Thứ Năm, 31 tháng 7, 2025
Hóa thân
Hơn hai chục con người đang chờ đợi. Đèn chiếu sáng, thiêu đốt những ánh mắt xa lạ. Hạnh cũng đang chờ đợi, mặc dù cô không biết mình chờ đợi điều gì. Giây phút im lặng kéo dài. Cả người ngồi trên ghế đẩu cao, đôi mắt sắc đầy vẻ ác độc cũng im lặng. Ông ta như một vị quan toà thời trung cổ đang chuẩn bị cho một cuộc tra khảo kẻ phản đạo. Từ giây phút gặp gỡ đầu tiên đến giờ, vẻ mặt lạnh lùng của ông không hề thay đổi.
Chuyện hai đứa trẻ
Chuyện hai đứa trẻ
Thằng anh lớn hơn em gái bảy tuổi, có dáng người cao
to, dậy thì trước tuổi, nên giọng nói và cả những hành động đều hơn những bạn
cùng trang lứa. Nó thường hỏi mẹ những câu rất cắc cớ, tại sao lại như vậy, tại
sao lại thế kia. Thằng anh có cái tên ngồ ngộ, mà mẹ nó đặt cho là “Bờm”, hình
như mẹ nó muốn gửi niềm hy vọng vào đó, muốn tâm hồn nó trong veo như câu truyện
cổ tích “thằng Bờm”, mẹ nó muốn nó hiền ngoan, thật thà, không tham lam, chân
chất, cho tới khi trưởng thành. Cái tên thường gọi thân mật hàng ngày đi theo
suốt những ngày thơ của nó, dù khi đi học nó có một cái tên rất hay và dễ gọi
“Minh Quân”. Nhưng mẹ nó ít khi gọi tên khai sinh của nó, mẹ chỉ gọi nó “Bờm
ơi, Bờm à”. Có lúc nó cảm thấy quê quê, ngại ngại, nó giận mẹ, liếc mắt nhìn mẹ
như muốn bảo: “Mẹ đừng gọi con bằng cái tên ấy, mẹ có biết tên Bờm là ngu
không, ai cũng chọc ghẹo con vì cái tên của mẹ ưu ái cho đó”.
Bờm đã dậy thì rồi, mụn đã nổi lộ nhô đầy trán, mỗi sáng thức
giấc là cơ thể nó đã khác hơn ngày hôm qua quá nhiều. Giọng nói ồ ồ như thể là
một thanh niên, lý lẽ dài dòng hơn, luôn có lý do biện hộ cho hành động của
mình là đúng, không cần biết giới hạn hiểu biết của mình chỉ mới là bước đầu.
Có khi mẹ giận nó tới mức bỏ bữa không ăn cơm, không ra khỏi phòng, nó mới thấy
chút hối lỗi, ăn năn, tìm kiếm câu chữ nhắn tin cho vui lòng mẹ. Nhà có ba mẹ
con, nên nó biết, nếu mẹ nó cứ nằm dài ôm gối thì anh em nó chỉ có nước đói
dài. Ngôi nhà, căn bếp buồn tênh, hiu quạnh. Nó đang tuổi lớn, nên không thể
nào nhịn đói được, bụng nó cồn cào khó chịu.
Nó hiểu thêm một điều, chẳng có điều gì hay ho, khi “lý sự
cùn” với mẹ. Chẳng còn gì quan trọng hơn tiếng rầy la, càm ràm, nhắc nhở không
ngớt của mẹ, lúc anh em nó chuẩn bị bài học cho ngày mai. Anh em nó có khi lẩm
nhẩm, bức bối, cho rằng mẹ thật phiền phức. Và, giờ nó bất đầu nhận ra em gái
nó, cả nó nữa, đã thật sai quấy nhiều rồi. Mẹ nó buồn, nó làm sao yên.
Em gái nó đang học mẫu giáo, em không có tên thân mật hàng
ngày, mà là một cái tên có phần liên quan đến tên của nó “Thy Minh”. Một con bé
gái nhí nhảnh, đỏng đảnh và có nhiều suy nghĩ hơn cái tuổi của một đứa trẻ chưa
biết đọc chữ, nhưng dùng các thiết bị công nghệ số thì không ai bằng. Mỗi khi,
con bé, cầm điện thoại và tìm kiếm bằng giọng nói khiến nó phải ngắm nhìn, có
khi buồn cười, có khi ngạc nhiên, thán phục. Nhiều lần, mẹ nó quát mắng anh em
nó khi chỉ mải mê với điện thoại, máy tính, rồi iPad, không chịu ra ngoài, anh
em nó khóc bù lu loa, rồi trả treo đủ câu cú lủng củng, nhưng tỏ rõ quan điểm
cá nhân là thích ở nhà, hơn là phải đi ra ngoài hoạt động. Nhất là nó, nó chỉ
thích game, mấy video trên youtube lảm nhảm của tuổi mới lớn cho nó cười vui
vui, vài bộ phim bom tấn, hành động, và thức ăn đủ trong tủ lạnh là nó thấy ổn.
Nó cảm nhận sự nhạt nhẽo, không có gì thú vị khi phải lếch tha lếch thếch đi
cùng mẹ đến các khu vui chơi, nơi mua sắm, siêu thị rồi phải nhìn mẹ nó đắn đo,
suy tính, nhìn lại ví tiền, cân nhắc việc mua hay không mua. Sao người lớn lại
cứ hay so đo, tính toán, và mẹ nó là người luôn so tính nhất thế gian, nó nghĩ
vậy.
Có lần, nó muốn được vào một nhà hàng sang trọng, thưởng thức
món bò nướng kiểu Hàn Quốc, nó vòi mẹ, dĩ nhiên nó vòi thì mẹ chẳng bao giờ từ
chối, vì mẹ nó thương nó nhất trên đời mà. Mẹ nó tiến tới quầy tiếp tân hỏi
giá, năn nỉ ỉ ôi, viện lý do gì đó, kết quả là em gái của nó được vào nhà hàng
thưởng thức mà không phải mất tiền. Nó cảm thấy xấu hổ, không vui, nó thấy cảm
giác trong người cứ sao sao, hàng nghìn câu hỏi đi qua trong đầu nó rằng: “Tại
sao mẹ của mình lại phải tiết kiệm đến mức như vậy, không biết ngại ngùng với
thiên hạ hay sao?
Tại sao mẹ luôn phải chọn những món hàng khuyến mãi, giảm
giá, tại sao mẹ luôn kéo tay anh em nó đi nhanh khi qua những cửa hàng đồ
chơi?”. Suy nghĩ của một thằng con trai vừa tập tành làm người lớn, đủ cho nó
biết gia đình nó đang thiếu thiếu điều gì đó, thiếu cái điều mà hễ anh em nó nhắc
đến là mẹ nó gạt ngay đi. Để rồi những giờ đồng hồ tiếp theo đôi mắt mẹ nó là nỗi
buồn rũ rượi, không hứng thú với việc chụp ảnh sống ảo khoe Facebook bữa ăn
ngon, cầm đôi đũa không buồn gắp, chén cơm còn y nguyên, rồi thở dài, uống nước
ừng ực, đi vào nhà vệ sinh rửa mặt. Mẹ nó trở lại bàn ăn, tươi tắn hơn, không
khí trong nhà bớt ngột ngạt, tiếng ồn của chương trình thiếu nhi của em gái nó,
chiếm trọn cả không gian, nó biết, mẹ nó sẽ nổi giận, lại căng thẳng, quát
tháo, la ó, việc em gái nó chưa hề ăn một muỗng cơm nào, nó liền nói với em:
– Em ăn đi, tắt iPad đi, mẹ đang buồn kìa, không ăn là bị la,
bị đòn đừng có khóc nha!
– Biết rồi.
Em gái nó cầm muỗng lên xúc cơm, trong khi mắt không rời màn ảnh.
Nó bắt đầu thấy lo lo, hoài nghi, có chuyện sẽ xảy ra tại bàn ăn này, nên vội
vàng ăn thật nhanh, tiếp theo sau đó sẽ dọn chén bát, không đợi mẹ sai nữa. Vài
lần nó đã ngoan như vậy, vì nó đã quen với những cơn bốc hỏa của mẹ. Một thời
gian, đã vài ba bốn năm gì đó, nó không nhớ chính xác, nhưng có thấy là rất lâu
rồi nó không bao giờ thấy ba mẹ nó chuyện trò một câu, dù vẫn chung một mái
nhà, một sổ hộ khẩu. Mẹ nó một mình đưa anh em nó đi học, đi chơi, về quê, rất
lâu rồi gia đình nó không có một tấm ảnh chụp cùng nhau. Ba nó nướng mình trong
những canh bạc, trận bóng, rồi biền biệt đi không dám về. Thỉnh thoảng nó vẫn
nghe bà con, họ hàng, làng xóm bàn tán xì xào về chuyện của ba nó, nó vặn vẹo hỏi
mẹ thì chỉ nhận được duy nhất một câu: “Lo học đi, không phải suy nghĩ nhiều,
người lớn làm người lớn chịu, con nít chỉ cần học ngoan là đủ”. Nó giận mẹ, lúc
nào cũng bắt học, nó có quyền biết về hoàn cảnh của gia đình mình chứ! Tại sao
mẹ nó luôn gạt bỏ đi những câu hỏi của nó. Mẹ ích kỷ. Mẹ xấu. Mẹ không chút xíu
nào hiểu nó. Nó khóc. Tiếng khóc của thằng con trai mới tí hiểu biết, không phải
là đau khổ mà là sự ấm ức, câu hỏi không được quan tâm giãi bày.
Suốt những ngày sau đó, nó ít nói hẳn đi, nhưng khi mẹ gọi
tên nó để sai bảo hay nhờ vả gì, thì nó lý sự với mẹ nhiều hơn. Vùi đầu vào
game rất nhiều giờ, mặc kệ những gì xung quanh tác động vào. Mẹ nó đâu có biết,
nụ cười niềm vui của người lớn chính là hy vọng của trẻ con. Nó cần một gia
đình như bao bạn bè khác. Thời gian vắng một người cha trong mái nhà dài ra
thêm, là khi nó biết trong chiều sâu ẩn trong đôi mắt anh em nó thèm khát bàn
tay rắn chắc, giọng nói khàn đục ấm áp, mang âm trầm của đàn ông lớn hơn nó, ủi
an khi bị mẹ rầy la, khi bị điểm kém ở trường biết bao, hay khi đạt điểm cao cần
sự tự hào, được nhận sự đầy ắp yêu thương, như những câu chuyện của của người bạn
cùng lớp.
Một mùa hè nữa đến, như những mùa hè đã đi qua, hai anh em nó
bị bắt buộc đi chơi xa, rời xa thế giới của công nghệ, bốn bức tường. Đó không
phải là lần đầu tiên, ngồi một chuyến xe giường nằm hiện đại, nó và cả em nó có
cơ hội nhìn cuộc đời qua ô kính cửa sổ, cùng nhịp với vòng xe liên tục lăn
bánh, bỏ lại xa xa những hàng cây xanh, những ngọn đèo, đồi núi rộng lớn bao
la, những con người nhỏ bé đang chạy xe máy ở phía trước. Khi xe cứ tiếp tục cuộc
hành trình của mình, những hành khách tranh thủ ngủ nghỉ, thì nó vẫn nhìn mãi
qua ô cửa sổ. Thế giới này rộng lớn, những cánh rừng xanh xanh màu lá, xếp chồng
lên nhau, trong suốt cuộc hành trình lên xứ sở ngàn hoa bạt ngàn hoa thơm cỏ lạ,
bức tranh màu diệp lục trùng trùng điệp điệp, ẩn hiện lúc gần lúc xa. Con đường
xa lạ bỏ dần thành phố náo nhiệt ồn ào, mỗi lúc hiện rõ lên từng nét như
một bức tranh miền sơn cước, cao nguyên lộng gió.
Lần đầu tiên nó thấy mình nhỏ bé, vài suy nghĩ lóe lên trong
đầu óc nó, rằng giữa thế giới thực và ảo rất khác xa. Rằng cảm nhận vẻ đẹp của
thiên nhiên, tiếng gió vi vu dễ chịu hơn hẳn tiếng “pằng! pằng! chéo! chéo!”
trong game trò chơi liên quân. Nó cảm giác có một luồng nước mát lạnh từ dòng
sông nào đó đang tỏa từng tia hy vọng, bình yên cho tâm hồn của nó. Nó quên
ngay chuyện của ba nó, nó không muốn ai khơi gợi lại, bởi chuyện cũng người lớn
xa nhau, đâu có thể làm ai buồn mãi mà bỏ quên cuộc sống, chỉ có bọn trẻ con
như nó, là luôn luôn đặt dấu hỏi, khi bạn bè có ba dắt đi chơi, có ba để kể
chuyện vu vơ ở trường, có ba để thằng con trai lớn lên học theo ba đức tính cứng
cỏi, mạnh mẽ hơn. Mẹ nó có lần, nói gì đó với nó dài lê thê, về chuyện cũng ba
nó, nó nhìn mẹ khóc, từ đó nó nhất quyết không nghe nữa. Nó muốn quên đi, nó
không cần một người ba đã quên mất một gia đình. Nhưng em gái nó thì khác, con
bé đang ngồi bên cạnh mẹ ở hàng ghế sát bên, líu lo, xin xỏ đủ điều, xong đâu
đó thì bắt đầu hỏi:
– Mẹ ơi, khi nào ba về?
– … Mẹ nó – (thở dài giả bộ ngó lơ).
– Sao mẹ ghét ba?
– Ai nói, mẹ có nói mẹ ghét ba khi nào đâu?
– Vậy tại sao mẹ không gọi ba về cho con.
-… (Mẹ nó im lặng không nói, nhìn ra ô cửa kính).
– Sao mẹ ghét bỏ ba, mà mẹ làm đám cưới với ba?
Nó nhìn sang em gái nó, ra hiệu cho em im lặng, vì sự ồn ào
đã làm nhiều hành khách thức giấc. Cảm nhận không thể ngăn cho em gái nó im lặng,
mẹ nó lấy chiếc điện thoại ra, bật tìm kiếm chương trình thiếu nhi. Những câu hỏi
ngây ngô mà khiến người nghe bị chạm tới vết thương u uất trong người. Những lời
trẻ con nói như cào cấu vào vết thương đang rỉ máu của những con người đã lớn.
Nó kéo chiếc áo khoác đắp lên cổ, nhắm mắt lại ngủ một giấc trên chuyến xe
khách đường dài yên ả, thong thả từng kilomet đến thành phố sương mù, nơi có
vài người bạn thân của mẹ đang chờ đợi. Nó biết, ở nơi thời tiết đủ lạnh để trẻ
con – người lớn mặc ấm, nó và em nó sẽ bỏ quên các thiết bị điện tử trong căn
phòng rối ren những nét vẽ nguệch ngoạc của em nó.
Nó sẽ nhìn thấy những vườn dâu, những quả bơ căng mướt, trên
một ngôi nhà nho nhỏ trên đồi, có tiếng suối chảy róc rách cả ngày lẫn đêm, có
tiếng chim ca khúc khích gọi nhau í ới. Những người bạn của mẹ, những đứa trẻ của
bạn mẹ, vài đứa có hoàn cảnh như anh em nó cùng nhau đốt lửa trại, nướng khoai
lang, rồi thưởng thức và không nhớ gì nữa chuyện của ngày hôm qua, trong một
thành phố rộng thênh thang. Nó không quên quan sát, mẹ đang nhìn lên bầu trời,
ánh trăng sáng vằng vặc, mỗi trong hơn, cao hơn. Nó đã từng nghe đâu đó, khi mất
phương hướng thì không nên nhìn vào khu rừng, mà hãy nên nhìn lên bầu trời. Mẹ
của nó nhìn lên bầu trời một cách say sưa chăm chú.
Em gái nó đang líu lo ca hát, mọi người lắng tai nghe, rồi vỗ
tay động viên. Và nó nghe thấy những cảm xúc đan xen vào nhau. Nước mắt dù có mằn
mặn sao vẫn nghe có vị ngọt. Khi nó có một người mẹ – luôn nghĩ về hai anh em
nó hơn tất cả những đều khác. Nó không còn mắc cỡ với cái tên “Bờm” mẹ nó đặt
cho, nó thôi lý sự với mẹ, nhường nhịn em gái nó nhiều hơn nữa.
Có những điều mẹ nó không cần chỉ dạy, mà là do sự rung động
từ trái tim của thằng con trai đang bắt đầu lớn mà nhận ra, mà thôi làm khó
khăn cho mẹ. Bởi mẹ vừa là mẹ, vừa là một người ba của nó. Có một cảm nhận gì
đó, không mùi, không vị, không lời giải thích, khiến nó muốn lại gần mẹ nói điều
gì đó, mà lại e ngại hơn thường ngày, nó ngồi lặng im, cho thêm củi vào đống lửa
trại, nghe hơi nóng tỏa ấm vào gương mặt mình, nó xoa xoa bàn tay lên mặt mình,
và nhớ tới cô bé bán diêm trong đêm đông giá lạnh.
28/12/2019
Hồ Xuân Đà
Theo https://vanhocsaigon.com/
Người nghệ sĩ giữa dòng trôi
Người nghệ sĩ giữa dòng trôi
“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi”
(Tố Hữu)
Lúc đó má đứng ngoài cổng, vẻ bồn chồn mong đợi, mắt cứ
lấp lánh lấp lánh. Má có vẻ đẹp như Tố nữ trong tranh, mắt môi như được một người
họa sĩ tài hoa vẽ sắc nét trên khuôn mặt thanh mảnh gọn gàng. Nhiều khi nhìn má
vất vả lam lũ với bầy bò, ao cá, mảnh ruộng để nuôi bầy con mười đứa ba bỏ hết
lại để tìm sự thảnh thơi trong chùa, tôi tự nghĩ, má lấy đâu sức lực để làm ngần
ấy việc mà vẻ mặt vẫn phơi phới, mà nét đẹp vẫn không hề phôi pha theo năm
tháng.
Má nheo mắt tinh ranh khi tôi về tới:
– Tao mua cho bây một món quà. Bây đoán coi là cái gì?
– Trời, bày đặt quà nữa. Bộ đồ hả? Má thấy đồ đạc tui rách te
tua nên mua chớ gì?
– Hông phải
– Cuốn sổ tay chớ gì?
– Mua sổ tay làm gì?
– Thì tui sắp đi du kích.
– Hả, mày định đi du kích hả?
– Chớ hông đi sao được. Bọn con trai trong làng đi hết rồi.
Làm con trai thấy làng mình hết người này bị giết hết người kia bị đày hông biết
nhục sao?
Má thần người ra, ánh sáng tắt hẳn trong đôi mắt vừa lóe lên
như hai vì sao. Má thở dài thườn thượt, tao cũng ghét, cũng căm tụi nó lắm, nhiều
khi muốn lấy cái đòn gánh quất tụi nó cho hả giận. Nhưng bây đi rồi tụi em ở
nhà sao. Toàn con gái. Bọn lính cứ lảng vảng quanh nhà. Rồi sao má mần nổi để
nuôi tụi nó. Chị Hai bây thì khờ.
Tôi cũng thần ra một lát rồi cười xí xóa:
– Thôi từ từ tính. Coi má mua quà gì cho tui nè!
– Kia kìa – Má liếc mắt ra hiệu ở đằng vách.
Thứ tôi nhìn thấy trên vách, dưới tấm ảnh má chụp cùng út Nhạn,
như không phải chỉ là cây đàn phím lõm tôi hằng mơ ước, mà là cả một sân khấu
hoành tráng cảnh Sở Bá vương Hạng Vũ đối mặt cùng Hán vương Lưu Bang.
Tôi mang cây đàn đến nhà chú Sáu Đờn. Cả bọn xúm vào trầm trồ
cây đàn mới. Ui chèn ơi, thằng Bình là nhứt xứ này rồi. Sau này thành nghệ sĩ lớn
đừng quên tụi này nghen. Út Nhạn ca đi. Út Nhạn mình không thua gì sầu nữ Út Bạch
Lan đâu nghen.
Út Nhạn vẫn hồn nhiên hát như mọi đêm, khi ban đờn ca tài tử
của xóm cứ ăn cơm chiều xong là rậm ràng rập rịt í a í ời đi ca tụi bay ơi. Những
con Mén con Mẹc thằng Ngô thằng Ngố xúng xính những bộ đồ coi còn được được, phủi
những đôi chân đầy cát, leo cầu thang cao nghều nghệu lên ngôi nhà sàn của ông
Sáu Đờn, ba Út Nhạn, giành chỗ ngồi và hí ha hí hửng chờ đến phiên mình trịnh
trọng đứng lên hát, thầm tưởng mình là vương là tướng.
Đêm đó Út Nhạn hát Phi Vân điệp khúc. Bản này tôi nghe từ khi
út Nhạn còn ngọng nghịu nói không rành mà cứ giành hát. Bao nhiêu đêm đã trôi
qua. Bao nhiêu mùa gió chướng lạnh căm căm mà cả bọn vẫn rúc bên nhau hát. Tiếng
hát tròn dần mùi dần theo từng vóc dáng lớn lên của bọn nhóc với tham vọng cũng
lớn dần lên của ông Sáu Đờn. Sao mình hông thành lập gánh hát vậy ta. Tao gửi
ba Bình và út Nhạn lên Sài Gòn học nghề rồi về thành lập gánh hát nghe. Gánh
hát mình đặc biệt hông cố định, mà ở trên ghe. Tao khoái đi đây đi đó. Tao
khoái hát cho bà con trong cùng trong ngọn. Người ta nổi tiếng trên sân khấu lộng
lẫy, còn tao khoái nổi tiếng trên sông nước.
Nên ông vui khi ba Bình có cây đàn mới, như thể ngày mai có
thể tuyên bố với cả làng Khánh Bình rằng gánh hát của ông đã ra đời, với kép
hát đẹp trai hào sảng khí khái vừa đàn hay hát mùi là Bình Thiên, cái tên nghệ
danh ông vừa nghĩ ra cấp thì cho ba Bình và đào thương đẹp như hoa lục bình
trôi lửng lờ trên sông Bình Di. Một con công xòe đuôi ánh tím ánh xanh lộng lẫy
trên dòng nước trong xanh. Một nghệ sĩ tương lai sẽ không thua gì út Bạch Lan
hay Bạch Tuyết. Từ nay gọi nó là Bạch Nhạn nghen tụi bay. Vở tuồng đầu tiên
mình diễn sẽ là Bạch nhạn rợp trời Búng Bình Thiên.
Bạch nhạn là loài chim gì chưa từng ai thấy, càng không bao
giờ rợp trời Búng Bình Thiên. Vở tuồng ai sẽ viết ông còn chưa nghĩ tới, nhưng
cả bọn nhao nhao lên cho con làm Vua cho con làm Hòang hậu. Đứa tệ nhất cũng rụt
rè lí nhí con làm nô tỳ cũng được.
Chỉ có nghệ sĩ Bạch Nhạn tương lai, út Nhạn vẫn hát. Tôi ngồi
đối diện út, tìm ánh mắt em như muốn nhắn gửi lời ly biệt. Tôi đề nghị em hát lại
lần nữa. Sao vậy? Đâu có sao đâu. Chỉ là muốn nghe tiếng tri âm lần cuối. Mai
này cuộc chiến sẽ ra sao, ai còn ai mất, cung đàn này khúc nhạc này như niềm đồng
hành trên đường lập chí trai bình thiên hạ như cái tên Bình ba đã đặt cho. Hoài
bão làm trai phải có danh gì với núi sông của ba đã tất ngúm theo thời cuộc để ủ
tro tàn trong chùa, nay nhen dần trong tôi.
Như linh cảm điều gì trong ánh mắt của tôi, út Nhạn khẽ gật đầu.
Tôi dạo trên phím đàn mới. Mười sáu tuổi của út Nhạn là mười sáu năm Phi vân điệp
khúc ướp hồn em từ tiếng hát của người mẹ rồi tới giọng hát của chính em.
Tiếng… tơ… đồng ơi! Sao buồn rơi, âm ba não nề? Rơi vào đêm
đen mù khơi.
Ai?… Ai người tri âm? Một kiếp con tằm. Lăn lóc gió sương,
đàn với ta réo kêu khúc tình thương.
Mòn gót chân phong sương, dù nắng mưa chẳng phai tấm lòng
son. Ta với đàn trọn câu thủy chung, từng đêm ta vắt máu tim trao đàn.
Thương… thương sao tiếng đàn nhỏ giọt buồn rơi chắt chiu với
đời, cung đàn hòa máu, máu tim đỏ hồng. Ôi tình ta xin gởi vào theo tiếng tơ.
Ôi tình ta xin gởi lại theo tiếng tơ. Ôi tình ta xin để lại theo tiếng tơ…
Khi tôi còn đắm đuối theo tiếng tơ, thì chú Sáu Đờn lẳng lặng
đi ra sau hè, ra miết bờ ruộng mấp mé nước dập dềnh. Nước tràn đồng rồi. Khi
tôi thắt lòng dứt ra khỏi tiếng hát của út Nhạn xuống đứng kế bên ông thì ông
nói như vậy.
– Bây đã suy nghĩ kỹ chưa? Mẹ con Nhạn sẽ đưa nó lên Sài Gòn.
Dù hư thúi cỡ nào cũng là mẹ. Huống chi suy cho cùng cũng tại mình bất tài
không giữ được người ta. Bả nói nếu bây và con út sâu nặng thì bả đem cả hai đứa
lên đó dạy cho thành tài. Bây nghĩ sao?
– Con phải ra đi.
– Dứt khoát như vậy luôn hả?
– Dạ!
Khi tôi và ông trở lên nhà thì Út Nhạn đang đóng Tây Thi. Ông
Sáu trân trối nhìn con đang rơi lệ. Ông lẳng lặng gạt con xuống, ôm đàn tự mình
hát lớp Phượng hoàng, giọng buồn não nuột như cái lúc ông hát khi mẹ của út Nhạn
bỏ theo đoàn hát cải lương đào kép sáng trưng đầy mê hoặc dạo nào.
“Tây Thi ơi! Nàng có biết không.
Cho nỗi khổ biệt ly sầu.
Từng đêm ngậm ngùi ta thức trắng.
Cả một bầu trời vừa sụp đổ dưới chân ta.
Nàng về với Ngô vương.
Với nhung lụa vàng son trong gác phượng cung hoàng.
Bỏ lại mình ta ôm mối hận lòng
Gối lẻ chăn đơn ta bàng hoàng xót thương cho số phận.
Bởi ta bất tài nên đành để mất Tây Thi.”
Lời ca theo tôi xuống ghe xuôi dòng sông Bình Di qua căn cứ Vạt
Lài. Đó là chiếc ghe ông cho má tôi mượn tiền mua để chị Hai tôi đi buôn bán,
vì sau khi tôi đi, những công việc nặng nhọc trong nhà không còn ai làm nổi.
Sau này khi chị Hai không còn đi buôn nữa, chiếc ghe trở thành chiếc ghe hát
tài tử. Những đứa bé trong ban đờn ca tài tử của ông ngày nào không bao giờ được
bước lên sân khấu, kẻ tù đày, đứa hy sinh, còn lại vẫn như muôn đời cha ông
mình làm một anh nông dân ngày quần quật đêm mơ khúc tình tang. Nhưng ước mơ của
ông, má vẫn duy trì ban hát với những con út thằng ba mới, vẫn đến tận trong
cùng trong ngọn hát đám tang đám cưới, hay không đám gì cả, lửng lờ thả ghe
trôi trên sông mà “Tây Thi ơi! Nàng có biết không cho nỗi khổ biệt ly sầu?”.
Ông đưa tôi đi. Dáng chèo xuồng của ông như một dây đàn chùng
xa xót nỗi tiễn đưa. Má tôi và út Nhạn đứng trên bờ trông theo. Xa hơn nữa dưới
mỗi bụi chuối hàng dừa gốc me đám sậy, là những gương mặt lấp ló của mấy chị em
tôi. Một cuộc tiễn đưa không bí mật cũng chẳng công khai.
Cây đàn treo trên vách. Mỗi lần Bạch Nhạn về là qua nhà đàn
hát với má tôi. Cô đào Bạch Nhạn nổi tiếng Sài Gòn với vai Tây Thi ôm nỗi sầu
thân Ngô hồn Việt lộng lẫy áo bào vương giả, nhưng khi về với má tôi vẫn đằm thắm
nết na áo bà ba nón lá má ơi má à. Hai má con kẻ đàn người hát nuốt vào lòng
bao nỗi đớn đau thời chiến binh loạn lạc. Tiếng đàn lần lượt đưa từng người về
cõi xa xôi, nào ba tôi tịch viên mãn một đời tu hành, đi về cõi cực lạc một
mình mặc đời thịnh hay suy, mặc bầy con nheo nhóc một mình má tôi bươn chãi. Tiếng
đàn đưa ông Sáu Đờn đi trong bản Phượng hoàng đau đớn. Tiếng đàn đưa em Năm
tôi, cũng là bạn thân tình của út Nhạn, đi trong một sáng tinh sương hòa tiếng
súng gọn bâng vào tim. Máu tim em tràn ra đỏ cả dòng sông Bình Di, xác nằm phơi
trên bãi tím ngắt hoa lục bình sóng đánh dạt vào bờ dưới cái nhìn đau đớn của
má tôi. Tiếng đàn đưa em Bảy tôi tay bị cùm ra Côn Đảo rồi mãi mãi không về. Đoản
khúc Lam Giang em thường hát thành bài ca lãng du hòa cùng sóng biển.
Đó là đêm mùng hai rạng mùng ba Tết Mậu Thân năm 1968. Tôi nhận
lệnh tiêu diệt bọn lính đóng trong đồn Khánh Bình để mở đường cho chủ lực.
Tôi không nói với cả tiểu đội du kích của mình đó là ngày tôi
tròn mười tám tuổi. Tôi hào hứng với trận đánh đầu tiên tràn đầy niềm tin thắng
trận như món quà mừng sinh nhật cho chính mình, đánh dấu cho giai đoạn mới của
cuộc đời. Tôi không biết nhiều về tình hình trước đó, dù những diễn biến của cuộc
chiến cách đó vài ngày có liên quan đến trận đánh nhỏ nhoi vô danh của tiểu đội
tôi, ở một ngôi làng cũng nhỏ nhoi xa xôi tận miền quan tái của tôi. Tôi chỉ biết
nhận lệnh và thi hành mệnh lệnh, biết giữ vững niềm tin vào thắng lợi sau cùng.
Đêm giao thừa, qua radio, tôi cũng được nghe bài thơ chúc Tết của Bác Hồ, hiệu
lệnh mở màn chiến dịch Tết Mậu Thân vang dội toàn cầu sau này:
“Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.”
Nhưng mãi sau ngày giải phóng, tôi mới biết được toàn bộ diễn
biến của trận Mậu Thân năm ấy, biết được khi cả tiểu đội du kích của tôi lội
sông Bình Di từ Vạt Lài qua Khánh Bình, rằng Quân khu 5 đã nổ súng trước giờ G,
làm lộ bí mật, vì miền Bắc và miền Nam áp dụng lịch khác nhau, rằng những trận
đánh khốc liệt nhất của Biệt động đã nổ ra ở Sài Gòn, rằng cuộc tấn công của
quân giải phóng đã lan ra khắp miền Nam tới tận Châu Đốc. Trong giờ phút tôi
lom khom dẫn cả tiểu đội tiến vào đình, chắc hẳn cũng có hàng ngàn tiểu đội khắp
miền Nam cùng tôi tiến công bao đồn lũy khác, hẳn cũng có hàng vạn thanh niên
mười tám đôi mươi mặt trong trẻo hồn nhiên như tôi ôm súng và lý tưởng bước vào
trận.
Đình Khánh Bình không chỉ là cái đình, mà đó còn là ngôi nhà
chung của toàn thể dân chúng làng Khánh Bình. Mỗi năm, hễ vừa ăn Tết xong là cả
làng háo hức chuẩn bị ngày cúng Kỳ Yên vào rằm tháng 3 của ngôi đình nổi tiếng
nhất trong vùng đã tồn tại hằng trăm năm, đã được sắc phong Thần Hoàng Bổn Cảnh
của vua Bảo Đại vào năm 1932. Nhưng điều tạo niềm tự hào của làng Khánh Bình đó
đối với bọn trẻ chúng tôi không phải là điều quan trọng. Quan trọng là ngôi
đình là nơi diễn ra những trò chơi đánh trận giả rất hoành tráng của bọn con
trai chúng tôi, khi những trò leo cây, tắm sông…không còn hấp dẫn nữa. Tôi làm
tướng, trong thâm tâm nghĩ mình cỡ như Hàn Tín đứng giữa cổng đình bề thế như cổng
thành với hai con hổ đá dũng mãnh đứng hai bên cổng và hai con rồng chầu vòng lửa
trên nóc đình. Quân sĩ xếp hàng dọc đều tăm tắp sau lưng tôi, mỗi đứa cầm một
cây ná giây thun nạp sẵn đạn bằng trái ổi nếp non mọc hoang khắp nơi. Cả đội
quân đang chờ đợi sự tấn công của kẻ thù, đội quân con nít từ làng bên kia sông
Bình Di, làng đa số người Việt từ Camphuchia về, chiến tranh loạn lạc khiến họ
hết lưu lạc từ Việt qua Miên rồi từ Miên về Việt, lúc phe Quốc gia, lúc phe Việt
cộng, tùy Quốc vương Campuchia ngã theo phe nào. Chúng tôi ra sức bảo vệ cái
đình vốn không cần sự bảo vệ. Chỉ là chúng tôi tự cho nó là cung điện của chúng
tôi với những ban bệ thờ bên trong sơn son thếp vàng lộng lẫy như cung vàng điện
ngọc. Những trận đánh bên nào cũng thua đầu u trán bầm với kết cuộc đứa nào
cũng bị lôi về nhà với những trận đòn vì bỏ heo đói, bỏ em bị té cầu thang, bầy
vịt lạc mất không ai lùa về…
Bọn trẻ đánh trận giả ngày ấy giờ cũng thành hai phe. Phe địch
đóng quân trong đình và phe ta mà tôi đang dẫn đầu bao vây xung quanh đình. Bọn
chúng trong đó có những đứa nào tôi đều rõ. Đứa nào giỏi nhất về bơi lội, có thể
lặn cả buổi trời mà không biết được đang ở đâu dưới đáy sông, có thể bơi dọc
sông Bình Di mà không cần phải leo lên bờ, đứa nào cùng tôi thả diều những chiều
lộng gió, đứa nào giả đào đẹp tuyệt trần cùng tôi hát khúc Nam ai…
Nhưng điều tôi không rõ nhất đúng ra tôi phải biết trước khi
dẫn quân đến đây, điều mà chủ quan trong trinh sát khiến tôi phải ôm hận đến
sau này, không bao giờ nguôi được, là ngôi đình sinh ra tôi đã sống cùng, đã
lăng quăng cùng nó theo năm tháng, đã được tụi “địch” của tôi, cái tụi cũng đã
lớn lên cùng ngôi đình như tôi, tường tận từng góc đình, từng cái cây ngọn cỏ
xung quanh đình không thua gì tôi, đã cho đào hai cái hầm ngầm kiên cố trong
đình và một hệ thống giao thông hào đủ sức chống trả cả một tiểu đoàn chứ không
phải một tiểu đội nhỏ nhoi của tôi. Kết quả trận đánh không như năm xưa đứa nào
đứa nấy mếu máo líu ríu theo cha mẹ về nhà, mà sân đình Khánh Bình ngập ngụa
máu và xác chết của cả hai phe. Cuộc chiến sinh tử khiến không còn ai quan tâm
đến chuyện thằng trong đình hay ngoài đình kia là thằng từng cùng nắm tay mình
nhảy từ trên cầu xuống sông cười nắc nẻ hay thằng mình đang nhắm súng bắn trúng
vào tim là thằng từng cùng mình hát những bài lý mặn nồng tha thiết. Cảm giác
cuối cùng trước khi tôi bị bắt là tôi đau đớn trái tim như hóa đá khi nhìn thằng
Kheo ngọng đớt chỉ dám xin làm quân hầu trong các tuồng hát, ngã gục trước mặt
tôi từ viên đạn bắn ra từ trong đình và viên đạn cuối cùng của tôi găm thẳng
vào giữa ngực của thằng địch từng cùng tôi hát lớp Hạng Vũ biệt Ngu Cơ. Nó giả
gái đóng vai Ngu Cơ còn đẹp hơn cả út Nhạn. Tôi nghe tiếng hộc cuối cùng của nó
mà như nghe tiếng gọi của Ngu Cơ sau khi uống chung rượu độc.
Bệ hạ ơi…ơi…ơi…!
Ngu Cơ cùng quân sĩ chết hết, chỉ Hạng Vũ còn sống. Hạng Vũ
ngày xưa đứng trước Ô giang ngậm ngùi trước khi tuẫn tiết. Tôi khi đó đứng trước
sông Bình Di đau xót nhìn bãi chiến trường đầy xác chết không còn phân biệt nổi
ai Sở ai Hán nếu chỉ nhìn vào làn da nét mặt, trước khi bị một thằng địch mắt
man mác buồn ôm chặt tôi vật xuống đất. Hạng Vũ không ai phong nhưng cả nghìn
năm sau thiên hạ vẫn xem ông là đấng anh hùng, dù bao nhiêu quân sĩ nước Sở ông
dẫn qua Ô Giang đã không trở về. Còn tôi nỗi day dứt đeo đẳng mãi tới ngày hòa
bình, cho tới tận sau này khi đứng trước ống kính truyền hình tôi từ chối danh
hiệu anh hùng, vì tôi có xứng đáng là anh hùng không khi cả tiểu đội tôi dẫn đi
đánh trận chết hết chỉ mình tôi còn sống, dù khoảng đời sau đó của tôi là vào
tù ra khám, là lăn xả trong bom đạn để lại chiến trường cánh tay trái tài hoa,
là xây dựng lại phong trào cách mạng sau năm Mậu Thân tan vỡ gần hết, là biến
đình Khánh Bình thành nơi tiền tiêu bất khả xâm phạm, nơi nuôi giấu cán bộ, bộ
đội, nơi đóng trạm của chi bộ, hộ, nơi dừng chân trước khi rẽ đi khắp vùng của
mọi lực lượng, biến xã Khánh Bình thành một xã anh hùng qua trận chiến hào hùng
mùa Xuân năm 1975, cũng như những trận tiêu diệt Polpot sau này.
Đám cưới cô đào Bạch Nhạn cùng ông trung tá rôm rả xứ Sài
Thành cùng với lệnh ân xá khỏi tội tử hình của tôi mà cả tôi cũng ngỡ ngàng. Má
đưa tôi lên xe đi tù với ánh mắt chao đảo những nỗi niềm. Trong đám bụi ngút trời
sau xe, tôi nhìn thấy dáng má gầy đứng bên cây da mấy trăm năm tuổi. Tôi liên
tưởng má với cây da, mãi mãi vững tồn cùng năm tháng không gì quật được. Bên cạnh
má tôi giờ chỉ còn em gái út, sau khi lần lượt các anh chị kẻ hy sinh người bị
đi tù. Em gái út có đôi mắt lì lợm, trong giờ phút đó càng nhâu lại, thấy từng
tia máu. Em hét lên khi xe chạy: “Anh Ba kiên cường nghe. Út sẽ đi theo”. Út đã
đi theo con đường tôi đi và đã hy sinh trong một lần đưa cán bộ qua sông. Một lần
nữa giọt máu của má hòa trong dòng nước sông Bình Di. Má tôi chỉ còn một mình đứng
dưới cây da sần sùi, rễ ngoằn ngoèo bò trên mặt đất, rễ phụ buông mành phủ khắp
cả không gian tím trời chiều.
Sau khi tiếp quản, tôi bộn bề bao nhiêu việc vẫn chưa thể về
làng. Má cho ghe đến tận bến trước cổng ủy ban. Bước sãi sãi vào cổng, má rổn rảng
nói:
– Vừa được làm quan đã quên nguồn quên cội rồi hả ông quận?
Tui lập cập chạy ra, ôm má mừng mừng tủi tủi:
– Con nóng ruột muốn chết mà hông sao dứt ra về được.
Chị Hai tôi, người âm thầm đứng sau lưng tất cả chúng tôi,
người nuôi quân thầm lặng, người khóc thầm lặng cho mỗi cuộc ra đi, mỗi lần tử
trận của các em, đẩy dạt cái máy ghe qua một bên, phóng ào lên bờ, chạy đến ôm
trọn cả má và tôi, khóc nức nở. Hai nhớ bây quá. Thấy bây trên truyền hình mà
muốn đập cái truyền hình để ôm bây.
Má nắm lấy tay tôi:
– Đi với má.
– Đi đâu má?
– Qua Châu Đốc rước út Nhạn. Nó từ Sài Gòn về.
– Ủa, con tưởng.
– Tưởng cái gì?
– Tưởng Út phải đi di tản với chồng chứ.
– Tưởng tưởng cái đầu bây. Nó vừa cho người đưa thư về nè. Nó
nói nó sẽ dẫn con về quê sống.
– Hả?
– Hả hả cái gì. Nó lấy ông trung tá là để cứu bây khỏi chết
đó. Giờ bây không đi đón nó bây không phải là con người.
Tôi đi đón em không phải vì đền ơn cứu mạng. Tình yêu còn hơn
cả mạng sống con người. Tôi đi đón người tri âm sẽ cùng tôi hát bài Phi vân điệp
khúc dỡ dang năm nào.
Má mang theo ghe cả cây đàn tặng tôi năm ấy. Tay trái là tay
thuận của tôi đã mất lâu rồi, nhưng tôi đã tập đàn bằng tay phải cũng như chuyển
qua viết bằng tay phải. Không phải tôi mong chờ ngày được sum vầy cùng bà Trung
tá phu nhân, mà dường như trong tôi, út Nhạn vẫn còn nguyên hình nguyên dạng
trên ngôi nhà sàn cao ngất ấy, chỉ cần nghe tiếng đàn là Phi vân điệp khúc
trong trẻo vang lên. Giọng ca của út Nhạn không còn trong trẻo như ngày xưa, mà
nặng nỗi niềm dâu bể.
Ai?… Ai người tri âm? Một kiếp con tằm. Lăn lóc gió sương,
đàn với ta réo kêu khúc tình thương.
Mòn gót chân phong sương, dù nắng mưa chẳng phai tấm lòng
son. Ta với đàn trọn câu thủy chung, từng đêm ta vắt máu tim trao đàn.
Má hát bài lý con sáo làm trước mắt tôi cứ chập chờn đôi cánh
sáo bay qua sông và hình dáng má tôi đứng dưới gốc cây da buồn cô độc, tay ẳm
tôi, nhìn miết trên sông ngày ông Sáu làm đám cưới với mẹ út Nhạn. Câu chuyện của
ba, má tôi và ông bà Sáu là câu chuyện không ai hiểu rõ. Nhưng với tôi, má mới
đúng là người nghệ sĩ tài hoa bậc nhất trong thiên hạ. Hai bên bờ sông Bình Di,
dập dềnh hoa lục bình tím ngát và vàng rực hoa điên điển. Một đàn vịt ngừng rỉa
lông, ngẩng cổ lên nghe má tôi hát.
“Chiều chiều buồn nhìn con sáo bay
Nghe xót xa sáo bay về đâu
Thời gian tưởng chừng như giấc mơ
Theo tháng năm mái tóc bạc phơ”.
29/12/2019
Trương Thị Thanh Hiền
Theo https://vanhocsaigon.com/
Người đàn bà giặt áo mùa đông
Người đàn bà giặt áo mùa đông
Này ánh trăng Ngươi thắp sáng làm gì Biến đi Đừng để ta
nhìn vào lòng sông Đớn đau kia Sao xóa nhòa ký ức
Tôi mở cánh cửa sau vườn, làn gió mùa đông thốc thẳng vào mặt.
Hôm qua, đài báo thời tiết đêm nay xuống 9 độ C. Ở trong nhà, tôi mặc lớp này đến
lớp khác mà vẫn lạnh. Vậy mà ngoài kia… Nghĩ đến tôi rùng mình. Tiếng hát của
Tuệ vẫn cao vút trong gió đêm.
Giấc mơ ngày xưa có anh
Đêm mùa đông cái nắm tay nồng ấm
Hạnh phúc rồi chỉ là ảo mộng
Anh ngút ngàn xa…
Rồi Tuệ khóc. Tiếng khóc của cô như cứa vào lòng người. Bóng
cô nhỏ bé quyện vào bóng trăng. Chân trần hòa vào làn nước lạnh buốt. Cô vốc nước
khỏa lên mặt, lên toàn thân. Giữa cái lạnh cắt da cắt thịt nhưng Tuệ luôn có cảm
giác toàn thân bốc hỏa. Người cô nóng hừng hực như cái lần đầu tiên anh chạm
vào cô. Rồi cái nóng đó bốc thành lửa thiêu rụi cánh đồng chưa vào mùa gặt. Lửa
bùng lên dữ dội xóa sạch cánh rừng những ngày tháng sáu gió Lào rát mặt. Cô gục
đầu lên xác anh ướt sũng. Mắt cô trơ ra nhìn tấm thân anh bắt đầu rã ra vì ngâm
nước quá lâu.
Người ta tìm thấy xác anh dạt vào bến sông sau mười lăm ngày
mất tích. Cô không tin, cô nhất định không tin đó là anh. Chẳng phải anh đã nói
anh đi làm ăn xa sao. Anh bảo lần này sẽ đi hơi lâu vì công việc trên đó đang gấp.
Họ cần anh. Cô lặng im. Có lẽ như vậy cũng tốt. Mỗi ngày cô không phải tìm cách
né tránh anh. Cô không phải khổ sở đối mặt với anh vào mỗi bữa cơm. Cắm cúi ăn
thật nhanh rồi bưng thau quần áo ra sông, cô nuốt nước mắt nhìn bóng mình chao
chát trên sông. Đã không ít lần cô có ý định bỏ đi. Cô sẽ theo người ta vào nam
làm ăn. Bạn bè cùng lứa cô chẳng còn bao nhiêu người ở nhà. Họ đi tìm cơ hội mới.
Họ muốn được ngẩng mặt thoát khỏi mảnh ruộng nứt nẻ vào mùa hè, buốt giá vào
mùa đông. Nhưng khi nghĩ đến cha, cô lại không thể dứt mình ra khỏi bến sông.
Cô lầm lũi như cái bóng trong căn nhà u tối.
Tuệ im lặng, không tham gia vào bất kỳ cuộc họp bàn nào trong
việc tổ chức chôn cất anh. Nhưng khi cô nghe ban lễ tang nói anh sẽ được nằm dựa
lưng vào núi đá, mặt hướng ra sông, thì cô thở hắt, nước mắt trào ra. Cô nhớ
đêm mùa đông, trăng mười ba chênh chếch trên ngọn núi đá, gió lạnh cắt da. Cô
và anh đã đứng đó nhìn ra bến sông. Họ đứng thật lâu, lặng im. Khi trăng gần xuống
núi, anh kéo cô ôm chặt vào lòng. Nước mắt cô ướt đẫm vai áo anh. Cô chưa bao
giờ quên được đêm hôm đó. Dù những đêm sau, chỉ còn mình cô nhìn về bến sông cô
vẫn ngồi giặt áo mỗi đêm. Cô đã chờ đợi anh, cô đã hứa sẽ chờ anh. Vậy mà khi
anh trở về nơi đó, họ đã trở thành người của hai thế giới, nghìn trùng cách xa.
Tuệ điên. Cô chỉ ngồi ở bến sông trò chuyện một mình. Người
làng bảo do cô đã để nước mắt rơi xuống thân xác người chết.
Tôi chưa từng thấy người điên nào đẹp như Tuệ. Dáng cô mảnh.
Mái tóc dài và dày, đen mượt, buông xõa. Cô vẫn ngồi ở bến sông lặng lẽ hát, lặng
lẽ khóc cười. Cô vẫn chờ. Cô chờ anh trở về cùng cô giặt áo mùa đông. Cô thích
mặc áo trắng, chiếc áo được giặt ở bến sông đầy gió.
Từ khi thích trò chuyện một mình, Tuệ gần như sợ hãi tất cả
con người. Mỗi lần chị cô mang cô về từ bến sông, cô lại giấu mình vào góc
phòng rồi sau đó tìm cách trốn chạy. Cô không tiếp xúc với bất kỳ ai. Cô cứ lén
lút lẩn trốn tất cả những ai muốn lại gần mình. Tìm mãi, tìm mãi mà cô cứ bỏ đi
cũng mệt. Chị cô mặc kệ. Chị cũng đã hoang hoải lắm rồi.
Người đàn ông của đời chị đã ra đi. Lúc nhìn xác anh với đôi
mắt ngơ ngác như ai oán không khép lại được, chị đã không thể khóc. Chị biết,
chưa bao giờ anh yêu chị. Hai đứa con của chị không được sinh ra từ tình yêu mà
từ nghĩa vụ. Chúng khóc, gọi cha. Tiếng chúng khản đặc trong đêm khi không thấy
anh về. Nhưng khi anh nằm đó thì bản thân chúng chưa đủ lớn để cảm nhận hết nỗi
mất mát mà chúng phải gánh chịu. Anh không yêu chị cũng được. Anh không cần phải
nồng nàn với chị cũng được. Chị không trách anh. Chỉ cần anh ở đó, là chồng chị,
là cha của con chị. Vậy thôi. Như suốt một thời con gái, chị đã yêu anh trong
tuyệt vọng. Chị đâu nghĩ rằng anh sẽ mặc áo chú rể và đi cạnh chị cảm ơn lời
chúc tụng của họ hàng. Anh là của chị, dù tình yêu anh đã gửi gắm ở một nơi
khác. Chị chấp nhận tất cả, để gần anh. Nhưng cái xác ấy bây giờ đã không còn
thở nữa. Ánh mắt anh đã không còn lạnh nhạt nữa. Chỉ có nỗi đau xéo xắt trong
lòng chị. Chị mệt mỏi quá rồi. Chị chỉ muốn gục xuống bên xác anh. Nhưng còn
cha, còn con và đứa em điên điên dại dại.
Tuệ không về nhà. Có những ngày không ai thấy cô. Chỉ có đám
trẻ thi thoảng hứng chí đi tìm cô, chọc ghẹo cô, rồi lại chạy bán sống bán chết
khi cô thôi hát. Đêm xuống, tiếng hát Tuệ đánh thức cả ngôi làng. Bến sông ngập
đầy ánh trăng. Tuệ thả mình trong không gian lung linh huyền ảo ấy. Giọng cô
khi lảnh lót vui tươi, khi nhớ thương day dứt, khi đau đớn chia lìa. Người ta
kháo nhau, bến sông bị ma ám. Ít ai dám ra đường vào ban đêm, nhất là đi ngang
bến sông. Trẻ con cũng hết dám chạy theo kêu: “Tuệ điên, Tuệ điên” hay ném những
thứ dơ bẩn về phía cô. Gió mùa đông vẫn cắt vào từng thớ thịt. Bến sông chỉ còn
lại mình Tuệ. Dường như, cả không gian ấy là của cô…
Tuệ mất tích. Không ai biết cô đi đâu. Nhiều đêm rồi, chẳng
ai còn nghe tiếng hát ma mị của cô trên bến sông. Ban đầu, mọi người đều nghĩ
chắc cô đã bớt điên nên về nhà. Cũng có thể cô bị bệnh nên gia đình mang cô về.
Trời rét căm căm thế này, người khỏe mạnh còn chẳng chịu nổi, huống hồ, một cô
gái điên. Nhưng Tuệ không về nhà. Nhiều người bảo như thế cũng hay, chẳng phải
nghe cô hát, cô khóc mỗi đêm. Đỡ sợ… Nhưng Tuệ đi đâu. Cô có thể đi đâu khỏi
ngôi làng này được cơ chứ? Cả đời Tuệ chưa từng ra khỏi cánh đồng làng. Cô lớn
lên như bao đứa trẻ khác, quanh quẩn với ruộng vườn. Tuệ thích giặt áo trên bến
sông để nghe cá nhảy nhót tung tăng, để hứng từng mảnh trăng rơi những đêm cuối
tháng. Tuệ yêu những buổi chiều làm đồng cùng người làng rôm rả trò chuyện khi
mùa về. Cô chưa ra khỏi bến sông. Một cô gái điên có thể đi đâu ra khỏi bến
sông này?
Mùa hè đã khoác lên mình chiếc áo màu vàng tươi thắm. Nắng
trong như mắt mèo biêng biếng một màu nhớ. Bến sông đầy ắp những tiếng cười trẻ
thơ. Bao nhiêu mùa đông rồi mùa xuân đã trôi đi nhỉ. Hay, chỉ mới ngày hôm qua
đây thôi. Ngày hôm qua mùa hạ đã về. Nắng vàng trải trên những cánh đồng. Nắng
hanh hao trên mảnh đồi cỏ cháy. Mùa làm cho người ta quên quên nhớ nhớ. Như
ngày Tuệ trở về giữa chiều gió mênh mang. Đứng trên ngọn đồi, nơi anh yên nghỉ,
Tuệ ôm đứa trẻ đang ê a áp chiếc miệng xinh xắn vào má người mẹ điên. Mắt Tuệ
nhòa đi trong nắng. Cô gục đầu lên nấm mồ xanh cỏ. Tha lỗi cho em, cô khóc. Tha
lỗi cho em đã ra đi không một lời từ biệt. Nước mắt cô lại phủ kín trên ngực
anh lần nữa.
Khi Tuệ ngước nhìn lên, cô thấy con bé cười, nụ cười bình yên
như nắng chiều trên bến sông. Bé con đưa tay huơ huơ trong không trung như đùa
giỡn với ai đó. Tuệ lặng đi. Là chị. Là chị sao?
“Đừng khóc nữa. Về là tốt rồi.”, giọng chị run run. “Em thắp
cho cha nén nhang đi. Cha chờ em lâu lắm rồi. Hãy tha thứ cho cha”.
Mắt chị gầy quá. Ánh mắt côi cút khi lần lượt phải lìa xa người
chồng chị yêu thương, vuột mất đứa em ruột rà máu mủ. Ánh mắt hốt hoảng giữa
đêm khuya khi chị chạm vào đôi tay lạnh ngắt của cha. Nhưng, đau xót hơn khi chị
đọc được những dòng thư ông viết trước lúc lìa xa cõi trần. Ngộ sát. Cái chết
oan ức của anh chỉ một từ “ngộ sát” để giải quyết thôi sao? Tại sao lại như thế?
Chị đã trân trân nhìn xác cha lạnh ngắt trên giường, bình thản như đang say ngủ.
Vẫn biết rằng họ không thuận nhau, nhưng tại sao chứ? Anh là con rể, là cha của
những đứa cháu của ông mà. Chị muốn gào khóc, muốn dựng ông dậy để hỏi tại sao.
Nhưng chị không thể. Ông đã không còn có thể nói lời nào nữa. Ông đã chọn cách
kết thúc tất cả, cùng với từ “ngộ sát”. Chị kìm chặt tiếng nấc, đau thắt lòng
nhìn các con. Các con chị nằm kia, chúng không thể nào kinh động một lần nữa.
Chúng không thể biết về sự thật cha chúng đã rời bỏ chúng ra sao.
Và Tuệ, nghĩ đến cô, lòng chị thắt lại. Có phải cô đã biết sự
thật nên cô mới nửa điên nửa dại như thế. Tuệ đi đâu? Chị lại thảng thốt gào
lên. Tuệ ơi, em ở đâu? Nghĩ đến Tuệ, đến các con và cả hình hài héo úa của cha
đang nằm kia, chị chỉ còn một cách duy nhất chôn chặt bí mật trong lòng. Ánh lửa
bùng lên, cháy xém đầu ngón tay đeo nhẫn của chị.
Bến sông mỗi đêm lại văng vẳng tiếng ru hời. Là tiếng hát của
người mẹ trẻ, tiếng ru ngọt ngào yêu thương. Tuệ hết điên. Tuệ chưa hết điên.
Tuệ cứ mơ mơ tỉnh tỉnh. Nhưng Tuệ ru con rất hay. Giọng Tuệ lại trong vắt vang
xa, hòa vào dòng nước sông trong vắt.
Mùa đông này, hẳn Tuệ không còn giặt áo trên bến sông.
Mùa đông này, Tuệ ủ ấm con trong suối tóc mênh mông tình mẹ.
Mùa đông này, tôi khép cánh cửa để gió thôi lùa qua song.
29/12/2019
Đoàn Phương Huyền
Theo https://vanhocsaigon.com/
Một chiều Hồ Gươm
Một chiều Hồ Gươm
Hồ Gươm cạn nước, khoe ra một hố khảo cổ sắp xuống đến
đáy. Đúng dịp này tôi nhận đề tài nghề cổ quanh hồ Gươm. Chẳng mất công đào
cũng được khối di vật lịch sử. Nghe tôi nói thế, anh Tôn người làm cùng sở,
bình luận ngay, mày làm sử học theo lối móc cống.
Nói cùng sở cho oai vậy thôi, tôi còn là sinh viên, lại là
dân tỉnh lẻ, xin được chân trực đêm cho công ty du lịch Hoàn Kiếm ngay bên hồ
Gươm để có chỗ nương thân, tắm giặt và đặt một rương sách. Tắm giặt, học hành
chứ không ngủ. Tôi chuyên trị các ca đêm, tranh thủ ngủ vào những lúc các thầy
giáo trẻ không giảng mà đọc cho sinh viên chép giáo trình. Chép làm gì, tôi đọc
đã nhão những trang ấy trong các ca trực. Vào những ngày không phải đến trường,
tôi có thể chập chờn giấc trưa trên cái giường kê ngay trong hầm để xe.
Trưa nay anh Tôn gọi điện xuống, có thích rùa nổi, lên mà
xem! Tôi chạy như tên bắn qua cả trăm bậc thang lên tầng bốn. Anh Tôn đang quan
sát rùa bằng ống nhòm. Nhưng không hướng ra mặt hồ mà quay sang nhà hàng
karaoke, tầng lầu đối diện. Đấy là phòng nghỉ của các cô tiếp viên. Anh Tôn đưa
ống nhòm cho tôi. Lần đầu tôi được thấy các khỏa thân sống. Không mảnh mai và mịn
màng như khỏa thân Văn Cao minh họa báo Văn Nghệ, cũng không thật đến gồ ghề,
méo mó như kiểu vẽ của Bùi Xuân Phái. Tôi đỏ mặt buông ống nhòm. Anh Tôn cười
hinh hích. Xem đi chứ! Thấy động lại đậy nắp cống bây giờ!
Y như rằng, cái rèm cửa được kéo lại. Tôi nhòm ra hồ Gươm.
Trên bờ hồ một cụ ông đang bới đống bùn rác mà công nhân nạo vét hồ đổ từng xô
lên thùng xe tải. Trông quen quen, tôi chỉnh lại ống nhòm. Trán hói thật cao,
những lọn tóc hiếm hoi còn lại thì dài tới chấm vai. Ai như giáo sư Vương? Tôi
định hỏi anh Tôn (nhà Hà Nội học của riêng tôi) thì anh đã không còn trong
phòng. Tôi bỏ ống nhòm, tìm ra hồ. Nếu được giáo sư Vương cho mấy câu về các
nghề cổ truyền tôi đang tìm kiếm thì còn gì bằng!
Không phải giáo sư sử học, đấy là ông lão bơm xe vẫn ngồi chỗ
gốc cây đa ba cảm tử quân bên đền bà Kiệu. Tôi cũng đã được cụ bơm cho vài lần
nên quen mặt. Cụ tìm gì nhỉ? Có mảnh nghề cổ nào tôi đang cần trong đó không?.
Ông ơi! Bơm hay vá cũng nghỉ nhá! Ông ơi, cháu muốn hỏi chuyện?
Muốn hỏi thì lên đây!
Tôi ngại cái đám bùn nhão nhoét, lổn nhổn kia, nhưng tiếc những
thứ có thể lượm từ đấy cho đề tài của mình. Chính mắt tôi vừa thấy cụ Bơm nhặt
được những đồng xu, đấy có thể là phế phẩm đổ xuống từ phường đúc Tràng Tiền
bên kia hồ. Chưa hết phân vân, cái xe tải đã hết sức chứa, cánh thợ nạo vét nghỉ.
Cụ Bơm lịch sự, mời cậu qua hàng chè chén bên kia đường ta nói chuyện. Cậu sang
xơi nước tự nhiên. Tôi mời. Để tôi vào đền rửa mấy đồng xu này đã.
Cụ Bơm vào đền bà Kiệu lối cửa hậu như vào nhà mình. Tôi mừng
vì đã tìm đúng người cần gặp, một người chơi đồ cổ, lại chơi ngay những thứ vớt
lên từ cái hồ lịch sử còn sống trước mặt kia, tha hồ hỏi. Có khi xin được cả cổ
vật cũng nên. Cụ Bơm đã sang. Tôi vào chuyện ngay…
Tiếc quá, cậu chẳng đến sớm dăm năm, lúc ông Nguyễn Mậu còn sống.
Ông ấy mới đủ chữ nghĩa giúp cậu chứ tôi chỉ là anh bơm xe, mới học hết lớp bảy,
biết gì mà nói. Cậu cũng khéo chọn đề tài nhỉ, nghề cổ ven hồ. Chẳng giấu gì cậu,
sinh thời cụ Nguyễn Mậu vẫn coi tôi là bạn vong niên, sách nào mới ra cụ cũng đề
tặng. Những cuốn ấy tôi đều được đọc từ khi còn là bản thảo. Có lần đưa sách, cụ
nói, dù phải đứng đường kiếm sống như anh em ta, nhưng đứng ngay đây, được cái
hồ lịch sử này thăm nuôi cũng là đại phúc. Ráng sống cho ra người Tràng An. Ông
cụ vẫn dạy như thế. Cụ lại bảo, những nghề chẵn, nghề lớn thì đã có chỗ trong
ba mươi sáu phố. Nghề lẻ như anh em mình phải ra bờ hồ, ra phố thứ ba mươi bảy
này. Ngẫm lại mà đúng cậu ạ. Cũng nhờ bên trọng bên khinh như thế mà người Hà Nội
những năm bắt đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn được nghe hát xẩm, ngay dưới
chân tháp Bút bên kia. Người Hà Nội mới có ông Hoa kiều lơ tẩy hồng, bán rao tận
cổng mỗi nhà, cứu lấy những áo trắng phin nõn ngả màu cháo lòng. Chúng tôi đều
đứng đường cậu ạ, ông Mậu đứng cắt tóc. Còn tôi, khắc bút với sơn mạ huy hiệu.
Mãi sau này giải ngũ thanh niên xung phong tôi mới chuyển ngành bơm xe. Sơn khắc
mới là nghề gia truyền. Quê tôi bên Đông Hồ nhưng nhà tôi có tiệm khắc dấu phố
hàng Gai, bố tôi làm không hết việc mới nhờ vả bạn thợ, thành ông chủ lúc nào
không hay, bị đánh tư sản, nhà riêng hóa thành hợp tác xã. Bố tôi chỉ là anh xã
viên mà được quen với ông quốc ca Văn Cao kia đấy. Một thời tranh bìa Văn Cao
nhà Thanh Niên với minh họa của ông ấy trên báo Văn Nghệ một tay bố tôi khắc gỗ.
Vậy mà không đủ tiền nuôi tám miệng ăn trong nhà, ông cụ mới kiếm cho anh cả
tôi một con dao khắc, anh tôi ra nghề khắc bút ngay bờ hồ này. Bút Trường Sơn với
Hồng Hà khắc cả nghìn cây chứ chẳng ít. Khắc tặng thầy, tặng bạn, khắc tên mình
để đánh dấu phòng người ta cầm nhầm. Mấy bữa nay tôi theo sát cánh vét hồ là vì
muốn tìm dưới ấy một bản khắc của nhà. Sáng nay cô út nhà tôi lên chùa Bộc thắp
nhang cầu vớt được di cảo của anh cả. Tôi thấy nóng ruột lắm! Cạn đến thế kia
mà chưa thấy thì lạ quá. Chính tôi cùng với anh tôi thả những bức khắc ấy xuống
hồ mà. Những đồng xu này nhân tiện thì nhặt thôi. Tôi quyết tìm cho được bút
tích anh mình dưới ấy. Mà thôi cánh thợ vét lại vào việc rồi!
Một thợ sơn khắc tìm đồ gia bảo trong đống bùn rác! Lạ nhỉ!
Tôi bám sát ông cụ hay chuyện và chẳng còn ngần ngại, trèo lên xe tải. Gần tiếng
đồng hồ nữa, cũng chưa thấy gì, hai ông cháu lại vào giải lao ở hàng chè chén.
Lần này đã thấy anh Tôn ngồi đấy. Thì ra anh Tôn với cụ Bơm quen thuộc từ trước.
Chú mày giỏi thật! Mò được văn bia rồi. Cứ chép cho hết chuyện
từ cái bia sống này cũng thành một quyển sách. Địa chỉ văn hóa của anh đấy.
Tháng trước nhóm các nhà sử học Pháp sang chuẩn bị cho hội thảo 50 năm Điện
Biên Phủ, họ muốn tìm hiểu vang động đời thường của Điện Biên. Anh đưa tới cụ
đây, ngay dưới gốc đa này, trân trọng giới thiệu cụ là người thường trực ở điểm
hẹn ven hồ Gươm của các cựu chiến binh Điện Biên Phủ! Là vì những cụ bạch đầu
quân muốn làm mới huy hiệu Điện Biên bác Hồ tặng, cứ phải đến đây, chỉ còn cụ
là nhận sơn mạ huy hiệu. Đây là người cuối cùng của nghề này em ạ!
Cụ Bơm nâng chén chè nóng bằng cả hai tay mời anh Tôn. Không
dám! Đấy không còn là nghề nữa, là nghiệp rồi cậu ạ! Mình không làm mấy việc
sơn phết tỉ mẩn ấy, thời buổi bận bịu này còn ai mặc áo mới cho các chiến sĩ vô
danh. Ông Bơm nói rồi chỉ tay vào anh bộ đội mũ nan, đứng ngắm bắn dưới lá cờ
quyết chiến quyết thắng trên tấm huy hiệu ông mới lựa ra từ một hộp huy hiệu
đút trong túi ngực. Tôi làm việc này như tô tượng, cúng dường không lấy tiền của
bất kỳ cựu chiến binh nào! Ngày ấy, anh em tôi vừa khắc bút vừa học được ngay
trên vỉa hè này nghề sơn mạ huy hiệu. Những huy hiệu cũ đã tróc sơn, chúng tôi
đốt cho sơn bong hết hẳn, rồi cu lơ lại. Đẹp như mới xuất xưởng bên Trung Quốc
bên Liên Xô. Anh tôi nhập ngũ, để lại nghề sơn khắc cho tôi.
Tới đây anh Tôn đã nhấm nháp xong chén nước, lại nối mạch
chuyện. Cái hôm dẫn mấy ông Tây sử học đến đây, các ông ấy hỏi mua huy hiệu Điện
Biên, cụ không bán, chỉ tặng. Rồi cụ cởi huy hiệu mình đang đeo trên ngực, lật
mặt trái ra khoe chữ kí của hai họa sĩ, những người vẽ ra cái huy hiệu này, khắc
rất sắc nét. Một ông Tây, ngạc nhiên lắm, nói rất Tây, lần đầu tôi mới thấy một
tấm mề đay không có mặt trái! Thế rồi họ khăng khăng đòi anh dẫn lên gặp các họa
sĩ ấy, ông Mai Văn Hiến với ông Nguyễn Bích. Cũng là bạn vong niên của cụ đây
em ạ. Con lạy cụ! Cụ ra cái đòn ngoại giao ấy hơi bị giỏi đấy. Một tấm huy hiệu
mà mặt tiền thì quân sự tiền phương, mặt hậu có hậu phương văn hóa, bố Tây cũng
khiếp vía. Nãy giờ bố cho buyp phê chè chén rồi. Bây giờ con xin đãi bố một ly
rượu. Cụ Bơm từ tốn xin vâng! Để tôi góp thêm đĩa lạc.
Bà hàng nước bán thêm được ba chén rượu thì vui lắm. Góp chuyện.
Ngồi đây tôi cũng được thơm lây. Có người nhờ chuyển huy hiệu, đã không đòi
biên nhận lại còn khuyến mãi một vài cốc nước với thanh kẹo lạc. Nghĩ mà tiếc
cho bác cả ông nhỉ! Sơn khắc đã giỏi lại còn là nhạc sinh của thầy Lê mù bán
sáo trúc chỗ nhà bia Sơn Đắc Lộ đấy nhé. Ngay đây này. Ông Lê mù thổi Tiếng thơ
thì giỏi, chứ thổi Anh vẫn hành quân là phải bác cả nhà này. Tiếng sáo nẩy lắm.
Bác cả mà đứng bán sáo giúp anh Lê mù thì đắt hàng phải biết. Đủ chiêu tiếp thị,
thổi mẫu, khắc tên, chép bài kỷ niệm. Bên ven bờ Hiền Lương, Tình trong lá thiếp
hay Giữ trọn tình quê bài nào cũng biếu không. Tiếc quá bác cả mà còn sống thì
cũng có danh phận chứ chẳng…
Chẳng ngồi bơm xe như tôi chứ gì! Ông Bơm cười ha hả. Tôi
cũng đã thanh niên xung phong, thưa bà. Anh tôi đã đi chiến trường B đã liệt sĩ
rồi tôi chỉ được xung phong loanh quanh Hà Nội. Suốt mấy năm tại ngũ, chỉ
chuyên lo chuyện thoát nước, chuyên xung phong xuống cống. Vậy mà cũng có thằng
bạn liệt sĩ đấy. Thằng Dâu bên Gia Lâm. Chân đất quen rồi, xuống cống không chịu
mang ủng, giẫm phải cái tăm tre. Kinh khủng lắm! Cái tăm cật ngâm nước cứng như
đinh sắt xuyên qua bàn chân. Nhiễm uốn ván rồi chết.
Chuyện đến đây thì từ lòng hồ ồ một tiếng lạ lắm. Mặt hồ đang
lúc chiều xuống bỗng ánh lên. Thì ra mấy chúng tôi mải chuyện không biết rằng
cánh nạo vét lại đã làm việc và hình như họ mới móc được thứ gì quý giá lắm.
Tôi và anh Tôn theo cụ Bơm chạy sang hồ. Người ta móc được
pho tượng Phật. Tượng đá mà lại thếp vàng nên mới phát sáng như thế. Mọi người
thành kính lạy Phật, chẳng để ý đến những thứ bùn rác được vớt lên cùng bức tượng,
mấy cái bát hương và một tĩn sành. Cụ Bơm lượm cái tĩn, đi rất vội sang đền bà
Kiệu. Bức khắc giấu trong cái tĩn ấy chăng? Trong tĩn toàn bùn nhão. Chúng tôi
mở vòi nước, bùn ấy lại xuống cống. Tôi đỡ cái tĩn bằng cả hai tay để ông Bơm cọ
rửa mấy mươi năm rêu phong. Hàng chữ khắc vào da sành hiện dần, chữ sông, chữ
núi rồi chữ hồn. Ông Bơm lần theo những con chữ, kể tiếp chuyện nhà.
Thứ đồ sành này đựng nước mắm Phan Thiết, mỗi lần nhà tôi mua
cả chục tĩn, ăn hết lại đổi tĩn mới. Đất nước chia cắt, nước mắm Phan Thiết
không ra được, mấy cái tĩn không chẳng để làm gì nữa ông cụ mới dạy chúng tôi tập
khắc trên ấy. Khắc chữ như viết tập rồi khắc hình. Hình đôi chim hòa bình tung
cánh trên dải dất hình chữ ét, hình người vợ miền Nam khăn rằn trùm đầu đứng dưới
bóng dừa ngóng chồng… Anh tôi khắc hết ngần ấy cái tĩn sành mới đi khắc bút nhựa
thì khắc đã như múa bút! Vậy mà vẫn không đủ tiền học cho mấy đứa em. Ông ấy
đem giấu những cái tĩn này xuống lòng hồ Gươm, để tôm cá vào làm tổ trong ấy,
mình xuống bắt về, bù vào chỗ thiếu hụt tem phiếu, biến tiền chợ thành tiền học.
Ông ấy sát cá lắm, hành quân xa Hà Nội cả nghìn cây số rồi, tôm cá vẫn kéo vào ủng
hộ. Hồ Gươm nuôi nhà này ăn học cậu ạ!
Cụ Bơm kể đến đây thì dòng chữ khắc quanh cái tĩn như một thứ
hoa văn trang trí hiện đủ một vòng tròn ĐÂY HỒ GƯƠM HỒNG HÀ HỒ TÂY ĐÂY LẮNG
HỒN NÚI SÔNG NGÀN NĂM… Mười bốn chữ khắc liền không chấm phẩy để cái vòng ngàn
năm kia có thể bắt đầu bằng bất kỳ con chữ nào…
Câu chuyện trên xảy ra chiều 12.1.2004 nhằm 21 tháng Chạp Quý
Mùi tôi có ghi đầy đủ trong hồ sơ khoa học của mình.
29/12/2019
Trần Quốc Toàn
Theo https://vanhocsaigon.com/
Duyên biên cương
Duyên biên cương
Ông Lự cùng con trai ngược lên biên giới. Lòng ông
háo hức lạ.
Suốt mười năm, từ 1979 đến 1989 ông Lự đã chiến đấu ở đây,
lăn lộn với từng tấc đất, cho nên trở lại lần này ông vui lắm. Từ ngày ra quân,
ba chục năm rồi, công việc thôn xã bộn bề ông đã có dịp nào quay lại đâu. Hết
chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, đến chủ tịch, rồi bí thư, toàn đứng đầu hàng
như thế ông làm sao có thời gian đi được? Lần này, ba tháng nữa ông nghỉ hưu,
đúng lúc thằng con trai ông nó đòi lấy vợ, ông Lự mới dứt ra được để đi hỏi vợ
cho nó. Thượng úy, đồn phó biên phòng, con ông cũng ba mươi tuổi rồi chứ ít gì.
Giục mãi anh chàng giờ mới đứng số. Bố nào con nấy, nó đi đúng đường ông đi trước
đây, đóng quân đúng nơi ông chốt ngày trước. Thế nên, một chuyến đi với nhiều ý
nghĩa. Hỏi vợ cho con, thăm chiến trường cũ, chuẩn bị nghỉ hưu… Toàn chuyện hỉ.
Không phải là song hỉ mà đã là đa hỉ rồi. Vui quá đi chứ!
Quang cảnh đường lên Hà Giang khác xưa nhiều. Đường nhựa phẳng
lì. Rừng xanh miên man. Sông Lô ngay bên đường hiền hòa trôi xuôi. Hồi còn bé,
chỉ nghe bố kể về nơi này, ông đã mê rồi. Chiến dịch thu đông năm “bốn bảy”, giặc
Pháp mở gọng kìm tiến lên Việt Bắc. Trận Đoan Hùng đó, đơn vị pháo binh của bố
ông với phương châm “đặt gần bắn thẳng” đã bắn chìm mấy tàu chiến địch. Gọng
kìm của chúng bị quân và dân ta bẻ gãy. Ta thắng ròn rã. Chúng phải gọi nơi này
là “thảm họa Đoan Hùng”. Giọng bố ông kể hào sảng lắm. Kể xong ông còn ngâm ngợi
hát. “Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u. Thu ru bến sóng
vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu…”. Trường ca sông Lô đấy. Hay thế
cơ chứ lị. Lự nhìn bố hát và cũng mơ màng hát theo ông. Trong trí tưởng tượng của
Lự, hình ảnh về trận đánh, về dòng sông Lô với những bông lau rập rờn hai bên bờ,
về trái bưởi giả làm thủy lôi trên sông cứ ám ảnh mãi.
Tới khi vào bộ đội, hành quân ngược sông Lô lên biên giới năm
1979, không khí chiến tranh bao trùm, gấp gáp, mọi suy nghĩ của các chiến sĩ
lúc đó đều hướng về tuyến trước. Lự cũng vậy. Chưa kịp cảm nhận gì về sông Lô
thì anh đã phải lao vào đánh nhau với địch rồi. Bây giờ, mấy chục năm sau xa cuộc
chiến tranh, đi giữa khung cảnh thanh bình này, ông Lự mới ngấm câu chuyện của
bố ông ngày trước và nhớ về năm tháng ông quần nhau với giặc trên biên giới.
Sông Lô đẹp và thơ mộng quá. Tượng đài Chiến thắng sông Lô sừng sững bên bờ ngã
ba sông. Đoan Hùng ngạt ngào thơm hương bưởi. Tuyên Quang miền gái xinh. Chè
xanh ngút mắt nương đồi. Rừng cam vừa qua mùa thu hoạch còn sót lại mấy trái
vàng ươm treo trên cây. Bất giác, giai điệu trường ca sông Lô khe khẽ vút lên
trong đầu ông… Và rồi, loáng cái xe đã đến địa phận huyện Vị Xuyên lúc nào
không biết. Ôi, Hà Giang mến yêu của tôi! Những năm tháng chiến đấu khi xưa bỗng
ào ạt hiện về.
Mặt trận Hà Giang dạo ấy rất nóng bỏng. Lự lăn lộn ở vùng này
từ đầu năm 1984. Các điểm tựa từ đồi Tròn, lũng 840, Pa Hán (đông sông Lô) đến
đồi Cô Ích, bình độ 1100 (tây sông Lô), từ huyện Vị Xuyên sang huyện Xín Mần,
chiến đấu không thiếu một cứ điểm nào. Những ngày đông giá rét, nhiều hôm nhiệt
độ xuống sát không độ. Xuất hiện băng giá tuyết rơi. Điểm cao không có nước uống.
Chiến sĩ phải hứng sương, lấy tuyết để lau người. Bộ phận hậu cần hàng ngày phải
cõng nước, cõng cơm nắm, thực phẩm tiếp tế cho bộ đội. Tuy gian khổ là thế song
tư tưởng anh em chiến sĩ rất kiên định. Ai cũng ngoan cường. Giặc đến là đánh.
Trút căm thù lên đầu súng.
Đầu tháng một năm 1987, phía địch sử dụng lực lượng cấp sư
đoàn được pháo binh chi viện, chúng mở chiến dịch nhằm vào mười ba điểm tựa của
ta ở cả đông và tây sông Lô. Mục tiêu chủ yếu chúng nhằm tới là đồi Đài và đồi
Cô Ích. Mặc dù đối phương bắn tới trên một trăm ngàn quả đạn pháo trong ba
ngày để chi viện bộ binh liên tục tiến công ta, có ngày tới bảy lần, nhưng
đều bị bộ binh và pháo binh ta ngăn chặn ngay trước trận địa. Những quả đồi,
ngọn núi vốn là rừng già, màu xanh ngằn ngặt đã bị đạn pháo thiêu rụi, trơ ra
còn toàn đá. Đạn pháo găm vào đá, khiến đá cả những dãy núi vỡ ra trắng xóa,
nhìn từ xa không khác gì lò nung vôi.
Thiếu úy đại đội phó Lự cùng các chiến sĩ bám chốt suốt ngày
đêm quần nhau với địch. Quần áo, mặt mũi sạm đen, bám đầy khói súng. Chiều tối
hôm ấy, khi quân địch rút khỏi trận địa sau loạt cối tám hai và pháo mặt đất của
đơn vị Lự, không khí mặt trận yên ắng trở lại. Điểm danh lại, đại đội trưởng bị
thương đã chuyển về tuyến sau. Lự tạm thời chỉ huy giữ quyền đại đội trưởng.
Gánh nặng trách nhiệm đè lên vai anh. Người anh mệt bã. Thì cả ngày chiến đấu
giằng co từng tấc đất như thế, ranh giới giữa cái sống cái chết mong manh như
thế, đói mệt như thế bảo sao không lử lả được cơ chứ? Đơn vị chỉ còn hơn nửa
quân số. Mấy chiến sĩ hy sinh, một số chiến sĩ khác bị thương. Số này đã được
đưa về tuyến sau chôn cất và chữa trị. Nhìn anh em thấy ai cũng bải hoải, Lự lo
lắm. Anh động viên chiến sĩ tranh thủ lương khô, cơm nắm ăn uống nghỉ ngơi cho
lại sức. Các vị trí đều phân công nhau canh gác, cảnh giới nghiêm ngặt, cảnh
giác với trò cắm trộm liều lĩnh của địch.
Khoảng tám giờ tối, một số chiến sĩ mới được bổ sung. Trong
căn hầm chỉ huy, Lự nhìn khắp một lượt. Tất cả đều trẻ măng. Toàn tuổi mười tám
đến hai mươi giống như anh gần chục năm về trước. Chợt anh dừng lại ở một cậu
lính đang chăm chăm nhìn mình. Lự quán triệt số chiến sĩ mới, phân công họ về
các trung đội. Chiến sĩ Hà được anh giữ lại chốt chỉ huy. Đêm ấy, yên tĩnh. Hai
anh em Lự Hà rì rầm tâm sự mãi tận khuya. Hà ôm súng ngồi bên vị chỉ huy của
mình cởi mở và tin cậy.
“Chú có vợ chưa?”, Lự hỏi anh lính mới. Hà lúng búng
tâm sự: “Dạ, có rồi thủ trưởng ạ”. “Có rồi? Đủ tuổi đăng ký kết hôn không mà cưới?”,
Lự trêu Hà. Hà thủ thỉ: “Vừa đủ tuổi đăng ký thủ trưởng ạ. Em hai mươi, nhà em
mười tám”. “Được. Nhưng mà vẫn hơi bị sớm đấy”, Lự lẩm nhẩm tính toán. Hà phân
bua: “Cũng do mẹ của Nguyệt cả đấy, anh ạ?”. Nguyệt là tên vợ của Hà. “Sao? Bà ấy
giục cưới à?”. “Gần như thế. Mẹ Nguyệt bị ốm nặng. Chúng em phải cưới…cưới chạy
tang mẹ cô ấy”. “Thế hả? Rồi sao?”, Lự hỏi dồn. Hà thành thực kể tiếp: “Cụ bị
tai biến xuất huyết não. Chúng em cưới được hai ngày thì cụ đi”. Lự chép miệng
thở dài: “Trời ạ… đành vậy. Số cả đấy cậu ạ…”. Dừng lại giây lát, nhìn vào mặt
Hà, Lự nói tiếp: “Chia buồn với cậu vì vợ chồng cậu mất mẹ. Còn chia vui với cậu
thì các cậu đã sớm nên vợ thành chồng. Đúng không? Thôi, biết là việc nào đi việc
đó nhưng cứ phải kiên cường Hà ạ, để mà sống và chiến đấu”. “Dạ, em cảm ơn thủ
trưởng. Em cũng đã xác định vậy”, Hà lí nhí đáp.
Hai anh em ngồi lặng yên. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Mãi
sau, Hà lên tiếng: “Thế còn thủ trưởng?”. “Tớ hả? Một gái rồi. Kết quả của chuyến
vợ tớ lên thăm”. Hà thoáng ngạc nhiên, tròn mắt. Lự mỉm cười: “Không tin hả? Vợ
tớ lên tận đây đấy. Vừa năm ngoái nha. Tháng trước, đúng chín tháng mười ngày kể
từ ngày vợ tớ lên thì bé gái ra đời. Cậu thấy oách chưa?”. Giọng Lự phấn khởi
ra mặt. Hà cũng vui lây cùng: “Chúc mừng thủ trưởng. Chị ấy dám lên tận đây để
thăm thủ trưởng thì thật là bái phục”. Lự hãnh diện: “Chứ sao?”. Rồi anh bộc bạch:
“Bọn mình cưới nhau được mấy tháng thì tớ nhập ngũ. Rồi biền biệt biên cương
sáu, bảy năm liền. Cứ mãi thế thì bảo sao chúng tớ có con được? Vậy là cô ấy mò
lên thăm tớ. Chú thấy có liều không? May mà năm ngoái chiến sự cũng đỡ. Dù sao,
không khí chiến tranh cũng vẫn còn căng lắm. Thế mà lên đây nhìn những đồi hoa
sim cô ấy còn khe khẽ hát bài “Hoa sim biên giới” nữa chứ”. Lự dừng kể nhìn đăm
đắm vào Hà. Hà tấm tắc: “Chị ấy lãng mạn thật. Nhưng mà…công nhận đêm biên
cương đẹp tuyệt đi. Như đêm nay đây này. Có ai bảo là chiến tranh đang hiện hữu
đâu? Phải không thủ trưởng?”. Lự nhìn Hà nghĩ: đúng là lính mới. Chưa biết bom
đạn là gì nên vẫn còn mơ mộng lắm. Cứ thế đi. Mai rồi khắc biết. Đây chỉ là khoảng
lặng giữa hai trận đánh thôi nhé, cậu tân binh tò te ạ.
Đang mạch chuyện vui, Lự hào hứng kể tiếp: “Cậu biết không?
Đêm ấy, còn hơn cả đêm tân hôn nhá. Kỳ lạ lắm! (Lự tủm tỉm cười, ánh mắt nhìn
xa xăm). Bây giờ, mỗi khi nhớ lại hình ảnh vợ tớ bên những khóm sim hoa ven đồi
ở khu nhà khách đơn vị cùng tiếng hát nhẹ nhàng của cô ấy hòa với gió biên
cương rì rào là bao nhiêu mệt nhọc trong tớ đều tan biến hết. Thế mới lạ, cậu ạ”.
Lự thủ thỉ mơ màng.
Trăng biên cương vằng vặc sáng. Cứ vô tư như chưa hề có tiếng
súng và chết chóc ở đây. Hà nhìn Lự, nhìn trăng, nhìn về phía bên kia đen ngòm.
Phía ấy đang tiềm ẩn những bất trắc khôn lường. Giá như đừng có chiến tranh thì
đêm trăng này, kỷ niệm ấy của Lự và nỗi nhớ của Hà về Nguyệt sẽ thơ mộng biết
bao nhiêu. Chợt Lự như bừng tỉnh: “Cậu mới cưới vợ, xa nhau thế này thì nhớ lắm
đấy. Cả cô ấy nữa”. “Vâng” – Hà đáp – “Nhưng bọn em xác định rồi. Phải đặt nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc lên trên hết. Bố mẹ em cũng dặn em thế thủ trưởng ạ”. “Tốt.
Phải thế chứ! Anh em mình đã lên đây là phải vững vàng. Quyết chiến với bọn
chúng giữ vừng từng tấc đất biên cương”, Lự vừa nói vừa vỗ vỗ vai Hà.
Tiếng loa phóng thanh phía bên kia kêu ông ổng. Toàn luận điệu
bịp bợm. Mả cha chúng nó chứ. Ban ngày đấu súng, đêm về thì đấu loa. Vẩn đục hết
cả bầu trời biên giới. Gần sáng, tiếng pháo bất ngờ dội tới. Trời đêm Thanh Thủy
đỏ rực. Lự vùng dậy lệnh cho toàn đơn vị sẵn sàng chiến đấu. Pháo địch cày xới
từng mét đất, mỏm đá, dọn đường cho bộ binh biển người xông lên. Lự nhắc các
chiến sĩ bình tĩnh, chờ cho chúng đến thật gần mới nhả đạn. Các nòng súng của
ta rê theo bước tiến của địch. Đúng tầm bắn gần nhất, Lự phất tay. Quả B41 của
chiến sĩ Hải vọt khỏi nòng. Trong đám lửa màu da cam hiện rõ từng tên lính bị hất
tung lên ném xuống chân núi. Phát B41 này cũng là khẩu lệnh của trận đánh. Tiếp
đó là thủ pháo, lựu đạn nổ. Từng tràng AK liên thanh dồn dập ập lên đầu địch. Bọn
chúng kêu oai oái, dẫm đạp lên nhau tháo chạy. Tên chỉ huy từ phía sau đốc quân
lính khiến chúng không còn đường nào lui bắt buộc phải lao lên. Thằng nọ ngã xuống,
thằng kia nhô tới. Phía sau ùn ùn đùn lên. Súng các chiến sĩ đơn vị Lự đỏ nòng,
khét lẹt.
Bất ngờ Hà thấy có một vật gì rơi bịch ngay dưới lòng công sự.
Chưa kịp định thần, Hà bị xô ngã dúi dụi. Ai đó nằm đè lên người anh. Một tiếng
nổ đinh tai nhức óc vang lên. Đất đá rơi lả tả. Hà dụi mắt nhìn quanh. Khẩu cối
văng ra đổ kềnh. Mấy chiến sĩ cùng khẩu đội ngơ ngác. Rồi họ nhận ra Lự. Anh
đang nằm đè lên người Hà, che toàn bộ phía quả lựu đạn vừa nổ. Hà có cảm giác
như lưng mình bị ướt. Anh sờ tay. Ấm nóng. Mùi tanh tanh. Hà đưa bàn tay lên
nhìn dưới ánh trăng. Trời ơi! Máu! Không lẽ mình bị… Nhưng mà… sao không có cảm
giác đau đớn gì cả nhỉ? Hà nghiêng mình khẽ lật lại. Anh và Lự cùng lăn ra giữa
giao thông hào. Quay sang Lự, Hà vội sờ nắn khắp người Lự. Lự nhìn Hà khẽ nói:
“Cậu không sao chứ?”. Hà đáp: “Không”. Lự thều thào: “Tớ… bị… rồi!”. “Ở đâu thế?
Để em xem?”. Hà lo lắng, hỏi dồn dập. Lự lắp bắp: “May quá. Tớ phát hiện kịp.
Không thì…”. Mấy chiến sĩ xúm lại đỡ Lự. Bàn tay trái anh đẫm máu. Máu loang lổ
khắp người Lự. Phía trước, tổ một tiền tiêu vẫn tiếp tục chiến đấu. Hà băng bó,
ga rô cho Lự. Lự cho cậu liên lạc truyền mệnh lệnh chỉ huy cho trung đội trưởng
trung đội một thay anh. Sau khi băng bó xong, Lự xua tay, nói với Hà: “Tớ không
sao đâu. Cậu quay lại ví trí chiến đấu đi. Kiên quyết giữ chốt bằng mọi giá”.
Đặt Lự nằm trong hầm, Hà lao lên phía trước. Cả đơn vị bám
sát, hiệp đồng chặt chẽ, đánh lui địch hết đợt này đến đợt khác. Suốt cả ngày
hôm đó, Lự nằm trong hầm. Hai bên đánh nhau ác liệt, không thể đưa anh về tuyến
sau được. Đã vậy, Lự gián tiếp cùng trung đội trưởng trung đội một chỉ huy trận
đánh. Bọn địch bị đánh bật hết đợt nọ đến đợt kia. Chốt của ta vẫn được giữ vững.
Mãi chiều muộn, địch mới rút. Bộ phận hậu cần mới tiếp cận được chốt. Họ tiếp tế
lương khô, cơm nắm và chuyển thương binh về tuyến sau. Lự cũng phải rời trận địa.
Thế là sau mấy ngày quần thảo, điểm cao của đơn vị Lự vẫn được giữ vững.
Mới đó mà đã hơn ba chục năm. Qua nghĩa trang Vị Xuyên, Lự bảo
lái xe dừng lại. Anh cùng Lân, con trai lên thắp hương cho các đồng đội. Sau
đó, hai cha con anh lên phố cổ Đồng Văn. Nơi đó là nhà người yêu của Lân. Cô bé
hiện đang là giáo viên ở đây. Hai đứa quen biết rồi yêu nhau qua mấy đợt Lân
giao lưu, giúp đỡ nhà trường. Đứa phó chỉ huy đồn biên phòng, đứa bí thư đoàn
trường, hai đơn vị kết nghĩa với nhau nảy ra mối tình này.
Cả nhà Nga (tên người yêu của Lân) ra tận cổng đón bố con ông
Lự. “Ơ! Thủ trưởng Lự! Có phải thủ trưởng Lự không?”. Vừa bắt tay ông Lự, bố của
Nga vừa trân trân nhìn ông khách. Rồi ông ta reo lên: “Đúng rồi! Thủ trưởng Lự!”.
Ôm chầm lấy ông Lự, bố của Nga nhấc bổng ông Lự lên xoay một vòng rồi mới đặt
ông xuống. Đến lượt ông Lự ngạc nhiên. Định thần, ông nhìn chằm chằm vào người
vừa ôm mình. “Hà! Đúng là Hà rồi! Sao chú lại ở đây?”. Ông Lự reo lên. Rồi ông
dang tay lao vào ôm chặt người ông vừa gọi. Ông có tên là Hà hớn hở: “Em…em là
bố cháu Nga mà! Thế còn thủ trưởng?”. “Tôi hả? Thì là bố cháu Lân chứ còn sao nữa?
Được chưa?”. Ông Hà há hốc mồm. Một lần nữa, ông lại reo lên: “Giời ơi! Đúng là
duyên kỳ ngộ! Thật tuyệt vời!”. Hai ông cứ thế ôm và vỗ vỗ vào lưng nhau. Mãi
sau, như sực tỉnh, buông ông Lự ra, ông Hà vào vai họ nhà gái: “Mời… mời hai… bố
con… ông vào nhà”.
Tất cả mọi người đều quá đỗi ngỡ ngàng. Không ngờ hai ông
thông gia tương lai lại là đồng đội cũ của nhau. Bao nhiêu nghi lễ rườm rà liền
được bỏ qua. Hai người xoắn lấy nhau chẳng nói gì về chuyện “ăn hỏi” nữa. Họ
toàn nhắc kỷ niệm ở chốt và hỏi thăm nhau sau ngày xuất ngũ. Ông Hà cho biết,
ra quân, ông chuyển ngành sang ủy ban huyện, rồi kéo cả vợ con lên ở phố cổ Đồng
Văn này. Hiện ông vẫn đang công tác, dăm năm nữa mới nghỉ hưu. Ông kể với mọi
người rằng chính ông Lự, thủ trưởng cũ của ông đã cứu ông trong trận đánh đó
như thế nào. “Ân nhân của tôi đấy. Các vị xem đây này”. Cầm bàn tay thương tật
của ông Lự giơ cao, ông Hà nói. Mọi người nhìn ông Lự đầy biết ơn.
Ông Lự cũng tóm tắt quá trình của mình sau trận đánh đó. “Tám
chín” ra quân về xã. Cuối năm đó có thằng Lân. Ông gánh vác việc xã liên tục tới
tận bây giờ. Đời ông gắn toàn với số 9. 59 sinh, 79 bộ đội, dự luôn chiến tranh
biên giới, 89 ra quân đẻ con trai. Và năm nay, 2019, nghỉ hưu, cưới vợ cho con.
Toàn việc lớn và vui cả.
Xen giữa chuyện hai người, họ còn nhắc nhớ, hỏi han nhau về đồng
đội. Nào là thằng Hải B41 hiện giờ ở đâu, gia cảnh ra sao? Nào là thằng Khải A2
bị mảnh pháo phạt đứt tai sau đó nó có nghe được không? Rồi thì “thằng Minh B
trưởng B1 thay tớ chỉ huy trận đó giờ còn ở trong quân ngũ chứ? Nó làm đến chức
vụ gì rồi?”. “Ông ở trên này nắm được nhiều tin tức về chúng nó nói cho tớ biết
đi. Tớ về đoàn an dưỡng hơn năm sau thì ra quân nên không nắm được nhiều thông
tin về đơn vị”. “Chuyện tình giữa thằng Bản với cái Hoa y sỹ thế nào? Hai đứa vẫn
lấy nhau chứ?”. Ông Lự hỏi dồn dập. Hà chưa kịp trả lời câu này thì ông đã hỏi
câu khác rồi. “Chết rồi! Cả hai đứa hy sinh trong trận đánh hôm sau anh ạ. Cái
Hoa cõng thằng Bản từ trên chốt về trạm phẫu, dọc đường bị trúng pháo, thế là
đi cả”, Hà ngậm ngùi kể. “Rõ khổ! Chúng nó yêu nhau quá. Vậy mà… Thôi! Dẫu gì
chúng vẫn ở bên nhau”. Giọng ông Lự chùng hẳn xuống. Mãi một lúc sau, ông Lự mới
lại hỏi tiếp về những đồng đội khác. Ông gọi ông Hà là cậu cậu, tớ tớ, chú chú
anh anh. Lúc lại xưng hô ông ông tôi tôi với nhau. Cả ông Hà cũng vậy. Khi thì
thủ trưởng Lự. Lúc lại là anh Lự, bác Lự. Lắm lúc ông lại gọi ông Lự là ông, rất
đồng vai phải lứa. Hai người cứ xưng hô loạn xì ngầu cả lên. Chuyện nọ xọ chuyện
kia. Đang chuyện chiến trường lại ngoặt sang chuyện làm kinh tế, xóa đói giảm
nghèo. Rồi thì chuyện học hành của con cái, chuyện ông nọ bà kia.
Đang mạch chuyện hào hứng, ông Lự đột ngột nhìn thẳng vào mắt
ông Hà, hỏi: “Ông nhất trí gả con gái cho con trai tôi chứ?”. Mắt ông sáng ngời.
Miệng ông cười tươi. Ông lặng yên chờ đợi. Bị đột ngột dừng câu chuyện bằng một
câu hỏi rất lính của ông Lự, ông Hà thoáng sững sờ. Rồi ông kịp trấn tĩnh lại.
Đang ngồi, ông Hà đứng bật dậy, dập hai chân vào nhau, đưa một tay lên đầu theo
kiểu chào nhà binh, đứng nghiêm trước mặt ông Lự. “Báo cáo Thủ trưởng! Rõ!”. Giọng
ông Hà vang lên dõng dạc và dứt khoát. Ông Lự vươn tay ôm chầm lấy ông Hà. Hai
người một tay ôm nhau, một tay kia cùng dang ra về một hướng. Họ cười lên ha hả.
Tất cả đều ngỡ ngàng trong giây lát. Sau đó, mọi người cùng vỗ
tay và cười theo. Tiếng nói, tiếng cười rộn rã đầy ắp cả căn nhà. Lân rạng rỡ
nhìn hai ông bố và nhìn Nga. Nga đỏ mặt bối rối lâng lâng trong niềm vui hạnh
phúc. Các bố đúng là nhà binh có khác. Lúc nào cũng quân kỷ quân phong.
Ngoài kia, mùa xuân đã về. Hoa đào đỏ rực ấm áp cả một vùng
cao biên giới.
31/12/2019
Đỗ Xuân Thu
Nguồn: Văn Nghệ số 8/2019
Theo https://vanhocsaigon.com/
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)
Mùa thi - Mùa nhớ lan man
Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...
-
Nguyễn Du Từ một ai đó đến không ai cả Bạn phải là một ai đó trước khi có thể là không ai cả Engler Jack Sau thời đại...
-
Hoàng Thụy Anh và những không gian mơ tưởng “ta chấp nhận mọi trả giá - kể cả cái chết - để hiện sinh - như một bài ...
-
Ánh trăng trong thơ Dương Quân (Trong Ba tập thơ Chập Chờn Cơn Mê, Điểm Hẹn Sau Cùng, Trên Đỉnh Nhớ) Vào một ...





.jpg)