Thứ Năm, 31 tháng 7, 2025

Hóa thân

Hóa thân

Hơn hai chục con người đang chờ đợi. Đèn chiếu sáng, thiêu đốt những ánh mắt xa lạ. Hạnh cũng đang chờ đợi, mặc dù cô không biết mình chờ đợi điều gì. Giây phút im lặng kéo dài. Cả người ngồi trên ghế đẩu cao, đôi mắt sắc đầy vẻ ác độc cũng im lặng. Ông ta như một vị quan toà thời trung cổ đang chuẩn bị cho một cuộc tra khảo kẻ phản đạo. Từ giây phút gặp gỡ đầu tiên đến giờ, vẻ mặt lạnh lùng của ông không hề thay đổi.
Có tiếng động nhỏ cuối phòng. Công tắc điện vừa bấm nhanh. Gió từ bên ngoài thổi vào ào ào làm tung những tấm rèm màu xanh nước biển. Tiếng máy quạt nổi lên át hết những ý nghĩ đang chạy trong đầu. Cô ngước lên. Một gương mặt xa lạ, như ngọn lửa rần rật cháy tiến đến gần cô, gần hơn nữa hơn nữa… Như một bức tượng Hy lạp hiện ra, vẽ trên cơ thể một dục vọng có thật trong căn phòng này. Tiếng máy quạt rít lên. Tấm khăn choàng trên người cô rơi xuống đất.
– Chuẩn bị, máy!
Có tiếng hô khô khốc trên đầu cô. Gã đàn ông đặt tay lên vai cô, kéo cô sát vào thân hình to lớn của anh ta. Hạnh muốn khụyu chân xuống, nhưng anh ta giữ cô lại, trên gương mặt đẹp và xa lạ ấy thoáng một nụ cười. Cô không phân biệt được nụ cười ấy với những nụ cười cô gặp ngoài đời. Nhịp tim cô hỗn loạn. Làm sao, làm sao bây giờ?
– Cắt! Này cô làm sao thế?
Cô lập cập choàng chiếc khăn lên.
– Không, em không đóng vai này nữa – Cô nói, giàn giụa nước mắt, cố lùi lại. Nhưng đâu cũng có người.
– Không sao, không sao, cô cảm thấy thế thôi, cô bé ạ. Vứt tấm khăn đi, cô sẽ làm được tất cả…
– Nhưng, nhưng… – Cô yếu ớt ghì lại tấm khăn. Nhưng có một bàn tay nhanh chóng tháo bỏ nó. Máy lại xè xè làm gai hết cột sống, gió thổi tung đầu tóc cô. Người đàn ông kia mạnh dạn và sành sỏi ôm lấy cô, ngay khi tâm trạng cô chưa được chuẩn bị, rồi vuốt ve cô gái từ phía sau lưng và bế bổng cô lên…
– Cắt! Tuyệt vời! – Lời đạo diễn nghe như tiếng thở dài. Rồi ông tụt xuống đất, đến gần tổ quay phim, gỡ giấy xoàn xoạt, chỉ trỏ, trầm ngâm… để mặc hai diễn viên ngơ ngác rời nhau ra. Phòng quay ồn lên. Mọi người cười nói, cao giọng khen ngợi đoạn diễn vừa rồi. Không ít kẻ nhìn về phía Hạnh.
– Thôi được! – Cuối cùng tiếng nói đạo diễn vang lên bên tai cô. – Hôm nay làm việc như vậy là đủ rồi, cô bé nhé!
– Dạ…
Mọi người chuẩn bị ra về. Riêng Hạnh, cô không biết phải làm gì, vì đạo diễn bước theo cô, nét mặt chẳng hề đổi. Ông hỏi: “Cô không sao chứ?” rồi nói: “Cô sẽ đóng rất tốt”, rồi lại hỏi: “Cô làm nghề gì?”. Hạnh chỉ biết dạ. Cô đứng trước phòng thay áo, nơi hành lang mờ mờ tối. Đạo diễn gật đầu: “Thôi, chào cô! Ngày mai chúng ta gặp lại…”
– Đạo diễn, nhưng mà… – Cô bỗng gọi giật giọng.
Ông quay mặt lại.
– Ngày mai lại đóng… cảnh như thế này…?
– Phải.
– Vai diễn của em là như thế sao?
– Phải.- Ông đáp, rồi nói thêm: – Không cần lời nói, không cần gương mặt của cô đâu. Cô đừng lo.
– Nhưng chị Thiên Kim, chị ấy…
– Cô muốn nói đến vai nữ chính ấy à? Đây là một vai hay chưa từng có trong phim của tôi, nói về vẻ đẹp hoàn bị của người phụ nữ. Cô hiểu đấy, đẹp từ trong ra ngoài (Ông so vai để nhấn mạnh thêm). Nhưng Thiên Kim từ chối đóng “nuy”. Đây cũng là lần đầu tiên cô ấy từ chối tôi. Thôi, tạm biệt!
Đạo diễn Quốc Chính nói, rồi lẹ làng đi về cuối hành lang. Hạnh nghe cánh cửa sập lại. Khi cô bước ra, vai nam chính đóng chung với cô đang đợi ở cổng.
– Em tên gì?
Hạnh vẫn nín lặng trước giọng nói ngọt ngào ấy. Trong đôi mắt của anh ta, cô nhìn thấy mình là một hình ảnh mới lạ, một miếng mồi ngon. Đạo diễn nghiêm khắc ghê gớm, trong phòng quay ông không bao giờ cho phép xen những câu hỏi đó. Ông và những người phụ việc không hề quan tâm đến mối quan hệ nguy hiểm anh ta muốn tạo ra. Những cảnh diễn trước bộ máy khổng lồ kia vắt cạn sức lực và tinh thần cô gái. Nhưng cô cảm thấy thật sự không đáng sợ bằng việc mỗi chiều, anh ta chờ cô ở cổng phim trường và hỏi: “Em tên gì? Làm sao mà em đẹp thế?”
Hạnh một mực im lặng. Cô nhìn đường phố đông vui tràn ngập nguời qua lại. Những gương mặt xa lạ. Cô sắp trôi vào nơi ấy, không ai biết cô là ai.
– Chẳng lẽ em không có tên hay sao?
– Vâng, tôi không có tên.
Nói rồi, cô vội vã đeo túi lên vai, bước đi thật nhanh. Cô không thể nói gì với người đàn ông này… Thậm chí cả đạo diễn cũng không hề biết tên cô. Ông ta cũng gặp cô trong một buổi chiều như thế này, khi cô đi bộ từ trường về phòng trọ. Ông đuổi theo cô, lễ độ xin lỗi cô và mời cô vào công việc.
– Chỉ có cô mới có thể giúp tôi, một công việc hết sức hệ trọng.
– Em có thể giúp được gì cho ông? Em không có gì hết.
– Tôi là đạo diễn. Tôi làm nghệ thuật. Trong công việc này, không có ai có thể thay thế được vẻ đẹp của cô.
Ông giải thích cho Hạnh ông đã tìm kiếm hàng tháng trời mà không tìm được ai có những nét đẹp trời cho như ở cô. Ngay cả nữ diễn viên chính đã đóng xong bộ phim lớn củaông, cũng không thể có được điều ông đang tìm. Trong khi nói, ông không hề mỉm cười. Trán nhăn lại, đôi mắt hằn lên những vết cắt sâu. Nhận tấm danh thiếp của ông, cô nói:
– Em nhận lời. Nhưng với một điều kiện: Không ai được biết về danh tính của em. Em cũng không làm bất cứ điều gì khác với kịch bản của ông…
Dĩ nhiên là Quốc Chính chấp nhận. Tất cả các nhân viên đều được khuyến cáo, chỉ thực hiện đúng phận sự của mình trước mặt cô. Chỉ cần mười lăm hai mươi ngày, các cảnh phim sẽ hoàn thành. Cô sẽ có tiền trang trải những món nợ nần, và làm được điều cô muốn.
– Em làm gì mà anh không thể gặp?
Tiếng hỏi cắt ngang dòng suy nghĩ. Hạnh nhận ra mình đã về đến nhà. Ngay ở cầu thang của chung cư. Trung đứng chờ với vẻ nóng nảy.
– Em bận học.
Hai người lên tầng thứ nhất:
– Em không có mặt ở trường, cũng không có mặt ở thư viện…
– Em không học ở đó.
– Thế em đi đâu?
Tầng thứ hai:
– Em có bận gì thì nói. Chẳng lẽ anh không giúp đỡ được gì cho em sao?
– Không có gì đâu, anh Trung.
Tầng thứ ba:
– Em không tin anh sao? Mọi việc anh nói là anh sẽ làm. Có lúc anh làm em khó chịu nhưng thực tình là anh không muốn như vậy. Anh không thể làm khác được.
– Có chuyện gì thế? Em có nói gì anh đâu!
Tầng thứ tư:
– Nhưng em phải nói cho anh biết, em đang làm gì. Anh rất lo cho em. Một tuần qua anh đi tìm em mà không gặp, em có biết không? Anh còn làm thơ cho em nữa…
– Em biết rồi.
– “Em kiều diễm kiêu sa như bướm trắng
Ta xác xơ như cỏ dại bên đường
Ta đợi chờ em giữa nỗi yêu thương…”
Tầng thứ năm:
– Thôi im đi. Em làm gì, em đi với ai? Em biến mất như thế đó hả? Em biết là buổi tối tôi phải đi học rồi trực ở cơ quan mà…
– Em xin lỗi anh, nhưng em không nói được. Anh hãy tin em, em không làm gì xấu cả.
– Không làm gì xấu sao?
Tầng thứ sáu:
– Không làm gì xấu, nhưng tại sao em không nói được với tôi? Em khinh tôi quá phải không? Em đã người khác rồi phải không?
– Không.
– Sao thư tôi viết cô không thèm trả lời, cũng không thèm nhắn lại với bà bánh mì một tiếng? Tôi như thằng ăn mày đứng ở trước cầu thang, thật đáng xấu hổ. Cô phải nhớ là chỉ có một mình tôi mới có thể leo mười một tầng lầu lên thăm cô thôi… Chứ chẳng thằng nào ngu dại…
Tầng thứ tám:
– Anh thôi đi, em đã bảo là em không làm gì cả…
– Được rồi, được rồi. Bây giờ thì cô có thể nói với tôi như thế. Cô vui lắm phải không? Tôi không ngờ…
Dừng lại ở tầng thứ chín:
– anh không được phép xúc phạm em. Em biết việc em làm, biết lời em nói.
– Thôi được, cô đâu còn là Hạnh như ngày xưa nữa. Cô học thói băm vằm vào mặt người khác từ bao giờ vậy? Tôi đã hiểu, chào cô…
Trung quay ngoắt lại, đi như chạy sầm sầm xuống cầu thang. Còn hai tầng lầu nữa.
Hạnh bước vào phòng, bật đèn lên. Tấm gương trên tủ lồ lộ một hình dáng nhỏ bé, mệt mỏi và đau khổ. Cô là gì, cô từ đâu đến đây? “Cái chết khoả thân của người phụ nữ là đỉnh cao của số phận con người. Cô hiểu không? Không thể diễn tả thô thiển được. Một thân hình xấu, một tư thế xấu sẽ làm hỏng hết tất cả, tất cả những gì Thiên Kim… và cô đã làm. Nào, cô hãy bước lên, bứơc lên cao nữa. Nào, hãy tự tin…”
Lời nói đạo diễn văng vẳng bên tai. Cửa đã đóng chặt. Gió thổi ù ù bên tai. Cả thành phố đêm đắm chìm bên dưới. Hạnh tự diễn trước tấm gương soi. Cô lặng lẽ nhìn vào chính mình, và mường tượng thấy cả thế giới đang ở phía sau.
Cả Trung cũng thế… Cô thoáng mỉm cười, nụ cười nhợt nhạt tặng cho mình.
Có tiếng gõ cửa.
Hạnh cuống quýt chạy vào buồng tắm. Cô mặc vội chiếc váy rồi ra mở cửa, giỏ xách vẫn khư khư trong tay. Phụng và Loan đang thở hồng hộc, vừa cười vừa nói. Trông thấy cô cả hai reo lên:
– Ơ, mày làm sao thế Hạnh? Anh Trung có lên tìm mày không? Mày biết không, hôm nay người yêu tao…
Mưa. Người đóng cặp với cô lao chiếc mô tô đi, để lại một nụ cười khiêu khích. Hạnh cúi đầu bước đi, mặc cho mưa quất xuống. Đêm đã xuống, từ lúc cô chưa rời xưởng phim, từ lúc cô nằm ngửa trên màn cỏ ướt và trước hồ nước nhân tạo, diễn cái chết của một người phụ nữ có lẽ rất tuyệt vời. Hè phố vắng, mưa nhòe đi những ánh đèn màu, loang đi dưới chân cô. Toàn thân lạnh buốt và ướt đẫm. Hình như cô khóc.
– Này em, hãy ngẩng đầu lên! Có ai đó vuốt mái tóc ướt rũ rượi của cô. Cô ngẩng lên. Đó là đạo diễn Quốc Chính. Ông cũng ướt.
– Ông đi đâu đấy?
– Tôi đi tìm em. Tôi không thể ngồi yên trong xưởng phim, dù chỉ một giây…
– Ông cần gì?
– Tôi muốn biết tên em…
Ông dìu cô về phía một chiếc taxi. Ngồi bên cạnh cô, đôi mắt nồng ấm, thoáng mỏi mệt và đau xót làm dịu đi nỗi buồn trong lòng cô. Trong phòng ngủ cô đơn của ông, ông đã sưởi ấm cho cô bằng vòng tay yêu thương và êm ái. Ông nói: Những gì cô đã làm trên sàn diễn là phi thường, nhưng lúc này mới là kỳ diệu nhất, vì cô hoàn toàn trinh trắng…
– Tên của em là Hạnh…
– Em sẽ là vợ anh nhé!
– Em … không…
– Hãy là của anh. Anh sẽ làm được những điều tuyệt vời nhất từ em…
– Còn chị Thiên Kim…
– Cô ấy từ bỏ anh, từ lâu rồi…
Chỉ trong vòng hai tháng, bộ phim “Người Nữ” của đạo diễn Quốc CHính đoạt huy chương vàng liên hoan phim châu Á. Nữ diễn viên Thiên Kim trở thành nữ diễn viên xuất sắc nhất. Nhưng cô ta đã không có mặt trong liên hoan, cũng không xuất hiện trong cuộc họp báo. Không có một tin tức nào về cô cả. Quốc Chính một mình đứng trên lễ đài, mỉm cười rất tươi và giơ cao biểu tượng vinh quang.
Hạnh đi như chạy vào quảng trường để chúc mừng ông. Người tiếp tân giữ cô lại:
– Cô là ai?
Câu hỏi làm cô chạnh lòng. Cô đã bỏ đi. Những ngày chìm đắm trong thành công ngoài sức tưởng tượng ấy, đạo diễn Quốc Chính đã không chờ cô như lời hẹn.
– Chiều nay anh bay sang Pháp. Anh bận lắm, không thể gặp em được…
Quốc Chính nói qua điện thoại như thế, trong lúc đó, cái tên Thiên Kim tiếp tục tràn ngập trên các áp phích đường đường phố và những bài báo khen ngợi. Hạnh bước xuống đường. Vẫn dòng người đông đúc và xa lạ, đi qua cô như không mảy may biết gì.
Thiên Kim không còn là vầng hào quang chói lọi mà mọi người mong đợi. Người phụ nữ đẹp, gầy gò và cô đơn trên chiếc giường bệnh. Vẻ mặt cô ta sầu muộn giữa mớ tóc xác xơ và đôi mắt mở to như giận dữ nhìn Hạnh.
– Vì sao cô đến đây thăm tôi? Tôi không biết cô.
– Tôi là người đóng thế cho chị.
– Phim “Người nữ” phải không? Cô bao nhiêu tuổi?
– Hai mươi.
– Cô trẻ quá. Lại đẹp nữa. Ông Chính đâu rồi?
– Ông ấy đã sang Pháp…
Thiên Kim mỉm cười. Gương mặt se sắt, trắng bệch ra.
– Cô bé ạ, tôi sẽ chết.
– Vì sao chị lại nghĩ đến cái chết? Chị đang có tất cả mà.
Thiên Kim lắc đầu:
– Tôi đã mắc bệnh ung thư. Tôi nằm đây chờ em đến. Chỉ với em, tôi mới có thể nói về điều này, em sẽ hiểu vì sao… Đây, em xem đi…
Thiên Kim vén áo lên. Thân trên của cô phủ bằng bông trắng xoá. Cô ta đưa tay muốn giật chúng ra nhưng Hạnh kêu “Không!” rồi lao đi như điên dại khỏi bệnh viện.
Thời gian trôi qua… Có một lần, Hạnh ngồi bên cạnh một người đàn ông trong rạp chiếu phim để xem bộ phim “Người nữ”. Cô nhận ra chính mình đang sống, đang thở, đang hạnh phúc khổ đau trong hình hài không có tiếng nói, không có bộ mặt của mình. Xung quanh có những người rơi lệ. Cô quay sang, đặt bàn tay vào bàn tay người đàn ông của mình và nói:
– Anh! Em rất muốn nói với anh một điều. Nhưng hãy hiểu là: Em yêu anh!.
27/12/2019
Trần Thu Hằng
Theo https://vanhocsaigon.com/

Chuyện hai đứa trẻ

Chuyện hai đứa trẻ

Thằng anh lớn hơn em gái bảy tuổi, có dáng người cao to, dậy thì trước tuổi, nên giọng nói và cả những hành động đều hơn những bạn cùng trang lứa. Nó thường hỏi mẹ những câu rất cắc cớ, tại sao lại như vậy, tại sao lại thế kia. Thằng anh có cái tên ngồ ngộ, mà mẹ nó đặt cho là “Bờm”, hình như mẹ nó muốn gửi niềm hy vọng vào đó, muốn tâm hồn nó trong veo như câu truyện cổ tích “thằng Bờm”, mẹ nó muốn nó hiền ngoan, thật thà, không tham lam, chân chất, cho tới khi trưởng thành. Cái tên thường gọi thân mật hàng ngày đi theo suốt những ngày thơ của nó, dù khi đi học nó có một cái tên rất hay và dễ gọi “Minh Quân”. Nhưng mẹ nó ít khi gọi tên khai sinh của nó, mẹ chỉ gọi nó “Bờm ơi, Bờm à”. Có lúc nó cảm thấy quê quê, ngại ngại, nó giận mẹ, liếc mắt nhìn mẹ như muốn bảo: “Mẹ đừng gọi con bằng cái tên ấy, mẹ có biết tên Bờm là ngu không, ai cũng chọc ghẹo con vì cái tên của mẹ ưu ái cho đó”.
Bờm đã dậy thì rồi, mụn đã nổi lộ nhô đầy trán, mỗi sáng thức giấc là cơ thể nó đã khác hơn ngày hôm qua quá nhiều. Giọng nói ồ ồ như thể là một thanh niên, lý lẽ dài dòng hơn, luôn có lý do biện hộ cho hành động của mình là đúng, không cần biết giới hạn hiểu biết của mình chỉ mới là bước đầu. Có khi mẹ giận nó tới mức bỏ bữa không ăn cơm, không ra khỏi phòng, nó mới thấy chút hối lỗi, ăn năn, tìm kiếm câu chữ nhắn tin cho vui lòng mẹ. Nhà có ba mẹ con, nên nó biết, nếu mẹ nó cứ nằm dài ôm gối thì anh em nó chỉ có nước đói dài. Ngôi nhà, căn bếp buồn tênh, hiu quạnh. Nó đang tuổi lớn, nên không thể nào nhịn đói được, bụng nó cồn cào khó chịu.
Nó hiểu thêm một điều, chẳng có điều gì hay ho, khi “lý sự cùn” với mẹ. Chẳng còn gì quan trọng hơn tiếng rầy la, càm ràm, nhắc nhở không ngớt của mẹ, lúc anh em nó chuẩn bị bài học cho ngày mai. Anh em nó có khi lẩm nhẩm, bức bối, cho rằng mẹ thật phiền phức. Và, giờ nó bất đầu nhận ra em gái nó, cả nó nữa, đã thật sai quấy nhiều rồi. Mẹ nó buồn, nó làm sao yên.
Em gái nó đang học mẫu giáo, em không có tên thân mật hàng ngày, mà là một cái tên có phần liên quan đến tên của nó “Thy Minh”. Một con bé gái nhí nhảnh, đỏng đảnh và có nhiều suy nghĩ hơn cái tuổi của một đứa trẻ chưa biết đọc chữ, nhưng dùng các thiết bị công nghệ số thì không ai bằng. Mỗi khi, con bé, cầm điện thoại và tìm kiếm bằng giọng nói khiến nó phải ngắm nhìn, có khi buồn cười, có khi ngạc nhiên, thán phục. Nhiều lần, mẹ nó quát mắng anh em nó khi chỉ mải mê với điện thoại, máy tính, rồi iPad, không chịu ra ngoài, anh em nó khóc bù lu loa, rồi trả treo đủ câu cú lủng củng, nhưng tỏ rõ quan điểm cá nhân là thích ở nhà, hơn là phải đi ra ngoài hoạt động. Nhất là nó, nó chỉ thích game, mấy video trên youtube lảm nhảm của tuổi mới lớn cho nó cười vui vui, vài bộ phim bom tấn, hành động, và thức ăn đủ trong tủ lạnh là nó thấy ổn. Nó cảm nhận sự nhạt nhẽo, không có gì thú vị khi phải lếch tha lếch thếch đi cùng mẹ đến các khu vui chơi, nơi mua sắm, siêu thị rồi phải nhìn mẹ nó đắn đo, suy tính, nhìn lại ví tiền, cân nhắc việc mua hay không mua. Sao người lớn lại cứ hay so đo, tính toán, và mẹ nó là người luôn so tính nhất thế gian, nó nghĩ vậy.
Có lần, nó muốn được vào một nhà hàng sang trọng, thưởng thức món bò nướng kiểu Hàn Quốc, nó vòi mẹ, dĩ nhiên nó vòi thì mẹ chẳng bao giờ từ chối, vì mẹ nó thương nó nhất trên đời mà. Mẹ nó tiến tới quầy tiếp tân hỏi giá, năn nỉ ỉ ôi, viện lý do gì đó, kết quả là em gái của nó được vào nhà hàng thưởng thức mà không phải mất tiền. Nó cảm thấy xấu hổ, không vui, nó thấy cảm giác trong người cứ sao sao, hàng nghìn câu hỏi đi qua trong đầu nó rằng: “Tại sao mẹ của mình lại phải tiết kiệm đến mức như vậy, không biết ngại ngùng với thiên hạ hay sao?
Tại sao mẹ luôn phải chọn những món hàng khuyến mãi, giảm giá, tại sao mẹ luôn kéo tay anh em nó đi nhanh khi qua những cửa hàng đồ chơi?”. Suy nghĩ của một thằng con trai vừa tập tành làm người lớn, đủ cho nó biết gia đình nó đang thiếu thiếu điều gì đó, thiếu cái điều mà hễ anh em nó nhắc đến là mẹ nó gạt ngay đi. Để rồi những giờ đồng hồ tiếp theo đôi mắt mẹ nó là nỗi buồn rũ rượi, không hứng thú với việc chụp ảnh sống ảo khoe Facebook bữa ăn ngon, cầm đôi đũa không buồn gắp, chén cơm còn y nguyên, rồi thở dài, uống nước ừng ực, đi vào nhà vệ sinh rửa mặt. Mẹ nó trở lại bàn ăn, tươi tắn hơn, không khí trong nhà bớt ngột ngạt, tiếng ồn của chương trình thiếu nhi của em gái nó, chiếm trọn cả không gian, nó biết, mẹ nó sẽ nổi giận, lại căng thẳng, quát tháo, la ó, việc em gái nó chưa hề ăn một muỗng cơm nào, nó liền nói với em:
– Em ăn đi, tắt iPad đi, mẹ đang buồn kìa, không ăn là bị la, bị đòn đừng có khóc nha!
– Biết rồi.
Em gái nó cầm muỗng lên xúc cơm, trong khi mắt không rời màn ảnh. Nó bắt đầu thấy lo lo, hoài nghi, có chuyện sẽ xảy ra tại bàn ăn này, nên vội vàng ăn thật nhanh, tiếp theo sau đó sẽ dọn chén bát, không đợi mẹ sai nữa. Vài lần nó đã ngoan như vậy, vì nó đã quen với những cơn bốc hỏa của mẹ. Một thời gian, đã vài ba bốn năm gì đó, nó không nhớ chính xác, nhưng có thấy là rất lâu rồi nó không bao giờ thấy ba mẹ nó chuyện trò một câu, dù vẫn chung một mái nhà, một sổ hộ khẩu. Mẹ nó một mình đưa anh em nó đi học, đi chơi, về quê, rất lâu rồi gia đình nó không có một tấm ảnh chụp cùng nhau. Ba nó nướng mình trong những canh bạc, trận bóng, rồi biền biệt đi không dám về. Thỉnh thoảng nó vẫn nghe bà con, họ hàng, làng xóm bàn tán xì xào về chuyện của ba nó, nó vặn vẹo hỏi mẹ thì chỉ nhận được duy nhất một câu: “Lo học đi, không phải suy nghĩ nhiều, người lớn làm người lớn chịu, con nít chỉ cần học ngoan là đủ”. Nó giận mẹ, lúc nào cũng bắt học, nó có quyền biết về hoàn cảnh của gia đình mình chứ! Tại sao mẹ nó luôn gạt bỏ đi những câu hỏi của nó. Mẹ ích kỷ. Mẹ xấu. Mẹ không chút xíu nào hiểu nó. Nó khóc. Tiếng khóc của thằng con trai mới tí hiểu biết, không phải là đau khổ mà là sự ấm ức, câu hỏi không được quan tâm giãi bày.
Suốt những ngày sau đó, nó ít nói hẳn đi, nhưng khi mẹ gọi tên nó để sai bảo hay nhờ vả gì, thì nó lý sự với mẹ nhiều hơn. Vùi đầu vào game rất nhiều giờ, mặc kệ những gì xung quanh tác động vào. Mẹ nó đâu có biết, nụ cười niềm vui của người lớn chính là hy vọng của trẻ con. Nó cần một gia đình như bao bạn bè khác. Thời gian vắng một người cha trong mái nhà dài ra thêm, là khi nó biết trong chiều sâu ẩn trong đôi mắt anh em nó thèm khát bàn tay rắn chắc, giọng nói khàn đục ấm áp, mang âm trầm của đàn ông lớn hơn nó, ủi an khi bị mẹ rầy la, khi bị điểm kém ở trường biết bao, hay khi đạt điểm cao cần sự tự hào, được nhận sự đầy ắp yêu thương, như những câu chuyện của của người bạn cùng lớp.
Một mùa hè nữa đến, như những mùa hè đã đi qua, hai anh em nó bị bắt buộc đi chơi xa, rời xa thế giới của công nghệ, bốn bức tường. Đó không phải là lần đầu tiên, ngồi một chuyến xe giường nằm hiện đại, nó và cả em nó có cơ hội nhìn cuộc đời qua ô kính cửa sổ, cùng nhịp với vòng xe liên tục lăn bánh, bỏ lại xa xa những hàng cây xanh, những ngọn đèo, đồi núi rộng lớn bao la, những con người nhỏ bé đang chạy xe máy ở phía trước. Khi xe cứ tiếp tục cuộc hành trình của mình, những hành khách tranh thủ ngủ nghỉ, thì nó vẫn nhìn mãi qua ô cửa sổ. Thế giới này rộng lớn, những cánh rừng xanh xanh màu lá, xếp chồng lên nhau, trong suốt cuộc hành trình lên xứ sở ngàn hoa bạt ngàn hoa thơm cỏ lạ, bức tranh màu diệp lục trùng trùng điệp điệp, ẩn hiện lúc gần lúc xa. Con đường xa lạ bỏ dần thành phố náo nhiệt ồn ào, mỗi lúc hiện rõ lên từng nét như  một bức tranh miền sơn cước, cao nguyên lộng gió.
Lần đầu tiên nó thấy mình nhỏ bé, vài suy nghĩ lóe lên trong đầu óc nó, rằng giữa thế giới thực và ảo rất khác xa. Rằng cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, tiếng gió vi vu dễ chịu hơn hẳn tiếng “pằng! pằng! chéo! chéo!” trong game trò chơi liên quân. Nó cảm giác có một luồng nước mát lạnh từ dòng sông nào đó đang tỏa từng tia hy vọng, bình yên cho tâm hồn của nó. Nó quên ngay chuyện của ba nó, nó không muốn ai khơi gợi lại, bởi chuyện cũng người lớn xa nhau, đâu có thể làm ai buồn mãi mà bỏ quên cuộc sống, chỉ có bọn trẻ con như nó, là luôn luôn đặt dấu hỏi, khi bạn bè có ba dắt đi chơi, có ba để kể chuyện vu vơ ở trường, có ba để thằng con trai lớn lên học theo ba đức tính cứng cỏi, mạnh mẽ hơn. Mẹ nó có lần, nói gì đó với nó dài lê thê, về chuyện cũng ba nó, nó nhìn mẹ khóc, từ đó nó nhất quyết không nghe nữa. Nó muốn quên đi, nó không cần một người ba đã quên mất một gia đình. Nhưng em gái nó thì khác, con bé đang ngồi bên cạnh mẹ ở hàng ghế sát bên, líu lo, xin xỏ đủ điều, xong đâu đó thì bắt đầu hỏi:
– Mẹ ơi, khi nào ba về?
– … Mẹ nó – (thở dài giả bộ ngó lơ).
– Sao mẹ ghét ba?
– Ai nói, mẹ có nói mẹ ghét ba khi nào đâu?
– Vậy tại sao mẹ không gọi ba về cho con.
-… (Mẹ nó im lặng không nói, nhìn ra ô cửa kính).
– Sao mẹ ghét bỏ ba, mà mẹ làm đám cưới với ba?
Nó nhìn sang em gái nó, ra hiệu cho em im lặng, vì sự ồn ào đã làm nhiều hành khách thức giấc. Cảm nhận không thể ngăn cho em gái nó im lặng, mẹ nó lấy chiếc điện thoại ra, bật tìm kiếm chương trình thiếu nhi. Những câu hỏi ngây ngô mà khiến người nghe bị chạm tới vết thương u uất trong người. Những lời trẻ con nói như cào cấu vào vết thương đang rỉ máu của những con người đã lớn. Nó kéo chiếc áo khoác đắp lên cổ, nhắm mắt lại ngủ một giấc trên chuyến xe khách đường dài yên ả, thong thả từng kilomet đến thành phố sương mù, nơi có vài người bạn thân của mẹ đang chờ đợi. Nó biết, ở nơi thời tiết đủ lạnh để trẻ con – người lớn mặc ấm, nó và em nó sẽ bỏ quên các thiết bị điện tử trong căn phòng rối ren những nét vẽ nguệch ngoạc của em nó.
Nó sẽ nhìn thấy những vườn dâu, những quả bơ căng mướt, trên một ngôi nhà nho nhỏ trên đồi, có tiếng suối chảy róc rách cả ngày lẫn đêm, có tiếng chim ca khúc khích gọi nhau í ới. Những người bạn của mẹ, những đứa trẻ của bạn mẹ, vài đứa có hoàn cảnh như anh em nó cùng nhau đốt lửa trại, nướng khoai lang, rồi thưởng thức và không nhớ gì nữa chuyện của ngày hôm qua, trong một thành phố rộng thênh thang. Nó không quên quan sát, mẹ đang nhìn lên bầu trời, ánh trăng sáng vằng vặc, mỗi trong hơn, cao hơn. Nó đã từng nghe đâu đó, khi mất phương hướng thì không nên nhìn vào khu rừng, mà hãy nên nhìn lên bầu trời. Mẹ của nó nhìn lên bầu trời một cách say sưa chăm chú.
Em gái nó đang líu lo ca hát, mọi người lắng tai nghe, rồi vỗ tay động viên. Và nó nghe thấy những cảm xúc đan xen vào nhau. Nước mắt dù có mằn mặn sao vẫn nghe có vị ngọt. Khi nó có một người mẹ – luôn nghĩ về hai anh em nó hơn tất cả những đều khác. Nó không còn mắc cỡ với cái tên “Bờm” mẹ nó đặt cho, nó thôi lý sự với mẹ, nhường nhịn em gái nó nhiều hơn nữa.
Có những điều mẹ nó không cần chỉ dạy, mà là do sự rung động từ trái tim của thằng con trai đang bắt đầu lớn mà nhận ra, mà thôi làm khó khăn cho mẹ. Bởi mẹ vừa là mẹ, vừa là một người ba của nó. Có một cảm nhận gì đó, không mùi, không vị, không lời giải thích, khiến nó muốn lại gần mẹ nói điều gì đó, mà lại e ngại hơn thường ngày, nó ngồi lặng im, cho thêm củi vào đống lửa trại, nghe hơi nóng tỏa ấm vào gương mặt mình, nó xoa xoa bàn tay lên mặt mình, và nhớ tới cô bé bán diêm trong đêm đông giá lạnh.
28/12/2019
Hồ Xuân Đà
Theo https://vanhocsaigon.com/

Người nghệ sĩ giữa dòng trôi

Người nghệ sĩ giữa dòng trôi

“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi”
(Tố Hữu)
Lúc đó má đứng ngoài cổng, vẻ bồn chồn mong đợi, mắt cứ lấp lánh lấp lánh. Má có vẻ đẹp như Tố nữ trong tranh, mắt môi như được một người họa sĩ tài hoa vẽ sắc nét trên khuôn mặt thanh mảnh gọn gàng. Nhiều khi nhìn má vất vả lam lũ với bầy bò, ao cá, mảnh ruộng để nuôi bầy con mười đứa ba bỏ hết lại để tìm sự thảnh thơi trong chùa, tôi tự nghĩ, má lấy đâu sức lực để làm ngần ấy việc mà vẻ mặt vẫn phơi phới, mà nét đẹp vẫn không hề phôi pha theo năm tháng.
Má nheo mắt tinh ranh khi tôi về tới:
– Tao mua cho bây một món quà. Bây đoán coi là cái gì?
– Trời, bày đặt quà nữa. Bộ đồ hả? Má thấy đồ đạc tui rách te tua nên mua chớ gì?
– Hông phải
– Cuốn sổ tay chớ gì?
– Mua sổ tay làm gì?
– Thì tui sắp đi du kích.
– Hả, mày định đi du kích hả?
– Chớ hông đi sao được. Bọn con trai trong làng đi hết rồi. Làm con trai thấy làng mình hết người này bị giết hết người kia bị đày hông biết nhục sao?
Má thần người ra, ánh sáng tắt hẳn trong đôi mắt vừa lóe lên như hai vì sao. Má thở dài thườn thượt, tao cũng ghét, cũng căm tụi nó lắm, nhiều khi muốn lấy cái đòn gánh quất tụi nó cho hả giận. Nhưng bây đi rồi tụi em ở nhà sao. Toàn con gái. Bọn lính cứ lảng vảng quanh nhà. Rồi sao má mần nổi để nuôi tụi nó. Chị Hai bây thì khờ.
Tôi cũng thần ra một lát rồi cười xí xóa:
– Thôi từ từ tính. Coi má mua quà gì cho tui nè!
– Kia kìa – Má liếc mắt ra hiệu ở đằng vách.
Thứ tôi nhìn thấy trên vách, dưới tấm ảnh má chụp cùng út Nhạn, như không phải chỉ là cây đàn phím lõm tôi hằng mơ ước, mà là cả một sân khấu hoành tráng cảnh Sở Bá vương Hạng Vũ đối mặt cùng Hán vương Lưu Bang.
Tôi mang cây đàn đến nhà chú Sáu Đờn. Cả bọn xúm vào trầm trồ cây đàn mới. Ui chèn ơi, thằng Bình là nhứt xứ này rồi. Sau này thành nghệ sĩ lớn đừng quên tụi này nghen. Út Nhạn ca đi. Út Nhạn mình không thua gì sầu nữ Út Bạch Lan đâu nghen.
Út Nhạn vẫn hồn nhiên hát như mọi đêm, khi ban đờn ca tài tử của xóm cứ ăn cơm chiều xong là rậm ràng rập rịt í a í ời đi ca tụi bay ơi. Những con Mén con Mẹc thằng Ngô thằng Ngố xúng xính những bộ đồ coi còn được được, phủi những đôi chân đầy cát, leo cầu thang cao nghều nghệu lên ngôi nhà sàn của ông Sáu Đờn, ba Út Nhạn, giành chỗ ngồi và hí ha hí hửng chờ đến phiên mình trịnh trọng đứng lên hát, thầm tưởng mình là vương là tướng.
Đêm đó Út Nhạn hát Phi Vân điệp khúc. Bản này tôi nghe từ khi út Nhạn còn ngọng nghịu nói không rành mà cứ giành hát. Bao nhiêu đêm đã trôi qua. Bao nhiêu mùa gió chướng lạnh căm căm mà cả bọn vẫn rúc bên nhau hát. Tiếng hát tròn dần mùi dần theo từng vóc dáng lớn lên của bọn nhóc với tham vọng cũng lớn dần lên của ông Sáu Đờn. Sao mình hông thành lập gánh hát vậy ta. Tao gửi ba Bình và út Nhạn lên Sài Gòn học nghề rồi về thành lập gánh hát nghe. Gánh hát mình đặc biệt hông cố định, mà ở trên ghe. Tao khoái đi đây đi đó. Tao khoái hát cho bà con trong cùng trong ngọn. Người ta nổi tiếng trên sân khấu lộng lẫy, còn tao khoái nổi tiếng trên sông nước.
Nên ông vui khi ba Bình có cây đàn mới, như thể ngày mai có thể tuyên bố với cả làng Khánh Bình rằng gánh hát của ông đã ra đời, với kép hát đẹp trai hào sảng khí khái vừa đàn hay hát mùi là Bình Thiên, cái tên nghệ danh ông vừa nghĩ ra cấp thì cho ba Bình và đào thương đẹp như hoa lục bình trôi lửng lờ trên sông Bình Di. Một con công xòe đuôi ánh tím ánh xanh lộng lẫy trên dòng nước trong xanh. Một nghệ sĩ tương lai sẽ không thua gì út Bạch Lan hay Bạch Tuyết. Từ nay gọi nó là Bạch Nhạn nghen tụi bay. Vở tuồng đầu tiên mình diễn sẽ là Bạch nhạn rợp trời Búng Bình Thiên.
Bạch nhạn là loài chim gì chưa từng ai thấy, càng không bao giờ rợp trời Búng Bình Thiên. Vở tuồng ai sẽ viết ông còn chưa nghĩ tới, nhưng cả bọn nhao nhao lên cho con làm Vua cho con làm Hòang hậu. Đứa tệ nhất cũng rụt rè lí nhí con làm nô tỳ cũng được.
Chỉ có nghệ sĩ Bạch Nhạn tương lai, út Nhạn vẫn hát. Tôi ngồi đối diện út, tìm ánh mắt em như muốn nhắn gửi lời ly biệt. Tôi đề nghị em hát lại lần nữa. Sao vậy? Đâu có sao đâu. Chỉ là muốn nghe tiếng tri âm lần cuối. Mai này cuộc chiến sẽ ra sao, ai còn ai mất, cung đàn này khúc nhạc này như niềm đồng hành trên đường lập chí trai bình thiên hạ như cái tên Bình ba đã đặt cho. Hoài bão làm trai phải có danh gì với núi sông của ba đã tất ngúm theo thời cuộc để ủ tro tàn trong chùa, nay nhen dần trong tôi.
Như linh cảm điều gì trong ánh mắt của tôi, út Nhạn khẽ gật đầu. Tôi dạo trên phím đàn mới. Mười sáu tuổi của út Nhạn là mười sáu năm Phi vân điệp khúc ướp hồn em từ tiếng hát của người mẹ rồi tới giọng hát của chính em.
Tiếng… tơ… đồng ơi! Sao buồn rơi, âm ba não nề? Rơi vào đêm đen mù khơi.
Ai?… Ai người tri âm? Một kiếp con tằm. Lăn lóc gió sương, đàn với ta réo kêu khúc tình thương.
Mòn gót chân phong sương, dù nắng mưa chẳng phai tấm lòng son. Ta với đàn trọn câu thủy chung, từng đêm ta vắt máu tim trao đàn.
Thương… thương sao tiếng đàn nhỏ giọt buồn rơi chắt chiu với đời, cung đàn hòa máu, máu tim đỏ hồng. Ôi tình ta xin gởi vào theo tiếng tơ. Ôi tình ta xin gởi lại theo tiếng tơ. Ôi tình ta xin để lại theo tiếng tơ…
Khi tôi còn đắm đuối theo tiếng tơ, thì chú Sáu Đờn lẳng lặng đi ra sau hè, ra miết bờ ruộng mấp mé nước dập dềnh. Nước tràn đồng rồi. Khi tôi thắt lòng dứt ra khỏi tiếng hát của út Nhạn xuống đứng kế bên ông thì ông nói như vậy.
– Bây đã suy nghĩ kỹ chưa? Mẹ con Nhạn sẽ đưa nó lên Sài Gòn. Dù hư thúi cỡ nào cũng là mẹ. Huống chi suy cho cùng cũng tại mình bất tài không giữ được người ta. Bả nói nếu bây và con út sâu nặng thì bả đem cả hai đứa lên đó dạy cho thành tài. Bây nghĩ sao?
– Con phải ra đi.
– Dứt khoát như vậy luôn hả?
– Dạ!
Khi tôi và ông trở lên nhà thì Út Nhạn đang đóng Tây Thi. Ông Sáu trân trối nhìn con đang rơi lệ. Ông lẳng lặng gạt con xuống, ôm đàn tự mình hát lớp Phượng hoàng, giọng buồn não nuột như cái lúc ông hát khi mẹ của út Nhạn bỏ theo đoàn hát cải lương đào kép sáng trưng đầy mê hoặc dạo nào.
“Tây Thi ơi! Nàng có biết không.
Cho nỗi khổ biệt ly sầu.
Từng đêm ngậm ngùi ta thức trắng.
Cả một bầu trời vừa sụp đổ dưới chân ta.
Nàng về với Ngô vương.
Với nhung lụa vàng son trong gác phượng cung hoàng.
Bỏ lại mình ta ôm mối hận lòng
Gối lẻ chăn đơn ta bàng hoàng xót thương cho số phận.
Bởi ta bất tài nên đành để mất Tây Thi.”
Lời ca theo tôi xuống ghe xuôi dòng sông Bình Di qua căn cứ Vạt Lài. Đó là chiếc ghe ông cho má tôi mượn tiền mua để chị Hai tôi đi buôn bán, vì sau khi tôi đi, những công việc nặng nhọc trong nhà không còn ai làm nổi. Sau này khi chị Hai không còn đi buôn nữa, chiếc ghe trở thành chiếc ghe hát tài tử. Những đứa bé trong ban đờn ca tài tử của ông ngày nào không bao giờ được bước lên sân khấu, kẻ tù đày, đứa hy sinh, còn lại vẫn như muôn đời cha ông mình làm một anh nông dân ngày quần quật đêm mơ khúc tình tang. Nhưng ước mơ của ông, má vẫn duy trì ban hát với những con út thằng ba mới, vẫn đến tận trong cùng trong ngọn hát đám tang đám cưới, hay không đám gì cả, lửng lờ thả ghe trôi trên sông mà “Tây Thi ơi! Nàng có biết không cho nỗi khổ biệt ly sầu?”.
Ông đưa tôi đi. Dáng chèo xuồng của ông như một dây đàn chùng xa xót nỗi tiễn đưa. Má tôi và út Nhạn đứng trên bờ trông theo. Xa hơn nữa dưới mỗi bụi chuối hàng dừa gốc me đám sậy, là những gương mặt lấp ló của mấy chị em tôi. Một cuộc tiễn đưa không bí mật cũng chẳng công khai.
Cây đàn treo trên vách. Mỗi lần Bạch Nhạn về là qua nhà đàn hát với má tôi. Cô đào Bạch Nhạn nổi tiếng Sài Gòn với vai Tây Thi ôm nỗi sầu thân Ngô hồn Việt lộng lẫy áo bào vương giả, nhưng khi về với má tôi vẫn đằm thắm nết na áo bà ba nón lá má ơi má à. Hai má con kẻ đàn người hát nuốt vào lòng bao nỗi đớn đau thời chiến binh loạn lạc. Tiếng đàn lần lượt đưa từng người về cõi xa xôi, nào ba tôi tịch viên mãn một đời tu hành, đi về cõi cực lạc một mình mặc đời thịnh hay suy, mặc bầy con nheo nhóc một mình má tôi bươn chãi. Tiếng đàn đưa ông Sáu Đờn đi trong bản Phượng hoàng đau đớn. Tiếng đàn đưa em Năm tôi, cũng là bạn thân tình của út Nhạn, đi trong một sáng tinh sương hòa tiếng súng gọn bâng vào tim. Máu tim em tràn ra đỏ cả dòng sông Bình Di, xác nằm phơi trên bãi tím ngắt hoa lục bình sóng đánh dạt vào bờ dưới cái nhìn đau đớn của má tôi. Tiếng đàn đưa em Bảy tôi tay bị cùm ra Côn Đảo rồi mãi mãi không về. Đoản khúc Lam Giang em thường hát thành bài ca lãng du hòa cùng sóng biển.
Đó là đêm mùng hai rạng mùng ba Tết Mậu Thân năm 1968. Tôi nhận lệnh tiêu diệt bọn lính đóng trong đồn Khánh Bình để mở đường cho chủ lực.
Tôi không nói với cả tiểu đội du kích của mình đó là ngày tôi tròn mười tám tuổi. Tôi hào hứng với trận đánh đầu tiên tràn đầy niềm tin thắng trận như món quà mừng sinh nhật cho chính mình, đánh dấu cho giai đoạn mới của cuộc đời. Tôi không biết nhiều về tình hình trước đó, dù những diễn biến của cuộc chiến cách đó vài ngày có liên quan đến trận đánh nhỏ nhoi vô danh của tiểu đội tôi, ở một ngôi làng cũng nhỏ nhoi xa xôi tận miền quan tái của tôi. Tôi chỉ biết nhận lệnh và thi hành mệnh lệnh, biết giữ vững niềm tin vào thắng lợi sau cùng. Đêm giao thừa, qua radio, tôi cũng được nghe bài thơ chúc Tết của Bác Hồ, hiệu lệnh mở màn chiến dịch Tết Mậu Thân vang dội toàn cầu sau này:
“Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.”
Nhưng mãi sau ngày giải phóng, tôi mới biết được toàn bộ diễn biến của trận Mậu Thân năm ấy, biết được khi cả tiểu đội du kích của tôi lội sông Bình Di từ Vạt Lài qua Khánh Bình, rằng Quân khu 5 đã nổ súng trước giờ G, làm lộ bí mật, vì miền Bắc và miền Nam áp dụng lịch khác nhau, rằng những trận đánh khốc liệt nhất của Biệt động đã nổ ra ở Sài Gòn, rằng cuộc tấn công của quân giải phóng đã lan ra khắp miền Nam tới tận Châu Đốc. Trong giờ phút tôi lom khom dẫn cả tiểu đội tiến vào đình, chắc hẳn cũng có hàng ngàn tiểu đội khắp miền Nam cùng tôi tiến công bao đồn lũy khác, hẳn cũng có hàng vạn thanh niên mười tám đôi mươi mặt trong trẻo hồn nhiên như tôi ôm súng và lý tưởng bước vào trận.
Đình Khánh Bình không chỉ là cái đình, mà đó còn là ngôi nhà chung của toàn thể dân chúng làng Khánh Bình. Mỗi năm, hễ vừa ăn Tết xong là cả làng háo hức chuẩn bị ngày cúng Kỳ Yên vào rằm tháng 3 của ngôi đình nổi tiếng nhất trong vùng đã tồn tại hằng trăm năm, đã được sắc phong Thần Hoàng Bổn Cảnh của vua Bảo Đại vào năm 1932. Nhưng điều tạo niềm tự hào của làng Khánh Bình đó đối với bọn trẻ chúng tôi không phải là điều quan trọng. Quan trọng là ngôi đình là nơi diễn ra những trò chơi đánh trận giả rất hoành tráng của bọn con trai chúng tôi, khi những trò leo cây, tắm sông…không còn hấp dẫn nữa. Tôi làm tướng, trong thâm tâm nghĩ mình cỡ như Hàn Tín đứng giữa cổng đình bề thế như cổng thành với hai con hổ đá dũng mãnh đứng hai bên cổng và hai con rồng chầu vòng lửa trên nóc đình. Quân sĩ xếp hàng dọc đều tăm tắp sau lưng tôi, mỗi đứa cầm một cây ná giây thun nạp sẵn đạn bằng trái ổi nếp non mọc hoang khắp nơi. Cả đội quân đang chờ đợi sự tấn công của kẻ thù, đội quân con nít từ làng bên kia sông Bình Di, làng đa số người Việt từ Camphuchia về, chiến tranh loạn lạc khiến họ hết lưu lạc từ Việt qua Miên rồi từ Miên về Việt, lúc phe Quốc gia, lúc phe Việt cộng, tùy Quốc vương Campuchia ngã theo phe nào. Chúng tôi ra sức bảo vệ cái đình vốn không cần sự bảo vệ. Chỉ là chúng tôi tự cho nó là cung điện của chúng tôi với những ban bệ thờ bên trong sơn son thếp vàng lộng lẫy như cung vàng điện ngọc. Những trận đánh bên nào cũng thua đầu u trán bầm với kết cuộc đứa nào cũng bị lôi về nhà với những trận đòn vì bỏ heo đói, bỏ em bị té cầu thang, bầy vịt lạc mất không ai lùa về…
Bọn trẻ đánh trận giả ngày ấy giờ cũng thành hai phe. Phe địch đóng quân trong đình và phe ta mà tôi đang dẫn đầu bao vây xung quanh đình. Bọn chúng trong đó có những đứa nào tôi đều rõ. Đứa nào giỏi nhất về bơi lội, có thể lặn cả buổi trời mà không biết được đang ở đâu dưới đáy sông, có thể bơi dọc sông Bình Di mà không cần phải leo lên bờ, đứa nào cùng tôi thả diều những chiều lộng gió, đứa nào giả đào đẹp tuyệt trần cùng tôi hát khúc Nam ai…
Nhưng điều tôi không rõ nhất đúng ra tôi phải biết trước khi dẫn quân đến đây, điều mà chủ quan trong trinh sát khiến tôi phải ôm hận đến sau này, không bao giờ nguôi được, là ngôi đình sinh ra tôi đã sống cùng, đã lăng quăng cùng nó theo năm tháng, đã được tụi “địch” của tôi, cái tụi cũng đã lớn lên cùng ngôi đình như tôi, tường tận từng góc đình, từng cái cây ngọn cỏ xung quanh đình không thua gì tôi, đã cho đào hai cái hầm ngầm kiên cố trong đình và một hệ thống giao thông hào đủ sức chống trả cả một tiểu đoàn chứ không phải một tiểu đội nhỏ nhoi của tôi. Kết quả trận đánh không như năm xưa đứa nào đứa nấy mếu máo líu ríu theo cha mẹ về nhà, mà sân đình Khánh Bình ngập ngụa máu và xác chết của cả hai phe. Cuộc chiến sinh tử khiến không còn ai quan tâm đến chuyện thằng trong đình hay ngoài đình kia là thằng từng cùng nắm tay mình nhảy từ trên cầu xuống sông cười nắc nẻ hay thằng mình đang nhắm súng bắn trúng vào tim là thằng từng cùng mình hát những bài lý mặn nồng tha thiết. Cảm giác cuối cùng trước khi tôi bị bắt là tôi đau đớn trái tim như hóa đá khi nhìn thằng Kheo ngọng đớt chỉ dám xin làm quân hầu trong các tuồng hát, ngã gục trước mặt tôi từ viên đạn bắn ra từ trong đình và viên đạn cuối cùng của tôi găm thẳng vào giữa ngực của thằng địch từng cùng tôi hát lớp Hạng Vũ biệt Ngu Cơ. Nó giả gái đóng vai Ngu Cơ còn đẹp hơn cả út Nhạn. Tôi nghe tiếng hộc cuối cùng của nó mà như nghe tiếng gọi của Ngu Cơ sau khi uống chung rượu độc.
Bệ hạ ơi…ơi…ơi…!
Ngu Cơ cùng quân sĩ chết hết, chỉ Hạng Vũ còn sống. Hạng Vũ ngày xưa đứng trước Ô giang ngậm ngùi trước khi tuẫn tiết. Tôi khi đó đứng trước sông Bình Di đau xót nhìn bãi chiến trường đầy xác chết không còn phân biệt nổi ai Sở ai Hán nếu chỉ nhìn vào làn da nét mặt, trước khi bị một thằng địch mắt man mác buồn ôm chặt tôi vật xuống đất. Hạng Vũ không ai phong nhưng cả nghìn năm sau thiên hạ vẫn xem ông là đấng anh hùng, dù bao nhiêu quân sĩ nước Sở ông dẫn qua Ô Giang đã không trở về. Còn tôi nỗi day dứt đeo đẳng mãi tới ngày hòa bình, cho tới tận sau này khi đứng trước ống kính truyền hình tôi từ chối danh hiệu anh hùng, vì tôi có xứng đáng là anh hùng không khi cả tiểu đội tôi dẫn đi đánh trận chết hết chỉ mình tôi còn sống, dù khoảng đời sau đó của tôi là vào tù ra khám, là lăn xả trong bom đạn để lại chiến trường cánh tay trái tài hoa, là xây dựng lại phong trào cách mạng sau năm Mậu Thân tan vỡ gần hết, là biến đình Khánh Bình thành nơi tiền tiêu bất khả xâm phạm, nơi nuôi giấu cán bộ, bộ đội, nơi đóng trạm của chi bộ, hộ, nơi dừng chân trước khi rẽ đi khắp vùng của mọi lực lượng, biến xã Khánh Bình thành một xã anh hùng qua trận chiến hào hùng mùa Xuân năm 1975, cũng như những trận tiêu diệt Polpot sau này.
Đám cưới cô đào Bạch Nhạn cùng ông trung tá rôm rả xứ Sài Thành cùng với lệnh ân xá khỏi tội tử hình của tôi mà cả tôi cũng ngỡ ngàng. Má đưa tôi lên xe đi tù với ánh mắt chao đảo những nỗi niềm. Trong đám bụi ngút trời sau xe, tôi nhìn thấy dáng má gầy đứng bên cây da mấy trăm năm tuổi. Tôi liên tưởng má với cây da, mãi mãi vững tồn cùng năm tháng không gì quật được. Bên cạnh má tôi giờ chỉ còn em gái út, sau khi lần lượt các anh chị kẻ hy sinh người bị đi tù. Em gái út có đôi mắt lì lợm, trong giờ phút đó càng nhâu lại, thấy từng tia máu. Em hét lên khi xe chạy: “Anh Ba kiên cường nghe. Út sẽ đi theo”. Út đã đi theo con đường tôi đi và đã hy sinh trong một lần đưa cán bộ qua sông. Một lần nữa giọt máu của má hòa trong dòng nước sông Bình Di. Má tôi chỉ còn một mình đứng dưới cây da sần sùi, rễ ngoằn ngoèo bò trên mặt đất, rễ phụ buông mành phủ khắp cả không gian tím trời chiều.
Sau khi tiếp quản, tôi bộn bề bao nhiêu việc vẫn chưa thể về làng. Má cho ghe đến tận bến trước cổng ủy ban. Bước sãi sãi vào cổng, má rổn rảng nói:
– Vừa được làm quan đã quên nguồn quên cội rồi hả ông quận?
Tui lập cập chạy ra, ôm má mừng mừng tủi tủi:
– Con nóng ruột muốn chết mà hông sao dứt ra về được.
Chị Hai tôi, người âm thầm đứng sau lưng tất cả chúng tôi, người nuôi quân thầm lặng, người khóc thầm lặng cho mỗi cuộc ra đi, mỗi lần tử trận của các em, đẩy dạt cái máy ghe qua một bên, phóng ào lên bờ, chạy đến ôm trọn cả má và tôi, khóc nức nở. Hai nhớ bây quá. Thấy bây trên truyền hình mà muốn đập cái truyền hình để ôm bây.
Má nắm lấy tay tôi:
– Đi với má.
– Đi đâu má?
– Qua Châu Đốc rước út Nhạn. Nó từ Sài Gòn về.
– Ủa, con tưởng.
– Tưởng cái gì?
– Tưởng Út phải đi di tản với chồng chứ.
– Tưởng tưởng cái đầu bây. Nó vừa cho người đưa thư về nè. Nó nói nó sẽ dẫn con về quê sống.
– Hả?
– Hả hả cái gì. Nó lấy ông trung tá là để cứu bây khỏi chết đó. Giờ bây không đi đón nó bây không phải là con người.
Tôi đi đón em không phải vì đền ơn cứu mạng. Tình yêu còn hơn cả mạng sống con người. Tôi đi đón người tri âm sẽ cùng tôi hát bài Phi vân điệp khúc dỡ dang năm nào.
Má mang theo ghe cả cây đàn tặng tôi năm ấy. Tay trái là tay thuận của tôi đã mất lâu rồi, nhưng tôi đã tập đàn bằng tay phải cũng như chuyển qua viết bằng tay phải. Không phải tôi mong chờ ngày được sum vầy cùng bà Trung tá phu nhân, mà dường như trong tôi, út Nhạn vẫn còn nguyên hình nguyên dạng trên ngôi nhà sàn cao ngất ấy, chỉ cần nghe tiếng đàn là Phi vân điệp khúc trong trẻo vang lên. Giọng ca của út Nhạn không còn trong trẻo như ngày xưa, mà nặng nỗi niềm dâu bể.
Ai?… Ai người tri âm? Một kiếp con tằm. Lăn lóc gió sương, đàn với ta réo kêu khúc tình thương.
Mòn gót chân phong sương, dù nắng mưa chẳng phai tấm lòng son. Ta với đàn trọn câu thủy chung, từng đêm ta vắt máu tim trao đàn.
Má hát bài lý con sáo làm trước mắt tôi cứ chập chờn đôi cánh sáo bay qua sông và hình dáng má tôi đứng dưới gốc cây da buồn cô độc, tay ẳm tôi, nhìn miết trên sông ngày ông Sáu làm đám cưới với mẹ út Nhạn. Câu chuyện của ba, má tôi và ông bà Sáu là câu chuyện không ai hiểu rõ. Nhưng với tôi, má mới đúng là người nghệ sĩ tài hoa bậc nhất trong thiên hạ. Hai bên bờ sông Bình Di, dập dềnh hoa lục bình tím ngát và vàng rực hoa điên điển. Một đàn vịt ngừng rỉa lông, ngẩng cổ lên nghe má tôi hát.
“Chiều chiều buồn nhìn con sáo bay
Nghe xót xa sáo bay về đâu
Thời gian tưởng chừng như giấc mơ
Theo tháng năm mái tóc bạc phơ”.
29/12/2019
Trương Thị Thanh Hiền
Theo https://vanhocsaigon.com/

Người đàn bà giặt áo mùa đông

Người đàn bà giặt áo mùa đông

Này ánh trăng Ngươi thắp sáng làm gì Biến đi Đừng để ta nhìn vào lòng sông Đớn đau kia Sao xóa nhòa ký ức
Tôi mở cánh cửa sau vườn, làn gió mùa đông thốc thẳng vào mặt. Hôm qua, đài báo thời tiết đêm nay xuống 9 độ C. Ở trong nhà, tôi mặc lớp này đến lớp khác mà vẫn lạnh. Vậy mà ngoài kia… Nghĩ đến tôi rùng mình. Tiếng hát của Tuệ vẫn cao vút trong gió đêm.
Giấc mơ ngày xưa có anh
Đêm mùa đông cái nắm tay nồng ấm
Hạnh phúc rồi chỉ là ảo mộng
Anh ngút ngàn xa…
Rồi Tuệ khóc. Tiếng khóc của cô như cứa vào lòng người. Bóng cô nhỏ bé quyện vào bóng trăng. Chân trần hòa vào làn nước lạnh buốt. Cô vốc nước khỏa lên mặt, lên toàn thân. Giữa cái lạnh cắt da cắt thịt nhưng Tuệ luôn có cảm giác toàn thân bốc hỏa. Người cô nóng hừng hực như cái lần đầu tiên anh chạm vào cô. Rồi cái nóng đó bốc thành lửa thiêu rụi cánh đồng chưa vào mùa gặt. Lửa bùng lên dữ dội xóa sạch cánh rừng những ngày tháng sáu gió Lào rát mặt. Cô gục đầu lên xác anh ướt sũng. Mắt cô trơ ra nhìn tấm thân anh bắt đầu rã ra vì ngâm nước quá lâu.
Người ta tìm thấy xác anh dạt vào bến sông sau mười lăm ngày mất tích. Cô không tin, cô nhất định không tin đó là anh. Chẳng phải anh đã nói anh đi làm ăn xa sao. Anh bảo lần này sẽ đi hơi lâu vì công việc trên đó đang gấp. Họ cần anh. Cô lặng im. Có lẽ như vậy cũng tốt. Mỗi ngày cô không phải tìm cách né tránh anh. Cô không phải khổ sở đối mặt với anh vào mỗi bữa cơm. Cắm cúi ăn thật nhanh rồi bưng thau quần áo ra sông, cô nuốt nước mắt nhìn bóng mình chao chát trên sông. Đã không ít lần cô có ý định bỏ đi. Cô sẽ theo người ta vào nam làm ăn. Bạn bè cùng lứa cô chẳng còn bao nhiêu người ở nhà. Họ đi tìm cơ hội mới. Họ muốn được ngẩng mặt thoát khỏi mảnh ruộng nứt nẻ vào mùa hè, buốt giá vào mùa đông. Nhưng khi nghĩ đến cha, cô lại không thể dứt mình ra khỏi bến sông. Cô lầm lũi như cái bóng trong căn nhà u tối.
Tuệ im lặng, không tham gia vào bất kỳ cuộc họp bàn nào trong việc tổ chức chôn cất anh. Nhưng khi cô nghe ban lễ tang nói anh sẽ được nằm dựa lưng vào núi đá, mặt hướng ra sông, thì cô thở hắt, nước mắt trào ra. Cô nhớ đêm mùa đông, trăng mười ba chênh chếch trên ngọn núi đá, gió lạnh cắt da. Cô và anh đã đứng đó nhìn ra bến sông. Họ đứng thật lâu, lặng im. Khi trăng gần xuống núi, anh kéo cô ôm chặt vào lòng. Nước mắt cô ướt đẫm vai áo anh. Cô chưa bao giờ quên được đêm hôm đó. Dù những đêm sau, chỉ còn mình cô nhìn về bến sông cô vẫn ngồi giặt áo mỗi đêm. Cô đã chờ đợi anh, cô đã hứa sẽ chờ anh. Vậy mà khi anh trở về nơi đó, họ đã trở thành người của hai thế giới, nghìn trùng cách xa.
Tuệ điên. Cô chỉ ngồi ở bến sông trò chuyện một mình. Người làng bảo do cô đã để nước mắt rơi xuống thân xác người chết.
Tôi chưa từng thấy người điên nào đẹp như Tuệ. Dáng cô mảnh. Mái tóc dài và dày, đen mượt, buông xõa. Cô vẫn ngồi ở bến sông lặng lẽ hát, lặng lẽ khóc cười. Cô vẫn chờ. Cô chờ anh trở về cùng cô giặt áo mùa đông. Cô thích mặc áo trắng, chiếc áo được giặt ở bến sông đầy gió.
Từ khi thích trò chuyện một mình, Tuệ gần như sợ hãi tất cả con người. Mỗi lần chị cô mang cô về từ bến sông, cô lại giấu mình vào góc phòng rồi sau đó tìm cách trốn chạy. Cô không tiếp xúc với bất kỳ ai. Cô cứ lén lút lẩn trốn tất cả những ai muốn lại gần mình. Tìm mãi, tìm mãi mà cô cứ bỏ đi cũng mệt. Chị cô mặc kệ. Chị cũng đã hoang hoải lắm rồi.
Người đàn ông của đời chị đã ra đi. Lúc nhìn xác anh với đôi mắt ngơ ngác như ai oán không khép lại được, chị đã không thể khóc. Chị biết, chưa bao giờ anh yêu chị. Hai đứa con của chị không được sinh ra từ tình yêu mà từ nghĩa vụ. Chúng khóc, gọi cha. Tiếng chúng khản đặc trong đêm khi không thấy anh về. Nhưng khi anh nằm đó thì bản thân chúng chưa đủ lớn để cảm nhận hết nỗi mất mát mà chúng phải gánh chịu. Anh không yêu chị cũng được. Anh không cần phải nồng nàn với chị cũng được. Chị không trách anh. Chỉ cần anh ở đó, là chồng chị, là cha của con chị. Vậy thôi. Như suốt một thời con gái, chị đã yêu anh trong tuyệt vọng. Chị đâu nghĩ rằng anh sẽ mặc áo chú rể và đi cạnh chị cảm ơn lời chúc tụng của họ hàng. Anh là của chị, dù tình yêu anh đã gửi gắm ở một nơi khác. Chị chấp nhận tất cả, để gần anh. Nhưng cái xác ấy bây giờ đã không còn thở nữa. Ánh mắt anh đã không còn lạnh nhạt nữa. Chỉ có nỗi đau xéo xắt trong lòng chị. Chị mệt mỏi quá rồi. Chị chỉ muốn gục xuống bên xác anh. Nhưng còn cha, còn con và đứa em điên điên dại dại.
Tuệ không về nhà. Có những ngày không ai thấy cô. Chỉ có đám trẻ thi thoảng hứng chí đi tìm cô, chọc ghẹo cô, rồi lại chạy bán sống bán chết khi cô thôi hát. Đêm xuống, tiếng hát Tuệ đánh thức cả ngôi làng. Bến sông ngập đầy ánh trăng. Tuệ thả mình trong không gian lung linh huyền ảo ấy. Giọng cô khi lảnh lót vui tươi, khi nhớ thương day dứt, khi đau đớn chia lìa. Người ta kháo nhau, bến sông bị ma ám. Ít ai dám ra đường vào ban đêm, nhất là đi ngang bến sông. Trẻ con cũng hết dám chạy theo kêu: “Tuệ điên, Tuệ điên” hay ném những thứ dơ bẩn về phía cô. Gió mùa đông vẫn cắt vào từng thớ thịt. Bến sông chỉ còn lại mình Tuệ. Dường như, cả không gian ấy là của cô…
Tuệ mất tích. Không ai biết cô đi đâu. Nhiều đêm rồi, chẳng ai còn nghe tiếng hát ma mị của cô trên bến sông. Ban đầu, mọi người đều nghĩ chắc cô đã bớt điên nên về nhà. Cũng có thể cô bị bệnh nên gia đình mang cô về. Trời rét căm căm thế này, người khỏe mạnh còn chẳng chịu nổi, huống hồ, một cô gái điên. Nhưng Tuệ không về nhà. Nhiều người bảo như thế cũng hay, chẳng phải nghe cô hát, cô khóc mỗi đêm. Đỡ sợ… Nhưng Tuệ đi đâu. Cô có thể đi đâu khỏi ngôi làng này được cơ chứ? Cả đời Tuệ chưa từng ra khỏi cánh đồng làng. Cô lớn lên như bao đứa trẻ khác, quanh quẩn với ruộng vườn. Tuệ thích giặt áo trên bến sông để nghe cá nhảy nhót tung tăng, để hứng từng mảnh trăng rơi những đêm cuối tháng. Tuệ yêu những buổi chiều làm đồng cùng người làng rôm rả trò chuyện khi mùa về. Cô chưa ra khỏi bến sông. Một cô gái điên có thể đi đâu ra khỏi bến sông này?
Mùa hè đã khoác lên mình chiếc áo màu vàng tươi thắm. Nắng trong như mắt mèo biêng biếng một màu nhớ. Bến sông đầy ắp những tiếng cười trẻ thơ. Bao nhiêu mùa đông rồi mùa xuân đã trôi đi nhỉ. Hay, chỉ mới ngày hôm qua đây thôi. Ngày hôm qua mùa hạ đã về. Nắng vàng trải trên những cánh đồng. Nắng hanh hao trên mảnh đồi cỏ cháy. Mùa làm cho người ta quên quên nhớ nhớ. Như ngày Tuệ trở về giữa chiều gió mênh mang. Đứng trên ngọn đồi, nơi anh yên nghỉ, Tuệ ôm đứa trẻ đang ê a áp chiếc miệng xinh xắn vào má người mẹ điên. Mắt Tuệ nhòa đi trong nắng. Cô gục đầu lên nấm mồ xanh cỏ. Tha lỗi cho em, cô khóc. Tha lỗi cho em đã ra đi không một lời từ biệt. Nước mắt cô lại phủ kín trên ngực anh lần nữa.
Khi Tuệ ngước nhìn lên, cô thấy con bé cười, nụ cười bình yên như nắng chiều trên bến sông. Bé con đưa tay huơ huơ trong không trung như đùa giỡn với ai đó. Tuệ lặng đi. Là chị. Là chị sao?
“Đừng khóc nữa. Về là tốt rồi.”, giọng chị run run. “Em thắp cho cha nén nhang đi. Cha chờ em lâu lắm rồi. Hãy tha thứ cho cha”.
Mắt chị gầy quá. Ánh mắt côi cút khi lần lượt phải lìa xa người chồng chị yêu thương, vuột mất đứa em ruột rà máu mủ. Ánh mắt hốt hoảng giữa đêm khuya khi chị chạm vào đôi tay lạnh ngắt của cha. Nhưng, đau xót hơn khi chị đọc được những dòng thư ông viết trước lúc lìa xa cõi trần. Ngộ sát. Cái chết oan ức của anh chỉ một từ “ngộ sát” để giải quyết thôi sao? Tại sao lại như thế? Chị đã trân trân nhìn xác cha lạnh ngắt trên giường, bình thản như đang say ngủ. Vẫn biết rằng họ không thuận nhau, nhưng tại sao chứ? Anh là con rể, là cha của những đứa cháu của ông mà. Chị muốn gào khóc, muốn dựng ông dậy để hỏi tại sao. Nhưng chị không thể. Ông đã không còn có thể nói lời nào nữa. Ông đã chọn cách kết thúc tất cả, cùng với từ “ngộ sát”. Chị kìm chặt tiếng nấc, đau thắt lòng nhìn các con. Các con chị nằm kia, chúng không thể nào kinh động một lần nữa. Chúng không thể biết về sự thật cha chúng đã rời bỏ chúng ra sao.
Và Tuệ, nghĩ đến cô, lòng chị thắt lại. Có phải cô đã biết sự thật nên cô mới nửa điên nửa dại như thế. Tuệ đi đâu? Chị lại thảng thốt gào lên. Tuệ ơi, em ở đâu? Nghĩ đến Tuệ, đến các con và cả hình hài héo úa của cha đang nằm kia, chị chỉ còn một cách duy nhất chôn chặt bí mật trong lòng. Ánh lửa bùng lên, cháy xém đầu ngón tay đeo nhẫn của chị.
Bến sông mỗi đêm lại văng vẳng tiếng ru hời. Là tiếng hát của người mẹ trẻ, tiếng ru ngọt ngào yêu thương. Tuệ hết điên. Tuệ chưa hết điên. Tuệ cứ mơ mơ tỉnh tỉnh. Nhưng Tuệ ru con rất hay. Giọng Tuệ lại trong vắt vang xa, hòa vào dòng nước sông trong vắt.
Mùa đông này, hẳn Tuệ không còn giặt áo trên bến sông.
Mùa đông này, Tuệ ủ ấm con trong suối tóc mênh mông tình mẹ.
Mùa đông này, tôi khép cánh cửa để gió thôi lùa qua song.
29/12/2019
Đoàn Phương Huyền
Theo https://vanhocsaigon.com/

Một chiều Hồ Gươm

Một chiều Hồ Gươm

Hồ Gươm cạn nước, khoe ra một hố khảo cổ sắp xuống đến đáy. Đúng dịp này tôi nhận đề tài nghề cổ quanh hồ Gươm. Chẳng mất công đào cũng được khối di vật lịch sử. Nghe tôi nói thế, anh Tôn người làm cùng sở, bình luận ngay, mày làm sử học theo lối móc cống.
Nói cùng sở cho oai vậy thôi, tôi còn là sinh viên, lại là dân tỉnh lẻ, xin được chân trực đêm cho công ty du lịch Hoàn Kiếm ngay bên hồ Gươm để có chỗ nương thân, tắm giặt và đặt một rương sách. Tắm giặt, học hành chứ không ngủ. Tôi chuyên trị các ca đêm, tranh thủ ngủ vào những lúc các thầy giáo trẻ không giảng mà đọc cho sinh viên chép giáo trình. Chép làm gì, tôi đọc đã nhão những trang ấy trong các ca trực. Vào những ngày không phải đến trường, tôi có thể chập chờn giấc trưa trên cái giường kê ngay trong hầm để xe.
Trưa nay anh Tôn gọi điện xuống, có thích rùa nổi, lên mà xem! Tôi chạy như tên bắn qua cả trăm bậc thang lên tầng bốn. Anh Tôn đang quan sát rùa bằng ống nhòm. Nhưng không hướng ra mặt hồ mà quay sang nhà hàng karaoke, tầng lầu đối diện. Đấy là phòng nghỉ của các cô tiếp viên. Anh Tôn đưa ống nhòm cho tôi. Lần đầu tôi được thấy các khỏa thân sống. Không mảnh mai và mịn màng như khỏa thân Văn Cao minh họa báo Văn Nghệ, cũng không thật đến gồ ghề, méo mó như kiểu vẽ của Bùi Xuân Phái. Tôi đỏ mặt buông ống nhòm. Anh Tôn cười hinh hích. Xem đi chứ! Thấy động lại đậy nắp cống bây giờ!
Y như rằng, cái rèm cửa được kéo lại. Tôi nhòm ra hồ Gươm. Trên bờ hồ một cụ ông đang bới đống bùn rác mà công nhân nạo vét hồ đổ từng xô lên thùng xe tải. Trông quen quen, tôi chỉnh lại ống nhòm. Trán hói thật cao, những lọn tóc hiếm hoi còn lại thì dài tới chấm vai. Ai như giáo sư Vương? Tôi định hỏi anh Tôn (nhà Hà Nội học của riêng tôi) thì anh đã không còn trong phòng. Tôi bỏ ống nhòm, tìm ra hồ. Nếu được giáo sư Vương cho mấy câu về các nghề cổ truyền tôi đang tìm kiếm thì còn gì bằng!
Không phải giáo sư sử học, đấy là ông lão bơm xe vẫn ngồi chỗ gốc cây đa ba cảm tử quân bên đền bà Kiệu. Tôi cũng đã được cụ bơm cho vài lần nên quen mặt. Cụ tìm gì nhỉ? Có mảnh nghề cổ nào tôi đang cần trong đó không?.
Ông ơi! Bơm hay vá cũng nghỉ nhá! Ông ơi, cháu muốn hỏi chuyện? Muốn hỏi thì lên đây!
Tôi ngại cái đám bùn nhão nhoét, lổn nhổn kia, nhưng tiếc những thứ có thể lượm từ đấy cho đề tài của mình. Chính mắt tôi vừa thấy cụ Bơm nhặt được những đồng xu, đấy có thể là phế phẩm đổ xuống từ phường đúc Tràng Tiền bên kia hồ. Chưa hết phân vân, cái xe tải đã hết sức chứa, cánh thợ nạo vét nghỉ. Cụ Bơm lịch sự, mời cậu qua hàng chè chén bên kia đường ta nói chuyện. Cậu sang xơi nước tự nhiên. Tôi mời. Để tôi vào đền rửa mấy đồng xu này đã.
Cụ Bơm vào đền bà Kiệu lối cửa hậu như vào nhà mình. Tôi mừng vì đã tìm đúng người cần gặp, một người chơi đồ cổ, lại chơi ngay những thứ vớt lên từ cái hồ lịch sử còn sống trước mặt kia, tha hồ hỏi. Có khi xin được cả cổ vật cũng nên. Cụ Bơm đã sang. Tôi vào chuyện ngay…
Tiếc quá, cậu chẳng đến sớm dăm năm, lúc ông Nguyễn Mậu còn sống. Ông ấy mới đủ chữ nghĩa giúp cậu chứ tôi chỉ là anh bơm xe, mới học hết lớp bảy, biết gì mà nói. Cậu cũng khéo chọn đề tài nhỉ, nghề cổ ven hồ. Chẳng giấu gì cậu, sinh thời cụ Nguyễn Mậu vẫn coi tôi là bạn vong niên, sách nào mới ra cụ cũng đề tặng. Những cuốn ấy tôi đều được đọc từ khi còn là bản thảo. Có lần đưa sách, cụ nói, dù phải đứng đường kiếm sống như anh em ta, nhưng đứng ngay đây, được cái hồ lịch sử này thăm nuôi cũng là đại phúc. Ráng sống cho ra người Tràng An. Ông cụ vẫn dạy như thế. Cụ lại bảo, những nghề chẵn, nghề lớn thì đã có chỗ trong ba mươi sáu phố. Nghề lẻ như anh em mình phải ra bờ hồ, ra phố thứ ba mươi bảy này. Ngẫm lại mà đúng cậu ạ. Cũng nhờ bên trọng bên khinh như thế mà người Hà Nội những năm bắt đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn được nghe hát xẩm, ngay dưới chân tháp Bút bên kia. Người Hà Nội mới có ông Hoa kiều lơ tẩy hồng, bán rao tận cổng mỗi nhà, cứu lấy những áo trắng phin nõn ngả màu cháo lòng. Chúng tôi đều đứng đường cậu ạ, ông Mậu đứng cắt tóc. Còn tôi, khắc bút với sơn mạ huy hiệu. Mãi sau này giải ngũ thanh niên xung phong tôi mới chuyển ngành bơm xe. Sơn khắc mới là nghề gia truyền. Quê tôi bên Đông Hồ nhưng nhà tôi có tiệm khắc dấu phố hàng Gai, bố tôi làm không hết việc mới nhờ vả bạn thợ, thành ông chủ lúc nào không hay, bị đánh tư sản, nhà riêng hóa thành hợp tác xã. Bố tôi chỉ là anh xã viên mà được quen với ông quốc ca Văn Cao kia đấy. Một thời tranh bìa Văn Cao nhà Thanh Niên với minh họa của ông ấy trên báo Văn Nghệ một tay bố tôi khắc gỗ. Vậy mà không đủ tiền nuôi tám miệng ăn trong nhà, ông cụ mới kiếm cho anh cả tôi một con dao khắc, anh tôi ra nghề khắc bút ngay bờ hồ này. Bút Trường Sơn với Hồng Hà khắc cả nghìn cây chứ chẳng ít. Khắc tặng thầy, tặng bạn, khắc tên mình để đánh dấu phòng người ta cầm nhầm. Mấy bữa nay tôi theo sát cánh vét hồ là vì muốn tìm dưới ấy một bản khắc của nhà. Sáng nay cô út nhà tôi lên chùa Bộc thắp nhang cầu vớt được di cảo của anh cả. Tôi thấy nóng ruột lắm! Cạn đến thế kia mà chưa thấy thì lạ quá. Chính tôi cùng với anh tôi thả những bức khắc ấy xuống hồ mà. Những đồng xu này nhân tiện thì nhặt thôi. Tôi quyết tìm cho được bút tích anh mình dưới ấy. Mà thôi cánh thợ vét lại vào việc rồi!
Một thợ sơn khắc tìm đồ gia bảo trong đống bùn rác! Lạ nhỉ! Tôi bám sát ông cụ hay chuyện và chẳng còn ngần ngại, trèo lên xe tải. Gần tiếng đồng hồ nữa, cũng chưa thấy gì, hai ông cháu lại vào giải lao ở hàng chè chén. Lần này đã thấy anh Tôn ngồi đấy. Thì ra anh Tôn với cụ Bơm quen thuộc từ trước.
Chú mày giỏi thật! Mò được văn bia rồi. Cứ chép cho hết chuyện từ cái bia sống này cũng thành một quyển sách. Địa chỉ văn hóa của anh đấy. Tháng trước nhóm các nhà sử học Pháp sang chuẩn bị cho hội thảo 50 năm Điện Biên Phủ, họ muốn tìm hiểu vang động đời thường của Điện Biên. Anh đưa tới cụ đây, ngay dưới gốc đa này, trân trọng giới thiệu cụ là người thường trực ở điểm hẹn ven hồ Gươm của các cựu chiến binh Điện Biên Phủ! Là vì những cụ bạch đầu quân muốn làm mới huy hiệu Điện Biên bác Hồ tặng, cứ phải đến đây, chỉ còn cụ là nhận sơn mạ huy hiệu. Đây là người cuối cùng của nghề này em ạ!
Cụ Bơm nâng chén chè nóng bằng cả hai tay mời anh Tôn. Không dám! Đấy không còn là nghề nữa, là nghiệp rồi cậu ạ! Mình không làm mấy việc sơn phết tỉ mẩn ấy, thời buổi bận bịu này còn ai mặc áo mới cho các chiến sĩ vô danh. Ông Bơm nói rồi chỉ tay vào anh bộ đội mũ nan, đứng ngắm bắn dưới lá cờ quyết chiến quyết thắng trên tấm huy hiệu ông mới lựa ra từ một hộp huy hiệu đút trong túi ngực. Tôi làm việc này như tô tượng, cúng dường không lấy tiền của bất kỳ cựu chiến binh nào! Ngày ấy, anh em tôi vừa khắc bút vừa học được ngay trên vỉa hè này nghề sơn mạ huy hiệu. Những huy hiệu cũ đã tróc sơn, chúng tôi đốt cho sơn bong hết hẳn, rồi cu lơ lại. Đẹp như mới xuất xưởng bên Trung Quốc bên Liên Xô. Anh tôi nhập ngũ, để lại nghề sơn khắc cho tôi.
Tới đây anh Tôn đã nhấm nháp xong chén nước, lại nối mạch chuyện. Cái hôm dẫn mấy ông Tây sử học đến đây, các ông ấy hỏi mua huy hiệu Điện Biên, cụ không bán, chỉ tặng. Rồi cụ cởi huy hiệu mình đang đeo trên ngực, lật mặt trái ra khoe chữ kí của hai họa sĩ, những người vẽ ra cái huy hiệu này, khắc rất sắc nét. Một ông Tây, ngạc nhiên lắm, nói rất Tây, lần đầu tôi mới thấy một tấm mề đay không có mặt trái! Thế rồi họ khăng khăng đòi anh dẫn lên gặp các họa sĩ ấy, ông Mai Văn Hiến với ông Nguyễn Bích. Cũng là bạn vong niên của cụ đây em ạ. Con lạy cụ! Cụ ra cái đòn ngoại giao ấy hơi bị giỏi đấy. Một tấm huy hiệu mà mặt tiền thì quân sự tiền phương, mặt hậu có hậu phương văn hóa, bố Tây cũng khiếp vía. Nãy giờ bố cho buyp phê chè chén rồi. Bây giờ con xin đãi bố một ly rượu. Cụ Bơm từ tốn xin vâng! Để tôi góp thêm đĩa lạc.
Bà hàng nước bán thêm được ba chén rượu thì vui lắm. Góp chuyện. Ngồi đây tôi cũng được thơm lây. Có người nhờ chuyển huy hiệu, đã không đòi biên nhận lại còn khuyến mãi một vài cốc nước với thanh kẹo lạc. Nghĩ mà tiếc cho bác cả ông nhỉ! Sơn khắc đã giỏi lại còn là nhạc sinh của thầy Lê mù bán sáo trúc chỗ nhà bia Sơn Đắc Lộ đấy nhé. Ngay đây này. Ông Lê mù thổi Tiếng thơ thì giỏi, chứ thổi Anh vẫn hành quân là phải bác cả nhà này. Tiếng sáo nẩy lắm. Bác cả mà đứng bán sáo giúp anh Lê mù thì đắt hàng phải biết. Đủ chiêu tiếp thị, thổi mẫu, khắc tên, chép bài kỷ niệm. Bên ven bờ Hiền Lương, Tình trong lá thiếp hay Giữ trọn tình quê bài nào cũng biếu không. Tiếc quá bác cả mà còn sống thì cũng có danh phận chứ chẳng…
Chẳng ngồi bơm xe như tôi chứ gì! Ông Bơm cười ha hả. Tôi cũng đã thanh niên xung phong, thưa bà. Anh tôi đã đi chiến trường B đã liệt sĩ rồi tôi chỉ được xung phong loanh quanh Hà Nội. Suốt mấy năm tại ngũ, chỉ chuyên lo chuyện thoát nước, chuyên xung phong xuống cống. Vậy mà cũng có thằng bạn liệt sĩ đấy. Thằng Dâu bên Gia Lâm. Chân đất quen rồi, xuống cống không chịu mang ủng, giẫm phải cái tăm tre. Kinh khủng lắm! Cái tăm cật ngâm nước cứng như đinh sắt xuyên qua bàn chân. Nhiễm uốn ván rồi chết.
Chuyện đến đây thì từ lòng hồ ồ một tiếng lạ lắm. Mặt hồ đang lúc chiều xuống bỗng ánh lên. Thì ra mấy chúng tôi mải chuyện không biết rằng cánh nạo vét lại đã làm việc và hình như họ mới móc được thứ gì quý giá lắm.
Tôi và anh Tôn theo cụ Bơm chạy sang hồ. Người ta móc được pho tượng Phật. Tượng đá mà lại thếp vàng nên mới phát sáng như thế. Mọi người thành kính lạy Phật, chẳng để ý đến những thứ bùn rác được vớt lên cùng bức tượng, mấy cái bát hương và một tĩn sành. Cụ Bơm lượm cái tĩn, đi rất vội sang đền bà Kiệu. Bức khắc giấu trong cái tĩn ấy chăng? Trong tĩn toàn bùn nhão. Chúng tôi mở vòi nước, bùn ấy lại xuống cống. Tôi đỡ cái tĩn bằng cả hai tay để ông Bơm cọ rửa mấy mươi năm rêu phong. Hàng chữ khắc vào da sành hiện dần, chữ sông, chữ núi rồi chữ hồn. Ông Bơm lần theo những con chữ, kể tiếp chuyện nhà.
Thứ đồ sành này đựng nước mắm Phan Thiết, mỗi lần nhà tôi mua cả chục tĩn, ăn hết lại đổi tĩn mới. Đất nước chia cắt, nước mắm Phan Thiết không ra được, mấy cái tĩn không chẳng để làm gì nữa ông cụ mới dạy chúng tôi tập khắc trên ấy. Khắc chữ như viết tập rồi khắc hình. Hình đôi chim hòa bình tung cánh trên dải dất hình chữ ét, hình người vợ miền Nam khăn rằn trùm đầu đứng dưới bóng dừa ngóng chồng… Anh tôi khắc hết ngần ấy cái tĩn sành mới đi khắc bút nhựa thì khắc đã như múa bút! Vậy mà vẫn không đủ tiền học cho mấy đứa em. Ông ấy đem giấu những cái tĩn này xuống lòng hồ Gươm, để tôm cá vào làm tổ trong ấy, mình xuống bắt về, bù vào chỗ thiếu hụt tem phiếu, biến tiền chợ thành tiền học. Ông ấy sát cá lắm, hành quân xa Hà Nội cả nghìn cây số rồi, tôm cá vẫn kéo vào ủng hộ. Hồ Gươm nuôi nhà này ăn học cậu ạ!
Cụ Bơm kể đến đây thì dòng chữ khắc quanh cái tĩn như một thứ hoa văn trang trí  hiện đủ một vòng tròn ĐÂY HỒ GƯƠM HỒNG HÀ HỒ TÂY ĐÂY LẮNG HỒN NÚI SÔNG NGÀN NĂM… Mười bốn chữ khắc liền không chấm phẩy để cái vòng ngàn năm kia có thể bắt đầu bằng bất kỳ con chữ nào…
Câu chuyện trên xảy ra chiều 12.1.2004 nhằm 21 tháng Chạp Quý Mùi tôi có ghi đầy đủ trong hồ sơ khoa học của mình.
29/12/2019
Trần Quốc Toàn
Theo https://vanhocsaigon.com/

Duyên biên cương

Duyên biên cương

Ông Lự cùng con trai ngược lên biên giới. Lòng ông háo hức lạ.
Suốt mười năm, từ 1979 đến 1989 ông Lự đã chiến đấu ở đây, lăn lộn với từng tấc đất, cho nên trở lại lần này ông vui lắm. Từ ngày ra quân, ba chục năm rồi, công việc thôn xã bộn bề ông đã có dịp nào quay lại đâu. Hết chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, đến chủ tịch, rồi bí thư, toàn đứng đầu hàng như thế ông làm sao có thời gian đi được? Lần này, ba tháng nữa ông nghỉ hưu, đúng lúc thằng con trai ông nó đòi lấy vợ, ông Lự mới dứt ra được để đi hỏi vợ cho nó. Thượng úy, đồn phó biên phòng, con ông cũng ba mươi tuổi rồi chứ ít gì. Giục mãi anh chàng giờ mới đứng số. Bố nào con nấy, nó đi đúng đường ông đi trước đây, đóng quân đúng nơi ông chốt ngày trước. Thế nên, một chuyến đi với nhiều ý nghĩa. Hỏi vợ cho con, thăm chiến trường cũ, chuẩn bị nghỉ hưu… Toàn chuyện hỉ. Không phải là song hỉ mà đã là đa hỉ rồi. Vui quá đi chứ!
Quang cảnh đường lên Hà Giang khác xưa nhiều. Đường nhựa phẳng lì. Rừng xanh miên man. Sông Lô ngay bên đường hiền hòa trôi xuôi. Hồi còn bé, chỉ nghe bố kể về nơi này, ông đã mê rồi. Chiến dịch thu đông năm “bốn bảy”, giặc Pháp mở gọng kìm tiến lên Việt Bắc. Trận Đoan Hùng đó, đơn vị pháo binh của bố ông với phương châm “đặt gần bắn thẳng” đã bắn chìm mấy tàu chiến địch. Gọng kìm của chúng bị quân và dân ta bẻ gãy. Ta thắng ròn rã. Chúng phải gọi nơi này là “thảm họa Đoan Hùng”. Giọng bố ông kể hào sảng lắm. Kể xong ông còn ngâm ngợi hát. “Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u. Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu…”. Trường ca sông Lô đấy. Hay thế cơ chứ lị. Lự nhìn bố hát và cũng mơ màng hát theo ông. Trong trí tưởng tượng của Lự, hình ảnh về trận đánh, về dòng sông Lô với những bông lau rập rờn hai bên bờ, về trái bưởi giả làm thủy lôi trên sông cứ ám ảnh mãi.
Tới khi vào bộ đội, hành quân ngược sông Lô lên biên giới năm 1979, không khí chiến tranh bao trùm, gấp gáp, mọi suy nghĩ của các chiến sĩ lúc đó đều hướng về tuyến trước. Lự cũng vậy. Chưa kịp cảm nhận gì về sông Lô thì anh đã phải lao vào đánh nhau với địch rồi. Bây giờ, mấy chục năm sau xa cuộc chiến tranh, đi giữa khung cảnh thanh bình này, ông Lự mới ngấm câu chuyện của bố ông ngày trước và nhớ về năm tháng ông quần nhau với giặc trên biên giới. Sông Lô đẹp và thơ mộng quá. Tượng đài Chiến thắng sông Lô sừng sững bên bờ ngã ba sông. Đoan Hùng ngạt ngào thơm hương bưởi. Tuyên Quang miền gái xinh. Chè xanh ngút mắt nương đồi. Rừng cam vừa qua mùa thu hoạch còn sót lại mấy trái vàng ươm treo trên cây. Bất giác, giai điệu trường ca sông Lô khe khẽ vút lên trong đầu ông… Và rồi, loáng cái xe đã đến địa phận huyện Vị Xuyên lúc nào không biết. Ôi, Hà Giang mến yêu của tôi! Những năm tháng chiến đấu khi xưa bỗng ào ạt hiện về.
Mặt trận Hà Giang dạo ấy rất nóng bỏng. Lự lăn lộn ở vùng này từ đầu năm 1984. Các điểm tựa từ đồi Tròn, lũng 840, Pa Hán (đông sông Lô) đến đồi Cô Ích, bình độ 1100 (tây sông Lô), từ huyện Vị Xuyên sang huyện Xín Mần, chiến đấu không thiếu một cứ điểm nào. Những ngày đông giá rét, nhiều hôm nhiệt độ xuống sát không độ. Xuất hiện băng giá tuyết rơi. Điểm cao không có nước uống. Chiến sĩ phải hứng sương, lấy tuyết để lau người. Bộ phận hậu cần hàng ngày phải cõng nước, cõng cơm nắm, thực phẩm tiếp tế cho bộ đội. Tuy gian khổ là thế song tư tưởng anh em chiến sĩ rất kiên định. Ai cũng ngoan cường. Giặc đến là đánh. Trút căm thù lên đầu súng.
Đầu tháng một năm 1987, phía địch sử dụng lực lượng cấp sư đoàn được pháo binh chi viện, chúng mở chiến dịch nhằm vào mười ba điểm tựa của ta ở cả đông và tây sông Lô. Mục tiêu chủ yếu chúng nhằm tới là đồi Đài và đồi Cô Ích. Mặc dù đối phương bắn tới trên một trăm ngàn quả đạn pháo trong ba ngày để chi viện bộ binh liên tục tiến công ta, có ngày tới bảy lần, nhưng đều bị bộ binh và pháo binh ta ngăn chặn ngay trước trận địa. Những quả đồi, ngọn núi vốn là rừng già, màu xanh ngằn ngặt đã bị đạn pháo thiêu rụi, trơ ra còn toàn đá. Đạn pháo găm vào đá, khiến đá cả những dãy núi vỡ ra trắng xóa, nhìn từ xa không khác gì lò nung vôi.
Thiếu úy đại đội phó Lự cùng các chiến sĩ bám chốt suốt ngày đêm quần nhau với địch. Quần áo, mặt mũi sạm đen, bám đầy khói súng. Chiều tối hôm ấy, khi quân địch rút khỏi trận địa sau loạt cối tám hai và pháo mặt đất của đơn vị Lự, không khí mặt trận yên ắng trở lại. Điểm danh lại, đại đội trưởng bị thương đã chuyển về tuyến sau. Lự tạm thời chỉ huy giữ quyền đại đội trưởng. Gánh nặng trách nhiệm đè lên vai anh. Người anh mệt bã. Thì cả ngày chiến đấu giằng co từng tấc đất như thế, ranh giới giữa cái sống cái chết mong manh như thế, đói mệt như thế bảo sao không lử lả được cơ chứ? Đơn vị chỉ còn hơn nửa quân số. Mấy chiến sĩ hy sinh, một số chiến sĩ khác bị thương. Số này đã được đưa về tuyến sau chôn cất và chữa trị. Nhìn anh em thấy ai cũng bải hoải, Lự lo lắm. Anh động viên chiến sĩ tranh thủ lương khô, cơm nắm ăn uống nghỉ ngơi cho lại sức. Các vị trí đều phân công nhau canh gác, cảnh giới nghiêm ngặt, cảnh giác với trò cắm trộm liều lĩnh của địch.
Khoảng tám giờ tối, một số chiến sĩ mới được bổ sung. Trong căn hầm chỉ huy, Lự nhìn khắp một lượt. Tất cả đều trẻ măng. Toàn tuổi mười tám đến hai mươi giống như anh gần chục năm về trước. Chợt anh dừng lại ở một cậu lính đang chăm chăm nhìn mình. Lự quán triệt số chiến sĩ mới, phân công họ về các trung đội. Chiến sĩ Hà được anh giữ lại chốt chỉ huy. Đêm ấy, yên tĩnh. Hai anh em Lự Hà rì rầm tâm sự mãi tận khuya. Hà ôm súng ngồi bên vị chỉ huy của mình cởi mở và tin cậy.
 “Chú có vợ chưa?”, Lự hỏi anh lính mới. Hà lúng búng tâm sự: “Dạ, có rồi thủ trưởng ạ”. “Có rồi? Đủ tuổi đăng ký kết hôn không mà cưới?”, Lự trêu Hà. Hà thủ thỉ: “Vừa đủ tuổi đăng ký thủ trưởng ạ. Em hai mươi, nhà em mười tám”. “Được. Nhưng mà vẫn hơi bị sớm đấy”, Lự lẩm nhẩm tính toán. Hà phân bua: “Cũng do mẹ của Nguyệt cả đấy, anh ạ?”. Nguyệt là tên vợ của Hà. “Sao? Bà ấy giục cưới à?”. “Gần như thế. Mẹ Nguyệt bị ốm nặng. Chúng em phải cưới…cưới chạy tang mẹ cô ấy”. “Thế hả? Rồi sao?”, Lự hỏi dồn. Hà thành thực kể tiếp: “Cụ bị tai biến xuất huyết não. Chúng em cưới được hai ngày thì cụ đi”. Lự chép miệng thở dài: “Trời ạ… đành vậy. Số cả đấy cậu ạ…”. Dừng lại giây lát, nhìn vào mặt Hà, Lự nói tiếp: “Chia buồn với cậu vì vợ chồng cậu mất mẹ. Còn chia vui với cậu thì các cậu đã sớm nên vợ thành chồng. Đúng không? Thôi, biết là việc nào đi việc đó nhưng cứ phải kiên cường Hà ạ, để mà sống và chiến đấu”. “Dạ, em cảm ơn thủ trưởng. Em cũng đã xác định vậy”, Hà lí nhí đáp.
Hai anh em ngồi lặng yên. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Mãi sau, Hà lên tiếng: “Thế còn thủ trưởng?”. “Tớ hả? Một gái rồi. Kết quả của chuyến vợ tớ lên thăm”. Hà thoáng ngạc nhiên, tròn mắt. Lự mỉm cười: “Không tin hả? Vợ tớ lên tận đây đấy. Vừa năm ngoái nha. Tháng trước, đúng chín tháng mười ngày kể từ ngày vợ tớ lên thì bé gái ra đời. Cậu thấy oách chưa?”. Giọng Lự phấn khởi ra mặt. Hà cũng vui lây cùng: “Chúc mừng thủ trưởng. Chị ấy dám lên tận đây để thăm thủ trưởng thì thật là bái phục”. Lự hãnh diện: “Chứ sao?”. Rồi anh bộc bạch: “Bọn mình cưới nhau được mấy tháng thì tớ nhập ngũ. Rồi biền biệt biên cương sáu, bảy năm liền. Cứ mãi thế thì bảo sao chúng tớ có con được? Vậy là cô ấy mò lên thăm tớ. Chú thấy có liều không? May mà năm ngoái chiến sự cũng đỡ. Dù sao, không khí chiến tranh cũng vẫn còn căng lắm. Thế mà lên đây nhìn những đồi hoa sim cô ấy còn khe khẽ hát bài “Hoa sim biên giới” nữa chứ”. Lự dừng kể nhìn đăm đắm vào Hà. Hà tấm tắc: “Chị ấy lãng mạn thật. Nhưng mà…công nhận đêm biên cương đẹp tuyệt đi. Như đêm nay đây này. Có ai bảo là chiến tranh đang hiện hữu đâu? Phải không thủ trưởng?”. Lự nhìn Hà nghĩ: đúng là lính mới. Chưa biết bom đạn là gì nên vẫn còn mơ mộng lắm. Cứ thế đi. Mai rồi khắc biết. Đây chỉ là khoảng lặng giữa hai trận đánh thôi nhé, cậu tân binh tò te ạ.
Đang mạch chuyện vui, Lự hào hứng kể tiếp: “Cậu biết không? Đêm ấy, còn hơn cả đêm tân hôn nhá. Kỳ lạ lắm! (Lự tủm tỉm cười, ánh mắt nhìn xa xăm). Bây giờ, mỗi khi nhớ lại hình ảnh vợ tớ bên những khóm sim hoa ven đồi ở khu nhà khách đơn vị cùng tiếng hát nhẹ nhàng của cô ấy hòa với gió biên cương rì rào là bao nhiêu mệt nhọc trong tớ đều tan biến hết. Thế mới lạ, cậu ạ”. Lự thủ thỉ mơ màng.
Trăng biên cương vằng vặc sáng. Cứ vô tư như chưa hề có tiếng súng và chết chóc ở đây. Hà nhìn Lự, nhìn trăng, nhìn về phía bên kia đen ngòm. Phía ấy đang tiềm ẩn những bất trắc khôn lường. Giá như đừng có chiến tranh thì đêm trăng này, kỷ niệm ấy của Lự và nỗi nhớ của Hà về Nguyệt sẽ thơ mộng biết bao nhiêu. Chợt Lự như bừng tỉnh: “Cậu mới cưới vợ, xa nhau thế này thì nhớ lắm đấy. Cả cô ấy nữa”. “Vâng” – Hà đáp – “Nhưng bọn em xác định rồi. Phải đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc lên trên hết. Bố mẹ em cũng dặn em thế thủ trưởng ạ”. “Tốt. Phải thế chứ! Anh em mình đã lên đây là phải vững vàng. Quyết chiến với bọn chúng giữ vừng từng tấc đất biên cương”, Lự vừa nói vừa vỗ vỗ vai Hà.
Tiếng loa phóng thanh phía bên kia kêu ông ổng. Toàn luận điệu bịp bợm. Mả cha chúng nó chứ. Ban ngày đấu súng, đêm về thì đấu loa. Vẩn đục hết cả bầu trời biên giới. Gần sáng, tiếng pháo bất ngờ dội tới. Trời đêm Thanh Thủy đỏ rực. Lự vùng dậy lệnh cho toàn đơn vị sẵn sàng chiến đấu. Pháo địch cày xới từng mét đất, mỏm đá, dọn đường cho bộ binh biển người xông lên. Lự nhắc các chiến sĩ bình tĩnh, chờ cho chúng đến thật gần mới nhả đạn. Các nòng súng của ta rê theo bước tiến của địch. Đúng tầm bắn gần nhất, Lự phất tay. Quả B41 của chiến sĩ Hải vọt khỏi nòng. Trong đám lửa màu da cam hiện rõ từng tên lính bị hất tung lên ném xuống chân núi. Phát B41 này cũng là khẩu lệnh của trận đánh. Tiếp đó là thủ pháo, lựu đạn nổ. Từng tràng AK liên thanh dồn dập ập lên đầu địch. Bọn chúng kêu oai oái, dẫm đạp lên nhau tháo chạy. Tên chỉ huy từ phía sau đốc quân lính khiến chúng không còn đường nào lui bắt buộc phải lao lên. Thằng nọ ngã xuống, thằng kia nhô tới. Phía sau ùn ùn đùn lên. Súng các chiến sĩ đơn vị Lự đỏ nòng, khét lẹt.
Bất ngờ Hà thấy có một vật gì rơi bịch ngay dưới lòng công sự. Chưa kịp định thần, Hà bị xô ngã dúi dụi. Ai đó nằm đè lên người anh. Một tiếng nổ đinh tai nhức óc vang lên. Đất đá rơi lả tả. Hà dụi mắt nhìn quanh. Khẩu cối văng ra đổ kềnh. Mấy chiến sĩ cùng khẩu đội ngơ ngác. Rồi họ nhận ra Lự. Anh đang nằm đè lên người Hà, che toàn bộ phía quả lựu đạn vừa nổ. Hà có cảm giác như lưng mình bị ướt. Anh sờ tay. Ấm nóng. Mùi tanh tanh. Hà đưa bàn tay lên nhìn dưới ánh trăng. Trời ơi! Máu! Không lẽ mình bị… Nhưng mà… sao không có cảm giác đau đớn gì cả nhỉ? Hà nghiêng mình khẽ lật lại. Anh và Lự cùng lăn ra giữa giao thông hào. Quay sang Lự, Hà vội sờ nắn khắp người Lự. Lự nhìn Hà khẽ nói: “Cậu không sao chứ?”. Hà đáp: “Không”. Lự thều thào: “Tớ… bị… rồi!”. “Ở đâu thế? Để em xem?”. Hà lo lắng, hỏi dồn dập. Lự lắp bắp: “May quá. Tớ phát hiện kịp. Không thì…”. Mấy chiến sĩ xúm lại đỡ Lự. Bàn tay trái anh đẫm máu. Máu loang lổ khắp người Lự. Phía trước, tổ một tiền tiêu vẫn tiếp tục chiến đấu. Hà băng bó, ga rô cho Lự. Lự cho cậu liên lạc truyền mệnh lệnh chỉ huy cho trung đội trưởng trung đội một thay anh. Sau khi băng bó xong, Lự xua tay, nói với Hà: “Tớ không sao đâu. Cậu quay lại ví trí chiến đấu đi. Kiên quyết giữ chốt bằng mọi giá”.
Đặt Lự nằm trong hầm, Hà lao lên phía trước. Cả đơn vị bám sát, hiệp đồng chặt chẽ, đánh lui địch hết đợt này đến đợt khác. Suốt cả ngày hôm đó, Lự nằm trong hầm. Hai bên đánh nhau ác liệt, không thể đưa anh về tuyến sau được. Đã vậy, Lự gián tiếp cùng trung đội trưởng trung đội một chỉ huy trận đánh. Bọn địch bị đánh bật hết đợt nọ đến đợt kia. Chốt của ta vẫn được giữ vững. Mãi chiều muộn, địch mới rút. Bộ phận hậu cần mới tiếp cận được chốt. Họ tiếp tế lương khô, cơm nắm và chuyển thương binh về tuyến sau. Lự cũng phải rời trận địa. Thế là sau mấy ngày quần thảo, điểm cao của đơn vị Lự vẫn được giữ vững.
Mới đó mà đã hơn ba chục năm. Qua nghĩa trang Vị Xuyên, Lự bảo lái xe dừng lại. Anh cùng Lân, con trai lên thắp hương cho các đồng đội. Sau đó, hai cha con anh lên phố cổ Đồng Văn. Nơi đó là nhà người yêu của Lân. Cô bé hiện đang là giáo viên ở đây. Hai đứa quen biết rồi yêu nhau qua mấy đợt Lân giao lưu, giúp đỡ nhà trường. Đứa phó chỉ huy đồn biên phòng, đứa bí thư đoàn trường, hai đơn vị kết nghĩa với nhau nảy ra mối tình này.
Cả nhà Nga (tên người yêu của Lân) ra tận cổng đón bố con ông Lự. “Ơ! Thủ trưởng Lự! Có phải thủ trưởng Lự không?”. Vừa bắt tay ông Lự, bố của Nga vừa trân trân nhìn ông khách. Rồi ông ta reo lên: “Đúng rồi! Thủ trưởng Lự!”. Ôm chầm lấy ông Lự, bố của Nga nhấc bổng ông Lự lên xoay một vòng rồi mới đặt ông xuống. Đến lượt ông Lự ngạc nhiên. Định thần, ông nhìn chằm chằm vào người vừa ôm mình. “Hà! Đúng là Hà rồi! Sao chú lại ở đây?”. Ông Lự reo lên. Rồi ông dang tay lao vào ôm chặt người ông vừa gọi. Ông có tên là Hà hớn hở: “Em…em là bố cháu Nga mà! Thế còn thủ trưởng?”. “Tôi hả? Thì là bố cháu Lân chứ còn sao nữa? Được chưa?”. Ông Hà há hốc mồm. Một lần nữa, ông lại reo lên: “Giời ơi! Đúng là duyên kỳ ngộ! Thật tuyệt vời!”. Hai ông cứ thế ôm và vỗ vỗ vào lưng nhau. Mãi sau, như sực tỉnh, buông ông Lự ra, ông Hà vào vai họ nhà gái: “Mời… mời hai… bố con… ông vào nhà”.
Tất cả mọi người đều quá đỗi ngỡ ngàng. Không ngờ hai ông thông gia tương lai lại là đồng đội cũ của nhau. Bao nhiêu nghi lễ rườm rà liền được bỏ qua. Hai người xoắn lấy nhau chẳng nói gì về chuyện “ăn hỏi” nữa. Họ toàn nhắc kỷ niệm ở chốt và hỏi thăm nhau sau ngày xuất ngũ. Ông Hà cho biết, ra quân, ông chuyển ngành sang ủy ban huyện, rồi kéo cả vợ con lên ở phố cổ Đồng Văn này. Hiện ông vẫn đang công tác, dăm năm nữa mới nghỉ hưu. Ông kể với mọi người rằng chính ông Lự, thủ trưởng cũ của ông đã cứu ông trong trận đánh đó như thế nào. “Ân nhân của tôi đấy. Các vị xem đây này”. Cầm bàn tay thương tật của ông Lự giơ cao, ông Hà nói. Mọi người nhìn ông Lự đầy biết ơn.
Ông Lự cũng tóm tắt quá trình của mình sau trận đánh đó. “Tám chín” ra quân về xã. Cuối năm đó có thằng Lân. Ông gánh vác việc xã liên tục tới tận bây giờ. Đời ông gắn toàn với số 9. 59 sinh, 79 bộ đội, dự luôn chiến tranh biên giới, 89 ra quân đẻ con trai. Và năm nay, 2019, nghỉ hưu, cưới vợ cho con. Toàn việc lớn và vui cả.
Xen giữa chuyện hai người, họ còn nhắc nhớ, hỏi han nhau về đồng đội. Nào là thằng Hải B41 hiện giờ ở đâu, gia cảnh ra sao? Nào là thằng Khải A2 bị mảnh pháo phạt đứt tai sau đó nó có nghe được không? Rồi thì “thằng Minh B trưởng B1 thay tớ chỉ huy trận đó giờ còn ở trong quân ngũ chứ? Nó làm đến chức vụ gì rồi?”. “Ông ở trên này nắm được nhiều tin tức về chúng nó nói cho tớ biết đi. Tớ về đoàn an dưỡng hơn năm sau thì ra quân nên không nắm được nhiều thông tin về đơn vị”. “Chuyện tình giữa thằng Bản với cái Hoa y sỹ thế nào? Hai đứa vẫn lấy nhau chứ?”. Ông Lự hỏi dồn dập. Hà chưa kịp trả lời câu này thì ông đã hỏi câu khác rồi. “Chết rồi! Cả hai đứa hy sinh trong trận đánh hôm sau anh ạ. Cái Hoa cõng thằng Bản từ trên chốt về trạm phẫu, dọc đường bị trúng pháo, thế là đi cả”, Hà ngậm ngùi kể. “Rõ khổ! Chúng nó yêu nhau quá. Vậy mà… Thôi! Dẫu gì chúng vẫn ở bên nhau”. Giọng ông Lự chùng hẳn xuống. Mãi một lúc sau, ông Lự mới lại hỏi tiếp về những đồng đội khác. Ông gọi ông Hà là cậu cậu, tớ tớ, chú chú anh anh. Lúc lại xưng hô ông ông tôi tôi với nhau. Cả ông Hà cũng vậy. Khi thì thủ trưởng Lự. Lúc lại là anh Lự, bác Lự. Lắm lúc ông lại gọi ông Lự là ông, rất đồng vai phải lứa. Hai người cứ xưng hô loạn xì ngầu cả lên. Chuyện nọ xọ chuyện kia. Đang chuyện chiến trường lại ngoặt sang chuyện làm kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Rồi thì chuyện học hành của con cái, chuyện ông nọ bà kia.
Đang mạch chuyện hào hứng, ông Lự đột ngột nhìn thẳng vào mắt ông Hà, hỏi: “Ông nhất trí gả con gái cho con trai tôi chứ?”. Mắt ông sáng ngời. Miệng ông cười tươi. Ông lặng yên chờ đợi. Bị đột ngột dừng câu chuyện bằng một câu hỏi rất lính của ông Lự, ông Hà thoáng sững sờ. Rồi ông kịp trấn tĩnh lại. Đang ngồi, ông Hà đứng bật dậy, dập hai chân vào nhau, đưa một tay lên đầu theo kiểu chào nhà binh, đứng nghiêm trước mặt ông Lự. “Báo cáo Thủ trưởng! Rõ!”. Giọng ông Hà vang lên dõng dạc và dứt khoát. Ông Lự vươn tay ôm chầm lấy ông Hà. Hai người một tay ôm nhau, một tay kia cùng dang ra về một hướng. Họ cười lên ha hả.
Tất cả đều ngỡ ngàng trong giây lát. Sau đó, mọi người cùng vỗ tay và cười theo. Tiếng nói, tiếng cười rộn rã đầy ắp cả căn nhà. Lân rạng rỡ nhìn hai ông bố và nhìn Nga. Nga đỏ mặt bối rối lâng lâng trong niềm vui hạnh phúc. Các bố đúng là nhà binh có khác. Lúc nào cũng quân kỷ quân phong.
Ngoài kia, mùa xuân đã về. Hoa đào đỏ rực ấm áp cả một vùng cao biên giới.
31/12/2019
Đỗ Xuân Thu
Nguồn: Văn Nghệ số 8/2019
Theo https://vanhocsaigon.com/

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...