Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2025

Bóng nắng qua thềm

Bóng nắng qua thềm

Tiếng gà gáy vang rân đã mấy hiệp rồi mà không nghe tiếng chú ba Đảnh lục đục nấu nước pha trà như thường lệ. Thím ba nằm trong buồng lóng nghe tiếng ngáy, cũng im re. Thím vén màn bước ra, xuống bếp cũng không thấy chú. Thím ba vừa đi về phía chuồng gà vừa cằn nhằn: “Mới giờ này ra chuồng gà rồi… thiệt tình…”.
Trăng hăm ba, nhuộm sắc vàng sáng cả một khoảng sân, hèn chi mới giờ này gà đã gáy rộ. Bất chợt thím ba giật mình thối lui mấy bước khi nhìn thấy dưới gốc mận chỗ mặt đất lỗ chỗ ánh trăng có cái bóng đong đưa qua lại. Thím kêu lên: “Ông Đảnh ơi! Ông Đảnh…”. Không nghe tiếng chú ba trả lời. Thím định thần nhìn lên. Một cảnh tượng hãi hùng đập vào mắt thím. Thím chỉ kịp hét lên một tiếng rồi ngất xỉu, ngã sóng soài ra mặt đất. Đám gà trong bội nháo nhác đập cánh xoành xoạch.
Chú ba Đảnh treo cổ tự vẫn rồi. Cả xóm Gà bu hết lại nhà chú ba, xôn xao như vỡ chợ. Ông năm Xê, đang ngồi trước hiên nhà uống trà, hốt hoảng chống gậy bước qua, đứng nhìn hồi lâu rồi lặng lẽ lấy tay áo lau nước mắt, chép miệng: “Đời người như bóng nắng qua thềm, ào một cái đã thấy về cát bụi, cái thằng dại quá, âu cũng là cái số”. Không ai nghe thấy tiếng ông năm cảm thán.
Mới nửa ngày mà thím Ba phờ phạc, thẩn thờ như người không còn hồn vía. Thím ngồi nhìn miết ra đường ngóng chị Ngọc. Chị Ngọc là con riêng của chú ba Đảnh – là người thân duy nhất còn lại trên cuộc này của chú.  Sáng giờ thím ba điện thoại mà không liên lạc được. Ai cũng tỏ ra ái ngại và thương xót thím. Mặc dù chỉ là một đôi “rỗ rá cạp lại” nhưng  thím sống với chú ba Đảnh rất trọn tình theo cái nghĩa “gừng cay muối mặn”.
Hồi chiến tranh, cồn Tam Long thuộc tỉnh Bến Tre là “vùng xôi đậu”, nửa Quốc gia, nửa Cộng sản. Ở chót cồn có nhà ông năm Xã, ai cũng biết ông năm có cảm tình với cách mạng. Cứ ghép tên ông với tên các con ông lại thì biết. Ông tên Xã có sáu người con đặt tên Hội, Chủ, Nghĩa, Tươi, Tốt, Lắm. Trong đó cô Tươi là đẹp gái nhất nhà. Dáng người cao ráo mảnh mai, lưng ong, đáy thắt, mặc dù là con nhà nông nhưng nước da trắng như trứng gà bóc, khuôn mặt sáng tợ trăng rằm, đôi mắt lá răm, cổ cao ba ngấn. Mới mười sáu tuổi nhưng không biết bao nhiêu đám dạm hỏi. Ông năm không gã vì nghe đâu ông định cho cô Tươi vô bưng theo văn công giải phóng.
Vậy mà cô Tươi lại đem lòng yêu ba Đảnh. Ba Đảnh tướng vạm vỡ, chân tay to bè, bước đi nhanh nhẹn rắn chắc, gương mặt chữ điền, nước ra nâu đồng thô ráp, mái tóc xoăn, đôi mắt sâu sáng hoắc, thuộc tạng người cười to, nói lớn, mà đã nói câu nào là chắc câu nấy, khi nói chuyện với ai luôn nhìn thẳng như xoáy vào tâm can người đối diện. Mười tám tuổi, ba Đảnh bị bắt quân dịch, chạy đôn chạy đáo lo hết gần một trăm giạ lúa mới được xung vào lính địa phương quân. Dưới con mắt ông năm Xã, ba Đảnh được ghép vào cái phường “phản động”. Tất nhiên là ông quyết liệt cấm cản.
Một đêm nọ, ba Đảnh tay lăm lăm lựu đạn đến nhà ông năm Xã “cướp” vợ, dĩ nhiên là có cô Tươi “làm tay trong”. Hai người họ biến mất sau một tiếng nổ kinh hoàng. Qua cơn điếng hồn, người ta mới phát hiện trái lựu đạn được quăng xuống đìa cá tra. Cá tra nổi trắng đìa, cả xóm được một phen tha hồ vớt về, lớp ăn tươi, lớp phơi khô. Vậy rồi, hai người bỏ trốn đi đâu không biết.
Cũng may chỉ hai năm sau đó, chiến tranh kết thúc. Hai vợ chồng bồng đứa con gái đỏ hỏn trở về. Không thấy ai nhắc tới cái vụ ba Đảnh lấy vợ bằng lựu đạn nữa. Xảy ra bao biến cố loạn ly, thấy con mình trở về bình yên vô sự lại bồng về đứa cháu ngoại, dẫu gì “gạo cũng đã thành cơm”, ông năm bỏ qua hết. Nhưng bỏ qua và chấp nhận là hai phạm trù không ăn nhậu gì nhau. Ông năm Xã bây giờ đã ngồi vào cái ghế chủ tịch xã Tam Long, trong thâm tâm ông không bao giờ nhìn nhận ba Đảnh là rể. Nhưng con gái và cháu ngoại thì không thể bỏ, ông chia cho vợ chồng ba Đảnh một vuông đất đủ cất cái nhà còn dư chút đỉnh trồng cây. Nhờ chăm chỉ làm lụng nên không mấy năm, hai vợ chồng ba Đảnh đã biến miếng đất chéo biền trở thành một vườn cam sành tươi tốt. Một mùa trái vụ tính ra lãi cả cây vàng.
Giáp ranh vườn ba Đảnh là đất của hai người em vợ là cô Tốt và cậu Lắm, cả hai đều có nhà cửa bự xự, chức vụ xênh xang ở ngoài xã. Hễ mỗi lần vô thăm vườn là họ mắng chó chửi mèo, nói xiên, nói xỏ, nay hô mất buồng chuối, mai hô mất quày dừa. Ba Đảnh biết phận mình sống cảnh “chó chui gầm chạn”, thương vợ ở giữa khó bề xử sự nên nín nhịn cho qua.
Về mặt danh chánh ngôn thuận, ba Đảnh bây giờ là rể ông chủ tịch xã. Nhưng thiên hạ ai cũng biết thân phận ba Đảnh mỏng te như tờ giấy quyến. Người ta cán tờ giấy quyến mỏng như vậy cho nó dễ bắt lửa. Nhưng số phận của ba Đảnh vì mỏng quá nên sớm rụi tàn. Năm con gái anh lên sáu tuổi, cô Tươi đột ngột qua đời. Cô Tươi mất đi, ba Đảnh coi như đứt luôn sợi dây ràng buộc vốn mong manh với gia đình bên vợ.
Sau đám tang cô Tươi, ông năm Xã cho kêu ba Đảnh qua nhà, lần đầu tiên ba Đảnh ngồi ngang hàng uống trà với cha vợ. Ông năm lên tiếng:
– Tao không thích vòng vo, nói thẳng, bây giờ con Tươi mất rồi, nhà cửa đất đai tao cũng để y vậy cho cha con bây ở, với điều kiện, bây không được có vợ khác, phải nuôi nấng con Ngọc cho đàng hoàng. Bây làm sai thì tao tính khác.
Tới chừng đó, ba Đảnh mới sực nhớ, miếng đất vợ chồng anh đang canh tác mấy năm nay là của ông năm Xã cho “bằng miệng” chứ không có giấy tờ gì.
Ba Đảnh “dạ” một tiếng rồi đứng dậy đi về. Ông năm Xã nói vói theo:
– Dạ là sao mậy?
Ba Đảnh không trả lời.
Sau vụ này, trong thiên hạ, kẻ vị tình thì nói: “Cái thằng hiền quá”, còn ai tánh thẳng ruột ngựa, không ngại bửa thẳng: “Tay ba Đảnh này ngu thiệt”. Không biết hiền và ngu có đồng nghĩa với nhau không.
Nhưng từ đó, ba Đảnh sống khép kín như bưng. Cho tới năm đó, hái xong mùa cam, anh trả vườn đất lại cho nhà vợ, dắt con gái dạt ra miền Đông tìm phương sinh sống.
Tới xứ Đồng Nai, ba Đảnh dừng lại ở xóm Gà. Xóm Gà nằm ven cái thị trấn nhỏ như lòng bàn tay, le que mười mấy nóc gia, hết thảy đều là dân tứ xứ. Xóm chạy dài từ đầu con lộ giáp với đường nhựa đến khu đất trống bỏ hoang. Ba Đảnh sang lại một miếng đất trũng ở cuối xóm đủ dựng một căn nhà nhỏ và một cái chuồng gà.
Cũng như đa số cư dân ở xóm Gà, ba Đảnh cũng sống bằng nghề nuôi gà. Chỉ khác là người ta nuôi gà thịt, gà đẻ còn anh nuôi gà nòi đá. Ba Đảnh tự kiếm giống, cho đẻ, ấp trứng, gà nở, anh tuyển con nào có triển vọng trở thành gà đá thì giữ lại, còn bao nhiêu cho lối xóm nuôi lấy thịt.
Chỉ cần mỗi bầy tuyển được vài con, suôn sẻ là lời gấp mười lần nuôi gà thịt. Từ ngày ba Đảnh tới định cư ở đây, bà con xóm Gà khắm khá lên ngó thấy. Người được anh truyền nghề. Người đi giao gà kiếm bộn tiền công.
Xóm Gà ai cũng cảm tình với ba Đảnh. Thời gian thắm thoắt, con gái anh vô Sài Gòn học đại học. Thấy anh thui thủi một mình, dân cư xóm Gà làm mai chị Na – một phụ nữ lỡ thì – cho anh. Họ trở thành vợ chồng khi ba Đảnh đã ở cái tuổi xấp xỉ năm mươi.
Đó là nói thời gian sau này chớ hồi chú ba Đảnh mới dọn tới, ai thấy chú cũng ngán. Chẳng là trên mặt chú có một vết thẹo lồi từ gò má vắt vẻo qua mang tai loằng ngoằng như một con trùn đất cỡ bự dùng để làm mồi câu cá, cộng thêm một cái hình xăm trái tim nhỏ máu bên dưới có dòng chữ “hận đời đen bạc” trên bắp tay, trông rất “giang hồ”. Chú ba Đảnh ăn chay trường lại cữ uống rượu nhưng thấy mấy đứa nhỏ gầy độ, chú cũng hay xáp vô ngồi chơi, đàm đạo, nói chuyện thế sự nhân tình. Có lần, anh Toàn xe ôm hỏi chú về cái thẹo với hang chữ xăm trên cánh tay, chú ba kể:
– Hồi tao đi lính, có một lần, mấy thằng cùng đơn vị đánh nhau giành gái, tao nhảy vô can, họa vô đơn chí, thằng nọ cầm cái lưỡi lê, trong lúc hỗn độn nó “rẹt” một đường sâu quắm vô mặt tao, máu tuôn xối xả. Vết thương lành êm re nhưng do cơ địa, cái thẹo nó lồi lên như vầy nè. Còn mấy cái vết xăm này thì do tao thấy tụi bạn lính nó xăm, tao cũng xăm theo cho có phong trào, bây giờ tụi bây kêu bằng “đu trend” đó. Hồi còn trai tráng hiếu thắng mà mậy.
Nhưng cũng nhờ cái tướng bự con với vết sẹo lồi và mấy cái hình xăm mà từ ngày có chú ba về đây, bọn đá cá lăn dưa, ăn cắp vặt không dám ho he lộng hành như trước. Có lần chú ba Đảnh còn rượt theo một tên cướp từ ngoài đường phóng vô xóm gà, khóa tay làm nó thất thủ ngoạn mục y như cảnh trong phim hành động.
Nhưng thấy vậy chớ bên trong cái bặm trợn của chú ba Đảnh là cả một bầu trời tình cảm. Về mặt am hiểu tâm lý giáo dục hôn nhân gia đình thì dân xóm gà phải tôn chú lên hàng “chuyên gia”.
Đầu xóm gà có chị Bảy bán hột vịt lộn, góa chồng. Chiều nào chỉ cũng kêu anh Toàn xe ôm chở ra lò ấp vịt ngoài thị trấn lấy hột vịt lộn. Ở đời, ngoài hột vịt lộn còn nhiều thứ khác cũng ưa bị lộn. Anh Toàn xe ôm với chị Bảy hột vịt lộn đi lộn qua nhà trọ má con Mén tù ti tú tí. Con Mén bép xép đi kể lại từa lưa, tới tai vợ anh Toàn xe ôm, hai vợ chồng họ cãi lộn một bữa muốn bể cái xóm Gà. Căng quá, tưởng bận này đường ai nấy đi. Vậy mà không biết chú ba Đảnh nói gì, mấy bữa sau hai vợ chồng anh Toàn thì huề nhau, còn chị Bảy hột vịt lộn chịu xuống nước, giáp mặt xin lỗi vợ anh Toàn.
Đó là vụ lớn, còn mấy cái vụ lẻ tẻ như con nít đánh lộn, trốn học; thanh niên nhậu nhẹt quậy phá, chú Ba ra chiêu là im re hết. Ông Tổ trưởng tổ nhân dân tự quản thấy vậy, đề nghị chú Ba làm Tổ phó anh ninh trật tự kiêm trưởng ban hòa giải xóm Gà. Tất nhiên, cư dân xóm Gà giơ tay một trăm phần trăm. Chừng đề nghị lên xã, mấy ổng phủi cái rẹt. Nghe đâu họ nói chú Ba là lính ngụy, có “tiền sử” cướp vợ bằng lựu đạn, mình mẫy thì đầy sẹo xăm, nghi chú là dân giang hồ. Cả xóm tức anh ách trong khi chú ba Đảnh tỉnh bơ. Chú đâu có màn tới mấy cái chức vụ bá láp đó. Mình là dân nhập cư, gốc gác người ta không rành, lý lịch người ta không tỏ, người ta phải nắm phần chắc trong tay, cũng không thể trách người ta được.
Nhưng chú ba Đảnh không ngờ cái lý lịch không mấy sáng sủa của chú lại làm chị Ngọc, con gái chú, lỡ dỡ chuyện tình duyên đến nỗi thất tình bỏ xứ mà đi.
Số là, gia đình anh Tín – bạn trai chị Ngọc – xưa ở trong vùng giải phóng, có truyền thống Cách mạng lâu đời. Từ ông kỵ anh đổ xuống đều làm trong ngành công an. Cho nên mặc dù tốt nghiệp Đại học Luật nhưng gia đình đã dọn sẵn cho anh Tín một chân trong Công an tỉnh. Nghe nói tới đó, chú Ba Đảnh đâm lo, chú hỏi:
-Con có thích làm công an hôn?
Anh Tín trả lời không cần suy nghĩ:
-Dạ ước mơ của con từ nhỏ mà bác!
Chú ba ứ hự, đứng dậy bỏ ra ngoài mé hiên. Lòng chú ngổn ngang trăm mối. Có cái chức vụ nhỏ xíu trong xóm người ta còn câu nệ lý lịch không cho chú làm. Nay con gái chú gả cho công an coi bộ “hổng êm” rồi.
Đúng y chang như sự suy nghĩ và lo sợ của chú ba Đảnh, không những gia đình anh Tín mà cả tổ chức cũng cảnh báo anh về mối quan hệ này. Tình yêu có sức mạnh vô biên của nó nhưng đứng trước sự chọn lựa: cưới Ngọc với ra ngành thiệt là một đòn cân não quá nặng nề với anh Tín.
Để người yêu không phải khó xử, chị Ngọc tự mình dứt áo ra đi. Chị xin chuyển công tác lên một xã vùng cao mãi tận Gia Lai, cắt đứt liên lạc với tất cả mọi người. Anh Tín nháo nhào đi tìm chị. Anh lặn lội tới xóm Gà, ngồi lặng lẽ trước hiên nhà chú Ba, hai người đàn ông một già một trẻ, ngồi khóc bên nhau. Bóng họ theo bóng trăng suông ngã dài bò ngang qua ngạch cửa cũng vừa lúc tiếng gà gáy vang rân. Tiếng gà gáy ở xóm Gà thường ngày ầm ĩ như một trận giáp lá cà của đàn bà ghen, sáng hôm nay bỗng nhiên râm ran, rời rạc, lê thê như mấy tay cầu thủ xóm Gà thất trận.
Tết năm đó, đúng vào lúc chuẩn bị giao thừa thì chị Ngọc về. Chưa đầy một năm mà chị Ngọc ốm nhom, da sạm nắng, đôi mắt đầy u uất… Chú ba Đảnh thấy vậy rất xót con. Suốt mấy ngày, không ai dám hé răng đá động đến chuyện tình cảm của chị, mặc dù trong bụng ai cũng muốn nói ra cho hả hơi. Chị Ngọc đi rồi, thím ba mới thỏ thẻ nói với chú: “Con Ngọc nói với tui, chừng nào nó quên được thằng Tín nó mới lấy chồng”. Cả đêm chú ba Đảnh lăn qua trở lại không ngủ. Gần tới sáng chú chép miệng nói một mình: “Hổng biết tui chết rồi người ta xét lý lịch con Ngọc, có tính tui vô hôn hén bà?”. Thím ba còn ngây ngủ, nghe tiếng được tiếng mất, trở mình cằn nhằn: “Nói khùng điên không hà”. Rồi thím quên tuốt luôn.
Không dè ý nghĩ đó ám ảnh, quấn riết chú ba như một thứ dây leo. Nó khiến chú buồn, ngày càng buồn. Nhiều lúc chú cũng có ý trách anh Tín không dám chết sống với tình yêu. Nhưng rồi nghĩ lại, hồi đó chú quăng lựu đạn cướp vợ, tưởng mình anh hùng dám quyết tử giành lấy tình yêu nhưng rồi rốt cuộc cũng có được gì đâu.
Chú nghĩ tới nghĩ lui. Thôi thì sai đâu sửa đó. Tại cái lý lịch thì mình sửa cái lý lịch. Thay vì chỗ tên cha phải viết dông dài, hài ra tội này, tội nọ thì ghi một chữ “Chết” là xong, là không còn ai truy cứu làm chi nữa. Chú nghĩ như vậy. Thế là chú quyết định sửa lại lý lịch cho chị Ngọc.
Nghe thím ba kể, ông năm Xê lắc đầu chép miệng: “Cái thằng, già rồi còn dại quá”. Đúng lúc đó, chị Ngọc từ ngoài cổng lao vô, khóc rống lên. Tiếng khóc lẫn trong tiếng búa nện đinh đóng nắp quan tài trong đêm thanh vắng, nghe rờn rợn.  Khắp xóm, gà gáy rộ hiệp nhứt liên hồi.
7/12/2024
Ngô Thị Thu Vân
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...