Chủ Nhật, 26 tháng 3, 2023

Thái sư, Tuy Thạnh Quận công Trương Đăng Quế 1

Thái sư, Tuy Thạnh Quận công
Trương Đăng Quế 1

Lời cảm ơn
Chúng tôi chân thành tri ân: Nhà giáo Nhân dân, Giáo sư Lê Trí Viễn đã tận tình hướng dẫn, và các tác giả, dịch giả có tên trong tài liệu tham khảo đã giúp tôi hoàn thành cuốn sách này.  
Nha Trang, ngày 10-12-2009 
Trương Quang Cảm 
LỜI NÓI ĐẦU
Trương Đăng Quế là danh thần triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, ngoài con người lịch sử làm quan 43 năm trong đó 20 năm giữ nhiều trọng trách lớn, ông còn là một nhà thơ. Đọc thơ Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản cho biết: “Đọc mãi mà chẳng biết mỏi mệt” (Bất giác lưu liên vong quyện dã). Miên Thẩm Tùng Thiện Vương xem thơ Trương Đăng Quế như những viên ngọc châu điểm dưới cổ ly long (ly long chi di châu).
Tôi vốn là hậu duệ đời thứ năm của Thái sư Tuy Thạnh Quận công Trương Đăng Quế. Từ lâu, tôi đã cố công đọc và sưu tầm tất cả các tài liệu viết về ông tôi. Nay tôi xin gởi đến quý độc giả quyển sách này.
Mặc dù đã cố gắng hết mình, nhưng không thể tránh khỏi những sai sót, tôi xin quý vị thông cảm và nhiệt thành góp ý.
Nha Trang, những ngày cuối năm 2009.
CHƯƠNG I
ĐỜI NGƯỜI
1. Quê hương
Trương Đăng Quế người xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, Tỉnh Quảng Ngãi. Từ thị xã Quảng Ngãi đi theo đường quốc lộ số 1 ra mạn bắc, vừa qua bên kia đầu cầu Trà Khúc, chúng ta sẽ gặp một con đường từ Quán Cơm [1] dẫn về phía đông. Đi độ 2000m, chúng ta gặp ngay núi Thiên Ấn. Đây là đệ nhất thắng cảnh của Quảng Ngãi [2]. Núi cao 105m, trên đỉnh bằng phẳng rộng chừng mười mẫu, bốn mặt vuông phẳng giống như cái ấn, nên gọi là ấn trời (Thiên Ấn). Trên đỉnh núi là một ngôi chùa cổ. Bảng đề là “Thiên Ấn Tự”, do vua Lê Dụ Tông (1727) ban cho nay vẫn còn. Núi Thiên Ấn xưa có nhiều đá son dùng để mài thành mực viết và chấm bài chữ Hán. Ngày còn đi học Trương Đăng Quế thường đến đây chơi. Từ Thiên Ấn nhìn sang hữu ngạn sông Trà cách tỉnh lỵ 2km về phía nam, nơi ấy bốn phía núi thăng bằng, ở giữa một chóp núi nhỏ cao vút lên như ngọn bút vẽ lên trời nên gọi là Thiên Bút phê vân. Bên chân núi có một cái gò vuông gọi là Hòn Nghiên. Nơi đây khi xưa có nhiều cây móc, quả và lá có thể dùng làm mực đen. Các thầy địa lý nói đất Quảng Ngãi có hòn Ấn, hòn Nghiên, hòn Bút nên sinh ra nhiều nhân tài. Từ Thiên Ấn đi thêm 10 cây số nữa là đến một làng quê ven biển. Đó là làng Tịnh Khê còn có tên là Sơn Mỹ hay Mỹ Lai. Một tên làng mà cả thế giới đều biết với vụ thảm sát Mỹ Lai (Sơn Mỹ) 16 tháng 3 năm 1968. Đấy là quê hương Trương Đăng Quế.
Làng Tịnh Khê nằm lọt giữa hai cửa biển lớn: Cửa Sa Kỳ ở phía bắc và cửa Đại Cổ  Lũy ở phía nam. Ở gần sát cửa Đại Cổ Lũy, con sông Trà Khúc lại rẽ một nhánh sông chảy dọc theo bờ biển ra hướng bắc hợp với các dòng sông khác đổ ra cửa Sa Kỳ. Nhánh sông này chảy ngang qua trước nhà Trương Đăng Quế. Từ nhà Trương Đăng Quế nhìn ra là con sông, tiếp đến là biển Đông. Hàng năm cứ vào tháng 2, dân ở đây có lễ cúng đất. Họ thường làm chiếc bè chuối chở đầy các vật phẩm cúng như: cua, gỏi, thịt, cá… cúng xong họ thả bè chuối trôi sông. Theo lời kể lại, lúc 5 tuổi Trương Đăng Quế thấy bè chuối trôi sát bờ liền cột lại. Đến đêm, phụ thân Trương Đăng Quế nằm chiêm bao thấy một ông già râu tóc bạc phơ đến khẩn nài nhờ nói giùm ông lớn thả cho đi. Đó là điềm báo trước sự thành đạt sau này của Trương Đăng Quế. Đêm đêm trên sông ghe thuyền qua lại người ta hát những câu hát dân gian trữ tình đằm thắm:
Em chèo theo anh đứt bộ quai chèo
Anh không mé lái nới lèo đợi em

Con sông và làn điệu dân gian đã nuôi dưỡng nên tâm hồn tiên sinh. Từ nhà ông nhìn sang hướng đông nam cách 4 km là thôn Cổ Lũy. Thôn Cổ Lũy nằm trên rẻo đất “trước biển sau sông” là một trong 12 thắng cảnh của Quảng Ngãi. Buổi chiều khi sương xuống, đứng từ xa trông Cổ Lũy giống như vùng khói lẻ loi mờ mờ ảo ảo nên được gọi là Cổ Lũy cô thôn. Bấy giờ thôn Cổ Lũy không khác nào bức họa cổ “Ngư thôn tịch chiếu” trong “Tiêu Tương bát cảnh” của Tống Địch bên Tàu.
Bên phía phải nhà của ông là ngọn núi Thiên Mã giống như đàn ngựa trời đang cất vó ra biển Đông. Cạnh núi Thiên Mã còn có các ngọn núi thấp thoai thoải gọi là Tranh - Gióng. Thuở xưa người dân ở đây mỗi khi đánh cá ngoài biển khơi nhìn vào đất liền hay hứng tình hát:
Ngó vô Tranh Gióng giao kề
Tiếng oan anh chịu em về tay ai
Dân làng Tịnh Khê còn cho rằng núi Thiên Mã gắn liền với sự thịnh suy của dòng họ Trương. Họ truyền lời sấm:
Chừng nào Thiên Mã qua sông
Thì làng Mỹ Lại [3] hết công lại hầu
Cách mạng tháng Tám đã kết thúc chế độ phong kiến. Sự kiện này ngẫu nhiên trùng hợp với sự kiện đất bồi lấp đoạn sông dưới chân núi Thiên Mã. Phía sau nhà Trương Đăng Quế là những cánh đồng bát ngát, lúa khoai ngô đậu. Từ xưa làng Tịnh Khê đã nổi tiếng trồng cây huỳnh tinh, là loại cây sản xuất ra bột huỳnh tinh để nấu chè, làm bánh. Những đêm trăng thanh, nam nữ thường tụ tập giã gạo hoặc lột vỏ củ huỳnh tinh và cùng nhau hát hố [4]. 
Nam:
Tới đây trước tôi chào anh em mình cái đã
Sau tôi chào hai ngả kinh tân
Chào luôn tiếng nữa ngoài sân trong nhà
Chào rồi tôi hỏi thiệt bà chủ gia
Con chim đứng đó, chim nhà hay chim ai?  
Chim nhà tôi xuống ná, ngừng tay
Hễ chim hàng xóm, dẫu đương bay tôi cũng bắn liền
Nữ: 
Chim quan nó ở lồng vàng thanh vắng
Đố anh người phàm, sao dám bắn chim quan

Chính vùng đất có Thiên ấn Niêm hà, có Thiên Bút phê vân, có ngựa trời cất vó, có Cổ Lũy cô thôn và lại có các làn điệu dân ca phong phú đã hun đúc nên đời người, đời thơ Trương Đăng Quế.
2. Gia đình

Tổ tiên của dòng họ Trương gốc xã Phước Long, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, nam tiến từ thời Vĩnh Tộ thứ 5 (Lê Trần Tông 1619 - 1628) lập cư ở làng Mỹ Khê tây, huyện Bình Sơn (nay là Sơn Tịnh), tỉnh Quảng Ngãi. Từ thủy tổ Trương Đăng Nhứt đến tiên sinh vừa tròn bảy thế hệ. Trong thời gian xây dựng vùng đất mới, những người con ưu tú của dòng họ Trương như cai hiệp Huy Đức Tử Trương Đăng Hưng, Thiên Đức Bá Trương Đăng Huỳnh, Thị độc học sĩ Trung thuận đại phu Trương Đăng Giáo, Thái thường tự khanh Trương Đăng Lương, Quyên Đức Hầu Trương Đăng Chánh, Dũ Đức Hầu Trương Đăng Chấn đã phò tá chúa Nguyễn khai phá mở mang, xây dựng một “Giang sơn muôn đời ở phía nam dãy Hoành Sơn”. Suốt tám thế hệ ấy dòng họ đã nối tiếp nhau tồn nhân tích đức. Theo gia phả ghi trong vườn ông Trương Đăng Hưng có một cây đại thụ bị gió bão làm trốc gốc. Ông Hưng đã phát hiện một chum vàng dưới gốc cây ấy. Ông mang vào nhà chôn cất lại. Mười năm sau một người Tàu từ phương xa đến tìm kiếm của báu. Người ấy đưa chúc thư và nhờ ông cùng tìm giúp. Ông Hưng xem xong biết đúng là chủ của chum vàng ấy nên ông mời người khách Tàu về nhà mình và đào lên giao lại cả chum vàng. Người khách Tàu thấy số vàng vẫn còn y nguyên như trong chúc thư đã ghi. Quá khâm phục, người khách Tàu đề nghị tặng lại ông một nửa nhưng ông nhất quyết từ chối. Người khách Tàu phải than rằng: “Ông phước thọ này, tuy nghèo khó được nghìn vàng mà không đem dùng, nay tặng cũng không nhận, cái thạnh tình này, nghìn năm chỉ có một”; xong xuôi xin cáo biệt về nước. Ba năm sau, người Tàu này đã dẫn theo một thầy địa lý đến thăm ông và đề nghị tặng ông một huyệt mộ để báo ân. Tìm xong, thầy địa lý rất ưng ý và có câu rằng: “Giai thành thông thông, thế xuất hầu công” (Ngôi mộ này rất đẹp, đời đời có công hầu). Đó là ngôi mộ Lùm còn gọi là ngôi mộ báo ân, trước 1961 là một thắng cảnh - hiện tọa lạc tại Gò Ra, xã Trà Sơn, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Mộ ấy là cố tổ của Trương Đăng Quế. Cha của tiên sinh là Trương Đăng Phác tri phủ tỉnh Quảng Ngãi thời Tây Sơn. Mẹ là Đỗ Thị Thiết con quan Hoài Đức Hầu thời Tây Sơn, chú là Đô đốc Tú Đức Hầu Trương Đăng Đồ cùng vợ là Nguyễn Thị Dung nữ đô đốc, một trong Ngũ Phụng Thư thời Tây Sơn. Cả hai vợ chồng đều tự sát trong toán quân thất bại cuối cùng của nhà Tây Sơn.
Trương Đăng Quế được hun đúc ra từ một dòng họ có bề dày về “tu nhân tích đức”, có một quá trình nỗ lực kiến thiết xây dựng một vùng đất mới và có một tấm lòng trung quân ái quốc.
3. Bản thân:
Trương Đăng Quế tự là Diên Phương, hiệu là Đoan Trai, biệt hiệu là Quảng Khê, sinh ngày 1 tháng 11 âm lịch năm Quý Sửu 1793 tại làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn nay là xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ông sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử Việt Nam đầy bão tố và biến động. Trước đấy, cuộc nội chiến xảy ra liên miên hết Lê - Mạc đến Trịnh - Nguyễn  rồi Nguyễn - Tây Sơn. Vua Quang Trung mất 1792 kết thúc một thời đại vàng son. Từ đây triều Tây Sơn bắt đầu đi vào sự bế tắc suy vi. Quang Trung mất một năm thì Trương Đăng Quế ra đời (1793). Được 7 tuổi, ông chứng kiến cảnh Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, chứng kiến cảnh gia đình tang tóc. Cha là Trương Đăng Phác đang là tri phủ tỉnh Quảng Ngãi thời Tây Sơn phải ra trình diện chế độ mới. Vợ chồng chú thím ruột là Đô đốc Tú Đức Hầu Trương Đăng Đồ cùng vợ là Đô đốc Nguyễn Thị Dung cả hai đều tự sát để khỏi rơi vào tay Nguyễn Ánh.
Tám tuổi (1801) cha bị bệnh rồi mất [5]. Đến 9 tuổi, tiên sinh gặp cảnh Nguyễn Ánh lên ngôi huy hoàng lấy niên hiệu là Gia Long. Trong những năm đầu của chế độ mới còn khắt khe phân biệt trong đối xử, cuộc sống gia đình gặp nhiều khó khăn. Tiên sinh là con thứ trong một gia đình đông anh em gồm bốn nam, bốn nữ. Những biến động của lịch sử gây nên những khó khăn và bất hạnh liên tiếp đến với gia đình. Nếu gia đình và bản thân ông không có ý chí thì chắc sẽ ngã quỵ ngay từ đó. Thế nhưng nhờ tình đùm bọc thương yêu của gia đình, ông đã quyết tâm tự học tập. Bấy giờ ngoài xã hội đã qua cái thời kỳ trả thù đẫm máu. Gia Long bắt đầu chiêu an dân chúng lập lại kỷ cương trật tự. Chính sách đối xử được nới rộng không còn khắt khe phân biệt như trước nữa. Vốn có một lý lịch nặng nề của chế độ cũ nhưng nhờ vào chính sách nới lỏng đãi ngộ không phân biệt của Gia Long, đặc biệt nhờ trí thông minh và ý chí quyết tâm cầu học, Trương Đăng Quế chọn cho mình con đường tiến thân bằng khoa cử.
Để kén chọn nhân tài ra làm quan, năm 1807 Gia Long cho mở khoa thi hương đầu tiên và sau đó cứ 6 năm mở một lần - Trương Đăng Quế đi thi hương khoa năm Kỷ Mão (1819). Trên đường đi thi từ Quảng Ngãi ra Huế qua đèo Hải Vân ông có ứng khẩu mấy câu:
Cử đầu sơ nhật thượng
Hồi thủ chúng sơn đê
(Ngẩng đầu mặt trời mới mọc
Quay đầu lại núi non đều thấp) 
Và:
Xúc mục đông quan duy hữu hải
Hồi đầu nam vọng cánh vô sơn
(Biển Đông trước mặt trong leo lẻo
Núi dựa sau lưng bé tẻo teo...)
Trong Đại Nam chính biên liệt truyện tập 2, quyển 22, tờ 12b lại ghi:
Tịnh đối đông minh duy hữu thủy
Hồi khan nam nhạc cánh vô sơn

Nhiều người cho đó là khẩu khí, điềm báo trước tiên sinh sẽ thành đạt lớn. Kỳ thi ấy, ông đỗ Hương Tiến (Học vị cao nhất thời Gia Long) và trở thành khai khoa thủ sĩ của tỉnh Quảng Ngãi. Năm Minh Mạng nguyên niên (1820) chức là hành tẩu bộ lễ “Minh Mạng sai Nguyễn Thận chọn những người đỗ khoa Kỷ Mão (1819) học hành thuần cẩn để sung vào dạy các hoàng tử. Nguyễn Thận đã chọn ông và cử lên” [6]. Năm 1821, ông giữ chức Hàn Lâm biên tu sung trực học đến 1823 sung Bạn độc. Năm 1826, thăng Hàn Lâm viện thị độc sung Tán Thiện Đường giữ chức trách dạy dỗ hoàng tử. Năm 1828 đổi sang bộ Lại sung chức Hành tẩu văn thư phòng rồi quản lý văn thư phòng. Tháng 10-1828, thăng Thượng Bảo Thiếu Khanh giữ quản cai phòng. Năm 1830, văn thư phòng đổi thành nội các, giữ chức Tả Thị Lang bộ Công. Tháng 6-1830, chủ khảo kỳ thi hạch giáo chức các tỉnh cử lên tại trường Quốc Tử Giám. Tháng 5-1831, ông giữ quyền lãnh quản lý bộ Công. Tháng 10-1831, quyền Tả Tham Tri bộ Hộ. Năm 1832, sung Độc quyển thi đình. Năm 1833, giữ Ấn Triện Đô Sát Viện rồi Toản tu trong ban soạn quốc sử kế tiếp thăng Thượng Thư bộ Binh kiêm Ấn Triện Đô sát viện. Tháng 12-1823, lãnh đánh dẹp tại Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng một cách chóng vánh được thăng thưởng một cấp. Năm 1835, sung cơ mật viện đại thần gia hàm Thái Tử Thiếu Bảo nhận chủ khảo kỳ thi hội. Năm 1836, kinh lược Nam Kỳ chỉ trong vòng 5 tháng mà ông đã lập được địa bạ, đinh bạ cho các vùng đất đang khai khẩn “làm lợi cho nước gấp 3 lần” (lời Tự Đức) - Công trình này về sau “Người Pháp thuộc địa cũng thán phục, nhất là địa bạ đến đầu thế kỷ XX, họ vẫn lấy đó làm căn cứ giải quyết các vụ tranh chấp ruộng đất” [7]. Công việc đạt kết quả tốt, ông được thăng Hiệp biên Đại học sĩ lãnh thượng thư bộ Binh. Tháng 12-1836, kinh lược quân binh Thanh Hóa. Năm 1837, được cử quản lý Khâm Thiên Giám. Năm 1838, chủ khoa thi hội rồi độc quyển thi đình sau đó kiêm nhiệm Hiệp Lý điều khiển thủy quân. Cuối năm nhận trọng trách tuyển binh ngạch tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Ninh Bình. Năm 1839, tấn phong Tuy Thạnh Nam. Năm 1840, nhận di chiếu của vua Minh Mạng tôn vua Thiệu Trị. Năm 1841, thăng hàm Văn minh điện Đại học sĩ gia Thái bảo. Năm 1842, hộ giá Bắc tuần lao nhọc được phong Tuy Thạnh Tử. Năm 1844, kiêm thêm Ty Tào Chánh. Gặp năm thi hội ông được cử chủ khảo rồi kế tiếp độc quyển thi đình. Năm 1846, được Vua ban thẻ ngọc khắc chữ vàng “Cố mạng lương thần” tấn phong Tuy thanh bá - Có công trong việc tham mưu an định Trấn Tây (Campuchia) nên được khắc tên tuổi công nghiệp trong khẩu súng thần công Bảo Đại Định công Đệ Nhất Vị. Tháng 9-1847, nhân di chiếu của vua Thiệu Trị tôn vua Tự Đức. Ít lâu sau được thăng Cần Chánh Điện đại học sĩ tấn phong Tuy Thạnh Quận công. Năm 1850, được vua ban một khánh vàng khắc 4 chữ “Tam Triều Thạc Phụ”.
Đời làm quan của ông tất cả 43 năm thật hanh thông rực rỡ. “Mới lập nội các tiên sinh vào nội các, mới xây dựng viện cơ mật tiên sinh sung cơ mật, vừa mở tòa Kinh Diên, tiên sinh đến giảng tại Kinh Diên, mới định phủ phụ chánh, tiên sinh làm phụ chánh” [8]. Trong 43 năm có 20 năm là ông giữ trọng trách lớn nhất. Mọi việc trong triều là do vua và ông quyết định. Thời gian sung trực học hay bạn độc cũng như giảng luận và chủ khảo các kỳ thi hội, độc quyển các kỳ thi đình, ông đã góp phần đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Sau 5 lần xin về hưu trí 1850, 1851, 1855, 1862, 1863, đến lần 6 tháng ba 1863 tuổi đã 70 ông mới được lui về vườn cũ, sống dưới mái nhà tranh vách đất được 2 năm rồi mất 1865. Vua ban hàm Thái sư, Thụy Văn Lương.
Thuở nhỏ, Trương Đăng Quế nổi tiếng học giỏi và thuộc Truyện Kiều vanh vách, vì thế mỗi khi có người đọc sai, cậu liền sửa ngay. Dân làng Tịnh Khê còn truyền bài vè uống rượu, trong đó có đoạn khuyên kẻ uống rượu say không nên đọc Kiều, vì đọc sai cậu sửa thì xấu hổ:
Vè vẻ vè ve
Cái vè uống rượu 
Rượu say đừng ré
Bé khuỵu chân xiêu
Đừng hát Truyện Kiều
Cậu phê thằng dốt

Ngay từ thời còn nhỏ, Trương Đăng Quế đã thích làm thơ. Chính người đã nói điều này “Thơ đối với tôi, lúc nhỏ không có thầy dạy, chỉ do ham thích mà làm”. Đến khi làm quan, được cử đi công tác khắp nơi trong nước. Vốn có tâm hồn nhạy cảm và yêu thơ nên đi đến đâu ông cũng để lại nhiều bài thơ. Ra công tác ngoài Hà Nội, ông sáng tác bài Hà Nội hoài cổ. Đến thăm Văn Miếu có bài Thu đinh yết Văn Miếu hữu cảm (Bài thơ ghi lại cảm xúc trong ngày đinh mùa thuyết Văn Miếu). Nhận mệnh lệnh đi công tác ở Thanh Hóa, ông có bài Khâm mạng kinh lược Thanh Hóa, đến Châu Lương Khánh (Thanh Hóa) để thăm có bài Sơ để Lương Khánh châu (Vừa mới đến châu Lương Khánh). Đi thuyền đến Kim Sơn (Thanh Hóa)  viết bài Chu bạc Kim Sơn tân thứ (Ghé thuyền bến đò Kim Sơn). Trên đường đến Nghệ An, viết bài Nghệ An đồ trung kỷ kiến (ghi lại điều thấy giữa đường Nghệ An). Trên đường vào Nam công tác, ghé vào Nha Trang ông có bài Cù Huân vãn bạc (Chiều ghé bến Cù Huân). Thuyền đi ngang qua Quảng Ngãi, cảm xúc viết nên bài Thuyền quá Quảng Ngãi cố hương (Thuyền đi ngang qua quê cũ Quãng Ngãi). Vào đến Nam Kỳ có bài: Khâm mạng kinh lược Nam Kỳ lục tỉnh. Lên thành Phiên An (Gia Định) viết bài Đăng nguyên Phiên An thành hữu cảm (cảm xúc khi lên thành Phiên An cũ). Tại các nơi công tác, ông còn lưu tâm tới thăm các danh lam thắng tích. Thăm chùa Bửu Phong, một danh thắng của Biên Hòa, cảm xúc sáng tác bài Du Bảo Phong tự  (Viếng chùa Bảo Phong). Đến thăm cảnh đẹp Hà Tiên, ông cảm xúc viết bài Hà Tiên. Thăm động Hồ Công, một thắng cảnh thuộc xã Thọ Vực, Vĩnh Lộc Thanh Hóa, ông đề bài thơ Đề Hồ Công động (Đề động Hồ Công). Đi qua núi Tam Điệp, ngẫu hứng viết bài Quá Tam Điệp sơn (qua núi Tam Điệp). Đến thăm núi Dục Thúy, một danh thắng thuộc tỉnh Ninh Bình, nơi đây nhiều danh sĩ đến thăm và đề thơ, tiên sinh cũng có đề một bài thơ Khâm mạng kinh lược Bắc  Kỳ hà đê ư Ninh Bình đăng Dục Thúy sơn ngẫu đề (Nhận mệnh đi kinh lược vấn đề đê điều sông ngòi ở Bắc Kỳ, đến Ninh Bình lên thăm núi Dục Thúy ngẫu nhiên đề thơ). Ngoài con người của một ông quan đại thần ra, ở Trương Đăng Quế còn là con người có tâm hồn nhạy cảm. Và cũng chính nhờ tâm hồn như thế nên thơ đến với ông một cách tự nhiên. Điều này chính người cũng xác nhận: “Gặp việc gây hứng đối diện với cảnh vật mà thành bài ngâm vịnh”. Bên cạnh một tâm hồn nhạy cảm, Trương Đăng Quế  còn có một kiến thức rất uyên bác. Đúng như Phan Thanh Giản đã nhận xét: “Không có sách nào là ngài không đọc, lại sở trường thơ ca” và Tùng Thiện Vương cũng nói: “Trương Đăng Quế được người đời khen tài nhớ, khác nào An Thế thuộc nằm lòng ba rương sách Hà Đông”. Đọc thơ ông, người đọc thấy ông thấu suốt các pho lịch sử nước ta, nước Tàu. Tiên sinh đọc các bộ tiểu thuyết cổ Trung Quốc và nhận xét từng nhân vật một. Đặc biệt bộ tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, cả tiền và hậu, người đều đọc. Điều lạ, một con người khuôn phép như ông lại thích đọc truyện Hồng Lâu Mộng. Ông viết:
Độc tiền hậu Hồng Lâu Mộng hữu cảm nhị thủ
Nhàn kiểm Hồng Lâu kí mộng du
Kim thoa thập nhị tập quần cư
Ngã lân Đại Ngọc si tình trọng
Dục bả  tiền nhân khấu bích hư
 
Kỳ nhị:
Châu cung hợp thị hữu tiền duyên
Lịch tận cùng sầu mộng thủy viên
Thiên cổ hữu tình nhân thúy khán
Tối căng nghiêm xứ tối tương liên
Cảm xúc khi đọc tiểu thuyết tiền hậu Hồng Lâu Mộng hai bài:
Lầu hồng nối mộng rỗi xem qua
Xiêm áo mười hai rực ánh thoa
Son phấn si tình ta tiếc bấy
Muốn đem nhân trước gợi châu lòa
(Trương Quang Gia dịch)
Bài hai:
Ngọc châu cung cấm hợp duyên xưa
Sâu thấm dường bao mộng mới vừa
Tình nặng ngàn thu người hẳn thấy
Xót nhau chốn ấy đớn đau chưa? 
(Trương Quang Gia dịch) [9]
Từ xưa đã có quan niệm đất thiêng sinh người tài  (địa linh nhân kiệt). Cho nên nói đến Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh, người ta không thể không nhắc đến quê hương Nghệ Tĩnh. Ảnh hưởng ấy khó xác minh nhưng lại là có thật. Sau Nghệ Tĩnh, Quảng Ngãi cũng được xem là đất thiêng sản sinh nhiều nhân tài. Người Quảng dẫu nghèo khó nhưng có chí nguyện vươn lên. Nhiều người đỗ đạt và làm quan rất lớn. Quê hương Quảng Ngãi nói chung và làng Tịnh Khê (còn có tên là Mỹ Lại) ở gần sông gần biển, phong cảnh hữu tình và khí hậu quanh năm ôn hòa nói riêng đã tác động quan trọng đến việc hình thành ở ông một con người thơ.                
Bên cạnh nguồn quê hương, tiên sinh còn chịu tác động của nguồn ảnh hưởng gia đình. Một gia đình, nói như giáo sư sử học Yoshiharu Tsuboi  (trong “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa” sđd) là: “làm quan suốt nhiều thế hệ và có bề dày tu nhân tích đức. Thời nào gia đình ông cũng có người làm lớn và hết lòng trung kiên với dân, với nước. Chính điều đó đã mở tâm hồn ông đi về phía tầng lớp dưới của nhân dân nhiều hơn là tầng lớp trên. Bản thân tuy làm quan to nhưng không lấy đó làm sung sướng, cứ nằn nì xin từ chức để về lại vườn xưa”. Cộng vào đó sức học rất uyên bác, cái gì cũng đọc và tâm hồn nhạy bén, dễ cảm xúc. Tất cả điều ấy đã làm nên một Trương Đăng Quế mà chúng ta có thể tìm thấy ở thơ của ông.
CHƯƠNG II
MẠCH THƠ MẶC VÂN
Trương Đăng Quế sinh ra và lớn lên trong giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX. Đây là giai đoạn đầy biến động của lịch sử Việt Nam (đã nói ở chương I) nhưng cũng là giai đoạn văn học phát triển rực rỡ nhất. Trương Đăng Quế đã thừa hưởng được cái không khí phát triển rầm rộ ở cả bộ phận văn học chữ Hán lẫn bộ phận văn học chữ Nôm của giai đoạn này. Những khúc ngâm nổi tiếng được ra đời như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Ai tư vãn. Những truyện thơ nổi tiếng cũng được ra đời như Hoa Tiên, Sơ kính tân trang, Truyện Kiều... các tác giả tài hoa nhất như: Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm...
Trương Đăng Quế rất phục tài và đánh giá rất cao thơ Hồ Xuân Hương. Trong bài tựa đề đầu tập thơ Diệu Liên thi tập (tập thơ của công chúa Mai Am), Trương Đăng Quế viết: “Trải xem nước Viêm Bang ta từ khi khai tịch đã mấy trăm nghìn năm, trong khoảng đó có những khuê tú làm thơ, hồi trước thì có Phạm Lam Anh, gần đây thì có Hồ Xuân Hương, có hai người ấy mà thôi” [10].
Trong tập thơ Học văn dư tập của mình, Trương Đăng Quế có làm bài thơ sau:
Hữu nhân tự Bắc thành lai bả, tợ danh viện Hồ Xuân Hương tống biệt thi sách thứ kỳ vận:
Thùy hướng Giang Nam xướng Trúc Chi
Thu phong tưởng kiến liễu my thùy
Lục triều yên vũ hưu đa quản
Lưu tác đương niên nhất diễm từ.
Dịch:
Có người từ Bắc thành về mang theo bài thơ tống biệt của người đẹp Hồ Xuân Hương đòi họa vần.
Ai hướng Giang Nam vịnh Trúc Chi
Gió thu dường thấy rủ làn mi
Sáu triều mưa khói bàn đâu nữa.
Lời đẹp năm nào thuận bút ghi  
Trong giai đoạn văn học từ nửa cuối thế kỷ thứ XVIII đến nửa đầu thế kỷ thứ XIX đã hình thành một trào lưu nhân đạo chủ nghĩa. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học cùng một lúc nhiều nhà thơ đã đặt ra những vấn đề về quyền sống của con người trong xã hội phong kiến nhất là quyền sống hạnh phúc của người phụ nữ. Ở Truyện Kiều, Nguyễn Du đề cập đến tình yêu tự do, hạnh phúc lứa đôi và tố cáo những thế lực xã hội đầy bất công và thối nát đã vùi dập Kiều. Trong Chinh phụ ngâm khúc, Đặng Trần Côn đề cập đến nỗi ai oán bi thương của người phụ nữ có chồng ra đi chiến trận tham gia vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ở Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều đề cập đến nỗi đau khổ của người cung nữ bị bỏ rơi trong cung cấm. Hồ Xuân Hương thì lên tiếng tố cáo chế độ đa thê của cái kiếp làm vợ lẽ cũng như bóc trần cách đối xử dã man của xã hội phong kiến đối với người con gái mang tiếng chửa hoang.
“Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” nên không thể thoát ra khỏi thời đại và không thể không chịu ảnh hưởng gì của thời đại. Vì thế tiên sinh đã chịu ảnh hưởng khá sâu sắc trào lưu nhân đạo chủ nghĩa ấy. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả cũng viết các đề tài về phụ nữ như bài Thanh lâu oán (Hận lầu xanh), Khí phụ từ (Lời người vợ bị chồng bỏ).  
Bên cạnh sự ảnh hưởng trào lưu nhân đạo chủ nghĩa của giai đoạn hậu kỳ trung đại của các nhà thơ đi trước như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái... Trương Đăng Quế còn ảnh hưởng cái chung của các bạn thơ cùng thời trong tao đàn Mặc Vân.
1. Tao đàn Mặc Vân:

Trương Đăng Quế là thầy dạy các ông hoàng, bà chúa. Trong số đó có hai ông hoàng nổi tiếng nhất là Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương. Ngày còn trẻ mỗi khi làm được bài thơ nào Tùng Thiện cũng đưa cho tiên sinh xem. Có một lần cùng đoàn hộ giá ra đến tỉnh Nghệ An, nhận thấy có miếu thờ An Dương Vương, Vương bèn ngẫu hứng hai câu thơ:
“Mã đầu hữu tặc thùy năng thức
Quy trảo vô cơ quốc dĩ không”
(Giặc đầu ngựa đó nào ai biết
Cung móng rùa đâu, nước đã tan) 
“Trương Đăng Quế ngày ấy cũng đi chầu, sung chức Hộ giá đại thần, có phê sáu chữ “Tận đắc Đường nhơn tinh tủy” nghĩa là rút hết tinh tủy của người đời Đường. Đó là lời bình phẩm của thầy; lúc ấy trò mới 23 tuổi” [11]. Tiên sinh và Tùng Thiện Vương rất tâm đầu ý hợp, chính tiên sinh cũng đã nói: “Riêng tôi với hoàng tử Tùng Thiện lại rất hợp ý nhau. Từ đó mỗi khi rảnh rỗi, tôi hay đến cùng Tùng Thiện bàn bạc thật kỹ lưỡng việc xưa nay, phê phán sự được mất, cả vấn đề thể tài và phong thú không có điều gì là không bàn xét một cách tinh vi thấu triệt” [12]. 
Khi Vương thành lập Mặc Vân thi xã còn gọi là Tùng Vân thi xã, Trương Đăng Quế là người nhiệt tình ủng hộ đầu tiên và trở thành hội viên. Ngày nay đọc các trước tác của ông, ta thấy ông thường nhắc đến tao đàn Mặc Vân thi xã. Trong tác phẩm Học văn dư tập, ông có hai bài thơ  nói về tao đàn Mặc Vân thi xã:
Bài 1:
*Đề tặng Tùng Vân thi xã [13]
Tùng Vân hội thượng liệt quần anh
Thùy chủ tao đàn xướng thử minh
Thiên hạ nhân tài quy đế nữ
Phong lưu giang hữu thuyết Tam Khanh
Dịch:
*Đề tặng thi xã Tùng Vân
Tài hoa gặp gỡ hội Tùng Vân
Ước hẹn tao đàn ý chủ nhân
Thi bá mười phương về nữ chúa
Tam Khanh phong nhã bến sông xuân
Bài 2:                                         
Văn xã tập hữu vịnh liễu thi thượng cảm nhi toại phú
Hạnh tá trường điều thác thử thân
Cô tiêu biệt tự xuất phong trần
Sai thùy truyền ngữ Đào Bành Trạch
Tợ cộng tiên sinh hữu túc nhân
Dịch:
Nghe thi xã sưu tập các bài thơ vịnh liễu cảm xúc nên vần:
May mượn cành dài gởi chiếc thân
Rời xa gió bụi thích cô đơn
Xin ai nhắn hộ Đào Bành Trạch
Kết bạn thêm tôi chớ ngại ngần
Viết bài thơ cho tập thơ Diệu Liên tập của Mai Am, ông cũng nhắc đến thi xã như sau: “... Thương Sơn công cùng các đức ông dựng ra thi xã, cành kinh đóa lệ ai nấy xưng hùng, tướng vững thành dài, mở cờ gióng trống, mà tiếng tăm của ba bà chúa bèn vang dậy ở đất Giang Hữu. Tôi nghe thấy, cũng tự phụ là mình trước đây nhận xét không lầm... Đến khi tôi ngoài bảy chục, cởi ấn về vườn hai đức ông Thương Sơn - Vĩ Dã cùng các vị trong hội xã đặt tiệc tiễn đưa tôi ở Thủy Đình”.[14]  
Lúc Trương Đăng Quế về hưu “thơ văn tiễn tống không kém một nghìn bài. Người bấy giờ truyền đó là một việc vẻ vang lớn về thần tử nước  Nam”.[15]  
Như vậy ta thấy, Trương Đăng Quế ngoài những giờ bận rộn của việc quan ra, ông còn sinh hoạt trong hội thi xã gọi là Tùng Vân thi xã hay Mặc Vân thi xã. Đây là một tổ chức được thành lập vào năm Tự Đức thứ 2 (1849) tại Ký Thưởng Viên, “một khu vườn do Tùng Thiện vương thiết lập bên bờ sông Lợi Nông (nay là sông An Cựu)” [16]. Đứng đầu thi xã (chủ súy) là Tùng Thiện Vương - thi xã quy tụ nhiều danh sĩ nổi tiếng thời bấy giờ. “Vào chân thi xã thuần những bậc quí phái hoặc các hoàng thân quốc thích, hoặc các vị đại phu ở triều các bậc đại khoa, tất cả những người đã nổi danh vì tài lược, vì học thức như các ông: Hà Tôn Quyền, Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Đức Đạt, Vũ Đức Nhu, Nguyễn Văn Giai...”. “Các hoàng thân thì những ngài: Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Thọ Xuân Vương, Tương An Công, Phú Bình Công, Lạc Biên Công, Hàm Thuận Công, Hoằng Hóa Công, Cẩm Xuyên Công, Hòa Thạnh Công, Trấn Biên Công” [17]. Theo Trần Thanh Mại - tác phẩm Tuy Lý Vương 1939 (dẫn theo Ưng Trình Bửu Dưỡng Sđd trang 104)  thì “không ngày nào số văn nhân hội họp dưới nửa trăm người, Tùng Thiện Vương cũng như vị Mạnh Thượng Quân nho nhỏ”. Cũng theo Ưng Trình Bửu Dưỡng: những hội viên trong tao đàn thường tụ tập để ngâm vịnh và xướng họa. Trong Thương Sơn thi tập có kể một lần xướng họa như: “Đêm rằm tháng mười vừa đi dạo ngắm trăng vừa liên ngâm, người nọ chắp theo vận người kia song hẹn cùng nhau không dùng chữ nguyệt”.
Bà Mai Am xướng:
Mãn đình hành táo thủy không minh
Minh diệp sơ quân dạ khí thanh
Ánh giới sơn hà  khai ngọc kỉnh
Hồng Phì đối lại:
Hàn kiêm sương lộ trạc kim kình
Tùng Thiện Vương xen vào một câu:
Sứ quân chính ức hoàng lâu yến
Hồng Phì đối lại:
Vũ khách chân lân Xích Bích hành
Bà Hà Oan Sô tiếp:
Hà tất trung thu chiêm bạch thố
Bà Chấp Khuông làm câu kết:
Kim tiêu dĩ thị tối tinh oanh
Trương Đăng Quế cũng đã họa thơ, vịnh thơ với những người trong thi xã. Vì thế thơ Trương Đăng Quế ngoài sự tiếp thu nối tiếp của các nhà thơ đi trước như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Phạm Thái, v.v... Thơ Trương Đăng Quế còn chịu ảnh hưởng của các bạn thơ đương thời nữa.
2. Quan điểm thơ:
Từ xa xưa ông cha ta chưa ý thức xây dựng một hệ thống quan điểm lý luận văn học. Thành thử chúng ta chưa có những người như Aristot, Horace, Boileau, Diderot, Lessing, Bielinsky. Nhưng rải rác chỗ này chỗ khác, nhất là trong các bài tựa ông cha ta cũng đã phát biểu quan điểm của mình về thơ văn. Từ giữa thế kỷ XVIII trở về trước các ý kiến còn rất ít, nhưng từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, bên cạnh việc văn học phát triển rực rỡ chưa từng thấy cả về số lượng lẫn chất lượng, quan điểm lý luận cũng gặt hái được rất nhiều. Lê Quý Đôn là người phát biểu tương đối có hệ thống. Sau ông còn có hàng loạt các tác giả như: Lê Hữu Trác, Nguyễn Quýnh, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Nguyễn Du, Nguyễn Văn Siêu, Trương Đăng Quế, Cao Bá Quát, Nhữ Bá Sĩ, Phạm Phú Thứ, Miên Thẩm, Miên Trinh v.v...
Nhận định về quan điểm lý luận văn học nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế thế kỷ XIX, Giáo sư Nguyễn Lộc cũng có nhận xét:

“Lý luận văn học trong thời phong kiến ở nước ta thường có tính cách giáo điều, rập khuôn theo những quan điểm văn học ở Trung Quốc, không phản ảnh trung thực thành tựu của sáng tác, nhất là phần sáng tác văn học bằng chữ Nôm. Tuy vậy nếu tìm hiểu kỹ quan điểm văn học của các tác giả đương thời (tức nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX - Trương Quang Cảm) cũng có thể thấy được chừng nào sự chuyển biến trong quan điểm của họ”. Ta thấy quan điểm sáng tác thơ của giai đoạn này chịu ảnh hưởng quan điểm của Khổng Tử, coi việc sáng tác là việc dùng cái sức dư sau khi đã làm xong mọi việc “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc để, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân, hành hữu dư lực tắc dĩ  học văn” (Kẻ đệ tử khi vào thì thảo với cha mẹ, khi ra thì kính anh chị và người lớn tuổi, làm việc gì thì cũng phải cẩn thận và ăn nói chắc thiệt, thương tất cả mọi người, mà gần gũi với người nhân đức, làm xong những việc nói trên trước, nếu còn dư sức hãy học đến văn chương), (Luận ngữ - Học nhi).
Từ đó khi Lê Quý Đôn luận vì sao các văn nhân phần nhiều mắc phải bệnh kiêu căng, ông đã nói: “Họ ít học vấn, thiếu tu dưỡng, bởi vậy họ bị cái tính tự nhiên chi phối. Nếu hứng chí tâm hồn vẫn giữ được bình đạm, mỗi khi diễn tả và phát ra thì càng thêm ung dung. Bởi vậy thánh nhân nói rằng: “Hưng ư thi” (Học kinh thi để hưng khởi), lại nói rằng “Từ đạt nhi dĩ hĩ” (Lời văn cốt đạt ý thì thôi), cùng là: “Hành hữu dư lực, tắc dĩ học văn” (Làm đã thừa sức rồi mới học văn) [18].
Nguyễn Văn Siêu, người cùng với Cao Bá Quát được mệnh danh là “thần Siêu”,“thánh Quát” có nói: “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương, còn loại đáng thờ là chuyên chú ở con người” - Phu Tử xưa đã nói: Làm việc có sức thừa thì đem nó mà học văn chương...” [19]. Học theo quan điểm của Khổng Tử, Trương Đăng Quế quan niệm văn chương như Lê Quý Đôn, Nguyễn Văn Siêu. Giải thích tên tác phẩm của mình, Trương Đăng Quế viết: “Lấy nhan đề là Học văn dư tập nhằm ý nghĩa là giữ cái sức dư sau khi hành động thời lo học văn vậy” [20].
Trong giai đoạn này, người ta cũng bàn nhiều đến việc sáng tác thơ. Thơ có phải chú trọng nhiều đến quy cách hay không? Cái gì là cái gốc của thơ và ảnh hưởng thơ Tàu ở mức độ nào thì mới hay? Trong lời bạt tập thơ của Thương Sơn Công, Cao Bá Quát có viết: “Thơ tuy có phải chú trọng về quy cách nhưng làm thơ thì phải gốc ở tính tình. Nếu việc làm nào cũng bắt chước cũ, câu nào cũng bắt chước cũ, câu nào cũng theo học người: đầu thôn tạm biệt đã hát câu “chén rượu dương quan” xóm cạnh qua chơi đã ngâm câu “tiếng gà điếm cỏ” nắn nót những lời biên tái lòe người là tuyệt diệu Gia Châu, chải chuốt các thể trong cung, tự phụ là văn nòi Thiếu Bá” [21].
Trong lời bạt tập thơ của Phan Lương Khê, tiên sinh Phạm Phú Thứ có viết: “Thơ vốn từ tính tình, ý tứ cốt quy về chỗ đôn hậu ôn hòa. Song nếu không đọc vỡ muôn cuốn sách, nhìn khắp tám cõi, thì không thể đạt tới chỗ sâu sắc” [22].  
Nguyễn Văn Siêu cho rằng thơ phải xuất phải từ chỗ tự nhiên. Ông nói: “Lời càng khéo thì càng mất điều chân thực (chân), ý càng kỹ thì càng rơi xuống hư hao (sức)” [23]. Cùng với các quan điểm ấy, Trương Đăng Quế cũng nói: “Đầu tiên hết phải tìm biết phép tắc vận dụng khi làm thơ nhưng chung quy không ra ngoài hai chữ tánh linh là yếu tính từ xưa của thơ cho nên dẹp hết các lời sáo hủ, chẳng dựa bên của người khác, ý đã đến thì ngòi bút theo đó mà diễn tả ra” [24]. Và: “Thơ đối với tôi, lúc nhỏ không có thầy dạy chỉ do tôi ham thích mà làm, không phải bắt đầu, không phải tiếp nối, không có mẫu mực khuôn phép, gặp việc gây hứng, đối diện với cảnh vật mà thành bài ngâm vịnh, chỉ biết diễn tả tính tình không phải muốn mượn thơ làm cho mình nổi tiếng” [25].
3. Đề tài:
Sau bao năm chiến tranh liên miên: Chiến tranh Lê - Mạc (1527 - 1592), chiến tranh Trịnh - Nguyễn  (1627 - 1672), rồi Tây Sơn - Nguyễn Ánh. Cuối cùng Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn lên ngôi vua 1802 mở ra một triều đại phong kiến cai trị thống nhất từ Bắc chí Nam. Trong khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ XIX tình hình xã hội có phần tương đối ổn định. Vì vậy ngoài thời gian làm việc ra, những lúc còn lại vua tôi và các quan lại cùng nhau xướng họa. Cho nên các đề tài thơ trong giai đoạn này ta thường thấy là:
3.1 Đề tài tống tiễn:
Các bài thơ làm ra nhằm tiễn các người bạn lên đường đi nhận nhiệm sở mới. Đề tài này cũng không lạ lẫm gì. Từ thời Đường Tống bên Trung Quốc cũng đã có rồi. Một trong những bài thơ nổi tiếng của Lý Bạch thuộc đề tài này như: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng.
Ở nước ta trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê đề tài này tuy không nhiều nhưng rải  rác đây đó cũng có, như bài Tống Phạm Công Sư Mạnh Bắc sứ (Tiễn Phạm Sư Mạnh đi sứ Trung Quốc) của Lê Quát [26]. Đến nửa đầu thế kỷ XIX đề tài tống tiễn trở thành phổ biến. Hầu hết các nhà thơ đều có thơ thuộc đề tài này. Điều này có thể lý giải được, bởi  lý do: Thời bình, bộ máy chính quyền nhà Nguyễn vừa được thiết lập nên cần bổ nhiệm nhân sự đi nơi này nơi khác. Nguyễn Du có các bài tống tiễn như: Tống Nhân, Tống Ngô Nhữ Sơn Công xuất trấn Nghệ An v.v...
Các nhà thơ trong nhóm Mặc Vân, vị nào cũng có thơ tống tiễn. Cao Bá Quát có bài Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỵ Thường Tín, Kiêm trí Lê Hy Vĩnh Lão Khế. Miên Thẩm Tùng Thiện Vương có bài với Tống khách vãng Hà Nội, Tống Lương Tứ chi Quảng Nam, Tống Hình Bộ Thị Lang Phạm Bạch Hiên sung tán tương Gia Định quân vụ; Tống khách chi Quảng Nghĩa kiêm ký Phạm Kế Chi, Nguyệt dạ chiêu tử Mẫn Tập Hương Giang Châu thứ tống Hy Phần nam hoàn thiên táng tiên mộ nhị thủ, Hạn đồng dụng qui tự lai tự; Tống Nguyễn Lê Quang qui Hà Nội; Tống ca giả qui Hà Nội...
Phạm Phú Thứ có bài Tống Hồng Lô tự khanh Đỗ La Phong vãng Nam Kỳ chiêu thảo. Nguyễn Tư Giản có bài Tống Tỷ bộ Nguyễn Hy Phần dự cáo qui Khánh Hòa; Tống Nguyễn Hy Phần qui Bình Thuận v.v... Nguyễn Thông có bài Tống nhân chi Gia Định, Tống Định Tường Niết sứ Huỳnh Dưỡng Độn qui Kiên Giang biệt nghiệp. Căn cứ vào 100 bài thơ của Nguyễn Thông trong Tác phẩm Nguyễn Thông  (Sở Văn hóa thông tin Long An xuất bản 1984) đề tài tống tiễn có tới 18 bài chiếm tỷ lệ 18%.
Thơ Trương Đăng Quế cũng nằm trong thông lệ ấy. Cùng với thơ Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, thơ ông có nhiều bài thuộc đề tài tống tiễn. Trong 244 bài thơ ở Học văn dư tập của Trương Đăng Quế, thơ với đề tài tống tiễn có đến 17 bài chiếm gần 7%.
3.2 Đề tài ứng họa:
Cùng với đề tài tống tiễn, ứng họa cũng là đề tài phổ biến trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX. Các giai đoạn trước cũng có thơ ứng họa tuy không được nhiều. Chỉ những giai đoạn nào có thêm các tao đàn thì đề tài ứng họa được phồn thịnh hơn: thời Lê Thánh Tông  (1442 - 1497) với tao đàn Nhị Thập Bát Tú, thời Tự Đức với tao đàn Mặc Vân. Đề tài ứng họa trong hai thời kỳ ấy rất phát triển.
Ứng họa có hai loại: loại các quan, các danh sĩ họa thơ với nhau gọi là họa thơ và loại thứ hai là họa thơ của vua gọi là ứng chế. Họa thơ cũng là một cái thú văn chương. Họa thơ nhằm để phục tài lẫn nhau và cùng biểu lộ sự tâm đầu ý hợp, hiểu nhau chia sẻ cho nhau. Cao Bá  Quát họa thơ có các bài: Thanh Minh nhật cảm tác họa Trần Ngộ Hiên; Trần Ngộ Hiên nhục hữu sở thị, Tẩu bút họa chi; Phụng họa kinh doãn Nguyễn Công thất thập thọ; Họa tham tán đại thần hành dinh thưởng cúc thập vịnh; Nhị thập tam dạ khãn nguyệt, Họa Phan Hành Phủ. Nguyễn Thông có bài Phụng họa Nguyễn Phạm nhị hiền “Gia Định cố thành” ký chi tác v.v...
Trong cái chung ấy, thơ Trương Đăng Quế cũng có nhiều bài họa thơ như: Phụng họa Thương Sơn Công kiến hoài nhị thủ nguyên vận kiêm thị triệu phong quận công; Phụng họa chỉ thiện chủ nhân hạ dạ thư hoài kiến thị nguyên vận ứng giáo...
Tự Đức là một ông vua nổi tiếng hay chữ nhất của triều Nguyễn. Ông thường làm thơ và bảo các quan họa lại - Vì thế thời kỳ này đề tài ứng họa, họa thơ vua (ứng chế) cũng rất phong phú. Các tập thơ của các tác gia ra đời trong giai đoạn này đều có thơ họa ứng chế như Giá viên Thi văn tập của Phạm Phú Thứ, Lương khê thi tập của Phan Thanh Giản, Tốn Phú thi văn tập của Hà Tôn Quyền. Trong 244 bài thơ ở Học văn dư tập, có 17 bài thơ ứng chế chiếm gần 7%.
3.3 Đề tài nhân vật lịch sử:
Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX, các tác gia hay đề cập các nhân vật lịch sử của nước Tàu và của nước ta. Điều đó cũng trở thành một xu hướng chung của thời bấy giờ. Nguyễn Du có các bài: Tỉ Can mộ, Tần Cối tượng, Lạn Tương Như cố lý; Hàm Đan tức sự; Hàn Tín giảng binh sứ v.v...
Tự Đức có cả một tập thơ Vịnh sử nước Việt (Ngự chế Việt sử tổng vịnh) 10 quyển in năm 1877. Cao Bá Quát có các bài Vịnh: Phù Đổng Thiên Vương, Vịnh Hưng Đạo Vương, Vịnh Chu An v.v... Tùng Thiện Vương có các bài: Mã Viện, Lý Quảng, Gia Cát Lượng, Phạm Tăng, Lý Tịnh, Đào Duy Từ. Trương Đăng Quế cũng có các bài: Độc Việt Sử ứng chế; Vịnh sử nhị thủ ứng chế; Hán cao tổ - Hán chiêu liệt đế; Hạng Vũ, Trương Lương; Giả nghị; Vịnh sử ứng chế: Gia Cát Lượng, Trương Tuần, Vũ Khiêm...
Có tổng cộng 35 bài viết về nhân vật lịch sử trong tổng số 244 bài của Học văn dư tập chiếm tỷ lệ 24%.
Chú thích:

[1] Một địa danh nằm sát đầu cầu Trà Khúc.
[2] Năm 1750 nhà thơ Đạm An Nguyễn Cư Trinh, tác giả tập thơ Nôm Sải vải, thời kỳ ở Quảng Ngãi có làm 10 bài thơ vịnh 10 cảnh đẹp của Quảng Ngãi là: Thiên Ấn niêm hà; Thiên Bút phê vân; Long đầu hí thủy; La Hà thạch trận; Liên trì dục nguyệt; Cổ Lũy cô thôn; Thạch Bích tà dương; Hà Nhai vãn độ; An Hải sa bàn; Vân phong túc võ; Thạch cơ điếu tẩu.
[3] Làng Tịnh Khê còn có tên là làng Mỹ Lại, tiếng nước ngoài không có dấu nên người ta đọc là Mỹ Lai. Vụ thảm sát Mỹ Lai (16-3-1968).
[4] Một làn điệu dân ca phổ biến ở Tịnh Khê.
[5] Tương truyền: Gia Long mời những quan chức cấp tỉnh của triều đại trước ra làm quan. Vì tư tưởng “trung thần bất sự nhị quân” nên tự xử chết.
[6] Quốc triều chánh biên toát yếu - Nhóm nghiên cứu sử địa Sài Gòn - 1972, trang 110.
[7] GS. Trần Văn Giàu - Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, NXB Khoa học Xã hội, 1987.
[8] Tuy Lý  Vương - Thần Đạo Bi Minh - Vỹ Dạ hiệp tập.
[9] Từ đây cho đến cuối sách ngoài những bài đã ghi rõ tên người dịch, còn lại không ghi tên, là của ông Trương Quang Gia dịch.

[10] Phạm Lam Anh tên là Khuê người huyện Diên Phúc, tỉnh Quảng Nam, con quan Cai Bộ Phạm Hữu Kính. Lam Anh là một nữ sĩ có danh, có tập thơ Chiến cổ đường còn truyền lại Trúc Khê - Báo Tri Tân số 112, năm 1943 - dẫn theo Tạp chí Văn học Sài Gòn số 150 ngày 1/7/1972, trang 9.
[11] Ưng Trình, Bửu Dưỡng - tác phẩm Tùng Thiện Vương Sđd, trang 75.
[12] Bài tựa của Trương Đăng Quế trong tập Học văn dư tập.
[13] Nguyên chú: Cô em gái thứ ba của Thương Sơn Công lấy chữ Khanh làm tự, nhà ở trước mặt bên hữu.
[14] Trúc Khê dịch, đăng báo Tri Tân, 1943 Sđd .
[15] Đại Nam chính biên liệt truyện, NXB Thuận Hóa, Huế 1993.
[16] Ngô Văn Chương - Phân tích những khuynh hướng tình cảm đạo lí xã hội trong thi ca Tùng Thện Vương, Sđd  trang 75.
[17] Trần Thanh Mại, Tác phẩm Tuy Lý Vương - Ưng Linh xuất bản, Huế 1938 - Dẫn theo Ngô Văn Chương, Sđd trang 64.
[18] Bản dịch của Trần Văn Giáp, NXB Văn hóa Hà Nội, 1961 - Dẫn theo Từ trong di sản - Nguyễn Minh Tấn chủ biên, NXB Tác phẩm mới, 1988 trang 100.
[19] Từ trong di sản, Sđd  trang 135.
[20] Bài tựa của Trương Đăng Quế trong tác phẩm Học văn dư tập.
[21] Từ trong di sản, Sđd trang 165.
[22] Bản khắc gỗ của Thương Sơn Công nhan đề “Kiếm thủ tập” Nguyễn Xuân Tảo dịch, Tài liệu của GS. Lê Trí Viễn.
[23] Từ trong di sản, Sđd  trang 139.
[24] Bài tựa của Trương Đăng Quế trong tác phẩm Học văn dư tập.
[25] Bài tựa của Trương Đăng Quế trong tác phẩm Học văn dư tập.
[26] Ông tự là Bá Quát, hiệu là Mai Phong người làng Phủ Lý huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông là học trò của Chu An, làm chức Thượng Thư Hữu Bật Nhập nội Hành Khiển đời Trần Minh Tông - Dẫn theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X đến thế kỷ XVII, NXB Văn học Hà Nội, 1976 trang 235.
3.4 Đề tài viết về đời thường
Đây là đề tài ít thấy trong văn học thời kỳ đầu trung đại. Đề tài con người trong văn học đầu kỳ trung đại là con người đạo lý, con người của tôn giáo. Con người đó được hòa tan trong cộng đồng. Nó trở thành con người đạo lý của cộng đồng dân tộc. Đạo lý là đạo lý yêu nước, chống giặc cứu dân.
Đến giai đoạn này, nói như giáo sư Lê Trí Viễn: “Tình hình đã đổi khác sâu sắc. Văn học bước vào hậu trung đại nghĩa là vẫn trung đại nhưng ở hậu kỳ. Vận mệnh đặt ra cho đất nước bức bách và nghiêm trọng bội phần là vận mệnh nhân dân. Con người của nghệ thuật đạo lý cộng đồng, của tôn giáo mờ nhạt đi, ngược lại đậm  nét con người hiện thực cuộc đời trước mắt, con người trần tục với khổ cực ngút ngàn và khao khát rát cháy, đòi cho được đôi chút quyền sống như một con người có ý thức về mình, được phép khẳng định mình là mình, là A chứ không phải là B, càng không phải toàn cộng  đồng một cách trừu tượng” [1].
Văn học của hậu kỳ trung đại chú trọng vào “những điều trông thấy” hơn là nhưng điều  trừu tượng. Thơ Mặc Vân viết về những con người đời thường rất nhiều. Miên Thẩm chứng kiến cảnh một người nhà nghèo đói khát không có cơm ăn, lạnh rét không có áo mặc trong khi ấy những gia đình giàu có tha hồ ăn uống sung sướng.
BẦN GIA
Tân khổ bần gia tử
Niên niên bàn phục cơ
Hiệu trường sơ thế phạn
Đống cốt hỏa vi y
Biến địa do binh giáp
Mấn hiên thả tật uy
Chu môn lạc hà sự?  
Dạ ẩm liên triêu huy
Dịch:
NHÀ NGHÈO
Cay đắng phận nhà nghèo
Năm năm rét rồi đói
Ruột rỗng rau thay cơm
Xương lạnh lửa làm áo
Khắp chốn còn binh đao
Trời ghét gieo tai vạ
Cửa son vui việc gì
Thâu đêm liền tiệc rượu [2]
Huệ Phố viết Điền gia từ (Lời nhà nông) có câu:
Lục nguyệt khổ hạn miêu bất phì
Điền gia phan khứu hần vô xuy
Dịch:
“Tháng sáu lúa gầy trời hạn to
Nhà nông ăn sáng bát cơm khô” [3] 
Trong Học văn dư tập, Trương Đăng Quế viết về đề tài đời thường rất nhiều. Trong bài “Khí phụ từ”, ông viết về lời người vợ bị chồng bỏ:
Kim triêu nhan sắc suy
Quân hành đa khả nghi
Dục ngôn bất khả đắc
Tương kiến chung vô kỳ
Dịch:
Nhan sắc sớm suy vong
Lang quân dạ trái ngang
Nói ra dường ngập ngọng
Hẹn đâu thêm bẽ bàng
Một đêm tối, trời mưa, thấy một cô gái còn đi lang thang bên dòng sông, ông xúc cảm viết bài:
XUÂN GIANG KHÚC
Tạc dạ vũ thủy hạ
Xuân giang vi lãng sanh
Thiếp tâm sở hữu cảm
Diên ngạn tự vi hành
Dịch:
BÀI CA SÔNG XUÂN
Đêm qua có mưa nhỏ
Lòng sông sóng gợn mờ
Lòng em xao xuyến bấy
Ven sông bước bước hờ
(Lê Kỉnh dịch)
Ông viết về những cô gái ở chốn thanh lâu:
Nhân sinh kỷ thời hảo
Nhan sắc khí trí lão
Đại chung đồ nhiên
(Thanh lâu oán) 
Dịch:
Ngày xuân phỏng được bao nhiêu
Má hồng thoáng chốc tiêu điều già nua
Trò đời lắm nỗi gió mưa
(Hận lầu xanh)                                                                                         
Ông viết về cảnh gia đình, nhà cửa, con cháu của mình, một cách rất chân thực và đời thường. Trong bài Ký tứ tuế nhi bỉnh, tác giả kể việc gởi bánh cho con:
Từ gia vị nhất nguyệt
Niệm nhữ khổ bất tứ
Ký hồi sổ mai bỉnh
Lạc hạ kỷ điểm lệ
Dịch:
Gần một tháng xa nhà
Nhớ con lòng xót xa
Gởi về vài chiếc bánh
Mà đôi lòng lệ sa! 
(Huỳnh Châu dịch)
Về cảnh sống của người anh, ông viết:
Ngô huynh phương tại gia
Giáo sắc đồng bộc canh
Điệt nhi tại kỳ bàng
Hi hí giao tung hoành
(Xuân nhật thư hoài) 
Dịch: Ngày xuân hoài cảm
Anh ta nay ở quê nhà
Dạy con cùng bộc đi ra ruộng cày
Bên cạnh cháu nhỏ hay hay
Chạy ngang chạy dọc múa may hát cười
(Huỳnh Châu dịch) 
Ông khóc anh rể chết:
Tha hương khổ vũ tam thu dạ
Cố địa tân phần sổ xích bi
Cao nghĩa như công, kim hữu kỷ
Lệnh nhân cảm thán bội thê kỳ
(Khốc tỷ phu Bùi phủ Lễ Sanh Diệu) 
Dịch:
Đêm mưa đất  khách ba thu khổ
Bia mộ bên nhà mấy thước cao
Nặng nghĩa như anh giờ được mấy
Khiến ai thương tiếc nặng u sầu
Ông viết về em chết, cháu chết:
Mẫu lão huynh hàn gia hựu bần
Muội sanh vị đắc nhất triêu thân
Thương tâm tử biệt hà thời liễu
Phong vũ tam thu bộ thảng thần     
(Khốc muội) 
Dịch:
Mẹ già anh khổ cảnh thêm nghèo
Thư thả thân em chửa sớm chiều
Vĩnh biệt khôn nguôi lòng tiếc nuối
Ba thu mưa gió nặng eo sèo
Ông khóc cháu chết:
Nhữ khứ tương an quy
Thân lão tử hựu ấu
Khổ huống phân nan chi
Niệm cập tồi tâm can
Sảng nhiên hữu dư bi
(Khốc huynh tử Hàn Lâm Tu Soạn Đăng Trinh) 
Dịch:
Cháu đi về làm sao
Cha mẹ già con nhỏ
Đau khổ biết nhường nào
Nghĩ đến lòng chua xót
Trời xanh ơi tại sao
(Huỳnh Châu dịch)   
3.5 Đề tài thời sự:        

Từ khoảng giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, các nhà thơ Mặc Vân còn có chung một đề tài nữa là thời sự. Pháp đánh chiếm Cần Giuộc ngày 14-12-1861. Hai ngày sau nghĩa binh nổi lên đánh Pháp có 27 người tử thương. Đỗ Quang và Bùi Quang Diệu làm lễ truy điệu. Nguyễn Đình Chiểu sáng tác và đọc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc tại buổi lễ đó. Bài văn này truyền đến các nhà thơ trong nhóm Mặc Vân. Nhiều người đọc bài văn tế và cảm xúc làm nên các bài thơ như: Độc điếu nghĩa dân tử trận văn của Mai Am; Độc Nguyễn Đình Chiểu điếu nghĩa dân trận tử quốc ngữ văn của Miên Thẩm. Phạm Phú Thứ cũng viết:
Nam cố vu thân lự
Tây chinh kỷ nhật hưu
(Tống Hồng Lô tự khanh Đỗ La Phong vãng Nam Kỳ) 
Dịch:
Nhìn về Nam khôn khuây
Bao giờ hết giặc Tây [4]
Trương Đăng Quế cũng viết:
Truyền văn liêu hải thú
Tuế mộ phục Nam chinh
(Đảo y) 
Dịch:
Nghe phỏng biển xa đoàn thú trước
Tàn năm về lại cả Nam phương
4. Thể thơ:         
Giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, các thể thơ được sử dụng phổ biến như: nhạc phủ, tứ ngôn, ngũ cổ, thất cổ, ngũ ngôn luật, ngũ ngôn bài luật, thất ngôn luật, ngũ ngôn tuyệt, thất ngôn tuyệt, hành. Có tất cả 10 thể thơ kể trên thường được sử dụng nhất. Trong 202 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du (gồm cả 3 tập: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục) được Nhà xuất bản Văn học Hà Nội in năm 1988, chúng tôi thống kê lại và thấy: Ngũ cổ: 6 bài, Thất cổ: 5 bài; Ngũ ngôn luật 31 bài, Thất ngôn luật: 167 bài, Ngũ ngôn tuyệt: 5 bài, Thất ngôn tuyệt: 25 bài, Hành: 15 bài. Trong 244 bài thơ chữ Hán của Trương Đăng Quế in trong Học văn dư tập, chúng tôi thấy: Nhạc phủ: 5 bài; Tứ ngôn: 1 bài; Ngũ cổ: 28 bài; Thất cổ: 2 bài; Ngũ ngôn luật: 53 bài; Ngũ ngôn bài luật: 8 bài; Thất ngôn luật: 76 bài; Ngũ ngôn tuyệt: 4 bài; Thất ngôn tuyệt: 65 bài; Tứ thời cung từ: 2 bài.
Trong số thể thơ thông dụng kể trên có hai thể thơ được sử dụng nhiều nhất là Thất ngôn luật (Nguyễn Du: 167 bài chiếm tỷ lệ 82%; Trương Đăng Quế: 76 bài chiếm tỷ lệ 31%); Ngũ ngôn luật (Nguyễn Du: 31 bài chiếm tỷ lệ 15%; Trương Đăng Quế 53 bài: chiếm tỷ lệ 22%); Thất ngôn tuyệt (Nguyễn Du: 25 bài chiếm tỷ lệ 12%; Trương Đăng Quế: 65 bài chiếm tỷ lệ 27%).
Chúng ta thấy thể thơ trong giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX vẫn là thể thơ cũ của thời trung đại nhưng cái khác ở đây là các nhà thơ dùng cổ thể, nhạc phủ rất nhiều. Chúng ta có thể lý giải được vì sao như thế. Đây là thời văn học trung đại nhưng nói chính xác nó đã thuộc hậu kỳ trung đại, tư tưởng tình cảm của người sáng tác đã có chiều hướng phát triển phóng khoáng hơn trước nên họ cần các thể thơ tự do để thể hiện nó.
5. Ngôn ngữ thơ
5.1 Từ ngữ
5.1a Điển cố:

Thời kỳ đầu của văn học trung đại, các tác gia dùng rất nhiều điển cố và thuật ngữ của Nho, Phật, Lão. Đến nửa đầu thế kỷ XIX, bên cạnh một số nhà thơ vẫn còn ưa chuộng điển cố như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Nguyễn Thông v.v... Tập thơ của Tùng Thiện Vương (Nxb Thuận Hóa năm 1994) có 100 bài thì số bài dùng điển cố là: 73 chiếm tỷ lệ: 73%. Thơ Nguyễn Thông (Sở VHTT Long An xuất bản 1984) có 78 bài thì số bài dùng điển cố là 36 chiếm tỷ lệ 46%. Ta thấy đã có một số nhà thơ bắt đầu ít dùng điển cố như Nguyễn Công Trứ, Trương Đăng Quế... Tập thơ Học văn dư tập có 244 bài thì số bài có dùng điển cố là: 22 bài (không kể các bài vịnh các nhân vật lịch sử)  chiếm tỷ lệ: 9%.
5.1b Sử dụng từ “ngã” (tôi) biểu thị cái tôi trữ tình
Văn học thời kỳ đầu trung đại là văn học mang tính phi ngã. Bấy giờ cái tôi cá nhân chưa được khẳng định. Con người cá nhân bị che lấp bởi con người đạo lý, con người tôn giáo. Điều đó cũng dễ hiểu thời bấy giờ vận mệnh của đất nước, dân tộc được đặt lên hàng đầu bởi công việc bức bách và nghiêm trọng của dân tộc là bảo vệ lãnh thổ đất nước. Cho nên con người trong văn học bấy giờ là con người của cộng đồng dân tộc với đạo lý yêu nước, chống giặc cứu dân. Đến giai đoạn sau nhất là từ giữa thế kỷ XVIII trở đi con người cá nhân bắt đầu xuất hiện. Ý thức cái tôi cá nhân định hình và bắt đầu “cựa quậy” (Chữ dùng của Gs. Nguyễn Đăng Mạnh, SGK văn học 11 trang 80) như Phạm Thái, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương v.v.. Hồ Xuân Hương đã từng viết:
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
hay:   
Này này chị bảo cho mà biết
Càng về sau ý thức cá nhân được thể hiện trong thơ càng rõ nét hơn như thơ của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát v.v...
Trong thơ Trương Đăng Quế ta thấy chữ “ngã” (tôi) xuất hiện tới 50 lần trên tổng số 244 bài của tập thơ Học văn dư tập chiếm tỷ lệ 20%.
Ý thức cái tôi cá nhân của thời kỳ hậu trung đại là tiền đề cho văn học thời hiện đại phát triển. Cái tôi cá nhân, cá thể xuất hiện đầy đủ, được giải phóng ra khỏi hệ thống ước lệ khắt khe.
5.2 Về hình tượng
5.2.a Con người
Văn học thời kỳ đầu trung đại (Lý - Trần) chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo nên hình tượng con người trong văn học cũng ảnh hưởng theo tư tưởng triết lý thiền của Phật giáo. Hình tượng con người được khám phá bất ngờ và thú vị qua nhiều bức tranh khác nhau về cuộc sống, qua một tiếng chuông, một mặt hồ yên lặng mát mẻ, một khoảng đất thơm ngát hoa thông hay một câu nói khôi hài hóm hỉnh... Con người tự do với một tinh thần phá chấp triệt để, không vướng mắc vào giáo lý kinh điển vào cái “có” và cả cái “không”. Mạnh mẽ và triệt để hơn cả là Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung với lời cảnh tỉnh mọi người: “Phật và chúng sinh đều có một bộ mặt, đều là mày ngang mũi dọc mà thôi” (Phàm thánh bất dị). Cho nên “Chẳng cần lễ Phật, cũng chẳng cần lễ Tổ” (Tụng Cổ - Tuệ Trung) không cần phải trì giới và nhẫn nhục vì “trì giới và nhẫn nhục” chỉ “rước tội chẳng rước phúc” (Trì giới kiêm nhẫn nhục - Tuệ Trung) [5].
Đến đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn lấy tư tưởng Nho giáo làm chính nên hình tượng con người trong văn học ảnh hưởng theo tư tưởng Nho giáo. Đó là con người rập theo khuôn mẫu xuất xử hành tàng theo Nho giáo. Con người luôn luôn giữ đúng năm mối quan hệ (ngũ luân): quân thần (vua tôi), phu phụ (vợ chồng), phụ tử (cha con), huynh đệ (anh em), bằng hữu (bạn bè). Ở Nguyễn Công Trứ con người của “Vòng trời đất dọc ngang  ngang dọc - Nợ tang bồng vay trả trả vay”. Một con người sẵn sàng đè bẹp tất cả  những người anh hùng khác nhưng với đấng quân vương thì ông phải đội trên đầu “Ba vạn anh hùng đè xuống dưới - Chín tầng thiên tử đội lên trên”. Thơ Trương Đăng Quế cũng vậy, ngoài một vài bài chịu ảnh hưởng của tư tưỏng Phật giáo, còn lại hầu hết hình tượng con người trong thơ là con người của Nho giáo. Đối với đấng quân vương ông hết lòng trung thành, với vợ một mực chung thủy, với con cháu hết sức thương yêu, với anh em hết lòng kính mến và đối với bạn bè ông thể hiện tấm lòng chân thật chí tình. Thơ Trương Đăng Quế biểu hiện con người cá nhân và con người bổn phận hòa hợp nhuần nhuyễn. Chính điều đó làm nên chất trữ tình thấm thía trong thơ ông.
5.2b Thiên nhiên  
Thời kỳ đầu trung đại (thơ Lý - Trần) thiên nhiên được nhìn qua lăng kính của đạo thiền. Sự vật không như cái vốn có của nó mà nó luôn luôn biến đổi đan xen giữa hư và ảo, giữa thực và giả, giữa động và tĩnh. Người ta lấy thiên nhiên như là một cái cớ, một phương tiện để biểu thị một mục đích khác. Mãn Giác thiền sư bị bệnh trước khi mất, ngài làm bài kệ trong đó có câu:
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước  một cành mai
(Có bệnh bảo mọi người)
Thoạt nhìn nó là cảnh nhưng ngẫm nghĩ nó là cảm hứng thiền. Câu thơ chứa đựng cả một triết lý thiền tông. Cuộc đời là dòng biến hóa vô thường vô định có sinh, có diệt, có trụ, có vong.
Đến đầu thế kỷ XIX thiên nhiên được con người cảm nhận một cách trực tiếp. Thiên nhiên của con người đời thường rất rõ nét. Trương Đăng Quế viết:
Quy nhàn tư đệ giác cân tà
Trụy diệp kinh thu cảm tuế hoa
Dĩ tức biên đình trù chiến lược
Bất phường điền dã kiết thông gia
Dinh trù lạc đỗ tăng trường ốc
Cận hải sầu văn quát địa sa
Độc ỷ gia âm tần bắc vọng
Điều điều khuyết ải mộ vân già
(Phụng họa Thương Sơn Công Kiến hoài nhị thủ nguyên vận kiêm thị Triệu Phong quận công) 
Dịch:
Khăn nghiêng mái cũ rảnh rang mà
Lá rụng e thu tuổi xót xa
Đã trọn biên cương trù chiến lược
Chẳng hiềm thô lậu kết thông gia
Ruộng tràn vui thú kho đầy lúa
Biển giáp buồn nghe cát sóng pha
Riêng dựa bóng dừa trông hướng bắc
Kinh thành khuất nẻo ánh mây tà
(Phụng họa hai bài Kiến hoài của Thương Sơn Công đồng gởi Triệu Phong quận công)
Để tả thiên nhiên, ông cũng dùng các thi liệu quen thuộc như: mây, gió, trăng, hoa, núi, rừng, sông, bể v.v… Duy chỉ có điều thơ Trương Đăng Quế nêu lên hình tượng cây dừa rất quen thuộc (Độc ỷ gia âm). Đây là hình tượng mà thơ xưa trước ông, chưa từng nêu.  

Một điều nữa thơ Trương Đăng Quế cảm hứng cảnh vật bao giờ cũng đi kèm với con người. Trong bài Thôn  khuê, tác giả viết:
Thôn khuê tiểu nhi nữ
Sanh lai vị thức tình
Văn nhân đạo thu chí
Tương dữ cấm sầu sanh
Dịch:
BUỒNG QUÊ
Gái bé nơi buồng quê
Duyên tình nào đã hiểu
Vẳng ai báo thu về
Hồn lẻ loi nặng trĩu
Bài thơ mang cả thu cảnh và thu tâm, thu cảnh thì ít mà thu tâm thì nhiều. Cô gái trong bài cũng biết buồn trước cảnh thu sang. Đây là một nét rất mới. Đọc bài thơ chúng ta thấy ý thơ có khác gì Thơ mới của Xuân Diệu - nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới: 
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?  
(Đây mùa thu tới - Xuân Diệu)
Về quan điểm, đề tài, ngôn ngữ, thể thơ, thơ Trương Đăng Quế vừa mang đặc tính chung của thơ tao đàn Mặc Vân: Thơ phải xuất phát  chỗ tự nhiên và cốt là ở tính tình mà ra; đề tài thơ bao gồm tống tiễn, ứng họa, vịnh các nhân vật lịch sử và đề tài viết về đời thường, vừa mang đặc điểm riêng, lời thơ chân chất, giản dị mộc mạc nhưng hàm súc cao; hình tượng thơ gần gũi quen thuộc.
CHƯƠNG III
THƠ HỌC VĂN DƯ TẬP
                                                            
1. Thơ Học văn dư tập biểu hiện tấm lòng trung quân ái quốc
Tập thơ Học văn dư tập được Mặc Vân Sào tàng bản khắc in năm Tự Đức thứ mười Đinh Tỵ 1857. Thơ Học văn dư tập được sáng tác ở giai đoạn truớc khi thực dân Pháp xâm lược. Vì vậy ta mới hiểu vì sao thơ Học văn dư tập ít đề cập đến thời sự và tác giả sao không bộc lộ lòng yêu nước bằng cách căm thù và tố cáo tội ác của giặc. Căn cứ vào nhan đề và nội dung của từng bài thơ, ta có thể nói  thơ trong Học văn dư tập được sáng tác từ trước khi tác giả thi đỗ Hương Tiến (1819) đến năm in tập sách (1857). Đây là khoảng thời gian  trị vì của các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và mười năm đầu Tự Đức và được xem là thời kỳ tương đối ổn định của triều Nguyễn. Bằng con đường khoa cử, các sĩ tử trong nước cố dùi mài kinh sử để thi đỗ ra làm quan phò vua giúp nước. Nguyễn Công Trứ, tiếng nói của thế hệ thời ấy cho rằng: “Không công danh thà nát với cỏ cây”. Do hạn chế của thời đại, người ta gắn liền khái niệm trung quân với ái quốc. Hễ trung với vua tức là yêu nước. Trương Đăng Quế ngày đêm cũng canh cánh bên lòng mong báo đáp ơn vua:
Đa bệnh vi khu hoạch sở cầu
Nguyện ca Nam Sơn nhã vận thù
(Nhân sâm ca ứng chế)
Dịch:           
Nỗi già bệnh hoạn bâng khuâng
Nguyện ngâm nga khúc Nam Sơn đáp đền
Và:                                                                                         
Tam triều ân ngộ như nhất nhật
(Cung họa ngự chế thực chi ca)                
Dịch:                                                                                    
Ba triều tri ngộ trước in sau
Luyến chúa lòng son chẳng đổi màu
Vì trung thành với đấng quân vương nên tác giả thể hiện nỗi căm ghét những bọn tôi loàn phản vua hại nước. Sau biến cố Lê Văn Khôi nổi dậy chiếm thành Phiên An (1833). Ông được cử đi kinh lý Nam Kỳ để lo chấn chỉnh bộ máy chính quyền địa phương và nhân dân. Nhân lúc bước lên thành Phiên An tiên sinh cảm xúc viết nên bài thơ Đăng nguyên Phiên An thành hữu cảm trong đó ông cũng bày tỏ thái độ căm giận kẻ tôi loàn gây rối Lê Văn Khôi:
Khả hận dung thần đa ngộ quốc
Truy tư vâng sự kỷ đê hồi
Dịch:                                                           
Giận bầy tôi loàn gây nạn nước
Chuyện qua ngẫm lại ý còn vương  
Tiên sinh còn lên án các quyền thần gian ác lấn  quyền và cướp ngôi vua như Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly, Mạc Đăng Dung, Chúa Trịnh... Trong bài Độc Việt sử ứng chế, nói  về Trần Thủ Độ, Mạc Đăng Dung, tác giả viết “Thủ Độ chân tặc thần”, “Mạc thị thừa thử thời”. Bên cạnh việc mạt sát bọn quyền thần gian ác, ông cũng hết lòng ca ngợi những đấng minh quân như Lý Thánh Tôn, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông và các vị tôi  hiền  như Lê Phụng Hiểu, Tô Hiến Thành...
Trong cương vị chức trách một ông quan, lúc nào tiên sinh cũng nghĩ đến đất nước nhân dân. Khi vào Nam, lúc ra Bắc khắp mọi miền đất nước, nơi đâu ông cũng hoàn thành xuất sắc công việc. Phải nói nếu không có lòng  yêu đất nước làm sao ông có thể hoàn thành các công việc được giao ấy. Nhận định về chuyến kinh lý Nam Kỳ năm 1836  của Trương Đăng Quế, Gs. Trần Văn Giàu có viết: “Cuộc kinh lý 1836 đã giải quyết những việc như duyệt dân, tuyển lính, thanh lọc hàng ngũ quan lại, xếp đặt thể lệ chuyển vận đường sông, chia cắt lại đơn vị hành chính, xếp đặt lính tráng bố phòng những đồn bảo trọng yếu, định lệ thưởng phạt trong việc khai hoang, lập ấp v.v... Song kết quả đáng kể hơn hết là lập được đinh bạ và địa bạ cho mỗi thôn xã ở Nam Kỳ, đối với nhà nước đỡ trốn xâu lậu thuế hay lẫn vào bưng biền để tụ tập khởi loạn, đối với xã hội thì bờ cõi đã đúng, kẻ giàu không được bá chiếm, người nghèo đều có tư sản. cách làm sổ bộ khá chính xác, sau này người Pháp cũng thán phục nhất là địa bạ, có trường hợp đến đầu thế kỷ XX họ vẫn lấy đó làm căn cứ để giải quyết các vụ tranh chấp ruộng đất” (Địa chí văn hóa  thành phố Hồ Chí Minh, trang 213). Tình cảm yêu nước luôn luôn túc trực trong ông. Lúc nào ông cũng tâm niệm dốc lòng yêu nước thương dân. Trong bài “Đắc chỉ qui tỉnh trùng mông sủng dĩ ngự thi chuẩn kỳ họa tiến cung thứ vận”, ông cũng đã từng thố lộ:
Phụng quốc nhất tâm thường tỉnh nguyệt
Ưu dân lưỡng mấn dĩ thành sương
(Giúp nước trăng soi lòng thắm thiết
Thương dân sương nhuộm tóc long lanh)
Trong lúc còn tại chức, được phép về thăm nhà, tiên sinh vẫn giữ nếp sống như xưa trong ngôi nhà tranh vách đấu thuở nào. Ông vẫn tự hào và thường nói với con cháu rằng: “Nếu muốn có lâu đài  thì ta đã đi làm nghề khác” [6]. Và bài “Trung thu cảm sự” được sáng tác trong dịp này [7] ông cũng viết:
Cố quận tư lân vô biệt nghiệp
Thử sinh nguyên dĩ hứa vi thần
Dịch:    
Về làng chẳng có cơ đồ sẵn
Giúp nước không màng lợi lộc riêng
(Ưng Trình dịch) 
Nhiều khi công việc quá bận rộn, mà sức khỏe lại yếu, ông cũng ước ao được sống cuộc sống của Đào Bành Trạch hay ông ngư, ông tiều. Trong bài Thu dạ ông viết:
Thương ôi hà xứ khởi
Lưu hưởng nhập song tần
Sự di mang trung thác
Tình thùy đạm lý thân
Vân như khi nguyệt sấu
Hoa diệc yếm thu bần                                                   
Thán tức Sài Tang viễn [8]
Hy văn thương cúc nhân
Dịch:
Gió vàng len đâu đó
Rên rỉ gọi song ngoài
Bối rối làm việc lớn
Trong lành kết cùng ai
Mây nhìn trăng vàng võ
Hoa ngán thu lạc loài
Diệu vợi Sài Tang  hỡi
Cúc thưa người đoái hoài
Trong bài “Ngư”, ông viết:                                                                           
Thế sự vô đa lự
Tương ngư hoán tửu ẩm
Hạ lạp du nhiên khứ
Dịch:
Trò đời chẳng bợn tâm can
Cá đổi rượu say túy lúy
Nón tơi nhẹ bước thênh thang

Ông đã từng ao ước có được một cuộc sống thanh thản như Đào Bành Trạch nhưng ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc nhân dân không cho phép ông từ bỏ công việc được:
Xước nhỉ hữu chân thú
Du nhiên vô tục tâm
Tư thù lương đống dụng
Vị tiện ngữ u tầm
(Phú  Đắc Nham huyệt vô kiết cấu ứng chế) 
Dịch:
Nhàn nhã bấy lâu chứa chan thú vị
Lòng lâng lâng tục lụy xa vời
Đống lương thân trót lo đời
Chưa đành tìm chốn thảnh thơi riêng mình
Do bị chi phối bởi tư tưởng trung quân nên cách đánh giá của ông về các nhân vật lịch sử như Hồ Quý Ly, Lê Văn Khôi là chưa được thỏa đáng. Tuy nhiên cái cốt lõi làm nên giá trị của tư tưởng trung quân ái quốc trong thơ tiên sinh là tấm lòng ưu ái lo cho dân cho nước.
2. Tình yêu thiên nhiên đất nước, quê hương
Mặc dù bận trăm công nghìn việc, nhưng ông vẫn dành thì giờ để viếng thăm và thưởng ngoạn. Đi kinh lược Nam Kỳ, ông tìm đến tận các nơi thắng tích để vui cảnh núi sông. Đến thăm Hà Tiên, miền cực Nam của Tổ quốc, ông có bài:    
HÀ TIÊN
Diếu diếu yên ba sạ hữu vô
Bách niên tiền thị Mạc công  đô
Đại cư Hải kiếu quần sơn thốc
Nhân tụ hà châu nhất huyện cô
Kim Dự, Phù Dung dư sự tích
Đông Hồ, Nam Phố tiểu quy mô
Sanh thuyền lịch lãm xuyên nguyên thắng
Khước ức Lư Khê cựu điếu đồ
Dịch:          
HÀ TIÊN
Mơ màng khói sóng có rồi không
Thành quách trăm năm dấu Mạc công
Ven biển xa xuôi ngàn tiếp núi
Dân lành sum họp huyện ven sông
Phù Dung Kim Dự còn lưu vết
Nam Phố Đông Hồ nhuốm rêu phong
Thuyền lướt sông dài vui thắng cảnh
Lư Khê chạnh tưởng bóng ngư ông
Tác giả tả cảnh đẹp Hà Tiên từ xa nhìn tới. Toàn cảnh Hà Tiên ẩn hiện dưới màn sương khói thật huyền ảo. Hình ảnh “diếu diếu yên ba” vừa có nghĩa tả thực vừa có nghĩa biểu tượng cho sương mờ dĩ vãng. Tác giả cảm nhận vẻ đẹp của Hà Tiên với cái thực trước mắt là vẻ đẹp của núi non và con người. Đồng thời thi nhân cũng lùi về lại dĩ vãng để cảm nhận Hà Tiên trong vẻ đẹp quá khứ của nó. Đối với tiên sinh, Hà Tiên còn nhắc khách thưởng lãm nhớ đến sự nghiệp công lao và câu chuyện tình của Mạc Thiên Tích. Ngày xưa, Mạc Thiên Tích đã có công xây dựng Hà Tiên. Ông biến đảo Hòn Dự thành một pháo đài quân sự kiên cố nhằm bảo vệ mảnh đất quê hương. Bên cạnh sự nghiệp võ công đầy hiển hách, ông còn có câu chuyện tình cảm động. Thời Mạc Thiên Tích có hai cha con từ miền Bắc vào ở lánh nạn, người cha mở trường dạy học còn cô gái ngày ngày lo việc nhà. Bấy giờ Mạc công có mở Chiêu Anh Các để  những đêm trăng chủ khách cùng nhau ngâm vịnh. Cô gái mặc đồ giả trai và thường theo cha vào dự. Thấy vẻ đẹp khác thường, Mạc Thiên Tích sinh nghi bèn để ý rồi xin cưới cô làm vợ. Hai người rất yêu quí nhau. Nhân có kỳ thao diễn quân sự, người vợ lớn giả vờ lấy cớ bị bịnh ở nhà, không theo chồng đi diễn tập. Buổi thao diễn nửa chừng gặp mưa to nên nghỉ. Đồng thời, Mạc công cảm thấy nóng ruột nên về nhà ngay. Đến nhà, thấy trời đang mưa mà các cái vạc lại úp xuống, ông bèn lật ngửa lên. Không ngờ, ông phát hiện người vợ trẻ bị vợ lớn ghen, hãm hại suýt chết trong đó. Sau lần ấy cô gái xuống tóc đi tu. Mạc Thiên Tích không cản ngăn được, bèn xây dựng cho nàng ngôi chùa. Vì thế từ vẻ đẹp hiện thực trước mắt tác giả lui về với dĩ vãng, một mặt nói chuyện quân sự, một mặt đề cập đến câu chuyện tình để tỏ lòng cảm kích, tự hào và thông cảm.
Đến Biên Hòa, ông ghé thăm chùa Bảo Phong, còn gọi là Bửu Phong - một ngôi chùa cổ có cảnh đẹp nổi tiếng, tọa lạc trên núi Bửu Long thuộc địa phận Biên Hòa tỉnh Đồng Nai. Hiện nay tỉnh Đồng Nai đã quy hoạch nơi đây thành một khu du lịch trong đó có chùa Bửu Phong. Các chi tiết được tiên sinh đề cập trong thơ, ngày nay  hãy còn. Ngoài ra, người ta cho đào vét thêm chung quanh để du khách có thể đi bằng thuyền ngắm cảnh:
DU BẢO PHONG TỰ
Bảo Phong danh tự trĩ
Thừa hứng ngẫu lại du
Tịnh thổ đình trì huýnh
Tùng lâm thảo thụ u
Phan nhai đăng cổ tháp
Ỷ thạch vong tình lưu
Biệt hữu quan  tình xứ
Y y Nam Phố đầu
Dịch:
VIẾNG CHÙA BẢO PHONG
Bảo Phong chùa đẹp dựa sườn non
Thừa hứng sang chơi rẽ lối mòn
Đất phẳng nhà ao dài lớp lớp
Rừng nguyên cây cỏ rậm muôn muôn
Men bờ lên tháp xưa sừng sững
Tựa đá nhìn sông tạnh nối nguồn
Dạ luống ngẩn ngơ người cảnh cũ
Mờ mờ Nam Phố dáng chon von

Đến Thanh Hóa công tác tiên sinh tìm đến động Hồ Công thuộc xã Thọ Vực, huyện Vĩnh Lộc để xem cảnh thiên nhiên. Trong động Hồ Công có hai tượng đá tương truyền ngày trước có một ông già dắt chú tiểu đồng đi hái thuốc đến nghỉ ở hang này rồi mất dạng. Thời bấy giờ cho là Phí Trưởng Phòng đã hiện thân tới đó nên dân gian khắc tượng để thờ. Phí Trưởng Phòng người quê ở Nhữ Nam đời Đông Hán coi việc sắp xếp  trật tự ở chợ. Một hôm thấy người bán thuốc có phép lạ, ông bèn khẩn nài xin học đạo. Phí Trưởng Phòng theo ông già vào núi học đạo, nhưng không thành đành phải trở về. Khi về ông già cho Phí Trưởng Phòng cây gậy trúc và các đạo bùa để sai khiến quỷ thần. Nhờ có gậy trúc và các đạo bùa Phí Trưởng  Phòng điều khiển lũ quỷ thần theo ý mình. Về sau Phí Trưởng Phòng làm mất bùa bị  lũ ma quỷ giết chết. Tác giả đến thăm động và viết bài:
Dịch:
ĐỀ HỒ CÔNG ĐỘNG
Sổ điểm tình phong tỏa đam yên
Hồ trung thế giới tự y nhiên
Hà niên bích động thê thần tích
Thử nhật thạnh hài ngộ túc duyên
Hồng Đức thánh quân ưng đắc đạo
Trưởng Phòng phàm cốt vị thành tiên
Ái Châu danh thắng tùng xưng tối
Bán nhập kỳ tình lãnh lược biên
Dịch:
ĐỀ ĐỘNG HỒ CÔNG
Khói nhạt mờ che mấy đỉnh non
Hồ ôm thế giới mãi chon von
Năm nao động bích ghi thần tích
Ngày ấy hài xanh ngụ duyên son
Hồng Đức vua lành yên mối đạo
Trưởng Phòng tiên cách luyện chưa tròn
Tình vương kinh lược vui danh thắng
Châu Ái kỳ quan dậy tiếng đồn
Tiên sinh đến thăm động trong một tư thế kính cẩn nghiêng mình, thưởng thức cảnh vật và sống lại nhưng giây phút hoài niệm trong thế giới xa xăm thần tiên sự tích.
Ông cho rằng mình có được cái duyên may đến đây để ngắm cảnh nơi ngày trước vua Lê Thánh Tông cũng đã từng đến đây ngắm cảnh đề thơ. Cái lạ của bài thơ, tác giả nói về Phí Trưởng Phòng nhưng cũng chính là nói về mình. Đến với cảnh tiên siêu thoát nhưng tác giả còn phàm cốt nên không sao đắc đạo được, chỉ có Lê Thánh Tông đáng được coi là đắc đạo “Hồng Đức thánh quân ưng đắc đạo - Trưởng Phòng phàm cốt vị thành tiên”. Thoạt nhìn ta có cảm tưởng các chi tiết đề cập trong bài thơ như có vẻ rời rạc nhưng nhìn chung lại, ông nói Phí Trưởng Phòng, Lê Thánh Tông hay về mình cũng chỉ là để ca ngợi và nói lên cảm xúc trước vẻ đẹp siêu thoát của động Hồ Công.
Trong lần lãnh nhiệm vụ đi đánh dẹp bọn phỉ ở núi rừng Thanh Hóa, giữa lúc đang chỉ huy cuộc chiến, gặp dip ông vẫn dành một ít thời gian để thưởng lãm cảnh:
Chu bạc Kim Sơn tân thứ
Ỷ trạo tằng nhai hạ
Lâm lưu tủng thắng quan
Thanh phong sơn nhất giác
Minh nguyệt thọ thiên bàn
Trích lậu thôi canh hưởng
Minh sa kích thủy thoan
Thông thông qua giáp lý
Thừa hứng tạm bằng lan
Dịch:
Ghé thuyền bến đò Kim Sơn
Gành vắng từng cao gác mái chèo
Nước soi cảnh đẹp lặng nhìn theo
Núi nhô cợt gió tràn hơi mát
Cây tỏa đùa trăng loáng bóng gieo
Canh chuyển giọt đồng ngân tiếng giục
Nước chao bờ cát giựt mình reo
Vội vàng giữa chốn chen gươm giáo
Thừa hứng nương lan mặc hiểm nghèo
Tiên sinh thưởng thức thiên nhiên rất khác lạ. Thông thường người ta chỉ có thể thưởng thức thiên nhiên khi tâm hồn yên ả, thanh nhàn. Còn với ông thì khác, ngay giữa cảnh chiến trường gươm giáo, vẫn thưởng thức thiên nhiên “vội vàng giữa chốn chen gươm giáo? Thừa hứng nương lan mặc hiểm nghèo”. Điều này cho thấy giữa tác giả và Hồ Chí Minh có phần giống nhau. Hồ Chủ Tịch giữa lúc đang chỉ đạo cuộc chiến chống Pháp, có dịp Người vẫn thưởng thức thiên nhiên:
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Rằm tháng giêng)
Đi kinh lược Bắc Kỳ tiên sinh ghé thăm núi Dục Thúy - một thắng cảnh của tỉnh Ninh Bình. Nơi đây các danh nhân thi sĩ đời trước đều đến ngoạn cảnh đề thơ văn như: Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Lê Thánh Tông... Ông cũng đề thơ như: Khâm mạng kinh lược Bắc Kỳ hà đê ư Ninh Bình đăng Dục:
THÚY SƠN NGẪU ĐỀ
Nham u thắng cảnh ký Ninh Bình
Thử nhật đăng lâm trú giáng tinh
Ngự tứ Hộ Thành tân hàn tích
Nhân truyền Dục Thúy cựu sơn danh
Nam lai tuấn tiểu thiên phong trĩ
Bắc cố di man nhất thủy hoành
Minh phát đồ trung hồi thủ vọng
Đài ngân thạch sắc hữu dư thanh
Dịch:
Ninh Bình hùng vĩ lại u trầm
Ngày nọ dừng quân ghé núi thăm
Chúa tặng Hộ Thành thơ đậm nét
Đời truyền Dục Thúy đỉnh thêm danh
Vời Nam lởm chởm chồi chen đá
Ngó bắc băng dòng sông sủi tăm
Cất bước quay nhìn đường khuất nẻo
Trong lành đá ửng loáng rêu thâm

Nói chung mỗi lần đi kinh lý đến đâu ông cũng dành một ít thời giờ để du lãm cảnh đẹp thiên nhiên. Nơi nào ông đến viếng, nơi ấy có thơ đề vịnh cảnh. Ngoài các bài thơ kể trên, Học văn dư tập còn có các bài thơ khác như: Quá Tam Điệp sơn (Qua núi Tam Điệp), Cù Huân Vãn Bạc (Chiều ghé thuyền bến Cù Huân), Sơ dễ Lang Chánh châu (Vừa đến châu Lang Chánh), Trùng du Kim Sơn (Lại viếng Kim Sơn), Hồ thành (Thành nhà Hồ) v.v...
Phải nói với lòng yêu thiên nhiên tha thiết một ý thức thưởng ngoạn theo kiểu thi nhân và một trái tim giàu cảm xúc, dễ nhạy bén với cảnh vật tác giả mới có được những vần thơ như thế.
Đọc thơ ông ta còn thấy, ngoài những lúc ông tìm viếng cảnh để thưởng ngoạn thú vui thiên nhiên, đôi khi cảnh cũng tự tìm đến với ông để đồng cảm vầy vui. Sau buổi tan triều về, tiên sinh đi ngang qua bên cửa đàn chim bỗng líu lo ca hát như mừng vui:
Triều thoái nhàn lai song hạ thính
Anh anh cầu hữu ý hà ân
(Vịnh oanh ký Thân Đắc Chi kiểm sự) 
Dịch:
Lui triều rảnh rỗi nghe bên cửa
Thánh thót vầy đàn chim hót hay
Thu đến hàng trăm cỏ hoa rơi rụng điêu tàn. Đến tam thu (tháng thứ ba của mùa thu) tức cuối thu cây cỏ ngoài vườn chưa hết rơi vẫn còn đang tiếp tục rụng. Bất giác một buổi sáng ông thấy hoa nở. Đóa hoa xinh thắm lại nở ra trong mùa rơi rụng khiến tác giả xao xuyến và cảm phục:
Bách thảo điêu linh hậu
Tam thu lãnh lạc dư
Nhất triêu anh diễm phát
Vạn đạo thái hà thư
Phong vũ tương vi hộ
Tùng mai vị bất như
Thương tâm thùy thị giả
Ngã nguyện dữ đồng cư
(Tha nhật kiến kỳ khai hoa hỉ nhi phục phú)
Dịch:
Qua rồi tan tác cỏ trăm loài
Rời rụng ba thu ngập bóng mây
Một sớm lẫy lừng hương điểm nhụy
Muôn màu  rực rỡ ráng tuôn mây
Đươm nhuần mưa gió đâu theo kịp
Dày dạn tùng mai dễ sánh tày
Ai đấy tơ lòng rung điểm khúc
Ta nguyền chung mái ngất ngây say
Câu thơ cuối cùng là cả một tấm lòng của ông và mang tính nhân văn rất cao. Tác giả nói “Ta cũng nguyền cùng loài hoa sống như vậy” hay “ta nguyện được như hoa vậy”. Phải chăng ở đây thi nhân và đóa hoa có một sự đồng cảm lớn. Còn tình yêu thiên nhiên nào hơn thế nữa. Một khi mà tác giả xem mình như những người cùng hội cùng thuyền với đóa hoa. Trước tiên sinh vài chục năm, trong bài Độc Tiểu Thanh ký, Nguyễn Du cũng viết: “Phong vận kỳ oan ngã tự cư” (ta tự thấy là người cùng một hội với kẻ mắc nỗi  oan lạ lùng vì nết phong nhã). Chữ “cư” của Nguyễn Du và Trương Đăng Quế có nét nghĩa giống nhau. Nguyễn Du từ thương người (Tiểu Thanh) chuyển qua thương thân. Nhà thơ thấy giữa mình và cô gái có những nét “đồng bệnh tương liên” còn Trương Đăng Quế thương đóa hoa cũng chính là thương mình trong đó.
Một lần khác vào tháng mười giữa lúc mưa gió tả tơi, trời rét mướt, ao sen trong dinh bỗng nở một đóa hoa xinh đẹp và thơm ngát. Một trái tim vô cảm sẽ dễ dửng dưng với sự bất thường ấy. Nhưng với ông thì không, ông nâng niu chăm chút và biểu hiện cái nhìn đầy triều mến yêu thương và xen lẫn niềm kính phục. Tác giả viết bài:
Thập nguyệt thự trung kiến chiểu liên hữu hoa nhất đóa hương diễm khả ái, cảm nhi toại phú:
Tam đông hàn lật liệt
Bách thảo tận điêu thương
Nãi hữu liên quân tử
Nhất hoa khai tuế dương
Trinh tâm tỉ tùng bách
Diễm chất trạc băng sương
Linh lạc hưu sầu vãn
Dư tình cẩu tín phương
Dịch:
Vào tháng mười, thấy ao sen trong dinh nở một hoa hương thơm sắc đẹp dễ mến, cảm xúc đề thơ
Ba tháng đông dài rét mướt
Dập vùi cây cỏ xác xơ
Mượt mà sen soi bóng nước
Ngạo nghễ giữa hạ ai ngờ
Tùng bách lòng trinh sánh được
Tuyết sương hương sắc sởn sơ
Thôi buồn rụng rời thậm thượt
Tin mãi tình ta thơm tho
Chú thích:

[1] Một đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam: vô ngã - Tạp chí Thông tin KHXH, 1985.
[2] Dư Lê dịch, theo tài liệu của GS. Lê Trí Viễn.
[3] Dư Lê dịch, theo tài liệu của Gs. Lê Trí Viễn.
[4] Nguyễn Xuân Tảo dịch - Tài liệu của Gs. Lê Trí Viễn.
[5] Đoàn Thu Vân - Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật thơ thiền Việt Nam thế kỷ XI - XIV, Luận án TS - Đại học sư phạm Tp. HCM - 1995.
[6] Dẫn theo Ưng Trình, Một quan niệm về phương pháp đọc sử, Tạp chí Bách khoa số CII, trang 26-29 Sài Gòn 1960.
[7] Trong “Các tham luận tại hội thảo khoa học...”, các ông Lê Hồng Long, Trương Quang Gia, Quốc Thái đã nhầm khi cho rằng bài thơ này, tiên sinh sáng tác lúc về hưu. Thế nhưng, bài thơ in trong tập Học văn dư tập xuất bản 1857 trước khi tác giả về hưu 1863.
[8] Sài Tang là tên núi ở huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây nơi Đào Tiềm thường đến ở.

Về bài thơ này trong “Các tham luận tại hội thảo khoa học...” có ý kiến khác nhau. Một số tác giả cho rằng tiên sinh giả gởi bánh cho con của người láng giềng. Họ lý giải làm quan không thể nào nghèo đến mức như vậy và phu nhân cũng không có cái tính “năm dài buồn giận, rộng hẹp sinh tuổi hờn”. Một số tác giả khác thì cho rằng tiên sinh làm quan rất thanh liêm nên nghèo đến độ không có tiền gởi bánh cho con “mấy cái bánh là mấy giọt lệ”. Theo tôi, tiên sinh gởi bánh cho con, lúc còn đang đi học bởi hoàn cảnh bấy giờ như ông đã kể trong bài “Trường An du”

Thủy ngã xuất môn thì
Vị ngã cần học lực
Thê vị phùng kỳ y
Tỷ vị tặng kỳ thực
Dịch:
Buổi đầu rời tổ ấm
Cần học phải đi xa
Áo vợ lo may sắm
Cơm ăn chị ta cho
Hơn nữa nếu hiểu gởi bánh cho con cũng không hề giảm giá trị của phu nhân. Hai câu thơ dễ làm cho người ta hiểu nhầm là:
Nhữ mẫu đa sầu hận
Khoan thúc sinh oán trụy
(Mẹ năm dài buồn giận
Rộng hẹp sinh tủi hờn)
Thực ra câu thơ phải được hiểu như thế này mới đúng: Mẹ con có nhiều điều buồn hận; rộng (khoan) với người ta thì không đủ sức còn hẹp (thúc) với người ta thì không chịu được. Chính điều đó tiên sinh đã hiểu đúng vợ mình và cũng là nguyên nhân khiến ông cảm thấy khổ không yên long.
Khi tiễn cháu gọi bằng cậu về quê, tiên sinh đăm đăm nhìn theo cháu rồi chạnh lòng nghĩ đến thân cháu mồ côi mẹ, ngày ngày lủi thủi nơi mộ mới của em mình mà nghẹn ngào xúc động
Thu phong tạc dạ lãnh xâm y
Trù trượng lâm kỳ  tống nhữ quy
Thiên lý khách hoài thương độc tự
Bách niên nhân sự thán đa vi
Cố viên tân trũng mai ngô muội
Cô quán tàn đăng mãn đế kỳ
Ký tạ thân tình hưu  động vấn
Thương tâm vô ngữ đối tà huy
(Tống ngoại sanh Bùi Hữu Nghị hoàn lương)
Dịch:
Heo may thấm áo lạnh đêm qua
Ngõ ngặt buồn đưa cháu lại nhà
Nghìn dặm lữ hành thương chiếc bóng
Trăm năm cuộc thế khổ chia xa
Vườn quê mộ mới em hiu quạnh
Quán trọ đèn khuya ngợp gấm hoa
Gởi tạ tình thân thôi chớ hỏi
Nghẹn lời dạ úa ánh dương tà
Bài thơ thể hiện tình cảm của cậu đối với cháu. Trong việc biểu hiện tình cảm, tác giả còn thổ lộ tâm trạng mình cho cháu nghe nữa. Nói về chuyện đời, tiên sinh than “Trăm năm chuyện đời mình cứ than hoài, nó trái với ý mình” (Bách niên nhân sự thán đa vi). Nói về mình, tiên sinh thổ lộ cho cháu biết cảnh cậu sống ở đây (tức chốn kinh đô) chẳng khác gì cảnh cô quán (Cô quán tàn đăng mãn đế kỳ). Kết thúc bài thơ, tác giả gởi lời từ tạ với người thân tình và dặn cháu thôi đừng có hỏi về cậu nữa vì lòng thương của cậu đã bày ra đấy rồi, cậu không nói được gì nữa:
Ký tạ thân tình hưu động vấn
Thương tâm vô ngữ đối tà huy.

29/4/2010
Trương Quang Cảm
Theo https://vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...