Thứ Tư, 29 tháng 3, 2023

Bình Định vương Lê Lợi: Thời kỳ khởi nghĩa 1418 - 1427 (1)

Bình Định vương Lê Lợi:
Thời kỳ khởi nghĩa 1418 - 1427 (1)

Vua họ Lê, tên húy là Lợi, người đất Lam Sơn, huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hóa. Vua khởi nghĩa trong vòng 10 năm, tự xưng là Bình Định vương; lên ngôi 6 năm, niên hiệu là Thuận Thiên, thọ 51 tuổi, táng ở Vĩnh Lăng.

Trước kia, tổ ba đời của vua tên là Hối, một hôm đi chơi Lam Sơn, thấy đàn chim bay lượn quanh chân núi, như hình ảnh nhiều người tụ họp, bèn nói: "Đây chắc hẳn là chỗ đất tốt", rồi dời nhà đến ở. Sau 3 năm thì thành cơ nghiệp; từ đó đời đời làm chủ một phương. Hối sinh ra Đinh, nối được nghiệp nhà, có tới hơn 1 ngàn tôi tớ, lấy vợ là Nguyễn Thị Quách, sinh được hai người con trai, con cả là Tòng, con thứ là Khoáng. Khoáng lấy vợ người Thủy Chú là Trịnh Thị Thương, ngày mồng 6 tháng 8 năm Ất Sửu [10/9/1385] sinh ra Vua tại hương Thủy Chủ, huyện Lôi Dương; nay thuộc xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

 Vua sinh ra, thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có một nốt ruồi, tiếng nói như chuông, bước đi như hồ, kẻ thức giả đều biết là bậc phi thường.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép về vua Lê Lợi, giai đọan trước lúc khởi nghĩa như sau:

“ Bấy giờ, họ Hồ cướp ngôi nhà Trần, rồi quân Minh xâm lược nước Nam, chia cắt nước ta thành quận huyện, bắt dân ta làm tôi tớ, luật pháp phiền hà khắc nghiệt, thuế má lao dịch nặng nề. Đối với những người hào kiệt trong nước, chúng phần nhiều vờ trao quan tước rồi đem về an trí ở phương Bắc. Vua hiểu biết hơn hẳn mọi người, sáng suốt và cương quyết, không bị quan tước dụ dỗ, không bị uy thế khuất phục. Người Minh đã dùng trăm phương ngàn kế xảo trá, vẫn không dụ được vua.

Trước đó bọn Đặng Tất, Nguyễn Súy ở châu Hóa cùng lập con cháu nhà Trần là Trần Ngỗi, Trần Khoáng làm vua. Nhưng vua thấy họ yếu hèn, lại say đắm tửu sắc, biết là chẳng làm nên chuyện, mới ẩn náu nơi núi rừng, dụng tâm nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân chúng lưu ly, hăng hái dấy binh, mong trừ hoạn lớn.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 1b.

Sử Trung Quốc chép về tiểu sử của Vua trước lúc khởi nghĩa có vài điểm khác với Toàn ThưMinh Thực Lục chép rằng trước khi nổi dậy, Lê Lợi từng giữ chức Kim Ngô Tướng Quân cho Trần Quí Khoáng, sau đó đầu hàng nhà Minh giữ chức Tuần kiểm; sự việc được ghi lại qua văn bản dưới đây:

“NGÀY 3 THÁNG GIÊNG NĂM VĨNH LẠC THỨ 16 [8/2/1418]

Viên Thổ quan Tuần kiểm Lê Lợi tại huyện Nga Lạc, phủ Thanh Hóa làm phản; quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân sai bọn Đô đốc Chu Quảng chinh tiễu. Trước đây Trần Quí Khoáng làm phản, Lợi sung chức Kim Ngô Tướng quân ngụy; rồi bó thân xin hàng, được ban chức Tuần kiểm, nhưng vẫn ôm lòng phản trắc. Nay tiếm xưng là Bình định vương, cho em Lê Thạch làm Tướng quốc ngụy, Đoàn Mãng làm Đô đốc; tụ tập bọn giặc là Phạm Liễu, Phạm Yến mang binh cướp phá. Quân Quảng tới chém hơn 60 thủ cấp, bắt sống bọn giặc Phạm Yến hơn 100 người, bọn Lợi bỏ trốn. Nay Bân tâu xin đem bọn Yến tru lục tại Giao Chỉ để răn đe dân chúng. Thiên tử chấp thuận.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 48)

Vương Thế Trinh, một danh thần nhà Minh đời Gia Tĩnh, chép sự việc tương tự trong An Nam Truyện:

“ Vào năm Vĩnh Lạc thứ 16 [1418] Phong thành hầu Lý Bân tấu Tuần kiểm Lê Lợi làm phản. Lợi vốn là bề tôi của cố Vương Trần Quí Khoáng, thiện chiến, được thăng mấy lần đến chức Kim Ngô Tướng quân. Xin hàng, lãnh chức Tuần kiểm; nhưng vì không được cư xử tốt bởi người có đức nên làm phản, đánh phá các quận ấp, tự xưng là Bình định vương.”(1)

Qua những sử liệu tương phản, câu hỏi cần đặt ra là: Trước khi khởi nghĩa vua Lê Lợi có hợp tác với nhà hậu Trần và nhà Minh hay không?

Nhắm tìm hiểu rộng thêm, hãy tham khảo Lam Sơn Thực Lục; có đoạn chép:

“ … Tuy giặc có khéo léo, khôn ngoan nhiều cách, mà tráng chí của nhà vua , trước sau chẳng chịu chùng. Thế nhưng trong lúc thế giặc còn mạnh, chưa dễ đánh được nào. Nhà vua thường hậu lễ nhún lời, đem nhiều vàng bạc đút lót cho các tướng giặc là bọn Trương Phụ, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ; mong thư bớt lòng hãm hại nhà vua, để nhà vua đợi thời lừa dịp.

Đảng của giặc là Lương Nhữ Hốt bàn với bọn giặc, nói rằng :

-Chúa Lam Sơn chiêu vong, nạp bạn, đãi quân lính rất hậu, chí nó chẳng nhỏ. Nếu thuồng luồng gặp được mây mưa, thì tất không phải là vật ở trong ao đâu. Nên sớm trừ đi, để sau sinh vạ.

Năm Mậu Tuất (1418) khi ấy nhà vua khởi quân tại Lam Sơn [huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa].” (2)

Lam Sơn Thực Lục do khai quốc công thần Nguyễn Trãi soạn, vua Lê Lợi trực tiếp đề tựa; đây là tư liệu gốc trước mọi bộ sử nước ta. Căn cứ vào Lam Sơn Thực Lục, người đọc sử có thể có những nghi vấn như sau:

- Nếu là một thường dân, như Đại Việt Toàn Thư chép, làm sao vua Lê Lợi có đủ tư cách để liên lạc với các quan lại cao cấp của nhà Minh như bọn Trương Phụ, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ để đút lót?

-Hơn nữa chỉ là thường dân thôi, làm sao có thể “ chiêu vong, nạp bạn [dung nạp người làm phản], đãi quân lính rất hậu” như lời Lương Nhữ Hốt tố cáo với bọn giặc.

Nghi vấn này không còn là nghi nữa; trong văn bản Chiếu tha những người có tội tại Giao Chỉ của Vua Tuyên Tông ban hành ngày 3 tháng 5 năm Tuyên Đức thứ nhất [8/6/1426]; xác nhận Vua Lê Lợi từng làm việc cho nhà Minh. Chiếu tha những người có tội tại Giao Chỉ có ghi trong Minh Thực Lục và cũng được chép trong Toàn Thư tại phần Bản Kỷ, quyển 10 trang 18b. Tuy nhiên chúng tôi dò lại Toàn Thư, cả phần nguyên văn chữ Nho và bản dịch thấy thiếu một đoạn quan trọng. Đoạn văn này xác nhận Lê Lợi, Phan Liêu, Lộ Văn Luật đã từng làm việc cho nhà Minh; chắc Sử thần Ngô Sĩ Liên soạn giả Toàn Thư, muốn giấu việc này nên cố tình lược bỏ đi. Nhắm làm sáng tỏ vấn đề, xin trích phần bị lược bỏ cả nguyên văn, phiên âm, và dịch nghĩa để dễ bề tham khảo:
“Những kẻ như Lê Lợi, Phan Liêu, Lộ Văn Luật, vốn đã qui phụ triều đình, từng được bổ nhiệm sử dụng, rồi suy nghĩ lệch lạc, để đến nỗi sai trái như vậy. Nay đặc biệt mở con đường đổi mới, nếu thành thực hối cải, trở lại theo điều thiện, giữ tiết bề tôi thì được khoan thứ, vẫn được trao quan chức. Những kẻ bị Lê Lợi bức hiếp theo nghịch, cùng những dư đảng của Trịnh Công Chứng trốn tránh chưa xuất hiện, nay có thể đích thân ra quy thuận, hoặc đến quan sở tại đầu thú cũng đều được tha, quan sẽ trở lại nguyên chức, quân trở lại nguyên đơn vị, dân trở lại với nghề cũ. Sau khi chiếu thư ban ra, như bọn Lê Lợi cùng những kẻ bị cưỡng bách, chấp mê không hối tội, vẫn chống mệnh như cũ, thì quân Thiên triều gia tăng thảo phạt, hối cũng không kịp nữa.”

 (Kỳ Lê Lợi, Phan Liêu, Lộ Văn Luật đẳng, bản giai qui tâm triều đình, tằng kinh nhiệm dụng, ngẩu quai nhất niệm, thất ngộ chí thử. Kim đặc khai kỳ tự tân chi lộ, thành năng hối quá tòng thiện, phục thủ thần tiết, tất hựu kỳ tội, nhưng thụ dĩ quan. Cập hữu bị Lê Lợi đẳng bách hiếp tòng nghịch, tịnh Trịnh Công Chứng đẳng dư đảng đào tỵ vị xuất giả, kim năng đình thân lai qui, hoặc phó sở tại quan ty tự thú, quan phục nguyên chức, quân phục nguyên ngũ, dân phục nguyên nghiệp. Chiếu thư đáo hậu như Lê Lợi đẳng cập hiếp tòng chi đồ, chấp mê bất thuân, nhưng tiền cự mệnh, thiên thảo tất gia, hậu hối vô cập.

        ,      ,    ,    ,    .        ,      ,    ,    ,    .                      ,      ,            ,    ,    ,    .        ,         ,    ,        .)

Hãy ôn lại thời gian vào đầu năm Trùng Quang thứ 5 [1413], thế lực nhà hậu Trần gần như sụp đổ, Trần Quí Khoáng phải chạy vào Quảng Trị; giao Nghệ An cho Phan Quí Hựu giữ; rồi cha con Phan Quí Hựu, Phan Liêu đầu hàng giặc. Trong hoàn cảnh đó, nếu Lê Lợi tại Thanh Hóa có làm quan cho Trần Quí Khoáng thì cũng bị đứt liên lạc và ông ta cũng biết rằng lực lượng Trần Quí Khoáng không thể cứu vãn được tình hình.

Được biết trong 10 năm kháng chiến, Bình định vương Lê Lợi mấy lần tạm hòa với giặc, còn sử nhà Minh thì chép là “hàng”. Bởi vậy nếu từng là Kim Ngô Tướng Quân của Trần Quí Khoáng, ở vào hoàn cảnh nhà hậu Trần trên đường sụp đổ; một người quyền biến như Lê Lợi tất không chịu bất lực buông tay, đành tạm hàng với quân Minh để giữ gìn thực lực. Hơn nữa với chức Tuần kiểm, trông coi một tổ chức bán quân sự, dưới quyền phần lớn là bộ hạ cũ, ít bị kiểm sóat, Lê Lợi có cớ chiêu dụ người lưu vong, dung nạp kẻ phản loạn như Lam Sơn Thực Lục chép.

Lịch sử 10 năm khởi nghĩa của Vua Lê Lợi, bắt đầu vào tháng giêng năm Bình Định vương thứ nhất [2/1418]; bấy giờ nhà Vua phát động khởi nghĩa tại Lam Sơn [huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa]. Hoạn quan Mã Kỳ mang đại quân đến đánh, Vua cho đặt phục binh giết mấy ngàn tên; sau đó có kẻ nội phản, mang quân Minh đến đánh úp; gia thuộc của nhà Vua và quan quân bị bắt rất nhiều:

Ngày mồng 9 tháng ấy, bọn nội quan nhà Minh là Mã Kỳ đem đại binh tới uy hiếp vua ở Lam Sơn. Vua bèn lui quân đến đóng ở Lạc Thủy [huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa], đặt quân mai phục để chờ giặc. Ngày 13, bọn Kỳ quả nhiên đến. Vua tung hết quân mai phục xông ra đánh giặc. Cháu vua  là Lê Thạch cùng các tướng Đinh Bồ, Lê Ngân, Lê Lý... dẫn đầu xông vào trận giặc, chém được hơn 3.000 thủ cấp, thu được hàng ngàn quân tư, khí giới, rồi dời quân đến núi Chí Linh [huyện Lang Chánh, Thanh Hóa]. Ngày 16, tên phản bội Ái (không rõ họ) dẫn đường cho giặc đi lối tắt, đánh úp đằng sau vua, bắt mất gia thuộc của vua và rất nhiều vợ con của quân dân. Quân sĩ dần dần chán nản bỏ đi. Vua cùng bọn Lê Lễ, Lê Náo, Lê Bí, Lê Xí, Lê Đạp bí mật nương náu ở trên núi Chí Linh . Tháng 2, vua hết lương, không còn gì nổi lửa. Gặp khi giặc lui quân, bèn về đắp thành đất ở Lam Sơn. Tháng 3, đánh ra Mường Yên [xã Yên Nhân, Lang Chánh], thu được hơn trăm ngườiToàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 2b

Việc Mã Kỳ đánh úp bắt gia thuộc nhà Vua, được Minh Thực Lục xác nhận qua chiếu dụ của Vua Tuyên Tông gửi Vua Lê Lợi cho biết con gái Vua 9 tuổi, bị Mã Kỳ bắt, đưa về kinh đô; nhưng không may đã mất:

“Ngày 28 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ 4 [ 1/5/1429 ]

…Riêng dụ ngươi về việc ngươi tâu rằng có con 9 tuổi bị Mã Kỳ thu dưỡng đem về kinh sư, muốn được đoàn tụ. Nghe việc này động lòng trắc ẩn, Trẫm là cha mẹ của thiên hạ lai nỡ để cho một trẻ nhỏ không được gần người thân ư! Nên đã ra lệnh tìm hỏi ngay việc này. Nhưng con gái ngươi vì không hợp thủy thổ, nên bị bênh mất đã lâu. Tình thương yêu cha con người người giống nhau, nhưng phần số mỗi người thì đã định; bảo riêng để ngươi biết…. Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 210.

Quân Minh dưới quyền Lý Bân tiếp tục càn quét, bị phục kích tại huyện Thường Xuân, phía tây Lam Sơn:

Tháng 9, viên Tổng binh nhà Minh là Lý Bân đem quân tới sùng lục. Vua đặt quân mai phục ở Mường Một [xã Bất Một, huyện Thường Xuân], dùng tên thuốc độc bắn giặc chết và bị thương quá nửa. Bân thua rút quân về.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 3b.

Lý Bân tỏ ra ươn hèn, không xông xáo lập công như Trương Phụ trước kia; nên Minh Thái Tông phải đem lời răn dạy:

 Ngày 9 tháng 6 năm Vĩnh Lạc thứ 16 [ 12/7/1418 ].

Thiên tử ban mệnh cho Phong thành hầu Lý Bân, Tổng binh Giao Chỉ như sau :

Một vị Đại tướng cần có 5 tính tốt: dõng, trí, nhân, tín, trung.

Dõng cảm thì không bị xâm phạm, mưu trí thì  không bị gạt, nhân từ thì lòng người hưởng ứng, tín  thì không lừa dối, trung thành thi tâm không chia lìa. Đó là 5 đức tính của một tướng giỏi. Ta vừa ban mệnh cho ngươi bình định đất Di xa xôi, và thi hành luật; ngươi cần theo đường lối của vị tướng giỏi. Khâm thử!” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 55 )

Về phương diện kinh tế, nhà Minh tìm mọi cách vơ vét; trên rừng thì sai săn bắt thú vật, khai mỏ; chốn đồng bằng bắt trồng hồ tiêu; vùng biển sai mò ngọc trai, khai thác muối:

Mùa hạ, tháng 4, trước nhà Minh ra lệnh cho các phủ, huyện, châu nước ta trồng hồ tiêu, nay đã lên tốt, sai nội quan Lý Lượng sang thu về dùng. Từ đấy, quan lại đốc thúc bắt trồng, mỗi cây giống giá tới 5 quan tiền.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 3a.

Mùa thu, tháng 7,…. Nhà Minh mở công trường mò ngọc trai, kiếm hương liệu, săn bắt chồn trắng, hươu trắng, voi trắng, tìm lùng rùa chín đuôi, chim đậu ngược, vượn bạc má, trăn, rắn... để dâng nộp.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 3b.

Về khai thác muối, nhà Minh lập 7 sở xét nghiệm phân phát muối tại vùng duyên hải miền Bắc và các tỉnh phía bắc Trung Phần:

NGÀY 28 THÁNG GIÊNG NĂM VĨNH LẠC THỨ 16 [ 5/3/1418 ].

Lập 7 cơ sở  xét nghiệm phân phát muối tại Giao Chỉ gồm cầu Thái Bình thuộc phủ Tân An; sông Hải Triều (3)  phủ Trấn Man; cửa biển Đại An phủ Kiến Bình ;Ba Lễ, Tam Giang phủ Thanh Hóa; Thiên Đông phủ Diễn Châu; Minh Thị, Kỳ La thuộc phủ Nghệ An. Mỗi nơi đặt một viên Đại  sứ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 51)

Ngoài việc trưng thu thuế má, khai hầm mỏ; còn có lệ cống hàng năm; quan, dân cùng gánh vác:                                                

    Ngày 12 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 16 [ 9/11/1418 ].

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân cống 1 voi trắng, 17 voi đen.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 60 )

Tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 16 [12-1/1419 ]

Giao Chỉ dâng lên 1288 tấm quyên, 50 cân tô mộc (4 ) , 2000 thúy vũ, 1 vạn quạt, 2400 cân sơn.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 61)

Bước sang năm Bình Định vương thứ 2, vào tháng 4 [5/1419] nhà Vua đánh đồn Nga Lạc tại huyện Nga Sơn, Thanh Hóa; bắt được chỉ huy Nguyễn Sao. Rồi Vua lại lui giữ núi Chí Linh [huyện Lang Chánh, Thanh Hóa]. Quân Minh kéo đến bức bách. Đô tổng quản Lê Lai liều mình chịu chết thay Vua:

Vương tấn công đồn Nga Lạc, bắt được chỉ huy Minh, Nguyễn Sao, đem chém. Nhưng bấy giờ thế lực của giặc còn đang mạnh; về phía Vương, tướng còn hiếm, quân còn ít, lại đánh nữa, không thắng được địch. Vương chạy vào Trịnh Cao, rồi lui giữ núi Chí Linh. Quân Minh thường đến đánh úp: tình hình phía Vương khốn quẫn quá! Vương phải nhóm họp các tướng, dụ bảo họ rằng:

‘Bây giờ ai có thể làm như Kỷ Tín (5) xưa, để ta ẩn náu trong rừng núi, mưu tính cử sự về sau?". Trong các tướng chẳng ai dám đáp ứng cả. Riêng có Lê Lai khảng khái xin vâng, tình nguyện trao đổi đồ mặc với Vương để đi chết thay. Lê Lai liền cho sắp xếp nghi trượng chỉnh tề, chính mình đem quân và voi, hướng ra phía địch, chỉ huy các tướng chia đường khiêu chiến. Tướng Minh lấy thêm quân bao vây Lê Lai. Lai chiến đấu kiệt sức, bị người Minh bắt và giết chết. Địch bèn rút quân về Tây Đô.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 13.

Sau đó cho đóng quân tại sách Đà Sơn, quân Minh tiến đánh, Vua bèn phục binh tại huyện Lang Chánh phía tây bắc, rồi chuyển quân đến biên giới Ai Lao:

Tháng 5, vua đóng ở sách Đà Sơn [gần Lam Sơn] , quân Minh tiến đánh. Vua phục kích ở Mường Chánh [huyện Lang Chánh] , cả phá quân giặc, rồi dời đến đóng quân ở sách Lư Sơn [huyện Quan Hóa] , ít lâu sau, dời sang Mường Thôi [giáp Ai Lao], rồi lại về đóng bản doanh ở Vu Sơn.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 4a.

Sử Trung Quốc ghi nhận thời gian này, Vua Lê đóng quân tại vùng Lam Sơn, Lý Bân sai mang quân đến đánh, Vua lui binh phía Ai Lao, rồi mang quân về đánh giết 2 tên Tuần kiểm; quân Minh đuổi theo,  Vua lại tiếp tục lui binh:

Ngày mồng 2 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 26/5/ 1419 ] 

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân tâu rằng đầu sỏ giặc Lê Lợi trú tại sách Khả Lam [Lam Sơn]. Sai Đô đốc đồng tri Phương Chính, Đô Chỉ huy Sư Hữu mang quân đánh; bắt được bọn ngụy Cấm vệ tướng quân Nguyễn Cá Lập. Số còn lại chạy trốn sang Lão Qua; bèn lưu Đô Chỉ huy Hoàng Thành, Chu Quảng giữ đồn Khả Lam, bọn Chính trở về Giao Chỉ. Lê Lợi lại xuất hiện đánh phá, giết Tuần kiểm Vương Cục, Lương Hướng rồi đi. Thành mang quân truy kích, giặc thua chạy. Gặp mưa nắng nước dâng, lam chướng mới nỗi lên, xin đợi mùa thu tiến binh. Được chấp thuận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 64)

Ba tháng sau; Vua mang quân về đánh phá Lỗi Giang, tại huyện Cẩm Thủy; bị quân Minh đánh thua, phải rút sang Ai Lao:

Ngày 10 tháng 8 năm Vĩnh Lạc th 17 [30/8/1419]

Lê Lợi đầu đảng giặc tại Thanh Hóa, Giao Chỉ mang quân đánh phá Lỗi Giang [huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa], bị bọn Đô chỉ huy Hoàng Thành đánh thua, lại chạy sang trốn tại Lão Qua.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 66)

Bấy giờ tại Nghệ An, viên Tri phủ Phan Liêu trước kia đầu hàng nhà Minh, bị Hoạn quan Mã Kỳ đàn áp bóc lột,  bèn nỗi dậy chống lại; có viên Chỉ huy Lộ Văn Luật, từng giữ chức Tiên phong cũng theo.Tổng binh Lý Bân đích thân mang quân đánh đuổi, đến tận phủ Trấn Định, Ai Lao:

Mùa thu, tháng 7, viên thổ quan Tri phủ Nghệ An là Phan Liêu vì bị bọn nội quan nhà Minh  bức bách lấy vàng bạc, bèn dẫn quân bắt giết các quan do nhà Minh phái đến, rồi đem quân vây thành Nghệ An, sắp hạ được thành thì Lý Bân chợt đem quân đến. Liêu trốn sang Ai Lao. Bân đuổi tới châu Ngọc Ma [phủ Trấn Định, Ai Lao] không kịp, lại quay về Nghệ An, sửa sang thành trì, vỗ yên dân chúng. Khi Bân đi đánh Liêu, có sai viên chỉ huy Lộ Văn Luật làm tiên phong. Văn Luật đã đi, lại bị giữ lại bàn tính mưu kế, trong lòng hoài nghi, lo sợ, nên bỏ trốn đi. Bân bắt mẹ già, gia thuộc và anh em của Luật như Đồng tri châu châu Tam Đái là Văn Phỉ. Đồng tri châu phủ Trấn Man Phan Kiệt là anh họ của Liêu, nghe tin Liêu trốn đi, cũng đem cả nhà đi theo, nhưng chưa ra khỏi cõi đã bị thắt cổ chết cùng với vợ.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 4a.

Sử Trung Quốc cũng chép tương tự:

“Ngày 11 tháng 8 năm Vĩnh Lạc th 17 [31/8/1419]

Viên Thổ quan Giao Chỉ giữ chức Tri phủ Nghệ An Phan Liêu là con Quí Hữu. Trước đây Quí Hữu theo Trần Quí Khoáng làm Thiếu bảo ngụy. Bị đại quân đánh, thế cùng Quí Hữu bèn sai Liêu đến cửa quân xin hàng. Quan Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ theo chế độ ban cho Quí Hữu chức Phó sứ ty Án Sát coi phủ Nghệ An, lại ban cho Liêu chức quan. Quí Hựu chết, cho Liêu thừa kế cha nhậm chức này. Nhân Mã Kỳ bạo ngược phi lý, Liêu bèn làm phản tại huyện Nha Nghi [Nghi Xuân, Hà Tĩnh], cùng viên thổ quan Thiên hộ Trần Đài tụ tập đám đông đốt phá châu huyện giết quan lại; viên thổ quan chỉ huy vệ Nghệ An Lộ Văn Luật cũng đi theo. Quan Tổng binh Phong thành hầu Lý Bân mang quân đến đánh, bọn giặc tan, Liêu chạy đến châu Ngọc Ma nương dựa viên thổ quan Tri châu Cầm Trách, Bân sai người truy bắt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 66)

Minh Thái Tông cho rằng bọn Phan Liêu, Lộ Văn Luật làm phản là việc quan trọng; nên buộc Lý Bân phải tiêu diệt tận gốc:                                       

Ngày 16 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 3/11/1419 ].

Thiên tử ban mệnh cho Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân:

‘ Mặc dù giặc Phan Liêu tại Nghệ An đã bị đánh tan , nhưng chúng vẫn còn tồn tại. Trong một thời gian ngắn, ngươi cần chỉnh đốn quân ngũ tiêu diệt chúng như nhổ gốc, không để sót mối lo trong dân.”( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 71)

Lý Bân đành phải tuân lệnh, mang đại quân sang Ngọc Ma càn quét một lần nữa, nhưng cũng không diệt xong bọn Phan Liêu và Lộ Văn Luật. Trong khi đó lại phải sai phái thuộc hạ đánh dẹp bọn võ quan như Thiên hộ Trần Thuận Khánh, Bách hộ Trần Trực Thành nỗi dậy tại Nghệ tĩnh, và đầu đảng  Trịnh Công Chứng tại Hải Dương:

Ngày 6 tháng 11 năm Vĩnh Lạc th 17 [ 23/11/1419 ].

Ngày hôm nay quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân  đến châu Ngọc Ma dẹp giặc; đầu đảng giặc bọn Phan Liêu cùng giặc Áo Đỏ hơn 1000 tên chống cự bị quan quân đánh bại. Bắt sống Tù trưởng giặc Áo Đỏ là bọn Nửu Môn, Diệp Để; bọn Liêu, Lộ Văn Luật, Trần Văn, Trần Tử Trực và quân còn lại bỏ trốn. Quan quân tiến đến Mường Cự Đàm, núi Bồ Đàm thuộc châu Ngọc Ma; giặc cậy hiểm đóng trại phòng thủ, bèn đánh phá. Bọn Liêu chạy sang Lão Qua; bèn sai Đô chỉ huy Tiết Tụ tiến đánh bắt được đồng đảng giặc là bọn Hồ Tử Kính cùng giặc Áo Đỏ là Thượng Bì, Thượng Tướng hơn 300 người.

Trước đó sai Bố chánh ty sứ Giao Chỉ Nguyễn Huân, Chỉ huy Trần Nguyên Khôi giữ sông Ác [Ngàn Sâu, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh] bắt được tên phản loạn Thiên hộ châu Nam Linh  Trần Thuận Khánh, Bách hộ vệ Nghệ An Trần Trực Thành đem chém. Đô đốc Phương Chính, Tham chính Mã Ánh cũng bắt và giết đầu đảng giặc Trịnh Công Chứng tại Đồng Lợi, đồng đảng giặc là Lê Điệt bỏ trốn.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 72)

Tỉnh Thanh Hóa, ngoài cuộc khởi nghĩa của Bình Định vương Lê Lợi; tại huyện Nga Lạc có Phạm Nhuyễn nỗi lên, bị viên Đô chỉ huy Từ Chính đánh bắt, đem chém:

NGÀY 1 THÁNG 10 NĂM VĨNH LẠC THỨ 17 [19/10/1419].

Bọn phản loạn Giao Chỉ Phạm Nhuyễn tụ tập tại sách Cự Lặc, huyện Nga Lạc. Ngày hôm nay quan Tổng binh Phong thành hầu Lý Bân sai Đô Chỉ huy Từ Nguyên mang quân bắt được, bèn chém bọn Nhuyễn để thị chúng.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 71)

Đô chỉ huy Giao Châu tâu về triều có hàng chục cuộc nỗi dậy xãy ra khắp nơi; suốt từ tỉnh Lạng Sơn cho đến vùng Nghệ Tĩnh:

NGÀY 1 THÁNG 11 NĂM VĨNH LẠC THỨ 17 [17/11/1419].

Ty Đô Chỉ huy Giao Chỉ tâu rằng tại huyện Kệ Giang [Thanh Chương, Nghệ An], phủ Nghệ An có tên thổ quan Bách hộ Trần Trực Thành, cùng em là Trực Ngụy tự xưng Kim Ngô Tướng quân; cùng bọn Lãm Bàn giặc Áo Đỏ cướp phá xã Dương Biến giết tuần kiểm Trương Tú. Vũ Cống người trong hộ đãi vàng liên kết với kỳ lão Hoàng Nhữ Điển tụ tập dân chúng đốt phá huyện Phù Lưu [Quỳnh Lưu, Nghệ An]. Các nhóm nỗi dậy tại huyện Khâu Ôn [Lạng Sơn] có Nông Văn Lịch, châu Vũ Ninh [Bắc Ninh] có Trần Đại Quả, châu Khoái [Hưng Yên] [th1] có Nguyễn Đặc, huyện Thiện Thệ [Bắc Ninh] có Ngô Cự Lai tiếp tục trước sau làm loạn giết hại quan binh. Tại huyện Đồng Lợi, châu Hạ Hồng [Hải Dương], phủ Tân An, viên Xã chính coi việc đãi vàng là Trịnh Công Chứng tụ tập đám đông hơn 1000 người đốt phá bắt giết quan lại tại các ty tuần kiểm thuộc các huyện Đa Dực, Đồng Lợi, châu Hạ Hồng và cửa biển sông Đản. Đô đốc Phương Chính mang quân đánh dẹp đánh bại giặc tại Đồng Lợi. Thám thính cho biết trước đó bọn chúng đến châu Nam Sách, bèn truy kích kịp thời đánh dẹp tại ty tuần kiểm A Côi [Thái Bình] chém hơn 400 thủ cấp, số giặc chết trôi tính không hết; Công Chứng bèn chạy trốn. Sắc dụ quan Tổng binh Phong thành hầu Lý Bân mang quân đánh bắt.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 71)

Sử Đại Việt cũng xác nhận rằng Lý Bân mang quân đi đánh xa, thành Đông Đô yếu nhược, do đó hào kiệt bốn phương mang quân uy hiếp, hầu như chỗ nào cũng có rối loạn:              “Mùa đông, tháng 11, Trịnh Công Chứng và Lê Hanh ở Hạ Hồng [Hải Dương], Phạm Thiện ở Tân Minh [Tiên Lãng, Hải Phòng] , Nguyễn Đặc ở Khoái Châu [Hưng Yên], Nguyễn Đa Cấu và Trần Nhuế ở Hoàng Giang thấy thành Đông Quan chỉ còn những quân lính ốm yếu, liền dấy quân tiến đánh. Quân đến Lô Giang, đánh phá được cầu phao, nhưng ít lâu sau, bị Lý Bân đánh bại, tan tác chạy dài. Bấy giờ, chỗ nào cũng rối loạn, chỉ còn các xứ Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng Hóa là yên tĩnh như cũ.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 4b.

Ngoài những đạo quân nêu trên uy hiếp thành Đông Đô; vào cuối tháng 11 Đào Cường tại Gia Lâm, Bắc Ninh nỗi dậy, sắp vượt sông Hồng đánh thành; Tổng binh Lý Bân phải điều kỵ binh đánh lui:

Ngày 28 tháng 11 năm Vĩnh Lạc th 17 [14/12/1419]

Tại huyện Thiện Tài, châu Gia Lâm [Bắc Ninh], Giao Chỉ, Đào Cường làm phản. Đô Chỉ huy Lưu Chấn, Vu Tán, Ngô Hưng mang quân đánh dẹp. Bọn Chấn không nghiêm cấm, nên quân sĩ buông thả cướp phá. Giặc giả bộ vứt đồ vật bỏ chạy, rồi đặt phục binh đón đợi. Quan quân bi bại, giặc đuổi tới sông Phú Lương, định vượt sông. Đô Chỉ huy Trần Tuấn ra sức đánh, nên ngăn được. Nhưng thế giặc mạnh thêm, quan Tổng binh Phong thành hầu Lý Bân sai ngay bọn Đô Chỉ huy Cảnh Vinh mang kỵ binh đi đánh, giặc bèn rút lui.”( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 73)

Một cuộc nỗi dậy khác do Lê Điệt cầm đầu tại tỉnh Thái Bình; quân Minh tiếp tục truy kích đến tỉnh Nam Định, nhưng cũng chưa dẹp được:

Ngày 3 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ  17 [19/12/1419]

Bọn Đô Chỉ huy Trần Trung tại Giao Chỉ đánh bại đảng giặc Lê Điệt tại sông Tiểu Hoàng huyện Kiến Xương [tỉnh Thái Bình] bắt sống 350 tên, đốt cháy trên 160 chiếc thuyền. Tiếp tục truy kích đến xã Cổ Lôi, huyện Tây Chân, phủ Phụng Hóa [Nam Định]  đánh bại bọn giặc Trần Dĩ Luật chém hơn 600 tên, đốt hơn 250 chiếc thuyền. (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 74)

Ngay tại tỉnh Nam Định cũng có cuộc nỗi dậy của Đinh Tông Lão; Phương Chính ra quân đánh dẹp, nhưng vẫn chưa diệt được chủ tướng:

Ngày 8 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 24/12/1419]

Ngày hôm nay các huyện như Đại Loan thuộc phủ Kiến Bình [huyện Nghĩa Hưng, Nam Định], Giao Chỉ; có bọn giặc Đinh Tông Lão làm loạn. Quan Tổng binh Phong thành hầu Lý Bân sai Chỉ huy Giao Châu hậu vệ Phương Chính suất quân đánh dẹp. Giặc thua chạy, chém hơn 400 tên, đều bị bêu đầu để làm răn.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 74)

Tổng binh Lý Bân đích thân mang quân truy kích Lê Điệt một lần nữa; nhưng vẫn chưa bắt được chủ tướng:

Ngày 11 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 27/12/1419 ].

Ngày hôm nay quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân truy đánh bọn Lê Điệt tại huyện Đình Hà phủ Trấn Man [Thái Bình], đánh bại giặc mấy lần; chém hơn 500 tên, bắt sống bọn ngụy Kim ngô tướng quân Vũ Lộ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 75)

Một cuộc nỗi dậy lớn, do sư cụ Phạm Ngọc trụ trì chùa Đồ Sơn, Hải Phòng cầm đầu; Tổng binh Lý Bân mang quân đi đánh dẹp, truy kích đến tận Đông Triều, Quảng Ninh. Tuy giết được phụ tá là Phạm Thiện, nhưng chưa bắt được Phạm Ngọc:

Ngày 15 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [31/12/1419]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân bắt được Tù trưởng giặc Phạm Thiện tại châu Đông Triều [Quảng Ninh] . Trước đây tên yêu tăng Phạm Ngọc tại chùa Đồ Sơn, huyện An Lão [Hải Phòng] phao rằng trời giáng ấn kiếm, lệnh làm chúa; bèn tiếm xưng La bình vương, kỷ nguyên Vĩnh Ninh, tụ tập đám đông làm loạn. Bọn Thiện và Đào Thừa đến theo. Ngọc cho Thiện làm Nhập Nội Kiểm Hiệu Tả Tướng quốc Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Ngô Trung làm Nhập Nội Hành khiển Hữu Thượng thư Tri Quân Quốc Trọng Sự, Đào Thừa làm Xa Kỵ Đại Tướng quân, Lê Hành làm Tư không, tụ tập đám đông chiếm cứ đường thủy và bộ. Lúc đại quân đến đánh, Thiện dàn quân hai bên bờ, lại bày thuyền giữa sông, thủy bộ cùng chống cự. Bân xua quân đánh gấp, chém 1200 thủ cấp, bắt sống Thiện cùng bọn Trung gồm 780 người, tịch thu hơn 200 chiếc thuyền lớn nhỏ, Ngọc tẩu thóat; lại bắt quân giặc hơn 260 tên, bèn xử chém để răn.Thiện, Trung, cùng bọn Vũ Lộ đều bị giải về kinh sư.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 75)

Tháng trước Đào Cường lăm le vượt sông đánh thành Đông Đô Hà Nội; nay được tin tụ tập tại Cẩm Giàng, Hải Dương; Lý Bân bèn mang quân đi đánh:                   

Ngày 26 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 17  [11/1/1420].

Ngày hôm nay quan Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân mang quân tới phủ Lạng Giang. Tin điệp báo cho biết Tù trưởng giặc Tư không Lê Hành, ngụy Kim Ngô Đại Tướng quân Đào Cường tụ tập lực lượng hơn 8000 tên lập trại tại xã Ma Lãng, huyện Đa Cẩm [huyện Cẩm Giàng, Hải Dương]; bèn tiến binh tiễu trừ.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 76)

Vào cuối năm Bình Định vương thứ hai [1/1920] Lý Bân tiếp tục truy kích; giết chủ tướng Đào Cường tại Bắc Ninh:                                         

Ngày 28 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [13/1/1420].

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân mang quân tới huyện Thiện Tài [Lang Tài, Bắc Ninh], gặp toán du binh của giặc hơn 1000 tên, đánh bại chúng rồi đuổi đến xã Ma Lãng. Giặc bỏ trống trại ra giao chiến, quan quân đánh bại; bắt giết Đào Cường, cùng tướng sĩ của chúng hơn 3.500 tên. (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 75 )

Về việc dùng văn hóa kèm với trấn áp để cai trị nước ta, vào năm Vĩnh Lạc thứ 14 [1416] cho lập 93 ty nho học, 46 ty Âm dương, 49 ty Y học, tại các phủ, châu, huyện. Nhà Minh cho phương lược này là đắc sách, nên lại cho lập thêm 28 ty Nho học tại các phủ, châu, huyện; cùng các ty phụ trách về Phật, Đạo, Âm Dương:

Ngày 29 tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 23/4/1419 ].

Thiết lập tại Giao Chỉ:

Phủ Nho học tại Lạng Sơn. 10 châu Nho học tại Thất Nguyên, Quảng Nguyên, Thượng Văn, Hạ Văn, Vạn Nhai, Thượng Tư Lang, Hạ Tư Lang, Cửu Chân, Gia Hưng, Quảng Oai. 17 huyện Nho học tại Ða Dị, Cổ Lan, Khâu Ôn, Trấn Di, Ðan Ba, Thoát, Uyên, Ðại Man, Tuyên Hoá, Phú Lương, Lộng Thạch, Ðại Từ, Cảm Hoá, Vĩnh Ninh, Tống Giang, Nga Lai, An Lạc.

Âm Dương học, ty Tăng Cang tại phủ Tuyên Hóa.

Âm Dương học, Y học, ty Ðạo Chính tại châu Quảng Oai; ty Tăng Chính tại Vạn Nhai.

Âm Dương học tại hai huyện Thái Bình, Trấn Di.

Y học, ty Tăng Hội, ty Ðạo Hội, tại huyện Thái Nguyên. Y học, ty Ðạo Hội tại huyện Cổ Lan. Âm Dương học, y học, ty Ðạo Hội tại huyện Ða Dị, Ðồng Hỷ.

Kho Thường Phong tại phủ Nghệ An, kho Thường Bình tại phủ Tân Bình. Kho Quảng Bình tại phủ Kiền Xương.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 62)

Nhà Minh sai người mang những sách giáo khoa sang nước ta, dùng để truyền bá nguồn văn hóa tư tưởng nêu trên. Đồng thời, Lý Bân xin cho lập một loại hộ khẩu gọi là hộ thiếp; cùng sắp đặt các viên chức hạ từng cơ sở như Lý trưởng, Giáp thủ, để quản lý kềm kẹp dân chùng:

Năm Kỷ Hợi, [1419], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 17). Mùa xuân, tháng 2, nhà Minh sai giám sinh Đường Nghĩa sang ban các sách Ngũ kinh (6), Tứ thư (7), Tính lý đại toàn (8), Vi thiện âm chấtHiếu thuận sự thực, cho nho học các phủ, châu, huyện. Sai tăng học truyền giảng kinh Phật tại Tăng đạo ty.

Lý Bân nhà Minh tâu xin Hộ bộ ban cấp hộ thiếp (9) cho Giao Chỉ, bắt châu huyện làm sổ thuế khóa phu dịch (10) và lên danh sách lý trưởng và giáp thủ (11) từng năm . Đại để, cứ 110 hộ là một lý, mỗi năm cử 1 lý trưởng, 10 giáp thủ, để nhận các việc lao dịch, hết lược lại cử từ đầu. Người làm lý trưởng, giáp thủ bị roi vọt đánh đập khổ sở khôn xiết.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 3b.

Ngoài việc đòi hỏi dân ta phải thay đổi y phục, quan lại nhà Minh còn can thiệp vào tập tục tang chế. Như tập tục dân ta chịu tang, mặc áo trắng chứ không mặc áo đen; người thọ tang không cần phải nghỉ việc lâu dài để chịu tang; những tập tục đó đều bị cấm:

NGÀY 4 THÁNG 7 NĂM VĨNH LẠC THỨ 17 [26/7/1419].

Ty Bố chánh Giao Chỉ Phó lý Lô văn Chính, tâu rằng :

 ‘Người Giao Chỉ tập quen phong tục man di, cha mẹ chết để tang cấm mặc áo đen; Thổ quan, Sinh viên, Thư lại cha mẹ chết cũng không xin nghỉ việc cư tang . Xin dùng quốc triều [Trung Quốc] đã định về tang lễ, ban hành dân gian để tuân hành. Các Thổ quan, Sinh viên, Thư lại có cha mẹ chết, phải bỏ chức dịch chịu tang; ngõ hầu dần dần từ bỏ tâp tục man di.’

 Thiên tử xem lời tâu trực diện dụ bộ Lễ rằng:

Ba năm cư tang là thông lệ xưa nay, thiên hạ ai mà không có cha mẹ, cho theo lời thỉnh cầu.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 65 )

Về lãnh vực kinh tế, tại vùng biển Quảng Ninh, lập cục khai mỏ ngọc trai; vùng núi Lạng Sơn, Phú Thọ, Tuyên Quang lập các cục khai mỏ vàng:

NGÀY 3 THÁNG 8 NĂM VĨNH LẠC THỨ 17 [23/8/ 1419].

Lập cục khai mỏ ngọc trai tại châu Tĩnh An Quảng Ninh, Giao Chỉ; đặt một viên Đại sứ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 66)    

Ngày 22 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 7 [11/9/1419]

Lập các cục mỏ vàng tại Giao Chỉ; thuộc trấn Thất Nguyên phủ Lạng Sơn, trấn Qui Hóa phủ Tam Giang, trấn Tuyên Quang phủ Tuyên Hóa. Đặt 2 viên Đại sứ, 4 viên Phó sứ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 67 )

Ngoài nguồn lợi thuế má, khai mỏ; theo thông lệ hàng năm, các chức sắc tại tam ty, phủ, huyện, đem quí vật về triều tiến cống:

Ngày 20 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 14/5/1419 ]

Thổ quan thuộc các phủ như Kiến Bình, bọn Tri phủ Phan Sĩ Văn 84 người; cống vàng, bạc, khí mãnh cùng sản vật địa phương. Ban cho tiền giấy, y phục lụa ỷ, lụa bạch, có sai biệt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 64)

Ngày 3 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 27/5/1419 ]

Thổ quan ty Tham chính Giao Chỉ, bọn Tả Tham chính Lương Nhữ Hốt đốc suất các Thổ quan quận, huyện dưới quyền; cống vàng, bạc, khí cụ, sản vật địa phương. Ban cho tiền giấy cùng y phục lụa sa dệt kim có sai biệt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 65)

Ngày 20 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 9/9/1419]

Giao Chỉ tiến cống ngựa trắng.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 67)

Ngày 29 tháng 12 năm Vĩnh lạc thứ 17 [14/1/1420].

Giao Chỉ dâng 1320 tấm quyên, 5000 cân tô mộc, 2000 chim thúy vũ, 10000 chiếc quạt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 78)

Chú thích:

1. An Nam Truyện, Vương Thế Trinh, Kỷ Lục Vựng Biên, quyển 49, trang 3.

2. Lam Sơn Thực Lục. Nguyên tác: Nguyễn Trãi. Vua Lê Lợi đề tựa. Nhà Xuất Bản Tân Việt in lần thứ 3 (1958), quyển 1, trang 9.

3. Sông Hải Triều: khúc đầu sông Luộc nằm giữa huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên và huyện Hưng Nhân thuộc tỉnh Thái Bình.

4. Tô mộc: Cây dùng làm thuốc Bắc.

5. Kỷ Tín: Trung thần của Hán Cao Tổ. Khi Cao Tổ bị Hạng Vũ vây ở núi Huỳnh Dương (nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), tình hình nguy ngập quá, Tín phải ăn mặc giả làm Cao Tổ, thay Cao Tổ ra đầu hàng: bị Hạng Vũ đốt chết. Còn Cao Tổ nhờ đó trốn thoát.

6. Ngũ Kinh: Năm kinh của nhà Nho: Dịch, Thi, Thư, Lễ và Xuân Thu.

7. Tứ Thư: Bốn sách của nhà Nho: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử.

8. Tính Lý Đại Toàn: Bộ sách do bọn Hồ Quảng, vâng lệnh vua Minh, soạn ra. Nội dung dựa vào học thuyết của các Tống nho, chia làm 13 mục, gồm 70 cuốn.

9. Hộ thiếp: như sổ hộ tịch, mỗi tấm hộ thiếp có ghi rõ họ tên, quê quán và số đinh trong mỗi hộ, có đánh số chữ ký hiệu và đóng một nửa phần dấu kiềm đề phòng khi khám nghiệm. Sổ hộ khẩu thì để ở Hộ bộ, còn hộ thiếp thì phát cho các hộ (theo Đại Minh hội điển).

10. Nguyên văn: Phú dịch hoàng sách, tức là quyển sách bìa vàng kê khai thuế khóa phu dịch. Theo Thông giám tập lãm, thì năm Hồng Vũ thứ 14 (1381) nhà Minh hạ chiếu bắt cả nước làm sổ "hoàng sách".

11. Giáp thủ: là người đứng đầu một giáp, gồm 10 hộ; Lý trưởng: người đứng đầu 1 lý, gồm 110 hộ.

Tình hình nước ta lúc bấy giờ, các cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược nỗi lên khắp nơi từ bắc Trung Phần cho đến Lạng Sơn. Vào đầu năm Bình Định vương thứ 3 [1420], nhận thấy đạo quân dưới quyền Lý Bân không đương đầu nỗi; Vua Minh Thái Tông bèn điều quân từ Tứ Xuyên, Vân Nam đến tăng viện:

Ngày 18 tháng giêng nhuần năm Vĩnh Lạc thứ 18 [4/3/1420]

Sắc dụ quan Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân rằng :

‘ Trẫm ra lệnh  người cai trị một phương, muốn cho quân dân được yên chỗ; nay để cho giặc giã nỗi lên rầm rộ, làm sao ngươi từ chối trách nhiệm được. Nay điều quân từ các xứ Vân Nam, Tứ Xuyên; quan quân nhiều ngươi phải hết sức trù tính sớm diệt bọn giặc. Nếu lần lữa ngày tháng, khiến bọn giặc ngày một lớn, thì căn cứ vào quốc điển khó mà khoan thứ được.”( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 79)

Ngoài ra còn điều Vinh dương bá Trần Trí đến, giữ chức phụ tá cho Lý Bân:

Ngày 21 tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [ 3/5/1420 ].

Mệnh Vinh dương bá Trần Trí giữ chức Tả tham tướng phụ tá Tổng binh Phong thành hầu Lý Bân  trong việc đánh dẹp man di phản loạn.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 79)

Đối với những võ quan bại trận, lệnh nghiêm khắc trừng phạt; bắt cùm chân áp giải về kinh đô:

Ngày 22 tháng giêng nhuần năm Vĩnh Lạc thứ 18 [ 6/3/1420]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân tấu trình Đô Chỉ huy Lưu Chấn, Vu Toản, Ngô Hưng bị bại trận trước đây; cùng kẻ có lỗi Đô Chỉ huy Trần Tuấn lập được thành tích ngự giặc. Thiên tử mệnh cùm bọn Chấn 3 người giải về kinh; riêng tha cho Tuấn tội, được phục chức.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 79)

Sau khi đã tăng cường binh lực và tướng lãnh; mệnh Lý Bân đánh bắt cho được 4 đầu đảng Phan Liêu, Lê Lợi, Xa Tam, Nông Văn Lịch:

Ngày 10 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [20/6/1420].

Sắc dụ quan Tổng binh Phong thành hầu Lý Bân rằng bọn phản loạn Phan Liêu, Lê Lợi, Xa Tam, Nông Văn Lịch đến nay vẫn chưa bắt được, không biết việc binh đến khi nào mới hết, dân đến lúc nào mới được yên; nên ngày đêm hết lòng trù hoạch phương lược, sớm diệt bọn giặc này, để khỏi phụ sự ủy nhiệm của Trẫm.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 79)

Về cuộc khởi nghĩa của Vua Lê Lợi, sử Trung Quốc chép vào tháng giêng, Đô chỉ huy Từ Nguyên đánh đuổi quân khởi nghĩa tại huyện Cẩm Thủy, Thanh Hoá:

Ngày 4 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 18 [ 18/1/1420 ]

…Giặc Lê Lợi tại Thanh Hóa tụ tập quân đóng trại tại Lỗi Giang [huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa], bị Đô chỉ huy Từ Nguyên mang quân công phá, Lợi chạy trốn.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 78)

Tuy nhiên thế lực nghĩa quân lớn mạnh, hoạt động ra đến miền bắc, giết những tên quan lại đắc lực của nhà Minh như Hữu Tham chính Hầu Bảo. Trong văn bản này còn ghi Tả Tham chính Phùng Quí cũng đánh giặc tử trận, nhưng không chép lúc nào và tử trận bởi quân Lê Lợi trong trường hợp nào. Riêng sử Việt ghi Phùng Quí tử trận trong trận giao tranh tại sách Khôi, Thanh Hóa, vào tháng chạp năm Bình Định vương thứ 5:

Ngày 23 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [3/7/1420].

Giao chỉ Hữu Tham chính Hầu Bảo, suất dân binh chống giặc tử trận. Tả Tham chính Phùng Quí cũng đánh giặc tử trận.

Bảo người đất Tán Hoàng, Chân Định; từ Sinh viên Quốc Tử bổ dụng làm Tri huyện 3 huyện Cổn Thành, Cống Du, Đôn Hưng; rành việc hành chính. Lúc mới lập Giao Chỉ, chọn người cai trị phủ huyện, bèn thăng Bảo làm Tri phủ Giao Châu, rồi được thăng chức Hữu Tham chính Giao Chỉ. Bấy giờ giặc Lê Lợi cướp phá các quận, huyện tại vùng Hoàng Giang [Nam Định], Bảo đôn đốc dân binh xây đồn tại các nơi quan trọng để chống cự. Giặc đến đánh, bọn Bảo đánh không thắng, bị chết.

Quí người đất Vũ Lăng, Hồ Quảng; trúng Tiến sĩ giữ chức Binh khoa Cấp sĩ. Lúc Anh quốc công Trương Phụ giữ chức Tổng binh chinh phạt Giao Chỉ, Quí đôn đốc lương thực, cần lao gắng sức. Được tâu công việc hoàn thành xứng chức, chiếu chỉ thăng chức Giao Chỉ Hữu Tham nghị; rồi giữ chức Đề đốc các hầm mỏ vàng bạc, thăng chức Tả Tham chính. Biết cách chiêu tập dân lưu vong qui phụ, có một đội thổ binh hơn 2000 người, đều dõng cảm chịu chiến đấu; mỗi lần ra quân đánh nhau đều lập công. Sau bị Trung quan Mã kỳ ghen tỵ, đoạt hết thổ binh; đến lúc Lê Lợi làm phản quân mạnh, Quí chỉ có vài trăm lính đến đánh. Binh ít gặp quân giặc đông, Quí ra sức đánh rồi tử trận. Bảo tham chính thanh liêm khoan thứ, Quí có tài, tử trận mọi người đều tiếc.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 82)

Sự kiện xãy ra vào tháng 10, sử Trung Quốc chép Phương Chính đánh bại quân Vua Lê Lợi tại sông Mường Tâm, Ai Lao:                                                                                                    

Ngày 25 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [30/11/1420]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân sai Hậu vệ Giao Châu Chỉ huy sứ Phương Chính truy kích Lê Lợi, đánh bại giặc tại sông Mường Tâm, Lão Qua; Lợi bỏ trốn.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 84)

Tuy nhiên cũng vào thời điểm này, sử Việt chép Vua Lê phục kích tại vùng Mường Thôi giáp Ai Lao; bọn Lý Bân, Phương Chính thua to, chỉ thoát được lấy thân. Đến tháng chạp quân nhà Vua lại chiến thắng tại huyện Cẩm Thủy, Thanh Hoá:

Mùa đông, tháng 10, vua nghe tin quân Minh sắp đến, đặt mai phục ở bến Bổng (1) chờ giặc, chém giết quân giặc nhiều vô kể, bắt được hơn trăm con ngựa. Vua cho nghỉ quân ở Mường Nanh (2), rồi lại dời đến đóng quân ở Mường Thôi [giáp Ai Lao]. Tên Đồng tri châu Quỳ Châu là Cầm Lạn dẫn bọn Lý Bân, Phương Chính đem hơn 10 vạn quân, theo đường Quỳ Châu đến thẳng Mường Thôi. Vua phục kích chúng ở Thi Lang . Bân và Chính chỉ chạy thoát được thân mình.

 Tháng 12, vua tiến quân đóng ở sách Ba Lẫm (3) thuộc huyện Lỗi Giang [Cẩm Thủy, Thanh Hóa], khiêu khích cho giặc ra đánh. Tướng giặc là bọn Đô ty Tạ Phương, Hoành Thành bỏ đồn Nga Lạc, về giữ trại Quan Du [huyện Quan Hóa, Thanh Hóa] để phòng bị cho thành Tây Đô, cố giữ không ra đánh. Vua ngày đêm dùng nhiều cách tiến công uy hiếp để giặc mỏi mệt, rối loạn. Lại sai Lê Sát, Lê Hào chia nhau tiến đánh, cả phá bọn giặc, chém được hơn nghìn thủ cấp, thu được rất nhiều chiến cụ, từ đó thế giặc ngày một suy. Vua bèn chiêu tập nhân dân các xứ. Các huyện bên cạnh đều sôi nổi hưởng ứng, cùng nhau tiến đánh và uy hiếp các đồn giặc.”Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 10, trang 6b.

Ngoài Vua Lê Lợi, bấy giờ có Cấn Sư Lỗ, Phạm Công Trịch, Trịnh Công Chứng hoạt động tại các tỉnh Sơn Tây, Vĩnh Phú; Lý Bân bèn sai thuộc hạ đánh dẹp:

 Ngày 4 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 18 [ 18/1/1420 ]

Giặc Giao Chỉ Cấn Sư Lỗ, Phạm Công Trịch tụ dân làm loạn. Quan Tổng binh Lý Bân sai người đến huyện Thạch Thất [Sơn Tây] giao chiến. Sư Lỗ thua chạy, chém được bọn Dực vệ tướng quân Cấn Hoạch hơn 150 người. Lúc bấy giờ Công Chứng tại châu Oai Man [Vĩnh Phú] nghe tin đưa quân về Khoái Châu [Hưng Yên]. Nhưng bị Đô chỉ huy Giao Chỉ Tôn Lâm đánh tại huyện Thiện Tài, châu Gia Lâm [Bắc Ninh], giết bọn tướng giặc Phạm Trầm, bắt sống đầu đảng giặc Lê Hành.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 78)

Lý Bân đích thân mang quân truy kích Lê Điệt tại vùng Thái Bình, Nam Định; bắt sống, áp giải về kinh:

Ngày 4 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [16/5/1420]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân sai Đô Chỉ huy Trương Quý đánh giặc Lê Điệt tại huyện Đình Hà, phủ Trấn Man [Thái Bình, Nam Định], bắt sống ngụy Long Hổ Đại Tướng quân Đinh Thung, riêng tên Điệt mang dư đảng trốn. Bân tự suất binh đánh bắt, do đó ngụy Long Hổ Tướng quân Phan Dương, Phạm Canh đều hàng. Quân của Bân truy kích đến cùng, bắt sống Điệt, vợ y, cùng tướng giặc Nguyễn Thừ, Đỗ Đức Lăng, Nguyễn Như Lôi, giết trên 600 người, cùm giải bọn Điệt về kinh sư.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 80)

Năm ngoái [1419],  Lý Bân mang quân đánh dẹp cuộc nỗi dậy của sư cụ Phạm Ngọc trụ trì chùa Đồ Sơn; nhưng chưa diệt xong tận gốc; nay đánh bắt được Phạm Ngọc tại Đông Triều [Quảng Ninh], áp giải về kinh:            

Ngày 20 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [1/6/1420]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân bắt cựu thủ lãnh giặc ngụy La Bình vương Phạm Ngọc. Trước đây Ngọc thua bỏ chạy, lại trở về châu Đông Triều tụ tập đám đông cướp phá; cuối cùng bị bắt, cùm giải về kinh sư.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 80)

Lộ Văn Luật. từng theo Phan Liêu, mang quân đến Thạch Thất [Sơn Tây]; bị đánh thua phải chạy sang Ai Lao:

Mùa, hạ, tháng 4, Lộ Văn Luật dấy binh ở Thạch Thất, Lý Bân đánh phá được. Lộ Văn Luật chạy sang Ai Lao, dân chúng thì trốn vào hang núi Phật Tích và An Sầm Thạch Thất [Sơn Tây]. Quân Minh dỡ nhà hun động, người trong động bị khói lửa hun đều chết, người nào ra hàng cũng bị giết cả, vợ con bị bắt làm nô tỳ.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 5a.

Vào tháng 5, Lý Bân sai Đô chỉ huy Chu Quảng đánh bắt các lãnh tụ nỗi dậy gồm Khai thánh vương Nguyễn Đa,  Chiêu Tín hầu Bình chương Quân quốc trọng sự Đàm Dữ Bang, Nhập Nội Kiểm hiệu Bình chương Tư đồ Nguyễn Gia, Thái sư Trung liệt công Vi Ngũ; áp giải tất cả về kinh sư:

Ngày 15 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [25/6/1420]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân sai Đô Chỉ huy Chu Quảng đánh bắt được bọn ngụy Khai thánh vương Nguyễn Đa, ngụy Chiêu Tín hầu Bình chương Quân quốc trọng sự Đàm Dữ Bang, ngụy Nhập Nội Kiểm hiệu Bình chương Tư đồ Nguyễn Gia, ngụy Thái sư Trung liệt công Vi Ngũ; lại bắt vợ con, cùng ấn ngụy; đem tất cả đến kinh sư.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 81)

Lê Ngã, nỗi dậy tại điạ bàn 3 tỉnh Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang, từng mang quân đánh phá thành Xương Giang; Lý Bân mang đại quân đánh, Ngã bị thua:

Tháng 6, người làng Tràng Kênh, huyện Thủy Đường [huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng] là Lê Ngã đổi họ tên thành Dương Cung, tự xưng là Thiên Thượng Hoàng Đế, đăt niên hiệu là Vĩnh Thiên. Ngã vốn là gia nô của Trần Thiên Lại, tướng mạo rất đẹp, đã từng đi khắp bốn phương, đến đâu cũng được mọi người cung dưỡng. Ngã lại trá xưng là lính hầu của Mã Kỳ, đi doạ nạt các châu huyện làm kế nuôi thân. Thấy Công Chứng, Phạm Ngọc, Phạm Thiện đua nhau nổi dậy, Ngã bảo những người quen biết:

 ‘Các anh có muốn giàu sang không? Ai muốn thì hãy theo ta!’.

 Đến huyện Đan Ba [huyện Đình Lập, Lạng Sơn], Ngã trá xưng là cháu bốn đời của Trần Duệ Tông, từ nước Lão Qua trở về. Phụ đạo Đan Bá là Bế Thuấn đem con gái gả cho và lập làm vua. Trong khoảng mấy tuần một tháng, đã có vài vạn quân, hắn ra An Bang [Quảng Ninh] chiếm trại Hồng Doanh. Sau khi Công Chứng, Phạm Ngọc bị thất bại, thì dư đảng của họ theo về với Ngã, số quân được đến mấy vạn người. Ngã tiếm xưng tôn hiệu, dựng niên hiệu, đặt quan chức, đúc tiền, đốt thành Xương Giang [Bắc Giang], cướp trại Bình Than. Có người biết hắn là Ngã cũng không dám nói. Thiên Lại đi gặp hắn, trở ra nói rằng:

‘Nó là gia nô của ta, việc gì phải lạy nó’.

 Rồi dời thuyền trốn đi. Ngã đuổi theo nhưng không kịp. Thiên Lại gởi hịch cho các huyện gần đó, tự xưng là Hưng Vận quốc thượng hầu, đem quân đánh nhau với Ngã, bị Ngã giết chết, Lý Bân đem đại quân thủy bộ đến đánh. Ngã và Thuấn đang đêm bỏ trốn cả, không biết là đi đâu.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 6a.  

Theo thông lệ hàng năm, vào tháng chạp Giao Chỉ phải nạp đồ tiến cống cho triều Minh:

Tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [ 2/1421]

Giao Chỉ dâng lên  triều đình  2.265 tấm lụa quyên (4) , 5000 cân tô mộc (5) , 3000 chim thúy vũ, 1 vạn quạt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 85)

Thời Bình Định vương năm thứ 4, tức năm Vĩnh Lạc thứ 19 [1421], Vua Lê Lợi rút quân sang Lão Qua; Lý Bân định mang quân sang đánh, nhưng Lão Qua xin đừng sang, hứa sẽ lục soát đánh đuổi:

Ngày 11 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 19 [7/10/1421]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân tâu:

Phản tặc Lê Lợi chạy trốn sang Lão Qua, ra lệnh cho quân truy bắt. Nhưng Lão Qua sai Đầu mục Lãm Kỳ Tức Cốc xin quan quân đừng vào biên cảnh, sẽ cho quân lính đi lục soát, nếu có Lê Lợi sẽ đem đến cửa quân. Từ đó đến nay đã lâu, không thấy tung tích Lê Lợi.’

 Thiên tử xem tấu, nghi Lão Qua dấu giặc nên sắc dụ Bân đưa bọn Lãm Kỳ Tức Cốc đến Bắc Kinh để cật vấn.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 87)

Việc Sứ giả Lão Qua sang Trung Quốc gây ảnh hưởng rất lớn, sau đó Lão Qua hùa theo nhà Minh, mang quân tập kích Vua Lê Lợi:

Mùa đông, tháng 11, ngày 20, tham tướng nhà Minh là Trần Trí đem quân các vệ Giao Châu cùng ngụy binh, gồm hơn 10 vạn tên đánh sát đến ải Kính Lộng [huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa], sách Ba Lẫm. Vua họp các tướng bàn rằng:

‘Quân giặc nhiều, quân ta ít, nhưng quân giặc mệt, quân ta nhàn. Binh pháp có nói được hay thua là ở tướng chứ không phải ở quân nhiều hay ít, nay quân giặc tuy nhiều, nhưng ta đem quân nhàn đợi đánh quân mệt mỏi, chắc chắn sẽ đánh bại chúng’.

 Đến đêm, vua chia quân đánh úp doanh trại giặc. Quân ta đánh trống reo hò xông tới, phá được bốn doanh trại giặc, chém được hơn ngàn thủ cấp. Sau Trí khinh vua ít quân, lại phá núi mở đường để tiến đánh. Vua ngầm phục kích ở đèo Ống [huyện Cẩm Thủy] để đợi giặc. Đến trưa, Trí quả nhiên đem quân đi theo đường núi đến. Quân phục hai bên xông ra, đánh bại giặc. Quân Trí phải rút.

 Nhưng đúng lúc ấy. Ai Lao đem 3 vạn quân và 100 thớt voi thình lình tới doanh trại của vua phao tin là cùng hợp sức với vua để đánh giặc. Vua tin lời họ, không phòng bị. Đến nửa đêm, bị họ đánh úp. Vua phải đích thân đốc chiến, suốt từ giờ Tý đến giờ Mão, đánh tan bọn Ai Lao, chém hơn 1 vạn thủ cấp, bắt được 14 con voi, thừa thắng truy kích liền 4 ngày đêm, đuổi đến tận sào huyệt của bọn chúng rồi về. Tháng 12, vua tiến ra đóng quân ở Sách Thủy. Tù trưởng Ai Lao Là Mãn Sát đã cùng quẫn, muốn vua hoãn đánh để đợi viện binh, mới giả vờ xin hòa. Vua biềt đó là mưu kế xảo quyệt, không cho. Các tướng cố xin cho hoà, nói là quân lính khó nhọc đã lâu, nên cho nghỉ ngơi môt chút. Chỉ có Bình chương Lê Thạch cho là không thể cho giặc giải hòa, liền tự  mình hăng hái xông lên trước, chẳng may trúng phải chông ngầm mà chết. Thạch là con người anh của  Vua; thuở ấu thơ, được vua nuôi nấng nên ngài yêu Thạch hơn cả con mình. Thạch tính người nhân ái, ham đọc sách, khoẻ mạnh, dũng cảm, yêu mến quân sĩ, vua từng sai chỉ huy quân tiên phong, đánh đâu thắng đấy. Đáng tiếc Thạch dũng cảm nhưng kém  mưu. Đến đây chết, vua rất thương xót.

Trước đây, vua vốn hòa hiếu với Ai Lao, chưa từng có hấn khích gì. Khi vua cầm cự với giặc tại sách Lư Sơn, Ai Lao từng cho quân sang cứu viện. Đến khi tên ngụy quan Lộ Văn Luật trốn giặc sang Ai Lao, sợ uy danh vua, thêu dệt gây nên hiềm khích, nên mới đến nỗi thế.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 8b.

Sử nước ta không nêu được bằng chứng việc Lộ Văn Luật nói xấu nhà Vua với Ai Lao gây nên hiềm khích; nhưng sử Trung Quốc, Minh Thực Lục, chép việc Lão Qua tức Ai Lao sai sứ sang cống, và việc Đầu Mục Lãm Kỳ Tức Cốc đến Bắc Kinh ; chứng tỏ Trung Quốc và Lão Qua có nhiều dịp thương lượng ngầm với nhau:

Ngày 27 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 19 [28/5/1421].

Tuyên ủy sứ Lão Qua Đao Tuyến Phản sai bọn Đầu mục Côn Điển 15 người, cống vàng, bạc; ban cho tiền giấy, lụa màu có phân biệt.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 85)

Ngoài việc giao tranh với Vua Lê Lợi, Lý Bân còn sai Đô chỉ huy Sư Hữu mang quân sang Lão Qua truy kích bọn Phan Liêu, nhưng không diệt được đầu đảng:

Ngày 6 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 19 [ 7/2/1421]

Tháng này quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân sai Đô Chỉ huy Sư Hữu truy kích bọn  giặc Phan Liêu, Cầm Trách. Khi đến Ngọc Ma [phủ Trấn Định, Ai Lao]  thì Liêu đến Lão Qua xin viện binh; riêng Trách dùng voi xung kích đánh trả tại rừng Nông Ba. Bọn Chỉ huy Trương Minh, Thiên Hộ Trương Bản xông vào trận giặc bắn lính cữi voi, lại dùng hỏa khí bắn vào khiến voi phải chạy lùi; giặc tan rã. Chém hơn 100 tên, bắt sống hơn 30 tên. Em Trách là Kết mang 200 quân dưới quyền đầu hàng. (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 85)

Trước đây Lê Ngã đổi tên thành Dương Cung, tự xưng là Thiên Thượng Hoàng Đế, đánh phá tại các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương; Lý Bân ra lệnh ráo riết truy lùng. Nay Bân sai Đô chỉ huy Vương Trung bắt được Dương Cung tại huyện Giáp Sơn, bèn cho giải về kinh:

Ngày 19 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ  19 [15/10/1421]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân sai Đô Chỉ huy Vương Trung bắt được đầu đảng giặc Dương Cung. Trước đây Cung tiếm xưng Vương, tụ tập đám đông làm loạn, quan quân truy đánh, Cung chạy trốn không bắt được. Đến nay bắt người cậu là Đỗ Cô, sai chỉ đường truy tới huyện Giáp Sơn [huyện Kinh Môn, Hải Dương], phủ Tân An thì bắt được; bèn cùm giải đến Bắc Kinh.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 88)

Sử Việt bác bỏ chuyện Dương Cung bị bắt. Căn cứ lời xác nhận của Tri huyện Dặc Khiêm rằng Lý Bân muốn vừa lòng chiếu thư đòi hỏi bắt cho kỳ được Dương Cung; bèn gian dối bắt Sinh viên Phạm Luận, buộc nhận là Dương Cung, rồi tống giải về kinh:                    

“Tổng binh Lý Bân và nội quan Lý Lượng của nhà Minh bắt Phạm Luận là sinh viên huyện Giáp Sơn [phủ Kinh Môn, Hải Dương], buộc Luận mạo nhận là Dương Cung để cho qua chiếu lệnh lùng bắt, bắt đến cả gia thuộc Luận là bọn Phạm Xã giải về Yên Kinh. Tri huyện Dặc Khiêm nhận thực không phải là tên Cung. Bân không nghe. Khiêm lấy bao vàng dâng đại cáo, tâu thẳng về Yên Kinh. Bân sai người chặn đường bắt về. Hoàng Phúc khuyên Khiêm rằng:

‘Mọi người đều cho là đúng, chỉ riêng ngươi bảo không phải là làm sao?’.

 Khiêm nói:

‘Ai ra ngoài mà chẳng phải ra cửa ngõ?"(6) .

 Bân cho giải cả Khiêm và Luận về Yên Kinh, giao xuống cho pháp ty xét hỏi. Khiêm suýt nữa bị tội, vì có người anh đánh trống đăng văn (7) khiếu oan nên được miễn tội. Sau thăng dần đến chức Hữu bố chính sứ nước ta. Gia thuộc của Luận cuối cùng bị chết trong ngục.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 7b.

Về vấn đề kinh tế, với chủ trương dùng tài nguyên thuộc địa nuôi quan quân cai trị; Lý Bân tâu xin lập đồn điền cung cấp lương thực; y lưu ý lính bản xứ phần lớn lưỡng lự hai lòng, nên bắt làm đồn điền ít tham gia chiến đấu:

Ngày 29 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ  19 [28/6/1421].

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân tâu rằng đất nội phụ Giao chỉ xa xôi, không dễ dàng vận chuyển lương thực; xin cho các ty, vệ, sở chia lính lập đồn điền để cung cấp. Hoạch định một phần căn cứ vào đất đai hiểm hay dễ, tình thế gấp hay hoãn để dùng quân đồn điền hoặc chinh điều nhiều hay ít. Quân lính người bản xứ tuy được liệt vào sổ binh, nhưng lúc đánh nhau còn lưỡng lự hai lòng, thường không liều chết; nay bàn định tỷ số đồn điền phần nhiều là lính bản xứ, quan quân ít.

Trong 7 vệ gồm Giao Châu tả, Hữu, trung, tiền, cùng Trấn Di, Xương Giang, Thanh Hóa; hoạch định quan quân 1 phần đồn điền, 9 phần chinh thủ; quân lính người bản xứ 7 phần đồn điền, 3 phần chinh điều.  Hậu vệ Giao Châu, vệ Tam Giang, Thiên hộ sở Thị Cầu; quan quân 2 phần đồn điền, 8 phần chinh thủ; lính bản xứ 8 phần đồn điền, 2 phần chinh điều. Mỗi người làm đồn điền hàng năm trưng thu 35 thạch lúa.

Ba vệ Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa quan quân đồn điền 3 phần, 7 phần chinh thủ; lính bản xứ 6 phần đồn điền , 4 phần bị chinh điều. 3 Thiên Hộ sở tại Diễn Châu, Nam Tĩnh, Tân An; tất cả quan quân không phụ trách đồn điền, quân bản xứ 3 phần đồn điền, 7 phần chinh điều. Quân đồn điền hằng năm trưng thu 18 thạch lúa mỗi người. Lời tâu được chấp nhận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 86)

Ty Bố chánh Giao Chỉ còn xin triệu tập thương gia đổi muối lấy gạo; với mức đổi chác, tại miền Bắc cao hơn miền Trung:

Ngày 13 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 19 [6/1/1422]

Ty Bố chánh Giao Chỉ tâu rằng lương thực dự trử không đủ, xin chuẩn cho quan phụ trách kho muối triệu thương gia đến, đổi muối lấy thực phẩm. Theo thường lệ đổi muối lấy vàng, nay tạm cho đổi lấy thực phẩm, chờ đến lúc có đủ lương thực thì đình chỉ. Bọn Thượng thư Quách Tư bàn định như sau: Tại 4 phủ  Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tân An đổi 1 dẫn (8) muối lấy 4 đấu (9)  gạo, hoặc 1 thạch (10) thóc. Tại 2 phủ Kiến Bình, Thanh Hóa đổi 1 dẫn  lấy 3 đấu 5 thăng gạo, hoặc 8 đấu 7 thăng lúa. Tại 2 phủ Tân Bình và Nghệ An đổi 1 dẫn lấy 3 đấu gạo, hoặc 7 đấu 5 thăng thóc. Tại phủ Thuận Hóa đổi mỗi dẫn 2 đấu 5 thăng gạo, qui ra lúa là 6 đấu 2 thăng. Được trên chấp thuận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 88)

Vẫn theo thông lệ hàng năm, vào cuối năm Bình Định vương thứ 4, tức Vĩnh Lạc thứ 19 1921; Giao Chỉ phải dâng nạp lụa quyên, sơn, cây thuốc tô mộc, chim thúy vũ, quạt:

Tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 19 [1- 2/ 1422 ].

Giao Chỉ dâng lên triều đình 1535 tấm lụa quyên, 2500 cân sơn, 4520 cân tô mộc , 2725 chim thúy vũ, 7535 quạt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 89)                      

 Chú thích:

1. Bến Bổng: có lẽ nằm trên thượng lưu sông Chu.

2. Mường Nanh: nay còn địa danh Mường Nang, tức là xã Thịnh Nang, huyện Lang Chánh. Mường Nanh có lẽ là đất ấy.

3. Ba Lẫm: tên sách, có lẽ là vùng Chiềng Lâm ở xã Điền Lư, thuộc huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa.

4. Quyên: Lụa mộc, lụa sống.

5. Tô mộc: Cây dùng làm thuốc Bắc

6. Ý chỉ mọi người đều bị ngăn tại cửa ngõ, không cho tin tức lan ra.

7. Trống đăng văn: trống để ở điện đình, ai có việc oan khuất thì đánh lên, trình bày nỗi oan để được xét lại.

8. Dẫn: quy định đo lường của Trung Quốc, dẫn không có trọng lượng nhất định, thông thường 1 dẫn bằng 200 cân; 1 cân Khố Bình bằng 0.596kg;

9. Ðấu: bằng 10 thăng.

10. Thạch: tức 10 đấu, hoặc 100 thăng, tương đương 103.55 lít.

Phong thành hầu Lý Bân thay Anh quốc công Trương Phụ giữ chức Tổng binh Giao Chỉ được 5 năm thì mất [1417-1422]; Vinh dương bá Trần Trí thay thế:

Ngày 14 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 20 [5/2/1422].

Phong thành hầu Lý Bân mất. Bân người châu Phượng Dương, cha là Tín lập quân công, quan đến Chỉ huy Thiêm sự vệ Tế Châu. Khi Tín già, Bân thay chức.

Bân là người có trí lược, khi Thiên tử bình nội nạn nhiều lần lập công, được thăng đến Hữu Quân Ðô đốc Ðồng tri Phong thành hầu. Lúc đầu trấn thủ Giang Tây, chiến dịch Giao Chỉ làm Tả Tham tướng, Khi Giao Chỉ bình, trở về nước đánh dẹp giặc Nụy, giữ Cam Túc có công; sau đó trấn thủ Giao Chỉ, lo đánh dẹp bọn giặc làm loạn. Nay bị tật mất, được ban tế; truy phong Mậu quốc công thụy Cương Nghị, cấp phương tiện đưa linh cửu về tống tang.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2trang 89)

Sử Việt chép rằng Bân bị ung nhọt chết:

Tháng 2 [21/2-22/3/1422], viên Tổng binh nhà Minh là Phong Thành hầu Lý Bân bị bệnh nhọt chết.” Toàn  Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 9a.

Nhắm ràng buộc dân ta bằng văn hóa tư tưởng, năm Vĩnh Lạc thứ 14 [11/6/1416] cho lập hơn 200 ty Nho học, Đạo học, Phật học, tại các phủ, châu, huyện. Hàng năm tiếp tục tăng đặt các ty, và cho người mang sách giáo khoa sang cung cấp; năm nay lại cho thầy trò đến kinh đô tiến cống, và xin thêm các sách như Ngũ Kinh, Tứ Thư, Tính Lý Đại Toàn, Vi Thiện Âm Chất:

Ngày 4 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ  20 [24/5/1422]. Các thầy trò tại Giao Chỉ gồm các phủ Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Trấn Man, Phụng Hóa, Thanh Hóa, Tân An, cùng các châu huyện trực thuộc đến kinh khuyết cống phương vật và xin ban các sách Ngũ Kinh, Tứ Thư, Tính Lý Đại Toàn, Vi Thiện Âm Chất. Hoàng Thái tử lệnh bộ Lễ ban cho.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 90)

Về lương thực, dù đã lập đồn điền, bắt lính sản xuất lúa nuôi quân, nhưng vẫn không đủ cho nhu cầu, nên Tham tướng Trần Trí xin cung cấp thêm gạo từ kho Quảng Đông. Y tiết lộ rằng quan quân mỗi tháng dùng 57.700 thạch; mỗi thạch là 103 lít gạo, đủ nuôi 5 người; như vậy có thể ước tính số quan quân lúc đó vào khoảng 300 ngàn tên [57.700 . 5 = 288.500]:

Ngày 13 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 20 [29/8/1422]. Tham tướng Giao Chỉ Vinh dương bá Trần Trí tâu lương tháng của quan quân lớn nhỏ tại Đô ty Giao Chỉ, cùng bổng của các quan ty mỗi tháng gồm 57.700 thạch gạo; mỗi năm tính ra hơn 692.400 thạch. Nay các phủ tại Giao Châu tồn kho không đủ; mà lượng trử tại châu Khâm, Quảng Đông có đến hơn100.940 thạch, xin lệnh chuyển vận cấp cho. Hoàng Thái tử chấp thuận.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 91)

Góp phần giải quyềt khó khăn về lương thực, Thượng thư Hoàng Phúc đề nghị giảm lương quân lính yếu đuối; cho các tội nhân nặng nhẹ nạp gạo chuộc tội, để cấp lương thực cho quân lính:

Ngày 14 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 20 [30/8/1422]. Ngày hôm nay người nắm chức trông coi ty Bố chánh và Án sát Giao Chỉ, Thương thư Hoàng Phúc tâu rằng:

‘ Giao Chỉ cách xa vạn lý, lương thực phải tích trử rộng rãi an toàn mới mong vững yên, lại tuyển luyện thêm sĩ tốt để làm mạnh uy vũ. Nay trong các vệ, không phân biệt kẻ khỏe người yếu, đều chi lương bổng đồng đều; không những phí phạm mà lại còn không làm phấn khởi sĩ khí. Nên giảm chi phí cho người già yếu, để tăng thêm cho người khỏe mạnh.’

Lại tâu rằng:

‘Ðiều lệ mới ban ra những người bị tội phạt roi, tội đồ, tội đày , hoặc phạm tạp tội bị xử tử cho đưa về kinh đô công tác. Giao Chỉ đến kinh đô đường sá xa xôi hiểm trở; nếu tuân theo lệ mới giải đi, sẽ bị chết dọc đường nhiều; xin cho các tội nặng nhẹ nạp gạo chuộc tội, để tư cấp lương thực cho quân đội; công tư cả hai đều tiện.’

Hoàng Thái tử chấp thuận.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 91)

Những viên quan lại người bản xứ như Đỗ Duy Trung, Trần Phong, đang tâm bóc lột đồng bào, vơ vét vàng bạc đem triều cống; Tam Ty Giao Chi cũng không quên tiến cống những sản phẩm quí hàng năm:

Ngày 18 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 20 [3/9/1422]. Các Thổ quan Giao Chỉ Hữu Tham chính Ðỗ Duy Trung coi giữ phủ Tam Giang, Tri phủ Phụng Hóa Trần Thùy, con cố Tri phủ Giao Châu Ðỗ Hy Vọng tên Cự, Tri huyện Ðương Ðạo Lương Quốc Phụ thuộc phủ Tuyên Hóa; tất cả gồm 27 người đến triều cống vàng, bạc, khí mãnh, cùng sản vật địa phương. Hoàng Thái tử mệnh bộ Lễ ban yến ủy lạo.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 92)

Ngày 27 tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 20 [10/12/1422]. Bọn Hữu Tham chính phủ Giao Châu, Giao Chỉ, Ðô Chỉ huy Trần Phong cùng 83 người đến triều đình tiến cống các vật như vàng, bạc, khí mãnh. Ban cho y phục trữ, lụa là dệt kim, cùng tiền giấy, gấm, lụa nõn trong ngoài có phân biệt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang  93)

Tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 20 [14/12/1422-12/1/1423]. Giao Chỉ dâng lên triều đình 1390 tấm lụa quyên (1) , 2800 cân sơn, 4800 cân tô mộc (2), 2800 chim thúy vũ, 8430 quạt.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 94.

Giai đoạn này nghĩa quân Vua Lê Lợi phải đương đầu với quân Minh và Ai Lao. Hai đạo quân đánh 2 mặt trước sau; tuy nhiên nhà đã Vua thoát hiểm, lui về giữ sách Khôi. Rồi bị đại binh quân Minh bao vây 4 mặt; nhưng nhờ tướng sĩ dốc lòng chiến đấu, nên quân ta chiến thắng. Sau đó vào đầu năm Bình Định Vương thứ 6 [1423] Vua đem quân về đóng tại Chí Linh [huyện Lang Chánh, Thanh Hóa]; gặp lúc lương thực cạn kiệt, đành tạm hòa với địch:

Ngày 21 tháng 12 [3/1/1423], Ai Lao đem quân đến Kiệt Mang dựng trại kết trận, Thiếu úy là Lê Chích đánh lui.” Đại Việt Thông Sử, Lê Quí Đôn, Đế Kỷ Đệ Nhất, trang 16a.

“ Mùa đông, tháng 12 [14/12/1422-12/1/1423], vua tiến quân đóng ở Quan Da. Ai Lao lại ước hẹn với quân Minh đánh vào trước mặt và sau lưng quân ta, nhiều người chết và bị thương. Vua bèn bí mật lui về sách Khôi . Mới được 7 ngày, giặc Minh lại đem đại binh đến vây. Vua bảo các tướng sĩ:

‘Giặc vây ta bốn mặt, có muốn chạy cũng không có lối nào. Đây chính là "tử địa" mà binh pháp đã nói, đánh nhanh thì sống, không đánh nhanh thì chết’.

Vua nói xong chảy nước mắt. Các tướng sĩ đều xúc động, tranh nhau liều chết quyết chiến. Bọn Lê Lĩnh, Lê Vấn, Lê Hào, Lê Triện xông lên trước phá trận, chém được tham tướng Minh là Phùng Quý và hơn nghìn thủ cấp giặc, bắt được trăm con ngựa. Mã Kỳ và Trần Trí chỉ thoát được thân mình chạy về Đông Quan, quân Ai Lao cũng bỏ trốn. Vua đem quân về đóng ở núi Chi Linh. Quân lính hết lương, hơn hai tháng, chỉ ăn rau củ và măng tre mà thôi. Vua giết 4 con voi và cả ngựa của mình cưỡi để nuôi quân sĩ. Song thỉnh thoảng vẫn có kẻ bỏ trốn. Vua bèn cấm giữ nghiêm ngặt, bắt được kẻ nào bỏ trốn thì chém, để rao cho mọi người biết. Quân lính lại nghiêm túc như trước.

 Bấy giờ, do trải nhiều phen hoạn nạn, quân lính đã mỏi mệt, muốn được nghỉ ngơi, đều khuyên vua giảng hòa với giặc. Vua bắt đắc dĩ phải vờ hòa hiếu với bọn tướng giặc Sơn Thọ, Mã Kỳ, Trần Trí, để yên lòng quân. Sai bề tôi thân thích là bọn Lê Vận, Lê Trăn đi giảng hòa.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 9b.

Quân Trung Từ Mệnh Tập (3) chép những văn kiện do danh thần Nguyễn Trãi soạn thay Vua Lê Lợi; trong đó có Thư xin hàng gửi cho bọn Trần Trí, Sơn Thọ, Phương Chính; do Lê Vận, Lê Trăn mang đi. Nội dung thư nhà Vua với thái độ hòa hoãn, viện cớ bị viên Tri huyện Đỗ Phú bức bách, bắt giết cả nhà, cả họ, nên dùng binh để trả thù riêng, chứ không muốn chống đối nhà Minh; nay xin mở đường đổi mới:

Thư xin hàng.

Tôi nghe nói: “Sinh đời thái bình, ai chẳng được ở yên; gặp đời thánh minh, ai chẳng được thỏa sống”. Nay tôi sinh đời bình, gặp thời thịnh, mà lại thường phải than là mất chỗ ở yên là cớ làm sao? Trước vì tri huyện Đỗ Phú (4) là người đồng hương, cùng tôi có hiềm khích, nó đút lót Tham chính Lương Nhữ Hốt, nói vu cho tôi khinh mạn quan trên, cậy mạnh mà chống lại mệnh trên, nếu không trị trước, tất có lo sau. Nhữ Hốt báo với quan quản binh cùng Nội quan Mã Kỳ nhân đó cho quan quân đến đánh úp bộ chúng tôi, không kể trẻ già, đều bị chém giết bắt bớ; họ hàng tôi đều tan tác, vợ con tôi đều chia lìa. Lại khai quật mồ mả tổ phụ tôi phơi bày hài cốt (sách Lam sơn kí chép: Năm Mậu tuất (1418) vua khởi binh ở Lam Sơn, bọn Mã Kỳ nhà Minh đến bức, nhà vua lui về đóng đồn ở Lạc Thủy, Đỗ Phú đưa bọn giặc đến đào hài cốt của đức Hoàng khảo ở xứ Phật Hoàng; lại đi lén theo đường tắt để đánh úp phía sau nhà vua, bắt gia thuộc nhà vua cùng vợ con của quân dân rất nhiều). Tôi không biết kêu đâu, tiến thoái đều khó, bèn sai thân nhân đến Tam ty tạ tội, thì hai ba lần sứ đi đều bị giết, không ai được về. Tôi không biết tính sao, đành phải chạy đi núp náu cho qua năm tháng, để đợi quan trên xét soi. Sống tạm nơi rừng núi đã sáu năm trời, ngày cơm hai bữa, chưa từng có bữa nào no. Song chim tinh vệ (5) lấp biển, há quản gian lao; kẻ oan ức trả thù, cũng liều sống thác; nên tôi đem bộ chúng đến vây quê nhà Đỗ Phú, bắt họ hàng làng xóm nó để hả lòng căm giận mà thôi, đâu dám có chí khác. Nay nghe quan tổng binh [Tham tướng Trần Trí] là bực đức lớn ân rộng, tâm như Đặng Vũ (6) dụ địch, chính như Hoàng Bá (7) dạy dân, thực là dịp cho tôi được đổi lỗi sửa mình. Vậy xin kính sai bọn anh họ là Lê Vận dâng thư đến viên môn [cửa quân], giãi bày oan khổ, cúi xin đại nhân tha cho lỗi đã qua, mở cho đường đổi mới. Nếu được rủ lòng khoan thứ, thật là ơn tạo hóa của trời đất vậy.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập, a1)

Ngoài Thư xin hàng nêu trên, còn gửi riêng 3 bức thư gửi cho 3 giới chức quan trọng trực tiếp đương đầu với nghĩa quân; đó là Vinh dương bá Trần Trí, Hoạn quan Sơn Thọ, Đô đốc Phương Chính. Thư gửi cho Tổng binh Trần Trí cùng quan phủ vệ Thanh Hóa nội dung xin dẹp bỏ binh đao, sẽ dốc lòng thành tín quy hàng:

Thư cho Tổng binh [Tham tướng Trần Trí]  cùng quan phủ vệ Thanh Hóa.

Phàm vật hễ mất cân bằng thì kêu, cho nên làm cho người ta phải chịu oan khốc là bởi thiện ác không rõ ràng, thực dối không phân biệt. Nay các quan trấn thủ phủ vệ vâng mệnh Triều đình, chăn nuôi dân chúng, ví như cha mẹ nuôi con, ai cũng hết lòng thương yêu. Nay tôi mang tội vô cô [oan, vô tội], ngậm tình oan khổ, đã không được lượng trên thương xét, lại còn đem quân đến đánh, khiến nhân dân một phương không được ở yên, đó tuy là tội của tôi, nhưng cũng do quan trên vỗ yên không phải đạo vậy. Vả lại ghét chết thích sống, tránh nhọc tìm nhàn là thường tình người ta. Nay tôi lìa quê hương mà trốn tránh, bỏ vườn ruộng mà không nhìn, kể nông nỗi ấy, thực đáng xót thương! Thế mà Triều đình to lớn, thú mục hiền hành, sao nỡ để tôi phải đến thế? Nay tôi chỉ trời xin thề, cùng chúng định ước, đem lòng thành tín mà quy hàng, xin đấng quân phụ cho tái tạo. May ra nỗi oan được rõ, lỗi trước được tha, cho tôi được hết lòng trung mà phụng sự Triều đình, đó thực là điều tôi sở nguyện vậy. Ngày xưa Kê Khang (8) vô tội mà sau hết trung với Tấn, Quan Vũ khỏi chết (9) mà sau trả nghĩa cho Tào; tôi dẫu kém cỏi, dám đâu quên nghĩa ấy, xin hoặc cho đi đánh Bắc để lập công, hoặc cho theo dẹp Tây để chuộc tội, dù chết cũng không từ. Cuối xin soi xét tấc thành, khoan tha tội lỗi, thực may cho tôi lắm.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập, a2)

Trong đám quan lại nhà Minh trực tiếp đối đầu với nghĩa quân, Thái giám Sơn Thọ tương đối hoà hoãn; nên nhà Vua tỏ ra nhủn nhặn, xin chỉ bảo cho con đường sống còn, dân chúng già trẻ sẽ vui mừng không xiết:

Thư cho Thái giám Sơn Thọ.

Kể đạo trong thiên hạ, trong không gì bằng trung nghĩa, quý không gì bằng danh tiết. Ghét chết thích sống, tránh nhục tìm vinh, đó là thường tình của người ta. Tôi từ sinh ra, thích danh tiết mà trọng trung nghĩa, ghét kẻ tiểu nhân mà dấn mình hoạn nạn, tuy ở trong cảnh gian nan nguy hiểm, mà không nhụt chí bình sinh. Ngày đêm than thở, trông vào hai trời [ tôn Sơn Thọ như trời, nên gọi là hai trời] mà kêu van. Nay nghe ngài mới ở Kinh sang, đã xét rõ duyên cớ mang tội, chỉ bảo con đường sống còn, bộ chúng của tôi nghe ngóng, già trẻ vui mừng không xiết. Cúi xin đem dân cả sách làm gia nô để khỏi bị huyện quan làm khổ. Vả cổ nhân có nói: “Lấy thù trả thù, tai vạ không thôi!”. Nay Đỗ Phú vốn có cừu thù với tôi, lại làm quan ở huyện tôi, vì thế mà tôi phải ly tán đào vong vậy. Nay ngài đức kịp côn trùng, ân khắp thảo mộc, thu nạp những thứ nhơ nhớp, chiêu dụ những kẻ bạn vong, có thể cho tôi được sửa lỗi tự tân, rửa lòng đổi dạ, để làm dân đời thái bình, chính như chết mà sống lại, xương mà sinh thịt vậy.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập, a3)

Đô đốc Phương Chính vốn là viên tướng ham danh hiếu chiến. Thư cho y, nhà Vua phân tích lợi hại, việc binh thắng bại khôn lường; tốt hơn hết là cởi giáp nghỉ binh, an nhàn mà nhận hàng:

Thư cho Phương Chính.

Tôi trộm nghĩ cái nỏ nặng nghìn cân không vì con chuột nhắt mà nẩy máy. Nay ngài là bực danh tướng hiện thời, lại đem quân hai nước (10) mà tranh thắng với kẻ thất phu, có được chăng nữa, chẳng qua cũng chỉ phong hầu; vạn nhất ngã thua, thì bốn phương nhân thế mà chinh chiến không thôi, dẫu người cơ trí mà không giỏi lo tính về sau, hối làm sao kịp? Chỉ e mua cười với đương thế, để chê cho đời sau, tôi rất vì người lo ngại. Vì ngài tính kế ngay nay, không gì bằng cởi giáp nghỉ binh, ngồi nhàn mà nhận hàng, đó là thượng sách. Thế tuy là may cho bọn tôi cùng ngài, mà cũng là may lớn cho vạn dân thiên hạ vậy.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập, a4)

Bọn Trần Trí đánh lâu mà không thắng, đã ngầm hưu chiến; nhưng Vua Thái Tông giáng trách nặng nề, nên đành phải tuân lệnh, làm một hai cuộc hành quân cho có lệ:

Ngày 8 tháng 12 năm Vĩnh lạc thứ 20 [ 21/12/1422 ].

Bọn giặc Lê Lợi làm loạn tại Giao Chỉ đã lâu, nhưng chưa bắt được. Giáng sắc trách nặng nề bọn Vinh dương bá Trần Trí.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 93 )

Vào đầu năm Bình Định vương thứ 6 [1423] Minh, Vĩnh Lạc thứ 21, nghĩa quân giao chiến với quân Minh tại vùng Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình, phía bắc Thanh Hóa:

Ngày 21 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 21 [ 3/3/1423].

Tham tướng Giao Chỉ Vinh dương bá Trần Trí đánh phản tặc Lê Lợi tại huyện Đông Lai [huyện Lạc Sơn, Hòa Bình], châu Ninh Hóa. Lợi thua bỏ trốn.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 94)

Đến tháng 4 Vua mang quân về Lam Sơn; bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường đưa lương thực, nông cụ đến giao hảo, Vua cũng tặng vàng bạc đáp lễ; nhưng sau đó quân địch bắt Sứ giả Lê Trăn không cho về, nên Vua nỗi giận tuyệt giao:

Mùa hạ, tháng 4, ngày 14 [23/5/1423], vua lại đem quân về Lam Sơn [huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa]. Bọn tham tướng Trần Trí, nội quan Sơn Thọ nhà Minh đưa biếu vua nhiều trâu ngựa, cá muối cùng thóc giống và nông cụ để dụ dỗ. Vua cũng sai bọn Trăn đưa tặng vàng bạc để đáp lễ, nhưng vẫn bí mật phòng bị. Bọn Trí biết ý định của vua bề ngoài giả cách thân thiện, nhưng bên trong thì ngầm mưu đánh úp, liền bắt giữ bọn Trăn không cho về. Vua nổi giận, cắt đứt giảng hòa. Các tướng sĩ cũng sôi sục căm thù, đều thề xin liều chết quyết chiến.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 10a.

Về lễ cống hàng năm tại Giao Chỉ, bắt đầu từ năm Vĩnh Lạc thứ 14, ròng rã 8 năm trời, vào mỗi tháng chạp đều đem cống; năm nay dâng lễ hậu hơn trước:

Tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 21 [ 2/1-31/1//1424 ].

Giao Chỉ dâng lên triều đình 1747 tấm quyên, 3000 cân sơn, 5000 cân tô mộc, 3000 chim thúy vũ, 1 vạn chiếc quạt. Sản vật được dâng lên từ năm Vĩnh Lạc thứ 14; hàng năm lúc thêm lúc bớt, nhưng năm nay tăng nhiều hơn.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 96)

Vào tháng 7 năm Bình Định vương thứ 7 Minh, (Vĩnh Lạc năm thứ 22) [26/7-23/8/1424], Vua Minh Thái Tông mang quân lên phía bắc đánh tàn dư Mông Thát, trên đường về bị ốm nặng rồi mất trong quân; đến đời Gia Tĩnh tôn xưng miếu hiệu là Thành Tổ. Thái tử lên ngôi, niên hiệu Hồng Hy, miếu hiệu Nhân Tông; hứa đình chỉ khai mỏ vàng, bạc tại An Nam:

Mùa thu, tháng 7, vua Minh thân hành đi đánh giặc Hồ [Mông Thát] , đem quân về đến sông Du Mộc [Nội Mông] thì ốm nặng, để di mệnh truyền ngôi cho hoàng thái tử. Ngày Tân Mão 18 [12/8/1424], vua Minh băng, nhưng giữ kín, đưa về đến Yên Kinh mới phát tang, thọ 65 tuổi, táng ở Trường Lăng, miếu hiệu  Thành Tổ, tên thuỵ là Văn Hoàng Đế. Mùa thu, tháng 8, ngày 15 [7/9/1424], thái tử nhà Minh Cao Xí lên ngôi, đổi niên hiệu là Hồng Hy, đại xá. Tờ chiếu viết:

‘….. Cho nên, ta trên tuân lệnh theo di mệnh, dưới thể lòng mọi người, ngày 15 tháng 8 [7/9/1424] đã kính cáo trời đất, tông miếu, xã tắc, lên ngôi hoàng đế, để đón phúc lớn của tông miếu, để nhờ mưu xa của thánh thần. Nay nhân buổi mới lên ngôi, ban mệnh đổi mới, lấy sang năm làm năm Hồng Hy thứ nhất, còn các việc nên làm, nêu rõ như sau: ‘Những việc như lấy vàng bạc, tìm hương liệu ở Giao Chỉ đều đình chỉ hết. Các quan viên trong ngoài sai đi trông coi, hạn trong 10 ngày phải lên đường về kinh, không được kiếm cớ ở chậm lại mà ngược hại nhân dân. Ôi! vua tôi cùng một dạ, thương dân cốt ở khoan hồng, thưởng phạt có phép thường, trị nước trước phải minh tín. Những mong các hiền tài giúp việc văn võ, các quan chức giỏi giang trong ngoài hết lòng trung trinh, giúp chỗ thiếu sót để nối nghiệp lớn. Cho nền quốc gia hưng thịnh mãi mãi, để ban ân huệ tới khắp dân đen, để mở rộng phúc trị bình cho mọi nơi trong cõi". Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 10b.

Khác với Vua cha; Nhân Tông chủ trương hòa hoãn, muốn dùng chính sách xá tội, phong chức để thuyết phục. Khi Trần Trí tâu vẫn còn dằng co giao tranh với Vua Lê Lợi; ý Vua Nhân Tông muốn tìm các hoà hoãn, ban chiếu thư để chiêu dụ:

Ngày 1 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [23/9/1424]. Giao Chỉ Tham tướng Vinh xương bá Trần Trí tâu rằng :

Giặc Lê Lợi chạy trốn sang Lão Qua; bị Lão Qua đuổi bèn quay về huyện Côi, châu Ninh Hóa [tỉnh Hòa Bình]. Quan quân tiến đánh, viên Đầu mục ngụy là bọn Phạm Ngưỡng đem trai, gái 1600 người ra hàng. Lê Lợi tuy nói rằng sẽ đưa hơn 480 nam nữ ra hàng, nhưng rồi dừng lại tại huyện Nga Lạc, phủ Thanh Hóa; lại nghe rằng vẫn không ngừng tiếp tục tạo khí giới; dối trá như vậy, đáng mang quân đánh dẹp.’

Thiên tử sai mang sắc dụ bọn Trí rằng:

‘Ngươi hãy ước tính mưu kế giặc, trù hoạch đúng nên tiến hay chưa? Nhưng ta nghe rằng nguyên nhân gây ra bọn giặc này, do quan ty nhũng nhiễu áp bức, bọn chúng cùng quẫn bất đắc dĩ gây ra như vậy. Nay dùng phép đại xá để thiên hạ cùng đổi mới, đối với Giao Chỉ lại càng tăng thêm sự khoan tuất. Nếu trong muôn một, lương tâm bọn giặc này chưa mất hết, chúng có thể suy nghĩ sửa đổi. Nay nếu quan quân chưa tiến, thì mang thư đến chiêu dụ, sẽ không hỏi đến lỗi xưa, lệnh cho về đất cũ an cư lạc nghiệp. Nếu bọn này chấp mê không chịu ra, vẫn tiếp tục hành động như trước, thì hãy tâu đầy đủ sự thực, để có cách khu xử khác.Nếu quan quân đã tiến, thế không thể dừng lại, phải hết sức cẩn thận. Giặc âm mưu quỷ quyệt, dựa vào chổ hiểm đặt phục binh, hãy sử dụng thám thính đằng xa để không lầm vào kế giặc. Lúc hành quân, phải ước thúc quân lính, đừng nhiễu hại nhân dân.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 100 )

Gần nữa tháng sau, Vua Nhân Tông sai Hoạn quan Sơn Thọ mang chiếu thư đến phủ dụ nhà Vua, hứa ban chức Tri phủ Thanh Hóa. Sơn Thọ đoan chắc có thể phủ dụ được, vì năm trước Vua Lê Lợi từng đích thân gửi thư cho Thọ xin giảng hòa:

Ngày 13 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 22  [5/10/1424]. Sai trấn thủ Giao Chỉ Trung quan Sơn Thọ mang sắc dụ Đầu mục Giao Chỉ Lê Lợi. Sắc rằng:

Ngươi vốn là kẻ lương thiện, từ lâu có lòng thành qui phụ. Nhưng quan ty cai trị không đúng cách, sinh ra nghi sợ; rồi ẩn trốn nơi núi rừng, không toại chí nguyện. Nay sau khi đại xá, bỏ hết sai lầm quá khứ,  hàm chứa sự canh tân. Đặc cách sai người mang sắc dụ ban cho ngươi chức Tri phủ Thanh Hóa, cai trị dân một quận. Hãy đến nhận chức ngay, để đáp lại sự cứu xét đến lòng thành và  bao dung đãi người của Trẫm.”

Sở dĩ có sắc dụ này, vì Thọ tâu trước mặt Thiên tử rằng Lê Lợi và y hợp ý nhau, nay đến dụ sẽ trở về. Thiên tử nói:

-Bọn giặc gian trá, ngươi không biết được; nếu bị lừa, đây là dịp giúp cho thế giặc ngày một lớn, khó mà chế ngự.

Thọ khấu đầu tâu rằng:

Nếu như thần dụ mà nó không quay về, thì tội thần đáng vạn lần chết.

Bèn giáng sắc này.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 102)

Sau khi sai Sơn Thọ ban sắc cho Vua Lê Lợi, Vua Minh ra lệnh bọn Trần Trí theo dõi tình hình rồi tâu về:

Ngày 4 tháng 11 năm Vĩnh lạc thứ 22 [ 24/11/1424 ]

Tham tướng Bảo định hầu Mãnh Anh, Vinh dương bá Trần Trí tại Giao Chỉ tâu sự việc về Lê Lợi. Ban sắc báo rằng:

Đã ban sắc xá tội cho Lê Lợi, mệnh cho làm Tri phủ phủ Thanh Hóa, lệnh Nội quan Sơn Thọ đến nơi hiểu dụ. Ý ta muốn đợi Sơn Thọ đến đó, bọn ngươi xem tình hình tại chỗ như thế nào, cùng Sơn Thọ bàn bạc chu tất rồi tâu về.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 105.

Bấy giờ Vua quan nhà Minh chú tâm chờ đợi kết quả về giải pháp chiêu dụ, tỏ ra thụ động tiêu cực. Ngược lại phía nghĩa quân, lợi dụng thời cơ vị Vua hiếu chiến Minh Thái Tông mới mất, Vua kế vị lúng túng,  bèn tích cực hoạt động. Theo lời khuyên của Thiếu úy (11) Lê Chích, Bình định vương chuyển quân sang Nghệ An; cùng lúc vào ngày 20 tháng 9 [12/10/1424] một cánh quân hạ được đồn Đa Căng (12):

“ Vương đóng quân ở Lư sơn, nhóm họp các tướng hỏi về sách lược tiến thủ, nên đánh thành nào trước. Thiếu úy Lê Chích thưa:

‘Nghệ An là nơi hiểm yếu: đất rộng, người đông, tôi đã từng qua lại Nghệ An, nên rất thông thuộc đường đất. Nay ta nên trước hãy nên đánh lấy Trà Long, chiếm giữ bình định cho được Nghệ An để làm chổ đất đứng chân, rồi dựa vào đấy mà lấy tiền tài sức lực, sau sẽ quay cờ trẩy ra Đông Đô thì có thể tính xong được việc dẹp yên thiên hạ’

 Vương khen là phải. Liền đó kéo quân ra phía nam, đánh úp đồn Đa Căng: Lương Như Hốt, tham chính bên Minh, thua chạy. Ta chém chết địch và bắt được của địch vô kể.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 13.

Cùng thời kỳ, Vua tiến quân sang Nghệ An, chiến thắng tại Bồ Lạp (13) giết viên Đô chỉ huy Trần Trung. Sử Trung Quốc công nhận Trần Trung tử trận vào ngày 15 tháng 9 [ 7/10/1424] tại Thanh Hóa, sự sai lầm về tên đất do bởi huyện Quì Châu giáp Thanh Hóa, nhưng thực sự thuộc Nghệ An. Sau đó nhà Vua tiến quân đến Trịnh Sơn thuộc huyện Con Cuông, phía nam châu Trà Lân do Tri phủ Cầm Bành quản lãnh; cắt đứt tiếp viện từ thành Nghệ An với châu này:

Vua chọn đinh tráng, sửa khí giới, rèn bộ ngũ, chứa sẵn lương khô, tiến thẳng vào Nghệ An. Khi qua núi Bồ Lạp thuộc châu Quỳ, thì gặp tên Chỉ huy đồng tri nhà Minh là Sư Hựu cùng viên thổ quan là Tri phủ châu Trà Lân Cầm Bành đem 5.000 quân đón ở phía trước, lại có các tướng Minh Trần Trí, Lý An, Phương Chính, Thái Phúc đem quân tiếp đến uy hiếp mặt sau. Trời sắp tối, vua bèn phục sẵn binh tướng trong rừng. Bọn Phương Chính đến, vua tung quân ra đánh. Quân Minh tan vỡ lớn. Ta chém được Đô ty Trần Trung và hơn hai nghìn thủ cấp quân giặc, bắt được hơn một trăm cổ ngựa. Quân Minh tháo chạy. Hôm sau, quân ta tiến đến trang Trịnh Sơn (14) , châuTrà Lân (15),  gặp Sư Hựu ở đó, lại cả phá chúng, chém được thiên hộ Trương Bản và hơn nghìn quân giặc. Hựu chỉ chạy thoát thân mình. Vua dẫn quân đến sách Mộc. Bọn Trần Trí đuổi theo đến núi Trạm Hoàng, nhưng vì đã nhiều phen bị thua đau, không dám tiến sâu, lui về giữ thành Nghệ An.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 13a.

Minh Thực Lục chép trong trận giao tranh vào ngày 15 tháng 9, Đô chỉ huy Trần Trung tử trận:

Ngày 15 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 22  [ 7/10/1424].

Ngày hôm nay Đô chỉ huy Đồng tri Trần Trung tại Giao Chỉ, đánh giặc bị thiệt mạng.

Trung người đất Lâm Hoài, xuất thân từ Phó Thiên hộ vệ Khoan Hà; thời Tĩnh Nạn có công được thăng chức Chỉ huy Đồng tri vệ Tuy Đức. Rồi có tội bị đày làm lính tại Quảng Tây, bèn theo quan Tổng binh đánh Giao Chỉ. Tại chợ Cá Chiêu , khiêng thuyền nhỏ vào sông, đánh úp thủy trại của Lê Quý Ly, lại theo Hoành hải Tướng quân đánh thành Đa Bang, liều thân leo lên thành, nên được phục chức Chỉ huy Đồng tri Tả vệ Giao Châu. Trung cùng quan quân lập thành tích trong các trận tại ải Hàm Tử, các cửa biển, những trận thủy chiến tại Yên Mô, Hải Dương, chém và bắt được rất nhiều. Lại theo đại quân lập công đánh bại giặc tại Kỳ La, cửa biển Hà Hoa, núi Côn Truyền; nơi mà bọn cha con giặc họ Lê, Trần Quí Khoáng, Nguyễn Súy bị bắt, nên được thăng chức Chỉ huy Đồng tri Giao Chỉ. Tiếp tục đánh tại châu Ðông Hồ bắt được Đại tướng quân ngụy Ngô Trung. Đến nay bọn giặc Lê Lợi đánh phá Thanh Hóa, Trung giao chiến bị trúng đạn tử trận. Được tin triều đình sai bộ Lễ chiếu theo điển lệ cấp tuất rất hậu.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 103 )

Tháng 11 [21/11-20/12/1424], Vua sai người chiêu dụ Cầm Bành tại thành Trà Lân, huyện Tương Dương, Nghệ An; nhưng Bành không theo, bèn mang quân bao vây:

Mùa đông, tháng 11, vua sai người chiêu dụ Cầm Bành. Bành cự tuyệt không theo, mình hắn cùng với hơn ngàn quân lên dựng rào lũy trên đỉnh núi để đón quân cứu viện. Vua đem quân tới bao vây.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 13b.

Tháng chạp, Sơn Thọ đưa trả lại Sứ giả Lê Trăn bị bắt năm ngoái, để cầu hòa. Tương kế tựu kế, nhà Vua hồi đáp rằng muốn theo lời yêu cầu trở về Thanh Hóa nhận chức, nhưng bị Cầm Bành chặn đường không về được. Phía Minh cho người sai Cầm Bành giảng hòa; Cầm Bành thấy quân Minh không chịu yểm trợ, nên đành ra hàng. Sau khi quân ta chiếm thành Trà Lân, Vua Lê Lợi vẫn không chịu trở về Thanh Hóa; phía Minh viết rằng mắc mưu, bèn mang đại quân ngược dòng sông Lam rửa hận. Quân Minh bị phục kích thua to tại Bồ Ải, huyện Anh Sơn;  bèn tháo chạy trở về thành Nghệ An:

Tháng 12 [21/12/1424-19/1/1425], Sơn Thọ nhà Minh sai Nguyễn Sĩ đưa trả Lê Trăn để cầu hòa. Bọn Phương Chính, Sơn Thọ đến Nghệ An, muốn cứu Cầm Bành nhưng không dám tiến quân, bèn sai người đem thư xin vua giải vây cho Bành. Bấy giờ, Cầm Bành cố thủ, vây đã hơn một tháng chưa lấy được, lại nghe tin quân cứu viện tới. Vua gọi các tướng lên bảo rằng:

Cầm Bành đang nguy khốn, bọn Chính đáng lẽ phải cấp tốc cứu viện, nay lại dùng dằng, hẳn là có ý lo sợ. Chi bằng ta giả cách cho hòa để xem tình thế ra sao, tin đi tin lại mất hàng tuần hàng tháng, thì Cầm Bành lúc ấy chắc đã bị bắt rồi’.

Vua bèn viết thư để trên bè cho thuận dòng trôi xuống. Trong thư vua nói thác là vẫn muốn theo lời thỉnh cầu của họ, trở về Thanh Hóa. Nhưng lại bị Cầm Bành chặn đường, nếu có lòng thương thì xin cho một người tạm đến hòa giải để thông đường về. Bọn Chính nhận được thư, sai Trần Đức Nhị chạy đến bảo Cầm Bành hòa giải, Cầm Bành biết là viện binh không đến, mở cửa thành ra hàng, Châu Trà Lân đã dẹp yên. Vua ra lệnh cho quân rằng:

‘Cầm Bành đã đầu hàng, chớ có mảy may xâm phạm, tha tội cho tất cả, không được giết một người nào’.

(Sau Cầm Bành mưu phản, vua giết chết). Vua vỗ về an ủi các bộ lạc, khao thưởng các tù trưởng. Tuyển chọn đinh tráng bổ sung quân ngũ được 5 nghìn người, thế quân càng mạnh. Quân Minh nghe tin Cầm Bành đã hàng, liền quay lại đánh trại Trà Lân. Vua lại đánh phá được. Vua muốn đánh thành Nghệ An, nhưng chưa biết tình thế ra sao. Gặp khi vua Minh mới lên ngôi, sai nội quan Sơn Thọ dùng lời lẽ quỷ quyệt để dụ dỗ vua. Vua biết dụng ý của chúng liền nói:

‘Giặc sai ngươi đến lừa ta, ta nhân chỗ sơ hở của chúng mà lừa lại, chính là dịp này đây’.

 Rồi lại trao đổi đi lại với giặc, trinh sát tình hình của chúng để mưu đánh úp thành Nghệ An. Bọn Thọ biết là mưu kế của chúng không đánh lừa nổi, mới lại đoạn tuyệt không cho sứ đi lại nữa. Bấy giờ vua chấn chỉnh binh tượng, tiến quân bao vây thành Nghệ An. Quân sắp đi, vừa lúc có tin báo quân Minh đã sắp đặt voi ngựa, thuyền bè, tiến quân cả hai đường thủy và bộ, định ngày mai sẽ tới. Vua chia hơn 1.000 quân, cho bọn Lê Liệt đi đường tắt đóng giữ huyện Đỗ Gia (16). Vua đích thân chỉ huy đại quân giữ chổ hiểm yếu để chúng. Được ba bốn hôm, quân Minh quả nhiên đến quán Lậu và cửa Khả Lưu (17) , bày doanh trại ở hạ lưu. Vua ở thượng lưu, ban ngày dựng cờ đánh trống, ban đêm thì đốt lửa sáng trưng. Nhưng ngầm sai binh tượng vượt sông, phục sẵn ở chổ hiểm yếu. Trời gần sáng, giặc liền đem quân đến đánh dinh vua. Vua giả vờ rút lui, dẫn giặc tới chổ có quân mai phục. Giặc không để ý, đem quân tiến vào sâu, quân mai phục bốn mặt nổi dậy, xông ra đánh phá. Quân giặc bị chém đầu và chết đuối tới hàng vạn tên. Hôm sau, giặc liền dựa vào thế núi, đắp hào lũy để ở, không ra đánh nữa. Bấy giờ lương thực của giặc có rất nhiều mà quân của vua thì không đủ lương ăn cho 10 ngày. Vua nói với tướng sĩ:

‘Giặc cậy có nhiều lương, cố thủ để làm kế lâu dài, ta lương ít không thể cầm cự dài ngày với giặc’.

 Rồi đốt cháy doanh trại, ngược dòng sông giả cách trốn đi, nhưng lại ngầm đi đường tắt trở về, đợi giặc đến thì đánh. Quân Minh cho là vua đã chạy, mừng lắm, bèn tiến quân vào đóng ở doanh trại cũ của vua, lên núi đắp lũy. Ngày hôm sau, vua cho quân tinh nhuệ ra khiêu chiến. Giặc đem quân ra ngoài lũy để đánh. Vua phục sẵn ở Bồ Ải [huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An] (18), giữa nơi hiểm yếu. Giặc lại không ngờ tới, đem hết  quân ra đánh. Vua bèn tung phục binh xông vào trận giặc. Bọn Lê Sát, Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Nhân Chú, Lê Ngân, Lê Chiến, Lê Tông Kiều, Lê Khôi, Lê Bôi, Lê Văn An tranh nhau nên trước phá quân giặc, chém đầu giặc không sao kể xiết. Thuyền giặc trôi ngổn ngang, xác chết đuối nghẹn tắc khúc sông, khí giới vứt đầy cả rừng núi. Ta bắt sống Đô ty Chu Kiệt, chém tướng tiền phong là Đô ty Hoành Thành, bắt sống hàng nghìn tên giặc. Trần Trí, Sơn Thọ thu nhặt tàn quân chạy về thành Nghệ An. Vua thừa thắng đuồi dài suốt 3 ngày, đến tận dưới chân thành. Bọn Trí vào thành cố thủ.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 13b.

Thua trận tại Nghệ An triều đình nhà Minh qui tội cho Trần Trí, Phương Chính, Sư Hựu, Trương Hùng; nhưng xét Chính là một dõng tướng, nên vẫn lưu giữ chức. Sử Việt chép về việc này như sau:

 Nhà Minh sai Cẩm y vệ xá nhân sang bắt bọn Phương Chính và Sư Hựu về kinh, vì bị thua trận ở châu Trà Lân. Hựu đi đến giữa đường uống thuốc độc chết, Phương Chính vẫn được làm Đô đốc đồng tri, gia chức Tham tướng.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 13b.

Riêng quân Minh tại thành Nghệ An, sau khi thất trận tại Bồ Ải thuộc huyện Anh Sơn; hoàn toàn bị cắt đứt với châu Trà Lân thuộc huyện Tương Dương phía bắc, nên không rõ việc châu Trà Lân đã mất. Nên trong chỉ dụ giáng trách, chỉ đàn hặc Trần Trí, Phương Chính tội đánh chậm nuôi dưỡng giặc mà thôi:

 “Ngày 19 tháng giêng năm Hồng Hy thứ nhất [7/2/1425]

Giáng sắc khiển trách nặng nề Tham tướng Giao Chỉ Vinh xương bá Trần Trí, Đô đốc Phương Chính tội đánh chậm dưỡng giặc; lệnh sửa đổi sai lầm, tự phấn đấu. Lại mệnh cùm giải Đô chỉ huy Sư Hữu, Trương Hùng về kinh đô giam cấm; thể theo lời Giám sát Ngự sử, hặc tội bọn này tham bạo làm sai luật rất nhiều.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 108)

Sau khi thua trận Bồ Ải tại huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An; bọn Phương Chính chần chừ không dám ngược dòng sông Lam tiến công, Vua bèn gửi thư khiêu khích:
Thư trả lời Phương Chính.

Bảo cho mày ngược tặc Phương Chính: Kể đạo làm tướng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm của. Nay bọn mày chỉ chuộng lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà không xót thương, việc ấy trời đất không dung, người mà đều giận, cho nên liền năm chinh phạt, hằng đánh hằng thua. Thế mà không biết trước tự cải quá, lại còn bới bẩn cho thêm thối, hối sao cho kịp được! Huống chi bây giờ nước mùa xuân mới sinh, lam chướng bốc độc, thế không thể chịu lâu được. Nay mày chỉ nắm đại binh mà nấn ná không tiến, khiến quân lính nhiễm lam chướng dịch lệ mà chết, đó là tội ai? Binh pháp có nói; “Kẻ nhân giả lấy yếu chế mạnh, kẻ nghĩa giả lấy ít địch nhiều”. Nay mày muốn đánh, thì nên tiến quân giao chiến, để quyết sống mái, đừng làm khổ cho quân sĩ hai nước làm gì.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập, a5)

Phương Chính nhận được thư, đòi Vua Lê mang quân về miền xuôi, chọn chỗ đánh nhau tại vùng đồng bằng đất phẳng; nên có thư trả lời sau đây:

Lại thư trả lời Phương Chính

Bảo cho mày ngược tặc Phương Chính: Kể người dùng binh giỏi thì không có đâu là hiểm, đâu là không hiểm, không có đâu là dễ, đâu là không dễ. Thắng hay phụ ở tướng, chứ không ở đất hiểm hay dễ. Vào chỗ hiểm mà đánh nhau không khác gì hai con hổ đánh nhau ở trong thung lũng, giỏi thì được, vụng thì thua. Bởi vậy, đất không có bình thường nhất định, trận không có thế thường nhất định. Mày nếu không lui, thì phải đem binh ra mà quyết chiến thôi.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập, a6)

Bấy giờ Hoạn quan Mã Kỳ tung tin rằng y lại được đưa sang An Nam lấy vàng, bạc, châu báu. Sử Trung Quốc chép thêm rằng ý Vua Nhân Tông không muốn cho y sang, nhưng lại không nói thẳng ra:

Nhà Minh ra lệnh cho bọn Mã Kỳ lại  sang lấy vàng bạc, châu báu và hương liệu.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 15b.

 “Ngày 9 tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [ 29/11/1424 ]

Thiên tử dụ Hàn lâm viện về việc Nội quan Mã Kỳ tung tin lại được sang Giao Chỉ quản lý vàng, bạc, trân châu, hương liệu. Lúc bấy giờ Kỳ mới bị triệu về chưa được bao lâu, Hàn lâm viện lại tâu về việc Mã Kỳ được chấp thuận sang lần nữa; Thiên tử nghiêm mặt nói:

“Trẫm làm sao có thể nói chấp thuận cho y sang! Y trước đây tại Giao Chỉ làm hại quân dân, từ đó dân theo về một phía để mong cởi bỏ sự khốn khổ; vậy làm sao còn sai đi! Nếu Trẫm sai đi thì không những chiếu thư không còn được tin tưởng nữa, mà lại làm hỏng cả việc lớn. Y gần đây ở trong cung, cầu xin trăm cách; bọn tả hữu đều tâu cho y sang lần nữa sẽ có lợi cho nước; Trẫm không đáp. Các khanh phải hiểu Trẫm ý.”

Do đó lệnh được hủy bỏ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 106)

Lúc Vua Nhân Tông lên ngôi, thấy Hoàng Phúc tuổi cao, lâu năm khó nhọc nơi cõi ngoài; bèn ban chiếu chỉ gọi về nước:

Ngày 3 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [ 25/9/1424]

Thượng thư bộ Công Hoàng Phúc, cầm đầu ty Bố chánh và Án sát Giao Chỉ, được triệu về. Sắc rằng:

“ Khanh là bậc lão thành của đất nước, khó nhọc nơi cõi ngoài, Trẫm nghĩ đến không quên, muốn được gặp khanh ngay. Khanh hãy về kinh đô mau, để đáp ứng sự chờ đợi. Sắc Tham tán quân vụ Thượng thư bộ Binh Trần Hiệp thay Hoàng Phúc cầm đầu hai ty Bố chánh, Án sát; vẫn kiêm Tham tán quân vụ. (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 101)

Sử Việt cũng chép tương tự:

Nhà Minh cho gọi Công bộ thượng thư nắm việc hai ty Bố chính và Án sát ở Giao Chỉ là Hoàng Phúc về nước. Tờ sắc viết: "Khanh là bậc lão thành của nước, khó nhọc lâu ở ngoài, trẫm mong nhớ khôn khuây, muốn được trông thấy mặt ngay. Thấy sắc tới thì khanh đi trạm mau về kinh để thỏa lòng trẫm mong đợi. Còn vợ con thì sai phu trạm đưa về sau". Nhà Minh lấy Binh bộ thượng thư Trần Hiệp sang trấn giữ, kiêm coi việc hai ty Bố chính, Án sát và giúp đỡ việc quân chính cho tổng nhung.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 12a.

Ngoài cuộc khởi nghĩa của Vua Lê Lợi; trong năm Bình Định Vương thứ 7 [1424], tại huyện Lục Ngạn, Bắc Giang Đinh Sĩ Nguyên nỗi lên đánh phá; Vinh dương bá Trần Trí sai tướng đánh bắt:

Ngày 1 tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [ 1/3/1424 ]

Giặc Giao Chỉ Ðinh Sĩ Nghiêm tụ tập đám đông cướp phá huyện Lục Na huyện Lục Ngạn, Bắc Giang. Tham tướng Vinh Dương bá Trần Trí sai hữu vệ Giao Châu Chỉ huy Thiêm sự Trần Lân mang binh đánh, bắt được.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 101)

Năm này các quan lại Trung Quốc và cả người Việt cống các sản vật quí sang nhà Minh, chiếu theo thời gian xin liệt kê các văn bản như sau:

Ngày 23 tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [ 22/4/1424 ]

Bọn Nguyễn Tông Dương, Tri huyện An Ninh, Giao Chỉ cống vật dụng bằng bạc, lụa quyên của dân bản xứ. Ban cho áo lụa, cùng tiền giấy, lụa nõn trong ngoài có sai biệt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 96)

Ngày 17 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [ 9/9/1424 ]

Bọn Phán quan Triệu Phúc Năng thuộc châu Thất Nguyên, Giao Chỉ cống ngựa. Ban cho tiền và lụa có sai biệt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 98)

Ngày 3 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [ 25/9/1424 ]

Tham tướng Giao Chỉ Vinh dương bá Trần Trí cống hươu đen.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 100)

Ngày 17 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [ 7/11/1424 ]

Bọn Thổ quan Hoàng đình Mãn tại các huyện như Thanh Oai thuộc Giao Chỉ, cống sản vật địa phương. Ban cho tiền giấy có sai biệt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 105)

 

                                    Chú thích

 

1.Quyên: Lụa mộc, lụa sống.

2.Tô mộc: Cây dùng làm thuốc Bắc.

3.Quân Trung Từ Mệnh Tập là tác phẩm tập hợp những văn thư do danh thần Nguyễn Trãi soạn thay Vua Lê Lợi. Nội dung phần lớn là những thư từ giao dịch với tướng lãnh nhà Minh. Tư liệu lấy từ trang mạng Dựng Nước, Giữ Nước. Trang mạng này sưu tầm từ 2 nguồn, gồm:

 -46 bài trong Nguyễn Trãi Toàn Tập; khi trích dẫn chúng tôi đánh số từ a1 đến a46.

-23 bài do học giả Trần Văn Giáp mới phát hiện, lúc sử dụng đánh số từ b1 đến b23.

4.Đỗ Phú người Hào Lương ở gần Lam Sơn, là một tay sai đắc lực của quân Minh. Hắn giữ chức Tri huyện, đã dẫn đường đưa quân Minh theo lối tắt đánh lên đánh úp nghĩa quân, lùng bắt gia thuộc của Lê Lợi và của nhiều nghĩa quân, quật mồ mả tổ tiên của Lê Lợi.

5.Tinh vệ là một loài chim ở bờ biển. Tương truyền rằng: con vua Viêm Đế ngày xưa bị chết đuổi ở bờ biển hóa thành chim tinh vệ hay còn gọi là “chim oan” (oan cầm). Chim ấy cứ cắp gỗ đá ở núi Tây về lấp biển. Vì vậy, “chim tinh vệ lấp biển” có ý nghĩa ví với người bị oan ức, quyết tâm trả thù.

6.Đặng Vũ: Thời Hậu hán, quân nỗi dậy Xích Mi vào cửa quan, định đánh phá Trường An, bọn Vương Khuông chống cự không nổi. Vua Quang Vũ lấy Đặng Vũ làm tiền tướng quân đi đánh Xích Mi. Đặng Vũ hết sức dụ dỗ, chiêu hàng được một số quân Xích Mi.

7.Hoàng Bá giữ chức Thái thú đời Hán được coi là người khoan hòa, nhân chính.

8.  Kê Khang (có lẽ là Kê Thiêu con Kê Khang). Tấn Vũ đế với Kê Thiệu cho làm Bí thư lang. Sau Triệu Vương Luân cướp ngôi Vua, cho Thiệu làm Thị trung. Đến lúc Huệ đế lại về làm Vua, Thiệu vẫn giữ chức ấy. Khoảng niên hiệu Vĩnh Hưng, bọn Hà gian vương khởi binh, Thiệu theo Vua đi đánh ở Đãng Âm, thị vệ tan chạy, duy Thiệu lấy thân che đỡ cho Vua, không may bị hại ở cạnh Vua, máu bắn vào áo Vua. Khi việc đã yên, tả hữu muốn giặt áo Vua, Vua bảo rằng: “Đây là máu trung của Kê Thị trung, đừng giặt”.

9.Quan Vũ: Thời Tam quốc, Quan Vũ theo Lưu Bị,, khi giữ Hạ Bì, bị Tào Tháo bắt được, Tháo đối đãi rất hậu cho làm Thiên tướng quân. Sau Viên Thiệu đánh Tháo, Vũ chém dũng tướng của Thiệu là Nhan Lương để báo ơn Tháo, rồi chạy về với Lưu Bị. Sau Tháo bị thua trận Xích Bích chạy đến Hoa Dung, gặp Vũ chặn đón ở đấy, Tháo bảo Vũ rằng việc Vũ qua năm cửa quan chém sáu tướng của Tào để đi thoát thì chưa thấy báo. Vũ bèn quay ngựa về, nhờ vậy Tháo chạy được thoát.

10.Quân hai nước ở đây là quân Minh người Trung quốc và ngụy binh người nước ta do nhà Minh tổ chức để đàn áp nghĩa binh.

11.Thiếu úy:  Một chức quan võ cao cấp hồi đầu Lê.

12.Đồn Đa Căng: có lẽ là Bất Căng, thuộc xã Thọ Nguyên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa ngày nay. Đồn này nằm trên hữu ngạn sông Chu.

13.Bồ Lạp: là tên núi, cũng gọi là Bồ Cứ, Bồ Đằng, là một ngọn núi ở xã Châu Nga, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Nhân dân địa phương thường gọi là Bù Đờn và phía đông bắc có một bản nhỏ gọi là Bản Liệp. Vùng này nay thuộc xã Châu Nga, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.

 14.Trang Trịnh Sơn: là Kẻ Trịnh, nay thuộc xã Thạch Ngàn, huyện Con Cuông, cách thành Trà Lân (hay Trà Long) hơn 10 km.

15.Châu Trà Lân: hay Trà Long, là đất huyện Con Cuông, Tương Dương, tỉnh Nghệ An ngày nay, đời Trần là đất Mật Châu, đời Nguyễn gọi là phủ Tương Dương.

16. Đỗ Gia: nay là đất huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; tại nơi này có làng Đỗ Xá, có lẽ là nơi đóng quân của Lê Liệt.

17. Khả Lưu: là tên một cửa ải xưa, ở phía bắc sông Lam, thuộc xã Vĩnh Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An.

18. Bồ Ải: Là một địa điểm ở về phía trên ải Khả Lưu, cách Khả Lưu không xa. Hiện nay, ở xã Đức Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An có khe Ải đổ ra sông Lam và ngọn núi thấp ở đây cũng có người gọi là Bù Ải; có lẽ đó là Bồ Ải xưa kia.

Sau chiến thắng Bồ Ải tại huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An; vào tháng giêng năm Bình Định vương thứ 8 [1425], Vua Lê Lợi điều quân xuôi dòng sông Lam, đến các huyện Thanh Chương, Nam Đàn; được dân chúng đón tiếp, nhiệt tình ủng hộ. Lại nhân Cầm Quí Tri Phủ Ngọc Ma (1) qui thuận, nhân dân tình nguyện góp sức đánh thành; nhà Vua mang quân  vây thành Nghệ An (2):

Vương kéo quân đến Đa Lôi thuộc huyện Thổ Du [Thanh Chương, Nghệ An]. Trẻ già đua nhau đem rượu và trâu bò đến đón tiếp khao quân. Họ nói: "Không ngờ ngày nay lại được trông thấy oai nghi cố quốc". Cầm Quý, tri phủ Ngọc Ma, đem quân và voi đến quy thuận, được Vương phong làm Thái úy. Vương ra lệnh rằng:

‘Bấy lâu dân bị đau khổ vì chính sự bạo ngược. Bây giờ hễ trẩy đến đâu, quân sĩ không được động chạm tơ hào của dân chúng. Trâu bò thóc lúa nếu không phải là của tàng trữ của người Minh thì không được lấy’.

 Bấy giờ Vương mới chia quân đi lấy các đất đai. Quân trẩy đến đâu, có nhiều châu, nhiều huyện đầu hàng, người ta đều tình nguyện xin góp sức đánh thành Nghệ An. Vương lựa lấy số quân tinh nhuệ thẳng kéo đến chân thành này. Ngưòi Minh đóng chặt cửa thành cố giữ, không dám thò ra. Vương dạy bảo các tướng sĩ sửa sang khí giới, chuẩn bị để đánh thành.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 13.

Thừa dịp Lý An mang quân từ thành Đông Đô vào cứu, Vinh Dương bá Trần Trí bèn hợp quân ra đánh, bị phục kích tại Tam Soa thuộc huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Sau đó Trần Trí trở về Đông Đô, Lý An ở lại giữ thành:

Vừa đầy hai tuần [20 ngày] , chiến cụ xong xuôi đầy đủ. Bấy giờ tham tướng Minh, Lý An, từ Đông Quan vượt biển vào cứu; bọn Trần Trí hợp quân lại, xông ra chiến đấu. Vương đặt quân phục ở cửa sông Đỗ Gia [Ngã ba Tam Soa, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh], cả phá được địch: Trần Trí chạy về Đông Quan; bọn Lý An rút vào thành, liều chết cố giữ.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 13.

Tháng 5, Tư không Đinh Lễ đi tuần Diễn Châu, Nghệ An; Trương Hùng, mang thuyền lương đến tiếp tế, bị đánh bại. Hùng thua chạy về Tây Đô, Thanh Hóa; Vua cho thêm quân đi đánh:

Vương sai Đinh Lễ đi tuần Diễn Châu. Khi kéo quân đến gần thành, Lễ đặt quân mai phục. Bấy giờ đô ti Minh, Trương Hùng đem ba trăm thuyền lương thực từ Đông Quan đến. Trong thành Diễn Châu kéo ra đón lương thực: gặp phục binh nổi dậy, chúng đều thua chạy. Đinh Lễ cướp được thuyền lương, rồi đuổi Hùng đến tận Tây Đô. Vương được tin thắng trận, liền tuyển quân và voi, sai Lê Sát và Lưu Nhân Chú kế theo, đi tiếp ứng cho Đinh Lễ. Cánh nghĩa quân này đi đến đâu cũng không có sức gì ngăn cản được cả. Họ tiến sát đến Tây Đô. Người Minh đóng chặt cửa thành, liều chết cố giữ. Đối với cư dân ở ngoài thành, các tướng Đinh Lễ đến chiêu an vỗ về. Bấy giờ những người Thanh Hóa tranh nhau đến cửa trại quân, xin đầu hàng. Bọn Lễ bèn bao vây lấy thành.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 13.

Tháng 7, Vua sai Tư đồ Trần Nguyên Hãn và Thượng tướng Lê Nỗ đi tuần các xứ Tân Bình [Quảng Bình] và Thuận Hóa [Quảng Trị, Thừa Thiên]; đều đánh hạ được cả mấy xứ này:

Vương liệu trước rằng Tân Bình, Thuận Hóa bị đứt liên lạc với Nghệ An và Đông Đô đã từ lâu, bèn dụ bảo các tướng:

‘Người giỏi chiến trận thường bỏ chỗ kiên cố, đánh chỗ sơ hở, tránh chỗ vững chắc, đánh vào chỗ trống rỗng; như thế thì chỉ dùng sức một phần mà thành công gấp bội’.

 Vương bèn sai tư đồ Trần Hãn và thượng tướng Lê Nỗ đem hơn nghìn quân đi đánh giặc và vỗ về nhân dân. Khi đến Bố Chính, gặp tướng Minh, Nhậm Năng, bọn Hãn giữ chỗ hiểm yếu, đặt quân phục, rồi tìm kế nhử địch. Tên Năng lùa hết quân tiến lên. Phục binh nổi dậy, đánh khép lại: quân Minh thua vỡ tan tành, bị chém và bị bắt rất nhiều.

Trước đó, Vương sai bọn Lê Ngân đem bảy mươi chiếc chiến thuyền từ Nghệ An vượt biển vào hội quân với các tướng Trần Hãn để tiễu giặc. Đến đây, các đạo quân ấy tề tựu đông đủ, quân thủy và quân bộ cùng tiếp ứng nhau, tấn công hai thành Tân Bình và Thuận Hóa, đều hạ được cả. Quân ta trẩy đến đâu, quân và dân ở đó đều ra hàng. Trần Hãn lựa lấy vài vạn người tinh nhuệ để bổ sung quân đội, rồi đặt quan trấn thủ, còn mình thì kéo quân về. Các tướng tôn Bình Định vương lên làm "Đại Thiên hành hóa" (3) . Từ đó về sau, phàm có bảng văn niêm yết những lời cáo dụ đều nêu trên đầu là "Đại Thiên hành hóa.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 13.

Về phía nhà Minh, sau khi giáng sắc khiển trách nặng nề Tham tướng Vinh xương bá Trần Trí, Đô đốc Phương Chính  đánh chậm, tỏ ra bất lực trong việc bình định; 2 tháng sau, Vua Nhân Tông bèn cử Tham tướng Lý An sang An Nam phụ tá cho Trần Trí:

Ngày 21 tháng 3 năm Hồng Hy thứ nhất [ 9/4/1425 ]

Mệnh An bình bá Lý An làm Tham tướng đến Giao Chỉ cùng với Vinh dương bá Trần Trí coi việc quân. Ban sắc khuyến khích rằng:

“ Cha ngươi đạt rõ đạo lý, cẩn thận hành động, tận trung với quốc gia, Trẫm chưa từng quên. Ngươi biết tự lập, nối chí của cha, mọi việc trong quân lữ đều thông hiểu cơ sự, Trẫm từng khen. Nay đặc cách giao ngươi một phương; hãy thận trọng, tận tâm, bày mưu công hiệu, thành đạt công nghiệp; ngõ hầu làm rạng danh cha ngươi, và không phụ sự ủy nhiệm của Trẫm. Khâm tai!” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 110)

Vào tháng 5 Vua Nhân Tông ốm nặng, ngày hôm sau [29/5/1425] thì mất, truyền ngôi cho con Tuyên Tông, chọn năm sau [1426] là Tuyên Đức năm thứ nhất:

Tháng 5 ngày Canh Thìn [28/5/1425] Vua không khỏe; bèn sai sứ triệu Hoàng thái tử tại Nam Kinh. Ngày Tân Tỵ [29/5/1425], bệnh nguy, di chiếu truyền ngôi cho Hoàng thái tử; ngày hôm đó mất tại điện Khâm An, hưởng thọ 48 tuổi.” Minh Sử, quyển 8.

五月。庚辰,帝不豫,遣使召皇太子於南京。辛巳,大漸,遺詔傳位皇太子。是日,崩於欽安殿,年四十有八。

Tổng binh Vinh Dương bá Trần Trí, viên tướng vốn bị triều đình nhà Minh khiển trách là nhút nhát; sau khi thất trận tại Bồ Ải, nằm trốn trong thành Nghệ An, thừa dịp Lý An mang quân vào cứu, bèn rút về thành Đông Đô. Y không biết sự kiện Cầm Bành đã đầu hàng, lại tâu  xin quân cứu viện. Bấy giờ Vua Tuyên Tông mới lên ngôi, trong hoàn cảnh tang gia bối rối, chỉ biết ra lệnh nếu như thấy Lê Lợi không có bụng quy thuận thì tìm cánh đánh bắt, và phát binh tiếp viện Cầm Bành:

Ngày 16 tháng 7 nhuần năm Hồng Hy thứ nhất [ 29/8/1425 ]

Tuần án, Giám sát, Ngự sử Giao Chỉ tâu đầu đảng giặc Lê Lợi tại phủ Thanh Hóa tụ dân làm loạn vây châu Trà Lung [Long]. Viên Thổ quan coi châu Tri phủ Cầm Bành chống giữ trong vòng 7 tháng, lương gần hết, quân gặp nguy khốn, xin mang binh cứu viện.

Thiên tử xem tờ tâu bùi ngùi sắc dụ Vinh xương bá  Trần Trí cùng ba ty (4) tại Giao Chỉ rằng:

‘ Triều đình mệnh các ngươi trấn thủ Giao Chỉ là để yên ổn một phương; nay được biết bọn đầu đảng Lê Lợi cướp phá châu huyện, ngăn cắt đường sá. Các ngươi mới đây tâu rằng đã chiêu dụ Lê Lợi xin đợi mùa thu mát đến Thanh Hóa nhậm chức. Nay đã mùa thu rồi, thực sự Lợi đã đến nhậm chức chưa? Trẫm ước tính tên giặc này ngụy trá, không có lòng qui thuận; chỉ dùng lời lẽ hoãn binh để bọn chúng được thung dung tụ tập, tương lai tất gây hậu hoạn, các ngươi không suy nghĩ đến hay sao? Về việc Thổ quan Tri phủ Cầm Bành tại châu Trà Lung [Long] bị Lợi đánh vây 7 tháng nay rồi, lương thảo sắp hết, quân chết đến một phần ba, Bành vẫn kiên thủ cự địch, Giao Chỉ có được người như vậy cũng không dễ kiếm! Các ngươi từng chứng kiến lòng trung thành của con người này, sao không điều binh cứu viện?

Khi sắc dụ đên nơi, như thấy Lê Lợi không có bụng quy thuận hãy tìm cánh đánh bắt. Gấp phát binh tiếp viện Cầm Bành, vỗ về hậu hỷ, để bồi dưỡng lòng kiên cường trung thuận. Các ngươi đều là đại thần của triều đình, cần đồng tâm hiệp lực làm tròn ủy nhiệm, đừng lo việc ban thưởng phong tước không được công bằng!” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 108)

Mấy tháng sau Thượng thư Trần Hiệp tâu lên được một phần sự thực rằng: Thành Trà Long đã thất thủ, Cầm Quí tại châu Ngọc Ma đầu hàng, Lê Lợi không chịu về Thanh Hóa nhậm chức, lại sai người đánh Diễn Châu. Vua Tuyên Tông tức giận bắt Trần Trí, Phương Chính cố đánh; nếu mùa xuân tới không có tin chiến thắng báo về, sẽ bị qui tội:                                             

Ngày 26 tháng 11 năm Hồng hy thứ nhất [ 5/1/ 1426]

Tổng cai quản ty Bố chánh, Án sát Giao Chỉ Thượng thư Trần Hiệp tâu rằng cầm đầu giặc Lê Lợi tuy xin hàng; nhưng thực chất hai lòng, chiêu dụ tụ tập đảng nghich kháng cự quan binh, đánh vây châu Trà Lung [Long], giết Tri châu Cầm Bành, ngầm liên kết với viên Thổ quan châu Ngọc Ma Cầm Quí, cùng Tù trưởng Lão Qua để gây ác. Thái giám Sơn Thọ ban sắc, xá tội cho Lợi, ban chức Tri phủ Thanh Hóa, Lợi xin đến mùa thu mát đến nhậm chức; nay lại tâu vốn kết oán với Tham chính Lương Nhữ Hốt, nên xin bỏ chức Tri phủ để coi châu Trà Lung.Gần đây người Diễn Châu phần đông theo Lợi làm loạn; Lợi lại sai bọn tay chân là Phan Liêu, Lộ Văn Luật đến châu Gia Hưng, Quảng Oai chiêu tập đồ đảng. Giặc một ngày một lan tràn, xin cho viện binh sớm diệt giặc này để yên nơi biên thùy.

Thiên tử xem tờ tâu sắc dụ Vinh xương bá Trần Trí, An bình bá Lý An, Đô đốc Phương Chính, cùng 3 ty Giao Chỉ rằng:

“ Phản tặc Lê Lợi manh tâm gây họa không phải chỉ mới một sớm, nếu lúc khởi đầu bắt nó dễ như nhặt một gọng cỏ. Nhưng nghe lời người ngu, chỉ lo việc chiêu phủ kéo dài đến nay đã  8 năm trời. Cuối cùng chúng không tuân mệnh, dưỡng thành cái thế độc dữ; khiến trung thần và dân lương thiện bị hại, mối họa triền miên. Khi sắc tới bọn Trần Trí, Phương Chính chuyên trách tiến binh, vụ tại hòa hợp để thành công, không hứa trì hoãn để lỡ việc. Nếu mùa xuân tới không có tin chiến thắng báo về, sẽ bị qui tội. (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 108 )

Tuyên Tông trong lòng cũng giống như Vua cha Nhân Tông; muốn hoà hoãn tại An Nam. Sau khi ra sắc dụ cho Trần Trí thúc dục đánh, lại muốn thay đổi ý định, hỏi sắc đã gửi đi chưa. Rồi gọi 2 cận thần Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh đến bàn riêng rằng nếu đem con cháu nhà Trần cho lên ngôi, cũng hợp với bụng của các vị Vua tiền nhiệm, mà một phương lại được yên tĩnh:

Ngày 27 tháng 11 năm Hồng Hy thứ nhất [ 5/1/1426 ]

Thiên tử ngự tại điện Văn Hoa, triệu Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh đến hỏi rằng:

- Hôm qua ra sắc dụ cho bọn Vinh Xương bá  Trần Trí, sắc đã gửi đi chưa?

Tâu đáp

- Đã gửi rồi.

Thiên tử nói:

- Trẫm có một điều để trong lòng đã lâu, nay nói riêng với 2 khanh, chưa nên khinh suất tiết lộ ra ngoài. Trước kia tại Nam Kinh, nhân giải bọn giặc Giao Chỉ đến, Hoàng Khảo [ vua Nhân Tông ] nói với ta rằng:

‘Khi Thái Tổ Hoàng đế mới bình định thiên hạ, An Nam là nước đầu tiên trong các nước bốn phương đến qui thuận. Sau này họ Lê cướp ngôi họ Trần, mang quân đánh dẹp xong, tìm con cháu nhà Trần nhưng không gặp, nên đặt quận huyện cai trị. Nay nếu còn con cháu nhà Trần, tuyển chọn đưa lên ngôi, cũng hợp với bụng của Thái Tổ, mà một phương lại được yên tĩnh.’

Trẫm thưa rằng:

‘ Triều đình làm được như vậy, thật là thịnh nghiệp cho Đế Vương.’

Hoàng khảo cười và nói:

‘Chuyện này chưa nên khinh suất tiết lộ.’

Trẫm giữ trong lòng, không quên. Thường suy nghĩ rằng nếu quả họ Trần còn con cháu, tuyển lấy một người lập lên làm phiên thần, giữ chức cống 3 năm một lần, như qui chế thời Hồng Vũ, thì dân được yên ổn mà Trung Quốc cũng không mệt về binh nhung; tuy nhiên có kẻ cho rằng Trẫm bỏ cơ nghiệp của tổ tông, nhưng thực ra phục hưng nước bị diệt nối dòng bị đứt là ý của Hoàng tổ.’

Kỳ và Vinh tâu đáp:

- Vào đầu năm Vĩnh Lạc thứ 3, khi mệnh tướng đánh giặc họ Lê, phàm chiếu sắc văn từ đều do bọn thần trực tiếp nhận mệnh viết, lúc bấy giờ Thái Tông Hoàng đế chí tại “hưng diệt kế tuyệt”; lời châu ngọc đó trong triều ngoài cõi đều nghe biết.”

Thiên tử nói:

-Lúc bấy giờ ta còn ở tuổi búi tóc trái đào (5) , nhưng cũng được nghe ít nhiều như lời các khanh nói. Hai khanh hiểu ý Trẫm nhưng đừng tiết lộ, đợi hai ba năm nữa Trẫm sẽ thi hành.

Rồi ban rượu, trước khi hai người rút lui.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 128)

Vào năm Bình Định vương thứ 8, ngoài cuộc khởi nghĩa của Vua Lê Lợi đã trình bày ở trên, vào tháng 8 quân Minh bắt được bộ hạ của Lộ Văn Luật là Nguyễn Khả Lượng; bèn áp giải về kinh đô:

Ngày 10 tháng 8 năm  Hồng Hy thứ nhất [ 21/9/1425 ]

Giặc Giao Chỉ Nguyễn Khả Lượng bị hành quyết. Khả Lượng trước kia theo đầu đảng giặc Lộ văn Luật làm phản, rồi chạy trốn sang Lão Qua, sau đó mấy lần vào cướp phá châu huyện. Đến nay quan quân bắt được gồm 16 người, đều bị cùm giải về kinh đô tru lục.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 121 )

Về mặt trận tư tưởng, nhà Minh đã cho lập 91 ty Nho học xuống tận các phủ, châu, huyện, nhắm mau đồng hóa; nhưng đã thất bại; vì các sinh viên tuy có chăm về việc học, nhưng không chịu tập theo phong hóa Trung Quốc:

Ngày 12 tháng 7 năm Hồng Hy thứ 1 [26/7/1425]

Ty Bố chánh Giao Chỉ tâu rằng:

‘ Từ năm Vĩnh Lạc thứ 13 [1415-1416] lập các trường Nho học tại các phủ huyện, từ đó đến nay triều đình chưa bổ giáo quan đến dạy, thành  phần giảng huấn phần nhiều là dân địa phương; ít người thông kinh điển. Các học sinh biết đọc sách, nhưng dùng ngôn ngữ khác, lễ pháp cũng không chặt chẽ; tuy có chăm về việc học, nhưng chưa tập phong hóa Trung Quốc. Nên bổ thầy giáo đến dạy theo con đường chính học để hướng dẫn người dân địa phương vào con đường mô phạm đúng đắn. Vậy lấy việc giáo dục, ngày tháng hấp thụ biến thói tục man di đổi sang phong tục Hoa Hạ thì đó là điều tốt đẹp ‘

Thiên tử phán:

‘ Người xưa dạy đào tạo hiền tài không có cách nào khác hơn là giáo dục và giáo huấn không phân biệt. Huống hồ thầy giáo là bậc mô phạm; lấy mỹ tục của Hoa Hạ để biến đổi tục Di, không có cách nào hay hơn. Nay lệnh bộ Lại tuyển người để bổ nhiệm.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 112)

Việc giáo dục tại bản xứ không được vừa ý, bèn đem sinh viên sang Trung Quốc huấn luyện; Vua Minh mong muốn giáo dục đúng cách, tức đúng theo đường lối của họ:

“Ngày 19 tháng 7 năm Hồng Hy thứ nhất [ 2/8/1425 ]

 

Các phủ, châu, huyện Nho học tại Giao Chỉ tuyển cống bọn Sinh viên Vương Hiến gồm 82 người đến kinh sư. Thiên tử dụ hành tại bộ Lễ Thượng thư Lữ Chấn rằng:

‘ Giao Chỉ cách kinh sư hàng vạn dặm, phải xa lìa thân thích đến đây. Cần phải giáo dục đúng cách, nếu chúng ham học, có kỳ vọng thành tài; ngươi và các học quan phải biết ý muốn của Trẫm về vấn đề này. Về y phục hàng năm cấp phát như lệ tại Vân Nam.”( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 116)

Cuối năm Bình Định vương thứ 8 [1/1526] có các Thổ quan Lương Nhữ Hốt, Nguyễn Nộn. Lê Ba Lan, mang sản vật đến tiến cống triều đình nhà Minh:

Ngày 17 tháng 12 năm Hồng Hy thứ nhất [ 25/1/1526 ]

Giao Chỉ Bố chánh ty Thổ quan Tả Tham chính Lương Nhữ Hốt đến triều đình tiến cống khí mãnh vàng bạc, cùng sản phẩm địa phương. Thiên tử bảo Thượng thư Lữ Chấn rằng:

‘Nhữ Hốt tuy là Thổ quan nhưng rất trung thành chiêu dụ dân, đánh giặc; đã lập được nhiều công. Nay đến triều đình, đáng ban thưởng để tưởng lệ, phàm đồ tiến cống thì theo giá trị mà cho lại.’

Vì thế ban cho Nhữ Hốt tiền giấy 200 đỉnh, 4 tấm gấm vóc, đám tùy tùng ban cho tiền giấy có sai biệt. Bồi thường đồ tiến cống gồm 7.480 đỉnh bạc.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 130)

Ngày 22 tháng 12 năm Hồng Hy thứ nhất [ 30/1/1426 ]

Thổ quan Hà Tuyên Tri châu Trấn Viễn, Quý Châu; Chỉ huy Thiêm sự Nguyễn Nộn thuộc vệ Tam Giang Giao Chỉ; Chỉ huy Thiêm sự Lê Ba Lan thuộc vệ Thanh Hóa; cống ngựa và phương vật.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 130 )

Bấy giờ quân Minh tại An Nam tỏ ra yếu kém, nhà Minh cần dựa vào các Thổ quan, nên Vua Tuyên Tông tỏ ra đặc biệt ưu đãi. Đối với Lương Nhữ Hốt ngoài việc đưa cho 7.480 đỉnh bạc còn phong tặng ông bà cha mẹ, cùng cha mẹ vợ; với Chỉ huy Thiêm sự Nguyễn Nộn , Chỉ huy Thiêm sự Lê Ba Lan thì ban cho tiền, y phục, luạ nõn:

 “Ngày 20 tháng giêng năm Tuyên Đức thứ nhất [ 27/2/1426 ]

Ban tiền giấy, lụa nõn trong ngoài, y phục tơ trử dệt kim, dày dép có sai biệt  cho Thổ quan Hà Tuyên, Tri châu Trấn Viễn, Quí Châu; Chỉ huy Thiêm sự Mộc Hiệp Tả vệ Kiến Châu; Chỉ huy Thiêm sự Nguyễn Nộn vệ Tam Giang, Giao Chỉ; Chỉ huy Thiêm sự Lê Ba Lan thuộc vệ Thanh Hóa Giao Chỉ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 131)

Ngày 26 tháng giêng năm Tuyên Đức thứ nhất [5/3/1426]

Ban sắc mệnh cho viên thổ quan Tham chính Lương Nhữ Hốt thuộc ty Bố chánh Giao chỉ, phong tặng ông bà cha mẹ, cùng cha mẹ vợ. Nhữ Hốt người đất Thanh Hóa, kính cẩn phụng sự triều đình, có công giết giặc, chiêu phủ; mấy lần được thăng đến chức Tham chính; nay đến triều đình, đặc cách ban cho để khen thưởng. (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 131

Chú thích:

1. Ngọc Ma: thuộc phủ Trấn Định trấn Nghệ An; nay là đất Cam Môn, Cam Cớt, thuộc Ai Lao.

2. Thành Nghệ An: Nằm trên đồi tại góc đông bắc ngã ba sông Lam và sông La Giang.

3. Đại thiên hành hóa: Thay trời ban hành giáo hóa.

4. Ba ty: tức tam ty gồm Đô ty, Bố chánh ty, Án sát ty.

5. Tuổi búi tóc trái đào: ý nói tuổi thiếu niên. 

24/10/2022
Hồ Bạch Thảo
Theo https://vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...