phác thảo ngắn mà sắc như dao này, đã phải dở dang. Nhưng quả đây là một cuốn sách lạ, ngắn vậy, mà cứ muốn đọc đi đọc lại, bởi dẫu dở dang, đọc cứ như tác giả đang nói về chính những điều xã hội ta đang phải đương đầu hôm nay.
Những tư tưởng lớn, dù chỉ mới được nói ra một cách manh nha, vẫn có sức đi xa lạ lùng của chúng. Và nghĩ cho cùng, cũng không hề chậm.
LẤY VỢ ĐỒNG TUỔI NHÂM THÌN
Dã Thảo
Làng Thọ Vực, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh có ông ký lục Lê Văn Chấn và bà vợ họ Hoàng, gia đình cũng thường thường bậc trung, nhưng sinh được ba cô con gái da trắng nõn nà, môi đỏ như son, tóc đen nhánh, nổi tiếng xinh đẹp nhất làng. Cô cả, nhà gọi là cô Nhớn, tên Lê Thị Vân. Cô Nhỡ tên là Lê Thị Hợp, cô Bé, tên Lê Thị Mai. Con út là trai, tên Lê Văn Tốn (còn gọi là Xuân).
Một hôm ba cô theo bạn rủ nhau đi xem bói. Thầy bói nói cô Nhớn, bấy giờ 14 tuổi, “số cô vất vả thời trẻ, nhưng về già thì sẽ thành nhất phẩm phu nhân, con cái đầy đàn, trai một cỗ, gái hai cỗ”. Cô Nhỡ thì thầy nói là “số long đong, ly hương biệt quán.” Cô Bé thì “căn quả tu thờ Phật, nếu lấy chồng thì sát đến… 9 đời chồng!”. Ba chị em cười rúc rích. Nhưng, sau này thì cô Nhỡ theo chồng là cựu học sinh Đông Du, phải lẩn tránh, lên sống lẻn lút ở các đồn điền cà phê trên Yên Bái. Cô Út trốn nhà, xin nương nhờ cửa Phật, sau này trở thành vị thượng tọa trụ trì có uy tín của chùa Cầu Bây bên Gia Lâm Hà Nội.
Ông ký lục mất sớm, gánh nặng gia đình dồn cả lên vai bà mẹ và cô Nhớn. Nhà chỉ có mấy sào ruộng, cô Nhớn phải làm thêm hàng xáo, xay lúa giã gạo, làm tương, nuôi lợn, già… Khi giáp hạt thì thường thiếu ăn. Bà mẹ phải lên Hà Nội mượn tạm tiền bà chị cùng cha khác mẹ, thường gọi là bà Nhì lấy chồng họ Phạm, buôn bán ở nhà số 74 phố Hàng Áo, đến vụ gặt thì lại trả.
Mỗi lần ra Hà Nội phải mất một ngày. Những khi ra ăn giỗ, bà mẹ thường dẫn cô Nhớn đi cùng, để biết họ biết hàng, khi cần thì thay mẹ đi. Họ Phạm bên nhà chồng bà Nhì có bốn chi, chi Cụ Lang Hàng Bún là cao nhất, rồi đến chi cụ Nhì, kế đến là các chi ông Tú, ông Cả Giới và ông Hai Kỳ. Chi ông Tú có cậu Phạm Quỳnh. Bấy giờ, Phạm Quỳnh đã tốt nghiệp trường Trung học Bảo Hộ (tức trường Bưởi) và đã đi làm nhân viên phiên dịch ở Trường Viễn Đông Bác Cổ. Phạm Quỳnh vẫn sống với bà nội và cụ Tú (vợ người cho gia đình ông nội Phạm Quỳnh thừa tự). Nhưng cả hai đều đã cao tuổi, lại chăm lo săn sóc mình từ khi lọt lòng, cho đến năm lên 9 không còn cả cha lẫn mẹ, chỉ còn trông vào hai cụ, nên Phạm Quỳnh thương hai cụ lắm, cũng mong có người cùng mình đỡ đần hai cụ lúc tuổi già. Các cụ trong họ thấy đôi trai tài, gái sắc đồng tuổi Nhâm Thìn, vừa tròn 16, nên đều vun vào cho đôi trẻ. Thế là thành mối lương duyên, ai cũng mừng; mừng nhất là hai bà cụ từng vắt kiệt sức tàn nuôi nấng Phạm Quỳnh. Cô Vân sinh đầu năm Thìn, mà Phạm Quỳnh sinh cuối năm, cho nên sau này ông thường nói đùa với các con là “Me hơn thầy một tuổi, cho nên Me bảo gì thầy cũng phải nghe theo…”.
Hai vợ chồng trẻ sống cùng hai cụ bà ở nhà số I phố Hàng Trống và sinh ba con đầu lòng tại đây: Phạm Giao (1911), Phạm Thị Giá (1913) và Phạm Thị Thức (1915). Con trai thì đặt tên theo tên cha: cha là Quỳnh, thì con là Giao. Còn con gái thì đặt cho có tên mà gọi thôi. Con gái đầu, khi sinh ra mình trắng như cọng giá thì gọi là cái Giá. Con thứ cứ ngày ngủ, đêm thức suốt thì gọi là cái Thức. Tiếp đó là Phạm Bích (1919), Phạm Thị Hảo (1920), Phạm Thị Ngoạn (1921), Phạm Thị Bảy (mất lúc sáu tháng), Phạm Khuê (1923), Phạm Thị Chín (mất lúc chín tháng), Phạm Thị Hoàn (1926), Phạm Thị Yến (mất lúc năm tháng), Phạm Tuyên (1930), Phạm Thị Giễm (1932), Phạm Thị Lệ (1934), Phạm Tuân (1936) và Phạm Thị Viên (1938). Như vậy là có ba con gái mất lúc chưa đầy tuổi tôi, cho nên có khi thấy viết trong sách báo là Phạm Quỳnh có 13 con. Đến nay, các ông Phạm Giao, Phạm Bích, Phạm Khuê và các bà Phạm Thị Giá, Phạm Thị Thức, Phạm Thị Ngoạn đã qua đời, chỉ còn bà Phạm Thị Hảo và ông Phạm Tuân định cư ở Mỹ, các bà Phạm Thị Hoàn, Phạm Thị Giễm, Phạm Thị Lệ, Phạm Thị Viên định  cư ở Pháp. Ở trong nước, chỉ còn một mình nhạc sĩ Phạm Tuyên.
Cô Vân, ở nhà chuyên làm ruộng, xay lúa giã gạo, nuôi lợn, gà… không được đi học cho nên không biết cả chữ Nho lẫn chữ quốc ngữ. Nhưng cô có trí nhớ tuyệt vời, thuộc nhiều ca dao, tục ngữ và các truyện Nôm, trong đó tất nhiên có Truyện Kiều. Sau này bà đã giúp nhà văn, nhà báo Phạm Quỳnh nhiều trong việc cung cấp cho ông các tư liệu về văn hóa, văn học dân gian. Cho đến thời kháng chiến chống Pháp, có phong trào bình dân học vụ, một đứa cháu ngoại thương bà đã cố hướng dẫn bà ngoại viết cho được cái tên, kẻo ra đường, bị  “thanh niên diệt dốt” bắt đi qua “cổng mù” thì tội quá. Cho nên bà biết viết độc một chữ Vân tên mình. Hồi ông làm báo Nam Phong, bà được làm thủ quĩ cho Hội Tế Sinh của bà Cả Mọc, chuyên làm từ thiện ở Hà Nội và vài tỉnh miền Bắc. Hằng ngày, việc thu chi của hội đều qua tay bà, bà nhớ kỹ, rồi tối về nói lại cho ông ghi vào hóa đơn, sổ sách, không hề sai bao giờ.
Bà còn có tính kiên quyết, không tiếc cả thân mình khi cần phải hy sinh. Năm 1935, có mang lần thứ 15 được bảy tháng thì bà lên cơn hen nặng. Thường phải thức suốt đêm, ngồi tựa lưng vào con gái thứ mới thở được. Những lúc ấy, cái thai cứ rực lên, rất mệt mỏi. Phạm Quỳnh quá lo lắng, cho mời bác sĩ người Pháp là Piqueman đến khám. Ông ta nói là bệnh nặng lắm, phải cứu lấy người mẹ, kẻo chết cả mẹ lẫn con. Ông lựa lời nói lại với vợ thì bà nói ngay: “Tôi sống thì nó sống, tôi chết nó mới chết, chứ tôi không bao giờ chịu làm cái việc thất đức đó…” Và kể cho ông nghe giấc mộng khi sắp mang thai lần này. Bà đi xe kéo ở thành nội thì có đứa bé mặt trắng môi son cứ chạy theo mà xin cho về nhà. Bà nghĩ đã có 14 con rồi, nên xua tay. Thì đứa bé chạy thật nhanh, rồi nhảy tót lên xe, ngồi ngay vào lòng bà, ôm lấy bà. Tử đấy, Phạm Quỳnh càng lo chăm sóc vợ hơn mà không nhắc gì đến chuyện đó nữa. May mắn thay, bệnh bà thuyên giảm từng ngày và đủ tháng, đủ ngày, bà sinh một trai đúng như trong mộng. Cả nhà đều mừng, cứ gọi là “Chú mình”, sau này gọi trại ra là “chú Miềng”. Và cái tên cưng đó, đến nay (2009) vẫn quen dùng, kể cả hai vợ chồng ông Phạm Tuân cũng vẫn tự xưng như vậy.
Rồi, trưa cái ngày định mệnh 23/8/1945 ấy, có mấy người mặc quân phục đến “mời ông ra làm việc tại trụ sở Ủy ban Khởi Nghĩa Thừa Thiên-Huế”, thì bà cũng có mặt. Thoáng thấy trên cánh tay một người mặc quân phục có đeo cái băng đỏ, bà như có linh cảm là việc chẳng lành, đã hét lên một tiếng thật to rồi ngất đi… Trong khi đó, ông thanh thản thay áo, đi theo họ, để rồi không bao giờ trở về nữa… Nhưng, sau cơn gia biến lớn, chính bà đã thu vén tài sản gia đình còn sót lại, cho bán tất cả sách ở chợ Đông Ba, rồi dẫn cả đoàn con, cháu 14 con người (trong đó có năm trẻ dưới 10 tuổi) từ Huế ra Hà Nội về nhà con gái trưởng. Để rồi cùng tản cư, sống những năm đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp.
Bà chuyên làm nông nghiệp, giỏi lo toan việc nhà, đặc biệt có tài làm tương Bắc từ nếp và đậu tương rất ngon, ngọt. Cho nên khi tản cư, gia đình thiếu thốn, “thượng thư phu nhân” lại trở về nghề cũ: làm tương, bán cho dân làng.
Bác sỹ Đặng Vũ Hỷ là con rể hiếu thảo, thu xếp cho mẹ vợ và các em cùng nhiều cháu nội ngoại tản cư về làng Vạn Lộc, phủ Xuân Trường, Nam Định, ở nhà cụ Chánh Đoán là người trong họ. Mấy năm tản cư, tiền nong cạn dần, cụ bà lại làm tương, và tương rất ngon, dân làng tìm đến mua nhiều, cụ phải làm hàng chum to mới đủ bán. Nhà có cổng lớn, dẫn vào ngõ trúc rồi mới đến sân to là chỗ cụ bà làm và bán tương. Cậu út Phạm Tuân khéo tay, mài gạch non, viết chữ đỏ ngay trên cổng quét vôi trắng “Ở đây có bán tương ngọt”. Từ đấy, càng nhiều người biết mà đến mua, không phải chỉ trông chờ vào truyền miệng như trước.
Năm ấy, biết vợ nhớ mẹ và em, bác sĩ Đặng Vũ Hỷ cho người đón cụ và hai em trai, gái út về Thư Điền, Ninh Bình, nơi ông công tác và gia đình đang sống. Cụ bà ra đi, gọi cháu ngoại Tôn Nữ Việt An 15 tuổi lại dặn dò lo việc nhà, còn hàng chục miệng ăn, và đưa ít tiền cho cháu liệu chi tiêu tiết kiệm. Hai tháng sau, cụ về, cháu gái đảm đang đưa lại tiền cho cụ, không thiếu một xu. Lấy làm lạ, cụ hỏi vậy cả nhà lấy gì mà ăn. Thì cháu gái chỉ vào chum tương to đặt gần máng xối nước mưa. Hóa ra tiền bán tương đủ cho cả nhà chi dùng trong suốt thời gian bà ngoại đi vắng. Cụ mở nắp chum xem, thì thấy vẫn còn non nửa. Hỏi ra mới biết, chum tương càng dưới càng mặn, may mà… được nước mưa ở máng xối bắn vào những khi mưa to cho nên nhạt bớt mà tương vẫn ngon ngọt. Lại đã được tín nhiệm, có “thương hiệu” rồi, cho nên rất đông khách vốn lấy tương cà làm gia bản!.
Thế là Phạm Quỳnh mười sáu tuổi đã lấy vợ đồng tuổi Nhâm Thìn, suốt đời sống hòa thuận, nhường nhịn nhau, bổ sung cho nhau mà tạo dựng nên một gia đình hòa hợp hạnh phúc. Cả khi ông không còn nữa, nếp nhà ấy vẫn còn, giản dị, cần cù, chân thành, không hề khệnh khạng quan cách bao giờ như người ngoài dễ lầm tưởng. Con cháu sống ở đâu cũng được nhân dân yêu mến, gần gũi, sẵn lòng giúp đỡ. Đó là cái đức của ông đã lưu lại ánh sáng về sau cho con cháu được nhờ. Đáng quý vậy thay nếp nhà mẫu mực ấy.
NĂM 29 TUỔI, PHẠM QUỲNH ĐÃ ĐỌC DIỄN VĂN
TRƯỚC VIỆN HÀN LÂM PHÁP
Dã Thảo
“Ngày 22/7/1922, trong bộ quốc phục áo dài khăn đóng giản dị mà trang trọng, ông (Phạm Quỳnh – D.T chú) “cả gan” trình bày trước Ban Luân Lý Chính trị Viện Hàn lâm Pháp về Một vấn đề dân tộc giáo dục. Lời nói thật khúc chiết, hùng hồn, tha thiết, bằng một giọng văn tiếng Pháp mẫu mực, khiến các viện sĩ Pháp phải phá lệ, đồng loạt đứng dậy vỗ tay hồi lâu khi ông vừa dứt lời. Một hiện tượng chưa hề có trong lịch sử viện hàn lâm đầy uy tín này. Báo chí Pháp đương thời đã loan tin lạ này trên trang nhất, đăng lại bài diễn văn, kèm theo là bức ảnh ông mặc áo gấm, bế trong lòng cô con út mới sinh được mấy tháng.
(…) “Chống lại chính sách ngu dân của bọn thực dân Pháp đang thi hành ở nước ta, ông dõng dạc nói trước những đại biểu của tinh hoa trí tuệ và lương tâm Pháp hiện diện tại Viện Hàn Lâm Pháp những lời sau và đã được họ tán thưởng hoàn toàn:
“ - Dân tộc Việt Nam chúng tôi không thể ví như một tờ giấy trắng. Chúng tôi là một quyển sách dày đầy những chữ viết bằng một thứ mực không phai đã từ mấy mươi thế kỷ. Quyển sách ấy có thể đóng theo kiểu mới cho hợp với thời trang, nhưng không thể đem một thứ chữ ngoài in lên dòng chữ cũ. Vấn đề là phải giáo dục người Việt Nam thế nào cho vừa truyền được học thuật cao thượng đời nay, vừa không đến nỗi khiến chúng tôi mất giống, không còn quốc tính, để biến thành một dân tộc vô hồn, không còn có tinh thần đặc sắc gì nữa, như mấy thuộc địa cổ của Pháp kia.” Nhà báo Nguyễn Trung đã viết như thế trong bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với tiếng ta (Nguyệt san Công giáo và Dân tộc số 141 tháng 9 năm 2006).
Nhưng, ở đầu cuốn Pháp du hành trình nhật ký, chỉ thấy ông viết: “Tôi được quan Thống sứ Bắc kỳ cử sang Đại Pháp thay mặt cho Hội Khai trí Tiến đức để dự cuộc đấu xảo Marseille, lại được quan Toàn quyền đặc phái sang diễn thuyết tại mấy trường lớn ở Paris, ngày 9 tháng 3 tây năm 1922 (tức là ngày 11 tháng 2 ta), xuống Hải Phòng để đáp tàu Armand Béhic về Pháp.” Bấy giờ, về học lực ông chỉ tốt nghiệp trường Trung học bảo hộ. Nên khi sang Pháp, ngày thứ năm 18/5/1922 ông viết trong nhật ký (Đăng trên báo Nam Phong – DT chú): “Cả ngày hôm qua xem điện Panthéon là nhà kỷ niệm các danh nhân nước Pháp. Ở trọ đi ra gần lắm, cách có vài phố. Đi qua con đường d’Ulm, thấy trường Cao đẳng sư phạm (Ecole Normale Supérieure), trong bọn học sinh thường gọi tắt là “cái nhà đường d’Ulm” (la maison d’Ulm), nhà cũng thường thôi, không lấy gì làm to lớn đẹp đẽ lắm, nhưng có cái  vẻ nghiêm  trang  bình  tĩnh,  thật  là  một  nơi  học  hành  cao  thượng. (…) trong lòng cảm phục cái chí cao của kẻ thanh niên nước Pháp, mà lại bùi ngùi cho cái công học hành dở dang của mình. Than ôi! mình không phải là không có cái lửa nhiệt thành về sự học, nhưng mà sinh trưởng vào  giữa  buổi thanh  hoàng học không ra  gì  cả,  nho đã chẳng ra nho, mà Tây cũng chẳng thành Tây. Phàm sự học phải cho đến nơi đến chốn thì sở học sở hành mới điều hoà dung hợp nhau, mà gây nên cái nhân cách thanh cao. Hễ còn dở dang, còn nửa chừng, thì không ra con người gì cả. Ông cha mình mấy mươi đời học nho, nghiệp nhà đến mình là đoạn tuyệt. Bây giờ muốn cầu làm ông đồ cổ, bàn nghĩa tính lý, ngâm thơ nhà Đường, nhắp dăm ba chén chếnh choáng cho tiêu sầu khiển hứng, bảo mươi lăm thằng trò chẹt biết dã, giả, chi, hồ, an nhàn vô sự, ngày tháng vui qua, cũng không được nữa. Nói đến học Tây, thì chẳng qua học mấy câu tiếng tây để đi làm thuê, cũng tự biết còn thiếu thốn, muốn ra công học thêm, nhưng thày đâu sách đâu, ở trường thông ngôn ra, được học mấy ông hương sư ở Tây sang, thế đã là tột phẩm rồi, nào đã bao giờ được từng ngồi qua cái ghế một trường Đại học như trường Sư phạm này? Mà đã không được học đến bậc đó, thì còn mong lập nên sự nghiệp gì về đường học vấn? Dở dang, dở dang, thôi mình đã đành là một con người dở dang! – mà cả nước mình cũng là một nước dở dang! (…)
“Nhưng mà thôi, đã sinh vào buổi lỡ làng thì cũng phải chịu cái phận hẩm hiu vậy, biết sao bây giờ? Duy Phải biết rằng học đã chẳng ra gì, thời làm cũng chẳng nên chi, vì có gốc mới có lời, vốn ít mong sao được lời to? Cho nên cũng chớ có mong mỏi những sự to tát quá sức không làm nổi; chỉ nên hinh hương chúc vọng cho kẻ đến sau này họa được may mắn hơn mình chăng…”. Rõ là ông còn tự ti như vậy, thì vì sao, chỉ sau có hai tháng, ông lại đã đăng đàn diễn thuyết được ở viện Hàn lâm Pháp. Một việc không được Thống sứ Bắc Kỳ lẫn Toàn quyền Đông Dương giao. Mà chắc là cũng…không dám giao cho ông, vì không thể tin là có thể được mẫu quốc chấp nhận cho một tên dân bản xứ trẻ tuổi, không có học vị gì, lên diễn đàn Viện Hàn lâm. Vậy tại sao lại có chuyện lạ đó. Có phép lạ gì chăng…
Trong Pháp du hành trình nhật ký ngày thứ bảy, mùng 8 tháng 7, ông viết: “Tối ăn cơm ở nhà ông bà V. .Từ bữa nhân đến chơi với ông con là André được biết hai cụ, thì hai cụ cũng có lòng yêu mến, cố hẹn làm thế nào tối hôm nay cũng đến ăn cơm để nói chuyện. Hai cụ lại hẹn đến trước giờ ăn cơm để nói chuyện được lâu. Cơm nước xong mãi đến 11 giờ khuya  mới về trọ.” Và thứ ba 11 tháng 7 lại viết: “Trưa hôm nay ăn cơm ở nhà cụ ông cụ bà V.. Bữa nay chỉ có một mình, không có khách nào lạ cả. Chuyện trò rất vui vẻ và thân mật. Hai cụ thật có bụng quá yêu mà mình đối với hai cụ cũng một lòng kính mến.” Rồi thứ bảy, 15 tháng 7 năm 1922: “Hôm nay hẹn với cụ V. đến thăm ông bác sĩ Lyon – Caen là vĩnh viễn thư ký Hội Hàn lâm,  ban  Chính  trị  Luân  lý  học,  tại  nhà  riêng  ông  đường  Soufflot,  trước  cửa  đền Panthéon.
“Mấy lần nói chuyện với cụ V., cụ vẫn khuyên nên vào diễn thuyết ở Hội Hàn lâm. Nhưng làm thế nào vào nói được ở một chốn tôn nghiêm như thế? Cụ nói rằng cụ có quen biết nhiều ở Viện Hàn lâm, để cụ sẽ giới thiệu cho ông vĩnh viễn thư ký là người chủ trương các việc đó. Bởi thế nên hôm nay cùng nhau đến thăm ông Lyon Caen. Ông dạy pháp luật ở trường Đại học Paris, tuổi đã cao, thật ra thái độ một nhà bác học thâm nho. Tiếp ân cần tử tế lắm; nói chuyện hồi lâu, rồi cụ V. mới ngỏ ý muốn có dịp cho mình được vào diễn thuyết ở Hội Hàn lâm, để trước là các ngài Hàn lâm biết được một người Việt Nam có học thức, sau là cho mình được bày tỏ ý kiến tư tưởng của người Nam ở một nơi cao nghiêm danh giá.
Bác sĩ cũng hiểu các lẽ đó, nhưng có ý ngần ngại nói rằng: “Hội Hàn lâm còn có một kỳ hội đồng cuối tuần lễ này nữa thời giải tán để nghỉ hè, mà kỳ hội đồng
 này nhiều việc quá. Vả trừ các thông tín hội viên (membres correspondants) của Hội ở các nơi, còn người ngoài vào đây nói cũng ít. Người Đông phương thời năm trước có một ông bác sĩ Ấn Độ cũng vào diễn thuyết ở Hàn lâm, nhưng ông thuộc tiếng Anh hơn tiếng Pháp, nên nói khó nghe lắm. Tôi xem ông đây nói tiếng Pháp được, song xin để tôi liệu thu xếp xem có đủ thì giờ để ông nói ngay kỳ hội đồng sau này không.” – Bác sĩ hỏi định diễn thuyết về vấn đề gì; mình cũng đột ngột chưa định gì cả, nói sẽ chọn một đề về giáo dục hay văn hoá. Bác sĩ hẹn vài ba hôm sẽ trả lời cho cụ V. biết.
“ - Vào diễn thuyết ở Hàn lâm, thật mình không bao giờ dám mơ tưởng đến sự đó. Việc này mà khởi ra thật là tại cụ V.; việc này mà thành được cũng nhờ cụ V.” Và thứ ba, 18 tháng 7 năm 1922: “Hôm nay nhận được thư của ông Vĩnh Viễn thư ký Hội Hàn lâm bảo cho biết rằng Hội Hàn lâm sẽ vui lòng nghe mình diễn thuyết kỳ hội đồng ngày thứ bảy 22 tháng 7 này, xin đúng 2 giờ ngày ấy tựu tại Hội sở. – Thế là cái mơ tưởng hoang mang nay sắp thành sự thực đây. Nửa mừng mà nửa sợ, mừng là thật là một cái hạnh ngộ ít có, một sự vẻ vang không gì bằng; sợ là không biết nói làm sao cho nghe được, để khỏi phụ lòng các ngài có bụng chiếu cố đến, khỏi gây ra  cái cảm  giác xấu về người An Nam. Các ngài trong Hội Hàn lâm chắc là chưa từng biết người An Nam bao giờ; nếu mình nói năng không ra gì thì các ngài sẽ xét người nước mình ra thế nào? Bây giờ mới biết rằng kẻ sất phu cũng có trách với nước là thế. Mình chẳng có danh vị gì mà cũng phải lo đến quốc thể đây: Chà! chà! ghê quá! Không biết các ngài quyền cao chức trọng, đại biểu cho cả quốc gia, thì lo đến đâu; có lẽ đến không ăn không ngủ được chắc?!”
Rồi thứ tư, 19 tháng 7 thì: “Hôm nay ở nhà soạn diễn thuyết.
“Nghĩ trong các vấn đề thiết yếu cho người mình không gì bằng vấn đề giáo dục. Bèn khởi thảo  một  bài  tỏ rõ cái tình trạng sự giáo dục ở nước ta, phân  trần  những điều  lợi  hại, những sự khó khăn, và hỏi ý toà Hàn lâm nên giải quyết thế nào cho hợp lẽ. Đại khái nói rằng nước Việt Nam là một nước cổ, vốn đã có một cái văn hoá cũ, nhưng cái văn hoá cũ ấy ngày nay không thích hợp với thời thế nữa, cần phải có cái văn hoá mới đời nay thì mới có thể sinh tồn được trong thế giới bây giờ. Hồi đầu quý chính phủ dạy người An Nam chẳng qua là dạy lấy ít tiếng tây để sai khiến các công việc cho dễ, chưa phải là truyền bá văn minh học thuật gì. Gần đây mới gọi là bắt đầu ban bố một cái học cao hơn trước một chút. Nhưng trong sự truyền bá cái học mới ấy, có nhiều nông nỗi khó khăn, quý chính phủ vẫn chưa giải quyết được ổn thoả. Nếu dân Việt Nam là một dân mới có, chưa có nền nếp, chưa có lịch sử gì, thì quý quốc cứ việc hoá theo tây cả, dạy cho học chữ tây hết cả, đồng hoá được đến đâu hay đến đó. Nhưng ngặt thay, dân Việt  Nam không phải là một tờ trắng muốn vẽ gì vào cũng được; tức là một tập giấy đã có chữ sẵn từ đời nào đến giờ rồi. Nếu bây giờ viết đè thêm một chữ mới nữa lên trên, thì e thành giấy lộn mất.
Cho nên bây giờ dạy kh
ắp chữ tây cho người An Nam từ tuổi nhỏ đến tuổi lớn, như ở các trường Pháp Việt ngày nay, kết quả chỉ đủ làm cho người An Nam mất tính cách An Nam mà chửa chắc đã hóa được theo tây hẳn, thành ra một giống lửng lơ thật là nguy hiểm. Muốn tránh sự nguy hiểm ấy, chỉ có một cách: là dạy cho trẻ con An Nam bằng tiếng An Nam cho hết bậc tiểu học, lấy cái phổ thông giáo dục bằng quốc văn làm gốc, như thế vừa tiện và vừa mau, vì không mất thì giờ học một thứ tiếng ngoại quốc dở dang không đến nơi và không dùng được việc gì. Học trò đã được bằng tiểu học tốt nghiệp bằng tiếng An Nam rồi, bấy giờ mới kén chọn người nào có sức được học lên các bậc trên nữa, như trung học, đại học, thời cho vào một trường dự bị chỉ chuyên học tiếng Pháp, nhưng học theo cách tấn tốc, như người Pháp học tiếng Anh tiếng Đức, nghĩa là học như học tiếng ngoại quốc vậy. Học thế chỉ vài ba năm có thể thông chữ Pháp đủ theo được các lớp trung học như bây giờ. Như thế mới khỏi được cái nguy hiểm thành một hạng người dở dang, tốt nghiệp ở trường tiểu học ra, chữ tây không đủ dùng được việc gì mà cái phổ thông thường thức học bằng chữ tây cũng còn mập mờ chưa lĩnh hội được hết, còn tiếng của nước nhà thì hầu như quên cả, v.v… – ấy bài diễn thuyết định đại cương như thế, nhưng còn phải phô diễn thế nào cho nghe được.”
Tiếp đến thứ năm ngày 20 tháng 7: “Chiều hôm nay lại ăn cơm ở nhà cụ ông cụ bà V. . Hai cụ vẫn định một buổi mời ông nghị viên Marcel Sembat và phu nhân để giới thiệu cho mình nói chuyện. Nguyên bà nghị viên là  chị em  thân  thích  với  bà  cụ V.,  nên  hai  nhà  thường  đi  lại  với  nhau  thân  lắm.  Ông Sembat thì ai hơi thuộc lịch sử chính trị nước Pháp ngày nay, chắc cũng đã biết tên và biết tiếng cả. Ông là một tay lãnh tụ trong đảng xã hội (…). Hôm nay nhân ông nghị bà nghị sắp đi nghỉ hè ở núi Alpes, hai cụ mời đến ăn cơm tối, để thừa dịp giới thiệu cho mình được biết. (…). Sau bàn đến vấn đề giáo dục ở bên ta. Đề này chính là cái đề mình định diễn ở Hội Hàn lâm nay mai; lại là cái đề vẫn thường thảo luận với cụ V., cụ rất đồng ý với mình: phàm tiểu học cần phải dạy bằng quốc ngữ, không thể dạy bằng ngoại ngữ được, đó là một lẽ tất nhiên. Một đứa con trẻ tiếng nước mình không thuộc thì học tiếng nước nào rồi cũng khó; trước hết phải dùng quốc ngữ để vỡ vạc trí khôn của con trẻ đã, nhiên hậu học tiếng ngoại quốc mới mau hiểu. Ông Sembat thời lại xét cái vấn đề ra một phương diện khác, ra phương diện chính trị. Ông là một nhà chính trị, lại là một nhà chính trị ý kiến rất rộng rãi, vì thuộc về đảng xã hội. Đối với ông thì việc khai thuộc địa là cái sự nghiệp của bọn tư bản, ông không ưa gì bọn tư bản và sẵn lòng đề huề với kẻ lao động, tức là dân thuộc địa. Vậy trong vấn đề này là ông vị dân thuộc địa, – tức là vị người An Nam mình, – mà nói. (…). Người An Nam ở dưới quyền chính trị nước Pháp, muốn vận động về đường chính trị tất phải biết tiếng Pháp, đó là một điều cố nhiên rồi. Nhưng có phải là nhất ban quốc dân An Nam đều có  thể vận  động  về chính  trị được  không?  Chẳng  qua  chỉ là  một  bộ phận  gồm  những người tai mắt, kẻ thức giả trong nước, mới có tư cách vận động mà thôi; bọn đó thời phải biết tiếng Pháp cho thật thông, dẫu tốn công phu đến đâu cũng phải học cho kỳ được. Còn phần nhiều người thì cần nhất bây giờ là học lấy cho mau biết những điều thường thức cần cho người ta ở đời này. (…) Cho nên dù thế nào mặc lòng, số người An Nam học được tiếng Pháp vẫn là số ít,  còn  phần  nhiều  phải  học  bằng  tiếng  nước  nhà  mới  mau  biết  những  điều  thường thức.” Ngày thứ 6, 21 tháng 7: “Hôm nay đã thảo xong bài diễn thuyết ở Hội Hàn lâm. Mai đã phải dùng đến rồi, không kịp mượn người đánh máy. Thôi cứ thế này đem đọc cũng được. Nhưng trước khi ra đọc ở Hội Hàn lâm, phải nên diễn tập trước một lần. Không gì bằng đem đọc thử cho hai cụ nghe, được chăng thế nào hai cụ sẽ bảo. Vả cụ ông đã cho biết rằng có lẽ mai cũng không ra nghe ở Hội Hàn lâm được, vì cụ hiện đương có giấy ứng cử vào chân Hội, không muốn đi lại vội. Như thế thời đọc trước cho cụ nghe, tưởng cũng là một cái nhã  ý đối với cụ. Vậy ngâm nga riêng một mình rồi, liền đem  cả bản thảo lại đường Saint Germain. May hai cụ đều có nhà cả. Tỏ ý đọc trước để hai cụ nghe, hoặc có chỗ nào sai suyễn hay sơ suất xin hai cụ chỉ giáo cho, hai cụ lấy làm cảm động lắm. Để đồng hồ bên cạnh, đọc thong thả rõ ràng, vừa đúng hai mươi phút, thế là hợp với cái thời hạn đã định. Còn nội dung thế nào, lời lẽ có nghe được không, hay là rườm tai khó hiểu? Xin cụ cứ thực tình dạy cho. Hai cụ chỉ chữa cho vài cái “phốt” chữ tây vô ý không biết, còn thời nhất định quyết rằng nghe được, không những nghe được mà lại có cái giọng nhiệt thành bạo dạn, chắc sẽ có ảnh hưởng, không đến nỗi là những lời không ngôn. Hai cụ đã phán đoán như thế, dù là bởi bụng khoan dung muốn khuyến lệ cho kẻ tuổi trẻ lòng thành, hay là vì cách lễ nhượng không muốn kích thích cái thói “tự đắc của con nhà văn” mà chỉ trích cho hết những chỗ khuyết điểm, dù thế nào mặc lòng, mình cũng tạm yên tâm, để ngày mai có thể vững vàng mà ra đối diện với các quan Hàn lâm Đại Pháp. – Hai cụ cũng mừng cho và nói rằng nghe bài diễn thuyết mới biết cái vấn đề giáo dục ở nước Nam phiền phức là dường nào, và lòng nguyện vọng của người Nam cũng chánh đáng là dường nào.”
“Thứ bảy, 22 tháng 7.
“Sáng nay không đi chơi đâu, chỉ bữa ăn đi một lát, rồi về nghỉ ngơi để sửa soạn ra Hội Hàn lâm.
Phân vân không biết mặc tây phục hay mặc quốc phục. Đã có bộ jaquette, nế
u mặc tây thì cũng tùng tiệm được. Nhưng nghĩ lại, gặp những cơ hội như lúc này mà nỡ bỏ quốc phục đeo tây phục, thì cũng tủi cái áo cái khăn anh đồ quá; thôi thì cứ mặc An Nam, chỉ dẫu đi ngoài phố thiên hạ chỉ trỏ nữa cũng chẳng hề gì. Trước hãy đến đón cụ V. để cụ hướng đạo và giới thiệu cho các ông phần việc, kẻo lạ lùng không biết đường nào mà dò. Nhà Hội Hàn lâm này cũng là một cái lâu đài cổ ở thành Paris, mặt tiền trông ra sông Seine, trước có cái cầu gọi là “Cầu Văn nghệ” (Pont des Arts). Phong cảnh có vẻ cổ thời. (…). Vào hỏi ở phòng thư ký, rồi có người đưa đến phòng hội đồng. Ban Luân lý Chính trị thường họp hội đồng cùng một phòng với ban Văn học duy khác ngày mà thôi: phòng này gọi là phòng Tự điển, vì ban Văn học thường họp để làm Tự điển ở đấy. (…). Mình vẫn tưởng rằng hôm nay chẳng được đông lắm, nhưng cũng được vài ba chục ngài (toàn ban chỉ có bốn chục ngài cả thảy). Không ngờ lác đác chỉ có vài ba cụ nữa đến, thế mà thôi, cả thảy được mươi mười hai người, kể cả các nhà báo. Lúc bấy giờ cũng hơi lấy làm thất vọng. Cái thói con nhà văn vẫn hay tự đắc: có lẽ nào các cụ Hàn được tin ông P. Q. diễn thuyết mà lại không hăm hở kéo nhau đến nghe cho thật đông! Đáng lẽ cả bốn chục ngài phải có mặt ở đấy, không thiếu một ngài nào mới phải! Sau hỏi ra mới biết rằng những khi hội đồng thường chỉ có thế thôi, không mấy khi được đến mười lăm ngài có mặt. Vả lại nay đã đến đầu hè, phần nhiều các ngài đi ra bể lên núi nghỉ mát cả, đến được thế này đã là đông rồi đó. Khi đã ngồi đâu vào đấy, thấy một ông cụ đầu râu bạc phơ, lưng khom khom chống cái ô đi vào; các cụ đều đứng lên chào một cách kính trọng lắm. Cụ mới vào đó chính là cụ Alexandre Ribot, nguyên thủ tướng Đại Pháp, hiện có chân ban Chính trị và ban Văn học Hội Hàn lâm. Năm nay tuổi đã cao lắm, – nghe đâu ngoài 80, – thường đau yếu, ít khi đến họp hội đồng được, hôm nay thấy đến, cử ban đều lấy làm mừng rỡ lắm. Cụ ngồi vào ghế, rồi ngài ban trưởng khai hội đồng. Chương trình kỳ hội đồng hôm nay có hai bài “thông cảo” (communications), tức là bài diễn thuyết cho các cụ Hàn nghe, rồi xét có nên thì sẽ đăng vào sách “Biên tập” của Hội Hàn lâm: một bài của ông giáo trường Đại học thành Rennes có chân thông tín của Hội, một bài của mình (…) Đoạn rồi đến lượt mình; ai đọc cứ ngồi chỗ nấy, không phải đứng dậy. Mình cố đọc cho to tát dõng dạc để các cụ nghe cho dễ; xem dáng các cụ cũng chú ý nghe. Đọc hết bài dừng lại thì thấy các cụ đều vỗ tay một hồi. Có ý nhận lúc ông giáo Đại học đọc lúc nãy thì không có vỗ tay. Sau về nhà nói chuyện với cụ V. mới biết rằng lệ thường ở Hội Hàn lâm nghe đọc những bài “thông cảo” không có vỗ tay bao giờ, hôm nay các cụ đặc cách vỗ như thế là có ý biệt đãi vậy.
Trong bài “thông cảo” của mình có kể rõ về cái vấn đề giáo dục ở nước ta khó khăn là dường nào và hỏi ý các ngài Hàn lâm nên giải quyết thế nào (…) Ông trưởng ban nói trong bài diễn thuyết sở dĩ dẫn chứng lời của một vị Hàn lâm như thế thật là đủ tỏ rằng ý kiến của Hàn lâm cũng không khác gì  ý kiến của diễn giả. Diễn giả sợ cách giáo dục của chính phủ Pháp ở nước Nam không phải đường, kết quả đến làm mất hết cái cốt cách tinh thần của dân tộc An Nam, làm “mất giống” An Nam đi. Cái hiểm tượng đó cũng đáng lo thật; diễn giả muốn hỏi toà Hàn lâm nên làm thế nào cho tránh khỏi. Vấn đề phiền phức, không thể trong một buổi thảo luận mà giải quyết ngay. Nhưng toà Hàn lâm xin chú ý; vấn đề đã trình bày ra như thế, hoặc có ngài nào trong ban muốn nghiên cứu, sẽ có thư từ bàn bạc với diễn giả, và thử nghĩ xem có cách nào giải quyết được ổn thoả cả mọi đường; nếu quyết định được một cái chương trình thoả đáng, mà cả ban thuận nhận thời lâm thời Hội Hàn lâm sẽ sẵn lòng vận động với chính phủ Đại Pháp cho có thể thi hành được. Hiện nay hẵng xin cám ơn diễn giả đã có lòng tin cậy toà Hàn lâm mà đem một vấn đề quan trọng như thế trình bày cho biết một cách rõ ràng mà thâm thiết như vậy. – Nghe diễn thuyết xong thì các người ngoài lùi về và hội đồng vào họp trong buồng trong, để bàn việc kín.
“Ở Hội Hàn lâm ra, về thẳng đường Saint Germain để nói chuyện cho hai cụ biết. Hai cụ lấy làm mừng lắm. Lại nghe nói khi đọc xong cử tọa có vỗ tay, hai cụ lấy làm lạ, nói xưa nay ít khi như thế, lần này thế là các cụ Hàn có ý biệt đãi khách phương xa lắm đó. Hai cụ lại nói rằng các ngài Hàn lâm thường không hay đến hội đồng đông bao giờ, ngay như ở ban Văn học phải làm Tự điển mà mỗi lần cũng chỉ mươi lăm vị là cùng. Song các bài “thông cảo” đều có đăng vào sách “Biên tập”, tức cũng như quyển tạp chí của Hội, như thế thì người không đến nghe rồi cũng được đọc, tất có ảnh hưởng to. Cụ ông hứa rằng nếu không ở Paris được lâu thì khi nào in bài vào sách “Biên tập” của Hàn lâm, cụ sẽ thương  thuyết  với  nhà  in  lấy  riêng  ra  mấy  trăm  bản,  rồi  gửi  sang  An  Nam  cho.”
Thì ra việc đọc diễn văn tại Viện Hàn lâm Pháp là hoàn toàn do sáng kiến của riêng Phạm Quỳnh, không “ thỉnh thị” ý kiến của cấp trên nào. Chỉ bằng vào tài năng và lòng yêu nước nồng nàn, với thái độ chân thành khiêm nhường, có văn hóa cao của mình, ông đã thuyết phục được các bạn bè Pháp, đứng đầu là cụ V., một người cha của một bạn trẻ Pháp của Phạm Quỳnh.
Càng tìm hiểu về nhà văn hóa Phạm Quỳnh, ta càng đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: Ông quả là một thiên tài, một người yêu nước thương dân đến tận tâm can.
VIẾT VỀ THẦY TÔI
Phạm Thị Thức
Lời dẫn của Phạm Tôn: Học giả Phạm Quỳnh có 11 con gái, 3 người mất từ lúc chưa đầy tuổi tôi (thôi nôi). Có 5 người từng viết về ông là bà Phạm Thị Giá, con gái trưởng, Phạm Thị Thức con gái thứ hai và các bà Phạm Thị Hảo, Phạm Thị Ngoạn, Phạm Thị Hoàn.
Từ nay, chúng tôi sẽ lần lượt đăng các trang viết đó để bạn đọc biết rõ hơn con người Phạm Quỳnh trong đời thường, qua con mắt của các con gái ông.
Mở đầu là bài Viết về thầy tôi của bà Phạm Thị Thức viết tại Hà Nội năm 1992, mà nhà sử học Trần Gia Phụng đã đôn lên thành Hồi ký của bà Phạm Thị Thức viết tại Paris năm 1992 gây nên một sự hiểu lầm lớn trong dư luận, nhất là ở nước ngoài, chủ yếu là Canada, Mỹ và Pháp. Bài này, bà Phạm Thị Thức viết theo yêu cầu của các em gái ở Pháp, nhân dịp kỉ niệm 100 năm sinh Phạm Quỳnh (1892-1992), nhưng chưa công bố trên báo chí.
Bài này chúng tôi đã đưa lên Blog PhamTon 3/12/2009 nay phải đăng lại. Chỉ vì người Mỹ Sơn Tùng đã lặp lại sai lầm của ông Trần Gia Phụng trong bài viết ghi ngày 4/9/2011 nhan đề Sau 66 năm lịch sử và công lý nào cho vụ án Phạm Quỳnh? (tạp chí Thế Giới Mới).  Chúng tôi đã có bài Vì sao người Mỹ Sơn Tùng lại cứ bám dai nhạc sĩ Phạm Tuyên như thế?, mới đưa lên Blog PhamTon ngày 21/10/2011 mà đến ngày 5/12/2011 đã có tới 36.344 lượt người truy cập! Đủ thấy sự đăng lại bài của bà Phạm Thị Thức là cần thiết đối với các bạn quan tâm.
Thầy tôi, nói đến hai chữ ấy, tự nhiên hai dòng nước mắt của tôi chảy dài xuống má, ruột tôi đau quặn như đứt từng khúc! Nỗi hận này suốt đời tôi không sao có thể quên được…!!
Tôi hồi tưởng lại trong ký ức, những mẩu chuyện nhỏ về Thầy tôi…
Năm tôi 13 tuổi, tối nào tôi cũng lên ngồi bàn làm việc để viết bài cho Thầy tôi, vì Thầy tôi cho rằng chữ tôi đẹp và rõ ràng. Thầy tôi cầm quyển sách vừa dịch vừa đọc như đọc chính tả cho tôi viết. Tôi ngây thơ hỏi: Thầy phải dịch vào giấy nháp rồi để con viết chứ. Thầy thôi chỉ cười. Tôi còn nhớ là viết những học thuyết của Hippocrate gì gì đó mà tôi chẳng hiểu chi cả. Có hôm khuya quá, thấy tôi có vẻ buồn ngủ Thầy tôi bảo: “Con cố lên, chỉ còn vài trang nữa là xong thôi”, và gọi người nhà mua cho tôi một bát chí mà phù để bồi dưỡng…
Phần đầu bài viết của bà Phạm Thị Thức.
Năm 1928, tôi học École Brieux, cours Supérieur (Trường Brieux lớp nhất – PT chú) và là học sinh giỏi nhất lớp, đồng thời cũng là nhất trường vì ở đó chỉ có đến lớp Supérieur (nhất – PT chú) là hết. Đầu năm 1929, các cô giáo cử tôi lên đọc compliment (lời chúc – PT chú) chúc Tết bà  Đốc là bà Autigeon. Các cô bảo: Em về nhà nhờ Thầy em viết giúp cho mấy câu. Tôi lo quá, nghĩ Thầy tôi bận nhiều công việc như thế, chắc có viết không. Nhưng khi tôi về nói, Thầy tôi vui lòng ngay và bảo: Con đừng lo. Thầy sẽ viết cho vài câu, nhưng con phải học thuộc lòng và đọc cho hay vào. Thế rồi tối nào Thầy tôi cũng bắt học cho rõ thuộc và đọc cho nghe, dặn nhấn mạnh khi nào nên nhìn vào giấy, thỉnh thoảng phải ngẩng đầu lên nhìn xuống dưới chỗ mọi người ngồi. Bài viết tôi học thuộc kỹ quá, cho đến nay quá 64 năm tôi vẫn còn nhớ mãi, những câu sau đây:
… C’est en obéissant à une tradition chère à tous les pays que nous venons aujourd’hui vous apporter le sincère témoignage de nos jeunes coeurs. L’année 1928 vient à peine de s’écouler, emportant dans sa fuite une année de notre existance que déjà la foule s’empresse de fêter sa jeune soeur, en qui, elle met toute sa confiance et son espoir. Que cette année qui vient marque pour vous et votre chère famille, une ère de prospérité et de joie.
Qu’elle soit pour vous douce et bénie. Avec cette confiance facile de notre jeunesse pour cette année qui s’annonce de bon augure, nous formulons des voeux les plus sincères pour qu’elle soit pour vous bonne et heureuse, remplie de bonheur et exempte de tout souci… (Tạm dịch là: Nay, theo tục lệ thân thiết với mọi xứ, hôm nay, chúng con xin chuyển đến Bà tấm lòng thành của những trái tim non trẻ. Năm 1928 vừa qua đi, mang theo một năm trong cuộc sống chúng ta, mà nhân dân đã hối hả mở hội đón năm mới, năm họ đặt tất cả niềm tin và hy vọng. Mong sao năm nay sẽ đánh dấu một kỷ nguyên thịnh vượng và vui vẻ với Bà và gia đình yêu quí của Bà. Mong sao năm mới an lành và đầy ân huệ với Bà. Với lòng tin cậy giản dị của tuổi trẻ chúng con vào năm mới này, năm báo trước điềm lành, chúng con xin chúc những lời chân thành, mong sao năm mới tốt lành và hạnh phúc với Bà, tràn đầy niềm vui và tiêu tan hết mọi ưu phiền… – PT chú) còn dài nữa, v.v… Bài đọc từ hơn nửa thế kỷ không bao giờ nhớ lại, nay bỗng có dịp nhắc lại, nên có thể nhiều chữ sai và nhiều lỗi chính tả!
Tôi đọc trôi chẩy quá đến nỗi sau đó bà Đốc ôm lấy tôi hôn và bảo “Con đọc hay quá”. Các cô giáo thì tíu tít vui mừng vì học trò của mình được bà Đốc khen…
Năm 1930 tôi đậu Certificat (Tiểu học – PT chú) và thi vào trường École normale des institutrices (Trường nữ sư phạm – PT chú). Thi concours (Tuyển – PT chú) 150 người lấy 30, trong đó chỉ lấy có 3 người vào Normale (Sư phạm – PT chú), còn 27 vào cours complémentaire (Lớp bổ túc – PT chú). Tôi được đỗ thứ 2, như vậy là trong 3 người trên cùng được bourse (Học bổng  PT chú) mỗi tháng 9 đồng. Tôi mừng quá về khoe ríu rít ở nhà. Thầy tôi bảo: “Thầy không muốn cho con nhận học bổng, sau này đỗ ra trường làm cô giáo, người ta bổ đi đâu cũng phải đi. Nhà mình, con đi học chỉ cần có kiến thức, không cần đi làm ăn lương gì cả. Con không nên nhận và để cho người đỗ thứ 4 lên thay con”. Tôi buồn quá, khóc với Me tôi. Thầy tôi thấy tôi buồn và có vẻ tiếc cái món bourse, một hôm Thầy tôi gọi vào buồng giấy và cho tôi một chồng 90 đồng bạc hoa xòe và bảo tôi: “Đây Thầy “đền” cho con 10 tháng học bổng. Con lấy muốn mua gì thì mua và yên tâm mà học hành”. Nhận được số tiền đó tôi mừng quá, tôi đi vội đến phố Hàng Khay sắm sửa bao nhiêu thứ mình vẫn thích: dentelle (Đăng ten – PT chú) viền áo, vòng đeo tay, dây chuyền đeo cổ, nhẫn, v.v và quà cho các anh các chị và các em…
Thầy tôi có bà bạn là nữ sĩ Jeanne Duclos Salesses. Bà vẫn thường đến chơi với gia đình và làm nhiều bài thơ tặng Me tôi và em bé của tôi là em Yến. Được tin bà qua đời, sau đó em tôi cũng mất, Thầy tôi có viết một bài nói về Bà, trong đó có mấy câu tôi còn nhớ: “Son souvenir est attaché à un petit être qui m’est cher, à ma petite hirondelle chérie, qui, un mois après son départ, s’est envolée dans les airs, òu elle aurait du la retrouver…” (Tạm dịch là: Kỷ niệm về Bà gắn với một sinh linh nhỏ bé thân thiết với tôi, với chim yến nhỏ yêu quí của tôi, một tháng sau khi Bà ra đi, đã bay lên trời, nơi có lẽ cháu sẽ được gặp lại bà.- PT chú)
Năm 1935, chồng tôi sang Pháp thi doctorat en médecine (Bác sĩ y khoa – PT chú) 3 năm, tôi vào Huế với Thầy Me tôi và sinh cháu Tứ ở Huế. Năm 1937 có một sự kiện làm cho tôi xúc động và nhớ mãi. Hồi đó Me tôi có mang em Phạm Tuân được độ 6 tháng thì Me tôi mắc bệnh hen rất nặng, suốt ngày tôi ngồi vuốt ngực và xoa bóp cho Me tôi, nhiều lúc thấy lên cơn hen Me tôi khó thở tưởng như nếu kéo dài có thể chết. Thầy tôi đi làm về là vào ngay buồng thăm hỏi, vuốt ve và nói chuyện động viên và an ủi sẽ khỏi, v.v…Một hôm tôi thấy Thầy tôi ngồi với hai ông docteur (Bác sĩ – PT chú), nói chuyện gì mà tôi thấy Thầy tôi nét mặt buồn rầu tôi chưa từng thấy. Tôi đoán là có chuyện gì hệ trọng lắm. Sau đó, thấy Thầy tôi vào nói với Me tôi là các ông docteur hội chẩn và khuyên nên lấy cái thai ra thì mới khỏi nguy hiểm cho người mẹ. Me tôi khóc, bảo: “Đau đớn mấy tôi cũng cố chịu được, không khi nào tôi chấp nhận cái việc đó; vì tôi nằm mơ thấy rõ ràng có một thằng bé rất thông minh xinh đẹp chạy theo xe tôi và nói “Me, cho con về với me!””. Sau đó nhờ phúc ấm tổ tiên, Me tôi qua khỏi và sinh được đứa con thứ 15 của Thầy Me tôi. Thầy Me tôi thương và quý em lắm, cứ gọi là “chú Miềng”; năm nay em đã 55 tuổi, có 5 con rồi mà gia đình vẫn quen gọi là chú Miềng.

Thầy tôi có 16 người con mà lúc nào cũng chú ý săn sóc thương yêu như nhau, chưa hề bao giờ mắng mỏ con cái. Thầy tôi rất thông minh, uyên bác, tuy không phải là docteur nhưng có một “Larouse médicale” (Từ điển Larouse y khoa – PT chú) nhiều tập. Mỗi khi con cái ốm đau, Thầy tôi đều đem ra sưu tầm tra cứu và theo đơn trong sách chữa bệnh, hiếm lắm mới phải mời đến docteur.
Tháng tám năm 1945, Thầy tôi ra đi!! Than ôi cả Thầy Me tôi và các con đều không có thể ngờ rằng Thầy tôi ra đi mãi mãi!!! Chúng tôi khóc tưởng như có thể chết đi sống lại!! Sau đó, chị tôi và tôi nhờ một anh bạn là ông Vũ Đình Huỳnh ngày ấy làm garde corps (người hộ vệ – PT chú) cho Cụ Hồ, giới thiệu đến thăm Cụ và hỏi chuyện. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về…Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội vã có thể có nhiều sai sót đáng tiếc…” Và tôi còn nghe một bà bạn là nữ sĩ Hằng Phương đến dâng Cụ ít cam và một bài thơ, nhân nói đến Thầy tôi cụ Hồ bảo:“Thật là đáng tiếc, dẫu sao cũng là một nhà văn học!”
Trời ơi, oan uổng cho Thầy tôi biết bao!!! Nỗi oan này khắc sâu trong lòng chúng tôi, nỗi hận này đến kiếp nào cho khuây!…
Thầy ơi, chúng con thật là bất lực, xin cúi đầu nhận tội với Thầy.
Phạm Thị Thức
28/10/1992
Bản sao chụp phần cuối bài của bà 
Phạm Thị Thức viết tại Hà Nội ngày 28/10/1992.
"ĐIỆP VIÊN ĐƠN TUYẾN"
­­­­­CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH

(Một đoạn báo của giáo sư Văn khoa Đại học Nguyễn Văn Trung, tháng 9 năm 1999)
Lời dẫn của Phạm Tôn: Giáo sư Văn khoa Đại học Nguyễn Văn Trung từng nổi tiếng như cồn ở Sài Gòn thập niên 60 và 70 thế kỷ trước với các bài viết, các tập sách và cả các buổi diễn thuyết chống Phạm Quỳnh quyết liệt, sắc sảo đến mức “đào đất đổ đi”, “không đội trời chung”, nhất là trong tập sách Chủ Đích Nam Phong (Tủ sách Tìm về dân tộc của nhà xuất bản Trí Đăng, Sài Gòn phát hành 2000 bản, ngày 20/2/1975), một công trình phê bình chính trị, trong đó ông dành hết tâm trí để chứng minh rằng Phạm Quỳnh là: “tay sai chính trị, tay sai văn hóa của thực dân Pháp”.
Thế nhưng, tháng 9 năm 1999, trên tạp chí Đi Tới, xuất bản ở Montreal, Canada số đặc biệt về chủ đề “Phạm Quỳnh: Văn hào và Chính trị: Công hay Tội”, ông lại bất ngờ công bố một giả thuyết mới và lạ.
Để bạn đọc có tư liệu tham khảo nhiều chiều khi tìm hiểu về học giả Phạm Quỳnh, chúng tôi xin trích đăng đoạn báo đó và một phần trong Lời kết bài của giáo sư Nguyễn Văn Trung đăng trong số báo trên từ trang 8 đến trang 20 nhan đề Từ suy tôn Phạm Quỳnh đến đề cao thực dân thời hậu hiện đại. Đầu đề đoạn trích này là của chúng tôi.
Tóm lại xét về mặt nổi mặt chìm Phạm Quỳnh là người của địch nhưng có thể là người của ta gài trong hàng ngũ của địch (Chúng tôi nhấn mạnh – PT) hay không? Giả thuyết này có thể được nêu lên dựa vào tâm sự mà Phạm Quỳnh đã bày tỏ trong chuyến công du Pháp hồi 1922. Bất cứ người Việt Nam nào từ khi Việt Nam tiếp xúc với Tây phương và nước Pháp, có cơ hội ra nước ngoài sang Pháp đều có một lối nhìn thời cuộc khác với người chỉ ở trong nước. Qua những trang tâm sự Phạm Quỳnh cho biết:
Đời sống va chạm hằng ngày trong nước ở xa mới thấy những việc tưởng là quan hệ mà sau đó bần tiện nhỏ nhen, tranh ăn tranh nói, tranh uống tranh ngồi, v.v…
Ở Paris đầu óc mở ra đón nhận những trào lưu mới tiến bộ. Phạm Quỳnh đi nghe các buổi nói chuyện của phe tả Cộng sản, đi thăm đại học Sorbonne, trường sư phạm rồi than thở về thân phận học hành dang dở dở dang của mình và cả nước cũng là dở dang.
Nhận rõ chân tướng chế độ thực dân ở Việt Nam, những người Pháp thực dân khác hẳn người Pháp ở Pháp
Hiểu được tại sao người Việt ở Pháp chống thực dân và không thể có thái độ khác
Với tâm tình đó ông tìm gặp các ông Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc.
Trong bài du ký ông chỉ nhắc tới buổi gặp Phan Chu Trinh mà không nói tới những gặp gỡ khác đặc biệt với Nguyễn Ái Quốc. Chắc hẳn ông đã báo cáo với mật thám Pháp về những tiếp xúc này một cách nào đó cho khỏi bị nghi ngờ. Những ai đã có dịp gặp Nguyễn Ái Quốc bất kể là người Việt Nam hay người ngoại quốc đều thú nhận rất khó chống khả năng cảm hóa thuyết phục của Nguyễn Ái Quốc sau này là Hồ Chí Minh, một người thấm nhuần sách lược Lê-nin-nít. Có thể Nguyễn Ái Quốc, nhận thức được sự đóng góp đặc biệt của Phạm Quỳnh cho cách mạng Việt Nam ở cương vị một người cộng tác thân tín với giới lãnh đạo chính trị an ninh tình báo cấp cao nhất trong chính quyền thuộc địa, trao công tác cho Phạm Quỳnh mà bây giờ gọi là “ĐƠN TUYẾN” nghĩa là chỉ tiếp xúc nhận chỉ thị của một người khi cần đến, trong khi chờ đợi cứ năm vùng 10 năm, 20 năm hoàn thành xuất sắc tất cả các việc người Pháp trao để không bị nghi ngờ bất chấp những đố kị kết án là phản quốc Việt gian. THỜI ĐIỂM 1945-46 PHẠM QUỲNH CÓ THỂ XUẤT HIỆN VỚI BỘ MẶT THẬT (thì) BỊ CẤP DƯỚI GIẾT CHẾT. Khả năng bị thủ tiêu ở thời điểm này lại rất dễ xảy ra ngay cả với những người được triệu ra Bắc làm bộ trưởng như Lê Văn Hiến nếu không nhờ có can thiệp kịp thời.
Dĩ nhiên, đây hoàn toàn là một giả thuyết có thể phải đợi bao giờ một cuốn sử về Nguyễn Ái Quốc trung thực được công bố có nói đến tiếp xúc giữa ông và Phạm Quỳnh hồi ở Paris hoặc không bao giờ được kiểm chứng.
(…) Tình hình hiện nay có xu hướng tạm gác đánh giá Phạm Quỳnh về chính trị và lưu tâm tìm hiểu về sự nghiệp văn học của ông. Trong nước đã xuất bản những Truyện ngắn Nam Phong và chuẩn bị những trao đổi về mặt văn học (…) Việc nghiên cứu này không dựa vào những chứng từ như hồi ký, trả lời phỏng vấn… chỉ có giá trị tương đối nào đó, mà vào bút tích ghi trong hồ sơ hành chính lưu trữ ở văn khố Pháp, Nhật hay của bộ nội vụ ở Việt Nam. Hy vọng có thể phát hiện những sự kiện thuận lợi cho Phạm Quỳnh như xác nhận giả thuyết ông Nguyễn Ái Quốc móc nối Phạm Quỳnh và bức thư kết bằng những mẩu thuốc lá của những Đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng ở trong tù gửi cho ông Phạm Quỳnh đề nghị can thiệp với Pháp thay án tử hình đối với nhóm Nguyễn Thái Học được xác minh ông Phạm Quỳnh có can thiệp… (những đoạn in đậm là do chúng tôi nhấn mạnh – PT)
Montreal, đầu tháng 8/1999
TRƯỞNG NỮ CỦA HỌC GIẢ PHẠM QUỲNH 
Dã Thảo 
Bà Phạm Thị Giá, trưởng nữ của học giả Phạm Quỳnh, sinh ngày 27/10/1913 (tức 28 tháng 9 năm Quý Sửu) tại nhà số 1 phố Hàng Trống Hà Nội, sau anh trai là Phạm Giao, trưởng nam, sinh năm 1911. Nhưng, bà lại mất ở Bạc Liêu, tại nhà con gái út, nơi bà sống tám năm cuối đời, ngày 16/12/2000 (tức 21 tháng 11 năm Canh Thìn).
Đám tang bà giản dị, ngoài gia đình cô con út sống ở Bạc Liêu, hai con trai từ Hà Nội, chỉ có cháu đích tôn, bố mẹ cháu, bốn người cháu gọi bằng bác, một người bạn của gia đình từ Thành phố Hồ Chí Minh về và bà con lối xóm, bạn bè vợ chồng cô con út. Đó chính là làm theo lời bà dặn từ nhiều năm trước khi mất mà tất cả các con đều nhớ rõ: “Suốt đời mẹ chỉ sống cho gia đình, không làm nên việc gì ích nước lợi dân, cho nên mẹ muốn khi chết, không loan báo trên báo đài gì hết, chỉ những bà con gần gũi biết là được rồi.”
Không kèn, không trống, đám tang lặng lẽ đi trong mưa nhẹ phương Nam…
Cuộc đời gần một thế kỷ của bà thật không ít thăng trầm, trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới và hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc suốt hơn ba mươi năm ròng, và thời bao cấp khốn khó sau chiến thắng thống nhất đất nước. Bà đã làm tròn trách nhiệm người công dân Việt Nam yêu nước thương nòi như thân phụ bà và làm tròn nhiệm vụ người vợ thảo, người mẹ hiền, một mình nuôi dạy bầy con thơ dại nên người.
Là con gái trưởng, gia đình lại đông con, mới 15 tuổi đầu bà đã phải phụ mẹ lo việc gia đình, chăm sóc đến… tám em nhỏ. Kể cả bế ẵm các em, cho các em ăn. Cho nên bà chỉ học tiểu học, không được học lên.
Năm 18 tuổi thì lấy chồng, một chàng trai xứ Huế, có chí, có tài, nhưng nghèo, con một quan huyện từ quan khi chưa đến tuổi bốn mươi, vì không chịu làm theo lệnh quan Tây đi bắt Cộng sản, những người mà ông khẳng định lương thiện, không thể bắt.
Vợ 18, chồng mới 24, lại gánh một gánh nặng bên nhà chồng đông chị em…
Bà không bao giờ quên những ngày còn ở bên cha mẹ, mà bà gọi là thầy, me. Bà gần gũi với cha, thức chép các bài cha dịch miệng đến khuya, đun nước pha trà cho cha, bổ cam cha xơi lấy sức mà làm việc. Chính ông đặt tên cho bà là Giá, cái giá, vì khi mới sinh, bà trắng như cái giá. Thật là dân dã nôm na và biết bao yêu thương. Khi bà sinh con gái đầu lòng, cũng là lúc ông vào Huế làm quan, ông bảo khi nào cho cháu vào Huế là thăm được cả bên nội, bên ngoại. Hai vợ chồng bà sống nhiều năm tại nhà số 5 phố Hàng Da, nơi gia đình ông từng sống và có thời còn là trụ sở tạp chí Nam Phong nổi tiếng hồi đầu thế kỷ XX. Các em Phạm Bích học Luật, Phạm Khuê học Y đều sống ở nhà bà. Ngoài ra, còn có ông anh họ và em trai chồng bà cũng từ Huế ra Hà Nội học. Vợ chồng bà cưu mang tất cả. Chồng bà là Tôn Thất Bình, dạy học ở trường Gia Long, sau là một trong hai hiệu trưởng của Trường trung học Thăng Long (Ngõ Trạm) nổi tiếng. Từ ngày có con đầu lòng, ông còn nhận làm chủ bút cho tờ La Patrie Annamite (Tổ quốc An Nam). Mỗi tháng lĩnh lương, ông lại bỏ tiền vào từng cái hộp gỗ nhỏ, ngoài có ghi tên từng đứa con, để sau này lo cho việc học hành của các con. Gia đình bà Giá sống êm ấm như vậy cho đến năm 1945, nhiều biến cố đã xảy ra, khiến bà từ một phụ nữ chỉ biết lo cơm ngon canh ngọt, dạy dỗ các con đã phải đứng ra chèo chống cả một gia đình, mà không phải chỉ là gia đình của riêng bà.
Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, em trai Phạm Khuê về nghỉ hè ở Huế vội ra báo cho chị biết cha đã bị bắt ngày 23/8. Bà cùng chồng và vợ chồng người em gái là bà Phạm Thị Thức và bác sĩ Đặng Vũ Hỷ bàn nhau phải xin gặp Cụ Hồ để kêu oan và giao cho em Khuê là người biết rõ sự việc viết thư trình Cụ. Bà nhờ ông Phan Bôi, tức Hoàng Hữu Nam, bấy giờ là Thứ trưởng Bộ Nội vụ và công tác ở văn phòng Chủ tịch xin được gặp. Ông Phan Bôi là em ruột ông Phan Thanh, cùng làm việc ở Trường Thăng Long với chồng bà Giá. Ông Nam sốt sắng nhận lời và sau đó, ngày 31/8/1945, hai chị em bà được Cụ Hồ tiếp lúc 11 giờ, nhận thư, ngay sau khi Cụ duyệt lại lần cuối cùng Bản Tuyên Ngôn Độc Lập sẽ đọc ngày 2/9.
Sau này, bà vẫn nhớ mãi thái độ thân thiết ân cần của người đứng đầu Nhà nước trong buổi tiếp và lời dặn của Cụ nói các chị cứ yên tâm, tôi sẽ xem xét. Chính vì thế, bà lại càng không thể hiểu được vì sao sau đó thân phụ lại bị hạ sát bí mật, hơn ba tháng sau mới công bố trên hai tờ báo nhỏ của địa phương.
Bấy giờ, bà đang bụng mang dạ chửa cô con út.
Sau quốc khánh đầu tiên của nước ta, báo chí loan “tin vui” là từ nay chấm dứt các vụ bắt bớ, nhân dân yên tâm làm ăn dưới chế độ mới. Nhưng lạ thay, vẫn có ngoại lệ. Tối 7/9/1945, có hai người xưng là học trò cũ, đến nhà xin đưa thầy Tôn Thất Bình đi giữa lúc ông cùng gia đình đang ăn bữa tối. Quá bất ngờ và đau khổ tột cùng, bà Giá đau bụng dữ dội và đã sinh con gái út ngay 10 giờ đêm hôm sau, 8/9/1945.
Những tưởng “hai học trò mời thầy đi có việc” ít lâu sẽ về nên bà Giá chưa vội cho làm khai sinh, chờ chồng về làm như những lần trước. Nhưng chờ mãi không thấy, mới nhờ em rể là dược sĩ Phùng Ngọc Duy làm giấy khai sinh cho cháu. Thành ra, trễ mất 10 ngày. Nay đã ở tuổi 65 mà chưa biết mặt cha, giấy khai sinh của bà Tôn Nữ Thanh Nhàn vẫn ghi ngày sinh là 18/9/1945.
Đẻ con xong, bà hoàn toàn mất sữa và bị liệt, mắt mờ, phải điều trị hơn nửa năm mới đi lại được và nhìn thấy đường. Bà lo ngay việc kiếm sống cho gia đình nay đã mất nguồn sống do chồng mang về hằng tháng, lại cưu mang thêm bao nhiêu người ngồi không. Vì từ sau ngày 23/8, được sự giúp đỡ của ông Hoàng Hữu Nam, cả đại gia đình trong Huế đã ra sống ở nhà số 5 phố Hàng Da này. Ông anh cả và bà vợ hai với ba con, các em trai gái, cộng lại tất cả gần hai chục miệng ăn. Bà em đón mẹ và các em nhỏ về sống cùng, còn lại, bà gánh hết… Đi lại được là bà Giá lên bà em có chồng dược sĩ mở hiệu thuốc, cất thuốc, cho vào cái làn mây trắng nhỏ, xách đi bán ở các nhà quen, vì hồi ấy thuốc khan hiếm, ai cũng cần. Rồi lại nhờ ông Hoàng Hữu Nam, biết được chỗ và được cấp phép đi thăm nuôi chồng “an trí” ở Hoài Đức Hà Đông, mang cho chồng sách học tiếng Anh Anglais sans Peine (Tiếng Anh dễ học) để ông học cho qua thời giờ. Cậu em Phạm Khuê, thương chị và hiểu cảnh nhà, ngày đi học, tối ra rạp Olympia ở trước chợ Hàng Da, kéo đàn phong cầm trước khi chiếu phim, Phạm Tuyên, mới 15 tuổi, chưa làm được gì… Cứ thế, bà Giá dốc dần các hộp nhỏ đề tên các con ra để chi tiền chợ hằng ngày. Cho đến năm 1946, tình hình kinh tế gia đình đang lúc kiệt quệ nhất thì có lệnh tản cư, toàn quốc kháng chiến bắt đầu.
Gia đình bạn bè bà đều về quê, nhưng bà biết về quê nào… Quê chồng thì quá xa, quê cha thì đã mấy đời định cư ở Hà Nội rồi, còn ai biết mình! Bàn với bà bạn thân là Nguyễn Thị Nội, ở ngay trước cửa nhà, cùng phố. Thì bà này mời về quê chồng, tức họa sĩ Nguyễn Cát Tường, cha đẻ của áo dài tân thời, cũng là thầy dạy vẽ ở trường Thăng Long. Thế là bà Giá chân yếu tay mềm, ngày trước chỉ nhất nhất theo lời chồng, đã dẫn đại gia đình gần 20 người cả lớn lẫn bé kéo nhau về làng Tràng Cát Hà Đông. May nhà ông anh họ họa sĩ có cái nhà mới làm, chuẩn bị cho con trai lấy vợ, ba gian, hai chái, tường gạch, mái rơm sẵn sàng cho mượn. Cả non hai chục con người về đấy, cũng vào rừng vải quét lá mà đun, ra sông nông trong vắt mò trai, hến, vẹm mà nấu, xào. Dần dà, trẻ con người lớn đều bị ghẻ lở như dân làng, phải nấu lá xoan mà tắm. Và đau mắt đỏ, phải nhỏ… nước muối. Mùa đông, nẻ, rán mỡ gà mà thoa mặt. Con út bà đành sống bằng cháo loãng pha với đường đỏ. Con trai út, thì ăn một bát xôi nhỏ mỗi sáng cùng cô bé chị họ đều ba tuổi. Còn tất cả, từ năm tuổi trở lên, thì nhịn. Ngày chỉ ăn hai bữa cơm độn ngô, khoai với củ cải muối cả củ như dân làng. Hôm nào mò được trai, sò, hến thì mới có chất đạm.
Được hơn nửa năm thì kiệt quệ quá, bà bàn với Phạm Khuê, 21 tuổi, tìm về nhà bà em kế là bà Thức đang ở quê chồng tận Nam Định. Móc nối được rồi, bà Thức cho người ra Hà Đông đón, cả nhà đi thuyền về Nam Định. Đến ngã ba sông Tam Tòa, Nho Quan thì bị vướng một thảm bèo dày hàng thước, người đi trên mặt bèo được, dài hàng cây số, do tắc ở hàng cọc cắm xuống lòng sông để “chống tàu chiến giặc Pháp”. Phải bỏ thuyền nhỏ, đi bộ trên bèo, lên thuyền lớn mới về đến nhà bà em.
Ở đấy được hơn một năm thì cô con thứ hai của bà ho ra máu mấy lần, chỉ còn cách đưa về Hà Nội may ra mới cứu được. Bà đành bỏ lại con gái lớn và hai em trai nhờ bà ngoại nuôi, đưa con gái đau yếu và hai con nhỏ ra Hà Nội. Phải thuê người gánh mới đi nổi đường xa. Thằng anh năm tuổi, một bên thúng; thúng kia con em gầy yếu phải dằn thêm mấy hòn gạch mới gánh được.
Bà đi sau, đỡ con gái đau yếu. Vất vả lắm mới theo kịp người đàn bà nhà quê gánh hai con nhỏ. Cuối cùng cũng về đến Hà Nội tạm bị giặc Pháp chiếm. Gặp lại bà em có chồng dược sĩ tạm lo cho nơi ăn chốn ở là bà nghĩ ngay đến việc đưa con gái đi chữa bệnh. Chiếu điện, thì ra bị lao nặng, hai phổi đã nát gần hết. Hồi ấy, ở Hà Nội cũng chưa có thuộc đặc trị, nghe nói còn đang thử nghiệm tận bên Pháp. Bà em đành lo thuốc thang cho cháu với các thuốc tìm được, “cầm cự được tới đâu hay tới đó”. Cô gái 14 tuổi phải kiêng khem, ăn riêng, ở riêng một buồng nhỏ. Khổ nhất mà cũng buồn nhất là không được lại gần hai em ở cùng nhà, lai khôn nguôi nhớ ba chị em ở xa. Một đêm lạnh, bà đang nằm bên hai con nhỏ thì nghe có tiếng thét to, ghê rợn, hốt hoảng từ buồng con gái. Bà vội chạy ngay đến mở cửa thì thấy cô gái mặt xanh nhợt, đang gục đầu bên thau rửa mặt đầy máu. Bà đỡ ngực con, vuốt nhẹ lưng, lấy khăn lau mặt cho sạch rồi hỏi nhẹ nhàng: “Nó ra thế này là tốt lắm, con có thấy nhẹ người không…”. Cô gái nhắm mắt nằm yên trong lòng mẹ, thở nhẹ nhàng và thiu thiu ngủ. Sau này, chính bà cũng không hiểu vì sao lúc ấy mình có thể bình tĩnh, mà nói được câu ấy… Bà gọi thợ may về nhà, may đo cho cô một cái áo dài lót bông màu đỏ sẫm, nổi bật khuôn mặt thanh tú, xinh đẹp của cô gái 15 tuổi đôi má bà thêm chút phấn hồng. Bà đưa cô đi xem kịch ở nhà hát lớn, tối tối lại đọc truyện cho cô nghe. Các truyện trinh thám, mới đọc được nửa chừng , cô đã đoán ra kết cục, không muốn nghe nữa. Những chuyện tình cảm thì thường là buồn, kết thúc bi đát, bà không muốn cô thêm nặng lòng vì những chuyện không đâu. Cuối cùng, chỉ đọc truyện cổ tích và chuyện cười. Cứ như thế, hằng ngày bà đi mua đồ gỗ cũ về nhà sơn hoặc đánh véc ni lại, cho sửa chữa chút ít rồi bán giá rẻ cho những gia đình mới hồi cư về Hà Nội, cũng tạm đủ tiền ăn hằng ngày. Tiền thuốc men chữa bệnh tốn kém nhất thì đã có bà em lo. Nhưng rồi cũng chỉ cầm cự được gần hai năm thì cô gái mất, đám tang toàn hoa loa kèn trắng.
Ít lâu sau, ba đứa con nương nhờ bà ngoại cũng về đoàn tụ với gia đình. Cô con cả phải đi làm cho bà em ở hiệu thuốc, còn hai em trai, bà lo tìm ngay chỗ học cho con. Lỡ năm học, đành vào học trường tư. Lại thêm một khoản tiền phải chi trả. Bà bỏ nghề bán đồ gỗ cũ chuyển sang mở cửa hàng may y phục phụ nữ và trẻ em. Được mấy năm thì nghe tin Hà Nội sắp giải phóng. Bạn bè, bà con đến khuyên gia đình bà nên đi Nam “để tránh cộng sản”, chí ít, cũng nghĩ đến tương lai các con trai mà cho chúng đi. Bà vẫn quyết định cả nhà ở lại. Lý do thật đơn giản mà vững chắc: Bà chờ chồng về… Mấy ngày trước khi Hà Nội giải phóng, đọc các tờ rơi kêu gọi đồng bào chuẩn bị đón quân ta vào giải phóng thủ đô, bà cho may thật nhiều cờ đò sao vàng, bày bán ở tầng dưới quầy. Có tối, lính Tây mũ đỏ say sỉn sau khi nốc rượu ở quán gần nhà, vào cửa hàng, thấy có cờ đỏ sao vàng bày bán, chúng hỏi. Thì bà thản nhiên đáp bằng tiếng Pháp: “Cờ của nước chúng tôi đó…” Chúng nghe, rồi xua tay, bỏ đi, không gây gổ gì. Cà nhà và hàng xóm nữa, ai cũng sợ. Còn chính bà Giá, sau này nói với mọi người là không hiểu sao lúc ấy mình không sợ mà lại dám nói như thế.
Rồi Hà Nội giải phóng, cả nhà bà vui mừng cùng đồng bào thành phố đón quân ta về, mong ngày đoàn tụ với người thân mười năm xa cách. Tối nào bà cũng đi họp phụ nữ, con cái thì đi họp thanh niên, thiếu nhi mong hiểu thêm về chế độ mới. Rồi cháu đích tôn của học giả Phạm Quỳnh là Phạm Vinh về, là bộ đội văn công. Và em trai Phạm Khuê cũng về thăm, là đại úy quân y. Cuối cùng là Phạm Tuyên, từ Khu học xá trung ương tận bên Trung Quốc cũng về. Theo nếp cũ gia đình, hễ họp nhau là cùng hát. Nhưng là những bài hát mới do những người mới về dạy cho. Có cả bài Liên Xô, Trung Quốc lời Việt.
Vui thì cũng vui nhưng chưa trọn vẹn. Chồng bà vẫn chưa về, mà cũng chẳng có tin tức gì. Bấy giờ, bà mới nghĩ là sao lại không viết thư hỏi người đồng nghiệp dạy cùng trường Thăng Long với chồng ngày xưa, nay đã là đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bà bảo con viết thư gửi đại tướng hỏi xem nay chồng bà ở đâu, xin cho biết tin. Thì ít lâu sau, nhận được thư trả lời của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Nhân Dân Việt Nam: Một bản in sẵn, chỉ điền tên người vào. Đại ý: Xin gia đình vui lòng cho biết đồng chí Tôn Thất Bình, nhập ngũ ngày nào, tại đâu và trực thuộc đơn vị nào… Thế là tiêu tan hy vọng! Rồi sau đó, có việc truy quét thổ phỉ Bắc Hà, bà lại nhờ người quen ở Mặt trận Tổ Quốc dò hỏi hộ trong số người bị chúng bắt và sử dụng có chồng mình không. Nhưng tất cả đều vô vọng.
Cô con lớn , làm cho bà em cùng theo vào Nam giúp việc dì nơi đất mới, chỉ với hy vọng hai năm sẽ lại về với mẹ nhân hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo Hiệp định Genève.
Nay thì đã vắng tin chồng, lại bặt tin con. Tuy vậy, bà vẫn hòa nhập vào cuộc sống mới đầy khó khăn vất vả. Có cái máy khâu, bà góp vào hợp tác xã may gia công, hằng ngày đi bộ hai buổi đến nơi làm việc. Tối lại họp phụ nữ, làm đại biểu phụ nữ khu phố. Chủ nhật thì làm vệ sinh viên, lo tiêm chủng, săn sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, còn tham gia lao động chân tay, dùng chảo nhà mang đi múc bùn hôi thối góp phần xây dựng công viên Thống Nhất, đi quét rác làm đẹp thành phố.
Rồi giặc Mỹ leo thang chiến tranh, bà theo hợp tác xã lên Hà Bắc sơ tán, tiếp tục sản xuất, cứ mỗi tháng đều cố về Hà Nội một lần “cho đỡ nhớ” và thăm con trai thuộc ngành giao thông vận tải, vẫn làm việc tại Hà Nội. Có lần bà đem cả một con gà mình nuôi, rán lên, làm món trộn thật ngon lành cho con trai sống một mình, ăn cơm tập thể. Nhưng anh con dăm hôm sau mới về nhà, thấy mấy hàng chữ phấn trắng mẹ viết trên mặt bàn lúc hai giờ sáng là “đã đến giờ phải ra tàu lên Hà Bắc, không đợi con được, chúc con ăn ngon miệng món con vẫn thèm”. Bên cạnh đó là một dĩa rau trộn héo úa và đĩa gà rán meo đã lên bông trắng.
Thời gian hợp tác xã may sơ tán lên Hà Bắc, bà Giá vẫn làm thêm nhiệm vụ vệ sinh viên như khi công tác phụ nữ đường phố. Bà phát thuốc, tiêm chích thuốc thông thường chữa cảm, cúm, mỏi mệt hoặc sơ cứu các vết thương… Một lần Mỹ bắn phá khu vực hợp tác xã, có xã viên và cả dân làng bị thương, bà đều đem  túi thuốc đến cấp cứu kịp thời. Từ băng bó đến ga rô cho máu ngừng chảy, kịp thời sơ cứu để đưa lên tuyến trên an toàn. Mặc bom rơi, đạn bắn, bà vẫn làm nhiệm vụ đúng với lương tâm người làm nghề thuốc, dù chỉ là một vệ sinh viên bình thường, không hưởng lương. Có người hỏi vì sao bà bình tĩnh được trong những hoàn cảnh như vậy, bà bảo lúc đó tôi chỉ biết có người bị thương, bị đau, không thấy gì khác. Rồi bà kể chuyện năm xưa khi con gái thổ huyết giữa đêm lạnh. Ai cũng cảm mến bà. Và phục nữa. Dù bà không bao giờ đạt năng xuất cao hơn người.
Đến cuối năm 1972, Mỹ ném bom B52 rải thảm Hà Nội thì gia đình bà lại đoàn tụ ở thủ đô. Các con xin bà thôi việc ở hợp tác xã, về nhà lo mấy bữa ăn cho các con. Bà xin về. Khi thanh toán thì hóa ra những lần về Hà Nội, bà đều có vay một ít tiền, nay tính lại số tiền ấy gần bằng tiền hóa giá cái máy khâu. May mà còn đủ tiền cho bà mua vé tàu về nhà. Bà rất mừng là không phải vay mượn vào ngày chia tay Hợp tác xã.
Hằng ngày, các con đi làm sau khi ăn bữa sáng tuy đạm bạc nhưng nóng hổi, ngon lành do bà chuẩn bị từ sớm. Sau đó, bà đi mua thực phẩm ở các điểm bán hàng dã chiến, người bán hàng ngồi ngay trên miệng một hố cá nhân tránh bom. Một tối, bà khoe với các con là đã tìm được một điểm mua không phải xếp hàng, chỉ phải gọi một tiếng là có người bán hàng ngay. Các con hỏi và kinh hãi khi bà cho biết bà “mua thực phẩm ở ngay đầu cầu Long Biên. Ngay trên tầng cao của cầu đã có bộ đội phòng không sẵn sàng tay súng thường trực, không phải lo máy bay”.
Rồi Hiệp định Pari, hòa bình lập lại trên cả nước. Đám cưới con trai út của bà đón dâu bằng ba chiếc xe đạp. Nhạc sĩ Phạm Tuyên đi một xe đèo một bà bạn bà. Con trai thứ đèo bà. Con trai út đón cô dâu. Bữa ăn đón dâu do bà và bà bạn nọ cùng vợ chồng con gái út chuẩn bị.
Sau ngày đất nước thống nhất, con trai cả và út đều đã có gia đình, con cái ở Hà Nội. Con trai thứ chưa vợ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Con gái về quê chồng Bạc Liêu cùng các con. Bà lần lượt sống với bốn con, bao giờ cũng cố gắng có mặt lúc các con cần mình nhất như khi sinh con hoặc cưới.
Những năm cuối đời, bà sống ở Bạc Liêu cùng con gái út, lại lo cho con cháu đến hết đời. Bà bảo: “Không gì vui bằng khi trông thấy đứa cháu nhỏ mỉm cười sau cơn sốt hầm hập kéo dài”. “ Mẹ không cần Tết, đối với mẹ khi nào các con sum họp thì đó là ngày Tết của mẹ rồi”
Bà có cái thú là viết thư cho chị em và các con. “Viết thư mẹ thấy như được gặp mặt và trò chuyện với những người thân yêu vậy.” Chính nhờ những lá thư đó và tấm lòng kính yêu vô hạn của bà với thân phụ mà nhà báo Phạm Tôn mới có tài liệu sinh động, cụ thể, tỉ mỉ để viết nên những trang gây xúc động lòng người đăng trên các báo Xưa và Nay (Người nặng lòng với nước), Công giáo và Dân tộc (Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nước), Nghiên cứu và Phát triển (Người nặng lòng với nhà) và  nhà báo Nguyễn Trung có bài trên Công giáo và Dân tộc (Phạm Quỳnh, người nặng lòng với tiếng ta). Thư bà viết bao giờ cũng đem lại niềm vui sâu đậm cho người nhận.
Bà còn có tài kể chuyện sinh động đến mức có chuyện thế này: Các bạn xã viên cùng bà đi dự một đám cưới con bạn cùng phân xưởng. Hôm sau đi làm là nài nỉ bà kể lại cho họ nghe chuyện đám cưới mà chính họ cùng dự với bà hôm trước. Để rồi cười trước cả khi bà sắp kể đến những đoạn vui trong đám cưới đó. Thành ra, thật không phải nói quá là bà có gien văn nghệ cha truyền. Vì lo cho cha, chồng, con, cháu mà bà hy sinh hai tài năng của mình là viết văn và diễn kịch. Chỉ còn là những tài lẻ, sở thích đem lại niềm vui cho mọi người thân. Cả trong và ngoài gia đình bà.
Chẳng thế mà nữ sĩ Tương Phố (14/7/1900-8/11/1973) tác giả Giọt lệ thu nổi tiếng một thời lại gắn bó thân thiết với bà. Xuân Quý Tị 1953, nữ sĩ đã viết tặng bà bài Âm thầm lòng em trên giấy mỏng, đóng thành một quyển sách nhỏ. Bài thơ gồm hai câu mở đầu và mười khổ, mỗi khổ bốn câu, chữ cuối câu cuối khổ này lại là chữ mở đầu của câu đầu khổ sau, cứ thế cho đến hết. Trong bài, có những câu:
Con dại một bầy ăn học dở
Mình em kiêm mẹ lại kiêm cha
Năm trôi lận đận chỉ vì con!
Con lớn, con khôn, mẹ héo hon.
Mai mốt sân hòe dù nảy quế,
Trăm năm nghĩa cả có vuông tròn?.

(…)
Trang đầu và khổ thứ 10 của bài thơ
Kỷ niệm 10 năm ngày mất bà Phạm Thị Giá (16/12/2000-2010)
TÌNH BẠN PHẠM QUỲNH - NGUYỄN VĂN VĨNH
Dã Thảo
Nguyễn Văn Vĩnh xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, quê quán làng Phượng Dực, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, nay là huyện Phú Xuyên, Hà Nội. Bố mẹ nghèo, phải bỏ làng ra Hà Nội kiếm sống và sinh ông ở 46 phố Hàng Giấy, ngày 15/6/1882. Nguyễn Văn Vĩnh hơn Phạm Quỳnh 11 tuổi.
Lên tám, phải đi làm thằng nhỏ kéo quạt ở Trường Thông ngôn của Pháp vừa mở ở đình Yên Phụ. Ngồi cuối lớp kéo quạt, nhưng ông vẫn chăm chú nghe giảng, do đó nói và viết được tiếng Pháp. Hiệu trưởng Đác-giăng-xơ (D’Argence) chú ý và sau ba năm học, cho phép cùng thi tốt nghiệp. Ông đỗ thứ 12 khi mới 11 tuổi, nên được đặc cách nhận vào làm học sinh chính thức, được học bổng để theo học khóa tiếp theo (1893-1895) và đã đỗ thủ khoa khóa học này. 14 tuổi, làm thông ngôn tòa sứ Lào Cai, rồi chuyển về tòa sứ Hải Phòng, Bắc Giang, ông bắt đầu cộng tác với các báo tiếng Pháp. Công sứ Bắc Giang đánh giá tài mẫn tiệp và nói tiếng háp của Nguyễn Văn Vĩnh đã đặc cách bổ nhiệm làm chánh văn phòng. Khi được cử làm Đốc lý Hà Nội cũng đưa ông về theo.

Ông giúp vận động người Việt làm đơn xin mở trường và các hội nên đã trở thành người sáng lập Hội Trí Tri, Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, Hội Dịch sách, Hội giúp đỡ người Việt du học Pháp. Năm 1906 được sang Pháp giúp tổ chức và quản lý gian hàng Bắc Kỳ tại Hội chợ Thuộc địa mở ở Marseille. Học hỏi được nhiều về nghề báo và nghề in, nên khi về nước, ông từ chức ở phủ thống sứ và đứng ra làm báo và nghề in… Năm 1913, Nguyễn Văn Vĩnh từ Sài Gòn trở về Hà Nội làm chủ bút tờ Đông Dương tạp chí, sang năm sau, kiêm cả tờ Trung Bắc tân văn, hai tờ này đều của Snây-đe (Schneider) người Pháp.
Sau Nguyễn Văn Vĩnh đỗ thủ khoa Trường Thông ngôn năm 1895, Phạm Quỳnh cũng học tại trường này và cũng đỗ thủ khoa năm 1908, khi trường Thông ngôn kết hợp trường Thành chung Nam Định thành trường Trung học Bảo hộ (tức trường Bưởi). Nguyễn Văn Vĩnh đi làm công chức khi 14 tuổi, thì Phạm Quỳnh đi làm công chức năm 15 tuổi ở trường Viễn Đông Bác Cổ. Chính trong thời gian làm việc tại đây, được học tập nghiên cứu nhiều, Phạm Quỳnh đã viết bài cho Đông Dương tạp chí và dần dà trở thành cây bút được bạn đọc tin cậy và cũng là cộng tác viên thường xuyên của báo.
Họ thân nhau từ đấy.
Lý do sâu xa hơn của tình thân ấy chính là cả hai đều học chữ Pháp, làm việc dưới quyền người Pháp, nhưng đều yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ và cố dốc hết tâm sức để vun trồng chăm sóc cho quốc ngữ ngày một lớn mạnh, phong phú, đủ để giữ được hồn nước. Ngay từ năm 1907, Nguyễn Văn Vĩnh đã viết: “Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở như chữ quốc ngữ” (Lời tựa bản dịch Tam Quốc Chí của Phan Kế Bính), cũng tha thiết tin tưởng như sau này Phạm Quỳnh nói “Tiếng ta còn, nước ta còn” trong lễ Kỷ niệm Nguyễn Du đầu tiên ở nước ta năm 1924.
Năm 1922, hai ông cùng đi dự Đấu xảo Thuộc địa Marseille và tranh thủ đi Paris. Nguyễn Văn Vĩnh đã đi Pháp năm 1906, có kinh nghiệm hơn, lại tháo vát, có khiếu về kinh doanh, đã mua xe hơi, đưa Phạm Quỳnh đi tất cả những nơi mà Phạm Quỳnh muốn đến “xem tận mắt, nghe tận tai”. Trong Pháp Du Hành Trình Nhật Ký, ngày 23/7/1922, Phạm Quỳnh viết: “Sẵn có ô tô của ông V., hai anh em định suốt tuần lễ này đi xem cho thật nhiều không những trong châu thành Paris, mà đi cả các nơi phụ cận ở ngoài nữa”. Chính nhờ có ông V. tự lái xe của mình cho Phạm Quỳnh đi cùng mà hậu thế chúng ta được biết thêm bao nhiêu cảnh và người nước Pháp hồi ấy, chứ Phạm Quỳnh thì chỉ có đi bộ và đi các phương tiện giao thông công cộng, làm sao mà tung hoành theo ý mình được.
Chính vì tình bạn vong niên đó mà năm 1926 khi Thống sứ Bắc Kỳ Rơ-nê Rô-banh (René Robin) có “nhã ý” trợ cấp cho Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong thì ông đã nhân cơ hội này xin trợ cấp cho Nguyễn Văn Vĩnh mà trong thư gửi cho Robin ông trình bày là Nguyễn Văn Vĩnh đã làm rất nhiều việc cho xã hội và còn gặp khó khăn lớn hơn ông.
Cùng yêu tiếng ta, một lòng với tiếng ta, mục đích chỉ là nhằm giữ hồn nước, khơi dậy lòng yêu nước thương nòi trong nhân dân ta. Nhưng khi gặp được cơ hội trực tiếp đấu tranh chính trị để đem lại lợi ích cho nhân dân, nâng cao vị thế của người dân thì hai ông cũng không bỏ qua, mà luôn luôn tận dụng.
Năm 1908, Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, Nguyễn Văn Vĩnh cùng bốn người Pháp ký tên yêu cầu chính quyền Đông Dương thả Phan Châu Trinh đang có mặt ở đấy. Vì việc này, ông đã bị Toàn quyền Pháp gọi lên đe dọa. Sau, nhờ có sự can thiệp của Hội Nhân quyền, Phan Châu Trinh được trả tự do trước hạn và đưa về quản thúc ở Mỹ Tho (1911).
Năm 1925, Phan Bội Châu bị đưa ra xét xử tại Tòa Đề hình Hà Nội, bị kết sáu án chung thân và hai án tử hình. Nhà báo Phạm Quỳnh đã viết bằng tiếng Pháp trên báo Indochine Républicaine (Đông Dương cộng hòa) có thế lực cả ở Đông Dương lẫn chính quốc, lên tiếng bênh vực Phan Bội Châu là “người chỉ có một tội là tội yêu nước như bao anh hùng liệt sĩ Pháp chống giặc ngoại xâm” và yêu cầu khoan hồng. Kết quả là, cùng với phong trào đấu tranh của nhân dân sôi nổi cả nước, Phạm Quỳnh đã góp phần giảm án cho Phan Bội Châu từ tử hình xuống chỉ còn quản thúc ở Huế, để Phan Bội Châu thành “ông Già Bến Ngự” nổi tiếng cả nước.
Năm 1930, trên diễn đàn của Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương, nhà báo Phạm Quỳnh đã lớn tiếng bênh vực công nghiệp còn non trẻ, yếu ớt của nước nhà, chống lại và làm thất bại chính sách độc quyền kinh doanh của thực dân Pháp, điển hình là đã làm phá sản chính sách độc uyền về sản xuất và bán rượu gạo ở Việt Nam của công ty Fontaine. Cũng trên diễn đàn ấy, năm 1932, Nguyễn Văn Vĩnh đã thay mặt giới doanh nghiệp phản đối việc chuyển đồng tiền Đông Dương từ ngân bản vị sang kim bản vị vì có lợi cho ngân hàng Pháp và có hại cho Đông Dương.
Tuy cùng một mục đích nhưng không phải khi nào hai ông cũng nhất trí với nhau về con đường và cách thức đi tới mục đích đó. Cho nên mới có cuộc tranh luận trực trị hay lập hiến sôi nổi một thời mà hai ông đứng ở hai phía đối lập . Tuy thế cả hai đều hòa nhã, chừng mực, lấy việc tìm ra con đường tốt nhất cho dân cho nước làm trọng, bình tĩnh thảo luận tìm ra chân lý. Hai ông bao giờ cũng “hòa nhi bất đồng” (tức: hòa với mọi người, nhưng không về hùa với ai) theo đúng kiểu người quân tử. Đó là một cuộc tranh luận có văn hóa.
Nhưng, rốt cuộc, tất cả những việc các ông tham gia hoạt động chính trị chỉ càng chứng tỏ là cả hai ông chỉ là những nhà văn hóa, nhà văn hóa lớn như nhà văn Nguyên Ngọc có lần gọi là “những người khổng lồ”, nhưng không thể là những nhà chính trị. Sự nghiệp các ông để lại vẫn chỉ là về văn hóa, văn học mà thôi.
Năm 1932 khi Nguyễn Văn Vĩnh đang họp Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương ở Sài Gòn thì có trát tòa án đòi tịch biên gia sản vì ông thiếu nợ do vay tiền dựng tòa soạn báo An Nam Nouveau (Nước An Nam mới). Vỡ nợ, ông phải đi sang Lào đào vàng và chết trong một cơn sốt rét ác tính, trên con thuyền độc mộc ở sông Sêbăngghi, gia sản chỉ còn hai bàn tay trắng (ngày 1/5/1936).
Lễ tang ông được tổ chức ở Hà Nội với đông đảo giới báo chí ba kỳ dưới dòng chữ kính viếng “ông tổ của nghề báo”.
Bấy giờ, Phạm Quỳnh đang ở Huế, là Tổng lý Đại thần Ngự tiền Văn phòng và Thượng thư Bộ Quốc dân Giáo dục.
Vậy mà 
ông lại làm một bài thơ Khóc Nguyễn Văn Vĩnh, sau này có người tìm thấy khi được giao nhiệm vụ tịch thu gia sản Phạm Quỳnh khi ông bị bắt tháng 8/1945. Bài thơ có bốn câu cuối rất lạ:
Sống lại như tôi là sống nhục
Chết đi như Bác, chết là vinh
Suối vàng Bác có dư dòng lệ,
Khóc hộ cho tôi nỗi bất bình.
Người đương thời cũng thường gắn tên hai ông với nhau như trong việc kể tên bốn tác giả kiệt xuất thời đầu thế kỷ XX là “Quỳnh (Phạm Quỳnh), Vĩnh (Nguyễn Văn Vĩnh), Tố (Nguyễn Văn Tố), Tốn (Phạm Duy Tốn.
Hai ông đều là “nhưng người dân thuộc địa, qua ứng xử với nền văn hóa đô hộ, đã tiếp biến văn hóa phương Tây để tạo ra những giá trị mới (lắm khi chống lại và nằm ngoài toan tính của kẻ xâm lược)” (trích bài của Hữu Ngọc, Việt Nam và “sốc văn hóa”, báo Nhân dân cuối tuần, 27/6/1999 trang 5.)
Thành ra cảm thấy… hụt hẫng khi đọc bài Nhớ “người Nam mới” đầu tiên của Thu Hà đăng trên Tuổi Trẻ chủ nhật 12/9/2010 đoạn văn sau:
“Có quá nhiều điều chúng ta hôm nay chưa biết về Nguyễn Văn Vĩnh và những người ông chịu ảnh hưởng hay chia sẻ tâm huyết (Chúng tôi nhấn mạnh-D.T.) như Phan Chu Trinh, Nguyễn Văn Tố, các đồng chí trong Đông Kinh Nghĩa Thục…”
Hụt hẫng vì không thấy nhắc đến tên người bạn thân thiết nhất, người đồng chí đồng tâm nhất với Nguyễn Văn Vĩnh là Phạm Quỳnh.
Vì sao đến cuối năm 2010 rồi mà vẫn cứ phải né tránh một tên tuổi cả nước đã biết từ gần 100 năm nay… 
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18/11/2010.
D.T.
TÌM HIỂU PHẠM QUỲNH
VỀ VIỆC PHẠM QUỲNH TRAO TẠP CHÍ NAM PHONG CHO CON RỂ
Dã Thảo
Đọc sách báo xưa, nay về Tạp chí Nam Phong và Phạm Quỳnh ta thường gặp câu văn ngắn gọn: “Năm 1932, Phạm Quỳnh vào triều đình Huế và trao Tạp chí Nam Phong cho con rể là Nguyễn Tiến Lãng.” Có người như Nguyễn Khắc Xuyên còn đi xa hơn khi viết: “Người ta lấy làm lạ rằng Nam Phong đẵ bắt đầu bằng việc hô hào dùng chữ quốc ngữ và quốc học làm nền tảng, với cây bút có một không hai là Phạm Quỳnh, song Nam Phong đã kết thúc bằng người kế chân như chỉ quen viết Pháp ngữ: ông Nguyễn Tiến Lãng.” (…).
“Nam Phon
g nay đã thuộc về lịch sử, lịch sử vẻ vang, nhưng không khỏi nhuốm màu bi đát của chủ bút tiên khởi của nó”. (Trang 24 cuốn Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong, xuất bản năm 1968 tại Sài Gòn).
Nhưng, sự thật không đơn giản như vậy.
Trước hết là Nguyễn Tiến Lãng làm chủ bút cuối cùng của Tạp chí Nam Phong từ năm 1932, năm ấy ông chưa kết hôn với con gái Phạm Quỳnh là Phạm Thị Ngoạn, việc chỉ diễn ra tám năm sau đó, năm 1940. Mặt khác, Nguyễn Tiến Lãng đã từng cộng tác với Nguyễn Văn Vĩnh trong tủ sách Âu Tây tư tưởng và Tản Đà trong An Nam tạp chí từ năm 1926 đến 1932. Ông cũng thường được các báo, nhất là các báo ở miền Nam, đặt bài cho những số Tết, viết truyện hay các bài phê bình văn học. Chính ông đã dịch ra tiếng ta cuốn sách Eurydic ông viết bằng Pháp văn, do nhà xuất bản Đông Tây phát hành tại Hà Nội năm 1932. Và trong An Nam tạp chí số 39, phát hành ngày 30/4/1932 có bài của Vân Bằng Tôi thất vọng vì Phan Khôi, chê trách ông này là con người lập dị, đã “thất lễ” với Nguyễn Tiến Lãng, chứng tỏ Nguyễn Tiếng Lãng cũng là một “bỉnh bút ăn khách”, có một số độc giả trung thành. Có điều đúng là những sáng tác bằng Pháp văn của ông đã làm lu mờ các sáng tác bằng Việt văn. Ông từng đoạt giải nhất cuộc thi do tạp chí Indochine tổ chức tại Sài Gòn năm 1931 với cuốn truyện ngắn Eurydic.
Vậy sự việc thật sự đã diễn ra như thế nào mà Nguyễn Tiến Lãng lại nhận Tạp chí Nam Phong?
Chính Nguyễn Tiến Lãng từng kể: “Đầu năm 1934, nhân một buổi tiếp tân tại hội quán Khai trí Tiến đức ở Hà Nội, có ba người không hẹn trước mà gặp nhau (…) Lê Văn Phúc (quản lý báo Nam Phong – PT chú), Louis Marty và tôi. Chúng tôi đã đề cập đến số phận của Nam Phong với số người hâm mộ ngày càng giảm đi, kể từ khi Cụ Phạm Quỳnh vào Huế lãnh chức vụ Thượng thư và do đó, không có thì giờ chăm lo tạp chí. Cuộc đàm thoại kết thúc, có thể tóm tắt như sau: Nếu Nguyễn Tiến Lãng cho rằng Nam Phong cần phải làm cho tuổi trẻ lại, thì tại sao chính mình không đích thân gánh vác việc ấy?”. Ý kiến được đưa ra như một thách thức. (…) Tôi liền đi Huế gặp Phạm Quỳnh và được cụ chấp nhận tôi. Mãi sau này, tôi mới hay là cụ có chấp nhận nhưng không sốt sắng! Trong bức thư đề ngày 20/6/1934 mà tôi chỉ được biết vào năm 1958, có những dòng sau đây về vấn đề này: “Nguyễn Tiến Lãng có mặt ở đây, có thảo luận với tôi về những dự định liên quan đến Nam Phong. Không ai phủ nhận đây là một thanh niên thông minh có thực tài về văn chương (…) Tôi không thấy gì trở ngại nếu tạp chí được trao cho đương sự điều khiển. May ra Nguyễn Tiến Lãng có thể khiến tạp chí thêm hấp dẫn và khỏi sút kém (…) Tôi rất đau lòng nếu Nam Phong mà tôi trìu mến bị sút kém đi (…) Thôi thì cứ thử với Lãng xem sao, rồi sau này ta sẽ liệu. Tôi đã ủy toàn quyền cho ông Lê Văn Phúc; hai người sẽ cùng nhau hỏa thuận để tổ chức ban biên tập mới cho thích đáng…”.
Chúng ta cũng biết rằng, chính Phạm Quỳnh đã nói một câu rất rõ ràng khi trả lời nhà báo Nguyễn Vạn An đến phỏng vấn ông sau khi Nhật đảo chính Pháp tháng 4/1945, ông về ở ẩn tại biệt thự Hoa Đường: “Suốt đời tôi, tôi đã phụng sự văn học, thì ngày nay không vì lẽ gì tôi không muốn trở lại cái đời cầm bút đã bị một thời gian bỏ dở”. (bài Tôi đã gặp Phạm Quỳnh ở biệt thự Hoa Đường, báo Tin Điễn, ngày 23/3/1952). Chính Phạm Quỳnh cũng vẫn mong có ngày trở lại với Nam Phong tờ báo yêu quí của ông.
Nguyễn Tiến Lãng thì tự nhận đã “lỗi lầm” khi nắm Tạp chí Nam Phong là “đã “chờ thời”, dành cho ông Lê Văn Phúc nhiệm vụ liên lạc với “nhóm người cũ” (tức là các nhà bỉnh bút cựu học – PT chú), còn tôi chỉ giữ lại một số trang mà tôi có toàn quyền quyết định. (…) Thực ra, trước các vị đó quá nhiều uy tín, tôi luôn luôn đầy mặc cảm (…) Tôi thay đổi định kỳ của tạp chí, từ nay trở nên bán nguyệt san. Nhằm thỏa mãn thị hiếu độc giả và theo dõi thời sự, tôi cho in thêm nhiều tranh ảnh. Nhưng, thời thế thay đổi quá nhanh, khiến các cải cách trên đây không đủ cung ứng cho các nhu cầu mới. Vả chăng, tôi vẫn còn là công chức, nên không đủ sức kiêm nhiệm. Sau cùng, sức khỏe của tôi không cho phép tiếp tục.”
Nam Phong sống lay lắt đến cuối năm 1934 thì chính thức đình bản.
TpHCM, ngày 11/7/2010.
D.T.
* Trong bài sử dụng chủ yếu tư liệu trong cuốn Tìm hiểu tạp chí Nam Phong, bản dịch của Phạm Trọng Nhân dịch từ nguyên tác tiếng Pháp của bà Phạm Thị Ngoạn Introduction au Nam Phong (NXB Ý Việt, Yerres, 1993).
NGAY TRƯỚC NGÀY QUỐC KHÁNH ĐẦU TIÊN,
HỒ CHỦ TỊCH ĐÃ TIẾP HAI CON GÁI HỌC GIẢ PHẠM QUỲNH 
Dã Thảo
Trong những ngày Cách Mạng Tháng Tám đang diễn ra sôi nổi khắp nước ta, mặc dù bận trăm công nghìn việc “quốc gia đại sự”, vậy mà ngay trước ngày Quốc khánh đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hồ Chủ tịch vẫn dành thời gian vốn rất ít ỏi để tiếp hai bà con gái lớn của Phạm Quỳnh xin gặp Người sau khi biết tin cha bị bắt tại Huế.
Trong tư liệu VỀ MỐI THÂN TÌNH GIỮA NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH VỚI THƯỢNG CHI – PHẠM QUỲNH (viết ngày 8/12/2008, tại Hà Nội) mà nhà văn Sơn Tùng đã có nhã ý ký thác cho nhạc sĩ Phạm Tuyên, có viết:
“Ngày 28/8/1945, Hồ Chủ tịch đến làm việc tại Bắc Bộ phủ, 12 phố Ngô Quyền. Một phái đoàn Trung ương – ông Nguyễn Lương Bằng, ông Trần Huy Liệu, ông Cù Huy Cận đã vào Huế dự lễ vua Bảo Đại thoái vị. Hôm phái đoàn lên đường rồi, Hồ Chủ tịch mới về Hà Nội, như chợt nhớ, Người nói với ông Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng – Tổng chỉ huy quân đội – Bộ trưởng Bộ Nội vụ; ông Hoàng Hữu Nam (Phan Bôi) – Thứ trưởng Bộ Nội vụ; ông Lê Giản- Tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam, Vũ Đình Huỳnh: “Chú Bằng (Nguyễn Lương Bằng), chú Liệu (Trần Huy Liệu), chú Cận (Cù Huy Cận) vô Huế rồi mình mới về thì đã trễ, giờ chú Nam (Hoàng Hữu Nam) hoặc xem có ai thay được chú Nam vô Huế gặp Cụ Phạm Quỳnh, trao thư tôi mời Cụ…” (Chúng tôi nhấn mạnh – DT).
Hai hôm sau, ông Hoàng Hữu Nam đến báo cáo với Hồ Chủ tịch: “Ông Phạm Quỳnh đã bị bắt (Chúng tôi nhấn mạnh – DT), hai người con gái của ông ở Hà Nội, gặp tôi thổ lộ việc này”. Hồ Chủ tịch để điếu thuốc đang hút dở xuống gạt tàn, nói lửng: “Bất tất nhiên”!* (Chúng tôi nhấn mạnh – DT). Người hỏi ông Hoàng Hữu Nam:
- Hai chị ấy tên là gì?
Ông Hoàng Hữu Nam trình bày:
- Dạ… Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức, thưa Bác.
- Chú mời hai chị em cô ấy gặp tôi, chú Tư (Vũ Đình Huỳnh) sẽ sắp xếp ngày giờ gặp…
Ông Hoàng Hữu Nam tươi cười kể lại với Bác là chị Giá, chị Thức bày tỏ xin được gặp Cụ Hồ, nhưng chưa dám hứa chắc vào lúc nào…
Sau buổi làm việc này, ông Vũ Đình Huỳnh trao đổi với ông Hoàng Hữu Nam, Hồ Chủ tịch sẽ tiếp “thân nhân Cụ Phạm” vào cuối buổi sáng ngày 31/8/1945 tại phòng khách Bắc Bộ phủ.
Ngày 31/8/1945, buổi sáng Hồ Chủ tịch rà xét lần cuối bản thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Ông Nguyễn Hữu Đang, Trưởng ban tổ chức ngày lễ Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 và bốn người nữa đến báo cáo với Hồ Chủ tịch về công việc chuẩn bị cho ngày lễ…
Đến 10 giờ 30 phút, ông Hoàng Hữu Nam báo với ông Vũ Đình Huỳnh: “Đã mời thân nhân Cụ Phạm đến, đang ở phòng khách…”. Cụ Vũ Đình Huỳnh khi kể lại với tôi sự việc này, cụ nói trầm trầm như tâm sự: “Tôi nghe danh ông Phạm Quỳnh từ một bỉnh bút, chủ nhiệm, chủ bút báo Nam Phong và Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức. Có đôi lần nhìn thấy ông khăn xếp áo the, kính trắng đi từ trụ sở Nam Phong phố Hàng Da, qua Hàng Bông đến trụ sở Khai Trí Tiến Đức, phố Hàng Trống, bên hồ Hoàn Kiếm. Tôi có biết chị Phạm Thị Giá, vợ giáo sư Tôn Thất Bình dạy Pháp văn ở trường Thăng Long cùng với cụ Phó bảng Bùi Kỷ, dạy Hán văn; các giáo sư Hoàng Minh Giám dạy Pháp văn, giáo sư Đặng Thai Mai dạy Pháp văn, giáo sư Võ Nguyên Giáp dạy văn, sử, địa, giáo sư Vũ Đình Hòe dạy văn, giáo sư Nguyễn Xiển dạy toán, lý… Còn chị Phạm Thị Thức là vợ bác sĩ Đặng Vũ Hỷ, cùng quê Nam Định với tôi, lại còn thân thuộc nữa. Cho nên, cái phút giây tháp tùng Hồ Chủ tịch đến gặp chị Giá, chị Thức tôi bùi ngùi thấy hai chị rụt rè, sợ sệt, chỉ một thoáng, hai chị xúc động mạnh trước cử chỉ Hồ Chủ tịch cầm tay hai chị thân tình, an ủi và mời ngồi vào ghế đối diện với Người. Người nói:
- “Tôi ở chiến khu Việt Bắc mới về Hà Nội, nghe tin chẳng lành về Cụ nhà ở Huế…”. Hồ Chủ tịch ngừng giây lát, nói tiếp: “Trong lúc cuộc khởi nghĩa bùng nổ khó tránh được sự lầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi đang trên đường về Hà Nội (ngày 22/8/1945, Hồ Chủ tịch rời Tân Trào, Tuyên Quang). Chị Phạm Thị Giá trình bày sự việc cha bị bắt trong lúc đang làm việc tại nhà… Chị Phạm Thị Thức hai tay nâng phong thư lên Bác, Người nhận và chuyển sang tay cho tôi, dặn: “Chú chuyển sang Bộ Nội vụ”. Bác thân mật hỏi han hai chị em về tình hình gia đình ở trong Huế, ở Hà Nội…Người dặn: “Những việc hai cháu vừa đề đạt, hai cháu sẽ trực tiếp gặp ông Hoàng Hữu Nam, Bộ Nội vụ nhá…”.
Đồng chí Bảy (Luật sư Phan Mỹ) Đổng lý văn phòng vào thỉnh thị Chủ tịch… Người đưa tay cầm chặt bàn tay chị Giá, chị Thức: – “Hai chị em về nhá, tôi có việc khẩn…”
Việc hai người con gái đầu của Phạm Quỳnh xin và được Hồ Chủ tịch tiếp từ 11 giờ sáng ngày 31/8/1945 đã được chính người chị là cụ Phạm Thị Giá sau này thuật lại tỉ mỉ như sau trong bài của nhà báo Phạm Tôn Phạm Quỳnh,
Người nặng lòng với nước, đăng trên nguyệt san Công giáo và Dân t
ộc, cơ quan của Ủy ban Đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh, số 140, tháng 8/2006, từ trang 99 đến trang 116, và bài Người nặng lòng với nước, đăng trên tạp chí Xưa và Nay, cơ quan của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 267, tháng 9/2006, từ trang 15 đến trang 20.
* Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội 1992) thì Bất tất nhiên có nghĩa là: “Không nhất định phải như thế, có thể ra cách khác được.”
Khi nghe tin Phạm Quỳnh bị bắt, các bà Phạm Thị Giá, Phạm Thị Thức là hai con gái lớn của ông, đến văn phòng Bộ Nội vụ tìm gặp người quen là ông Hoàng Hữu Nam, tức Phan Bôi, bấy giờ là Thứ trưởng Bộ Nội vụ và Chánh văn phòng Phủ Chủ tịch, xin cho vào Huế đón mẹ và các em ra Hà Nội. Ông Nam khuyên không nên vào trong lúc này, vì nhân dân đang nổi dậy, vào có khi lại bị bắt giữ lôi thôi, không có lợi. Muốn đón cụ bà và gia đình ra thì để ông “tư” vào trong ấy. (Sau đó, gia đình đã được đưa ra Hà Nội an toàn) [1]. Còn nếu muốn gửi thuốc men cho cụ ông thì cứ gói lại và đề ở ngoài là gửi cho “Thầy tôi”, tự ông sẽ cho chuyển đến tận tay. Hai chị em cũng được ông Nam giải thích rõ là: “Vì nay bọn Pháp đang tìm cụ để lợi dụng, nên chúng tôi giữ cụ lại nơi yên ổn thôi.” Hai chị em còn ngỏ ý xin được gặp cụ Hồ. Ông Nam nhận lời sẽ bố trí một hôm nào đó cho được gặp “ít phút thôi, trình bày ngắn gọn, kẻo Cụ ít thời giờ lắm.” Thái độ thân ái chân tình của ông Nam khiến hai bà cảm động và yên lòng, tin tưởng ở cách mạng.

Sau đó ít ngày, có giấy của Bộ Nội vụ báo Cụ Hồ nhận tiếp hai chị em vào 11 giờ ngày thứ sáu 31/8/1945, tại Bắc Bộ Phủ. Hai bà được đưa đến chờ ở một phòng rộng, lòng hồi hộp, lo lắng và sợ hãi nữa. Một lát sau thì Cụ ra, mặc áo kaki, đi dép lốp, đi đứng nhanh nhẹn; có ông Vũ Đình Huỳnh là thư ký riêng theo sau. Hai chị em đứng lên chào Cụ, Cụ bắt tay và mời ngồi. Cụ hỏi thăm thì hai chị em trình bày việc cha bị bắt và trình lên Cụ một phong thư kể rõ sự việc. Cụ Hồ nói: “Trong lúc khởi nghĩa, cũng không sao tránh được sự nhầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi còn đang ở trên Việt Bắc.” (Chiều 26/8/1945, Hồ Chủ tịch mới về đến Hà Nội, nhà số 48 phố Hàng Ngang) [2]. Cụ còn hỏi thăm gia đình được bao nhiêu anh chị em. Rồi cầm phong thư đưa cho ông Vũ Đình Huỳnh và nói: “Tôi sẽ chuyển qua Bộ Nội vụ.” Lúc đó, có người báo có đoàn đến xin gặp Cụ. Hai chị em đứng lên chào Cụ thì Cụ lại bắt tay một lần nữa rồi mới đi… Chuyện xảy ra đã lâu, mà đến năm 1988, đã 75 tuổi, cụ Phạm Thị Giá còn nhớ rõ từng chi tiết như vậy. Lòng nhân ái của cán bộ cách mạng và chính Cụ Hồ đã khiến hai chị em ngày ấy cảm động, quý mến vô cùng. Sau này lại càng khiến hai bà không sao hiểu nổi những sự việc đau lòng xảy ra sau đó.”
Điều này chứng tỏ đã là sự thật thì trước sau gì cũng được xác nhận từ các góc nhìn của những nhân chứng rất khác nhau. Thời đầu Cách mạng thật trong sáng. Chính quyền và nhân dân thật gần gũi. Người đứng đầu chính quyền Cách mạng lúc ấy dẫu bận trăm công nghìn việc, vẫn sẵn sàng, chân tình tiếp và lắng nghe tiếng nói của người dân, dù họ “thuộc diện có vấn đề”, không hề né tránh, để những bức xúc của người dân rơi vào “sự im lặng đáng sợ” như sau này.
Bức thư mà hai bà đưa cho Hồ Chủ tịch là do Phạm Khuê, con trai Phạm Quỳnh, hồi ấy còn là sinh viên trường Y Hà Nội, chấp bút viết theo ý của cả ba chị em, sau khi nghe tin cha bị bắt ở Huế. Sau này ông trở thành bác sĩ, đại úy Quân đội Nhân dân Việt Nam, Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, giảng viên trường đại học Y Hà Nội, rồi Viện trưởng Viện Lão Khoa Việt Nam, Hội trưởng đầu tiên của Hội Người Cao Tuổi Việt Nam, được phong Nhà giáo Nhân dân, là đại biểu Quốc hội khóa X ứng cử tại quê cha Hải Dương với số phiếu cao nhất. Bấy giờ, nhạc sĩ Phạm Tuyên mới 15 tuổi, sống với mẹ và gia đình ở Huế, sau mới ra Hà Nội ở với chị cả Phạm Thị Giá.
D.T

Chú thích:

[1] Những người trong gia đình Phạm Quỳnh từ Huế ra Hà Nội đến ở nhà số 5 phố Hàng Da hồi đó gồm có: vợ Phạm Quỳnh, con cả Phạm Giao và bà vợ hai cùng ba người con là Quý (5 tuổi), Kim (3 tuổi), Loan (2 tuổi), Phạm Bích, Phạm Khuê, Phạm Tuyên (15 tuổi), Phạm Thị Hoàn, Phạm Thị Giễm, Phạm Thị Lệ, Phạm Tuân (9 tuổi), Phạm Thị Viên (7 tuổi). Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, giao thông còn khó khăn, tình hình xã hội chưa ổn định mà đưa được một số người đông như thế (trong đó có năm trẻ em dưới mười tuổi) vượt nửa đất nước ra đến Hà Nội an toàn, mạnh khỏe, đồ đạc mang theo nguyên vẹn, chính là nhờ sự giúp đỡ của chính quyền cách mạng non trẻ, do chính ông Hoàng Hữu Nam (Phan Bôi) đã thực hiện lời hứa “tư” vào trong ấy giải quyết.
[2] Vũ Kỳ: Nhớ mùa thu năm ấy, báo Nhân Dân, ngày 2/9/2000
VỀ TÊN SONG THÂN SINH RA VỢ PHẠM QUỲNH VÀ ÔNG NỘI CỦA PHẠM QUỲNH
Dã Thảo
Bà Lê Thị Vân là con gái cả của ông ký lục Lê Văn Chấn, hiệu Đào Hùng và bà vợ họ Hoàng. Do ông Chấn có tên là một quẻ trong Kinh Dịch, lại có tên hiệu là Hùng, cho nên có nhiều tư liệu viết lầm tên ông là Lê Văn Hùng, căn cứ theo luận văn trình Đại học Sorbonne bà Phạm Thị Ngoạn viết bằng tiếng Pháp từ những năm 70 thế kỷ trước nhan đề Introduction au Nam Phong. Bà là con Phạm Quỳnh, nhưng ở nước ngoài, lại viết trong thời gian đang chiến tranh, không có điều kiện xác minh. Sai sót là dễ thông cảm. Còn bà vợ ông Chấn cũng thường được các tư liệu ghi là Hoàng Thị Ký. Ngày xưa, người đàn bà đã có chồng thường được gọi theo tên chồng, hoặc chức vụ, nghề nghiệp của chồng, chứ ít ai biết tên thời con gái của họ. Ví như bà phán A, bà đốc B, bà giáo C… đều là như vậy. Trường hợp bà vợ ông ký lục Lê Văn Chấn cũng thế. Bà họ Hoàng, là vợ ông ký lục, thì thường được gọi là bà ký, hoặc bà ký họ Hoàng. Ký là chức vụ của chồng, không phải tên bà vợ. Một lý do cho ta tin chắc rằng ông chồng tên là Chấn là khi sinh con út là trai, ông đã đặt tên con là Tốn, cũng là tên một quẻ trong Kinh Dịch lại kế ngay sau của tên ông (Càn, khảm, cấn, Chấn, Tốn, ly, khôn, đoài.) Tên con trai thường đặt có liên hệ với tên cha là lệ thường ngày trước.
Cái tên cậu út Lê Văn Tốn này còn là chìa khóa để xác minh tên của một người nữa. Đó là tên ông nội Phạm Quỳnh. Có tài liệu viết là Phạm Tốn, tức Thịnh, lại có tài liệu viết là Phạm Chu hay Phạm Chuyên. Chúng tôi thấy gọi tên ông là Phạm Tốn là chính xác. Chứng cứ là cậu út Lê Văn Tốn, sau khi chị cả Lê Thị Vân lấy chồng là Phạm Quỳnh, cháu nội cụ Phạm Tốn thì phải đổi tên thành Lê Văn Xuân, chỉ vì trùng tên với người bề trên là ông nội ông anh rể. Cái tên Lê Văn Xuân này coi như là tên chính thức, mất hẳn tên Lê Văn Tốn. Về sau, đi làm ông được hàm cửu phẩm thì mọi người đều gọi ông là ông Cửu Xuân. Và ngay trong thư Phạm Quỳnh hồi mới làm thượng thư được một năm, viết gửi Chánh mật thám Đông Dương là Louis Marty đề nghị can thiệp giảm án hoặc tha cho em ông chủ hãng thuốc Lào Giang Ký, bị giam ở nhà tù Hỏa Lò Hà Nội “vì hoạt động cộng sản”, cũng giới thiệu: người cầm thư này đến ngài là Lê Văn Xuân, em vợ tôi. Điều này chứng tỏ cái tên Lê Văn Xuân được dùng làm tên chính thức của ông Lê Văn Tốn, vì ai dám giỡn với chánh mật thám Đông Dương thời ấy.
Cụ Phạm Tốn thì lúc sinh thời cũng như khi đã qua đời đều được gọi là ông Cả, vợ được gọi là bà Cả. Vì ông chưa từng đỗ đạt gì khi còn sống, mặc dù cũng học rộng và làm nghề dạy học. Khi ông thi lần cuối thì bị cảm, mất ở trong lều thi, người ta xem ống quyển thấy bài vở đã làm xong nên cứ trình quan giám khảo chấm. Ông được đỗ tú tài. Nhưng khi ấy, ông đã qua đời ở tuổi còn rất trẻ. Con trai ông, thân sinh Phạm Quỳnh, cũng mất khi còn trẻ.
Chúng tôi là người rất thân cận với gia đình Phạm Quỳnh, tự thấy có nhiệm vụ nói cho rõ những sự việc mà người ngoài, dù có đi sâu nghiên cứu sách vở, tư liệu cũng khó lòng biết được. Xin thành thật trình bày cả ra đây mong góp phần để các bạn quan tâm đến học giả Phạm Quỳnh có thêm tư liệu chính xác tham khảo.
Thành phố Hồ Chí Minh 25/7/2010.
D.T
TÌM HIỂU PHẠM QUỲNH
TƯ LIỆU VỀ VỤ "PHẠM QUỲNH HẤT CẲNG NGÔ ĐÌNH DIỆM" CỦA D.GRANDCLÉMENT
Dã Thảo
Lời dẫn của Phạm Tôn: Trước đây, khi tìm tư liệu về vụ “Phạm Quỳnh hất cẳng Ngô Đình Diệm”, chúng tôi may mắn tìm được quyển Bao Daï ou les derniers jours de l’empire d’Annam của Daniel Grandclément do nhà xuất bản JC Lattès mới cho ra mắt năm 1997. Chúng tôi quá mừng, vì tưởng đây là của hiếm, hàng độc, ít người biết, cho nên sử dụng ngay, không khỏi có chút “tự hào”… Nhưng, mới đây, đi hiệu sách thì thấy sách ấy đã dịch ra tiếng ta với nhan đề Bảo Đại hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam. Bản tôi mua được in năm 2009 đã là… bản “In lần thứ 3” của Nhà xuất bản Phụ Nữ, Hà Nội. Như vậy là không ít người đã biết tư liệu “quý hiếm” ấy từ lâu… trước khi Blog PhamTon đăng bài Có hay không vụ Phạm Quỳnh hất cẳng Ngô Đình Diệm của chúng tôi.
Nhưng, nghĩ rằng, chắc chắn còn không ít bạn đọc muốn biết rõ vấn đề mà chưa có dịp đọc, hôm nay, Blog PhamTon xin trích đăng những đoạn liên quan đến vụ này theo bản của Nhà xuất bản Phụ Nữ do Nguyễn Văn Sự dịch, trên các trang 37, 38, 40, 41, 43, 44, 45 và 46.
(Trang 37) Không biết từ lúc nào, Ngô Đình Diệm chỉ một mực suy nghĩ. Đầu hơi cúi xuống mặt bàn, ông dán mắt chăm chú đọc trang nhất của tờ Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương). Tên ông được nêu lên mặt báo đến hàng chục lần. Báo chí được ông cung cấp thông tin đã tôn ông là anh hùng, đã thừa nhận ông là người bảo vệ tích cực nhất nếu không phải là duy nhất nền văn hóa Việt Nam. Ông Diệm là một thượng thư. Không phải trong số những nhân vật kém vai vế nhất. Đó là bộ Lại, lo nội trị, bổ dụng quan chức đầu tỉnh. Sau ngày trở về Việt Nam, vua Bảo Đại lập nội các dân sự (…) (Trang 38) Cha ông, Ngô Đình Khả trước đây đã làm phụ chính cho vua Thành Thái, vị Hoàng đế bị phế truất rồi bị lưu đày ở đảo Réunion. Cả gia đình ông Diệm sau đó không được vua nối ngôi là Khải Định tin dùng nữa.
Ông Diệm không phải không biết rằng mọi ý định cải cách của ông, có thể dẫn đến thất sủng như cha ông. Một lát nữa, các em ông sẽ đến. Họ đều có thế lực, học vấn uyên bác, tập hợp quanh ông, bảo vệ ông là người đề ra học thuyết, là linh hồn của gia đình. Họ có năm người, một người là linh mục, một người là Ngô Đình Khôi cũng làm quan, người thứ ba là Ngô Đình Nhu, một trí thức tốt nghiệp trường Pháp điển, nơi đây được tiếp cận nhiều nguồn tư liệu về lịch sử nước Pháp nhất là những “bí quyết” làm nên sức mạnh của nước Pháp. Còn một người em nữa là Ngô Đình Luyện, sau này sẽ làm đại sứ lâu năm ở Paris là một trong những bạn bè thân thiết của Bảo Đại. Bấy nhiêu con người tạo nên một khối liên kết rất chặt chẽ bằng những mối quan hệ ruột thịt lại vừa đồng nhất hoàn toàn về quan điểm.
Dần dần trong những tháng đầu tiên của triều đại Bảo Đại, họ là biểu tượng cho nước An Nam cổ xưa đối chọi với những ý tưởng tân tiến của Nhà vua và của các bạn người Pháp (…)
(Trang 40) Tuy nhiên một vài biện pháp canh tân, ít quan trọng, mức độ vừa phải, đã gắn với tên tuổi Bảo Đại.
(…) Sau cùng ông (Bảo Đại – DT chú) cải tổ chế độ quan trường, gây nên sự chống đối của ông Diệm.
Ở xứ An Nam không có tầng lớp quý tộc nhưng có hàng ngũ các quan lại. Họ là đại diện cho Vua, được lựa (Trang 41) chọn qua các kỳ thi của sĩ phu. Nhiệm vụ của họ là tổ chức việc thi hành các chỉ dụ của Triều đình, các quyết định của cấp trên. Trải qua nhiều thế kỷ địa vị của họ vẫn vững vàng. Không có một xó xỉnh nào trong triều mà không có quan lại mặc áo dài lam.
Họ không bị ai kiểm soát. Họ là những ông chủ có quyền lực tuyệt đối trong địa phương được giao cho họ cai quản. (…) Cuộc sống của họ buồn tẻ, u sầu, thường lười biếng, nhưng bổng lộc khá vì người đứng đầu nền hành chính địa phương không phải mở sổ kế toán hay bất kỳ sổ sách nào. Và chỉ toàn là danh vọng. Đi đâu đã có võng lọng, lính vác cờ đi trước, lính hộ vệ theo sau. Như mọi viên chức mẫn cán, đường công danh của họ rộng mở, tuần tự thăng tiến. Họ thanh thản, bình tâm hơn các bạn đồng nghiệp Pháp của họ. Mặc chiếc áo dài lam thẳng nếp, họ không bị những người dân lam lũ nào đến gần để quấy rầy, họ không phải lo sợ bị trừng phạt và rất hiếm khi bị truy cứu trách nhiệm. (…)
(Trang 43). Việc điều hành nhà nước tùy thuộc vào lớp trí thức này. Văn chương, ý tưởng và truyền thống vẫn ngự trị trong cuộc sống tinh thần của người dân trong nước.
Điều gây nên sự giận dữ của ông Diệm là việc ông Eugène Chatel, Khâm sứ Trung Kỳ và Phạm Quỳnh, Tổng lý Ngự tiền văn phòng muốn tước bỏ quyền tư pháp của các quan An Nam, nghĩa là không cho họ được quyền xét xử. Lý do được nêu ra là các quan An Nam thiếu kiến thức luật học (DT nhấn mạnh). Nhưng đây là một đòn (Trang 44) nặng giáng vào hàng ngũ quan lại vì làm mất phần lớn thu nhập của các quan từ các vụ kiện cáo dân sự lẫn xét xử hình sự. Nạn hối lộ là chuyện phổ biến trong quan trường.
Diệm phải bảo vệ lợi ích của giới mình nên đấu tranh đơn thương độc mã (DT nhấn mạnh), trong tiểu ban cải cách để ngăn chặn cuộc cải cách không đúng lúc của Chatel-Phạm Quỳnh. Ông ta cũng đề ra nhiều sáng kiến canh tân. Ông là người tiên phong nhưng không hiểu biết nhiều về những thủ đoạn chính trị. Ông đưa cả biên bản họp tiểu ban cải cách cho báo chí.[1]
Báo La Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương) ra ngày 21 tháng 7 năm 1933 miêu tả cuộc đấu tranh không cân sức giữa Ngô Đình Diệm – một con người thật thà được lòng dân, có khả năng và Toàn quyền Pierre Pasquier, một con người phản động kỳ cựu, tươi cười mà bền bỉ…
Còn Bảo Đại thì sao? Nhà vua luôn luôn kiên quyết ủng hộ phong trào cải cách nhưng “chắc chắn phải là dưới ảnh hưởng của Pháp”. Ông ủng hộ Pasquier, Chatel và Phạm Quỳnh.
Thế mà sao Vua lại dùng ông Diệm là người ông không ưa và phản đối cái thói phường hội gia đình trị của ông ta.
Sau khi đưa Diệm vào nội các, Bảo Đại cho rằng (Trang 45) muốn cải cách gì đi nữa cũng cần có các quan lại trong triều làm hậu thuẫn. Đảm bảo hậu thuẫn ấy không ai bằng Diệm. Ngay từ đầu khi nắm quyền bính, giúp việc Nhà vua tất cả chỉ có sáu vị thượng thư và đảm nhiệm mọi lĩnh vực triều chính. Diệm, vị tân thượng thư họ Ngô xem ra không thích hợp với vai trò mới. Ông cũng là một ông quan, nguyên là tuần vũ Phan Thiết. (…) Viên thượng thư công giáo này vừa nghiêm khắc trong công việc, vừa khắc khổ trong tác phong. Ông cũng đấu tranh để cải tổ triều chính nhưng theo một phương hướng không làm vừa lòng chính quyền bảo hộ. Ông muốn được độc lập hơn, nhất là giảm bớt quyền lực của người Pháp.
Trong lúc này ông Diệm vẫn cắm cúi làm việc. Trong tòa nhà dành riêng cho bộ của ông, ông ưa ngồi một mình trong thư phòng. Sau lưng ông chiếc thập giá khẳng định đức tin của ông. Ông quay vào cái thập giá, quỳ xuống và lẩm nhẩm đọc kinh.
Cho đến khi một viên thư lại bước vào phòng ông mới đứng dậy, đưa tay đón phong thư do người thư lại kính cẩn đệ trình. Ông mở ra. Đó là thư của Toàn quyền Đông Dương. Đọc xong, ông bàng hoàng khiến ông làm dấu thánh và lại quỳ xuống dưới chân thánh giá. Công văn báo tin ông bị thải hồi. Louis Marty lúc đó là Chánh sở Liêm phóng và Nha chính trị Đông (Trang 46) Dương đã phát hiện được một bức thư của Diệm gửi cho các báo và lập tức ông báo cáo ngay lại cho Toàn quyền Đông Dương. Theo quy tắc hành chính, ông Diệm đã phạm sai lầm nghiêm trọng (DT nhấn mạnh).
(…) Không những ông Diệm phải từ chức mà bị cách tuột khỏi hàng ngũ quan lại trong triều (DT nhấn mạnh). Từ đó Diệm oán hận đối với Bảo Đại và cả triều đình, kéo dài cho đến 22 năm sau mới tìm lối thoát bằng một cuộc trưng cầu dân ý giả hiệu để phế truất Bảo Đại. Vị thượng thư bị thải hồi, số phận thật trớ trêu ông phải đi dạy tiếng Pháp kiếm sống. Sau đó ông tìm được việc làm ở nhà thờ Thiên hựu, nơi các cha cố trong Hội truyền giáo nước ngoài ở Huế làm việc.
Và cuộc cải cách sẽ được thực hiện cũng như phần lớn các biện pháp do Chatel đề ra…
Tháng 5-2010.
D.T

Nam Phong ra đời và tiến triển - Phạm Thị Ngoạn
Đọc ở đây:

Nam Phong ra đời và tiến triển - Phạm Thị Ngoạn

Phạm Minh, chắt nội của Phạm Quỳnh, biên đạo và diễn viên ba lê nổi tiếng (Bài viết riêng tặng cháu Phạm Minh)
Phạm Tôn
Lời dẫn của Phạm Tôn: Trong Blog PhamTon tuần thứ 1 tháng 5/2010, chúng tôi có đăng bài Phạm Vinh, đích tôn của Phạm Quỳnh, trọn đời là anh bộ đội Cụ Hồ. Cuối bài, có nhắc đến Phạm Minh, con trai ông và cũng là diễn viên ba lê múa đơn kiêm biên đạo nổi tiếng. Nhiều bạn đã gởi email và gọi điện thoại ngỏ ý mong được biết rõ hơn con đường dẫn người chắt nội này của học giả Phạm Quỳnh đến với nghệ thuật hàn lâm và thành đạt khi tuổi đời còn rất trẻ.
Hôm nay, chúng tôi xin đáp ứng phần nào yêu cầu đó của bạn đọc thân mến của blog PhamTon.
Phạm Quỳnh là nhà văn hóa lớn, ông có tài về cả văn học nghệ thuật và khoa học. Đến đời các con ông, thì mặt khoa học xem ra phát triển mạnh hơn. Người là luật sư, người là bác sĩ, dược sĩ, người là nhà nghiên cứu văn học. Tuy hầu như tất cả các con ông đều ham mê văn học nghệ thuật, người dàn giỏi, người hát hay, người làm thơ, người vẽ tranh… Nhưng, chỉ là để làm phong phú hơn cuộc sống làm khoa học của mình. Chỉ có một người hiến trọn đời mình cho nghệ thuật âm nhạc, đó là nhạc sĩ Phạm Tuyên. Đến đời các cháu ông, cũng thế. Xu hướng khoa học át hẳn xu hướng văn học nghệ thuật. Tuy thế, vẫn có người quản lý đoàn nghệ thuật, dạy nhạc, đàn pi-a-no… có người viết báo mê văn, có kiến trúc sư sành đàn ghi ta và vẽ tranh đẹp, có nhà giáo nhân dân hát hay… Và hầu như, mọi người đều thích hát, nghe nhạc.. Chỉ đến đời các chắt của ông, mới xuất hiện một con người như sinh ra chỉ để làm nghệ thuật. Mà lại là một nghệ thuật hàn lâm, cao siêu, chuyên sâu: múa ba lê. Đó là Phạm Minh, con trai đích tôn Phạm Vinhcủa ông. Phạm Minh như sinh ra chỉ để múa, mà là múa ba lê.
Phạm Minh sinh ngày 4/10/1974, tại Hà Nội, trong khu văn công Mai Dịch. Khi đất nước hoàn toàn giải phóng, em mới hơn nửa tuổi. Và bấy giờ, bố Phạm Vinh của em, người “trọn đời là anh bộ đội Cụ Hồ” đang tiếp quản Sài Gòn. Với cương vị phó đoàn Văn công Quân giải phóng Trường Sơn, rồi đoàn Văn công Quân khu II. Những ngày bố Vinh về thăm nhà, Phạm Minh mới biết có bố sống bên mình sướng đến thế nào…

Được hơn ba năm, Phạm Minh mới gần tròn năm tuổi, thì tối 7/9/1979, bố Vinh đi dự liên hoan mừng thắng lợi của đơn vị và cũng là buổi đơn vị cũ thân thương tiễn anh lên nhận chức vụ mới, cao hơn. Sáng hôm sau, bé Minh ngơ ngác thấy bố không về và mắt mẹ và hai chị cứ đỏ hoe. Các cô, chú trong khu văn công thì nức nở: “Bà Vinh ơi, thương bà quá”. Minh hiểu, mọi người nói “Bà Vinh” là nói về bố em, người vốn rất yêu thương chăm sóc chu đáo đồng đội. Mẹ bảo: “Đêm qua, bố ngủ lại với đồng đội sau buổi liên hoan chia tay. Sáng nay, bố không dậy nữa”.
Dần dần, Phạm Minh mới hiểu thế là em mất bố Vinh thật rồi…
Trước cặp mắt ngây thơ của em, mẹ và chị cả gọi người đến bán dần bán mòn “các đồ vật có giá” quen thuộc với gia đình từ khi “đổi đời” mấy năm nay. Tivi, tủ lạnh, ra-đi-ô, rồi đến cả quạt máy, bàn là…lần lượt ra đi… Các bữa cơm hằng ngày cũng nhiều rau đậu hơn thịt cá. Em không hiểu vì sao khi cả nước vui mừng, các gia đình trong khu văn công quân đội đời sống ngày càng đầy đủ hơn, vui vẻ hơn thì nhà mình lại buồn bã suy tàn thế này. Mẹ là diễn viên múa đơn xinh đẹp mà nay xơ xác lo chạy ăn hằng ngày. Các chị lặng lẽ học và giúp mẹ làm việc nhà; ai cũng ít nói, cười…Tuy thế, mẹ Lương vẫn lo cho em đi học nhạc tại Trường Nghệ thuật Hà Nội. Nhưng lại học vi-ô-lông. Không cho theo nghề múa vất vả của mẹ. Minh được học nhạc là mừng rồi, học chăm và được trường cấp giấy khen. Bấy giờ, em mới tám, chín tuổi.
Còn hai tháng nữa thì em tròn mười tuổi. Bấy giờ Bộ Văn hóa có tổ chức thi tuyển để chọn những thiếu nhi có năng khiếu về múa, đưa đi đào tạo ở nước ngoài. Mong tránh cho con khỏi phải khổ vì theo cái nghiệp của mẹ, bà Lương đã giấu, không cho Minh biết. Bà lại đang là chính trị viên phó Đoàn Ca múa Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam thì nếu dự thi, Minh càng dễ trúng tuyển.
Nhưng bà mẹ thương con và lo xa ấy không hề biết tới tâm trạng u buồn lâu nay của cậu con út luôn đau đáu “tìm cách cứu mình, cứu nhà” và một lòng lo chuyện kế nghiệp múa của mẹ yêu quý.
Hằng ngày, Phạm Minh vẫn chăm chỉ đi xe buýt từ nhà đến trường học vi-ô-lông; còn học cả cách trốn vé xe cho đỡ tốn tiền mẹ. Nhưng rồi, chẳng biết bằng cách nào, Phạm Minh nghe ngóng được tin có cuộc thi tuyển định mệnh đó. Có lẽ, do đó là một tin làm chấn động cả Khu văn công Mai Dịch. Em nằng nặc đòi mẹ cho dự thi. Mẹ em đành bảo là em có học múa bao giờ đâu mà dự thi, vả lại hạn đăng ký thi cũng đã hết từ lâu rồi… Chẳng ngờ, thấy mẹ không phản đối, chỉ nêu lý do khó khăn này nọ, Minh bèn tìm cách khắc phục. Khăn quàng đỏ trên vai, cậu bé gầy gò, nhỏ bé, lầm lũi đi bộ đến nơi dự thi. Thì khi ấy, cuộc thi đã qua hai vòng rồi. Bây giờ là vòng cuối. Phạm Minh hớt hải chạy đến nài nỉ ban tổ chức, vốn có nhiều người trong ngành múa quen biết bố, mẹ em. Thương tình cậu bé nhiệt tình, quyết tâm, đang mồ hôi mồ kê nhễ nhại đến xin dự thi, họ báo cáo lại và được ban giám khảo chấp thuận cho em vào thi thằng vòng ba. Thật không ai ngờ: Phạm Minh trúng tuyển ngay, lại còn được chuyên gia giám khảo khen là “có cả năng khiếu về múa lẫn âm nhạc”. Sau này, bà Vũ Thị Lương, mẹ em xúc động kể lại: “Hôm ấy, tôi thấy cu cậu ôm một tập hồ sơ về, vừa bước vào nhà vừa khóc thút thít. Tôi nghĩ là cháu bị trượt nên khóc; mà trượt thì cũng phải thôi, có học hành tập tành gì đâu, tôi định lựa lời an ủi… Về sau, mới biết, chỉ khóc vì tủi thân: “Ai cũng có bố, mẹ đưa đón, còn con thì lủi thủi một mình đến, lại lủi thủi một mình về.” Cháu đỗ rồi, tôi không muốn xa con, sợ con vất vả suốt đời với nghiệp múa mình đã trải qua, nhưng cũng đành chiều ý con”.
Mới chín, mười tuổi đầu, Phạm Minh lại một mình sang nước bạn xa xôi giá lạnh để quyết nối nghiệp mẹ, hiến thân cho nghệ thuật múa.
Suốt tám năm ròng rã học ở Trường múa của Nhà hát Hàn lâm quốc gia Ki-ép (U-crai-na) cái nôi lớn đào tạo diễn viên ba lê nổi tiếng thế giới, Phạm Minh đã cố gắng học cho được những bước cơ bản nhất của nghệ thuật múa hàn lâm này. Không có gì ngoài học bổng ít ỏi, không trông chờ gì vào chi viện của gia đình ba miệng ăn chỉ trông vào đồng lương ít ỏi của mẹ, cũng không theo bạn bè “dạy khôn” học buôn bán kiếm tiền. Em chỉ lo học tập, miệt mài học tập, mà chỉ học một môn múa ba lê mà càng ngày em càng say mê, cảm thấy như mình sinh ra chỉ là để múa ba lê vậy. Có lần, viết thư về cho mẹ ở Hà Nội, Phạm Minh thành thật bày tỏ: “Mẹ ơi, con không thể từ bỏ ba lê!” Càng ngày em càng được thầy cô ưu ái, các vị giáo sư đầu ngành ở Ki-ép này đã không tiếc công sức chỉ bảo cho cậu học trò Việt Nam, cả từ chuyên môn múa đến những việc nhỏ nhặt nhất trong đời sống hằng ngày của một diễn viên ba lê. Ở đây, Phạm Minh học thiên về múa cổ điển. Sau khi tốt nghiệp xuất sắc với tấm bằng đỏ, thầy cô muốn giữ lại trường, nhưng Minh nghĩ là muốn phát triển thêm thì phải qua biểu diễn thực tế trên sàn diễn thật nhiều, đồng thời phải biết kết hợp giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Anh đành lòng từ chối nơi mình từng lưu luyến cả người lẫn cảnh và tìm cách gia nhập một vũ đoàn thực sự.
May mắn đến với anh khi trường cử học sinh xuất sắc của mình dự Cuộc thi Ba lê Quốc tế tại Vác-na (Bun-ga-ri).
Phạm 
Minh vào tới vòng hai trong ba vòng, không được giải. Anh bình tĩnh nói với các chuyên gia ở đây là: “Tôi không phải là một trong số những người xuất sắc ở đây, bị loại là điều không thể tránh khỏi…”. Nhưng không ngờ, chính thái độ bình tĩnh của chàng trai Việt Nam 18 tuổi ấy đã khiến một vị trong Ban giám khảo xúc động. Ông Robert Barthier, người Pháp, giám đốc Đoàn Ba lê Trẻ Pháp (Jeune ballet de France - JBK) đã thấy được những khả năng thần kỳ tiềm ẩn trong cặp chân của Phạm Minh. Sau này, năm 1993, khi sang Việt Nam chỉ đạo đoàn biểu diễn, ông nói với giới báo chí Việt Nam: “Chúng tôi thấy cậu bé Việt Nam có đôi chân rất đặc biệt, nhất là trong các điệu cổ điển và cũng có rất nhiều khả năng để sau này múa hiện đại. (…) chúng tôi thích cậu ấy.” Phạm Minh được nhận vào đoàn ba lê của ông.
Đoàn này thật có một không hai: chỉ nhận học sinh từ 16 đến 22 tuổi, đã học múa mà chưa biểu diễn chuyên nghiệp, gồm cả thanh niên Pháp và các nước khác, đào tạo trong đúng một năm, sau đó giới thiệu cho các đoàn múa chuyên nghiệp. Trong năm này, học sinh biểu diễn trên 170 buổi. Phạm Minh nhờ được rèn luyện trong một môi trường múa chuyên nghiệp như vậy mà thành tài.
Năm 1994, lại một bước ngoặt quyết định nữa trong cuộc đời nghệ thuật của Phạm Minh. Anh là một trong ba người được chọn vào Nhà hát Le Ballet Capitole de Toulouse (Pháp) qua cuộc thi tuyển năm sáu chục người tài năng. Phạm Minh sớm được đảm nhiệm vai diễn chính trong các vở đặc sắc của George Balanchine, Peter Martine, Nacho Duato, Richard Tannuer, JC Blavier, Antony Todor… Anh vào các vai Albrecht trong Giselle (phóng tác của N.Glushak), vai hoàng tử trong Cô bé Lọ Lem của D.Dean, vai Franz trong Camella của Martinez và Kẹp Hạt Dẻ trong vở cùng tên của M.Rhan. Với kỹ thuật múa ba lê cổ điển điêu luyện gây ấn tượng và một phong cách múa thanh thoát, trẻ trung, tự nhiên, nhiều báo chí Pháp và thế giới đã ca ngợi Phạm Minh là một diễn viên múa đơn xuất sắc trong số những diễn viên ba lê nổi tiếng của Nhà hát Capitole lừng danh thế giới.
Năm 1993, Phạm Minh và Đoàn Ba lê Trẻ Pháp đã về biểu diễn ở nước ta. Đoàn biểu diễn buổi đầu tiên tại Cung văn hóa Việt Xô ngày 25/4/1993. Sau đợt biểu diễn ở Hà Nội đến hết tháng 5, đoàn đi nhiều tỉnh và thành phố lớn, đặc biệt là diễn cho công nhân khu mỏ Quảng Ninh. Năm 2003, Phạm Minh về nước cùng Đoàn ba lê Capitole, biểu diễn hai tối 30 và 31 tháng 8, tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Anh múa đơn, với kỹ thuật ba lê cổ điển, điêu luyện, gây ấn tượng và với phong cách độc đáo của riêng anh thanh thoát, trẻ trung và tự nhiên đã chinh phục khán giả Hà Nội, đặc biệt là thanh niên và sinh viên được xem với giá vé giảm tới 50%. Trong hai tối 6 và 7 tháng 9/2006, Phạm Minh, nghệ sĩ múa đơn số 1 từ hơn 10 năm nay của Nhà hát Capitole Toulouse dàn dựng vở Mùa xuân thiêng liêng của N.Roerich, ra mắt tại Nhà hát lớn Hà Nội. Đoàn múa Capitole Toulouse (Pháp) trình diễn cùng với các nghệ sĩ múa của Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội. Đây là chương trình hợp tác giữa Trung tâm văn hóa Pháp tại Hà Nội, Nhà hát Nhạc Vũ kịch Việt Nam và Dự án Hỗ trợ phát triển văn hóa Việt Nam. Năm 2008, Phạm Minh lại về nước, chỉ đạo các nghệ sĩ múa ba lê của Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam trình diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội hai tối 27 và 28 tháng 8/2008 tiết mục Người đãng trí (Amnesta) của Roderick Vanderstraen do anh biên đạo trong Đêm Ba lê hiện đại Khúc Giao Mùa.
Chắt nội Phạm Minh của nhà văn hóa Phạm Quỳnh, con trai của hai nghệ sĩ - chiến sĩ Điện Biên Phủ Phạm Minh và Vũ Thị Lương, dù đi nhiều nước trên thế giới, danh tiếng cũng đã vang khá xa khi tuổi đời còn trẻ, nhưng bao giờ anh cũng luôn tâm niệm một điều là “Đi đến bất cứ nơi nào, mình và những người bạn của mình đều cố gắng làm mọi việc đạt kết quả cao nhất để nói lên rằng người Việt Nam rất tốt, rất giỏi”.
Tại Hà Nội, anh đã gặp nhạc sĩ Phạm Tuyên, ông trẻ của mình, một người cũng hiến thân cho nghệ thuật. Và khi nhắc tới tấm gương sáng của nhà văn hóa Phạm Quỳnh, Cụ của Phạm Minh, anh càng thấy rõ hơn con đường hiến thân cho nghệ thuật của mình còn dài lắm.
Và cao hơn cả hiến thân cho nghệ thuật nữa là hiến thân cho Tổ quốc Việt Nam muôn vàn yêu quý của chúng ta.
PHẠM VINH, ĐÍCH TÔN CỦA PHẠM QUỲNH,
TRỌN ĐỜI XỨNG DANH "ANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ"
(Bài viết tặng chị Vũ Thị Lương và các cháu Phạm Mai Hương, Phạm Lan Phương và Phạm Minh)
Phạm Tôn
Lâu nay, khi nói về học giả, nhà văn hóa Phạm Quỳnh, ta thường thấy nhắc tới các con Ông, nhất là Giáo sư bác sĩ Nhà giáo Nhân dân, Đại biểu Quốc hội Phạm Khuê, Viện trưởng cũng là người sáng lập ra Viện Lão Khoa và ngành lão khoa Việt Nam, Chủ tịch đầu tiên của Hội Người cao tuổi Việt Nam. Và cũng không ai quên nhắc tới nhạc sĩ Phạm Tuyên, người đã viết lên bài ca khải hoàn mà toàn thể người dân Việt Nam từ trẻ đến già và cũng không ít bầu bạn năm châu đều thuộc là Như có Bác trong ngày đại thắng, tác giả của hơn sáu trăm ca khúc và hiện là Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Hà Nội, ông cũng là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhạc sĩ Việt Nam từ ngày thành lập năm 1957.
Nhưng, những người viết thường quên, hoặc không biết đến thế hệ thứ ba, các cháu nội, ngoại của Ông. Mặc dù vất vả, khốn khó với “chủ nghĩa lí lịch” một thời ngăn cản, kìm hãm, thậm chí trù dập, không muốn cho họ có cơ hội thành đạt… nhưng, đến nay, các cháu nội, ngoại của nhà văn hóa Phạm Quỳnh đã có không ít người là giáo sư, phó giáo sư, nhà giáo nhân dân, tiến sĩ, viện trưởng viện này viện nọ ngay trên đất nước mình. Trong số đó, nổi bật nhất có một viện sĩ, giáo sư, tiến sĩ, Chủ nhiệm một ủy ban trong Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, từng ba khóa liền là ủy viên trung ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đó là chưa kể các cháu nội ngoại, vì lý do “tan đàn xẻ nghé” đau lòng năm 1945 ấy, đã phải ra sống ở nước ngoài, nay cũng nhiều người thành đạt, là cán bộ của Liên Hiệp Quốc, tổng giám đốc các công ty đa quốc gia lớn… Nói chung, tất cả đều là những con người lương thiện, không hề làm điều gì có hại cho dân cho nước mà người Ông đáng kính của họ đã dốc lòng phụng sự và suốt đời yêu quý. Tiêu biểu cho thế hệ thứ ba này là Phạm Vinh, đích tôn của nhà văn hóa Phạm Quỳnh, người đã trọn đời là một anh bộ đội Cụ Hồ.
Trong bức ảnh mừng sinh nhật hai cụ đồng tuổi Nhâm Thìn tổ chức tại gia đình ở Huế năm 1934, dễ nhận thấy ngay chú bé hai tuổi đứng giữa ông, bà, ngay sát chân ông là Phạm Vinh, đích tôn của hai ông bà Phạm Quỳnh – Lê Thị Vân.
Phạm Vinh sinh ngày 21/5/1932, tại nhà số 5 phố Hàng Da Hà Nội, trụ sở tòa soạn tạp chí Nam Phong, khi Phạm Quỳnh vẫn còn làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Năm 1938, bố mẹ li dị vì không còn hợp nhau nữa, nhưng Phạm Vinh vẫn cùng mẹ và em sống với gia đình Phạm Quỳnh ở Huế, tại biệt thự Hoa Đường. Đến năm 1943, ba mẹ con mới ra Hà Nội sống với bên ngoại. Năm 1945, sau Cách Mạng Tháng Tám, bên nội ly tán, Phạm Vinh mới 13 tuổi đã phải xa cả bố lẫn mẹ. Rồi năm 1946, mới 14 tuổi đã thành nhân viên kế toán cho Công binh xưởng K6 Cục Quân giới, liên khu 11 đến gần hết năm 1947 thì được về sống cùng với mẹ và các em tại Vĩnh Yên để đi học tiếp đến gần hết năm 1948. Rồi trường Lục quân khóa 6 về đóng tại trường học Vĩnh Yên, thế là đích tôn của Phạm Quỳnh xin nhập ngũ ngay ngày 4/3/1950, công binh khóa 6 trường Lục quân, học tại Trung Quốc. Vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 20/10/1950, được công nhận là đảng viên chính thức ngày 18/5/1951. Xong khóa học, thì về nước, được phát hiện “có năng khiếu văn nghệ”, nên đưa vào đoàn Văn công F.351. Những năm 1951 đến 1953, anh đi biểu diễn phục vụ chiến sĩ các chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc, rồi Điện Biên Phủ. Và dự Hội diễn văn công toàn quân ở Việt Bắc (Thái Nguyên). Đến tháng 8/1954 thì về công tác tại Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị, tham gia tiếp quản tỉnh Nam Định, biểu diễn ở Thái Bình, Nam Định, Phát Diệm và toàn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Từ tháng 6 đến tháng 11 năm 1957, đi biểu diễn ở bốn nước Xã Hội Chủ Nghĩa anh em: Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên, Liên Xô.
Về nước cuối năm 1957 đến năm 1958 đi biểu diễn phục vụ bộ đội các đơn vị ở Tây Bắc. 1958 đến 1963 cùng vợ là nghệ sĩ múa Vũ Thị Lương tham gia biểu diễn vở nhạc vũ kịch đầu tiên của nước ta Ngọn lửa Nghệ - Tĩnh ở miền Trung và miền Bắc. Năm 1962 đến 1965 Phạm Vinh mới có thời cơ về học nhạc chính qui tại Trường Âm nhạc Việt Nam. Tốt nghiệp trường nhạc, Phạm Vinh về Đoàn văn công Quân khu Việt Bắc và đến tháng 10/1969 thì về Đoàn văn công Quân giải phóng Trường Sơn, trực thuộc Bộ tư lệnh 559. Suốt 10 năm trời, đích tôn của nhà văn hóa Phạm Quỳnh là đoàn phó Đoàn Văn công Quân giải phóng Trường Sơn, thuộc Tổng cục Xây dựng Kinh tế, tham gia biểu diễn tại các mặt trận Quảng Trị, Vĩnh Linh, Khe Sanh, Đông Hà, Lào, Buôn Ma Thuột, ngay khi chiến sự còn đang diễn ra ác liệt. Anh luôn chăm sóc diễn viên một cách chu đáo, tỉ mỉ cho nên thường được diễn viên gọi thân mật là “Bà Vinh”, coi anh như bà mẹ luôn chăm lo cho các con , một người mẹ hiền, tốt bụng.
Sau ngày đại thắng 30/4/1975, các anh vào tiếp quản Sài Gòn. Từ đấy, Đoàn Văn công Quân giải phóng Trường Sơn chuyển thành Đoàn Văn công Quân khu II.
Ngày 7/9/1979, trong buổi liên hoan mừng công của đơn vị, cũng là để tiễn Phạm Vinh lên nhận chức vụ mới, cao hơn, anh vui vẻ chan hòa cùng đồng đội đã từng cùng nhau chia lửa, cất cao lời ca tiếng nhạc suốt hàng chục năm dài gian khổ. Đêm ấy, anh ngủ lại cùng đồng đội trước lúc chia tay. Không ngờ tất cả những gian khổ về vật chất, đau đớn về tinh thần mà anh đã chịu đựng để rồi vượt qua từ năm mới mười ba tuổi đầu, đã dồn cả lại khiến đêm ấy thành đêm cuối cùng anh nằm trong lòng đồng đội yêu thương. Sáng hôm sau, Phạm Vinh không dậy nữa, không bao giờ còn thấy lại đồng đội, mẹ và vợ con yêu thương. Năm ấy, anh mới 47 tuổi đời, nhưng đã có 29 tuổi quân và 29 tuổi Đảng.
Khi anh mất, nhiều đồng đội đã đau đớn thốt lên: “Bà Vinh ơi, thương bà quá”.
Sau này, bà Vũ Thị Lương, nguyên chính trị viên phó Đoàn Ca múa Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, vợ hiền của Phạm Vinh đã nhớ lại: “Anh sống cả cuộc đời trong quân ngũ cho đến hơi thở cuối cùng.
Anh là con người hiền hậu, tận tụy với công việc, một mình làm việc bằng ba người… Không hề bao giờ anh kêu ca, phàn nàn, mà kiên trì chịu đựng mọi gian khổ trong đời sống người lính, cống hiến cho quân đội không hề tiếc sức, dù có lúc từng bị trù dập cũng vẫn không nản chí, không oán trách. Nhưng tôi cũng cảm ơn quân đội đã công bằng nhìn nhận những thành tích của anh”. Tổng cục Chính trị và các Bộ tư lệnh Quân khu đã tặng anh quá nhiều bằng và giấy khen của Phòng Chính trị F351, Tổng cục Chính trị, Nhạc viện Hà Nội, Quân khu Việt Bắc, Đoàn Văn công Quân giải phóng Trường Sơn, Quân khu II, Tổng cục Xây dựng Kinh tế. Ngoài ra, Phạm Vinh còn được tặng một Huân chương Kháng chiến Chống Pháp hạng ba, ba Huân chương Chiến sĩ vẻ vang các hạng I, II, III, một huân chương Kháng chiến Chống Mỹ cứu nước hạng I, hai huân chương Chiến công Quân giải phóng và hai lần được bầu là chiến sĩ Thi đua.
Đêm 7 rạng ngày 8/9/1979, Phạm Vinh đột ngột ra đi nhẹ nhàng trong giấc ngủ, để lại cho vợ mẹ già và ba con nhỏ. Con trai út là Phạm Minh, bấy giờ mới gần năm tuổi. Cuộc sống gia đình thật chật vật, ăn bữa nay, lo bữa mai; những đồ đạc “có giá” như tủ lạnh, ti-vi, ra-đi-ô, bàn là, quạt máy… đều lần lượt “ra đi” để đổi lấy ngày ba bữa ăn đạm bạc. Vợ anh, chị diễn viên múa xinh đẹp năm nào, nay đầu tắt mặt tối suốt ngày với công tác và lo chạy ăn hằng ngày. Nhưng chị vẫn nuôi dạy con cái thành người có ích cho xã hội, sống lương thiện, tận tụy với dân với nước như cha các con.
Cậu út Phạm Minh sinh năm 1974, đến năm 1982 thì bà lo cho theo học vi ô lông tại Trường Nghệ thuật Hà Nội. Do có năng khiếu và cố gắng học tập đã được giấy khen của trường. Lúc đó em mới tám, chín tuổi. Đến tháng 8/1984, non mười tuổi thì em may mắn “lọt mắt xanh” một chuyên gia Liên Xô đến Hà Nội tuyển học sinh đào tạo diễn viên ba lê, nên được sang nhập học ở Trường Ba lê quốc gia Ki-ép (U-crai-na) đến tháng 6/1992. Tốt nghiệp với tấm bằng đỏ, sau 8 năm miệt mài học tập, em được Trường Ba lê quốc gia Ki-ép cử dự thi Cuộc thi múa ba lê quốc tế (International Ballet Competition) tại Vác-na (Bun-ga-ri). Vừa lúc em tròn 18 tuổi. Từ đó, Phạm Minh vào Đoàn Ba lê Trẻ Pháp (Le Jeune Ballet de France). Rồi tháng 8/1994, tròn 20 tuổi, Phạm Minh được chính thức mời về làm việc tại Nhà hát Ballet du Capitole de Toulouse vơi vai trò là diễn viên múa đơn số 1 (Premier Solist). Trong thời gian làm việc ở hai đoàn trên, Phạm Minh đã tham gia biểu diễn các gala ở Mỹ, I-ta-li-a, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Na Uy, Trung Quốc, Phi-li-pin, Thái Lan, Cu-ba, Vê-nê-duy-ê-la, Bờ Biển Ngà, Ba Lan và lãnh thổ Hồng Công…Từ năm 2005, Phạm Minh thường xuyên được mời sang Nhật Bản, dạy ba lê cho Architanz Dance Studio ở Tô-ki-ô (Nhật Bản). Tháng 9/2009, Phạm Minh được Ban Giám đốc Nhà hát Ballet du Capitole bổ nhiệm làm “Bậc thầy ba lê” (Maître de Ballet) của nhà hát.
Trong hai tối 6 và 7/9/2006 tại Nhà hát Lớn Hà Nội, đã ra mắt vở ba-lê nổi tiếng Mùa xuân thiêng liêng của N. Roerich do Phạm Minh đạo diễn. Đây là chương trình hợp tác giữa Trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà Nội (L’Espace) với Nhà hát nhạc vũ kịch Việt Nam và dự án Hỗ trợ phát triển Văn hóa Việt Nam. Tham gia biểu diễn có các nghệ sĩ của Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội và Phạm Minh, nghệ sĩ múa đơn số một từ mười năm nay của đoàn múa Capitole  (Toulouse, Pháp).
Thế là đứa chắt, con trai của đích tôn nhà văn hóa Phạm Quỳnh cũng đã trở về phục vụ nhân dân nước nhà.
Đến đây, có thể còn có người không hiểu vì sao con, cháu, chắt Phạm Quỳnh lại sống và làm việc như thế, trong khi nỗi đau bốn đời chưa được giải tỏa thỏa đáng… Sự thật giản dị hơn họ nghĩ nhiều. Con, cháu, chắt nhà văn hóa Phạm Quỳnh đều là những con người lương thiện, một lòng trung với nước, hiếu với dân như Ông suốt đời nêu gương và tin vào lời dặn lại của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng tám năm 1945 sau khi thảm kịch xảy ra với đại gia đình là: “Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này. Các con, cháu… cứ vững tâm đi theo cách mạng”.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng chạp năm Kỷ Sửu, tức 12/2/2010.
P.T 
KỶ LỤC GIA VỀ NGHIÊN CỨU PHẠM QUỲNH
Kỷ lục gia số 1: Nhà văn Thái Vũ, người phát hiện ra nhiều… vàng nhất ở nhà Phạm Quỳnh. (?!)
Dân Thường
Ngày nay, hầu như mở bất cứ báo ngày hay báo tuần nào ra là dễ dàng gặp nhan nhản những kỷ lục gia. Vì lẽ, thế giới thì có Kỷ Lục Guiness, còn Việt Nam ta thì cũng có Kỷ Lục Việt Nam, cũng làm lễ xác nhận, trao bằng công nhận hẳn hoi đâu kém người ta.
Tôi cứ nghĩ, tại sao trong một lĩnh vực rộng lớn như nghiên cứu về … Phạm Quỳnh, lại không có kỷ lục gia nào ư?
Tìm tòi rồi thì cũng tìm ra: kỷ lục gia số 1: Nhà văn Thái Vũ, người phát hiện ra nhiều…vàng nhất ở nhà Phạm Quỳnh. (?!).
Đầu đuôi thế này…
Nhà văn Thái Vũ được Tạp chí Hồn Việt số 16 tháng 10/2008 giới thiệu là: “Ông đã có mặt ở Huế vào những ngày Cách mạng Tháng tám và đã ghi lại một số ý kiến như là một chứng nhân (Chúng tôi nhấn mạnh - DT) của dòng lịch sử vốn rất phức tạp lúc đó…”. Trong bài của ông Về cái chết của ông Phạm Quỳnh (Hồn Việt số 16 tháng 10/2008) có nội dung giống hệt một bài cũng của ông, nhan đề Về cái chết của ông chủ bút Tạp chí Nam Phong đã đăng trước đó 3 năm trên Tiền Phong Chủ Nhật số 51 tháng 12/2005, nêu ra một sự việc chưa từng ai biết bao giờ. Ba năm trời, hơn một nghìn ngày, đủ chứng tỏ ông tin chắc vào những điều mình đã viết. Đó là khi sinh viên Trường Thanh niên tiền tuyến Phan Hàm đến bắt Phạm Quỳnh trưa 23/8/1945 thì: “Anh Phan Hàm ở dưới…khám nhà cả trên lầu, thấy ở tủ sách nhỏ của con gái Phạm Quỳnh (không biết của cô nào) vàng lá xếp đống (Chúng tôi nhấn mạnh - DT) trong đó. Niêm phong nhà lầu. Tất cả người nhà cụ Thượng họ Phạm kể cả cụ đều xuống nhà dưới. Đột nhiên, Phạm Quỳnh xin lên lầu lấy một “quả trầu” - vì cụ Thượng thường ăn trầu. Thật không ngờ dưới bàn để toàn vàng (Chúng tôi nhấn mạnh - DT)
Sinh viên Phan Hàm ngày ấy, sau này là thiếu tướng Phan Hàm đã có viết tay một tập tư liệu mười trang, đề ngày 8/11/1993, tuyên huấn Thừa Thiên Huế nhận chiều 14/11/1993, thì lại viết như sau:
“Tôi lục soát khắp nhà (Chúng tôi nhấn mạnh - DT) chẳng thấy súng đạn đâu cả, ngoài khẩu súng săn cỡ 12 ly của con trai ông ta và ít đạn săn. Con trai của ông ta là Phạm Khuê cũng đi dự mít tinh, ở nhà chỉ còn hai cô con gái là học sinh trường Khải Định trước đây” (…) “Đây là ý kiến tôi muốn đóng góp với những bản tổng kết quân sự, Đảng, chính quyền của tỉnh nhà.
Nhớ đâu viết đấy. Miễn là nói lên sự thật (Chúng tôi nhấn mạnh - DT)”.
Mười trang tư liệu mà thiếu tướng không hề có một chữ nào đả động đến số vàng khổng lồ mà nhà văn Thái Vũ… 60 năm sau đã “phát hiện” ra.
Tiếc thay cho nhà văn lão thành Thái Vũ, một tiểu thuyết gia chuyên viết về lịch sử, lại là “một chứng nhân” (chữ của tạp chí Hồn Việt) của thời đầu Cách Mạng Tháng Tám sôi động ở Huế, lại hai lần viết như thế.
Trong bài trả lời phỏng vấn của phóng viên Võ Thu Hương, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng trên số báo chủ nhật, mục Gặp gỡ cuối tuần ở trang 4, ngày 7/5/2006 nhà văn Thái Vũ đã nói: “Có nhiều nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử nhưng hiểu biết của họ còn rất hạn chế”. Và “bản thân chúng tôi, những người viết đề tài này chỉ luôn biết nghiêm khắc với trang viết của mình, để đưa ra công chúng và khi không được chấp nhận thì tự nghĩ rằng biết đâu, mai này, giới trẻ sẽ thích thú trước những câu chuyện lịch sử”. Và ông còn nhấn mạnh: “Không chỉ dồn công sức mà còn phải tuyệt đối trung thành với lịch sử, phải đề cao yếu tố lịch sử, CÒN NẾU KHÔNG THÌ NÊN GÁC BÚT!”. Thật hùng hồn thay, tâm huyết thay, thấm thía thay…
Không biết nhà văn Thái Vũ, hiện tuổi đã rất cao, đã chịu gác bút chưa?
Mong ông sáng suốt… cho giới trẻ và cả giới già nữa được nhờ.
Mong lắm thay…
31/7/2009
D.T
TƯ LIỆU CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG
VỀ MỐI THÂN TÌNH GIỮA NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH VỚI THƯỢNG CHI PHẠM QUỲNH

Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Sơn Tùng có nhã ý “ký thác” toàn bộ những sưu tầm của ông trong nhiều năm “Về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Thượng Chi - Phạm Quỳnh” mà ông trân trọng gọi là “bậc danh nhân văn hóa” cho “nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quí”. Tập tư liệu chép tay quý giá này tròn 20 trang, viết xong ngày 8/12/2008, tức 12/11 Mậu Tý, tại Hà Nội - Chiếu Văn.
Nay, nhà văn đã đồng ý với đề nghị của nhạc sĩ Phạm Tuyên, cho công bố những trang viết của ông trên blog của chúng tôi.
Từ hôm nay, chúng tôi xin trích đăng tập tư liệu với tiêu đề từng phần và lời dẫn, lời bình của chúng tôi.
Xin chân thành cảm ơn thâm tình của nhà văn và xin mời bạn đọc bắt đầu theo dõi tập tư liệu có một không hai này.
II. Ghi theo lời cụ Đào Nhật Vinh
CỤ ĐÀO NHẬT VINH - 13 phố Nguyễn An Ninh, quận 1 Sài Gòn - nay là quận 1 Tp. Hồ Chí Minh.
Cụ Đào Nhật Vinh quê Trực Ninh, Nam Định. Năm 1913, Đào Nhật Vinh cùng làm việc trên tàu Viễn Dương với Văn Ba - Nguyễn Tất Thành từ Le Havre, hải cảng ở Bắc Pháp quốc. Hành trình từ Tây qua Âu-Á-Phi-Mỹ, tận Argentine tới Terre de Feu. Đào Nhật Vinh có vốn chữ nho, chưa biết chữ quốc ngữ; “Anh Văn Ba dạy chữ quốc ngữ cho Đào Nhật Vinh và mấy anh em thủy thủ…
Năm 1919, ông Đào Nhật Vinh không làm việc trên tàu viễn dương nữa, đến thành phố Bordeaux lập gia đình, mở hàng ăn và vẫn thân giao với Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Paris cho đến năm 1923 khi Nguyễn Ái Quốc bí mật qua nước Nga - Xô Viết.
Mùa hè 1946, Hồ Chủ tịch Thượng khách thăm nước Pháp, ở lại Paris gần 4 tháng để “cứu vãn hòa bình”
– Cụ Đào Nhật Vinh ngày ấy là “Việt kiều yêu nước” với tình cố cựu cụ được gần gũi Bác trong thời gian này. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, cụ bị trục xuất về Sài Gòn.

Năm 1975, 30 tháng tư Sài Gòn và miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tôi vào Cố đô Huế, Phan Thiết, Sài Gòn, Sa Đéc, Cao Lãnh… để sưu tầm tư liệu Bác Hồ ngay từ tháng 5-1975. Nhờ nhà văn Lê Hương (một cơ sở Cách mạng ở Sài Gòn) đưa tôi tới 53C Cao Thắng, quận 3 gặp giáo sư Hồ Tường Vân, con gái nhà chí sĩ Hồ Tá Bang sáng lập viên Công ty Liên Thành và trường Dục Thanh, Phan Thiết do Duy Tân hội chủ xướng. Nhờ đây, tôi gặp được cụ Đào Nhật Vinh ở 13 phố Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành. Cụ đang ở tuổi 80 mà rất minh mẫn, có bộ nhớ nhiều tầng, có hệ thống và mạch lạc… sau những ngày làm việc với cụ, cụ tặng lại tôi những kỷ vật về Bác Hồ với cụ ngày còn làm việc ở nước ngoài. Đầu năm 1976 cụ về Hà Nội thăm cố hương, vào lăng viếng Bác Hồ

PHẦN 4: NGUYỄN ÁI QUỐC ĐÍCH THÂN TỔ CHỨC "BỮA CƠM BẮC, THẾT KHÁCH BẮC"
Lời dẫn của Phạm Tôn: Năm 1922, Phạm Quỳnh đi Pháp dự hội Đấu xảo thuộc địa tổ chức tại Marseille, có mang theo một cuốn nhật ký tùy thân nhỏ bằng bốn ngón tay. Trong đó có ghi: “Juillet, 13, Jeudi: ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Rue des Gobelins). Còn trên tạp chí Nam Phong, khi đăng Pháp Du Hành Trình Nhật Ký, ông viết công khai: “Thứ năm 13 tháng 7 năm 1922: (…) Chiều hôm nay, ăn cơm với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi nên bọn mình đến chơi không khỏi có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi! Nhưng, họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã lâu không được ăn cơm ta, ăn ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta thật là vui vẻ thỏa thích. Ăn no, uống say, cười cười nói nói… Mai là ngày hội kỷ niệm dân quốc (tức ngày quốc khánh Pháp 14/7 - PT chú)… Anh em đi dạo chơi một lượt các phố đông cho biết cái cảnh ngày hội của Paris thế nào
Cụ Đào Nhật Vinh bồi hồi kể: – Năm 1919 tôi rời đại dương, lên cạn sinh sống ở Bordeaux, nhưng tháng nào tôi cũng về Paris gặp anh Nguyễn Ái Quốc và thăm hai cụ “nghè ta” (Phan Châu Trinh) cụ “nghè Tây” (Phan Văn Trường) và anh em thủy thủ đã lên cạn làm ăn. Từ sau ngày Nguyễn Ái Quốc đưa ra “Tám yêu sách của người An Nam” đến Hội nghị Hòa Bình Versailles, anh em thợ thuyền, lính thợ và các giới khác đến 6 Villa des Gobelins với niềm ngưỡng vọng “Ngũ Hổ” – Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền.
Giữa năm 1921 đến giữa năm 1923 “điểm hẹn” Nguyễn Ái Quốc ở số 3 Marché des Patriaches. Mỗi kỳ báo Le Paria in ra, tôi đến gặp anh Nguyễn nhận báo, đưa về Bordeaux phát hành. Bà con người Việt mình nhận Le Paria đưa tiền rất hời để ủng hộ báo. Sôi động nhất, tháng 3/1922 vua Khải Định đến Paris và phái bộ dự “Hội Chợ Thuộc Địa” ở Marseille. Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài chế giễu vua Khải Định đăng trên các báo Le Paria, Le Journal du Peuple, L’Humanité (Báo Nhân Đạo của Đảng Cộng Sản Pháp – PT chú),…Những bài gây xôn xao nhất: Les lamentations de Trưng Trắc (Lời than vãn của bà Trưng Trắc - PT chú), đăng trên tờ báo L’Humanité số 24/6/1922; Les civilisateurs (Những nhà khai hóa - PT chú) số 22/6/1922 và bài Hygiène mental (Vệ sinh tinh thần - PT chú); La haine des races (Hận thù chủng tộc - PT chú)… Nguyễn Ái Quốc còn sáng tác vở Con Rông Tre, chưa in trên báo, mới công diễn một lần ở Club du Faubourg (Câu lạc bộ ngoại ô - PT chú) mà tiếng vang rộng lớn trong Việt kiều. Đặc biệt, nhà chí sĩ Phan Châu Trinh nhục mạ vua Khải định bằng “Thư Thất Điều” chữ nho. Cụ Phan Văn Trường chuyển sang chữ Pháp, ông Nguyễn chuyển sang quốc ngữ.
Thời gian này, nhà đương cục Pháp theo dõi, kiểm soát gắt gao người Việt và bắt làm “thẻ cá nhân”. Cụ Phan Châu Trinh ông Nguyễn Ái Quốc “được”A. Sarraut mời đến Bộ Thuộc địa “nhắc nhở”… Họ theo dõi chặt chẽ cụ Phan Châu Trinh, ông Nguyễn Ái Quốc không chỉ ở Paris mà cả ở hải cảng Marseille. “Hội Chợ Thuộc Địa” mở cửa từ đầu tháng 4/1922. Công việc chuẩn bị cho hội chợ từ tháng giêng. Cụ Phan Châu Trinh đến Marseille, ở tại nhà ông thợ ảnh Tạ Văn Cần, vợ đầm. Ông Nguyễn Ái Quốc có hôm cùng ở với cụ Phan tại nhà ông Cần, có hôm ở nơi khác và về Paris lo liệu công việc báo Le Paria.
Một nhóm anh em thợ thuyền, thủy thủ chúng tôi được nhận vào phục dịch Hội Chợ như anh Phan Hiếu Kính, anh Nguyễn Minh Quang, anh Vũ Văn Long… cho nên chúng tôi được đến gần các vị trong phái bộ tháp tùng nhà vua như: quan tuần phủ Cao Bằng Vi Văn Định, ông Phạm Quỳnh - Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức, ông Nguyễn Văn Vĩnh, một bỉnh bút lừng danh Đồng Văn Nhật Báo, Đông Dương Tạp Chí, Notre Journal, Notre Revue… Ông đã từng dự cuộc Đấu xảo Marseille 1906, ông Quỳnh quen biết cụ Phan Châu Trinh từ trường Đông Kinh Nghĩa Thục 1907, cụ cử Can là hiệu trưởng. Cho nên ông Phạm Quỳnh, ông Nguyễn Văn Vĩnh mấy lần đến nhà ông Tạ Văn Cần đàm đạo với cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc. Tôi được làm chân điếu đóm của các cụ. Có một cuộc đàm đạo, ông Bạch Thái Toàn cùng dự với bốn cụ. Bạch Thái Toàn là con trai cụ Bạch Thái Bưởi. Lúc khởi đầu trên sông nước của tôi là “bồi tàu” Trưng Trắc của Công ty Bạch Thái Bưởi. Chính vì vậy mà tôi được thân quen với ông Bạch Thái Toàn. Ông Toàn là thư ký “Hội Thân Ái” mà Nguyễn Ái Quốc là một trong những người lập hội. Nhờ ông Bạch Thái Toàn mà tôi biết được chút ít lai lịch của các cụ.
Đầu tháng 7/1922, tôi không còn nhớ chính xác là ngày nào, tôi trong hội chợ cùng với anh bạn đi ra phố thấy đằng phía trước ông Nguyễn Ái Quốc cùng ông Phạm Quỳnh đang sóng bước chốc chốc ghé đầu vào nhau có lẽ đang nói thầm… (Chúng tôi nhấn mạnh - PT). Tôi và anh bạn quay trở lại… chiều hôm ấy tôi về nhà ông Tạ Văn Cần, gặp cụ Phan và ông Nguyễn đang ở đây. Ông Nguyễn dặn nhỏ với tôi: thứ năm tuần tới, ngày 13/7, Vinh đến “cụ nghè Đông Ngạc” nhé. Đến sơm sớm, đó… Tức là tôi đến số 6 Villa des Gobelins, cụ nghè Đông Ngạc là tiến sĩ luật khoa Phan Văn Trường. Cách nói lóng này chỉ một số trong nhóm chúng tôi biết. Tôi đến sớm để làm “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc”. Tôi vừa làm bếp vừa tự hỏi - Không biết vị khách quý nào đến mà cụ nghè Tây (Phan Văn Trường) và Nguyễn Ái Quốc thết đãi, cụ Phan Châu Trinh bị cảm mạo nên không về Paris được. Hơn 8 giờ thấy ông Phạm Quỳnh tới. Ông Nguyễn Ái Quốc đợi ở cửa (Chúng tôi nhấn mạnh - PT) và đưa dẫn ông Phạm Quỳnh vào phòng. Tôi đem khay trà lên phòng mời khách. Chỉ có ba vị trong phòng thôi. Và ba vị đàm đạo tới 11 giờ, tôi cũng vừa sửa soạn xong bữa, mất công nhiều là món lòng lợn, rau thơm gia vị tầm cho ra được các thứ ấy không dễ. Có thịt gà luộc, canh chua, cá rán, thiếu rau muống luộc, cà pháo, tương Bần. Tôi được dự đồng bàn, đồng bữa với ba vị và hầu chuyện. Trong bữa ăn các vị không nói chuyện thời cuộc mà nói nhiều về phong hóa của nước nhà, tục lệ từng miền – và giữa bữa ăn tôi được ông Phạm Quỳnh khen: bữa cơm Việt món nào cũng ngon, đượm vị hương quan. Nhất là món lòng lợn, đặc biệt là món dồi.
Cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc gật gù tương đắc. Tôi chợt nhớ đến câu ca dao nói về món lòng lợn, buột miệng luôn:
Nhìn mặt mà đặt hình dong
Con lợn có béo, miếng lòng mới ngon
Đủ tim, gan, cổ hũ, ruột non…
Mà dồi lại dở chẳng ngon cỗ lòng
Cụ Phan vốn ít cười, đã phì cười. Ông Phạm nâng ly rượu lên nhìn tôi tươi cười và ông Nguyễn cùng nâng ly rượu, rồi cụ Phan cũng nâng ly chúc mừng. Ông Phạm Quỳnh nghiêm trang nói:
- Anh Đào Nhật Vinh đã hàng chục năm xông pha khắp chân trời, đáy biển nào Á, Âu, Phi, Mỹ mà hồn quê, quốc túy không phai mờ! Chúc mừng anh.
Ông Nguyễn Ái Quốc tập Kiều:
Đồng bàn, đồng bát, đồng bang
Hồn quê theo áng mây ngàn cố hương.
Anh Đào Nhật Vinh một đầu bếp ngoại hạng mà lại mở quán ăn bình dân!…”
Sau bữa cơm đầm ấm, tôi bái biệt cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc, ông Phạm Quỳnh rồi trở lại hải cảng Marseille.
Hà Nội - Chiếu Văn
8-12-2008
12/11 Mậu Tý
(Chữ ký và con dấu của nhà văn Sơn Tùng)
Lời bình của Phạm Tôn: Sáng 20/3/2009, tại Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh cùng Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học Nghiên cứu, xác minh tư liệu và địa chỉ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và hoạt động ở nước ngoài từ năm 1911-1941. Trong 43 tham luận của các nhà nghiên cứu, cán bộ bảo tàng gửi đến, có tham luận của Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc, nhan đề Những năm tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và hoạt động trên đất Pháp 1917-1923. Chúng tôi thiết nghĩ, những tư liêu của nhà văn Sơn Tùng như Nguyễn Ái Quốc đích thân tổ chức “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc” (thuật chuyện năm 1922 tại Marseille và Paris) và Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì… (thuật chuyện năm 1946 tại Fontainebleau), cả hai đều diễn ra trên đất Pháp, sẽ là những tư liệu bổ sung quý giá và hiếm có.
"ĐIỆP VIÊN ĐƠN TUYẾN"
­­­­­CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
(Một đoạn báo của giáo sư Văn khoa Đại học Nguyễn Văn Trung, tháng 9 năm 1999)
Lời dẫn của Phạm Tôn: Giáo sư Văn khoa Đại học Nguyễn Văn Trung từng nổi tiếng như cồn ở Sài Gòn thập niên 60 và 70 thế kỷ trước với các bài viết, các tập sách và cả các buổi diễn thuyết chống Phạm Quỳnh quyết liệt, sắc sảo đến mức “đào đất đổ đi”, “không đội trời chung”, nhất là trong tập sách Chủ Đích Nam Phong (Tủ sách Tìm về dân tộc của nhà xuất bản Trí Đăng, Sài Gòn phát hành 2000 bản, ngày 20/2/1975), một công trình phê bình chính trị, trong đó ông dành hết tâm trí để chứng minh rằng Phạm Quỳnh là: “tay sai chính trị, tay sai văn hóa của thực dân Pháp”.
Thế nhưng, tháng 9 năm 1999, trên tạp chí Đi Tới, xuất bản ở Montreal, Canada số đặc biệt về chủ đề “Phạm Quỳnh: Văn hào và Chính trị: Công hay Tội”, ông lại bất ngờ công bố một giả thuyết kỳ quặc đến mức nhà báo lão thành Mạc Kinh Trần Thế Xương dưới bút danh Người Luân Đôn ở tận thủ đô xứ sở sương mù đã phải đánh giá đoạn báo đó là “thần sầu quỷ khốc” và viết hẳn một bài báo dài ngót 14 trang giấy A4 nhan đề Đối diện với lương tâm trước vụ án văn học – chính trị về Cố học giả Phạm Quỳnh: GIÓ ĐÃ ĐỔI CHIỀU.
Để bạn đọc có tư liệu tham khảo nhiều chiều khi tìm hiểu về học giả Phạm Quỳnh, chúng tôi xin trích đăng đoạn báo đó và một phần trong Lời kết bài của giáo sư Nguyễn Văn Trung đăng trong số báo trên từ trang 8 đến trang 20 nhan đề Từ suy tôn Phạm Quỳnh đến đề cao thực dân thời hậu hiện đại. Đầu đề đoạn trích này là của chúng tôi.
Tóm lại xét về mặt nổi mặt chìm Phạm Quỳnh là người của địch nhưng có thể là người của ta gài trong hàng ngũ của địch (Chúng tôi nhấn mạnh - PT) hay không? Giả thuyết này có thể được nêu lên dựa vào tâm sự mà Phạm Quỳnh đã bày tỏ trong chuyến công du Pháp hồi 1922. Bất cứ người Việt Nam nào từ khi Việt Nam tiếp xúc với Tây phương và nước Pháp, có cơ hội ra nước ngoài sang Pháp đều có một lối nhìn thời cuộc khác với người chỉ ở trong nước. Qua những trang tâm sự Phạm Quỳnh cho biết:
Đời sống va chạm hằng ngày trong nước ở xa mới thấy những việc tưởng là quan hệ mà sau đó bần tiện nhỏ nhen, tranh ăn tranh nói, tranh uống tranh ngồi, v.v…
Ở Paris đầu óc mở ra đón nhận những trào lưu mới tiến bộ. Phạm Quỳnh đi nghe các buổi nói chuyện của phe tả Cộng sản, đi thăm đại học Sorbonne, trường sư phạm rồi than thở về thân phận học hành dang dở dở dang của mình và cả nước cũng là dở dang.
Nhận rõ chân tướng chế độ thực dân ở Việt Nam, những người Pháp thực dân khác hẳn người Pháp ở Pháp
Hiểu được tại sao người Việt ở Pháp chống thực dân và không thể có thái độ khác
Với tâm tình đó ông tìm gặp các ông Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc.
Trong bài du ký ông chỉ nhắc tới buổi gặp Phan Chu Trinh mà không nói tới những gặp gỡ khác đặc biệt với Nguyễn Ái Quốc. Chắc hẳn ông đã báo cáo với mật thám Pháp về những tiếp xúc này một cách nào đó cho khỏi bị nghi ngờ. Những ai đã có dịp gặp Nguyễn Ái Quốc bất kể là người Việt Nam hay người ngoại quốc đều thú nhận rất khó chống khả năng cảm hóa thuyết phục của Nguyễn Ái Quốc sau này là Hồ Chí Minh, một người thấm nhuần sách lược Lê-nin-nít. Có thể Nguyễn Ái Quốc, nhận thức được sự đóng góp đặc biệt của Phạm Quỳnh cho cách mạng Việt Nam ở cương vị một người cộng tác thân tín với giới lãnh đạo chính trị an ninh tình báo cấp cao nhất trong chính quyền thuộc địa, trao công tác cho Phạm Quỳnh mà bây giờ gọi là “ĐƠN TUYẾN” nghĩa là chỉ tiếp xúc nhận chỉ thị của một người khi cần đến, trong khi chờ đợi cứ năm vùng 10 năm, 20 năm hoàn thành xuất sắc tất cả các việc người Pháp trao để không bị nghi ngờ bất chấp những đố kị kết án là phản quốc Việt gian. THỜI ĐIỂM 1945-46 PHẠM QUỲNH CÓ THỂ XUÁT HIỆN VỚI BỘ MẶT THẬT (thì) BỊ CẤP DƯỚI GIẾT CHẾT. Khả năng bị thủ tiêu ở thời điểm này lại rất dễ xảy ra ngay cả với những người được triệu ra Bắc làm bộ trưởng như Lê Văn Hiến nếu không nhờ có can thiệp kịp thời.
Dĩ nhiên, đây hoàn toàn là một giả thuyết có thể phải đợi bao giờ một cuốn sử về Nguyễn Ái Quốc trung thực được công bố có nói đến tiếp xúc giữa ông và Phạm Quỳnh hồi ở Paris hoặc không bao giờ được kiểm chứng.
(…) Tình hình hiện nay có xu hướng tạm gác đánh giá Phạm Quỳnh về chính trị và lưu tâm tìm hiểu về sự nghiệp văn học của ông. Trong nước đã xuất bản những Truyện ngắn Nam Phong và chuẩn bị những trao đổi về mặt văn học (…) Việc nghiên cứu này không dựa vào những chứng từ như hồi ký, trả lời phỏng vấn… chỉ có giá trị tương đối nào đó, mà vào bút tích ghi trong hồ sơ hành chính lưu trữ ở văn khố Pháp, Nhật hay của bộ nội vụ ở Việt Nam. Hy vọng có thể phát hiện những sự kiện thuận lợi cho Phạm Quỳnh như xác nhận giả thuyết ông Nguyễn Ái Quốc móc nối Phạm Quỳnh và bức thư kết bằng những mẩu thuốc lá của những Đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng ở trong tù gửi cho ông Phạm Quỳnh đề nghị can thiệp với Pháp thay án tử hình đối với nhóm Nguyễn Thái Học được xác minh ông Phạm Quỳnh có can thiệp… (những đoạn in đậm là do chúng tôi nhấn mạnh - PT)
Montreal, đầu tháng 8/1999
TƯ LIỆU CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG VỀ MỐI THÂN TÌNH GIỮA NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH VỚI THƯỢNG CHI PHẠM QUỲNH
Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Sơn Tùng có nhã ý “ký thác” toàn bộ những sưu tầm của ông trong nhiều năm “Về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Thượng Chi - Phạm Quỳnh” mà ông trân trọng gọi là “bậc danh nhân văn hóa” cho “nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quý”. Tập tư liệu chép tay quý giá này tròn 20 trang, viết xong ngày 8/12/2008, tức 12/11 Mậu Tý, tại Hà Nội - Chiếu Văn.
Nay, nhà văn đã đồng ý với đề nghị của nhạc sĩ Phạm Tuyên, cho công bố những trang viết của ông trên blog của chúng tôi.
Từ hôm nay, chúng tôi xin trích đăng tập tư liệu với tiêu đề từng phần và lời dẫn, lời bình của chúng tôi.
Xin chân thành cảm ơn thâm tình của nhà văn và xin mời bạn đọc bắt đầu theo dõi tập tư liệu có một không hai này.
PHẦN 2: "GIẾT MỘT HỌC GIẢ NHƯ VẬY THÌ NHÂN DÂN TA ĐƯỢC GÌ? CÁCH MẠNG ĐƯỢC LỢI ÍCH GÌ? (…) ĐÓ KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI XẤU!"
Lời dẫn của Phạm Tôn: Những lời nói ngay từ tháng 9/1945 khẳng định chắc chắn, dứt khoát ấy của Hồ Chủ tịch đã được thuật lại rõ ràng trong bài Phạm Quỳnh, Người nặng lòng với nước, đăng trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số 140, tháng 8/2006 và bài Người nặng lòng với nước, đăng trên tạp chí Xưa và Nay số 267, tháng 9/2006.
Sau khi thoái vị, cựu hoàng Bảo Đại - Vĩnh Thụy nhận lời mời Hồ Chủ tịch ra Hà Nội, ngày 4/9/1945. Ngay hôm sau, ngày 5/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghênh tiếp cựu hoàng Bảo Đại - Vĩnh Thụy tại Bắc Bộ phủ từ 8-9 giờ. Và ngày 10/9 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 23/SL cử ông Vĩnh Thụy làm cố vấn Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Tiếp theo, các vị cựu Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đoàn, cựu Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, cựu Tổng đốc Vi Văn Định, cựu Tổng đốc Hồ Đắc Điềm ứng đáp lời mời Hồ Chủ tịch ra gánh vác việc nước. Trong thời khắc này ông Tôn Quang Phiệt, chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên - Huế, ông đến nhà số 8 Lê Thái Tổ bên Hồ Gươm gặp Bác Hồ (từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, Bác ở nhà 48 Hàng Ngang của ông bà Trịnh Văn Bô - Hoàng Thị Minh Hồ một nhà tư sản yêu nước, danh nho. Bác viết Tuyên Ngôn Độc Lập tại đây. Sau ngày người đọc Tuyên Ngôn Độc Lập 2/9, Bác về ở nhà số 8 phố vua Lê Thái Tổ, hằng ngày đến Bắc Bộ phủ làm việc).
Ông Vũ Đình Huỳnh kể:
- Ông chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên-Huế Tôn Quang Phiệt đến Bắc Bộ phủ, đồng chí thường trực văn phòng đưa khách vào phòng đợi rồi đến báo với tôi. Tôn Quang Phiệt, một danh sĩ tôi nghe tiếng từ lâu, nay mới gặp lần đầu. Hai chúng tôi tay bắt mặt mừng… Anh xin được gặp Ông Cụ, nhiều vấn đề phải thưa ngay với Cụ. Tôi hẹn anh Tôn Quang Phiệt, hiện giờ Ông Cụ đang bàn công việc khẩn, tướng Lư Hán đến Hà Nội rồi. Sáng mai Ông Cụ hội đàm với Lư Hán… Tôi vào phòng họp, báo với Bác: – Ông Tôn Quang Phiệt trong Huế ra đang ở phòng khách, xin Bác cho gặp chiều hôm nay, có được không. Lúc nói đến ông Tôn Quang Phiệt, Bác và anh Võ Nguyên Giáp đều biểu lộ sự vui mừng tái ngộ. Bác nói: - Ông Tôn Quang Phiệt là chỗ quen biết. Ngày còn nhỏ, tôi theo cha lên Võ Liệt, Nguyệt Bồng huyện Thanh Chương để học, Tôn Quang Phiệt bấy giờ độ 4,5 tuổi… Chú Tư hẹn với chú Phiệt đúng 16 giờ gặp nhau ở “Bát số” (số 8, phố vua Lê Thái Tổ - tiếng lóng, mật hiệu). Chiều hôm ấy, Hồ Chủ tịch làm việc với ông Tôn Quang Phiệt tại đây. Chính trong buổi làm việc này, ông Tôn Quang Phiệt báo với Hồ Chủ tịch: “Cụ Phạm Quỳnh đã bị khử mất rồi!” (Chúng tôi nhấn mạnh - PT) Bác thu hai cánh tay vào sát ngực tựa lên mặt bàn, lặng ngắt một lúc…Người nói: “Giết một học giả như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được lợi ích gì?” Người duỗi hai tay ra mặt bàn: “Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm ở Pháp! Đó không phải là người xấu!”
PHẦN 3: "LÚC NÀY CÒN CỤ PHẠM QUỲNH THÌ…"
Hồ Chủ tịch, Thượng khách thăm chính thức nước Cộng hòa Pháp từ 31/5 đến 20/9/1946. Ông Vũ Đình Huỳnh tháp tùng Hồ Chủ tịch. Ông Vũ Đình Huỳnh vừa nói, vừa mở tập Nhật ký hành trình của Hồ Chủ tịch bốn tháng sang Pháp - Đ.H viết là sở cứ:…“Pháp không chịu công nhận Việt Nam độc lập mở chiến tranh xâm lược ở Nam Bộ từ 23/9/1945 đang lan rộng ra Nam Trung Bộ mà lại mời Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thượng khách thăm chính thức nước Pháp, đó là điều chưa từng có trong lịch sử. Còn kỳ lạ hơn, sau lễ đón nghi thức nguyên thủ quốc gia tại phi trường Le Bourget ngày 22/6/1946, Hồ Chủ tịch về nhà khách chính phủ Royal Monceau. Tại đây, liên tiếp các chính khách, các nhà văn hóa danh tiếng, các tướng lĩnh, các văn nghệ sĩ, báo giới, các đảng lớn ở Pháp… đến chào Hồ Chủ tịch.
Người đến chào Hồ Chủ tịch đầu tiên là Đại tướng Juin, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp. Rồi Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại Moutet, Bộ trưởng Justin Godart, nhà kiến trúc sư danh tiếng Francis Jourdain, giáo sư nghị viện Privet CTS Paillet, tướng Petit, chủ tịch báo giới Cộng hòa Pháp Bayet, trạng sư Nordman, văn sĩ Bloch, bà Cotton lãnh tụ phụ nữ Dân chủ. Điều lạ là, Đảng Cộng hòa bình dân (MRP- đảng của thủ tướng Bidault) do ông Schuman chủ tịch đảng dẫn đầu đoàn, ông Francisque Gay - Bộ trưởng, ông Michelet - Bộ trưởng, ông Collin ủy viên trung ương, ông Gortais ủy viên trung ương, ông Debey - ủy viên trung ương, ông Ammury ủy viên trung ương, ông Terrenoir - ủy viên trung ương, ông Max André - trưởng đoàn đại biểu Pháp, Hội nghị Việt Pháp tại Fontainebleau. Kế đến là đoàn Đảng Xã hội Pháp đến chào Hồ Chủ tịch gồm có bà Morty Capgras, ông Moutet - Bộ trưởng, ông Philip-Bộ trưởng, ông Luyssy nghị viên, ông Rosenfeld- Viện sĩ, ông Boutbrien- bác sĩ và các ủy viên trung ương Roux, Stble, Dechezelles… Hồ Chủ tịch từng sinh hoạt trong đảng Xã hội… các vị vui chuyện với Người suốt 8 giờ tối đến 2 giờ sáng… Đoàn Đảng Cộng sản Pháp: Hai ông bà Cachin, Thorez Phó chủ tịch chính phủ, bà Braun Phó chủ tịch Quốc hội, bà Jeannette Vemersche nghị viên, bà Vaillant Couturier nghị viên, Duclos Phó chủ tịch Quốc hội, Marty ủy viên trung ương, Mauvais ủy viên trung ương, Billoux Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Tillon Bộ trưởng Bộ quân khí…
Một đoàn văn sĩ, thi sĩ lừng danh thế giới đến chào Hồ Chủ tịch: Triolet, Aragon, Richard Bloch, Boene, Moussinac, Masson, Séghers, Pierre Emmanuel. Ông bà Joliot Curie hai nhà bác học thế giới đến chào Hồ Chủ tịch rất thân tình, đàm đạo gần hai tiếng đồng hồ. Về sau, hai nhà bác học Joliot Curie còn gặp Hồ Chủ tịch mấy lần… Lại…không thể tưởng tượng nổi, nhà danh họa Picasso gặp Hồ Chủ tịch ôm choàng lấy nhau hồi lâu! Vừa hàn huyên Picasso vừa ký họa chân dung Hồ Chủ tịch. Bức chân dung lịch sử ấy người giao cho tôi cất giữ. Hơn hai mươi năm sau tôi gặp họa, bị khám nhà nên không còn nữa.
Đến như cựu Toàn quyền Đông Dương hai lần A.Saraut cùng với con rể là Thượng sứ Sainteny đến chào Chủ tịch Hồ Chí Minh và ôm chặt lấy Nguyễn Ái Quốc năm xưa trước quan khách trong bữa tiệc long trọng!
Trước ngày khai mạc hội nghị Việt – Pháp tại Fontainebleau, Hồ Chủ tịch gặp mặt tất cả phái đoàn: ông Phan Anh, ông Bửu Hội, ông Hoàng Minh Giám, ông Nguyễn Văn Huyên, ông Trịnh Văn Bính, ông Dương Bạch Mai, ông Nguyễn Mạnh Hà, ông Tạ Quang Bửu, ông Đặng Phúc Thông, ông Huỳnh Thiện Lộc, ông Chu Bá Phượng, ông Hoàng Văn Đức. Trưởng đoàn là ông Phạm Văn Đồng. Lúc các thành viên đoàn Việt Nam vào đủ trong phòng, Hồ Chủ tịch nói với ông Phạm Văn Đồng, có ông Đỗ Đình Thiện và tôi (Vũ Đình Huỳnh): “Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì…” (Chúng tôi nhấn mạnh - PT). Người im lặng. Ông Đồng đáp lời: “Bất tất nhiên, Bác đã nói rồi mà!…” (Chúng tôi nhấn mạnh - PT). Mà cũng chỉ có Bác Hồ! Sau khi ở Pháp về, ngày 4/12/1945, trong phiên họp Chính phủ Người đề nghị trợ cấp hằng tháng cho hai bà Thành Thái, Duy Tân mỗi bà 500 đồng Đông Dương
Lời bình của Phạm Tôn: Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu năm nay 89 tuổi, vừa nhận giải thưởng “Nghiên cứu – 2008” của Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh, công nhận thành tựu suốt đời của cụ. Trong một lần vui chuyện cụ đã kể cho chúng tôi: Năm nọ, thành phố Hồ Chí Minh có yêu cầu Giáo sư Trần Văn Giàu và cụ chủ biên một tập sách giới thiệu toàn diện về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Khi cùng làm việc với nhau, bỗng một hôm Giáo sư Trần Văn Giàu thở dài: “Giá như bây giờ còn cụ Phạm Quỳnh, có phải là đỡ không…” Câu nói ấy vô tình gần giống hệt lời Hồ Chủ tịch nói năm 1946, trước ngày khai mạc Hội nghị Việt Pháp tại Fontainebleau trên đất Pháp.
ÔNG QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC

Nhà báo lão thành Đặng Minh Phương tỏ ra có con mắt tinh đời khi trích dẫn đoạn văn sau đây: “Làm báo Nam Phong, Phạm Quỳnh cũng được phụ cấp 600 đồng một tháng, món này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ là để rồi lấy danh nghĩa chính phủ Nam triều đòi Pháp phải trở lại hiệp ước 1884. Vậy một người yêu nước như Phạm Quỳnh, sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng qua chỉ là làm một việc miễn cưỡng, trái với ý muốn, để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn, chứ thực tình là một người dân mất nước, ai không đau đớn, ai không khóc thầm”. Đó là một đoạn văn có trọng lượng trích trong tác phẩm Đời viết văn của tôi của nhà văn Việt Nam nổi tiếng Nguyễn Công Hoan, phần ông viết rõ lý do vì sao ông viết nên thiên kiệt tác Kép Tư Bền: Đó là vì ông thương… Phạm Quỳnh! (Nhà xuất bản Văn học Hà Nội, năm 1971). Có điều đáng tiếc là nhà báo lại gán đoạn đó cho Phạm Tôn, khiến cho Phạm Tôn mang tiếng “đạo văn” khi ông viết: “ông Phạm Tôn trên báo Xưa và Nay tháng 9-2006 viết” trước khi đưa ra đoạn văn trên. Sau đoạn văn trên ông còn thòng thêm một câu hóm hỉnh: “(xin được lưu ý ông Phạm Tôn là ông Phạm Quỳnh từng nói nước ta còn mà!)”. Quả tình Phạm Tôn tôi thuộc thế hệ sinh sau đẻ muộn, không có hiểu biết, cũng không đủ tầm cỡ để viết những dòng nặng ký như thế… Nhưng nhân được người trên quan tâm như vậy, chúng tôi cũng xin bày tỏ vài điều chân thật, không phải ai cũng biết cả.

Phạm Quỳnh là con nhà nho, cháu nhà nho, chắt nhà nho, mà đều là nhà nho nghèo, loại hàn sĩ cả. Từ cụ Dưỡng Am Phạm Hội (trích Gia phả họ Hoàng Đạo- Phụ: bên ngoại, do rể: Hoàng Đạo Thành bái ghi, môn đệ tử: Tô Ngọc Huê thủ thức, tôn sinh: Ngô Văn Dạng phụng viết, Hoàng Đạo Thúy kính dịch từ chữ Hán) đến ông nội rồi cha đẻ đều dạy học mà không thu học phí, chỉ sống với những gì học trò đem biếu, khi thì thúng gạo, rổ khoai, lúc con gà, con cá, mớ rau. Chín tháng mất mẹ, bà nội và bà cụ tú cho hưởng thừa tự phải bế đi bú chực nhà hàng xóm. Rồi chín tuổi mất cha, gia đình khốn khó, hai cụ phải bòn những quả ổi, quả bồ hòn trong vườn nhỏ sau nhà đem bày bán trước cửa cùng mớ hàng xén lặt vặt để có cái cơm cháo qua ngày nuôi cháu khôn lớn. Sau đó lại lo cháu “Không có cái chữ thì làm sao sống được với đời”, bèn cho theo học trường tiểu học Pháp Việt mới mở ở phố Hàng Bông gần nhà (Hoàng Đạo Thúy: Phố phường Hà Nội xưa, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 2000). Chỉ vì ở đấy học không mất tiền. Rồi tiếp đến lại học Trường Thông ngôn (Collège Des Interprètes) ở bờ sông Hồng, cũng lại vì học ở đấy không mất tiền!
Nghèo khổ như thế lại ham học và có hiếu với hai bà cụ, Phạm Quỳnh chỉ mong cố gắng học để đổi đời, đền đáp ơn hai bà nuôi dạy. Mặt khác “Ông, cha Phạm Quỳnh có liên hệ mật thiết với các tổ chức Cần Vương, Phục Việt chống Pháp đương thời (…) Vì thế, không lạ gì chuyện cậu thanh niên Phạm Quỳnh đã nhiệt tình tham gia ủng hộ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, tham gia bãi khóa ngay tại Trường Thông ngôn, phản đối đàn áp Đông Kinh Nghĩa Thục, bắt giam các sĩ phu yêu nước đến nỗi đã từng bị Pháp bắt giữ, năm mới 15 tuổi” (Mạc Kinh: Nỗi oan khiên của học giả Phạm Quỳnh, trong tập Giải oan lập một đàn tràng, Cơ sở xuất bản Tâm Nguyện, phát hành lần thứ nhất tại Hoa Kỳ, 2001). Sau đó được thả ra vì thấy là người không thuộc tổ chức hội kín nào cả (Sự tình cờ của lịch sử đã khiến con thứ mười của Phạm Quỳnh là Phạm Thị Hoàn sau này lại lấy nhạc sĩ Lương Ngọc Châu cháu nội cụ Lương Văn Can vị chủ soái của Đông Kinh Nghĩa Thục).
Năm 1908, đỗ thủ khoa trường Trung học thuộc địa (Collège Du Protectorat) tức trường Bưởi, nay là trường Chu Văn An, Phạm Quỳnh được tuyển vào làm nhân viên Trường Viễn Đông Bác Cổ (École Francaise d’Êxtrême - Orient). Tại đây do yêu cầu công việc, Phạm Quỳnh phải tự học Hán văn đến mức đọc và viết được văn chữ Hán. Trường Viễn Đông Bác Cổ là cả một kho tư liệu sách vở, “kho báu tri thức’ cho chàng trai hiếu học, yêu nước, thiết tha với lịch sử cha ông. Phạm Quỳnh đã tìm trong mớ giấy bản phủ bụi và tìm ra những áng văn thơ yêu nước. Ông đọc, chọn lọc trong sách Lệ ngữ Văn tập rồi dịch ra Pháp văn, đưa đăng trong tạp chí của Trường Viễn Đông Bác Cổ như tài liệu tham khảo lịch sử hai bài của Nguyễn Viết Lụy tế các tướng sĩ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu. Từ đấy hai bài này mới được người đời biết đến (Hoàng Đạo Thúy: Nhà họ Phạm Lương Đường và chủ bút Phạm Quỳnh, bài viết theo yêu cầu của Viện Văn học ngày 5-12-1992).
Từ 1913, hai mươi tuổi, Phạm Quỳnh đã thử sức trên Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh với những bài khảo cứu, bình luận văn học nghệ thuật. Đến 1917, mới 24 tuổi nhưng đã có thâm niên 9 năm công tác nghiên cứu viết lách, ông chớp thời cơ nhận làm chủ bút phần quốc ngữ tạp chí Nam Phong, giành lấy cho mình và những người cùng chí hướng, yêu nước, đặc biệt yêu tha thiết tiếng ta, có chỗ để thi thố tài năng, góp sức xây dựng nền quốc học, mở mang dân trí, tăng tiềm lực cho đất nước sau này. Trên tạp chí Nam Phong, ngoài những việc không thể không làm trong một tờ báo mà thực tế là do người Pháp chi tiền và điều hành, ông đã khôn khéo đăng những bài văn yêu nước của người xưa và cả người đương thời, những bài về lịch sử chống ngoại xâm,v.v… làm nên cả một bộ bách khoa thư về lịch sử và đời sống Việt Nam phong phú. Cũng từ đó tập hợp được lực lượng yêu quốc văn, yêu quý lịch sử nước nhà, tạo điều kiện cho biết bao thanh niên nâng cao hiểu biết về nhiều mặt đời sống, vun bồi thêm lòng yêu nước sẵn có trong họ.
Năm 1925 Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc) rồi đưa về Hà Nội giam ở nhà tù Hỏa Lò, đem ra xét xử ở Hội đồng Đề hình là tòa án thực dân tàn bạo nhất thời ấy. Tất nhiên, kẻ đứng ra xét xử đều là người Pháp. Hơn nữa, dư luận người Pháp ở Đông Dương cũng như ở chính nước Pháp sẽ có tác động rất lớn, có thể nói là quyết định đối với vụ xử án này.
Vì thế ông đã 
không phát biểu chính kiến trên Nam Phong, mà trên một tờ báo của Pháp có ảnh hướng rất lớn hồi bấy giờ. Hơn nữa viết trên báo tiếng Pháp thì tự do hơn, có thể trình bày hết ý mình, vì thời ấy báo tiếng Pháp không bị kiểm duyệt. Ông cho đăng trên tờ Indochine Républicaine bài lên tiếng công khai bênh vực Phan Bội Châu, yêu cầu khoan hồng cho nhà chí sĩ chỉ có “một tội” là “tội yêu nước như bất kỳ người Pháp nào yêu nước Pháp” (Chính Đạo:Hồ Chí Minh con người có huyền thoại, tập 2, 1925-1945, Văn hóa, Houston, Mỹ, trang 49, chú thích 8). Sáu tháng sau ngày bị bắt, 8 giờ 30 phút ngày 23-11-1925, Hội đồng Đề hình xử vụ Phan Bội Châu. “Hội đồng Đề hình Pháp cho là: trong 8 tội đó có 6 tội đáng phạt đi đầy, một tội đáng khổ sai chung thân và một tội đáng tử hình (theo Bùi Đình: Vụ án Phan Bội Châu, NXB Tiếng Việt, Hà Nội, 1950). Tuy vậy, có lẽ vì sợ hậu quả của vụ án mà tới lúc này họ chưa thể lường được nếu xử tử hình Phan, nên vào phút chót sau một ngày xét xử, hội đồng này đã tuyên án Phan khổ sai chung thân (Nguyễn Quang Tô: Sào Nam Phan Bội Châu con người và thi văn, tủ sách Văn học, bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh Niên, Sài Gòn 1974).
Năm 1932, Phạm Quỳnh nhận vào Huế tham gia quan trường với ý nghĩ ngây thơ là có điều kiện để những điều mà trước nay mình chỉ có thể luận bàn trên trang giấy và bằng lời nói thì nay có cơ thực hiện được.
Mười ba năm ông làm quan thì có tới hơn chín năm làm Thượng thư Bộ Học. Ông kiên quyết chủ trương người Việt phải học tiếng Việt đã, chống lại chủ trương thịnh hành thời ấy là cho học ngay tiếng Pháp từ vỡ lòng “vì là thần dân của Đại Pháp thì học tiếng Pháp sớm ngày nào hay ngày nấy, dù sao rồi cũng ra làm việc cho Tây”. Ông cố gắng rất nhiều, nhưng mới chỉ thành công ở mức bắt buộc phải học tiếng Việt đạt bằng Sơ học yếu lược mới được thi tốt nghiệp tiểu học.
Năm 1933 mới làm quan được một năm ông đã viết thư cho Lu-i Mác-ti (Louis Marty) là giám đốc chính trị tùng sự tại phủ toàn quyền Đông Dương, cũng là “bạn cũ” đồng sáng lập tạp chí Nam Phong, để bênh vực một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi, nhờ Lu-i Mác-ti can thiệp giảm án. Trong thư đề ngày 18-1-1933, Phạm Quỳnh nêu rõ ông (ở Huế) viết thư này để giới thiệu em vợ là ông Lê Xuân đến gặp Lu-i Mác-ti ở Hà Nội, trình bày một việc bà mẹ vợ Phạm Quỳnh yêu cầu ông nhờ Lu-i Mác-ti giúp đỡ. Đó là vụ một chiến sĩ cộng sản 18 tuổi tên là Nguyễn Công Nghi bị bắt ở Kiến An vì một vụ “âm mưu Cộng Sản”, đã bị tòa án Kiến An kết án tù chung thân và hiện nay đang bị giam ở nhà tù Hỏa Lò Hà Nội, sắp bị đầy đi Côn Đảo, thậm chí đầy đi ngoài xứ Đông Dương. Anh này là em ông Nguyễn Công Kính, chủ hãng thuốc lào Giang Ký danh tiếng ở Hà Nội , một người giàu có, đáng kính và có vai vế trong xã hội, lại là người có ân nghĩa lớn với gia đình vợ Phạm Quỳnh. Ông trình bày sơ qua vụ này và đề nghị Lu-i Mác-ti can thiệp, còn gợi ý nếu không thể tha được (Vì ông tin là anh ta vô tội) thì cho đi tù ở gần Hà Nội hoặc ít nhất cũng là vùng Bắc Bộ, đừng bắt đi Côn Đảo hay những nơi quá xa xôi.
Vì gia đình ấy, ông anh cả không có con chỉ trông vào anh ta kiếm con trai nối dõi, mà anh lại chưa có vợ; không được thăm nuôi thì gia đình rất lo lắng, v.v… Ông cố hết sức dùng tình cảm riêng thân mật lâu năm với Lu-i Mác-ti để xin xử nhẹ tay với người cộng sản trẻ này. Tư liệu này chúng tôi được đọc là do sau khi Lu-i Mác-ti chết, bà vợ thấy có bút tích của Phạm Quỳnh, đã gửi lại cho bà Phạm Thị Ngoạn, con gái ông cũng là tiến sĩ Xoóc-bon (Sorbonne), Pa-ri, tác giả luận văn Tìm hiểu tạp chí Nam Phong (Introduction Au Nam Phong)
Ông Phạm Tuân con trai út Phạm Quỳnh sinh năm 1936, đến nay (2008) còn nhớ rất rõ và kể cho người viết bài này kỷ niệm khó quên thời thơ ấu, đặc biệt là những ấn tượng lạ lùng về những lần được thân phụ dẫn đi thăm “ông già điên” ở túp lều tranh bên bến Ngự. Năm ấy ông mới lên bốn.

Các buổi chiều, cơm nước xong, thường bác tài Mai hỏi: “Chú Miềng (chú mình, nói trại giọng miền Trung) có theo Cụ đi chơi không… Hôm nay Cụ lại đến “ông già điên đây”. Ông nhớ hồi đó không biết người ấy là ai nhưng gặp thì thấy hiền hậu, dễ thương, hay hỏi chuyện trẻ con dễ hiểu mà cũng dễ trả lời, nên ông thường bám xe đi theo cha luôn. Cha và ông già ăn mặc xuềnh xoàng, râu tóc dài, xơ xác thường vào trong nhà nhỏ to trò chuyện một lát rồi ra về. Vẻ thân mật lắm, nhất là lúc mới đến và khi sắp ra về. Cuối năm ấy ông già mất, ông Tuân mới nghe cha nói đó là Cụ Phan Bội Châu.

Ngày 24-12-1925, một tháng một ngày sau hôm xử án tại Hà Nội kết án khổ sai chung thân thì toàn quyền Va-ren (Varenne) vốn là Đảng viên Đảng Xã Hội Pháp ký quyết định “ân xá Phan Bội Châu”. Tuy “được ân xá”, nhưng, thật ra ông bị giam lỏng ở bến Ngự (Huế), bị mật thám theo dõi, kiềm chế mọi hoạt động. Ông dựng một túp lều ở bến Ngự và sống ở đấy suốt 15 năm cuối đời. Nơi đây biến thành nơi tập trung của thanh thiếu niên và học sinh Huế, tới để yết kiến, chiêm ngưỡng vị anh hùng dân tộc.
Nơi đây cũng thường lui tới một số công chức còn 
nặng tình dân tộc, sùng bái các vị anh hùng, vĩ nhân đã hiến trọn cuộc đời cho đất nước (theo Nguyễn Quang Tô, sách đã dẫn).
Biết cảnh sống khó khăn của Phan Bội Châu, nhiều người đã gửi ngân phiếu nặc danh giúp ông tiền bạc, nhiều đến nỗi Phan Bội Châu bị phiền hà. Ông đã phải buộc lòng từ tạ bằng một bức thư với lời lẽ chân tình tha thiết. Trùm mật thám Trung kỳ Xô-nhi (Sogny) đã bủa một mạng lưới mật thám dày đặc bao vây túp lều bến Ngự. Mà hồi ấy, theo như chính lời Phan Bội Châu nói (do Lạc Nhân, nguyên thư ký tòa soạn báo Tiếng Dân ghi lại đăng trên báo Tiếng Dân năm 1933) thì: “Tôi không hề kêu ca, nhưng trong nhà nhiều miệng ăn, nào là các đồng chí đi đầy về đã quá già, không biết làm gì để sống, cũng phải tới đây chung sống với tôi, nào con cháu các đồng chí, kẻ chết chém, người chết trong lao, tôi phải nuôi dưỡng vì không biết bỏ cho ai bây giờ”. Trong số đó có Phạm Công Nguyệt con trai độc nhất của liệt sĩ Phạm Hồng Thái, chưa từng được biết mặt cha. Anh được Phan Bội Châu nuôi cho ăn học tại trường Khải Định Huế đến đỗ tú tài triết học. (theo Nguyễn Quang Tô, sách đã dẫn).
Ngày 29-10-1940, Phan Bội Châu mất, thọ 74 tuổi. Mai táng trong chiều ngày kế tiếp, theo đúng di chúc của Cụ. Ngoài những người thường ngày gần gũi bên cụ, không mấy ai dám lai vãng, sợ ty Liêm phóng theo dõi rầy rà.
Theo Nguyễn 
Quang Tô: “hàng trăm, ngàn câu đối, văn tế được gửi trực tiếp đến nhà hoặc đăng báo, hay truyền tụng miệng cho nhau nghe… tạo thành một bầu không khí bi hùng tràn ngập khắp Trung Nam Bắc. Một số người còn gửi tiền về tòa soạn báo Tiếng Dân nhờ lo xây dựng phần mộ. Lại có những người thuộc hạng “tai to mặt lớn” đã phải lén lút chui lòn cửa sau nhà Phan để được tới trước bàn thờ Phan dâng điếu lễ và tấm lòng kính mộ.”
Không biết trong số những người “gửi ngân phiếu nặc danh”, “gửi tiền nhờ báo Tiếng Dân”, “lén lút chui lòn cửa sau” có Phạm Quỳnh không? Tôi nghĩ, công bằng mà nói, khó có thể trả lời dứt khoát là không.
Bởi, chỉ cần xua đi lớp bụi thành kiến kỳ thị dày đặc đã chôn vùi cuộc đời ông suốt hơn nửa thế kỷ qua, ta thấy ngay ÔNG QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC.
Những dòng tôi viết trên đây chỉ là nhân đọc bài của nhà báo lão thành Đặng Minh Phương mà nghĩ tới thôi, hoàn toàn không có ý trả lời, thảo luận hay tranh luận gì cả. Tôi viết chỉ là vì tâm đắc với L.T.S in trước bài ông là: “đánh giá công minh người và việc của quá khứ là việc khó. Nó cần rất nhiều điều kiện mà trước hết cần chỗ đứng nhìn, cần hiểu bối cảnh lịch sử và tư liệu lịch sử… Ngày nay chúng ta cần có thái độ cởi mở khoan dung, gạn lọc công bằng… nhưng cũng không được làm đảo lộn lịch sử, lờ mờ thật giả, đưa đến sai lệch nguy cơ cho lịch sử và cho cả hiện tại”.
Ngày 8-8-2008
Phạm Tôn
ÔNG PHẠM QUỲNH QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC (Bài số 2)
Phạm Tôn
Sau bài số 1 được bạn đọc đón nhận, chúng tôi thấy nên thuật lại thêm một số sự việc liên quan đến Phạm Quỳnh còn không ít người chưa biết rõ.
Năm 1922, Phạm Quỳnh sang Pháp với tư cách là tổng thư ký hội Khai Trí Tiến Đức do ông sáng lập, tham dự cuộc Đấu xảo Thuộc địa tổ chức tại Marseille. Ông từ giã cái búi tó củ hành, nhưng vẫn mang theo mấy bộ quốc phục và một “bản Kiều tùy thân” cùng một cuốn sổ tay nhỏ xíu.
Xong nhiệm vụ ở đấu xảo ông tranh thủ đi ngay Paris. Trong Pháp du hành trình nhật ký đăng liên tiếp trên báo Nam Phong, ngày thứ ba, 16/5/1922 ông ghi “Ngồi trên xe lửa mình đã đọc kỹ cái sổ kê những nhà khách sạn ở Paris in trong các sách Paris chỉ nam, anh em đã bàn nhau định vào trọ một nhà ở đường Vaugirard, vì trong sách nói rằng nhà ấy trông ra vườn Luxembourg cảnh trí đẹp lắm. Nhưng khi đến nơi bảo xe ô tô đi đến đường ấy số ấy thì chẳng thấy nhà khách sạn đâu cả, không biết là sách in lầm hay nhà đã dọn đi nơi khác rồi. Thế là mình rắp định một điều hỏng cả một điều, mà sự không trông hòng thời lại tới. Số là ông Ng.H.C là con một vị hưu quan ở Bắc kỳ ta, được tin anh em đến có ra ga đón, khi đi tìm trọ ở đường Vaugirard không xong, ông bèn dắt về chỗ trọ ông, nơi gọi là “Thế giới khách sạn” (Hôtel du Monde) ở đường Berthollet số 15. Thế là sang đất lạ lại được ở cùng người đồng quận cũng là một sự không ngờ”. (Phạm Quỳnh: Pháp du hành trình nhật ký. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, năm 2004)
Phạm Quỳnh không thể ngờ rằng, từ hôm ấy ông đã bị tên mật vụ Désiré theo dõi và báo cáo đều đặn lên cấp trên. Báo cáo ngày 16/6/1922, Désiré viết “Người An Nam Phạm Quỳnh đến từ Đông Dương đã bị sở cảnh sát Marseille chỉ điểm, từ ngày 16/5/1922 đã ở tại Hôtel du Monde, 15 phố Berthollet. Ông thuê một căn phòng trả tiền mỗi tháng 200 francs. Ông ta đăng ký vào sổ của khách sạn với nhân thân sau: Phạm Quỳnh, 29 tuổi, nhà báo. Sinh tại Hà Nội, đến từ Hà Nội.
“Ông đến Paris với hai đồng bào, cũng nói là đến từ Đông Dương, ở cùng địa chỉ là:
- Nguyễn Văn Vi, 30 tuổi, sinh ở Hà Nội, thợ in.
- Trần Lan Vi, 32 tuổi, sinh tại Hà Nội.
“Từ khi tới Paris, ba người An Nam này có đồng bào tới thăm thường xuyên.
“Xin đặc biệt lưu ý là một người có nhận dạng ứng với nhận dạng của Phan Văn Trường.
“Họ thường ra ngoài và đôi khi đêm về nhà rất muộn.
“Tuần trước họ nói với chủ khách sạn là đi dự một cuộc họp, không giải thích gì thêm”.
“Ký tên Désiré” (Tư liệu lưu trữ tại Văn khố Bộ Ngoại giao Pháp, phần Pháp quốc hải ngoại, tại Aix en Provence, Pháp)
Trong cuốn sổ tay nhỏ bằng bốn ngón tay của Phạm Quỳnh năm ấy có ghi “Juillet, 13, Jeudi: Ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Rue des Gobelins)” Và “Juillet, 16, Dimanche: Ở nhà. Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” Còn trên tạp chí Nam Phong khi đăng Pháp du hành trình nhật ký, ông viết công khai: “Thứ năm, 13 tháng 7 năm 1922: (…) Chiều hôm nay, ăn cơm với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ, vào hạng bị hiềm nghi, nên bọn mình đến chơi không khỏi có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi! Nhưng, họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã lâu không được ăn cơm ta, ăn ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta, thật là vui vẻ, thoả thích. Ăn no, uống say, cười cười nói nói… Mai là ngày hội kỉ niệm dân quốc… Anh em đi dạo chơi một lượt các phố đông cho biết cái cảnh ngày hội ở Paris thế nào.” Và “Chủ nhật, 16 tháng 7 năm 1922: Hôm nay, không đi đâu, ngồi hầm trong buồng viết mấy cái thư về nhà.
“Trưa, mấy ông chí sĩ cùng ăn cơm bữa trước lại chơi ở trọ, nói chuyện giờ lâu. Nghe nói các ông đi đâu cũng có bọn trinh tử theo sau, chắc bọn đó đã đứng ngoài cửa cả. Người đồng bang ở nơi khách địa, không thể không gặp nhau, gặp nhau không thể không nói chuyện nước nhà, lòng người ai chẳng thế, tưởng cũng chẳng là sự phi phạm gì.” (Phạm Quỳnh: sách đã dẫn)
Chắc chắn tên mật vụ Désiré có theo dõi hai cuộc gặp gỡ này, không biết hắn đã báo cáo thế nào…
Nhưng còn một lần gặp gỡ nữa, có đến 11 người, do các ông Lê Thanh Cảnh và T
rần Đức tổ chức vào một buổi cơm chiều thì chắc chắn mật vụ Désiré không biết vì không vào nổi khách sạn Montparnasse Paris. Trong số khách dự có Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh và Cao Văn Sến. Sau này Lê Thanh Cảnh đã thuật lại cuộc họp mặt của “5 nhân vật phi thường ngồi chung lại một bàn” trong hồi ký “Rời mái tranh trường Quốc Học”, bản thảo gửi đăng Đặc san số 5 của Hội Ái hữu cựu học sinh Quốc Học. Cả năm vị đều trình bày chủ trương cứu nước của mình. Đây thật sự là cuộc họp mặt bàn việc nước, thẳng thắn, sôi nổi, có khi gay gắt, nhưng ai cũng một lòng thiết tha yêu nước dù cho quan điểm có khác nhau, thậm chí chống đối nhau.
Có lẽ ít nhất qua ba lần gặp mặt mà chúng ta còn biết đó và mười mấy năm đọc Tạp chí Nam Phong mà tháng 8/1945, sau khi nghe ông Tôn Quang Phiệt từ Huế ra báo: “Phạm Quỳnh đã bị xử mất rồi” thì cụ Hồ ngồi lặng người một lúc lâu rồi nói: “Giết một học giả như vậy thì nhân dân được gì? Cách mạng được lợi ích gì?… Tôi đã từng gặp cụ Phạm ở Pháp… Đó không phải là người xấu. (Tư liệu do nhà văn Sơn Tùng cung cấp). Và khi nhà thơ Huy Cận tham gia phái đoàn chính phủ vào nhận sự thoái vị của Bảo Đại có nghe dân chúng xì xào nhiều về chuyện cụ Phạm bị xử tử hình, về tới Hà Nội, được gặp Bác, ông có kể lại chuyện đó, thì Bác thở dài, nắm lấy tay ông và nói: “Đã lỡ mất rồi”. Trong bài Phạm Quỳnh - Chủ bút báo Nam Phong, giáo sư Văn Tạo cũng xác nhận là nhà thơ Huy Cận đã thuật lại với ông câu “Đã lỡ mất rồi” của Hồ Chủ tịch (Tạp chí Xưa và Nay số 267, tháng 9/2006)
Tư liệu số 313 (Phạm Quỳnh) báo cáo của mật vụ Jolin ngày 21/12/1922 từ Marseille viết: “Tôi vinh dự gửi tới ngài bản dịch một bài báo ký tên Phạm Quỳnh đăng trong Nam Phong, tờ báo Bắc kỳ mà ông ta là chủ bút”.
Trong bản dịch, Jolin nhấn mạnh những đoạn Phạm Quỳnh viết là tại khu Đấu xảo Thuộc địa ở Marseille khu vực Đông Dương “có một lâu đài lớn xây dựng theo kiểu Angkor, thực sự là vĩ đại. Để phục chế tòa lâu đài này đã phải tốn rất nhiều công và của. Nội thất thì toàn bằng gỗ, bên ngoài thì quét vôi. Thật tiếc vô cùng vì sau 6 tháng đấu xảo sẽ phải hủy bỏ. Hàng triệu đồng đã tiêu phí vào việc này và sẽ tan thành mây khói và tung theo gió bốn phương, lợi ích của việc tuyên truyền thuộc địa này có bõ công không?” Một đoạn khác, Jolin lại nhấn mạnh bằng cách gạch dưới “Tất cả những người thợ và nhân viên ở tại đấu xảo đều than phiền về thức ăn và nơi ở. Quả vậy, những lán trại dành cho người An Nam không có gì là hấp dẫn. Về cái ăn thì còn phải mong đợi nhiều. Người ta cho rằng tất cả những việc này chỉ là tạm thời vì những nhân viên chịu trách nhiệm tổ chức đấu xảo đã ngập đầu trong biết bao lo toan khác cho nên họ không có thời giờ vật chất để chăm sóc cho người An Nam. Mong rằng những cái đó chỉ là tạm thời, bởi lẽ thật là thảm thương (…). Nhiều phái viên trước khi đi sang Pháp nghĩ rằng đời sống ở bên đó rất đắt đỏ, họ sẽ sống ở đấu xảo để tiết kiệm tiền, nhưng sau khi thấy được cảnh này, họ đã không thể ở lại đấy đến một giờ.
“Sự thực là với tiền người ta có thể làm tất cả, chỉ cần biết là họ có biết cách tiêu tiền có ích không”. Cuối bản báo cáo, Jolin viết “những lời gièm pha của Phạm Quỳnh chỉ trích oan uổng và gây ngờ vực đối với sự quản lý chung, đặc biệt là đối với ban Đông Dương ở Đấu xảo Marseille (…) Tôi tin chắc chắn rằng, thưa ông Toàn quyền, là Phạm Quỳnh như tôi đã nêu lên trong những bức thư số 170, 200, 203, 204 phải được coi là đáng ngờ nếu không muốn nói là kẻ bị tình nghi”. Mật vụ Jolin còn phụ thêm một báo cáo đặc biệt về “Cuộc trò chuyện của Phan Châu Trinh với Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh”, nhưng trong đó chỉ dẫn lời tranh luận với nhau của Nguyễn Văn Vĩnh và Phan Chu Trinh, không thấy dẫn lời nào của Phạm Quỳnh (Tư liệu của Văn khố đã dẫn)
Đó là những nhân viên cấp thấp nhất của nhà cầm quyền Pháp đã “quan tâm” đến Phạm Quỳnh như thế. Còn các cấp cao thì sao?
Chúng tôi có trong tay tài liệu 14-PA-1/8 của Khâm sứ Trung kỳ J.Haelewyn gửi Toàn quyền Đông Dương J.Decoux viết từ Huế ngày 15/10/1944, trong đó y ca ngợi Phạm Quỳnh tài năng xuất sắc hơn tất cả các quan lại trong triều cho nên đang bị kèn cựa, kỳ thị và đề nghị: “Giữ vững ông ta trong vai trò của mình là Thượng thư Bộ Lại” và “Tóm lại là đứng vững trên mớ hỗn độn”, kèm theo là hai chữ “Phải!!”, “Phải!!” ghi bằng mực đỏ, do chính tay Toàn quyền Decoux phê, tán thưởng việc đề xuất ấy. Tiếp sau đó là báo cáo ngày 8/1/1945 cũng của Khâm sứ Trung kỳ Haelewyn gửi Toàn quyền Đông Dương J.Decoux và Đại tướng Mordant, trong đó viết : “Một lần nữa, viên Thượng Thư Lại Bộ (Phạm Quỳnh) lại cực lực công kích việc trưng dụng thóc gạo cho Nhật Bản… Ông (Phạm Quỳnh) đòi hỏi chúng ta, trong thời hạn ngắn nhất, thực thi lời hứa thể hiện sự khai phóng lũy tiến trong một tiến trình rõ rệt, và chúng ta phải cam kết trả lại cho Triều Đình những biểu tượng của quyền uy tối thượng quốc gia bao trùm Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Phạm Quỳnh đe dọa khuyến khích các phong trào phản loạn, nếu trong những tháng tới chúng ta không cam kết thương thảo với Hoàng Đế Bảo Đại một quy chế chính trị mới, thay chế độ Bảo Hộ bằng một thể chế “Thịnh Vượng Chung”, trong đó những chức vụ chính được giao cho người bản xứ. Nói một cách khác, Phạm Quỳnh đòi chúng ta ban bố chế độ tự trị cho Trung Kỳ, Bắc Kỳ, bãi bỏ chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ và tạo dựng một quốc gia Việt Nam. Tôi xin lưu ý ngài về điểm với bề ngoài lịch sự và chừng mực, ông này là một người quyết liệt tranh đấu cho Việt Nam độc lập, và chúng ta không nên hy vọng làm dịu tinh thần ái quốc của ông ta, một tinh thần chân thành và không hề lay chuyển, bằng cách bổ nhiệm ông vào một chức vị danh dự được hưởng nhiều bổng lộc. Cho đến nay, ông là một đối thủ hòa hoãn nhưng quyết liệt của nền thống trị Pháp…Chúng tôi xin chờ chỉ thị của Ngài”. (Trích bản dịch của Đoàn Văn Cầu trong Dẫn Nhập tập Phạm Quỳnh: Hành Trình Nhật Ký, Nhà xuất bản Ý Việt, Yerres, Pháp, 1997).
Trong bài cùng nhan đề trên Hồn Việt số 15 có viết là năm 1933 mới làm quan được một năm, Phạm Quỳnh đã viết thư cho Louis Marty là Giám đốc Chính trị vụ Phủ Toàn quyền Đông Dương, cũng là ”bạn cũ” đồng sáng lập Tạp chí Nam Phong để bênh vực một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi, nhờ Louis Marty can thiệp giảm án. Thì cuối năm đó, ngày 30/12/1933 ông lại viết cho Marty một lá thư “chúc mừng năm mới”, trong đó có những dòng tâm tình: “Về phần riêng tôi, như thế là số mệnh đã an bài. Tôi là người của chuyển tiếp, vì vậy, sẽ không bao giờ được người đời hiểu mình. Chuyển tiếp giữa Á Đông và Tây Âu, giữa quá khứ và tương lai, giữa một trạng thái chánh trị sản phẩm của xâm lăng và đương nhiên là phải hư hỏng ngay từ nền tảng, và một nền trật tự mới không thể nhất đán mà thành tựu, khả dĩ biết tôn trọng phẩm cách của con người. Sống giữa đầy rẫy những mâu thuẫn như thế, cố gắng dung hòa các mâu thuẫn đó, với hoài bão thực hiện một chương trình tiến hóa hợp tình hợp lý khả dĩ đưa đến tình trạng hòa hợp toàn diện; dĩ nhiên là tôi phải đương đầu với những ngộ nhận đủ loại.
“Tôi tự an ủi và tin tưởng mãnh liệt ở vai trò cần thiết của mình. 
Vai trò đó hiện nay chỉ mang lại cho tôi những “
đắng cay”, nhưng một ngày kia sẽ có thể tiến tới “vinh quang”
“Dĩ nhiên là tôi rất có thể sống ẩn mình trong một “tháp ngà”, tự mãn với cuộc đời êm dịu thanh bình theo quan niệm của nhà hiền triết hay học giả mà đó cũng là lý tưởng của lòng tôi. Nhưng tôi thiển nghĩ có bổn phận sống ra ngoài khuôn khổ đó. Tôi đã lầm? Hay tôi đã có lý?
“Và một cuộc phiêu lưu đã đến với tôi.
“Là một nhà ái quốc An Nam, tôi yêu nước với tất cả tâm hồn: người ta lên án tôi phản bội Tổ quốc, vì tôi đồng lõa với xâm lăng và phục vụ xâm lăng!
“Mặt khác, là bạn chân thành của nước Pháp: người ta lại trách tôi khéo léo che đậy một ý thức quốc gia khe khắt và bài Pháp sau một tấm bình phong thân Pháp!
“Và trường hợp của tôi làm ai nấy ngạc nhiên. Người ta cố tìm hiểu giải thích, bằng đủ mọi cách, mà vẫn không thể hiểu.
“Có lẽ một ngày kia người ta sẽ hiểu, khi một thỏa hiệp được chào đời có thể hòa giải tinh thần quốc gia An Nam và chánh sách thuộc địa Pháp.
“Tôi tin sự hòa giải có thể thực hiện được. Nhưng trong khi sự hòa giải đó chưa được thực hiện, cuộc phiêu lưu của tôi không tránh khỏi trở nên bi đát”.
“Có lẽ chăng, đó chẳng phải là cuộc phiêu lưu của riêng tôi. Nó vượt ra ngoài khuôn khổ của một cá nhân, để trở nên của cả một thế hệ, một thời đại” (Phạm Thị Ngoạn: Tìm hiểu Tạp chí Nam Phong, nguyên tác viết bằng tiếng Pháp, bản dịch của Phạm Trọng Nhân, Nhà xuất bản Ý Việt, Yerres, Pháp, 1993)
Ông Phạm Quỳnh quả là người nặng lòng với nước.
VỀ NGÀY "ỦY BAN KHỞI NGHĨA THUẬN HÓA MỜI PHẠM QUỲNH RA LÀM VIỆC" ĐỂ RỒI "ĐI KHÔNG BAO GIỜ TRỞ LẠI"
Đại tá, Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan
Lời dẫn của Phạm Tôn: Chúng tôi đã đăng bài Góp phần tìm hiểu và làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất Tất Nhiên” của Đại tá Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan, ký bút danh Sông Hương, và được đông đảo bạn đọc ở trong nước và cả ngoài nước nữa hoan nghênh, khen ngợi, truyền cho nhau đọc…
Kỳ này chúng tôi lại may mắn được Đại tá Tiến sĩ ưu ái gửi cho một bài mới, kết quả của quá trình làm việc nghiêm túc, đúng phong cách của nhà sử học chân chính, nhưng vẫn với bút pháp rất độc đáo của ông, lật đi lật lại vấn đề nhiều lần, dưới nhiều góc nhìn khác nhau, thể hiện sự tin tưởng vào lương tri và trình độ hiểu biết của bạn đọc.
Xin mời các bạn cùng thưởng thức để có thêm những suy nghĩ mới về một vấn đề xảy ra cách nay đã hơn 60 năm.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, Phạm Quỳnh “ở nhà”, không tham gia chính phủ Trần Trọng Kim. Mặc dù chính phủ của ông Kim gồm phần lớn các bộ trưởng là những người yêu nước, ghét Pháp, cũng không ưa Nhật. (…) 
Theo lời Phạm Quỳnh, ông muốn “nghỉ việc”, để chăm lo vào đường văn học. Tổng khởi nghĩa diễn ra ở Huế, ông vẫn bình tĩnh. Con cháu tham gia biểu tình, ông chẳng những không ngăn cản mà còn khuyến khích, bảo người nhà mua và may cờ đỏ sao vàng cho con cháu đi biểu tình. Có lẽ ông cho mình là một người yêu Tổ Quốc - theo cách của ông - đòi Pháp trả lại quyền cho vua Việt Nam - đấu tranh cho một nền quân chủ lập hiến hiện đại, v.v…
Và cũng biết mình chưa nắm được tình hình diễn biến của thế sự, tin (cả tin)
 vào suy nghĩ của mình, không lường được những gì sẽ xảy ra, chủ quan không chủ động tìm hiểu thông tin để tự bảo vệ. [1]
Ngày 23 tháng 8 năm 1945, hai sinh viên trường Thanh niên Tiền tuyến - Huế là Đặng Văn Việt và Cao Pha [2] hạ cờ quẻ ly ở Kỳ đài Huế, kéo cờ đỏ sao vàng lên. Vào lúc 14 giờ, lá cờ rộng chừng 100 mét vuông ấy đã tung bay trên bờ sông Hương, trước núi Ngự Bình, trên đỉnh cột cờ Phu Văn Lâu.
Ngày 23 ấy, nhân dân Thừa Thiên-Huế đã tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Cũng trong ngày 23, “Tôi (Phan Hàm sinh viên trường Thanh niên Tiền tuyến Huế-NVK chú) nhận lệnh, nghiên cứu thì được biết thêm là trong nhà Phạm Quỳnh cũng như nhà Ngô Đình Khôi đều có rất nhiều súng ống. Vì vậy buổi sáng hôm ấy, anh Hồ [3] và tôi phải cải trang đi trinh sát địa hình trước. Kết quả chỉ biết đích xác nhà (biệt thự Hoa Đường), sân, còn trong nhà không rõ. Đến trưa ông Phan Tử Lăng [4] trực tiếp chỉ thị cho tôi: đến trại Bảo An binh, ông ta sẽ phối thuộc cho hai tiểu đội lính Bảo An (một tiểu đội do tôi chỉ huy, một tiểu đội cho anh Việt chỉ huy) để giúp vào việc đi bắt hai tên Việt Gian đầu sỏ này. Ông ta còn nói thêm: “Bắt được rồi đem về lao Thừa Phủ, rồi báo xuống sân vận động Huế người ta biết, mở màn cuộc mít tinh.”
“Mệnh lệnh rất ngắn mà chúng tôi mang theo chỉ thấy nói “Ủy ban Khởi nghĩa Thuận Hóa mời Phạm Quỳnh ra làm việc”. Tôi được trang bị một khẩu súng lục St.Etienne 6.35. Khi xe của tôi vòng vào sân, thấy Nguyễn Tiến Lãng trong nhà chạy ra. Lúc bấy giờ trên áo tôi đã có cái băng cờ đỏ sao vàng nên Lãng biết, toan chạy. Tôi đưa súng lên bắn thì kẹt đạn, nên bắt lên xe luôn. Anh Hồ lên lầu bước vào phòng Quỳnh đang chuẩn bị nghỉ trưa. Đưa giấy “mời” ra, ông ta thản nhiên đứng dậy mặc áo ra đi.
Phần cuối tập tư liệu 10 trang do chính tay Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993 và Tuyên huấn Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế nhận chiều 14/11/1993. Có chữ ký trên tên do Thiếu tướng viết.
“Tôi lục soát khắp nhà (Chúng tôi nhấn mạnh - N.V.K) chẳng thấy súng đạn đâu cả ngoài khẩu súng săn cỡ 12 ly của con trai ông ta và ít đạn săn. Con trai của ông ta là Phạm Khuê cũng đi dự mít tinh, ở nhà chỉ còn hai cô con gái là học sinh trường Khải Định trước đây” (…) “Đây là ý kiến tôi muốn đóng góp với những bản tổng kết quân sự, Đảng, chính quyền của tỉnh nhà”. [5]
“Chúng tôi đưa những người bị bắt về lao Thừa Phủ, sau đó giao cho anh Nguyễn Trung Lập [6] đưa họ đi khỏi thành phố Huế để tránh sự dòm ngó của người ngoài [7].
Ngày 28 tháng 8, Pháp cho sáu tên nhảy dù xuống Hiền Sĩ. Mười ngày sau (6 hoặc 7 tháng 9) lại có một toán người Pháp khác đổ bộ vào Thuận An. Bọn nhảy dù xuống Hiền Sĩ, vừa xuống mặt đất đã hỏi thăm người địa phương “Phạm Quỳnh ở đâu? (nguyên văn tiếng Pháp: Où est Pham Quynh?)”
Trong khi đó, cũng ngày 23 “sáng, Hồ Chí Minh (rời Tân Trào từ ngày 22 để về Hà Nội) đi qua huyện Đa Phúc, Phú Yên (nay là Sóc Sơn, Hà Nội). Chiều, người qua sông Hồng ở bến Phúc Xá. Tối người đến nghỉ trong nhà ông Công Ngọc Kha ở làng Gạ (Phú Gia, huyện Từ Liêm)[8]”. Ngày 24 người nghỉ tại đây. “Sáng ngày 25, tại làng Gạ, Người nghe các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh từ nội thành ra báo cáo8. “Chiều, người đi ô tô vào Hà Nội, dừng ở số nhà 35 phố Hàng Cân, lên gác tầng hai nhà số 48 phố Hàng Ngang”8. Ngày 26, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng. Ngày 27, Người họp với Ủy ban Dân tộc Giải phóng, “đề nghị thi hành chính sách đoàn kết rộng rãi, thành lập chính phủ thống nhất quốc gia bao gồm cả những đảng phái, những người có danh vọng”8
Ngày 28, Hồ Chí Minh đến làm việc tại nhà số 12 Ngô Quyền, dành thời gian soạn Tuyên ngôn độc lập. Được báo cáo là Trần Huy Liệu cùng phái đoàn đã vào Huế nhận ấn kiếm của Bảo Đại thoái vị, Bác nói với Hoàng Hữu Nam: “Chú tìm một người [9] thay chú vào Huế gặp Phạm Quỳnh đưa thư tôi mời cụ Phạm” [10]
Trong đêm 23 tháng 8, chính phủ cách mạng lâm thời đã điện đòi Bảo Đại thoái vị. Chiều 30 tháng 8, Bảo Đại nộp ấn, kiếm cho phái đoàn chính phủ ta [11]
Trở lại ngày 27 tháng 8, khi họp Ủy ban Dân tộc Giải phóng tại Hà Nội, chưa  rõ là Chủ tịch Hồ Chí Minh có “đả động” gì đến Phạm Quỳnh không? Và Người có kịp căn dặn Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Huy Cận vào Huế tìm hiểu hoặc đến thăm Phạm Quỳnh?
Ngày 28, Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ. Ngày 30, Trần Huy Liệu – nếu có tìm gặp Phạm Quỳnh cũng không được. Vì, có thể là những người lãnh đạo Ủy ban Khởi nghĩa cho biết là “có dấu hiệu Pháp liên lạc với Phạm Quỳnh” hoặc là Phạm Quỳnh bị bắt và đã giải đi xa rồi… Trần Huy Liệu chắc là có báo tin về Hà Nội, nên ngày 30 tháng 8 (ngày tiếp nhận thoái vị của Bảo Đại), Hoàng Hữu Nam đã thưa với Bác: “Ông Phạm Quỳnh đã bị bắt” [12] thì Bác đã nói ngay “Bất Tất Nhiên”. [13]
Ngày 31, Vũ Đình Huỳnh đưa các cô Phạm Thị Giá, Phạm Thị Thức đến gặp Hồ Chủ tịch, báo tin cha mình (Phạm Quỳnh) đã bị bắt.
Bảy ngày sau, tức mùng 6 hay 7 tháng 9 năm 1945 [14], theo Phan Hàm, Võ Quang Hồ, sau khi Giải phóng quân Huế được thành lập vào ngày 1/9 thì có tin tàu Pháp xuất hiện ở cửa bể Thuận An [15]. Võ Quang Hồ cùng một số chiến sĩ có vũ khí đi thuyền áp mạn tàu Pháp, leo lên tàu Pháp đưa thư của ta cho chúng. “Xem xong thư, tên Pháp ôn tồn nói: Mời các ông lên bờ trước, tôi cho tàu nhổ neo sát vào bờ, rồi dùng ca nô lên bờ sau. Khi thuyền của Võ Quang Hồ, Đoàn Huyên15 cặp bờ thì tàu Pháp nhổ neo, giương buồm, hướng biển khơi mà chạy. [16] Có thể là “sau đó” Phạm Quỳnh bị bắn, nhưng bị bắn vào ngày nào?
Báo Quyết Thắng, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung bộ, số 11 ra ngày 9/12/1945, cho biết: “Cả ba tên Việt Gian đại bợm (Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân) bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23/8 và đã bị Ủy ban Khởi nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật” [17].
Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế bấy giờ là Tố Hữu. Vậy, ông Phan Tử Lăng nhận lệnh đi bắt Phạm Quỳnh hẳn không phải là do ông Tôn Quang Phiệt Chủ tịch Ủy ban Nhân dân hay ông Hoàng Anh - phụ trách chính trị đại diện Đảng bố trí trong chính quyền - ra lệnh, mà phải là Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa.
Theo tư liệu nước ngoài, sau khi tàu chiến Pháp vào cửa Thuận An ngày 6 tháng 9, có lẽ Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa cho rằng “Pháp có thể tiếp tục tìm bắt liên lạc với Phạm Quỳnh (dù chỉ có một câu nói của nhóm nhảy dù “Phạm Quỳnh ở đâu?”. Cũng không rõ bọn Pháp hỏi để nhờ Phạm Quỳnh làm “phiên dịch” hoặc “tôn” Phạm Quỳnh lên làm chức gì đó?) nên họ xử lý ngay.
Sau khi Phạm Quỳnh “lên xe đi” (và “không bao giờ trở về nữa”), ông vẫn tin “Cách mạng sẽ cho về”. Và lúc nhận viên đạn trước khi rời bỏ cuộc đời, sự nghiệp còn dở dang, ông vẫn tự cho mình là không có tội với Nước - có chăng là chưa thuận theo thời đại - ông vẫn không tin rằng “Cách mạng, những người Cộng sản Việt Minh” lại xử bắn mình. Vì thế ông mới hét lên “Quân sát nhân!” (Quân giết người).
Theo Vũ Đình Huỳnh, khi ông Tôn Quang Phiệt ra Hà Nội gặp Bác và báo cáo “Cụ Phạm Quỳnh đã bị khử rồi” (nguyên văn). Bác nói: “Giết một học giả (chú ý: Bác không nói người mà nói học giả) như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được lợi ích gì? Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm (chú ý: Bác dùng chữ Cụ) ở Pháp. Đó không phải là người xấu”[18]
Trở lại với thông báo của Việt Minh Trung Bộ, ta có thể đặt các câu hỏi sau đây:
a) Tại sao đã xử bắn “Kết án tử hình” từ ngày 6 (7) tháng 9 năm 1945, mà mãi đến ngày 9 tháng 12 mới ra “thông báo”?
b) Bản án đã “thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật”. Vậy “thời kỳ thiết quân luật” bắt đầu từ ngày nào đến ngày nào, trong phạm vi địa phương nào? Có được chính phủ cho phép?
c) Ủy ban Khởi nghĩa “kết án tử hình”. Vậy bản án ấy số bao nhiêu? Ai là quan tòa? (Hoặc do thời kỳ cách mạng, bão táp, v.v… và v.v…)
d) Thông báo viết: “Phạm Quỳnh còn dựa vào thế lực Pháp (…) bóc lột vơ vét tài sản quốc dân…”. Vậy, khi khám nhà Phạm Quỳnh đã thu được được bao nhiêu “tài sản”, vàng bạc, v.v…? Có mâu thuẫn gì không với ý kiến của thiếu tướng Phan Hàm: “Chẳng thấy dấu hiệu gì (chứng tỏ liên lạc với Pháp), cũng chẳng có tài sản gì… ( ngoài khẩu súng săn)? Và nếu thu được “tài sản” liệu có thống kê không, danh mục ai thu, ai giữ, gửi ai, cơ quan nào bảo vệ?
đ) Tờ thông báo này là một công văn của “Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương, Thừa Thiên-Huế gửi Tòa án Quân sự Thuận Hóa”
Thông báo này có hai điểm cần xem xét:
1/ Cho đến ngày 9/12/1945, nghĩa là sau khi nước ta tuyên bố độc lập, có chính phủ rồi, hệ thống chính quyền ở các địa phương là Ủy ban Nhân dân kỳ, tỉnh, huyện…liệu có phải chỉ riêng ở Thừa Thiên-Huế vẫn tồn tại Ủy ban Khởi nghĩa?
2/ Tòa án quân sự Thuận Hóa - sự thật đã có hay chưa? Ai là chánh án?
Trong sách Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, 1993, trang 17 có viết: “Ngày 13 tháng 9, sắc lệnh số 33C quy định lập Tòa án Quân sự ở Bắc Bộ (Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình), ở Trung Bộ (Vinh, Huế, Quảng Ngãi…) Tòa án Quân sự sẽ xử tất cả những ai có hành động phương hại đến nền độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… Những quyết nghị của Tòa án Quân sự sẽ đem thi hành ngay (không có quyền chống án - NVK chú) trừ trường hợp tử hình (Chúng tôi nhấn mạnh - NVK), cần có thời gian cho tội nhân xin ân giảm (chỉ có Chủ tịch nước mới có quyền ân giảm - NVK chú) nếu họ muốn và phải được ghi vào bản án. Nếu không, bản án (tử hình - NVK chú) thành vô giá trị”.
Xử Phạm Quỳnh trước khi có sắc lệnh lập Tòa án Quân sự, “cũng phải” thôi! Sau khi có sắc lệnh lập Tòa án Quân sự ngày 13/9/1945 rồi, tại sao đến ngày 9 tháng 12 cùng năm, Ủy ban Khởi nghĩa mới báo cáo lên tòa án - một việc đã làm cách đó hơn ba tháng? Với mục đích gì? Nhằm giải quyết việc gì?
Phải chăng đây là một “tờ trình” cho hợp lệ, khi Ủy ban Khởi nghĩa có thể không còn, thời gian “thiết quân luật” đã qua, việc “kết án tử hình đã thi hành ngay rồi”. Cũng cần nói thêm là khó có thể tránh… Tuy nhiên, nước nhà đã độc lập, đã có chính phủ, chính quyền các cấp, người công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải được hưởng quyền công dân (tự do báo chí, hội họp… không bị xâm phạm thư từ, tài sản, càng không được xâm phạm tính mệnh). Nhưng những người lãnh đạo ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, chịu trách nhiệm trước dân lại vô tình (hay hữu ý?) không biết (hay cậy quyền?) dựa vào uy tín của cách mạng, tự tiện quyết định mà không cần xin phép, không báo cáo…Họ chủ trương (có hay không?) làm một việc đã rồi. Khoan nói đến tầm nhìn hạn hẹp, ấu trĩ, mà cần xem xét sự việc này như là một “di căn” của “đấu tranh giai cấp” từ 1930 - 1931 còn sót lại, với “Trí-Phú-Địa-Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của những “nhà cách mạng yêu nước” tinh thần cao nhưng lại giáo điều, tả khuynh “hủ Mác”.[19]
Tạp chí Tri Tân số 205 ra ngày 7/9/1945 (suýt soát ngày 6 (7) Phạm Quỳnh bị thủ tiêu) đăng bài Cuộc hội đàm giữa Cụ Hồ Chủ tịch với ba đại biểu Liên đoàn Văn hóa (Trương Tửu, Thượng Sĩ, Nguyễn Đức Quỳnh - NVK chú).
Trong buổi gặp ấy, Cụ Hồ có nói: “Trong chính phủ lâm thời có cả vua, quan lại cũng có, địa chủ cũng có, nông dân cũng có, công nhân cũng có (chú ý: Bác không nói Việt Minh - Cộng sản - Dân chủ - Quốc Dân đảng - NVK chú)… Lúc này bất cứ người nào miễn là có tài và đừng phản cách mạng thì có thể phụng sự quốc gia, Tổ quốc”…[20]
Chắc chắn là vẫn còn những nhân chứng, chi tiết, sự kiện mà lịch sử chưa tiếp cận được, chưa khai thác được, hoặc chưa tìm ra, chưa công bố được nhiều vụ việc - trong đó có “vụ Phạm Quỳnh”.
Chúng ta có thể tự an ủi rằng: Bác Hồ đã “gặp” Phạm Quỳnh rồi mà vẫn “lỡ” [21]. “Gặp” ở tinh thần yêu nước, muốn làm gì đó để nước thoát khỏi ách nô lệ, mỗi người theo cách riêng của mình, “gặp” ở tri thức, “gặp” ở sự cống hiến cho Tổ quốc. Còn “lỡ” là “lỡ” không kháng chiến, kiến quốc, “lỡ” để mất đi “một học giả”… khi chính Cụ Hồ, Tổ quốc đang rất cần những “học giả” như thế…
Không phải là “bới lông tìm vết”. Mà khoa học lịch sử là phải công bằng, rõ ràng công, tội: Công bao nhiêu, tội bao nhiêu?.
Không thể “mờ mờ nhân ảnh”, để thế hệ này và cả các thế hệ mai sau cũng “mờ mờ” theo [22].
N.V.K
Chú thích:
[1] Xin nói rằng bộ phim Ngọn nến hoàng cung, dù là phim “tiểu thuyết lịch sử” (do đạo diễn tuyên bố) nhưng đã “sáng tác” ra  quá nhiều chi tiết-sự kiện phi lịch sử - sai lệnh về cách ứng xử, nhân cách của các nhân vật trong phim.
[2] Đặng Văn Việt, năm 2009 vẫn còn sống, ở tuổi 90, là “đệ tứ quốc lộ đại vương”, vua đường số 4 những năm 1949-1950; Cao Pha, thiếu tướng Cục Tình báo, đã mất.
[3] Võ Quang Hồ, thiếu tướng, 120/6 đường Lê Văn Thọ, Phường 11, Quận Gò Vấp, TpHCM. Điện thoại số: 3996 7419
[4] Phan Tử Lăng bỏ nghề dạy học để đi học Võ bị Tông, cùng khóa với Dương Văn Minh, tổng thống Việt Nam Cộng hòa sau này, được chính phủ Trần Trọng Kim giao “Tổng chỉ huy lực lượng vũ trang của chính phủ”, trực tiếp chỉ huy lực lượng Bảo An binh Trung Bộ, đồng thời là Hiệu trưởng trường Thanh niên Tiền tuyến.
[5] Tư liệu viết tay 10 trang, Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993, Tuyên huấn Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế nhận chiều 14/11/1993
[6] Trung đoàn phó 84 - Quân khu V, liệt sĩ 1950. Địa chỉ gia đình: nhà 50- đường 40 - phường Thảo Điền - Quận 2 - Tp.HCM. Điện thoại số:  3512 5778
[7] Theo bài thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 15/8/1995, ông đã mất năm 2004. Địa chỉ gia đình: số 9 đường Đống Đa, phường 2, quận Tân Bình, Tp.HCM. Điện thoại số: 3844 7396
[8] Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử tập II, 1930-1945, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, các trang 283, 284, 285…
[9] Theo hồi ký Trần Huy Liệu: “Nhớ là ngày 25/8/1945, phái đoàn chính phủ lâm thời từ thủ đô Hà Nội ra đi bằng hai chiếc ô tô, có một tiểu đội Giải phóng quân đi theo bảo vệ. Trong khi ấy bọn Pháp đã bắt đầu nhảy dù xuống Huế, tên Pháp vừa nhảy xuống đã hỏi ngay Bảo Đại, Phạm Quỳnh. Ta đã xử lý thích đáng ngay nhiều tên tay sai của Pháp như Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh” Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 18 (tháng 9 năm 1960).
[10] Tư liệu của nhà văn Sơn Tùng gửi Nhạc sĩ Phạm Tuyên, 12/2008. Trong lúc đó, Phạm Quỳnh đã bị bắt mà Chủ tịch nước vẫn chưa biết (không được báo cáo). Bác viết thư chứ không đánh điện, có thể là một cử chỉ coi trọng người hiền tài.
[11] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, chủ biên Nguyễn Khánh Toàn, Lịch sử Việt Nam tập II, NXB Khoa học Xã hội, 1985, trang 340)
[12] Nhà văn Sơn Tùng thuật lại theo ý kiến của Vũ Đình Huỳnh, Bí thư của Bác hồi đó.
[13] Có nghĩa là “Không cần thế, có thể có cách khác”.
[14] Theo gia đình Phạm Quỳnh thì ông mất vào ngày 6/9/1945.
[15] Sách Trường Thanh niên Tiền tuyến - Huế, trang 242. Đoàn Huyên, thiếu tướng đã mất năm 2004. Địa chỉ gia đình: 7 Đống Đa, phường 2, quận Tân Bình, TpHCM. Điện thoại số: 3844 6322
[16] Trong hồi ký này không thấy Pháp có hỏi han gì về Phạm Quỳnh
[17] Lưu tại thư viện Trung ương Hà Nội, ký hiệu T520, không rõ Ngô Đình Huân, con trai Ngô Đình Khôi, “Việt Gian đại bợm” thế nào? Thông tin về con người này còn quá ít
[18] Tư liệu của nhà văn Sơn Tùng gửi nhạc sĩ Phạm Tuyên, ghi theo lời kể của ông Đào Nhật Vinh và Vũ Đình Huỳnh. Qua chữ khử mà Tôn Quang Phiệt dùng dễ nhận ra là ông Tôn Quang Phiệt cũng không đồng ý việc xử lý Phạm Quỳnh và cả cách (phương pháp) tiến hành vụ xử. Và dù ông Phiệt không đồng ý cũng chẳng làm được gì.
[19] Trong Cách Mạng Tháng Tám, ở Trung Bộ, Nam Bộ từng xảy ra một số vụ “xử bắn”, “bắt giam” người trái phép rất đáng tiếc. Còn ở Bắc Bộ, nhiều quan Tổng đốc, Án sát… do “đoàn thể” quán triệt đường lối của Đảng nên đã may mắn được an toàn.
[20] Cuối năm 1945, sau khi Đảng ta tuyên bố tự giải tán, trong một lần trả lời các nhà báo, Bác nói: “Sau này tôi sẽ thành lập một đảng mới. Đảng ấy có tên gọi là Đảng Việt Nam. Chỉ có hai hạng người không được vào Đảng: phản quốc và tham ô”.
[21] Bài Đã gặp rồi mà vẫn lỡ đăng trên Nhà báo Huế, Xuân 2009.
[22] Một vị Tổng đốc Hà Đông, giàu tiền lắm ruộng, xây lăng to, không ít “thành tích”, chỉ viết có một cuốn sử mỏng, vậy mà cũng đã được công chúng ngày nay hoan nghênh. Tại sao đánh giá, xác định vai trò của Phạm Quỳnh - người có công lớn với văn hóa nước nhà, lại phức tạp, khó khăn đến thế? Liệu lịch sử còn công bằng không? Có thể còn kéo dài chế độ thi tốt nghiệp trung học phổ thông chưa hề có môn lịch sử?.
Mấy điều “Giám định và bổ sung tư liệu”
Phạm Tôn
Lời dẫn của Phạm Tôn: Bài này, Phạm Tôn tôi viết và gửi đến Tổng biên tập tạp chí Hồn Việt ngày 30/11/2008, tức là sau khi tạp chí đã tuyên bố kết thúc cuộc thảo luận, cho nên không được đăng. Sau đó, chúng tôi còn gửi cho Tạp chí Nghiên cứu Văn học thuộc Viện Văn học Việt Nam. Đây là nơi Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn từng công tác nhiều năm và cũng từng là viện trưởng một thời gian không ngắn. Chúng tôi nhận được điện thoại của một cán bộ lãnh đạo tạp chí báo là đã nhận được và đã đọc bài của chúng tôi. Khi chúng tôi cho biết ý định gửi bài chỉ là để có thông tin hai chiều, không dám nghĩ là bài sẽ dễ dàng được đăng, thì vị cán bộ đó tỏ ý hài lòng vì chúng tôi đã thông cảm với “khó khăn tế nhị” của tạp chí trong trường hợp này.
Hôm nay, để nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật như tinh thần các nghị quyết của các Đại hội Đảng, nhất là từ Đại hội lần thứ VI đến Đại hội lần thứ X, chúng tôi tin chắc chắn là đại hội XI của Đảng sẽ càng đi sâu hơn vào các vấn đề còn “treo” hàng mấy chục năm nay cũng theo tinh thần đó, cho nên đăng bài này, kèm theo là bài của chính giáo sư Nguyễn Văn Hoàn để bạn đọc có điều kiện hiểu rõ vấn đề đã rất cũ (“treo” hơn 60 năm rồi…) này hơn. Ngoài ra còn thêm bài Kỷ lục gia số 2: Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn, người tìm ra tội phản quốc lớn nhất, hiện hành của Phạm Quỳnh, của tác giả Dân Thường, đã đăng trên Blog PhamTon tuần 5 tháng 8 năm 2009.
Cuộc “Trao đổi - Ý kiến về trường hợp Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh” mở đầu trên Hồn Việt số 14, đến số 17 thì kết thúc, vẻn vẹn có bốn số báo. Trong Lời kết cho một cuộc thảo luận, Hồn Việt viết “với bài viết của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn – Nguyên phó viện trưởng Viện Văn học, chúng tôi tạm kết thúc (…). Cuộc trao đổi đã diễn ra một cách dân chủ, thiện chí với những ý kiến sâu sắc. Vấn đề, theo chúng tôi như thế là đã rõ” (Hồn Việt 17 – Tháng 11/2008). Nhưng, có thật là đã rõ không?
Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn viết trong bài trên “Tháng 7 năm 2008 tỉnh Hà Tĩnh tổ chức kỷ niệm lần thứ 130 ngày sinh nhà Chí Sĩ yêu nước Ngô Đức Kế. Tôi có bản tham luận Nhà Chí Sĩ Ngô Đức Kế, từ tù nhân Côn Đảo đến một nhà báo (…). Một bạn đồng nghiệp, giáo sư Khoa văn Đại học Sư phạm Hà Nội, sau khi đọc bản tham luận của tôi đã hỏi:
“- Nếu như năm 1945, chiếc xe chở Phạm Quỳnh ra Hà Nội được trót lọt, rồi ông sẽ cộng tác với Chính phủ Cụ Hồ như cụ đồng liêu Bùi Bằng Đoàn thì đến nay, chúng ta nói về ông có khác không?
“Thảo luận lịch sử trên cơ sở chữ nếu thì thật là thiếu căn cứ, đối với lịch sử thì tốt hơn là hãy tìm hiểu xem tại sao một sự kiện đã xảy ra như thế! (Chúng tôi nhấn mạnh - PT).”
Có một người đã cố “tìm hiểu xem tại sao một sự kiện đã xảy ra như thế!”, đồng thời cũng đưa ra một chữ nếu mà giáo sư đã cho là thiếu căn cứ. Đó là Trần Thanh Đạm. Trong bài Mấy ý kiến về nhà chính trị và nhà văn hóa Phạm Quỳnh (1892-1945) đăng trong Hồn Việt 15 (Tháng 9/2008), ông viết “có lẽ điều đáng ghi nhận nhất của ông là tuy làm quan cao chức trọng như vậy cho chế độ thực dân phong kiến, song không nghe nói ông có phạm tội gì làm hại những người yêu nước và cách mạng như những tên tay sai thô bỉ và độc ác khác. (…) ông vẫn còn giữ được ít nhiều phong độ trí thức, nhiều người chê trách ông song cũng nhiều người kính nể ông. (…) Cuối đời ông diễn ra trong bi kịch và kết thúc trong thảm kịch. (…) Lịch sử ở đây công minh song cũng hơi tàn nhẫn.
“Điều đáng tiếc là cái chết của Phạm Quỳnh. Quả là ông đã gặp một tai nạn. Ông là nạn nhân đáng tiếc của tính tự phát lịch sử, kể cả lịch sử cách mạng. (…) ngoài ý muốn của các nhà cách mạng chân chính. Tiêu biểu là thái độ và tình cảm của Bác Hồ đối với ông được người đương thời làm chứng và thuật lại. Có nhiều chứng cứ và chứng nhân, song tôi chú ý lời kể của nhà thơ Huy Cận khi từ Huế trở về gặp Bác, báo cáo với Bác về chuyện Phạm Quỳnh gặp nạn ở Huế: “Bác thở dài nắm tay tôi và nói “Đã lỡ mất rồi!””. Quả đúng là tấm lòng của Bác và cũng là chính sách của Bác. Đồng thời và đồng liêu với Phạm Quỳnh còn có bao nhiêu nhân vật, nhân sĩ của chính quyền Nam triều khác như: Thái Văn Toản, Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, Vi Văn Định, Ngô Đình Diệm và bao nhiêu người khác nữa nhất là vị hoàng đế đương thời là Bảo Đại, chưa nói đến các vị như Bùi Kỷ, Phạm Khắc Hoàng, Vũ Đình Hòe, Phan Anh, Hoàng Xuân Hãn trong chính phủ Trần Trọng Kim. Có ai bị cách mạng kết án hay xúc phạm gì đâu, nói chi đến xử tử hình. Rõ ràng là Phạm Quỳnh gặp tai nạn, tai họa rất đáng tiếc.
“Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng Phạm Quỳnh nếu (chữ này giáo sư Nguyễn Văn Hoàn đã khuyên không nên dùng-PT) không gặp tai nạn không may ấy mà còn sống đến sau cách mạng thì với tài năng, tấm lòng và phẩm chất trí thức cá nhân của ông, với chính sách đoàn kết rộng rãi của Bác Hồ, nếu không tham gia cách mạng và kháng chiến, không tiếp tục đóng góp cho văn hóa học thuật, thì ông ít nhất cũng được sống an toàn, yên ổn như một người Việt Nam bình thường, như bao người khác. Riêng tôi tôi tin tưởng ông có thể như Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, Thái Văn Toản, Vi Văn Định. Chứng cớ là gia đình ông các con ông đều đã là những chiến sĩ yêu nước, những hiền tài giúp nước như Phạm Khuê, Phạm Tuyên, các con khác tuy ở nước ngoài song tôi không hề nghe có lời nói hay hành vi chống lại tổ quốc hay cách mạng vẫn một lòng trung với nước, hiếu với dân, dù rất đau đớn vì sự tử nạn của người cha thân yêu, song không hề bị kẻ địch và bọn xấu mua chuộc, lợi dụng, vẫn hy vọng có ngày chiêu tuyết cho cha. (…) Hơn 60 năm nay, ông là một câu hỏi lớn, một mối hồ nghi trong dư luận và nhận thức của bao nhiêu người ở bên này hay bên kia chiến tuyến. (…) cách mạng khó giải thích thanh minh, phản cách mạng muốn khai thác lợi dụng. Nỗi đau của gia đình ngày càng lớn vì sự oan khuất của ông. (…) Không nhập nhoạng biến xấu thành tốt, biến tội thành công, đảo điên chính tà, lẫn lộn phải trái, song đối với những nhân vật lịch sử có những số phận bi kịch như Phan Thanh Giản thế kỷ XIX, Phạm Quỳnh thế kỷ XX, thiết tưởng cần có sự đánh giá lại một lần nữa để thể hiện tấm lòng của lớp người đi sau đối với lớp người đi trước. (…) chúng ta mong mỏi sang thế kỷ XXI tinh thần Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh không chỉ bao trùm lên tất cả những người còn sống mà cũng hòa giải được cả những người đã khuất, nhất là những người cùng chịu những đau khổ, hy sinh, tổn thất do tai họa chung của dân tộc mà thủ phạm là các thế lực tham lam độc ác từ bên ngoài gây ra cho chúng ta từ thế kỷ XIX và vẫn chưa buông tha cho chúng ta cho đến thế kỷ XXI”
Đúng là lịch sử đã diễn ra như nó đã diễn ra. Nhưng đó có phải là tất yếu, hợp lý, hợp pháp, hợp lòng dân không thì người đời-người đương thời và người muôn đời sau- đều có thể phán xét, có thể kết luận khác hẳn những gì đã được viết, thậm chí đã được ghi vào lịch sử

Vì sao giáo sư Nguyễn Văn Hoàn cứ cố giữ cái lập luận người dân đã chán nghe hơn 60 năm qua như thế? Có thể vì giáo sư kiên trì quan điểm “A.Q không phải là người lương thiện, chứng cớ là y đã bị bắn. Vì rằng: nếu là người lương thiện thì sao lại bị bắn kia chứ” (Chúng tôi nhấn mạnh-PT) như văn hào Lỗ Tấn đã viết trong phần kết thiên kiệt tác A.Q Chính truyện (Lỗ Tấn: Gào Thét, NXB Văn Hóa Viện Văn Học, Hà Nội, 1961, bản dịch của Trương Chính). Và “dưới ánh sáng” của quan điểm ấy, trong bài viết dài nhất cuộc thảo luận này, Chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh, giáo sư cố gắng tìm ra thêm các tội mới gán cho Phạm Quỳnh. Căn cứ vào bài báo ta thấy các tội mới ấy như sau:
“Tội” thứ nhất: “Tóm lại theo Phạm Tôn, Phạm Trọng Nhân, Thanh Lãng, Xuân Ba thì từ sau đảo chính Nhật ngày 19/3/1945, Phạm Quỳnh đã dứt khoát rời bỏ chính trường, an nhiên ngâm bài Quy khứ lai từ, trở lại vui thú bút nghiên! (…) Ngay bản thân Phạm Quỳnh cũng tuyên bố như thế. (…) có một nhà báo lặn lội từ Hà Nội vào Huế (…) để đến biệt thự Hoa Đường ở An Cựu phỏng vấn Phạm Quỳnh. Hỏi: Chúng tôi muốn biết rồi đây cụ có hoạt động về chính trị nữa không, hay trở về với văn học giới? Đáp: Suốt một đời tôi đã phụng sự cho văn học thì ngày nay không vì lẽ gì tôi lại không muốn trở lại cái đời cầm bút đã bị một thời bỏ dở ” (…) Phạm Tôn để chứng minh Phạm Quỳnh là “người nặng lòng với nước” đã dùng lại tư liệu và lập luận (Phạm Tôn không dùng lập luận-PT) của Nguyễn Phúc Bửu Tập (…) để chứng minh “tấm lòng son” của Phạm Quỳnh (…) dẫn ra bản báo cáo mật của Haelewyn, khâm sứ Trung kỳ gửi cho toàn quyền Decoux tố cáo Phạm Quỳnh đã trách cứ Pháp trưng dụng lúa gạo để cung ứng cho Nhật và vẫn kiên trì đòi Pháp trả quyền cai trị Bắc kỳ cho Nam triều nhưng cả hai đều bỏ qua ý kiến này trong bản mật báo “Phạm Quỳnh sẽ có thể trở thành kẻ đối địch bất khả quy của chúng ta nếu như một khi ông ta bị lôi cuốn bởi lời hứa hẹn của Nhật Bản cho một chủ thuyết Đại Đông Á”. Sự thật là cả Nguyễn Phúc Bửu Tập và Phạm Tôn đều trích nguyên văn bản mật báo, không bỏ qua ý kiến này.
Giáo sư còn dẫn việc trong cuốn Phạm Quỳnh Tuyển tập và Di cảo xuất bản ở Paris năm 1992, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Phạm Quỳnh “bài thứ 6, nhan đề Chuyện một đêm một ngày (9-10 tháng 3 năm 1945) cố ý bị bỏ quên” và ý kiến của Nguyễn Văn Trung, Phạm Khắc Hòe để đi đến kết luận là “tóm lại, việc quân Nhật và Phạm Quỳnh âm mưu liên lạc và câu kết với nhau là nguyên do đầu tiên đưa đến việc Phạm Quỳnh bị bắt giữ. Sau đó việc quân Pháp tìm cách trở lại Huế thực hiện âm mưu tái chiếm Đông Dương của chính phủ De Gaulle lại khẳng định sự đúng đắn và cần thiết của việc bắt giữ đó”.
Sự thật có khác với điều khẳng định trên của giáo sư. Tuần báo Quyết Thắng, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung Bộ, số 11 (ra ngày 9 tháng 12 năm 1945) đăng toàn văn thông báo của Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương gửi Toà án Quân sự Thuận Hóa, phần nói về tội của Phạm Quỳnh có ghi “Mặc dù chính quyền của giặc Pháp đã bị truất sau ngày đảo chính 9/3/1945 nhiều triệu chứng tỏ rằng Phạm Quỳnh chỉ chờ cơ hội rước bọn thực dân Pháp đến làm cho diệt nước chúng ta”. Ngay từ năm 1945, Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương cũng không nhận định là “quân Nhật và Phạm Quỳnh âm mưu liên lạc câu kết với nhau” như giáo sư khẳng định 63 năm sau khi sự việc xảy ra
Còn việc trong Phạm Quỳnh, Tuyển tập và Di cảo không có bài số 6 thì bà Phạm Thị Hoàn, người giữ bản quyền tập sách đó, năm 1993 về thăm nhà có nói với tôi chỉ vì “bài đó hoàn toàn không có tính văn chương, chỉ như là một đoạn nhật ký ghi lại tỉ mỉ sự việc mà thôi”. Chúng tôi có trong tay bản photocopy toàn bộ tập di cảo đó, viết trong một quyển vở bìa trước có in hình vua Bảo Đại, bìa sau in hình một con rồng ôm chặt lấy quả địa cầu. Bài số 6 nguyên tên là Đêm ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, sau Phạm Quỳnh xóa đi và viết lại lên trên là Chuyện một đêm một ngày (9-10 tháng 3 năm 1945) viết từ trang 18 đến trang 26. Trong bài Phạm Quỳnh kể lại sự việc xảy ra với mình từ khoảng 9 giờ tối hôm mùng 9 ông đang cùng con trai là Phạm Bích nói chuyện tại tư thất Bộ Lại đến 10 giờ đêm ngày mùng 10 “các cụ Cơ mật lại họp ở Bộ Lại để tiếp quan đặc sứ (Yokohama-PT) và thảo tờ  Tuyên bố Độc lập”. Bài viết kết thúc bằng câu “đều là những việc quan trọng, thuộc về lịch sử, tôi được may mắn dự vào, đóng một vai chính, sau này sẽ có dịp thuật tường”. Trong bài cũng ghi rõ khi Nhật đảo chính thì nhà vua và hoàng hậu còn ở Quảng Trị đến khuya đêm hôm ấy mới về, cho nên người tiếp phó lãnh sự Ishida và một võ quan nữa là Phạm Quỳnh, Thượng thư Bộ Lại, người giữ chức vụ cao nhất sau nhà vua. Các bài khác trong tập Hoa Dường Tùy Bút – Kiến văn cảm tưởng I có tên như sau, tất cả đều mang tính văn chương, khác hẳn bài số 6: 1, Thế thái nhân tình; 2, Muốn sống… 3; Chỉ buộc chân voi; 4, Văn học, chính trị; 5, Vô duyên; 7, Con người hiểm độc; 8, Anh chàng khoác lác; 9, Lão Hoa Đường, Thiếu Hoa Đường; 10, Tư tưởng Keyserling; và 11, Cô Kiều với tôi (bài này viết dở dang ở cuối trang 48). Như vậy chứng tỏ không có lý do gì để cho rằng bài đó cố ý bị bỏ quên vì là bằng chứng về việc “Phạm Quỳnh là nhân vật chính mà Nhật tìm đến để liên lạc, đề nghị thương thảo để thuyết phục nhà vua cộng tác với Nhật” như Nguyễn Văn Trung khẳng định và giáo sư Nguyễn Văn Hoàn dẫn lại đã nhấn mạnh thêm. Chính trong Lời kết cho một cuộc thảo luận Hồn Việt cũng chỉ nói “đã có những hành động chính trị đáng ngờ, bọn Pháp Nhật cũng tìm cách lôi kéo ông (Hồn Việt 17, tháng 11/2008) chứ không khẳng định như giáo sư. Sự hiểu lầm có lẽ tại mấy chữ của người viết lời mở đầu phần Di cảo là in lại trọn vẹn. Nhận ra thiếu sót này, ông Phạm Tuân con trai út của Phạm Quỳnh và vợ là Hoàng Hỷ Nguyên, khi cho xuất bản tập Giải oan lập một đàng tràng (cơ sở xuất bản Tâm Nguyện, 2001 tại Hoa Kỳ) đã cho in lại nguyên văn bài này từ trang 433 đến trang 439. Việc “phát hiện ra” thiếu bài này không phải là “công” của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn mà là do một số trí thức Việt Kiều vẫn nhiều năm băn khoăn cố tìm hiểu nguyên nhân cái chết của Phạm Quỳnh mà họ cho là không đáng chết và tìm cách lý giải việc đó, đã phát hiện ra là sau đảo chính những người Nhật đầu tiên tiếp xúc với Nam triều đã đến gặp Phạm Quỳnh. Sự thật như chúng ta đã biết chỉ vì Bảo Đại đi săn khuya hôm đó mới về, nên sáng hôm sau mới gặp người Nhật. Còn Phạm Quỳnh vì thấy đêm hôm đó và ngày hôm sau có quá nhiều sự kiện liên quan đến những vấn đề lịch sử, cho nên ông thấy cần ghi lại rõ ràng, tỉ mỉ, đủ nhân chứng, để sau này có dịp sẽ tìm hiểu rõ ý nghĩa của những sự việc đó. Cho nên bài không có tính văn chương, chỉ ghi lại đúng sự việc, từ giờ giấc, đến những nhân vật mà không có một lời nào bình luận hoặc nói lên cảm nghĩ của mình.
Ngoài ra việc quân đội Pháp nhảy dù xuống Hiền Sỹ sáng 29/8/1945 và mười ngày sau, một đơn vị lính Pháp lại đổ bộ vào cửa biển Thuận An “để liên lạc với quan lại bản xứ lập lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương” cũng không liên quan gì đến Phạm Quỳnh. Vì ngay khi đến bắt ông hôm 23/8/1945, sinh viên trường Thanh niên Tiền tuyến – Huế Phan Hàm đã khám xét cẩn thận khắp nhà không hề thấy có điện đài, vũ khí, ngoại trừ một khẩu súng săn của con trai ông là Phạm Khuê lúc ấy đang đi dự mít tinh ở sân vận động Huế. Điều này đã được thiếu tướng Phan Hàm – nguyên là sinh viên Thanh niên Tiền tuyến năm xưa tường thuật rõ trong tư liệu 10 trang viết ngày 8/11/1993 và ban tuyên huấn Thừa Thiên Huế nhận ngày 14/11/1993 mà chúng tôi hiện có trong tay. Như vậy là đúng như Phạm Tôn, Phạm Trọng Nhân, Thanh Lãng, Xuân Ba và cả Nguyễn Vạn An viết là sau đảo chính Nhật 9/3/1945, Phạm Quỳnh đã từ quan về ở ẩn dật trong biệt thự Hoa Đường bên sông nhỏ An Cựu, chuẩn bị trở lại với sự nghiệp văn học mà suốt đời ông yêu quý, trước hết là đọc và lựa chọn rồi dịch nghĩa 51 bài thơ Đỗ Phủ, gửi cho người bạn thân thiết ở phương Nam là thi sĩ Đông Hồ Lâm Tấn Phác, rồi bắt đầu khởi thảo Hoa Đường Tùy Bút – Kiến Văn Cảm Tưởng I, mới viết đến trang 48, dở dang bài số 11, Cô Kiều với tôi thì được Ủy ban Cách mạng “mời đi họp” để rồi không bao giờ về nữa.
Thật bất ngờ “tội mới” thứ hai của Phạm Quỳnh là “tôi (tức giáo sư Nguyễn Văn Hoàn ngày ấy-PT) hay trò chuyện trao đổi ý kiến với ông (tức Nguyễn Tiến Lãng, con rể Phạm Quỳnh-PT), từ vụ ông bị bắt ở Huế đến tạp chí Nam Phong và Phạm Quỳnh. Có vài ý kiến ông nói hồi đó, tôi không hiểu rõ lắm nhưng cũng không tiện hỏi thêm, chẳng hạn, theo ông, Phạm Quỳnh là một người rất kín đáo và khó hiểu, ông thú nhận là – không thể hiểu nổi Phạm Quỳnh” (trích bài đã dẫn của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn).
“Tội” thứ 3 mà cũng là tội lớn nhất là “ba tên Việt gian tối nguy hiểm Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân đã bị Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương kết án tử hình và bị bắn ngay trong thời kỳ thiết quân luật. Tài sản và vật dụng của ba tên phản quốc ấy đều bị tịch thu và quốc hữu hóa” (Nhật báo Quyết Chiến, cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân cách mạng – Huế, số 88 (ra ngày thứ tư 5/12/1945)) và “Phạm Quỳnh một tay cộng sự rất đắc lực của giặc Pháp trong việc củng cố địa vị của Pháp ở Đông Dương, đã bao phen làm cho quốc dân phải điêu đứng. Phạm Quỳnh đã giúp sức cho quân cướp nước làm mê muội dân chúng Việt Nam. Với cái nghề mãi quốc cầu vinh, Phạm Quỳnh đã từ một tên viết báo nhảy lên một địa vị cao nhất trong hàng quan lại Nam triều. Phạm Quỳnh lại còn dựa vào thế lực Pháp và địa vị của mình bóc lột vơ vét tài sản của quốc dân”(Chúng tôi nhấn mạnh-PT) (Tuần báo Quyết Thắng, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung bộ số 11 (ra ngày 9 tháng 12 năm 1945)). Chắc giáo sư rất muốn nêu những tội này lên nhưng sau nghĩ kĩ lại thì thấy không ổn nên thôi. Hoặc có phần chắc chắn hơn là Hồn Việt thấy chướng quá, đưa ra vô duyên nên cắt bỏ đi. Tiếc là Hồn Việt số 17 ra muộn hơn mọi khi 2 ngày (thường lệ ra ngày 30; tháng 10 lại có 31 ngày mà ngày mùng một mới ra được) chắc là biên tập vội nên đã để sót ở phần chú thích vẫn còn số “(15) Nhật Hoa Khanh, Phạm Quỳnh và bản án tử hình đối với ông, tạp chí Xưa và Nay, Hà Nội, số 269, 10/2006”. Thành ra có chú thích số (15) nhưng trong bài chỉ có số (12), (13), (14), sau đó thì nhảy luôn đến (16), hoàn toàn không có chú thích số (15). Hơn nữa, từ 2006 khi đăng bài của Nhật Hoa Khanh công bố tư liệu đăng trên hai tờ Quyết Thắng và Quyết Chiến trên thì Xưa và Nay đã phải viết trong lời tòa soạn in bằng chữ to đậm ở trước bài báo là “vẫn còn một điểm nghi vấn. Đó là hai bài báo được viết vào tháng 12/1945, bốn tháng sau khi Phạm Quỳnh đã bị hành quyết, như vậy để nhằm mục đích gì?” (Tạp chí Xưa và Nay số 269, tháng 10/2006).
Thành ra bài của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn dài hơn bốn trang rưỡi, tên bài là Chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh mà trong suốt bài không có một chữ nào viết về cái chết của Phạm Quỳnh. Có chăng chỉ là ở phần mở đầu có mấy dòng “Sau khi gia đình Ngô Đình Diệm tìm được ngôi mộ chôn chung Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh ở khu rừng Hắc Thú, gần Hiền Sĩ thuộc tỉnh Quảng Trị (1956)” (bài đã dẫn của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn). Lần trước, trong bài Bài báo “mới mà cũ” tôi có ý trách nhà văn Thái Vũ trong suốt ba trang bài báo có đầu đề Về cái chết của ông Phạm Quỳnh (Hồn Việt số 16 tháng 10/2008) mà chỉ viết về cái chết ấy có bảy dòng. Nay thì giáo sư nguyên Viện trưởng Viện Văn học lại còn “cao tay” hơn, không thèm viết lấy một chữ! Giáo sư còn điều gì e ngại chăng…?. Tất cả lập luận của ông về âm mưu liên lạc, câu kết chờ Nhật, Pháp, cứ cho là đứng vững đi nữa thì cũng chỉ đủ đến mức bị coi là “những hành động chính trị đáng ngờ” như Hồn Việt mới viết đây thôi, tức là bị nghi vấn, có thể bị bắt tạm giam, nhưng không đủ để đem đi giết, mà lại giết một cách dã man, chém nứt sọ bằng cuốc xẻng rồi mới bắn ba phát súng vào lúc đêm khuya, bên rừng vắng?!
Thật tình đọc bài viết của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn nặng tính chất “xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm”, chúng tôi không có ý muốn đáp lại, nhưng đọc đến phần cuối thì lại thấy nên nói vài điều vì giáo sư viết “khi nói về người đã chết thì phải hết sức thận trọng, phải hết sức khách quan và trung thực, không được vì một động cơ cá nhân nào mà cố ý nói sai sự thật, dù theo hướng tô hồng hay bôi đen; hơn nữa cần nhớ rằng: trong lĩnh vực lịch sử và khoa học xã hội nói chung, dù có thiện chí cũng rất khó nắm bắt được chân lý chính xác trăm phần trăm. Trên tinh thần đó, tôi thành thật mong nhận được sự giám định và bổ sung tư liệu của đông đảo bạn đọc” (bài đã dẫn của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn).
Tôi cũng xin thành tâm cố gắng “giám định và bổ sung tư liệu” cho bài của giáo sư như trên. Mong giáo sư vui lòng nhận cho tấm lòng thành của tôi.
Phạm Tôn
30.11.2008
Phần đầu bản thảo viết tay của Phạm Quỳnh bài số 6 - Chuyện một đêm một ngày (9-10 tháng 3 năm 1945). Ở trang 18 tập Hoa Đường Tùy Bút - Kiến Văn Cảm Tưởng I
TRẢ LẠI SỰ SÁNG TRONG CHO PHẠM QUỲNH
Hà Khánh Linh, Nhà văn
Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Hà Khánh Linh, tên khai sinh là Nguyễn Khoa Như Ý, hội viên Hội nhà văn Việt Nam, sinh tại Huế, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước tại Thừa Thiên Huế. Hiện ở tại số 24/7 đường Chế Lan Viên, thành phố Huế.
Những tác phẩm đã xuất bản gồm có Thúy, tiểu thuyết, nhà xuất bản Văn Nghệ Giải Phóng, 1973; Nụ cười Ápxara, tập truyện, NXB Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, 1983; Là bóng hay là hình, tập truyện, NXB Tác Phẩm Mới, 1986; Chiến tranh và sau chiến tranh, tiểu thuyết, NXB Thanh Niên, 1989; Rừng và cái chết con thiên nga, tiểu thuyết, Hội văn nghệ Thừa Thiên - Huế, 1992; Góa phụ Paris, tập truyện, NXB Văn Học, 1993; Trăng cứu rỗi, thơ, NXB Hội Nhà Văn, 1995; Những bọt bóng màu, thơ, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Con gái người cung nữ, tiểu thuyết, NXB Phụ Nữ, 1999; Vũng Chân Mây, tập truyện, NXB Đà Nẵng, 1999; Ngày ấy, Trường Sơn…, Hồi ký, NXB Hội Nhà Văn, 2000; Vì người mà tôi làm vậy, tập truyện, NXB Hội Nhà Văn, 2001; Người cắm hoa nhà thờ, tiểu thuyết, NXB Văn Học, 2002; Người kinh đô cũ, tiểu thuyết, NXB Hội Nhà Văn, 2004;… Và đàn bà, tập truyện, NXB Văn Nghệ, 2007; Phùng Quán viết Trăng Hoàng Cung, tự truyện, NXB Thuận Hóa, 2007; Ôi trần gian, tiểu thuyết, NXB Thanh Niên, 2008…
Từ lâu nhà văn Hà Khánh Linh đã quý mến học giả Phạm Quỳnh và coi “Vấn đề Phạm Quỳnh là vấn đề của lương tâm thời đại”. Với tâm thức đó, bà đã viết bài báo này vào cuối năm 2006.
Sinh ra và lớn lên tại Huế, sau chiến tranh được sống và được làm việc ở Huế, tôi có điều kiện tiếp xúc nhiều với các giới đồng bào, càng thêm hiểu tâm tình bà con với những ai đã từng yêu quý và sống hết mình với Huế, vì nước vì dân. Năm 1945, sau khi cùng phái đoàn chính phủ vào Huế tước ấn kiếm và dự lễ thoái vị của Bảo Đại, ra Hà Nội báo cáo với Hồ Chủ tịch, nhà thơ Huy Cận đã không quên nói lên tâm tình của dân Huế. Sau này, ở tuổi ngoài tám mươi, ông đã hai lần kể lại rành rọt cho nhạc sĩ Phạm Tuyên, con trai Phạm Quỳnh câu chuyện xưa mà ông không bao giờ quên: “Năm 1945, cuối tháng 8, tôi là Bộ trưởng Bộ Canh Nông của chính phủ Cách mạng lâm thời, được tham gia phái đoàn chính phủ vào nhận sự thoái vị của Bảo Đại, có nghe dân chúng xì xào nhiều về chuyện Cụ Phạm bị xử tử hình. Khi về tới Hà Nội, được gặp Bác tôi có kể lại chuyện đó, thì Bác thở dài, nắm tay tôi và nói: “ĐÃ LỠ MẤT RỒI!”
Đầu năm 2005, tôi đã được đọc bài Phạm Quỳnh chủ bút báo Nam Phong của giáo sư Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, đăng trên tạp chí Khoa học và Ứng dụng số 2-2005, và bài Vai trò của trí thức trong quá trình tiếp nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỉ 20 của Vương Trí Nhàn trên tạp chí Nghiên cứu Văn học tháng 7-2005 thì cuối năm đó lại được đọc loạt bài của Xuân Ba Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong trên Tiền Phong Chủ Nhật các số 44 (30/10/2005), 45 (6/11/2005) và 46 (13/11/2005). Rồi đến năm 2006, tôi được đọc các bài của Phạm Tôn đăng trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc, tháng 8: Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nước và tháng 9/2006 trên bán nguyệt san Xưa và Nay: Người nặng lòng với nước, và Người nặng lòng với nhà trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (56) 2006, bài của Nguyễn Trung Phạm Quỳnh người nặng lòng với tiếng ta trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc tháng 9/2006. Tôi còn được đọc bài Thử nhận dạng lại chân dung nhân vật Phạm Quỳnh của Trần Văn Chánh trên Nghiên cứu và Phát triển số 2 (55) 2006 và Lời giới thiệu Phạm Quỳnh và Thượng Chi văn tập của cùng tác giả in đầu bộ sách đồ sộ 1134 trang Thượng Chi văn tập do NXB Văn Học tái bản năm 2005. Tôi cũng đã đọc bài Đọc lại tạp chí Nam Phong và Phạm Quỳnh của Đỗ Lai Thúy trên tạp chí Tia Sáng số 12 tháng 6-2006. Và mới đây là bài trên báo Thể thao và Văn hóa số 5 tháng 1/2005, Trở lại với khu vực đầu nguồn của văn học Việt Nam hiện đại: In lại Nhật Ký Đi Pháp của Phạm Quỳnh cũng của Vương Trí Nhàn. Còn mới nhất là bài của Xuân Ba trên tạp chí Sao Việt tháng 10/2006: Phạm Quỳnh và câu chuyện tiếp tục…Tôi cũng đọc các sách của Phạm Quỳnh mới tái bản ở nước ta như Mười ngày ở Huế, Pháp du hành trình nhật ký, Luận giải văn học và triết học và Thượng Chi văn tập của các nhà xuất bản Văn Học và Hội Nhà Văn. Càng đọc tôi càng thấm thía lời nhà thơ Huy Cận nói với nhạc sĩ Phạm Tuyên: “Càng đọc kỹ những dòng chữ Cụ viết mới càng thấy rõ hơn tấm lòng nhiệt thành yêu nước của Cụ.” Và tôi càng thương tiếc vô hạn học giả Phạm Quỳnh, đau xót trước cái chết oan ức của ông. Vì thế tôi đặc biệt chú ý đến một bài báo mới đăng trên tạp chí Xưa và Nay.
Trong số 269, tháng 10/2006 tạp chí có đăng bài của Nhật Hoa Khanh: Phạm Quỳnh và bản án tử hình đối với ông. Do yêu mến Phạm Quỳnh tác giả đã nhiều năm cố công tìm hiểu về cái chết bí ẩn của ông, đã gặp nhiều người, tìm tòi nhiều tư liệu và cuối cùng đã tìm được hai tờ báo khổ nhỏ phát hành hẹp tại Huế năm 1945. Đó là nhật báo Quyết Chiến khổ A3, mỗi số 2 trang, là “Cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân Cách mạng Huế”. Số 88, ra ngày thứ tư, 5/12/1945 có đăng bản tin: “Ba tên Việt Gian tối nguy hiểm Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân đã bị Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương kết án tử hình và bị bắn ngay trong thời kỳ thiết quân luật. Tài sản và vật dụng của ba tên phản quốc ấy đều bị tịch thu và quốc hữu hóa.” Tin này rút ra từ “Thông báo của Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương kính gửi Tòa án Quân sự tỉnh Thuận Hóa” (tức là Huế), sau đó đăng trên tuần báo Quyết Thắng, khổ A3, mỗi số bốn trang, là “cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung bộ.” Số 11, ra ngày 9/12/1945 đã đăng toàn văn thông báo trên. Cuối bản thông báo, chỉ ghi “Ủy ban Khởi nghĩ tỉnh Nguyễn Tri Phương”, mà không có ai đứng tên thay mặt ký cả.
Trong lời tòa soạn in chữ đậm,  cỡ lớn, chính tạp chí Xưa và Nay cũng thấy cần nhấn mạnh “ở đây vẫn còn một điểm nghi vấn. Đó là hai bài báo được viết vào tháng 12/1945, bốn (Thật ra là ba - PT chú) tháng sau khi Phạm Quỳnh đã bị hành quyết, như vậy để nhằm mục đích gì?” (chúng tôi nhấn mạnh - HKL).
Lệ thường, khi cần xử tử một kẻ gây tội ác lớn, người ta thường thông báo càng rộng rãi, càng kịp thời, càng được nhiều người chú ý và vì thế tác dụng răn đe các kẻ xấu khác càng lớn. Hơn nữa, việc xử tử cũng thường tổ chức càng công khai, càng đông người tận mắt được thấy kẻ thủ ác phải bị trừng phạt, càng có tác dụng ngăn ngừa tội ác. Nhưng, trường hợp “xử tử ba tên Việt gian tối nguy hiểm” này lại diễn ra khác hẳn. Trong số 267 tháng 9/2006, tạp chí Xưa và Nay đăng bài Người nặng lòng với nước của Phạm Tôn có đoạn: “Người canh gác xưởng (ép dầu tràm, nơi giam giữ Phạm Quỳnh cuối cùng-HKL chú) kể: Một đêm đầu tháng 8 ta, trăng lưỡi liềm, khoảng 11 giờ, có người xưng là cấp trên đến bảo đưa ba người bị giam ra cho ăn cơm (…) Sau đó, họ bị trói và đưa xuống đò (…) gần 1 giờ sáng thì táp vào bờ, đến gần hai bụi tre thì giết ba người”
“Xử tử” vào 1 giờ đêm, ở một nơi hoang vắng, giữa đêm trăng mờ. Thật lạ lùng cho cách “xử tử” này. Quả là có một không hai trên đời!…
Chắc hẳn là ba tháng sau khi thủ tiêu Phạm Quỳnh, người xưng là cấp trên có quyền sinh quyền sát trong tay ấy mới nghĩ ra được cách ra thông báo để hợp pháp hóa vụ giết hại mờ ám, lén lút và tàn bạo mình đã tự ý gây ra trong đêm trăng non nọ?… Để rồi suốt hơn 60 năm trời Cách mạng Việt Nam phải chịu tiếng đã giết oan một con người nặng lòng với nước với dân như Phạm Quỳnh.
Phạm Quỳnh, con người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, đã sống 13 năm cuối đời tại Huế, đã viết những dòng tâm huyết cuối cùng tại Huế (tập Hoa Đường tùy bút: Kiến văn, cảm tưởng và 51 bài thơ Đỗ Phủ còn dịch dở dang). Và cũng đã gửi lại nắm xương tàn trong khuôn viên chùa Vạn Phước xứ Huế. Dân Huế yêu quý ông, đã tự nhiên bảo nhau gọi bến đò An Cựu trước biệt thự Hoa Đường xưa của ông là Bến Cụ Phạm. Và tôi tin là hình ảnh ông, tư tưởng của ông còn sống mãi trong lòng người dân xứ Huế, vốn nặng tình và trọng nghĩa.
Tôi tin là giống như mặt trời lên thì xua tan bóng tối, đất nước ta ngày càng tiến lên xã hội công bằng dân chủ văn minh thì những đám mây đen, bụi bẩn bấy lâu che mờ gương sáng của ông cũng sẽ tiêu tan cùng với các thế lực đen tối, cực tả một thời đã làm ô danh cách mạng Việt Nam.
Huế, những ngày mưa cuối năm 2006
H.K.L
Ghi thêm:
Thi sĩ Đông Hồ Lâm Tấn Phác là cộng tác viên nhiệt thành của tạp chí Nam Phong rồi trở thành bạn tri âm tri kỷ từ lâu của học giả Phạm Quỳnh. Cho nên, sau khi từ quan về ở ẩn dật tại biệt thự Hoa Đường xinh đẹp bên con sông nhỏ An Cựu để chuẩn bị quay trở lại với nghiệp văn của mình, Phạm Quỳnh đã bắt đầu “khởi động” bằng việc dịch thơ Đỗ Phủ, nhà thơ Trung Quốc đồng cảnh với ông. Dịch được 51 bài, ông tin cậy gửi cả nguyên văn chữ Hán do tay ông chép và các bản dịch thô của mình cho Đông Hồ, người mà ông tin cậy ở cả cái tâm và cái tài.
Mùa hạ năm 1945 ấy, Đông Hồ đang sống cùng nữ sĩ Mộng Tuyết, học trò và bạn đời của ông tại Hà Tiên. Huế và Hà Tiên không phải là xa xôi cách trở gì lắm, vậy mà những sự biến tày trời, đổ tai họa xuống đời Phạm Quỳnh, hai ông bà không hay biết gì hết. Bức thư cuối cùng trong đời của nữ sĩ Mộng Tuyết viết ở tuổi 94 từ Hà Tiên gửi cho chúng tôi đã nói rõ điều kỳ lạ đó: Rõ ràng vụ bí mật, lén lút thủ tiêu Phạm Quỳnh đêm 6/9 rạng ngày 7/9/1945 ở nơi rừng hoang Hắc Thú nọ của một số người ở Thừa Thiên Huế không ai muốn phổ biến rộng rãi. Đó là một sự thật kỳ lạ.
Nữ sĩ Mộng Tuyết viết ngày 29/12/2006 một bức thư dài tới bốn trang giấy A4. Mở đàu là những dòng sau: “Được đọc bài viết của cháu về Cụ Thượng Chi Phạm Quỳnh làm cho bác ngẩn ngơ. Vì bác xa xôi, vẫn không biết rõ hoặc nghe về cái chết của cụ Phạm Quỳnh, cứ ngỡ là không có điều gì bất thường khi Cụ vào Huế trở về sau.” Và tiếp đó là nhiều lần nhắc lại câu “Bác thật xúc động khi đọc bài của cháu viết về cái chết của cụ Thượng Chi!!!” Rồi “Đọc bài cháu viết về cái chết của Cụ Phạm Quỳnh mà bác vô cùng xúc động. Và lạ lùng là tin động trời như vậy mà ở trong này, bác và bác Đông Hồ không biết gì cả.” Tiếp đó là “bài báo cháu viết làm cho bác biết thêm nhiều điều mà bác vẫn không có được biết tin tức mảy may nào! (…) bác chưa từng nghĩ đến việc đời lại xảy ra như vậy!!! Bác viết cho cháu mà lòng bác rất “bức xúc” không biết việc đời nó lại xảy ra như vậy đối với gia đình…” Rồi cụ còn nhắc, ở tuổi 94 là “Các tác phẩm của Cụ Thượng Chi Phạm Quỳnh đã in lại có bán ở đâu cháu cho biết để bác nhờ cháu mua giúp bác.” Và còn tế nhị viết “Cháu biết không, ở cái tuổi 94 của bác này, thì bác viết một bức thư này cháu cũng không đọc được nữa rồi.”
Bài báo mà chúng tôi gửi cho nữ sĩ Mộng Tuyết là bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nước đang trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc tháng 8 năm 2006.
Nữ sĩ sinh ngày 9/1/1914 tại làng Mỹ Đức, Hà Tiên, nay là tỉnh Kiên Giang và mất tại bệnh viện đa khoa Kiên Giang ngày 1/7/2007.
Thành phố Hồ Chí Minh, 2/2/2010
Tôn Thất Thành
RỒI LỊCH SỬ CŨNG SẼ CÔNG BẰNG
Nhà văn Nguyên Ngọc
Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Nguyên Ngọc là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, những bút danh khác là Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim, tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh ngày 5-11-1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Năm 18 tuổi, xin gia nhập quân đội, tốt nghiệp Trường Lục Quân Khu V. Hầu hết thời gian 1951-1954, hoạt động ở vùng Tây Nguyên, chiến trường chính của Liên Khu V bấy giờ. Chính điều đó đã dẫn đến thành công của tiểu thuyết đầu tay Đất nước đứng lên (1956), được tặng giải nhất về tiểu thuyết trong Giải Thưởng Văn Học 1954-1955 của Hội nhà Văn Việt Nam. Sau đó, cho in Mạch nước ngầm (1960) và tập truyện ngắn Rẻo cao (1961). Năm 1962, trở lại Tây Nguyên và Quảng Nam, ông tiếp tục sáng tác với bút danh Nguyễn Trung Thành. Năm 1969, có tập truyện và ký Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc nổi tiếng với truyện ngắn Rừng xà nu và tùy bút Đường chúng ta đi. Năm 1971 và 1974, phần 1 và 2 tiểu thuyết Đất Quảng ra mắt bạn đọc…
Sáng tác của Nguyên Ngọc không nhiều về số lượng, nhưng gây được ấn tượng mạnh với người đọc. Ông nhận thức rõ ràng về những hạn chế mang tính lịch sử của một thời đã qua để hướng tới sự đổi mới, đó chính là kết quả của sự nhạy cảm trong tư tưởng của nhà văn. Ông nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
Dịp nhà xuất bản Tri Thức và Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây tổ chức buổi ra mắt bản dịch Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932 của Phạm Quỳnh, nhà văn Nguyên Ngọc nói: “Đầu thế kỷ XX, chúng ta đã có những người khổng lồ như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi. Không phải mọi kiến giải của họ đều đúng đắn, nhưng những vấn đề họ đặt ra đến nay vẫn còn tính thời sự”
Dưới đây xin mời các bạn đọc bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc đăng trang 13 báo Tuổi Trẻ ngày 7-12-2007. Tiếp đó là bài Lịch sử sẽ công bằng với Phạm Quỳnh cha tôi của nhạc sĩ Phạm Tuyên trả lời phỏng vấn của báo Tiền Phong.
Không như các tác phẩm khác của Phạm Quỳnh đã được in lại trong những năm qua đều viết bằng tiếng Việt (*), tập tiểu luận lần này vừa được dịch và xuất bản vốn được viết bằng tiếng Pháp.
Có lẽ trước hết cho tôi nói điều này: cách đây mấy mươi năm một người tự coi mình là rất bác học và cũng đầy quyền lực đã chế giễu: tiếng Pháp của Phạm Quỳnh chỉ vừa đủ để lòe người An Nam, chữ Hán của Phạm Quỳnh chỉ vừa đủ để bịp người Tây!
Là một trong những người dịch tác phẩm của ông, tôi thấy có lẽ Phạm Quỳnh là một trong những người Việt viết tiếng Pháp hay nhất, một thứ tiếng Pháp trong sáng, sang trọng, trang nhã và đầy âm vang, chỉ có thể có được trên cơ sở một vốn tri thức uyên thâm về văn hóa và văn minh không chỉ của Pháp mà còn của cả phương Tây cổ kim. Và vốn Hán học cùng tri thức về phương Đông của ông cũng rộng sâu không kém. Những người dịch đã rất cố gắng để mong chuyển được một phần vẻ đẹp văn chương Pháp, chỉ riêng điều này thôi đã rất quí rồi, trong tác phẩm này.
Vì sao ông viết bằng tiếng Pháp? Vì đối tượng mà ông muốn nhắm đến: người Pháp ở chính quốc và ở VN. Ông muốn nói với họ ở tầm cao nhất, quan trọng nhất và do vậy cũng nghiêm trọng nhất của vấn đề, ở tầm cuộc va chạm chấn động giữa phương Đông và phương Tây trong thời cận đại và hiện đại, trong đó có số phận của dân tộc ta mà suốt đời ông tha thiết trăn trở. Rất sáng suốt, ông nói: “Các dân tộc đụng chạm với nhau trước hết qua những con người cứng rắn nhất, háo danh nhất, hay những người xác quyết nhất trong việc áp đặt các học thuyết của mình và chỉ cho chứ không nhận… không hề lấy sự bình đẳng trong các trao đổi làm đối tượng và vai trò của họ chẳng bao giờ là tôn trọng sự thư thái, tự do, các niềm tin hay những điều hay của những người khác…”. Lại cũng rất thực tế, ông bảo rằng: “Quá khứ đã nằm im trong lịch sử. Nó như thế nào thì nó vẫn cứ như thế, không phụ thuộc vào bất cứ ai trong chúng ta để có thể khác đi. Hiện tại với những đòi hỏi của hiện tại, tương lai với những hy vọng của tương lai là đủ để chúng ta quan tâm…”. Hãy để cho những đại diện chân chính và ưu tú của các nền văn hóa nói với nhau, có thể có một con đường đi và một tương lai được thiết kế như vậy giữa các dân tộc. Ông mong muốn các dân tộc đến với nhau trong hiểu biết và tôn trọng các giá trị của nhau, ông muốn nói với người Pháp về dân tộc mình, những chiều sâu thăm thẳm đã tạo nên sức sống ngàn đời của dân tộc này, nền văn hóa mềm dẻo mà bất diệt của nó, số phận nó có thể và cần được có. Chính vì vậy mà cuốn sách viết cho những người mà lịch sử đã đặt vào một vị trí thống trị chẳng hay ho gì trên đất nước này, thậm chí có thể đi ra ngoài ý định của tác giả nữa, đã trở thành một công trình nghiên cứu súc tích, sâu sắc, tinh tế, toàn diện, khách quan, vừa lâu dài vừa nóng hổi tính đương thời về đất nước và dân tộc ta mà ông da diết muốn tìm một con đường đi ra trong những điều kiện lịch sử cực kỳ khó khăn và éo le.
Những mong muốn ảo tưởng, và những trăn trở tìm tòi mà một người đã thất bại trong lịch sử đã cố tạo nên để làm nền tảng cho những mong ước đó, lại có thể rất có ích cho hôm nay. Đọc cuốn sách này, do vậy, sẽ có thể rất ngạc nhiên về tính cập nhật bất ngờ của nó trên không ít phương diện, cả tổng quát lẫn cụ thể.
Lịch sử, trên con đường đi tới của nó, vốn rất dửng dưng và tàn nhẫn. Phạm Quỳnh, như chúng ta biết, đã có  số phận cá nhân bi đát. Nhưng rồi về lâu dài lịch sử cũng lại công bằng. Nó trả lại cho các nạn nhân của nó những giá trị không thể mất của họ. Bạn hãy cầm cuốn sách này trên tay và trân trọng đọc kỹ từng dòng của người xưa. Bạn đang làm một hành động chiêu tuyết đẹp đẽ mà cuộc sống giao cho chúng ta hôm nay đấy.
N.N
TƯ LIỆU CỦA THIẾU TƯỚNG PHAN HÀM
KỂ LẠI VIỆC ĐI BẮT PHẠM QUỲNH
 
Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Thái Vũ được Tạp chí Hồn Việt số 16 tháng 10/2008 giới thiệu là: “Ông đã có mặt ở Huế vào những ngày Cách mạng Tháng tám và đã ghi lại một số ý kiến như là một chứng nhân (Chúng tôi nhấn mạnh - PT) của dòng lịch sử vốn rất phức tạp lúc đó…”. Trong bài của ông Về cái chết của ông Phạm Quỳnh (Hồn Việt số 16 tháng 10/2008) có nội dung giống hệt bài Về cái chết của ông chủ bút Tạp chí Nam Phong đăng trước đó 3 năm trên Tiền Phong Chủ Nhật số 51 tháng 12/2005, đã nêu ra một sự việc chưa từng ai biết bao giờ là khi sinh viên Trường Thanh niên tiền tuyến Phan Hàm đến bắt Phạm Quỳnh trưa 23/8/1945 thì: “Anh Phan Hàm ở dưới…”khám nhà” cả trên lầu, thấy ở tủ sách nhỏ của con gái Phạm Quỳnh (không biết của cô nào) vàng lá xếp đống (Chúng tôi nhấn mạnh - PT) trong đó. Niêm phong nhà lầu. Tất cả người nhà cụ Thượng họ Phạm kể cả cụ đều xuống nhà dưới. Đột nhiên, Phạm Quỳnh xin lên lầu lấy một “quả trầu” - vì cụ Thượng thường ăn trầu. Thật không ngờ dưới bàn để toàn vàng (Chúng tôi nhấn mạnh - PT)…”
Chúng tôi may mắn có trong tay bản sao chụp tư liệu 10 trang viết tay của Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993, Tuyên huấn Thừa Thiên Huế nhận chiều 14/11/1993, xin trích đăng phần Thiếu tướng kể về việc đi bắt Phạm Quỳnh để bạn đọc có điều kiện biết được sự thật đã xảy ra như thế nào. Thiếu tướng Phan Hàm viết như sau:
“Tôi chỉ xin kể lại việc đi bắt Phạm Quỳnh. Còn các nơi khác không rõ chi tiết, chỉ biết chung chung:
“Tôi nhận lệnh, nghiên cứu thì được biết thêm là trong nhà Phạm Quỳnh cũng như nhà Ngô Đình Khôi đều có rất nhiều súng ống. Vì vậy buổi sáng hôm ấy, anh Hồ và tôi phải cải trang đi trinh sát địa hình trước. Kết quả chỉ biết được đích xác nhà (biệt thự Hoa Đường), sân, còn trong nhà không rõ. Đến trưa, ông Phan Tử Lăng trực tiếp chỉ thị cho tôi: đến trại Bảo An binh, ông ta sẽ phối thuộc cho hai tiểu đội lính Bảo An (một tiểu đội do tôi chỉ huy, một tiểu đội cho anh Việt chỉ huy) để giúp vào việc đi bắt hai tên Việt Gian đầu sỏ này. Ông ta còn nói thêm: “Bắt được rồi đem về lao Thừa Phủ, rồi báo xuống sân vận động Huế người ta biết, mở màn cuộc mít tinh.”
“Mệnh lệnh rất ngắn mà chúng tôi mang theo chỉ thấy nói “Ủy ban Khởi nghĩa Thuận Hóa mời Phạm Quỳnh ra làm việc”. Tôi được trang bị một khẩu súng lục St. Etienne 6.35. Khi xe của tôi vòng vào sân, thấy Nguyễn Tiến Lãng trong nhà chạy ra. Lúc bấy giờ trên áo tôi đã có cái băng cờ đỏ sao vàng nên Lãng biết, toan chạy. Tôi đưa súng lên bắn thì kẹt đạn, nên bắt lên xe luôn. Anh Hồ lên lầu bước vào phòng Quỳnh đang chuẩn bị nghỉ trưa. Đưa giấy “mời” ra ông ta thản nhiên đứng dậy mặc áo ra đi.
“Tôi lục soát khắp nhà (Chúng tôi nhấn mạnh - PT) chẳng thấy súng đạn đâu cả ngoài khẩu súng săn cỡ 12 ly của con trai ông ta và ít đạn săn. Con trai của ông ta là Phạm Khuê cũng đi dự mít tinh, ở nhà chỉ còn hai cô con gái là học sinh trường Khải Định trước đây” (…) “Đây là ý kiến tôi muốn đóng góp với những bản tổng kết quân sự, Đảng, chính quyền của tỉnh nhà.
Nhớ đâu viết đấy. Miễn là nói lên sự thật (Chúng tôi nhấn mạnh - PT)”
Lời bình của Phạm Tôn: Như vậy số vàng rất lớn ở trong tủ và dưới bàn chỉ có một người biết là nhà văn Thái Vũ. Thiếu tướng Phan Hàm không hề nói đến sự việc này.
TƯ  LIỆU CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG VỀ MỐI THÂN TÌNH GIỮA
NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH VỚI THƯỢNG CHI PHẠM QUỲNH
Trang đầu và trang cuối (có con dấu và chữ ký 
của tác giả) tập bản thảo của nhà văn Sơn Tùng.
Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Sơn Tùng có nhã ý “ký thác” toàn bộ những sưu tầm của ông trong nhiều năm “Về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Thượng Chi - Phạm Quỳnh” mà ông trân trọng gọi là “bậc danh nhân văn hóa” cho “nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quý”. Tập tư liệu chép tay quý giá này tròn 20 trang, viết xong ngày 8/12/2008, tức 12/11 Mậu Tý, tại Hà Nội - Chiếu Văn.
Nay, nhà văn đã đồng ý với đề nghị của nhạc sĩ Phạm Tuyên, cho công bố những trang viết của ông trên blog của chúng tôi.
Từ hôm nay, chúng tôi xin trích đăng tập tư liệu với tiêu đề từng phần và lời dẫn, lời bình của chúng tôi.
Xin chân thành cảm ơn thâm tình của nhà văn và xin mời bạn đọc bắt đầu theo dõi tập tư liệu có một không hai này.
PHẦN 4: NGUYỄN ÁI QUỐC ĐÍCH THÂN TỔ CHỨC "BỮA CƠM BẮC, THẾT KHÁCH BẮC"
Mỗi năm, cứ đến tháng 5 là không người dân Việt nào không nhớ đến ngày sinh của Người. Và mỗi người lại nhắc nhớ những câu chuyện về Người, thấm thía đối với bản thân mình. Nhất là vào năm nay, 2010 - Năm kỷ niệm ngày sinh lần thứ 120 của Người.
Cũng với tâm tình ấy, nhân dịp này, blog PhamTon chúng tôi vốn kính yêu Người, lại quý mến Thượng Chi Phạm Quỳnh, xin đăng tại đây tư liệu kể về một sự việc trong thời Người còn bôn ba tìm đường cứu nước, tìm bạn đồng tâm, đồng chí, thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và trong sáng, một lòng vì nước vì dân, chỉ có một ham muốn tột bậc là nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Đây là phần 4 trong  Tư liệu của nhà văn Sơn Tùng về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh với Thượng Chi Phạm Quỳnh mà nhà văn đã ký thác cho nhạc sĩ Phạm Tuyên là một người con của Thượng Chi Phạm Quỳnh, cũng là một người con của Đảng; ông là Đảng viên Cộng sản từ 1950, năm nay vừa tròn 60 tuổi Đảng.
Ghi theo lời cụ Đào Nhật Vinh
CỤ ĐÀO NHẬT VINH - 13 phố Nguyễn An Ninh, quận 1 Sài Gòn - nay là quận 1 Tp. Hồ Chí Minh.
Cụ Đào Nhật Vinh quê Trực Ninh, Nam Định. Năm 1913, Đào Nhật Vinh cùng làm việc trên tàu Viễn Dương với Văn Ba - Nguyễn Tất Thành từ Le Havre, hải cảng ở Bắc Pháp quốc. Hành trình từ Tây qua Âu-Á-Phi-Mỹ, tận Argentine tới Terre de Feu. Đào Nhật Vinh có vốn chữ nho, chưa biết chữ quốc ngữ; “Anh Văn Ba dạy chữ quốc ngữ cho Đào Nhật Vinh và mấy anh em thủy thủ…
Năm 1919, ông Đào Nhật Vinh không làm việc trên tàu viễn dương nữa, đến thành phố Bordeaux lập gia đình, mở hàng ăn và vẫn thân giao với Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Paris cho đến năm 1923 khi Nguyễn Ái Quốc bí mật qua nước Nga - Xô Viết.
Mùa hè 1946, Hồ Chủ tịch Thượng khách thăm nước Pháp, ở lại Paris gần 4 tháng để “cứu vãn hòa bình”
– Cụ Đào Nhật Vinh ngày ấy là “Việt kiều yêu nước” với tình cố cựu cụ được gần gũi Bác trong thời gian này. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, cụ bị trục xuất về Sài Gòn.
Năm 1975, 30 tháng tư Sài Gòn và miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tôi vào Cố đô Huế, Phan Thiết, Sài Gòn, Sa Đéc, Cao Lãnh…để sưu tầm tư liệu Bác Hồ ngay từ tháng 5-1975. Nhờ nhà văn Lê Hương (một cơ sở Cách mạng ở Sài Gòn) đưa tôi tới 53C Cao Thắng, quận 3 gặp giáo sư Hồ Tường Vân, con gái nhà chí sĩ Hồ Tá Bang sáng lập viên Công ty Liên Thành và trường Dục Thanh, Phan Thiết do Duy Tân hội chủ xướng. Nhờ đây, tôi gặp được cụ Đào Nhật Vinh ở 13 phố Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành. Cụ đang ở tuổi 80 mà rất minh mẫn, có bộ nhớ nhiều tầng, có hệ thống và mạch lạc… sau những ngày làm việc với cụ, cụ tặng lại tôi những kỷ vật về Bác Hồ với cụ ngày còn làm việc ở nước ngoài. Đầu năm 1976 cụ về Hà Nội thăm cố hương, vào lăng viếng Bác Hồ
(Ghi chú của nhà văn Sơn Tùng)
Lời dẫn của Phạm Tôn: Năm 1922, Phạm Quỳnh đi Pháp dự hội 
Năm 1919, ông Đào Nhật Vinh không làm việc trên tàu viễn dương nữa, đến thành phố Bordeaux lập gia đình, mở hàng ăn và vẫn thân giao với Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Paris cho đến năm 1923 khi Nguyễn Ái Quốc bí mật qua nước Nga - Xô Viết.
Mùa hè 1946, Hồ Chủ tịch Thượng khách thăm nước Pháp, ở lại Paris gần 4 tháng để “cứu vãn hòa bình”
– Cụ Đào Nhật Vinh ngày ấy là “Việt kiều yêu nước” với tình cố cựu cụ được gần gũi Bác trong thời gian này. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, cụ bị trục xuất về Sài Gòn.
Năm 1975, 30 tháng tư Sài Gòn và miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tôi vào Cố đô Huế, Phan Thiết, Sài Gòn, Sa Đéc, Cao Lãnh…để sưu tầm tư liệu Bác Hồ ngay từ tháng 5-1975. Nhờ nhà văn Lê Hương (một cơ sở Cách mạng ở Sài Gòn) đưa tôi tới 53C Cao Thắng, quận 3 gặp giáo sư Hồ Tường Vân, con gái nhà chí sĩ Hồ Tá Bang sáng lập viên Công ty Liên Thành và trường Dục Thanh, Phan Thiết do Duy Tân hội chủ xướng. Nhờ đây, tôi gặp được cụ Đào Nhật Vinh ở 13 phố Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành. Cụ đang ở tuổi 80 mà rất minh mẫn, có bộ nhớ nhiều tầng, có hệ thống và mạch lạc… sau những ngày làm việc với cụ, cụ tặng lại tôi những kỷ vật về Bác Hồ với cụ ngày còn làm việc ở nước ngoài. Đầu năm 1976 cụ về Hà Nội thăm cố hương, vào lăng viếng Bác Hồ.
(Ghi chú của nhà văn Sơn Tùng)
Lời dẫn của Phạm Tôn: Năm 1922, Phạm Quỳnh đi Pháp dự hội Đấu xảo thuộc địa tổ chức tại Marseille, có mang theo một cuốn nhật ký tùy thân nhỏ bằng bốn ngón tay. Trong đó có ghi: “Juillet, 13, Jeudi: ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Rue des Gobelins).” Còn trên tạp chí Nam Phong, khi đăng Pháp Du Hành Trình Nhật Ký, ông viết công khai: “Thứ năm 13 tháng 7 năm 1922: (…) Chiều hôm nay, ăn cơm với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi nên bọn mình đến chơi không khỏi có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi! Nhưng, họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã lâu không được ăn cơm ta, ăn ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta thật là vui vẻ thỏa thích. Ăn no, uống say, cười cười nói nói…Mai là ngày hội kỷ niệm dân quốc (tức ngày quốc khánh Pháp 14/7-PT chú)…Anh em đi dạo chơi một lượt các phố đông cho biết cái cảnh ngày hội của Paris thế nào”
Cụ Đào Nhật Vinh bồi hồi kể: - Năm 1919 tôi rời đại dương, lên cạn sinh sống ở Bordeaux, nhưng tháng nào tôi cũng về Paris gặp anh Nguyễn Ái Quốc và thăm hai cụ “nghè ta” (Phan Châu Trinh) cụ “nghè Tây” (Phan Văn Trường) và anh em thủy thủ đã lên cạn làm ăn. Từ sau ngày Nguyễn Ái Quốc đưa ra “Tám yêu sách của người An Nam” đến Hội nghị Hòa Bình Versailles, anh em thợ thuyền, lính thợ và các giới khác đến 6 Villa des Gobelins với niềm ngưỡng vọng “Ngũ Hổ” - Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền.
Giữa năm 1921 đến giữa năm 1923 “điểm hẹn” Nguyễn Ái Quốc ở số 3 Marché des Patriaches. Mỗi kỳ báo Le Paria in ra, tôi đến gặp anh Nguyễn nhận báo, đưa về Bordeaux phát hành. Bà con người Việt mình nhận Le Paria đưa tiền rất hời để ủng hộ báo. Sôi động nhất, tháng 3/1922 vua Khải Định đến Paris và phái bộ dự “Hội Chợ Thuộc Địa” ở Marseille. Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài chế giễu vua Khải Định đăng trên các báo Le Paria, Le Journal du Peuple, L’Humanité (Báo Nhân Đạo của Đảng Cộng Sản Pháp - PT chú),…Những bài gây xôn xao nhất: Les lamentations de Trưng Trắc (Lời than vãn của bà Trưng Trắc - PT chú), đăng trên tờ báo L’Humanité số 24/6/1922; Les civilisateurs (Những nhà khai hóa - PT chú) số 22/6/1922 và bài Hygiène mental (Vệ sinh tinh thần - PT chú); La haine des races (Hận thù chủng tộc - PT chú)… Nguyễn Ái Quốc còn sáng tác vở Con Rông Tre, chưa in trên báo, mới công diễn một lần ở Club du Faubourg (Câu lạc bộ ngoại ô - PT chú) mà tiếng vang rộng lớn trong Việt kiều. Đặc biệt, nhà chí sĩ Phan Châu Trinh nhục mạ vua Khải định bằng “Thư Thất Điều” chữ nho. Cụ Phan Văn Trường chuyển sang chữ Pháp, ông Nguyễn chuyển sang quốc ngữ.
Thời gian này, nhà đương cục Pháp theo dõi, kiểm soát gắt gao người Việt và bắt làm “thẻ cá nhân”. Cụ Phan Châu Trinh ông Nguyễn Ái Quốc “được”A. Sarraut mời đến Bộ Thuộc địa “nhắc nhở”… Họ theo dõi chặt chẽ cụ Phan Châu Trinh, ông Nguyễn Ái Quốc không chỉ ở Paris mà cả ở hải cảng Marseille. “Hội Chợ Thuộc Địa” mở cửa từ đầu tháng 4/1922. Công việc chuẩn bị cho hội chợ từ tháng giêng. Cụ Phan Châu Trinh đến Marseille, ở tại nhà ông thợ ảnh Tạ Văn Cần, vợ đầm. Ông Nguyễn Ái Quốc có hôm cùng ở với cụ Phan tại nhà ông Cần, có hôm ở nơi khác và về Paris lo liệu công việc báo Le Paria.
Một nhóm anh em thợ thuyền, thủy thủ chúng tôi được nhận vào phục dịch Hội Chợ như anh Phan Hiếu Kính, anh Nguyễn Minh Quang, anh Vũ Văn Long… cho nên chúng tôi được đến gần các vị trong phái bộ tháp tùng nhà vua như: quan tuần phủ Cao Bằng Vi Văn Định, ông Phạm Quỳnh - Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức, ông Nguyễn Văn Vĩnh, một bỉnh bút lừng danh Đồng Văn Nhật Báo, Đông Dương Tạp Chí, Notre Journal, Notre Revue… Ông đã từng dự cuộc Đấu xảo Marseille 1906, ông Quỳnh quen biết cụ Phan Châu Trinh từ trường Đông Kinh Nghĩa Thục 1907, cụ cử Can là hiệu trưởng. Cho nên ông Phạm Quỳnh, ông Nguyễn Văn Vĩnh mấy lần đến nhà ông Tạ Văn Cần đàm đạo với cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc. Tôi được làm chân điếu đóm của các cụ. Có một cuộc đàm đạo, ông Bạch Thái Toàn cùng dự với bốn cụ. Bạch Thái Toàn là con trai cụ Bạch Thái Bưởi. Lúc khởi đầu trên sông nước của tôi là “bồi tàu” Trưng Trắc của Công ty Bạch Thái Bưởi. Chính vì vậy mà tôi được thân quen với ông Bạch Thái Toàn. Ông Toàn là thư ký “Hội Thân Ái” mà Nguyễn Ái Quốc là một trong những người lập hội. Nhờ ông Bạch Thái Toàn mà tôi biết được chút ít lai lịch của các cụ.
Đầu tháng 7/1922, tôi không còn nhớ chính xác là ngày nào, tôi trong hội chợ cùng với anh bạn đi ra phố thấy đằng phía trước ông Nguyễn Ái Quốc cùng ông Phạm Quỳnh đang sóng bước chốc chốc ghé đầu vào nhau có lẽ đang nói thầm… (Chúng tôi nhấn mạnh - PT) Tôi và anh bạn quay trở lại…chiều hôm ấy tôi về nhà ông Tạ Văn Cần, gặp cụ Phan và ông Nguyễn đang ở đây. Ông Nguyễn dặn nhỏ với tôi: thứ năm tuần tới, ngày 13/7, Vinh đến “cụ nghè Đông Ngạc” nhé. Đến sơm sớm, đó…Tức là tôi đến số 6 Villa des Gobelins, cụ nghè Đông Ngạc là tiến sĩ luật khoa Phan Văn Trường. Cách nói lóng này chỉ một số trong nhóm chúng tôi biết. Tôi đến sớm để làm “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc”. Tôi vừa làm bếp vừa tự hỏi - Không biết vị khách quý nào đến mà cụ nghè Tây (Phan Văn Trường) và Nguyễn Ái Quốc thết đãi, cụ Phan Châu Trinh bị cảm mạo nên không về Paris được. Hơn 8 giờ thấy ông Phạm Quỳnh tới. Ông Nguyễn Ái Quốc đợi ở cửa (Chúng tôi nhấn mạnh - PT) và đưa dẫn ông Phạm Quỳnh vào phòng. Tôi đem khay trà lên phòng mời khách. Chỉ có ba vị trong phòng thôi. Và ba vị đàm đạo tới 11 giờ, tôi cũng vừa sửa soạn xong bữa, mất công nhiều là món lòng lợn, rau thơm gia vị tầm cho ra được các thứ ấy không dễ. Có thịt gà luộc, canh chua, cá rán, thiếu rau muống luộc, cà pháo, tương Bần. Tôi được dự đồng bàn, đồng bữa với ba vị và hầu chuyện. Trong bữa ăn các vị không nói chuyện thời cuộc mà nói nhiều về phong hóa của nước nhà, tục lệ từng miền - và giữa bữa ăn tôi được ông Phạm Quỳnh khen: bữa cơm Việt món nào cũng ngon, đượm vị hương quan. Nhất là món lòng lợn, đặc biệt là món dồi.
Cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc gật gù tương đắc. Tôi chợt nhớ đến câu ca dao nói về món lòng lợn, buột miệng luôn:
Nhìn mặt mà đặt hình dong
Con lợn có béo, miếng lòng mới ngon
Đủ tim, gan, cổ hũ, ruột non…
Mà dồi lại dở chẳng ngon cỗ lòng
Cụ Phan vốn ít cười, đã phì cười. Ông Phạm nâng ly rượu lên nhìn tôi tươi cười và ông Nguyễn cùng nâng ly rượu, rồi cụ Phan cũng nâng ly chúc mừng. Ông Phạm Quỳnh nghiêm trang nói:
- Anh Đào Nhật Vinh đã hàng chục năm xông pha khắp chân trời, đáy biển nào Á, Âu, Phi, Mỹ mà hồn quê, quốc túy không phai mờ! Chúc mừng anh.
Ông Nguyễn Ái Quốc tập Kiều:
Đồng bàn, đồng bát, đồng bang
Hồn quê theo áng mây ngàn cố hương.
Anh Đào Nhật Vinh một đầu bếp ngoại hạng mà lại mở quán ăn bình dân!…”
Sau bữa cơm đầm ấm, tôi bái biệt cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc, ông Phạm Quỳnh rồi trở lại hải cảng Marseille.
Hà Nội - Chiếu Văn
8-12-2008
12/11 Mậu Tý
(Chữ ký và con dấu của nhà văn Sơn Tùng)
Lời bình của Phạm Tôn: Sáng 20/3/2009, tại Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh cùng Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học Nghiên cứu, xác minh tư liệu và địa chỉ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và hoạt động ở nước ngoài từ năm 1911-1941. Trong 43 tham luận của các nhà nghiên cứu, cán bộ bảo tàng gửi đến, có tham luận của Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc, nhan đề Những năm tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và hoạt động trên đất Pháp 1917-1923. Chúng tôi thiết nghĩ, những tư liệu của nhà văn Sơn Tùng như Nguyễn Ái Quốc đích thân tổ chức “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc” (thuật chuyện năm 1922 tại Marseille và Paris) và Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì… (thuật chuyện năm 1946 tại Fontainebleau), cả hai đều diễn ra trên đất Pháp, sẽ là những tư liệu bổ sung quý giá và hiếm có.
Lời bình của Phạm Tôn về các tư liệu của nhà văn Sơn Tùng - Về mối quan hệ thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Thượng Chi - Phạm Quỳnh.
Đến đây, các bạn đã đọc xong tư liệu của nhà văn Sơn Tùng Về mối quan hệ thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Thượng Chi - Phạm Quỳnh. Đây là tư liệu nhà văn đã đăng ký công bố trong hội thảo (bất thành) về Phạm Quỳnh do Viện Văn học Việt Nam dự định tổ chức vào cuối năm 1992 tại Hà Nội, nhân kỷ niệm 100 năm sinh Phạm Quỳnh.

Nhưng, đến gần ngày khai mạc, áp phích về hội thảo đã xong, chỉ chờ sử dụng vào đúng dịp gần tết năm ấy thì có “lệnh qua điện thoại” báo “tạm hoãn đến sau tết”. Đến nay, hai mươi cái tết đã qua, “hội thảo tạm hoãn” đó vẫn chưa khai mạc…
Chỉ có một cuộc tọa đàm về Phạm Quỳnh tại quê hương Hải Dương của ông do tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, hội nhà báo và đài phát thanh truyền hình tỉnh tổ chức năm 2010 và phát trong tỉnh.
Không biết sự thể sẽ thế nào nếu ngay từ năm 1992 ấy, cách nay ngót hai thập kỷ, các tư liệu quí này đã đến được với đông đảo người Việt Nam chúng ta ở cả trong và ngoài nước. Mọi người Việt Nam đều biết được những lời nói chí minh, chí nhân, chí thiện, chí thành về Phạm Quỳnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng Giải phóng Dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới. Người thốt lên “Bất tất nhiên” (Không nhất định phải làm như vậy.) khi mới hay tin Phạm Quỳnh bị bắt ở Huế, rồi phẫn nộ nói: “Giết một học giả như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được lợi ích gì? Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm ở Pháp! Đó không phải là người xấu!” sau khi nghe Tôn Quang Phiệt, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thành phố Huế báo là “Cụ Phạm Quỳnh bị khử mất rồi!” và đầy tiếc nuối nói với các cán bộ đoàn đàm phán của chính phủ ta với chính phủ Pháp tại hội nghị Fontainebleau năm 1946: “Lúc này còn Cụ Phạm Quỳnh thì…” Và Phạm Văn Đồng đáp lời: “Bất tất nhiên, Bác đã nói rồi mà!…” 
Hà Nội, 6/10/1922
Nguyên Ngọc - Dã Thảo - Phạm Thị Thức - Phạm Tôn - Dân Thường - Nguyễn Văn Khoan - Hà Khánh Linh - Tôn Thất Thành
Nguồn: Blog PT
Theo http://quyetnguyenblog.blogspot.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầ...