Chủ Nhật, 26 tháng 3, 2023
Thái sư, Tuy Thạnh Quận công Trương Đăng Quế 1
Thái sư, Tuy Thạnh Quận công
Lời cảm ơn
Tổ tiên của dòng họ Trương gốc xã Phước Long, huyện Thạch Hà,
tỉnh Hà Tĩnh, nam tiến từ thời Vĩnh Tộ thứ 5 (Lê Trần Tông 1619 - 1628) lập cư
ở làng Mỹ Khê tây, huyện Bình Sơn (nay là Sơn Tịnh), tỉnh Quảng Ngãi. Từ thủy
tổ Trương Đăng Nhứt đến tiên sinh vừa tròn bảy thế hệ. Trong thời gian xây dựng
vùng đất mới, những người con ưu tú của dòng họ Trương như cai hiệp Huy Đức Tử
Trương Đăng Hưng, Thiên Đức Bá Trương Đăng Huỳnh, Thị độc học sĩ Trung thuận
đại phu Trương Đăng Giáo, Thái thường tự khanh Trương Đăng Lương, Quyên Đức Hầu
Trương Đăng Chánh, Dũ Đức Hầu Trương Đăng Chấn đã phò tá chúa Nguyễn khai phá
mở mang, xây dựng một “Giang sơn muôn đời ở phía nam dãy Hoành Sơn”. Suốt tám
thế hệ ấy dòng họ đã nối tiếp nhau tồn nhân tích đức. Theo gia phả ghi trong
vườn ông Trương Đăng Hưng có một cây đại thụ bị gió bão làm trốc gốc. Ông Hưng
đã phát hiện một chum vàng dưới gốc cây ấy. Ông mang vào nhà chôn cất lại. Mười
năm sau một người Tàu từ phương xa đến tìm kiếm của báu. Người ấy đưa chúc thư
và nhờ ông cùng tìm giúp. Ông Hưng xem xong biết đúng là chủ của chum vàng ấy
nên ông mời người khách Tàu về nhà mình và đào lên giao lại cả chum vàng. Người
khách Tàu thấy số vàng vẫn còn y nguyên như trong chúc thư đã ghi. Quá khâm
phục, người khách Tàu đề nghị tặng lại ông một nửa nhưng ông nhất quyết từ
chối. Người khách Tàu phải than rằng: “Ông phước thọ này, tuy nghèo khó được
nghìn vàng mà không đem dùng, nay tặng cũng không nhận, cái thạnh tình này,
nghìn năm chỉ có một”; xong xuôi xin cáo biệt về nước. Ba năm sau, người Tàu
này đã dẫn theo một thầy địa lý đến thăm ông và đề nghị tặng ông một huyệt mộ
để báo ân. Tìm xong, thầy địa lý rất ưng ý và có câu rằng: “Giai thành thông
thông, thế xuất hầu công” (Ngôi mộ này rất đẹp, đời đời có công hầu). Đó là
ngôi mộ Lùm còn gọi là ngôi mộ báo ân, trước 1961 là một thắng cảnh - hiện tọa
lạc tại Gò Ra, xã Trà Sơn, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Mộ ấy là cố tổ của
Trương Đăng Quế. Cha của tiên sinh là Trương Đăng Phác tri phủ tỉnh Quảng Ngãi
thời Tây Sơn. Mẹ là Đỗ Thị Thiết con quan Hoài Đức Hầu thời Tây Sơn, chú là Đô
đốc Tú Đức Hầu Trương Đăng Đồ cùng vợ là Nguyễn Thị Dung nữ đô đốc, một trong
Ngũ Phụng Thư thời Tây Sơn. Cả hai vợ chồng đều tự sát trong toán quân thất bại
cuối cùng của nhà Tây Sơn.
Ngay từ thời còn nhỏ, Trương Đăng Quế đã thích làm thơ. Chính
người đã nói điều này “Thơ đối với tôi, lúc nhỏ không có thầy dạy, chỉ do ham
thích mà làm”. Đến khi làm quan, được cử đi công tác khắp nơi trong nước. Vốn
có tâm hồn nhạy cảm và yêu thơ nên đi đến đâu ông cũng để lại nhiều bài thơ. Ra
công tác ngoài Hà Nội, ông sáng tác bài Hà Nội hoài cổ. Đến thăm Văn Miếu
có bài Thu đinh yết Văn Miếu hữu cảm (Bài thơ ghi lại cảm xúc trong
ngày đinh mùa thuyết Văn Miếu). Nhận mệnh lệnh đi công tác ở Thanh Hóa, ông có
bài Khâm mạng kinh lược Thanh Hóa, đến Châu Lương Khánh (Thanh Hóa) để
thăm có bài Sơ để Lương Khánh châu (Vừa mới đến châu Lương Khánh). Đi
thuyền đến Kim Sơn (Thanh Hóa) viết bài Chu bạc Kim Sơn
tân thứ (Ghé thuyền bến đò Kim Sơn). Trên đường đến Nghệ An, viết
bài Nghệ An đồ trung kỷ kiến (ghi lại điều thấy giữa đường Nghệ An).
Trên đường vào Nam công tác, ghé vào Nha Trang ông có bài Cù
Huân vãn bạc (Chiều ghé bến Cù Huân). Thuyền đi ngang qua Quảng Ngãi, cảm
xúc viết nên bài Thuyền quá Quảng Ngãi cố hương (Thuyền đi ngang qua
quê cũ Quãng Ngãi). Vào đến Nam Kỳ có bài: Khâm mạng kinh
lược Nam Kỳ lục tỉnh. Lên thành Phiên An (Gia Định) viết
bài Đăng nguyên Phiên An thành hữu cảm (cảm xúc khi lên thành Phiên
An cũ). Tại các nơi công tác, ông còn lưu tâm tới thăm các danh lam thắng tích.
Thăm chùa Bửu Phong, một danh thắng của Biên Hòa, cảm xúc sáng tác bài Du
Bảo Phong tự (Viếng chùa Bảo Phong). Đến thăm cảnh đẹp Hà Tiên, ông
cảm xúc viết bài Hà Tiên. Thăm động Hồ Công, một thắng cảnh thuộc xã Thọ
Vực, Vĩnh Lộc Thanh Hóa, ông đề bài thơ Đề Hồ Công động (Đề động Hồ
Công). Đi qua núi Tam Điệp, ngẫu hứng viết bài Quá Tam Điệp sơn (qua
núi Tam Điệp). Đến thăm núi Dục Thúy, một danh thắng thuộc tỉnh Ninh Bình, nơi
đây nhiều danh sĩ đến thăm và đề thơ, tiên sinh cũng có đề một bài
thơ Khâm mạng kinh lược Bắc Kỳ hà đê ư Ninh Bình đăng Dục Thúy
sơn ngẫu đề (Nhận mệnh đi kinh lược vấn đề đê điều sông ngòi ở Bắc Kỳ, đến
Ninh Bình lên thăm núi Dục Thúy ngẫu nhiên đề thơ). Ngoài con người của một ông
quan đại thần ra, ở Trương Đăng Quế còn là con người có tâm hồn nhạy cảm. Và
cũng chính nhờ tâm hồn như thế nên thơ đến với ông một cách tự nhiên. Điều này
chính người cũng xác nhận: “Gặp việc gây hứng đối diện với cảnh vật mà thành
bài ngâm vịnh”. Bên cạnh một tâm hồn nhạy cảm, Trương Đăng Quế còn
có một kiến thức rất uyên bác. Đúng như Phan Thanh Giản đã nhận xét: “Không có
sách nào là ngài không đọc, lại sở trường thơ ca” và Tùng Thiện Vương cũng nói:
“Trương Đăng Quế được người đời khen tài nhớ, khác nào An Thế thuộc nằm lòng ba
rương sách Hà Đông”. Đọc thơ ông, người đọc thấy ông thấu suốt các pho lịch sử
nước ta, nước Tàu. Tiên sinh đọc các bộ tiểu thuyết cổ Trung Quốc và nhận xét
từng nhân vật một. Đặc biệt bộ tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào
Tuyết Cần, cả tiền và hậu, người đều đọc. Điều lạ, một con người khuôn phép như
ông lại thích đọc truyện Hồng Lâu Mộng. Ông viết:
Trương Đăng Quế là thầy dạy các ông hoàng, bà chúa. Trong số đó
có hai ông hoàng nổi tiếng nhất là Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương. Ngày còn
trẻ mỗi khi làm được bài thơ nào Tùng Thiện cũng đưa cho tiên sinh xem. Có một
lần cùng đoàn hộ giá ra đến tỉnh Nghệ An, nhận thấy có miếu thờ An Dương Vương,
Vương bèn ngẫu hứng hai câu thơ:
“Lý luận văn học trong thời phong kiến ở nước ta thường có tính cách giáo điều, rập khuôn theo những quan điểm văn học ở Trung Quốc, không phản ảnh trung thực thành tựu của sáng tác, nhất là phần sáng tác văn học bằng chữ Nôm. Tuy vậy nếu tìm hiểu kỹ quan điểm văn học của các tác giả đương thời (tức nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX - Trương Quang Cảm) cũng có thể thấy được chừng nào sự chuyển biến trong quan điểm của họ”. Ta thấy quan điểm sáng tác thơ của giai đoạn này chịu ảnh hưởng quan điểm của Khổng Tử, coi việc sáng tác là việc dùng cái sức dư sau khi đã làm xong mọi việc “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc để, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân, hành hữu dư lực tắc dĩ học văn” (Kẻ đệ tử khi vào thì thảo với cha mẹ, khi ra thì kính anh chị và người lớn tuổi, làm việc gì thì cũng phải cẩn thận và ăn nói chắc thiệt, thương tất cả mọi người, mà gần gũi với người nhân đức, làm xong những việc nói trên trước, nếu còn dư sức hãy học đến văn chương), (Luận ngữ - Học nhi).
[1] Một địa danh nằm sát đầu cầu Trà Khúc.
[10] Phạm Lam Anh tên là Khuê người huyện Diên Phúc, tỉnh
Quảng Nam, con quan Cai Bộ Phạm Hữu Kính. Lam Anh là một nữ sĩ có danh, có
tập thơ Chiến cổ đường còn truyền lại Trúc Khê - Báo Tri
Tân số 112, năm 1943 - dẫn theo Tạp chí Văn học Sài Gòn số 150
ngày 1/7/1972, trang 9.
Từ khoảng giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta,
các nhà thơ Mặc Vân còn có chung một đề tài nữa là thời sự. Pháp đánh chiếm Cần
Giuộc ngày 14-12-1861. Hai ngày sau nghĩa binh nổi lên đánh Pháp có
27 người tử thương. Đỗ Quang và Bùi Quang Diệu làm lễ truy điệu. Nguyễn Đình
Chiểu sáng tác và đọc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc tại buổi lễ đó. Bài văn này
truyền đến các nhà thơ trong nhóm Mặc Vân. Nhiều người đọc bài văn tế và cảm
xúc làm nên các bài thơ như: Độc điếu nghĩa dân tử trận văn của Mai
Am; Độc Nguyễn Đình Chiểu điếu nghĩa dân trận tử quốc ngữ văn của
Miên Thẩm. Phạm Phú Thứ cũng viết:
Thời kỳ đầu của văn học trung đại, các tác gia dùng rất nhiều
điển cố và thuật ngữ của Nho, Phật, Lão. Đến nửa đầu thế kỷ XIX, bên cạnh một
số nhà thơ vẫn còn ưa chuộng điển cố như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Nguyễn
Thông v.v... Tập thơ của Tùng Thiện Vương (Nxb Thuận Hóa năm 1994) có 100 bài
thì số bài dùng điển cố là: 73 chiếm tỷ lệ: 73%. Thơ Nguyễn Thông (Sở VHTT Long
An xuất bản 1984) có 78 bài thì số bài dùng điển cố là 36 chiếm tỷ
lệ 46%. Ta thấy đã có một số nhà thơ bắt đầu ít dùng điển cố như Nguyễn Công
Trứ, Trương Đăng Quế... Tập thơ Học văn dư tập có 244 bài thì số bài
có dùng điển cố là: 22 bài (không kể các bài vịnh các nhân vật lịch
sử) chiếm tỷ lệ: 9%.
Một điều nữa thơ Trương Đăng Quế cảm hứng cảnh vật bao giờ cũng
đi kèm với con người. Trong bài Thôn khuê, tác giả viết:
Ông đã từng ao ước có được một cuộc sống thanh thản như Đào Bành
Trạch nhưng ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc nhân dân không cho phép ông từ
bỏ công việc được:
Đến Thanh Hóa công tác tiên sinh tìm đến động Hồ Công thuộc xã
Thọ Vực, huyện Vĩnh Lộc để xem cảnh thiên nhiên. Trong động Hồ Công có hai
tượng đá tương truyền ngày trước có một ông già dắt chú tiểu đồng đi hái thuốc
đến nghỉ ở hang này rồi mất dạng. Thời bấy giờ cho là Phí Trưởng Phòng đã hiện
thân tới đó nên dân gian khắc tượng để thờ. Phí Trưởng Phòng người quê ở
Nhữ Nam đời Đông Hán coi việc sắp xếp trật tự ở chợ. Một
hôm thấy người bán thuốc có phép lạ, ông bèn khẩn nài xin học đạo. Phí Trưởng
Phòng theo ông già vào núi học đạo, nhưng không thành đành phải trở về. Khi về
ông già cho Phí Trưởng Phòng cây gậy trúc và các đạo bùa để sai khiến quỷ thần.
Nhờ có gậy trúc và các đạo bùa Phí Trưởng Phòng điều khiển lũ quỷ thần theo ý mình. Về sau Phí Trưởng Phòng làm mất bùa bị lũ ma quỷ giết chết. Tác giả đến thăm động và viết bài:
Nói chung mỗi lần đi kinh lý đến đâu ông cũng dành một ít thời giờ để du lãm cảnh đẹp thiên nhiên. Nơi nào ông đến viếng, nơi ấy có thơ đề vịnh cảnh. Ngoài các bài thơ kể trên, Học văn dư tập còn có các bài thơ khác như: Quá Tam Điệp sơn (Qua núi Tam Điệp), Cù Huân Vãn Bạc (Chiều ghé thuyền bến Cù Huân), Sơ dễ Lang Chánh châu (Vừa đến châu Lang Chánh), Trùng du Kim Sơn (Lại viếng Kim Sơn), Hồ thành (Thành nhà Hồ) v.v...
[1] Một
đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam: vô ngã - Tạp chí Thông tin
KHXH, 1985.
Thủy ngã xuất môn thì
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly
Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét