Đường xưa mây trắng 2
Chương 22 - Chuyển Pháp Luân Kinh
Hồi đó sa môn Assaji vẫn còn tu theo lối khổ hạnh tại Vườn
Nai ở Isipatana.
Một hôm, sau giờ thiền tọa, thầy Assaji trông thấy thấp
thoáng bóng một vị sa môn đang từ ngoài xa đi đến.
Nhìn kỹ, ông biết đó là Siddhatta. Ông vội báo cho các bạn
cùng biết. Thầy Bhaddiya nói:
– Siddhatta hồi đó đang tu khổ hạnh với chúng ta thì nửa chừng
bỏ cuộc. Ông ta ăn cơm, uống sữa, vào ra thôn lạc và làm quen với bọn trẻ trong
xóm. Sa môn Siddhatta đã làm cho chúng ta thất vọng. Vậy nếu ông ấy có tới thăm
chúng ta thì chúng ta cũng không nên đón tiếp nồng hậu làm gì.
Cả năm người đồng ý là sẽ không ra tận ngõ để đón tiếp mà
cũng không cần đứng dậy khi Siddhatta bước vào.
Nhưng sự tình đã xảy ra khác hẳn. Thấy Siddhatta bước vào tới
cổng, không ai bảo ai, cả năm người đều tức khắc đứng dậy. Sa môn Siddhatta có
phong độ thật uy nghi. Người ông như tỏa chiếu hào quang. Mỗi bước chân của ông
như nói lên được sức mạnh của tâm linh ông và cái nhìn của ông như lấy đi hết tất
cả mọi ý niệm kháng cự có thể có trong năm người sa môn đã cùng tu chung với
ông thuở trước.
Sa môn Kondanna chạy tới trước. Ông đỡ lấy bình bát trên tay
Siddhatta. Sa môn Mahanama chạy đi múc nước cho Siddhatta rửa tay và rửa chân.
Sa môn Bhaddiya kê một chiếc ghế mời Siddhatta ngồi. Sa môn Vappa đi tìm một quạt
bằng lá cây thốt nốt để quạt cho Siddhatta. Assaji thì đứng ngớ ngẩn một bên,
chẳng biết làm gì.
Sau khi Siddhatta đã rửa tay, rửa mặt, rửa chân và ngồi xuống,
Assaji mới biết đi tìm rót một bát nước lạnh đem tới cho Siddhatta giải khát.
Rồi năm người bạn cũ cùng ngồi quanh Siddhatta. Siddhatta đưa
mắt nhìn các bạn, rồi nói:
– Này quý vị, tôi đã tìm ra đạo giải thoát rồi, và tôi sẽ chỉ
dạy lại cho quý vị.
Nghe nói như thế, sa môn Assaji nửa tin nửa ngờ. Có lẽ bốn
người kia cũng có cảm tưởng như ông. Mọi người im lặng hồi lâu. Bỗng Kondanna
lên tiếng:
– Sa môn Gotama! Hồi trước trong thời gian tu với chúng tôi,
bạn đã nửa chừng bỏ cuộc, bạn đã ăn cơm, uống sữa và giao thiệp với người lớn
và trẻ con trong xóm. Làm sao bạn có thể tìm được đạo giải thoát. Làm sao bạn
có thể chỉ dạy cho chúng tôi về đạo giải thoát?
Siddhatta nhìn vào mắt sa môn Kondanna, ông hỏi:
– Sa môn Kondanna, bạn đã quen biết tôi từ gần sáu năm nay.
Trong thời gian ấy tôi đã từng nói dối bạn một lần nào chưa?
Kondanna giật mình. Ông thẳng thắn nói:
– Sa môn Gotama nói đúng. Tôi chưa bao giờ từng nghe sa môn
nói một điều không phù hợp với sự thực.
– Vậy các bạn hãy nghe đây. Tôi đã tìm ra được Đạo Lớn rồi và
tôi sẽ chỉ dạy cho các bạn. Các bạn là những vị sa môn đầu tiên trên đời được
nghe giáo pháp mầu nhiệm mà tôi đã tìm ra. Giáo pháp này không phải là kết quả
của suy luận. Giáo pháp này là hoa trái của thực chứng. Các vị hãy đem hết nhận
thức thanh tịnh mà nghiêm chỉnh lắng nghe.
Giọng nói của Bụt mang uy lực tâm linh rất lớn khiến năm người
đều tự động đổi thế ngồi, nghiêm chỉnh hướng về người. Họ chắp tay lại.
Kondanna thành kính nói:
– Xin sa môn Gotama đem hết lòng xót thương mà dạy cho chúng
tôi.
Bụt nghiêm trang mở lời:
– Này các vị sa môn, có hai thái cực mà người tu đạo nên
tránh: một là lao mình vào khoái lạc nhục thể, hai là hành hạ thân xác cho hao
mòn. Cả hai con đường đều đưa tới sự phá sản của thân tâm. Con đường mà tôi đã
tìm ra là con đường trung đạo tránh được hai thái cực ấy và có thể đem đến trí
tuệ, giải thoát và an lạc. Con đường đó là con đường Bát chánh: nhận thức chân
chính, tư duy chân chính, ngôn ngữ chân chính, hành động chân chính, sinh kế
chân chính, chuyên cần chân chính, niệm lực chân chính và định lực chân chính.
Tôi đã theo con đường bát chánh đó và đã thực hiện được trí tuệ, giải thoát và
an lạc.
Này các vị, sao gọi là chánh đạo? Sở dĩ gọi là chánh đạo vì
con đường này không phải là con đường trốn tránh đau khổ mà là con đường đối diện
trực tiếp khổ đau để diệt trừ khổ đau. Con đường bát chánh này là con đường của
sự sống tỉnh thức, vì vậy chánh niệm là khởi điểm. Có chánh niệm thì sẽ có
chánh định, nghĩa là định lực có tác dụng đưa tới trí tuệ. Nhờ có niệm lực và định
lực chân chính thì nhận thức, tư duy, ngôn từ, hành động, sinh kế và sự chuyên
cần cũng sẽ đi vào chánh đạo. Trí tuệ được phát sinh sẽ giải thoát được cho người
hành giả tất cả mọi ràng buộc khổ đau và làm phát sinh nơi người hành giả nguồn
an lạc chân chính.
Này các vị, có bốn sự thật mà người tu phải công nhận: sự có
mặt của khổ đau, sự có mặt của những nguyên nhân của các khổ đau ấy, sự chấm dứt
khổ đau và con đường đi tới sự chấm dứt khổ đau. Bốn sự thật ấy là bốn sự thật
mầu nhiệm, gọi là tứ diệu đế. Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ nhất: Khổ
đau. Sinh, già, bệnh và chết là khổ; buồn, giận ghen, tức, lo lắng, sợ hãi và
thất vọng là khổ; chia cách người thân yêu là khổ, chung đụng với người ghét bỏ
là khổ, tham đắm và kẹt vào năm uẩn là khổ.
Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ hai: nguyên nhân của khổ
đau. Vì ngu muội, vì không thấy và không hiểu được sự thật về bản thân và về cuộc
đời cho nên con người bị những ngọn lửa của tham đắm, giận hờn, ghen tức, sầu
não, lo lắng sợ hãi và thất vọng đêm ngày đốt cháy và hành hạ.
Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ ba: sự chấm dứt khổ
đau. Đó là trí tuệ, là hiểu biết, là nhận thức được sự thật về bản thân và về
cuộc đời. Trí tuệ này, cái thấy này đưa lại sự chấm dứt của mọi sầu đau và làm
phát sinh niềm an lạc.
Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ tư: con đường diệt khổ.
Đó là con đường Bát chánh mà tôi đã trình bày. Bản chất của Bát chánh đạo được
nuôi dưỡng bằng nếp sống tỉnh thức hàng ngày, đó tức là chánh niệm. Chánh niệm
đưa tới Định và Tuệ, có năng lực giải thoát con người khỏi mọi niềm đau và đem
lại mọi an vui. Tôi sẽ hướng dẫn cho các vị từng bước trên con đường thực hiện
này.
Trong khi Siddhatta giảng giải về bốn sự thật mầu nhiệm, sa
môn Kondanna bỗng thấy tâm mình bừng sáng. Ông thấy được lập tức con đường giải
thoát thật sự mà lâu nay ông tìm kiếm. Nét mặt ông rạng rỡ. Thấy thế, Bụt chỉ
vào ông và nói lớn:
– Sa môn Kondanna! Bạn đã hiểu! Bạn đã hiểu!
Kondanna chắp tay quỳ xuống bên ghế ngồi của Bụt. Ông thành
kính nói:
– Sa môn Gotama, xin thầy hãy nhận Kondanna này làm học trò của
thầy. Kondanna biết rằng dưới sự chỉ dạy của thầy, Kondanna sẽ thành đạt nguyện
lớn.
Bốn vị sa môn kia thấy vậy cũng quỳ xuống cả dưới chân Bụt và
chắp tay cầu xin Bụt nhận họ làm đệ tử. Bụt đỡ cả năm người dậy. Người bảo họ
ngồi lên ghế. Người cũng ngồi xuống chỗ ngồi cũ của mình. Bụt nói:
– Này quý vị! Bọn trẻ trong làng Uruvela đã đặt tên cho tôi
là Bụt. Có lẽ quý vị cũng có thể dùng danh từ ấy để gọi tôi.
Kondanna hỏi lại:
– Bọn con nít gọi sa môn Gotama là Bụt? Bụt có nghĩa là “người
tỉnh thức”?
– Đúng như vậy, và chúng gọi con đường mà tôi tìm ra là “đạo
tỉnh thức”. Các thầy nghe có được không?
– Người tỉnh thức! Đạo tỉnh thức! Hay lắm! Hay lắm! Danh xưng
vừa chính xác, vừa đơn giản và thân mật. Chúng con xin từ nay gọi thầy là Bụt
và nền đạo lý mà thầy tìm ra là đạo Bụt. Đạo tỉnh thức. Đúng lắm, bởi vì nếp sống
tỉnh thức hàng ngày, như thầy nói, là căn bản cho sự tu hành.
Năm người đã đồng ý tôn sa môn Gotama làm thầy, bây giờ đều đồng
ý gọi sa môn Gotama là Bụt.
Bụt mỉm cười nhìn họ:
– Xin các vị tinh tiến tu hành. Con đường đã tìm ra được. Nếu
quý vị thực tập nghiêm chỉnh thì chỉ trong vòng ba tháng quý vị sẽ đạt tới quả
vị giải thoát.
Bụt ở lại Isipatana một thời gian để dạy dỗ cho năm vị sa
môn. Họ vâng lời Bụt chấm dứt lối tu khổ hạnh. Mỗi ngày ba vị luân phiên cầm
bát đi khất thực trong xóm. Trưa về, ba người san sẻ thức ăn xin được cho ba
người ở lại, trong đó có Bụt. Bụt ở lại để hướng dẫn sự tu học cho mọi người.
Năm vị tu học rất tinh tiến và ngày nào cũng đạt được nhiều tiến bộ.
Bụt dạy cho họ về tự tính vô thường và vô ngã của vạn vật.
Người phân tích cho họ thấy năm uẩn đều như những dòng sông luôn luôn trôi chảy
và biến đổi, trong đó không có một cái gì có thể gọi là đồng nhất và bất biến.
Năm uẩn tức là thân thể (sắc), cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), tâm hành
(hành) và nhận thức (thức).
Bụt dạy họ quán sát sự trôi chảy của năm dòng sông ấy trong tự
thân của mỗi người để có thể thấy được tính vô thường và vô ngã của chúng và của
vạn hữu, và cũng để thấy những liên hệ mật thiết và mầu nhiệm giữa vũ trụ và bản
thân mình.
Nhờ sự tu học tinh chuyên, năm vị dần dần đạt được cái thấy mầu
nhiệm. Người đầu tiên chứng ngộ là Kondanna. Rồi hai tháng sau là đến phiên
Vappa và Bhaddhiya. Cuối cùng Mahanama và Assaji cũng đạt tới quả vị A-la-hán.
Bụt rất vui mừng. Người nói:
– Chúng ta đã có đoàn thể xứng đáng với tên gọi sangha, đoàn
thể của những người biết sống cuộc đời tỉnh thức, rồi đây quý vị sẽ phải cùng với
tôi đem những hạt giống của đạo tỉnh thức gieo rắc khắp mọi nơi.
Chương 23 - Những giọt nước cam lồ
Bụt hay dậy sớm, và sau khi ngồi thiền, người ưa đi thiền
hành ngoài trời giữa những hàng cây.
Một hôm đang đi thiền hành ngoài trời, Bụt thấy một người đi
tới. Lúc ấy nắng chưa lên và trong sương mù hình dáng của cây cối và của người
khách lạ kia không được tỏ rõ lắm. Bụt ngồi xuống một tảng đá gần đó. Người
khách lạ đã đến gần. Người này chưa thấy Bụt nhưng Bụt đã thấy ông ta. Đó là một
chàng thanh niên chừng ba mươi tuổi, dáng điệu thanh tú, chàng thanh niên vừa
đi vừa lẩm bẩm cái gì trong miệng, khi anh ta tới gần. Bụt nghe anh ta lẩm bẩm:
“Thật là đáng sợ, thật là ghê tởm”. Chàng thanh niên vẫn chưa thấy Bụt.
Bụt lên tiếng:
– Không có gì đáng sợ, không có gì ghê tởm.
Giọng Bụt vọng lên rành mạch và ôn tồn trong không khí mát lạnh
của buổi mai. Chàng thanh niên giật mình nhìn sang. Anh ta thấy Bụt ngồi thảnh
thơi trên một tảng đá, phong thái thật ung dung và trầm tĩnh. Anh tuốt bỏ đôi
dép, tiến tới trước Bụt và lạy xuống, rồi anh ngồi xuống trên một hòn đá thấp
bên cạnh Bụt, Bụt hỏi:
– Cái gì mà đáng sợ? Cái gì mà ghê tởm?
Chàng thanh niên bắt đầu kể chuyện mình.
Anh ta tên là Yasa, con của một thương gia giàu có vào bậc nhất
nhì ở thành phố Baranasi. Yasa sống một cuộc sống giàu sang tột bực. Cha mẹ anh
cưng chìu anh và cung cấp cho anh đủ hết phương tiện để sống trong các thú vui
của người giàu có: nhà cao, cửa rộng, châu báu, tiền bạc, rượu mạnh, kỹ nữ, tiệc
tùng, cuộc vui… Yasa là một người con trai biết suy nghĩ. Những năm gần đây,
anh bắt đầu thấy lợm vì cái nếp sống trác táng đó. Anh ta không còn cảm thấy lạc
thú gì trong cuộc sống ấy.
Anh ta khao khát một đời sống lành mạnh, giống như một người
bị nhốt lâu trong một căn phòng kín mít khao khát khí trời. Cả đêm hôm qua, bạn
bè anh ta quy tụ để ăn uống, đàn địch và nô đùa với bọn vũ nữ. Thức dậy lúc nửa
đêm Yasa nhìn thấy cảnh tượng các vũ nữ nằm ngả nghiêng, phơi bày những chân tướng
không đẹp đẽ gì của họ, chàng cảm thấy không thể nào còn tiếp tục được cuộc sống
trác táng này. Chàng khoác lên người một cái áo, luồn chân vào một đôi dép và mở
cửa đi ra khỏi nhà. Chàng đi ra cổng trước. Mở cửa cổng trước, chàng đi mà
không biết mình đi đâu. Chàng cứ thế mà đi trong đêm khuya, và tình cờ Yasa đi
về hướng vườn Lộc Uyển. Tới đây thì trời vừa sáng và Yasa gặp Bụt.
Bụt dạy:
– Yasa, cuộc đời đầy dẫy những khổ đau mà cũng đầy dẫy những
hiện tượng mầu nhiệm. Đắm mình trong dục lạc, điều đó chỉ có thể tàn phá sức khỏe
của hình hài cũng như của tâm hồn, và lại tạo thêm khổ đau cho ta. Nếu biết sống
một cuộc đời lành mạnh, không bị vật dục lôi cuốn, ta có thể tiếp xúc với biết
bao cảnh tượng mầu nhiệm trong cuộc đời. Yasa, con hãy nhìn những thân cây đứng
trong sương mù này. Đó là những hình ảnh vừa đẹp đẽ vừa mầu nhiệm. Trăng, sao,
sông, núi, ánh sáng mặt trời, tiếng chim hót, tiếng suối reo… tất cả những biểu
hiện đó của vũ trụ đều mầu nhiệm, đều đẹp đẽ, đều có thể cho ta những nguồn vui
bất tận.
Những niềm vui này không phá hại sức khỏe của thân thể và tâm
hồn, trái lại còn nuôi dưỡng được cho thân thể và tâm hồn. Chính thân thể và
tâm hồn con cũng là những hiện tượng mầu nhiệm, con thử nhắm mắt lại, thở ra thở
vào vài ba hơi, rồi mở mắt ra xem. Con thấy không? Hai mắt của con có thể nhìn
thấy cây, thấy sương, thấy trời, thấy tia nắng ấm; hai mắt của con thật mầu nhiệm,
vì không tiếp xúc được với hiện hữu mầu nhiệm nên đã có lúc con chán ghét ngay
cả thân thể con và tâm hồn con. Có người chán ghét thân thể họ, tâm hồn họ và
chán ghét luôn cả cuộc đời cho nên đã đi tự tử. Họ không biết rằng vạn hữu cũng
là mầu nhiệm. Họ chỉ thấy được mặt khổ đau của vạn hữu, nhưng khổ đau không phải
là bản chất của vạn hữu. Khổ đau là do thái độ sống và do cách nhìn sai lạc của
con người mà có…
Yasa là một chàng trai rất thông minh, những lời của Bụt như
những giọt nước mát tưới vào tâm hồn khô cạn của chàng. Rất sung sướng, chàng
quỳ xuống dưới chân Bụt và xin được làm học trò xuất gia của Bụt.
Bụt đỡ Yasa lên. Người nói:
– Người xuất gia sống một cuộc đời thanh bạch và khiêm cung,
không nắm giữ tiền bạc, ngủ trong am lá hoặc dưới gốc cây, ăn bất cứ thức ăn
nào xin được và mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Con có thể sống như vậy được không?
– Lạy thầy, con có thể sống như vậy được.
Bụt nói:
– Người xuất gia tu học cần phải đem hết tâm tư và nghị lực để
hoàn thành sự nghiệp giải thoát của mình, để có thể giúp đời và giúp người, làm
vơi bớt những khổ đau trong sự sống, con có phát nguyện đi theo con đường ấy
không?
– Lạy thầy, con xin phát nguyện đi theo con đường mà thầy chỉ
dạy.
– Vậy ta sẽ cho con xuất gia. Người xuất gia tu học trong
giáo đoàn ta sẽ được gọi là bikkhu, nghĩa là người khất sĩ. Mỗi ngày đi xin thực
phẩm là để tự nuôi sống mình, để tập đức khiêm cung, và cũng để có cơ hội tiếp
xúc với con người mà hướng dẫn họ trên con đường đạo hạnh.
Vừa lúc ấy năm vị sa môn khất sĩ học trò của Bụt cũng ra tới.
Yasa đứng dậy cung kính chào mọi người. Bụt giới thiệu năm thầy với Yasa, rồi
hướng về thầy Kondanna, Bụt nói:
– Thầy Kondanna, đây là Yasa, một người trẻ tuổi có chí nguyện
xuất gia. Tôi đã ưng thuận, vậy cúi xin thầy chỉ dạy cho Yasa về cách mang y,
ôm bát, đi khất thực, điều phục hơi thở, ngồi thiền và đi kinh hành. Yasa, con
đi theo thầy Kondanna đi.
Yasa cúi chào Bụt. Thầy Kondanna đưa chàng vào tịnh xá, xuống
tóc cho chàng. Thầy trao cho Yasa một cái y và một cái bát và dạy cho chàng
cách mang y và cầm bát. Y bát này đã được cúng dường cho thầy từ lâu, nhưng vì
có sẵn y bát cũ, thầy chưa bao giờ dùng tới.
Chiều hôm ấy, vị trưởng giả thân sinh của Yasa tìm tới vườn Lộc
Uyển. Ông đã cho người đi lùng chàng khắp nơi. Có một gia nhân theo vết dép của
Yasa và tìm tới được vườn Lộc Uyển. Anh ta thấy được đôi dép bằng vàng của tiểu
chủ nằm bên một chiếc ghế đá. Vào hỏi thăm, anh ta biết là tiểu chủ của mình
đang có mặt tại đây. Anh vội vã về báo tin.
Ông thân sinh của Yasa tìm tới vườn Lộc Uyển và được gặp Bụt
đang ngồi trên tảng đá. Ông ta đến làm lễ người rồi chắp tay hỏi:
– Bạch sa môn, ngài có thấy Yasa con của con không?
Bụt chỉ chiếc ghế đá bên cạnh người:
– Mời ông ngồi xuống đây. Yasa đang ở trong tịnh xá. Nó sẽ ra
đây bây giờ.
Ông thân sinh của Yasa ngồi xuống, Bụt kể cho ông ta nghe về
những gì đã xảy ra sáng nay. Bụt cũng nói cho ông ta nghe về tâm sự của Yasa và
những khao khát của chàng. Người kết luận:
– Yasa là một người con trai thông minh và có chí khí. Nó đã
tìm ra được nẻo thoát cho tâm hồn nó, và hiện tại đã có niềm tin và sự an lạc.
Xin ông mừng cho nó.
Tiếp theo, Bụt dạy cho ông ta về cách sống tỉnh thức để tránh
bớt những khổ đau và phiền muộn, và cũng là để tạo sự an lạc cho mình và cho những
người chung quanh. Nghe Bụt nói, tâm của ông càng lúc càng như sáng ra. Ông đứng
dậy chắp tay cầu Bụt cho ông ta làm học trò tại gia của người. Bụt lặng yên. Một
lát sau, người nói:
– Học trò của tôi là những người biết sống đơn giản, tỉnh thức,
biết tránh sự giết hại sinh vật, biết tôn trọng tư hữu của kẻ khác, biết tránh
việc tà dâm, biết nói lời chân thật và tránh việc rượu chè say sưa. Này trưởng
giả, nếu ông thấy ông có thể theo được con đường đó thì tôi chấp nhận ông là học
trò tại gia của tôi.
Ông thân sinh của Yasa quỳ xuống trước mặt Bụt. Ông chắp tay
thành kính nói:
– Con xin nương tựa nơi thầy, xin thầy chỉ đường đưa lối cho
con trong cuộc đời này. Con xin nguyện làm đệ tử tại gia của thầy cho đến ngày
con nhắm mắt lìa bỏ cuộc đời.
Bụt đỡ vị trưởng giả dậy. Khi đứng lên, vị trưởng giả trông
thấy Yasa đứng hầu sau lưng Bụt. Yasa trong y phục của một người xuất gia, râu
tóc cạo sạch. Vị khất sĩ mới chắp tay lại thành búp sen, cung kính chào cha, và
miệng chàng mỉm cười. Thần sắc Yasa tỉnh táo và sáng rỡ. Vị trưởng giả chưa bao
giờ thấy con mình tươi vui và hạnh phúc như thế. Ông chắp tay lại đáp lễ, rồi
ông nói:
– Mẹ của con đang sầu đau và lo lắng ở nhà.
Yasa đáp:
– Con sẽ về thăm mẹ con, nhưng con đã phát nguyện theo Bụt sống
đời giải thoát và phục vụ chúng sanh.
Vị trưởng giả hướng về Bụt:
– Lạy Bụt, con xin thỉnh ngài và các vị khất sĩ đệ tử xuất
gia của ngài trưa mai đến thọ trai tại nhà con. Xin để cho người đệ tử mới của
ngài đi theo làm thị giả cho ngài. Chúng con sẽ rất sung sướng được cúng dường
một bữa cơm cho các vị khất sĩ tại nhà và cũng sẽ rất sung sướng được nghe lời
giáo huấn quý báu của ngài về đạo giải thoát.
Bụt quay lại nhìn Yasa. Hai mắt của người khất sĩ mới tu lấp
lánh. Bụt gật đầu chấp thuận lời thỉnh cầu của trưởng giả.
Sáng hôm sau, Bụt cùng sáu vị khất sĩ đến thọ trai tại nhà
ông trưởng giả. Mẹ của Yasa thấy con mừng rơi nước mắt. Bụt và sáu vị đệ tử xuất
gia được mời ngồi trên những chiếc ghế có trải tọa cụ. Mẹ của Yasa tự tay dâng
cúng thực phẩm vào bát của Bụt và vào bát của sáu vị khất sĩ. Bữa cơm diễn ra
trong yên lặng. Cha mẹ của Yasa và các người hầu cận kính cẩn đứng hầu, không
ai dám nói với ai một lời nào. Bữa cơm kết thúc. Sau khi bát đã được rửa, nước
uống đã được dâng lên, vợ chồng ông trưởng giả chắp tay làm lễ Bụt và ngồi xuống
trên những chiếc ghế thấp phía trước mặt người. Bụt bắt đầu giảng cho họ nghe về
nội dung của năm giới, căn bản tu học của người đệ tử tại gia. Bụt nói:
– Người học theo con đường tỉnh thức thì phải biết vun bồi sự
hiểu biết (Trí) và tình thương yêu (Bi) của mình. Năm giới tức là cách thức sống
để thực hiện từ bi và trí tuệ.
Giới thứ nhất là tránh việc tàn hại sinh mạng. Chúng sinh
loài nào cũng tham sống sợ chết, vì vậy nếu ta thực sự học theo đạo hiểu biết
và thương yêu thì ta phải giữ giới không sát sanh. Không những ta không được
sát hại con người mà ta còn cố gắng đến mức tối đa để tránh sự sát hại các loài
cầm thú. Giữ giới này là một cách nuôi dưỡng từ bi và trí tuệ rất hiệu quả.
Giới thứ hai là không gian lận trộm cắp. Ta không có quyền
xâm phạm vào tư hữu của kẻ khác, và không làm giàu bằng cách lợi dụng sự khờ dại
và bóc lột sức lao động của kẻ khác, trái lại ta phải biết tìm cách giúp đỡ những
kẻ khốn khổ những phương tiện để họ có thể tự lực mưu sinh.
Giới thứ ba là không tà dâm, nghĩa là không xâm phạm đến tiết
hạnh của những người khác và hết lòng trung thực với người vợ hoặc người chồng
của mình.
Giới thứ tư là không nói dối, nghĩa là không nói những lời
trái với sự thật, không xuyên tạc, chửi rủa, không dùng lời nói để gây thù hận
và loan truyền những tin mà mình không chắc là có thực.
Giới thứ năm là không say sưa, không dùng những chất ma túy
và kích thích như thuốc phiện và rượu.
Nếu ta sống theo được tinh thần của năm giới này, ta sẽ tránh
được cho bản thân, gia đình ta và bạn bè ta mọi đau khổ và đổ vỡ. Ta sẽ thấy đời
ta tươi sáng và hữu ích lên gấp trăm lần.
Trong khi Bụt nói, bà mẹ của vị khất sĩ trẻ Yasa rất sung sướng.
Bà thấy được cánh cửa hạnh phúc mở rộng trước mặt bà. Bà biết chồng mình đã được
Bụt chấp nhận là đệ tử tại gia của người, và điều đó làm bà hân hoan vô hạn. Bà
quỳ xuống chắp tay lại và cầu xin Bụt cho bà làm đệ tử tại gia.
Sau đó, Bụt và sáu vị khất sĩ trở về vườn Lộc Uyển.
Chương 24 - Hãy đi như những con người tự do
Tin Yasa đi xuất gia bắt đầu được loan truyền trong giới bạn
hữu của chàng. Bốn người bạn thân nhất của Yasa là Vimala, Subahu, Punnaji và
Gavampati, một hôm rủ nhau tìm tới vườn Lộc Uyển. Trên đường đi, Subahu nói:
– Nếu Yasa chịu đi tu, thì ông thầy của Yasa phải là một người
rất giỏi và giáo pháp của ông ta phải là một giáo pháp thâm diệu. Tôi biết Yasa
ít phục ai lắm.
Vimala trả lời:
– Không chắc như thế, có thể là Yasa bốc đồng đi tu một thời
gian mà thôi. Sáu tháng hay một năm sau anh chàng hoàn tục cũng chưa biết chừng.
Gavampati nói:
– Anh Vimala coi thường Yasa quá. Tôi thấy tánh Yasa trầm lặng
và anh ta thường suy nghĩ chín chắn lắm.
Bốn người vào gặp Yasa. Yasa đem các bạn mình tới giới thiệu
với Bụt. Yasa bạch:
– Lạy Bụt, bốn người bạn này của con đều là những người tốt.
Xin Bụt đem lòng thương mở mắt cho họ thấy được con đường giải thoát.
Bụt ngồi nói chuyện với các chàng trai trẻ. Vimala ban đầu
còn có vẻ hồ nghi nhưng càng nghe Bụt nói chàng càng thấy thấm. Cuối cùng
Vimala đề nghị với các bạn xin Bụt cho cả bốn chàng xuất gia theo Yasa.
Bốn chàng trai trẻ quỳ xuống chắp tay cầu Bụt để được xuất
gia. Thấy cả bốn người đều nhiệt thành và thiết tha, Bụt ưng thuận. Người giao
cả bốn chàng cho khất sĩ Kondanna dạy dỗ.
Bạn bè cũ của vị khất sĩ Yasa đông có tới hàng trăm người.
Tin Yasa và bốn người bạn thân đi tu chẳng mấy chốc mà đã được truyền ra khắp
chốn. Hơn một trăm hai chục người đã tập họp về nhà của Yasa và cùng rủ nhau đến
vườn Lộc Uyển để thăm hỏi. Họ đều là những người trai trẻ, tuổi từ hai mươi tới
ba mươi. Đó là vào một buổi sáng đẹp trời. Nghe tin họ đến thăm, khất sĩ Yasa
ra đón họ tận ngoài cổng. Thầy thuật cho họ trường hợp đi xuất gia của mình và
nói với họ về Bụt. Cuối cùng, thầy đưa tất cả một trăm hai mươi người bạn vào yết
kiến người.
Một trăm hai mươi người trẻ vây quanh, Bụt bắt đầu nói chuyện
về con đường thánh thiện, có khả năng đưa tới sự diệt khổ và đem lại an lạc.
Người kể sơ lược về thân thế và hành trình tìm đạo của người, và nói đến chí
nguyện cứu người giúp đời của tuổi trẻ. Một trăm hai mươi người trai trẻ ngồi
nghe Bụt một cách say mê. Cuối cùng, năm mươi người trong đám đông đó xin phép
được ở lại xuất gia tu đạo.
Trong số bảy mươi chàng thanh niên còn lại, có nhiều người
cũng muốn xuất gia, nhưng họ còn kẹt bổn phận gia đình; người thì có cha, người
thì có mẹ, người thì có vợ và con.
Yasa thỉnh Bụt chấp nhận lời thỉnh cầu của năm mươi người bạn.
Bụt bằng lòng. Rất sung sướng, Yasa bạch với thầy:
– Ngày mai, con xin Bụt cho con được về nhà con để khất thực.Con
sẽ có dịp nói chuyện với song thân con về việc cúng dường y mới và bát mới cho
những vị tân khất sĩ.
Tại vườn Lộc Uyển, từ hôm đó ngoài Bụt đã có cả thảy sáu mươi
vị khất sĩ. Bụt ở lại vườn Lộc Uyển thêm ba tháng nữa để dạy dỗ và hướng dẫn đại
chúng xuất gia. Trong thời gian ấy hàng trăm vị cư sĩ đã đến Vườn Nai để xin Bụt
chấp nhận cho làm đệ tử cư sĩ.
Bụt dạy các vị khất sĩ về phép quán niệm hơi thở, quán niệm về
thân thể, về cảm giác, về tri giác, về tâm ý và về đối tượng của tâm ý. Người
cũng dạy phương pháp quán chiếu tự tính duyên khởi của vạn hữu trong thế giới
hiện tượng.
Phép duyên khởi là một phép quán rất quan trọng trong công
trình tu tập. Vạn vật nương vào nhau để phát hiện, tồn tại rồi ẩn diệt; chính
vì nương vào nhau nên mọi vật mới có thể có mặt và vì vậy trong cái một có cái
tất cả, và cái tất cả cũng không thể có mặt nếu cái một không có mặt.
Phép quán duyên khởi này là cánh cửa, do đó người tu thoát được
ra khỏi sinh tử. Phép quán duyên khởi cũng có công năng phá trừ những định kiến
lâu đời như định kiến vũ trụ đã được một nguyên do đầu tiên sinh khởi, dù
nguyên do đó là một vị thần linh hay là một chất liệu làm căn bản cho hiện hữu
như đất, nước, lửa hay là không khí.
Với tình thương, với ý thức trách nhiệm của một bậc thầy,
cũng như của một anh cả, Bụt chăm sóc và dạy dỗ sáu mươi vị khất sĩ một cách tận
tình. Người lại giao phó cho năm người đệ tử đầu trách nhiệm dìu dắt các vị khất
sĩ mới học. Kondanna dìu dắt hai mươi vị. Bốn người khác, Bhaddiya, Vappa,
Mahanama và Assaji, mỗi người dìu dắt mười vị. Đại chúng bước những bước rất vững
và mạnh trên con đường tu học.
Khi thấy phần lớn các vị khất sĩ dưới sự hướng dẫn của mình
đã có được bản chất và tư cách của những người hành đạo, Bụt tập hợp đại chúng
và nói:
– Các vị khất sĩ, xin hãy nghe tôi nói. Chúng ta là những con
người tự do, không vướng bận và không bị ràng buộc vào bất cứ một cái gì. Quý vị
đã biết đường đi. Quý vị hãy tinh tiến dũng mãnh bước trên con đường ấy. Quý vị
có thể rời khuôn viên Lộc Uyển. Hãy đi như những con người tự do để mang ánh
sáng của đạo tỉnh thức đến tận những chốn hang sâu hố thẳm. Đi để gieo rắc hạt
giống giải thoát và giác ngộ. Đi để đem an lạc đến cho con người. Quý vị hãy dạy
đạo lý giải thoát, nền đạo lý đẹp đẽ từ đầu đến cuối, từ hình thức cho đến nội
dung. Nhân gian sẽ thừa hưởng được công trình hoằng pháp của quý vị, còn tôi,
tôi cũng sẽ lên đường. Trong ít lâu nữa, tôi sẽ đi về phương Đông. Tôi muốn về
thăm cội Bồ Đề và các em bé ở thôn Uruvela, và sau đó tôi sẽ về thăm một người
bạn tri kỷ ở Rajagaha.
Các vị khất sĩ nghe theo lời Bụt dạy. Một số lớn khoác y và
mang bát lên đường hành hóa.
Chỉ còn mươi thầy ở lại vườn Lộc Uyển với Bụt.
Nhưng từ mấy tháng nay, tại hai vương quốc Kasi và Magadha,
nhiều người đã nghe nói tới Bụt và các đệ tử của người. Họ nghe nói có một vị
hoàng tử dòng họ Sakya đi tu đã thành đạo và đang giảng dạy tại vườn Lộc Uyển gần
thành Baranasi. Nghe tin này nhiều vị sa môn từng tu tập lâu ngày mà chưa đạt
ngộ được gì rất lấy làm phấn khởi.
Từ nhiều địa phương khác nhau họ tìm về Isipatana. Nhìều người
đã sung sướng được nghe Bụt thuyết pháp và đã phát nguyện sống đời xuất gia dưới
sự chỉ dạy của người.
Các vị khất sĩ học trò của Bụt đi hoằng hóa mọi nơi cũng đã bắt
đầu đưa về vườn Lộc Uyển rất nhiều thanh niên muốn được xuất gia. Số lượng học
trò xuất gia của Bụt vì vậy lại tăng lên rất chóng.
Một hôm Bụt tập họp đại chúng lại. Người nói:
– Các vị khất sĩ! Tôi nghĩ rằng tôi không cần trực tiếp làm lễ
thọ giới xuất gia cho tất cả những ai muốn sống đời sống phạm hạnh theo con đường
tỉnh thức. Nếu bất cứ ai muốn xuất gia đều phải về vườn Lộc Uyển gặp tôi, thì
điều đó sẽ gây ra nhiều bất tiện. Điều bất tiện thứ nhất là các thầy phải bỏ dở
công việc hoằng hóa để đưa người giới tử về tận đây.
Điều bất tiện thứ hai là người giới tử không được thọ giới
ngay tại chỗ cư trú của mình với sự có mặt của bạn bè và những người thân thuộc,
trái lại phải đi đường dài có khi mất cả mười mấy ngày mới tới được đây.
Điều bất tiện thứ ba là tôi bị bắt buộc ở tại đây mãi mãi.
Tôi cũng là một con người tự do như quý vị, và tôi cũng muốn được tự do đi đâu
thì tùy ý tôi. Vì vậy tôi nghĩ rằng các thầy có thể làm lễ truyền giới xuất gia
cho những giới tử nào hợp đủ điều kiện, và làm lễ ngay tại địa phương hành đạo
của mình.
Đại đức Kondanna đứng lên chắp tay:
– Lạy Bụt, như vậy thì xin Bụt dạy cho chúng con phương pháp
làm lễ xuất gia cho người phát tâm tu học để chúng con có thể làm lấy khi trường
hợp xảy ra.
Bụt nói:
– Thì quý vị đã từng thấy tôi làm lễ xuất gia cho nhiều người
rồi.Quý vị cũng có thể làm như thế.
Vị khất sĩ Assaji đứng dậy trình bày:
– Lạy Bụt, nhân cách của Bụt rất lớn, thành ra người không cần
phải có nghi thức rườm rà, nhưng đối với chúng con, một nghi thức tối thiểu để
sử dụng trong lúc làm lễ xuất gia rất là cần thiết. Sư huynh Kondanna, xin sư
huynh đề nghị một nghi thức đi. Có Bụt ở đây, người sẽ chỉ dạy cho chúng ta
thêm.
Khất sĩ Kondanna im lặng một lát để suy nghĩ, rồi ông lên tiếng:
– Lạy Bụt, theo con thì việc trước tiên là phải cho người giới
tử cạo sạch râu tóc. Sau đó, giới tử được dạy cho cách mặc áo cà sa. Khi mặc cà
sa vào rồi, giới tử phải vạch trần vai bên phải ra theo nghi lễ và quỳ xuống
trước mặt vị khất sĩ truyền giới. Vị khất sĩ này bây giờ là đại diện cho Bụt,
vì vậy, giới tử quỳ xuống dưới chân người là phải. Chắp tay lại thành búp sen,
giới tử đọc:
“Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong
cuộc đời này. Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.
Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức”.
Lặp lại ba lần như vậy thì giới tử trở nên một vị khất sĩ trong giáo đoàn của Bụt.
Lạy Bụt, con mạo muội đề nghị như thế, không biết con có phạm vào lầm lỗi nào
không?
Bụt dạy:
– Nghi thức thầy đề nghị hay lắm. Vậy tôi xin xác định với đại
chúng; quý vị đọc ba lần tam quy dưới chân một vị khất sĩ thì có thể trở nên một
vị khất sĩ.
Đại chúng hoan hỷ tuân theo lời Bụt dạy.
Sau đó mấy hôm, vào một buổi sáng đẹp trời. Bụt khoác áo, cầm
bát, một mình rời khỏi vườn Lộc Uyển. Người hướng về phương Nam, tìm lối vượt
sông Hằng để đi về vương quốc Magadha.
Chương 25 - Đỉnh cao của nghệ thuật
Con đường này Bụt đã từng đi. Người đi thong thả và ngắm nhìn
cảnh vật.
Trời gần trưa, người ghé khất thực ở một xóm ven đường, rồi
người mang bát đi vào một khu rừng yên tĩnh gần đó để thọ trai. Thọ trai xong,
Bụt đi kinh hành trong rừng và sau đó người tìm một gốc cây im mát ngồi xuống để
tĩnh tọa. Được sống trở lại một mình trong rừng, Bụt rất hoan hỷ.
Người ngồi tĩnh tọa được hồi lâu thì thấy một đám thanh niên
đi ngang. Đây chắc là những thanh niên con nhà khá giả, bởi vì người nào cũng
ăn mặc tươm tất sạch sẽ. Họ vào khoảng ba mươi người. Nhiều người cầm nhạc cụ
trong tay. Thấy Bụt, họ ngưng lại, thanh niên đi đầu cúi chào và hỏi người:
– Sa môn, ông có thấy một cô gái mới chạy ngang qua đây
không?
Bụt hỏi lại:
– Các bạn tìm cô gái ấy để làm gì?
Người thanh niên kể lại đầu đuôi câu chuyện. Bọn họ đều là
dân thành phố Banarasi. Họ vào rừng này từ sáng để tổ chức một cuộc vui. Họ có
đem theo nhiều nhạc cụ và một cô vũ nữ. Sau khi đàn hát, múa nhảy và ăn uống, cả
bọn tìm chốn ngả lưng để ngủ trưa. Trong khi mọi người ngủ trưa, cô gái đã đánh
cắp một số những đồ châu báu trang sức của bọn con trai và bỏ đi mất. Các chàng
trai thức dậy thấy thế rủ nhau đi lùng bắt cô gái.
Bụt nhìn các chàng trai và trầm tĩnh nói:
– Này các bạn, trong giờ phút này các bạn nên đi tìm cô gái
hay là nên đi tìm chính các bạn?
Các cậu con trai ngạc nhiên. Phong thái của ông thầy tu đã đặc
biệt mà câu hỏi của ông ta cũng đặc biệt. Câu hỏi đó làm các cậu giật mình. Họ
rủ nhau ngồi xuống, vây quanh Bụt. Chàng trai đầu đàn nói:
– Bạch sa môn, có lẽ chúng con nên đi tìm chúng con trước.
Bụt nói:
– Sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại, nhưng tâm ta
ít khi chịu an trú trong giây phút hiện tại. Tâm ta hay ưa trở về quá khứ hoặc
vọng đến tương lai. Ta cứ tưởng ta là ta, nhưng quả thực ta chưa hề thực sự tiếp
xúc ta với ta, bởi vì tâm ta cứ rong ruổi chạy theo những ảo ảnh của quá khứ và
của vị lai. Chỉ có một phương cách duy nhất để tiếp xúc với sự sống đích thực:
đó là trở về với giây phút hiện tại. Nếu các em biết trở về với giây phút hiện
tại thì các em trở nên tỉnh thức, và lúc đó các em mới có cơ hội tìm được các
em. Các em hãy nhìn những đọt lá xanh và ánh sáng mặt trời đang lọc qua những đọt
lá ấy. Các em đã từng có dịp thật sự ngắm nhìn màu xanh của lá cây trong trạng
thái trầm lặng và tỉnh thức của tâm tư chưa? Màu xanh ấy là một khía cạnh vi diệu
của sự sống. Nếu các em chưa bao giờ thực sự nhìn màu xanh ấy thì bây giờ đây
các em hãy thử nhìn đi.
Các chàng thanh niên yên lặng. Theo ngón tay trỏ của Bụt, họ
ngước nhìn những ngọn lá xanh đang run nhẹ dưới làn gió thoảng của buổi trưa
hè. Một lát sau, Bụt quay lại với chàng trẻ tuổi ngồi gần bên người, và nói:
– Em có ống sáo, vậy em hãy thổi sáo đi.
Chàng thanh niên hơi ngạc nhiên một chút, nhưng cũng lấy sáo
ra. Ngồi lại ngay ngắn, anh ta đưa ống sáo lên thổi. Mọi người lắng nghe. Tiếng
sáo đượm buồn như tiếng than khóc của một cuộc tình duyên lỡ dở. Trong khi anh
thổi sáo, mắt Bụt không rời khỏi anh.
Khúc sáo chấm dứt. Rừng trưa đượm buồn. Mọi người im lặng, Bụt
cũng im lặng.
Bỗng nhiên người thanh niên thổi sáo quay lại, cầm ống sáo
đưa cho Bụt:
– Sa môn, ngài thổi sáo đi.
Bụt mỉm cười. Tất cả các chàng trai đều cười rộ. Ai cũng cho
anh chàng là ngộ nghĩnh. Đã có ai đưa ống sáo để bảo một vị sa môn thổi bao giờ.
Nhưng Bụt đã đưa hai tay tiếp nhận ống sáo. Mọi người đều
nhìn về vị sa môn, sự tò mò trong mỗi người được kích thích.
Bụt thở những hơi thở thật dài và thật nhẹ, rồi người nâng ống
sáo lên ngang miệng.
Hình ảnh người con trai thổi sáo năm xưa trong vườn Thượng Uyển
thành Kapilavatthu hiện ra trong Bụt. Đó là một đêm trăng. Đó là bà
Mahapajapati ngồi trên ghế đá đang im lặng lắng nghe. Đó là Yasodhara với đỉnh
trầm thơm mới đổi.
Bụt bắt đầu thổi sáo.
Tiếng sáo nhẹ như một làn khói nhỏ lơ lửng và nhẹ nhàng đi
lên từ một mái tranh nghèo nào đó ở ngoại thành Kapilavatthu trong giờ nấu cơm
chiều. Rồi làn khói bỗng nhiên tỏa rộng trên không gian như một đám mây.
Đột nhiên đám mây biến hình thành một đóa hoa sen ngàn cánh,
mỗi cánh hoa một màu sắc khác nhau lấp lánh trong ánh nắng chiều. Đột nhiên một
người thổi sáo biến thành một ngàn người thổi sáo, tất cả những mầu nhiệm của
vũ trụ đều được chế biến thành âm thanh, âm thanh muôn màu muôn sắc, âm thanh
khi thì nhẹ như gió thoảng, khi thì mau như tiếng mưa rào, khi thì trong như tiếng
hạc, khi thì đậm đà như tiếng ru con, khi thì sáng rỡ như ngọc lưu ly, khi thì
hùng vĩ như tiếng hải triều, khi thì im lặng như nụ cười của người đã thoát ly
được sự hơn thua còn mất. Chim chóc trong rừng đã im hơi lặng tiếng và gió chiều
cũng đang thổi rì rào trong lá. Rừng được bao phủ bởi một không gian thanh tịnh,
an lạc và nhiệm mầu. Tất cả các chàng thanh niên ngồi bên Bụt đều trở nên tỉnh
táo một cách kỳ lạ. Họ hoàn toàn sống trong giây phút hiện tại, tiếng sáo đưa họ
về với những mầu nhiệm của giây phút hiện tại. Họ có rừng cây, họ có Bụt, họ có
tiếng sáo, họ có nhạc, họ có bản thân họ. Tiếng sáo đã chấm dứt, nhưng tiếng
sáo vẫn còn, không có chàng thanh niên nào nghĩ tới cô vũ nữ và những châu ngọc
bị đánh cắp.
Họ ngồi yên lặng rất lâu. Cuối cùng chàng thanh niên thổi sáo
lên tiếng hỏi Bụt:
– Sa môn, thầy thổi sáo thật hay, con chưa bao giờ nghe ai thổi
sáo diệu kỳ như vậy. Thầy đã học với ai? Con có thể theo thầy để học thổi sáo
được không?
Bụt mỉm cười:
– Hồi nhỏ, tôi đã học thổi sáo, nhưng bảy năm nay tôi không
có dịp thổi. Đây là lần thứ nhất tôi thổi sáo trở lại sau bảy năm, nhưng tiếng
sáo bây giờ lại có chất liệu hơn tiếng sáo ngày trước.
– Tại sao thế, thưa sa môn? Tại sao sau bảy năm không tập dượt
mà tiếng sáo thầy lại hay hơn?
– Thổi sáo hay không phải là chỉ do tập dượt nhiều. Sở dĩ tôi
thổi được hay hơn ngày xưa là tại vì tôi đã tìm được chính tôi. Nghĩa là tôi đã
tìm ra được đạo giác ngộ. Em không thể đạt được tới chỗ tuyệt vời của nghệ thuật
nếu em không lên tới được chỗ tuyệt cùng của tâm linh. Vì vậy nếu em muốn thổi
sáo hay thì em phải tu học theo con đường tỉnh thức.
Rồi Bụt bắt đầu giảng cho các chàng thanh niên về đạo giác ngộ,
về bốn sự thật và con đường bát chánh. Ba mươi người thanh niên nghe người giảng
đều được tỏ ngộ. Tất cả đều quỳ xuống tỏ ý xin làm môn đệ xuất gia của người.
Bụt vui lòng làm lễ xuất gia họ ngay tại chỗ, và bảo ba mươi
chàng thanh niên tìm ngay về vườn Lộc Uyển để gặp đại đức Kondanna.
Người dặn họ trình bày tự sự với thầy Kondanna và xin thầy
cho cạo bỏ râu tóc, khoác áo khất sĩ và thọ lãnh những lời chỉ dẫn tu học. Người
bảo trong một tương lai gần họ sẽ được gặp lại người.
Đêm ấy, Bụt nghỉ trong rừng. Sáng hôm sau, người vượt sông Hằng,
rồi theo bờ sông đi về phương Đông. Người dự định sẽ ghé thăm bọn trẻ tại thôn
Uruvela, trước khi đi về Rajagaha gặp vua Bimbisara theo lời hứa cũ.
Chương 26 - Nước cũng đi lên như lửa
Bảy hôm sau Bụt về tới Uruvela. Người rất vui được trở về rừng
cây thanh tú với cội Bồ Đề. Bụt nghỉ lại một buổi chiều và một đêm tại đó. Sáng
hôm sau người gặp chú bé Svastika ở bờ sông Neranjara. Svastika thấy Bụt rất mừng.
Hai thầy trò ngồi chơi thật lâu bên bờ sông, rồi Bụt bảo Svastika đi cắt cỏ.
Người cũng học cắt cỏ với cậu bé. Một lát sau tạm biệt Svastika, Bụt khoác áo
ngoài, nâng bát vào xóm để hóa trai.
Chiều hôm sau bọn trẻ rủ nhau đến thăm Bụt, Sujata và
Svastika đem theo các bạn rất đông. Các em của Svastika đều có mặt. Bọn trẻ được
gặp Bụt vui mừng khôn xiết. Bụt kể cho chúng nghe sơ lược những gì đã xảy ra
trong gần một năm qua, và Bụt hứa là khi Svastika hai mươi tuổi, Bụt sẽ cho cậu
xuất gia để học đạo. Bụt nói vào tuổi ấy Svastika đã có thể theo Bụt vì lúc ấy
các em của Svastika đã lớn cả rồi.
Bọn trẻ cho Bụt biết là gần nửa năm nay có một đoàn đạo sĩ Bà
la môn khổ hạnh đến cư trú trong vùng. Họ đông lắm, có tới gần năm trăm người.
Họ không cạo đầu như các vị sa môn, tóc họ kết và bới trên đầu. Người đứng đầu
tên Kassapa, rất được mọi người kính nể. Họ theo đạo thờ cúng Thần Lửa.
Sáng hôm sau, Bụt tìm tới trú sở của đạo sĩ Kassapa. Giáo
đoàn Bà la môn này cư trú ở bìa rừng phía bên kia sông.
Họ sống trong những túp lều dựng bằng cành cây và lá cây. Áo
của họ được làm bằng vỏ cây. Họ tiếp nhận các thức cúng dường của dân chúng từ
các làng mạc trong vùng, nhưng họ không đi khất thực. Họ tự nấu nướng lấy.
Họ cũng chăn nuôi thú vật để ăn và cũng để cúng tế. Dừng chân
bên một túp lều, Bụt nói chuyện với các đạo sĩ Bà la môn. Các vị này cho biết
lãnh tụ của họ, tôn giả Kassapa, là một người tinh thông ba bộ kinh Vệ Đà, sống
một cuộc đời đức hạnh và là người có tu có chứng. Tôn giả Kassapa có hai người
em trai, người nào cũng là tu sĩ Bà la môn cùng tu trong một môn phái, tức là
môn phái Bái Hỏa, thờ Lửa như là bản chất uyên nguyên của vũ trụ.
Người em trai lớn tên là Nadi Kassapa lãnh đạo một giáo đoàn
ba trăm vị đệ tử, cư trú và hành đạo trên bờ sông Neranjara cách Uruvela chừng
một ngày đường về hướng Bắc. Người em thứ hai tên Gaya Kassapa lãnh đạo một
giáo đoàn gồm hai trăm đệ tử, cư trú và hành đạo tại Gaya. Tôn giả Kassapa, vì
cư trú và hành đạo tại Uruvela nên được gọi là Uruvela Kassapa. Ông rất được
hai người em mình tôn kính. Những buổi giảng đạo của ông được dân chúng địa
phương đến tham dự rất đông.
Các đạo sĩ Bà la môn đưa Bụt đến yết kiến tôn giả Kassapa tại
tịnh xá của ông. Tôn giả Kassapa tuổi đã lớn nhưng còn rất nhanh nhẹn và rắn rỏi.
Thấy vị sa môn còn trẻ mà đạo phong uy nghiêm, tôn giả đem lòng kính yêu ngay.
Ông tiếp Bụt như một người thượng khách. Kassapa mời Bụt ngồi xuống trên một
khúc cây cưa sẵn ngoài sân tịnh xá, và ông ngồi xuống khúc cây đối diện. Hai
người đàm đạo hồi lâu.
Kassapa rất đỗi ngạc nhiên khi thấy vị sa môn ngồi trước mặt
mình là một người lão thông ba bộ thánh thư Vệ Đà.
Ông hoảng hốt thấy rằng có những tư tưởng trong Vệ Đà mà ông
chưa nắm vững được. Vị sa môn này đã chỉ cho ông thấy những chỗ uyên ảo nhất của
các bộ Atharvaveda và Rigveda, những chỗ ông đã tưởng rằng ông hiểu mà thực ra
ông chưa hiểu. Lạ hơn nữa là khi nói tới các môn tự vựng học, ngữ nguyên học, sử
truyện, văn pháp học và mười tám pháp tế tự của đạo Bà la môn, không có điều gì
mà vị sa môn này không thông.
Trưa hôm ấy, Bụt nhận lời thọ trai với Uruvela Kassapa. Xếp
áo ngoài lại thành bốn để trải thành tọa cụ trên bờ cỏ, Bụt ngồi đoạn nghiêm thọ
trai trong im lặng. Kassapa thấy đạo phong uy nghiêm của người thì rất cảm phục.
Ngồi bên vị khách sa môn, ông cũng giữ sự im lặng đoan trang để thọ trai.
Chiều hôm ấy, trong khi đàm đạo với Kassapa, Bụt hỏi:
– Này hiền giả, hiền giả hãy nói cho tôi biết tại sao thờ Thần
Lửa lại có thể đem lại cho ta sự giải thoát?
Tôn giả Uruvela Kassapa giữ im lặng một lát. Ông biết rằng đối
với vị sa môn có trí tuệ xuất chúng này, ông không thể trả lời một cách khinh
xuất và dung thường được. Ông ta đã chinh phục được hàng trăm người theo môn
phái ông, nhưng ông biết chinh phục được vị sa môn này là một điều rất khó.
Kassapa bắt đầu nói về lửa như là bản chất uyên nguyên của vũ
trụ.
Lửa có nguồn gốc từ Phạm Thiên, nghĩa là từ Brahma, vì vậy
trong các hỏa viện, nghĩa là trong điện thờ chính của giáo phái Bái Hỏa, luôn
luôn hình tượng của Phạm Thiên được đặt vào vị trí trung ương.
Kinh Atharvaveda có nói về phép thờ Lửa. Lửa là sự sống. Nếu
không có lửa thì không có sự sống. Lửa là ánh sáng, là hơi ấm, là nguồn năng lượng
làm phát sinh ra cây cối, muông thú, và con người. Lửa phá tan bóng tối, phá
tan sự lạnh lẽo, đem tới nguồn vui và sự sinh trưởng của vạn vật. Thức ăn nhờ lửa
mà được tịnh hóa.
Con người nhờ lửa mà trở về và hợp nhất được với thiên chủ
Brahma vậy. Thần Lửa Agni cũng chỉ là một trong muôn ngàn biểu hiện như có hai
cái đầu: một đầu biểu trưng cho lửa của nhật dụng và một đầu biểu trưng cho lửa
của sự tế lễ và của sự trở về nguyên thể. Có tới bốn mươi bốn phép tế lửa. Người
đạo sĩ phái Bái Hỏa phải giữ giới, phải khổ hạnh và phải chuyên cần tu tập mới
có đủ tư cách duy trì và làm sáng tỏ con đường giải thoát.
Đạo sĩ kịch liệt chống lại những tu sĩ Bà la môn thường lợi dụng
giai cấp và địa vị mình để sống giàu sang và đắm mình trong dục lạc. Ông nói những
vị Bà la môn đó đã xem công việc đọc kinh như một phương tiện giúp họ sống giàu
có và như vậy là làm đánh mất giá trị của truyền thống đạo đức Bà la môn.
Bụt hỏi:
– Tôn giả Kassapa, ngài nghĩ thế nào về những người cho rằng
nước là bản chất uyên nguyên của sự sống, nước bắt nguồn từ Phạm Thiên, và nước
có công năng tịnh hóa con người, giúp con người trở về hợp nhất với Phạm Thiên?
Kassapa im lặng. Ông nghĩ tới hàng trăm vạn người, ngay trong
giờ khắc này, đang tắm mình trong nước sông Hằng và trong những dòng sông được
xem là linh thiêng khác, mong rửa sạch được mọi tội lỗi và nghiệp chướng để sau
này có thể trở về với Phạm Thiên. Một lát sau, ông nói:
– Sa môn Gotama, nước không thật sự giúp ta siêu thoát được.
Nước đi xuống, trong khi lửa lại bốc lên. Khi ta chết, thân
xác ta nhờ lửa mà bay lên thành khói…
– Tôn giả Kassapa, ngài nói như vậy e không đúng. Đám mây trắng
đang bay trên trời kia cũng là nước đấy, và nước cũng có thể bay lên. Khói cũng
chỉ là hơi nước. Cả hai thứ mây và khói đều sẽ phải trở lại. Vạn vật, như ngài
đã biết, luôn luôn luân chuyển tuần hoàn.
– Nhưng vạn vật có một nguyên ủy, và vạn vật có thể trở về
nguyên ủy ấy.
– Tôn giả Kassapa, vạn vật nương nhau mà có mặt. Tôn giả hãy
nhìn chiếc lá trong tay tôi đây. Đất, nước, hơi nóng, hạt mầm, thân cây, đám
mây, mặt trời, thời gian, không gian… đều là những nhân duyên giúp cho chiếc lá
này có mặt. Thiếu một trong những nhân duyên ấy thì chiếc lá không thành. Tất cả
các loài đất đá, thảo mộc và cầm thú đều vâng theo luật duyên sinh ấy. Nguyên ủy
của một vật là vạn vật. Tôn giả hãy quán sát kỹ xem. Có bao giờ một nhân mà đưa
tới được quả đâu. Nhân quả là trùng trùng. Ý niệm về một nguyên nhân duy nhất
và đầu tiên là một vọng tưởng do sự thiếu quán chiếu mà ra. Này tôn giả, chiếc
lá tôi cầm trong tay đây là do tất cả các pháp trong vũ trụ họp lại để tạo
thành, trong đó có nhận thức của tôn giả.
Vị đạo sĩ Bà la môn im lặng.
Trời đã tối.
Đạo sĩ ngỏ ý mời Bụt ngủ lại trong túp lều của ông. Đây là lần
thứ nhất vị lãnh đạo Kassapa mời một người khách ngủ lại trong túp lều của
mình. Vị sa môn này đối với ông quả thật là một người khách đặc biệt, ông muốn
đem lòng tri kỷ của mình để tiếp đãi. Nhưng Bụt ngần ngại. Từ lâu, người đã ưa
nghỉ đêm một mình. Bụt ngỏ ý muốn được nghỉ đêm trong hỏa viện. Vị đạo sĩ Bà la
môn nói:
– Mấy hôm nay, có một con rắn lớn chui vào núp trong hỏa viện,
đuổi thế nào cũng không đi. Sa môn Gotama không nên nghỉ đêm trong ấy, có thể
là nguy hiểm. Chính vì con rắn kia mà lâu nay chúng tôi phải lập tế đàn ngoài
trời để hành lễ. Xin ngài nghỉ đêm tại đây cho an toàn.
Bụt nói:
– Tôn giả an tâm. Tôi muốn được nghỉ đêm trong hỏa viện. Chắc
cũng không sao.
Bụt nghĩ tới những tháng ngày ngồi tu ở các nơi núi rừng cao
thẵm. Có khi thú dữ đi ruồng cả đêm mà không động tới người. Có khi đang ngồi
tĩnh tọa người trông thấy những con rắn thật lớn bò ngang qua trước mặt. Bụt biết
là nếu mình cẩn thận đừng làm cho các loài này hoảng sợ thì chúng sẽ không động
tới mình.
Thấy Bụt đã nhất quyết, Kassapa nói:
– Sa môn Gotama đã muốn nghỉ đêm tại hỏa viện thì xin cứ tự
tiện. Ngài muốn ở đó bao lâu cũng được.
Đêm ấy, Bụt nghỉ trong hỏa viện. Trên bàn thờ trung ương, lửa
được nuôi bằng nhiều chiếc đèn, mỗi đèn có nhiều bấc. Góc bên trái chất nhiều
khúc cây lớn, có lẽ là những khúc gỗ quí dùng để đốt lửa bên ngoài mỗi khi hành
lễ. Bụt nghĩ nếu có một con rắn cư trú trong hỏa viện thì con rắn ấy có thể ẩn
nấp trong đống gỗ. Người chọn góc đối diện, xếp áo cà sa ngoài thành bốn, trải
xuống làm tọa cụ và bắt đầu tĩnh tọa. Khi Bụt ngừng tĩnh tọa thì trời đã khuya.
Dưới ánh đèn mờ, Bụt thấy một con rắn thiệt lớn nằm khoanh tròn giữa hỏa viện,
trước mặt người. Bụt lên tiếng nhỏ nhẹ như là để tự nói với mình.
– Rắn ơi, con hãy đi ra ngoài rừng cho an ổn.
Giọng nói của Bụt chứa đầy tình thương và sự hiểu biết. Con rắn
từ từ trườn đi, hướng về phía cửa, Bụt cũng ngả lưng xuống tọa cụ.
Khi Bụt thức giấc thì ánh trăng khuya chênh chếch chiếu vào
nơi người nằm. Trăng mười tám thật sáng. Bụt muốn đi ra ngoài rừng để thiền
hành. Người ngồi dậy, cuốn áo, rũ bụi rồi khoác áo lên người và đi ra khỏi hỏa
viện.
Vào lúc trời tang tảng sáng thì hỏa viện bốc cháy, không biết
vì lý do gì. Các vị đệ tử của đạo sư Kassapa thấy lửa đều hoảng hốt la lớn. Mọi
người chạy đi tìm bình xuống sông múc nước để tưới, nhưng tất cả mọi cố gắng đều
vô hiệu. Nước thì ít, lửa thì nhiều. Cuối cùng hàng trăm người đều đứng ngẩn ra
nhìn. Hỏa viện của họ bốc cháy dữ dội, không có cách gì cứu chữa nổi.
Đạo sĩ Uruvela Kassapa có mặt trong đám mấy trăm người ấy.
Ông thương tiếc vị sa môn đức hạnh và tài ba mà ông vừa mới được làm quen từ
sáng ngày hôm qua. Nếu sa môn Gotama nhận lời nghỉ đêm trong tịnh xá của mình
thì bây giờ đâu đến nỗi này.
Giữa lúc ấy thì Bụt xuất hiện. Đang đi thiền hành trên đồi
cao, người trông thấy lửa, và người đã trở về.
Thấy Bụt, đạo sĩ Kassapa mừng quá chạy lại và nắm lấy tay người.
– May quá, may quá, sa môn Gotama vẫn an toàn, không sao cả.
Tôi mừng lắm.
Bụt trao bình bát của mình cho một vị tu sĩ trẻ cầm giúp, rồi
đặt tay lên vai vị đạo sĩ Bà la môn:
– Cám ơn tôn giả, tôi vẫn được an toàn.
Bụt biết hôm nay là ngày đạo sĩ Uruvela Kassapa thuyết pháp.
Nghe nói trong số những người nghe pháp, ngoài năm trăm vị đệ tử tu sĩ, sẽ còn
có gần một ngàn người từ các thôn xóm kéo tới.
Giờ thuyết pháp được định vào buổi trưa, ngay sau giờ thọ
trai. Biết rằng sự có mặt của mình trong buổi thuyết pháp sẽ làm cho vị lãnh đạo
mất bớt vẻ thoải mái, sáng ấy Bụt mang bát đi vào thôn xóm để khất thực.
Khất thực xong, người đi về phía hồ sen. Ngồi bên bờ sông,
người thọ trai và ở lại đó. Đến xế chiều thì đạo sĩ Kassapa tìm tới, Kassapa đã
đi tìm Bụt sau giờ thọ trai và thuyết pháp. Vị đạo sĩ nói:
– Sa môn Gotama, hôm nay vào giờ ăn trưa chúng tôi chờ mãi
không thấy ngài. Chúng tôi đã dọn sẵn cơm để cúng dường. Tại sao ngài không tới?
Bụt nói với Kassapa là người muốn vắng mặt trong buổi thuyết
pháp.
– Tại sao sa môn Gotama lại muốn không có mặt trong buổi tôi
thuyết pháp?
Bụt mỉm cười rất nhẹ, và người không nói gì.
Vị đạo sĩ Bà la môn cũng nín thinh. Ông thấy vị sa môn này biết
được sự suy tư của ông.
Vị sa môn thật vừa thông minh vừa tế nhị.
Hai người ngồi bên bờ hồ để đàm đạo.
Đạo sĩ Kassapa hỏi Bụt:
– Hôm qua sa môn Gotama nói về sự có mặt của chiếc lá như là
sự tập họp của nhiều yếu tố nhân duyên. Ngài nói rằng con người cũng do sự tập
họp của nhân duyên mà có mặt. Vậy khi các nhân duyên tan rã, con người đi về
đâu?
Bụt nói:
– Đã từ lâu chúng ta bị kẹt vào ý niệm atman, nghĩa là ý niệm
về một cái ta thường tại bất biến. Chúng ta đã quen nghĩ rằng khi thân xác ta
tan rã, cái ngã ấy vẫn còn tồn tại và có thể trở về với nguồn gốc của nó là Phạm
Thiên để mà cộng trú với ngài. Này tôn giả Kassapa, đó là một sai lầm căn bản
đã từng làm lạc lối biết bao nhiêu thế hệ.
Tôn giả Kassapa nên biết: vạn pháp từ nhân duyên mà sinh và
cũng do nhân duyên mà diệt. Cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái này vắng mặt
vì cái kia vắng mặt, cái này sinh ra vì cái kia sinh ra, cái này ẩn diệt khi
cái kia ẩn diệt. Đó là đạo lý duyên sinh mầu nhiệm mà tôi đã khám phá được bằng
thiền quán. Trong thực tại, không có một cái gì đồng nhất và bất biến, không có
ngã, dù là đại ngã hay tiểu ngã. Này tôn giả Kassapa, ngài đã từng quán chiếu về
thân thể, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức chưa? Con người có mặt là do
sự tập hợp và vận hành của năm uẩn ấy. Đó là những dòng biến chuyển liên tục,
trong đó không có một yếu tố nào thường tại.
Đạo sĩ Kassapa im lặng hồi lâu. Một lát sau, ông hỏi:
– Như vậy người ta có thể nói sa môn Gotama chủ trương thuyết
hư vô không?
Bụt mỉm cười lắc đầu:
– Không. Ý niệm về hư vô cũng là một loại tà kiến trong rừng
tà kiến dày đặc. Ý niệm về hư vô cũng tai hại như ý niệm về một bản ngã đồng nhất
và bất biến. Tôn giả Kassapa, ngày hãy nhìn mặt hồ Anotatta đây. Tôi không hề
nói rằng nước hồ và những lá sen, hoa sen và gương sen trong hồ là hư vô. Tôi
chỉ nói rằng nước hồ, cũng như lá sen, hoa sen và gương sen đều là những hiện
tượng do nhân duyên phối hợp và có mặt, và trong tư thể của chúng không hề có một
thực thể bất biến và thường tại.
Kassapa ngửng lên nhìn vào mặt Bụt:
– Vậy nếu không có ngã, không có atman, thì cần gì phải tu
hành để đạt tới giải thoát? Giải thoát cho ai, và ai là người được giải thoát?
Bụt nhìn vào mắt vị đạo sĩ Bà la môn. Cái nhìn của người sáng
chói như những tia sáng mặt trời nhưng cũng êm dịu như ánh trăng, và người nói,
với một nụ cười:
– Tôn giả Kassapa hãy thử tự tìm lấy câu trả lời. Hôm khác,
ta sẽ tiếp tục câu chuyện.
Hai người trở về trú sở. Uruvela Kassapa nhường tịnh xá của
mình cho Bụt nghỉ đêm. Ông sang nghỉ đêm tại túp lều của một người đệ tử lớn. Bụt
nhận thấy vị đạo sĩ Bà la môn này rất được các đệ tử quý mến, người nào cũng
vâng lời tôn giả Kassapa một cách cung kính.
Chương 27 - Vạn pháp đang bốc cháy
Trong những ngày kế tiếp, Bụt không đi khất thực bên ngoài vì
sáng hôm nào đạo sĩ Kassapa cũng cho đem thức ăn cúng dường tại chỗ. Tuy vậy,
trưa hôm nào sau khi thọ trai, người cũng đi vào rừng hoặc ra bên hồ để tịnh cư
một mình.
Cứ xế chiều, Kassapa lại đi tìm Bụt để đàm đạo, hoặc dưới một
gốc cây, hoặc bên bờ hồ; càng tiếp xúc với Bụt, Kassapa càng thấy được tầm vóc
vĩ đại của tuệ giác cũng như của đức hạnh vị sa môn này.
Một hôm nọ, trời mưa tầm tã suốt đêm, và buổi sáng hôm sau,
nước sông Neranjara tràn bờ, làm ngập lụt bao nhiêu ruộng vườn và nhà cửa trong
vùng. Bao nhiêu thuyền bè địa phương đều được đem ra sử dụng để đi cứu người.
Khu rừng nơi đạo sĩ Kassapa và năm trăm vị đệ tử đang hành đạo vì ở chỗ thấp
nên cũng bị ngập lụt. Tuy vậy mọi người đều chạy kịp, không ai bị nước cuốn.
Riêng vị sa môn Gotama thì không ai thấy mặt. Đạo sĩ Kassapa đốc thúc nhiều chiếc
ghe đi tìm. Cuối cùng người ta tìm thấy Bụt đang đứng trên một đỉnh đồi.
Nước dâng rất mau và rút cũng rất mau.
Ngày hôm sau Bụt ôm bát đi khất thực trong xóm của những người
cùng đinh. Người có ý muốn tìm thăm những gia đình và những đứa trẻ trong xóm.
May mắn là không ai bị chết vì nạn lụt. Những người nghèo cho biết họ không có
tài sản gì nhiều để mà mất mát.
Các vị tu sĩ trong giáo đoàn của Kassapa đã khởi sự dựng lại
hỏa viện bị cháy, các túp lều bị nước cuốn đi hoặc làm cho xiêu vẹo.
Một buổi chiều, Bụt cùng đạo sĩ Kassapa đứng bên bờ sông Ni
Liên Thuyền. Hai người tiếp tục cuộc đàm đạo. Đạo sĩ Kassapa nói với Bụt:
– Hôm trước, sa môn Gotama có nói về sự quán chiếu các dòng
hiện tượng sắc thân, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức. Tôi đã thực tập
và bắt đầu thấy rằng những cảm thọ và những tri giác của mình nói lên được giá
trị của đời sống mình. Tôi cũng đã thấy được rằng không có một yếu tố nào thường
tại trong năm dòng hiện tượng đó cả. Sa môn Gotama nói rằng nhận thức về sự có
mặt của tự ngã là một nhận thức sai lầm, điều này tôi thấy có thể là đúng,
nhưng tôi vẫn chưa hiểu được rằng nếu tự ngã không có thì ta cần gì phải nhọc
công tu tập? Giải thoát cho ai, và ai là người được giải thoát?
Bụt hỏi lại:
– Tôn giả Kassapa, ngài có công nhận rằng khổ đau là một sự
thật không?
– Sa môn Gotama, tôi công nhận khổ đau là một sự thật.
– Ngài có công nhận rằng nỗi khổ đau nào cũng có nguyên do,
cũng như vạn hữu trong vũ trụ, vật nào cũng do nhân duyên kết hợp mà thành?
– Tôi công nhận là những nguyên do của khổ đau có thật.
– Tôn giả Kassapa, khi những nguyên do của khổ đau có mặt thì
khổ đau có mặt; vậy khi những nguyên do của khổ đau vắng mặt thì khổ đau có vắng
mặt không?
– Tôi công nhận là khi nguyên do khổ đau không còn thì khổ
đau cũng không còn.
– Này tôn giả, nguyên do của khổ đau là vô minh, tức là nhận
thức sai lầm về thực tại. Đời vô thường mà ta tưởng là thường, đó là vô minh.
Thực tại không có tự ngã mà ta tưởng là có tự ngã, đó là vô minh. Từ vô minh,
phát sinh ra tham vọng, giận hờn, sợ hãi, ganh ghét, và bao nhiêu đau khổ khác.
Con đường giải thoát là con đường quán chiếu thực tại để thực chứng được tự
tính vô thường, vô ngã và duyên sinh của vạn hữu. Con đường ấy là con đường diệt
trừ vô minh. Vô minh diệt thì phiền não diệt và khổ đau diệt. Đó là giải thoát.
Cần gì phải có tự ngã mới có giải thoát.
Uruvela Kassapa im lặng. Một lát sau, ông hỏi:
– Sa môn Gotama, tôi biết những điều ngài nói với tôi là những
điều ngài thực chứng, chứ không phải chỉ là những suy tưởng của trí năng ngài.
Theo ngài, thì quả giải thoát chỉ có thể do công phu quán chiếu đem lại. Vậy tất
cả những lễ nghi, thờ phụng và lời khấn nguyện đều là hoàn toàn vô ích hay sao?
Bụt chỉ tay sang bên kia sông. Đạo sĩ nhìn theo ngón tay người.
Bụt nói:
– Tôn giả Kassapa, nếu có người đang đứng bên này sông mà muốn
qua bên kia sông thì người ấy phải làm gì?
– Người ấy phải lội qua sông, nếu mực nước sông rất thấp.
Trong trường hợp nước đầy như hôm nay, người ấy phải dùng thuyền bè để chèo qua
bên kia sông. Nếu bơi giỏi, người ấy cũng có thể bơi sang bên kia sông.
– Đúng rồi, tôn giả Kassapa, nhưng giả dụ có người muốn qua
sông mà không muốn lội, không muốn bơi, cũng không muốn chèo, trái lại chỉ đứng
bên này sông mà cầu khẩn bờ bên kia, hy vọng bờ bên kia sẽ qua tới bên này cho
mình bước lên, thì tôn giả nghĩ sao?
– Tôi sẽ nói rằng đó là một người không thực tế.
– Cũng như vậy thôi, tôn giả Kassapa! Nếu không tu tập quán
chiếu để diệt trừ vô minh, và các phiền não khác thì ta không đạt tới bến bờ giải
thoát được, dù ta có tế lễ khẩn cầu suốt cả cuộc đời ta.
Đạo sĩ Kassapa bỗng nhiên sụp lạy dưới chân Bụt. Ông khóc nức
nở.
Ông nói:
– Sa môn Gotama, con đã lầm lỡ, hết hơn một nửa đời người. Giờ
đây xin thầy chấp nhận con là đệ tử của thầy để con có cơ duyên học hỏi và tu tập
con đường giải thoát.
Bụt nâng Kassapa dậy. Người nói:
– Tôi không ngần ngại gì mà không chấp nhận tôn giả, nhưng
còn gần năm trăm vị đệ tử của ngài thì ngài tính sao? Ai sẽ dắt dìu họ?
Kassapa bạch:
– Xin sa môn Gotama, xin thầy cho con có dịp tiếp xúc với họ
sáng mai. Chiều mai con sẽ trình thầy quyết định của con.
Bụt nói:
– Các em bé trong làng Uruvela gọi tôi là Bụt.
Kassapa ngạc nhiên:
– Thưa thầy, chúng gọi thầy là Bụt? Nghĩa là Người Tỉnh Thức?
Hay, hay lắm. Chúng con sẽ gọi thầy là Bụt cho thân mật. Vậy xin phép Bụt cho
con về trước.
Sáng hôm sau, Bụt lại đi khất thực trong làng Uruvela. Khất
thực xong, người đi đến bờ hồ để thọ trai và tĩnh cư cả ngày ở đó. Chiều hôm ấy
đạo sĩ Kassapa lại ra tìm Bụt ở bờ hồ. Ông cho Bụt biết là tất cả gần năm trăm
vị đệ tử của ông đều đồng lòng theo ông xuất gia tu học dưới sự hướng dẫn của Bụt.
Ngày hôm sau, theo gương Uruvela Kassapa, tất cả mọi người đều
cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa. Họ liệng xuống sông Neranjara tất cả những cái
búi tóc của họ cùng với tất cả những tượng thờ và dụng cụ tế lễ khác. Tất cả đều
theo gương Kassapa quỳ dưới chân Bụt. Họ đọc:
“Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong
cuộc đời.
Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu
biết.
Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống
cuộc đời tỉnh thức.”
Tiếng phát nguyện của năm trăm vị khất sĩ mới vang động cả
khu rừng.
Lễ xuất gia cho năm trăm người cử hành xong, Bụt thuyết giảng
cho năm trăm vị khất sĩ mới về bốn sự thật mầu nhiệm và cách thức quán chiếu
hơi thở, thân thể và tâm ý, rồi Bụt dạy cho phép khất thực và tĩnh cư.
Ngay sau đó, các vị khất sĩ được lệnh phóng thích vào rừng tất
cả những đàn thú vật mà họ đã chăn nuôi. Họ học theo Bụt, cầm bát đi theo người
vào các thôn xóm để thực tập việc khất thực.
Chiều hôm ấy, Bụt triệu tập Kassapa và mười vị đã từng là đệ
tử xuất sắc nhất của Kassapa lại. Người trao truyền cho họ những giáo lý căn bản
của đạo tỉnh thức, và sau đó người còn chỉ bảo cho họ những nguyên tắc tổ chức
và hướng dẫn tăng đoàn. Khất sĩ Kassapa tỏ ra là một lãnh tụ đồ chúng có tài. Bụt
rất vui khi nhận thấy điều này. Người giao phó cho Kassapa việc phân phối và huấn
luyện các vị khất sĩ trẻ tuổi, theo kinh nghiệm đã thu lượm được tại trung tâm
tu học Vườn Nai ở Isipatana.
Ngày hôm sau, đạo sĩ Nadi Kassapa, người em trai thứ nhất của
khất sĩ Uruvela Kassapa cùng một số các vị đệ tử tìm tới. Nadi Kassapa là lãnh
tụ của ba trăm vị đệ tử tu theo đạo thờ Thần Lửa. Đạo tràng của họ về phía Bắc,
cũng trên bờ sông Neranjara. Họ có vẻ hốt hoảng. Mới hôm qua đây, họ thấy trôi
lều bều trên dòng sông hàng trăm cái búi tóc và rất nhiều dụng cụ thờ tự, và
nghĩ rằng một tai nạn nào đó đã xảy ra cho trung tâm tu học Uruvela do đạo sĩ
Uruvela Kassapa lãnh đạo. Họ tới vào giờ chư vị khất sĩ đi khất thực nên không
gặp ai và vì vậy tỏ vẻ lo lắng, nhưng từ từ họ thấy các vị khất sĩ khất thực trở
về. Hỏi thăm, họ mới biết là Uruvela Kassapa cùng năm trăm vị đệ tử đã xuất gia
theo học với một vị sa môn tên là Gotama thuộc dòng Sakya.
Một lát sau nữa thì Bụt và Uruvela Kassapa về tới. Thấy em,
khất sĩ Kassapa rất vui mừng. Ông giới thiệu Nadi Kassapa với Bụt. Rồi hai anh
em đưa nhau ra rừng nói chuyện rất lâu. Cuối cùng, Nadi được anh thuyết phục và
bằng lòng trở về đem ba trăm vị đệ tử đến quy y.
Họ cũng đồng ý cho người đi mời người em út là Gaya Kassapa tới
để thông báo những gì đã xảy ra và nếu bằng lòng, Gaya Kassapa cũng sẽ đem hai
trăm vị đệ tử tới để cùng quy y và tu học dưới sự chỉ dẫn của Bụt.
Ba anh em đã từng nổi tiếng là rất thương mến nhau. Hơn nữa họ
là những người cùng một lý tưởng. Vì vậy chỉ trong thời gian bảy hôm, tất cả ba
người cùng chín trăm vị đệ tử đều đã cắt tóc, mặc áo cà sa và trở nên những vị
khất sĩ nghiêm chỉnh tu học theo quy chế của giáo đoàn do Bụt lãnh đạo.
Một hôm, sau giờ khất thực tất cả mọi người được lệnh đi về tụ
họp trên đỉnh núi Tượng Đầu ở Gayasisa, cách đó không xa. Chín trăm vị khất sĩ
ngồi thọ trai im lặng và trang nghiêm cùng với Bụt và ba anh em Kassapa. Buổi
thọ trai chấm dứt, mọi người vây quanh Bụt. Nghiêm trang ngồi trên một tảng đá,
Bụt cất tiếng dạy chín trăm vị khất sĩ:
“Này các vị khất sĩ, tất cả vạn pháp đều đang bốc cháy. Cái
gì đang cháy? Sáu loại giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý đang bốc
cháy. Sáu loại đối tượng của giác quan là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp
đang bốc cháy. Sáu loại nhận thức là cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái
xúc chạm và cái suy tư cũng đang bốc cháy. Bốc cháy bằng thứ lửa nào? Bốc cháy
bằng lửa tham dục, lửa hận thù, lửa ảo vọng. Tất cả đang bốc cháy theo với những
cái khổ của sinh, già, bệnh chết, với đau thương, phiền muộn, lo lắng, sợ hãi,
và thất vọng.
Này các vị khất sĩ, mọi cảm thọ cũng đang bốc cháy, dù đó là
khổ thọ, lạc thọ, hay xả thọ. Cảm thọ phát sinh từ những điều kiện giác quan, đối
tượng và sự xúc chạm. Cảm thọ cũng đang bốc cháy vì ngọn lửa tham dục, hận thù,
và ảo vọng. Cảm thọ cũng đang bốc cháy theo với những cái khổ của sinh, già, bệnh,
chết, với đau thương phiền muộn, lo lắng, sợ hãi và thất vọng.
Này các vị khất sĩ, các vị đừng để tự bốc cháy theo ngọn lửa
của tham dục, của hận thù và của ảo vọng. Các vị phải thấy được tính cách vô
thường và duyên sinh của mọi pháp để đừng làm nô lệ cho dòng sinh diệt của giác
quan, đối tượng và cảm thọ”.
Gần một ngàn vị khất sĩ ngồi nghe đều cảm thấy tâm thần rúng
động khi Bụt nói về lửa. Họ rất hoan hỷ khi thấy mình đã tìm ra được con đường
tu học mà công phu quán chiếu là động lực duy nhất đưa đến giải thoát. Niềm tin
phát sinh trong tâm tư của mọi người.
Trong ba tháng liên tiếp, Bụt cư trú tại Gaya để giáo huấn
các vị khất sĩ. Giáo đoàn đạt tới nhiều kết quả lớn trên đường tu học. Ba anh
em Kassapa đã trở thành những vị phụ tá rất đắc lực cho Bụt trong việc hướng dẫn
và giáo huấn tăng đoàn.
Chương 28 - Rừng Kè
Một buổi sáng nọ, Bụt từ giã Gayasisa để về Rajagaha. Khất sĩ
Uruvela Kassapa đề nghị xin Bụt cho cả giáo đoàn đi theo. Bụt ngần ngại, nhưng
Kassapa trình bày với Bụt là sẽ không có trở ngại gì cho việc chín trăm khất sĩ
về tới kinh đô nước Magadha. Ông nói gần thủ đô Rajagaha có nhiều khu rừng
trong đó các vị khất sĩ có thể cư trú, họ sẽ đi khất thực ở những miền ngoại ô
thành phố và ngay cả trong thủ đô nữa để có dịp giáo hóa dân chúng miền này.
Kassapa cũng thưa với Bụt là số lượng chín trăm vị khất sĩ là
quá lớn đối với dân chúng miền Gaya. Về thủ đô, việc khất thực và giáo hóa sẽ dễ
dàng hơn.
Khất sĩ Uruvela Kassapa có kiến thức khá tường tận về tình
hình xã hội trong nước Magadha. Sau khi nghe vị khất sĩ này trình bày, Bụt bằng
lòng cho chín trăm vị khất sĩ đi theo người về thành Vương Xá.
Ba anh em khất sĩ Kassapa đã tổ chức tăng đoàn rất nghiêm
minh. Đại chúng của tăng đoàn được phân thành các chúng, mỗi chúng hai mươi lăm
vị, mỗi chúng có một vị chúng trưởng lãnh đạo. Vị chúng trưởng này có trách nhiệm
về sự tu học và sự sinh hoạt của hai mươi bốn người trong chúng. Đạo phong của
các vị khất sĩ vì vậy càng ngày càng sáng rỡ và uy nghi.
Từ Gaya, tăng đoàn phải đi tới mười hôm mới về tới thủ đô
Rajagaha.
Mỗi buổi sáng, các vị khất sĩ đều phải ghé vào các tụ lạc để
khất thực. Khất thực xong, họ quy tụ trong một khu rừng hoặc một bãi cỏ để thọ
trai trong im lặng. Thọ trai xong, họ lại lên đường. Họ đi thành từng chúng, có
cả thảy ba mươi sáu chúng như vậy. Hình dáng của các vị khất sĩ khoác áo cà sa
đi trầm lặng trên đường đã gây một ấn tượng rất sâu đậm và đẹp đẽ trong lòng
dân chúng.
Tới Rajagaha, khất sĩ Uruvela Kassapa hướng dẫn Bụt và tăng
đoàn về tạm cư ở Rừng Kè mới trồng, trong đó có đền Supatthita cách thủ đô hai
dặm về phía Nam.
Sáng ngày hôm sau, giáo đoàn được phép ôm bát đi vào thành khất
thực. Các vị khất sĩ đi thành từng chúng hai mươi lăm người. Họ đi thành hàng,
bước từng bước khoan thai và có ý thức, tay ôm bát, mắt nhìn thẳng về phía trước,
dáng điệu uy nghi và lặng lẽ.
Theo lời Bụt dạy, họ dừng lại trước mỗi căn nhà, không phân
biệt giàu nghèo. Khoảng năm phút sau, nếu không được cúng dường, họ tiến tới
trước cổng nhà bên cạnh. Trong khi đứng im lặng chờ đợi được cúng dường, họ
theo dõi hơi thở và thực tập phép quán niệm mà Bụt đã dạy. Khi được cúng dường,
họ chỉ lặng lẽ nghiêng mình cảm ơn mà không nói lời khen chê nào về thực phẩm
được cúng dường.
Người cúng dường sau khi sớt thức ăn vào bát vị khất sĩ, có
thể đặt một vài câu hỏi. Các vị khất sĩ đã được lệnh ân cần trả lời về những
câu hỏi đó. Đại ý, các vị cho biết là mình tu học trong giáo đoàn Tỉnh Thức, dưới
sự hướng dẫn của một vị sa môn tên là Gotama Sakya, thường được gọi là Bụt, và
họ giảng cho vị thí chủ nghe về bốn sự thật, về năm giới hoặc về con đường tám
nhánh.
Tất cả các vị khất sĩ đều đã được lệnh trở về trú sở trước giờ
Ngọ để ăn trưa và nghe pháp thoại.
Buổi chiều và buổi tối chỉ là để học hỏi và thiền tập. Vì vậy
từ giữa trưa cho đến rạng sáng ngày hôm sau, không ai còn thấy bóng dáng một vị
khất sĩ áo vàng nào nữa trong thành phố.
Chỉ trong vòng nửa tháng, phần lớn dân chúng thủ đô đã biết tới
sự có mặt của giáo đoàn khất sĩ do Bụt lãnh đạo. Vào những buổi chiều khi trời
đã mát, có nhiều vị thí chủ tìm tới Rừng Kè để được gặp Bụt và tăng đoàn để học
hỏi về đạo lý tỉnh thức. Bụt chưa kịp đi thăm người bạn năm trước là vua Seniya
Bimbisara thì vua đã được nghe báo cáo về Bụt và về giáo đoàn khất sĩ đông đảo
của người. Vua được biết người lãnh đạo giáo đoàn này là vị sa môn trẻ mà mình
đã gặp trước đây trên một ngọn đồi gần kinh đô.
Một buổi chiều, vua cùng với hoàng hậu và thái tử Ajatasattu
ngồi xe tứ mã tìm về Rừng Kè để thăm Bụt. Đi theo xa giá của vua có nhiều chiếc
xe khác. Vua đã mời đi theo mình một trăm hai mươi vị nhân sĩ trí thức và lãnh
đạo cao cấp trong giới Bà la môn. Đến cửa rừng, vua xuống xe đi bộ vào, hoàng hậu
cầm tay thái tử Ajatasattu theo sau. Một trăm hai mươi vị tân khách Bà la môn
cũng làm như thế.
Nghe tin vua đến, Bụt cùng Uruvela Kassapa đi ra đón tiếp và
đưa tất cả mọi người vào. Tất cả chín trăm vị khất sĩ đều có mặt, ngồi vây
thành những vòng tròn lớn, Bụt mời vua, hoàng hậu, thái tử và các vị tân khách
an tọa. Vua Bimbisara bắt đầu giới thiệu các vị nhân sĩ Bà la môn với Bụt. Vua
không nhớ hết danh tánh từng người; vì vậy mỗi khi quên vua lại yêu cầu người bị
quên tên tự giới thiệu mình. Trong số những vị tân khách này có nhiều người lão
thông kinh điển và giáo lý Vệ Đà. Họ thuộc về đủ khuynh hướng đạo học và tôn
giáo.
Phần lớn các vị nhân sĩ này đã từng nghe danh đạo sĩ Uruvela
Kassapa, và một số đã được gặp ông, nhưng ngoài quốc vương Bimbisara chưa ai được
gặp Bụt lần nào. Thấy thái độ cung kính của Kassapa đối với Bụt nhiều người tỏ
vẻ ngạc nhiên. So với Uruvela Kassapa, sa môn Gotama Sakya nhỏ tuổi hơn nhiều.
Họ thầm thì với nhau, không biết sa môn Gotama là đệ tử của Kassapa hay Kassapa
là đệ tử của sa môn Gotama. Biết được tâm ý họ, khất sĩ Uruvela Kassapa rời chỗ
ngồi, đứng dậy đi tới trước mặt Bụt. Ông chắp tay lại thành hình sen búp, chậm
rãi và rõ ràng, ông nói:
– Sa môn Gotama, bậc giác ngộ, bậc tôn quý nhất trên đời; con
là Uruvela Kassapa, đệ tử của thầy, xin cung kính làm lễ thầy.
Nói xong, ông sụp xuống lạy Bụt ba lạy, rất kính cẩn.
Bụt nâng Kassapa dậy và bảo ông ngồi xuống bên tay trái của
người. Bây giờ đây một trăm hai mươi vị tân khách Bà la môn mới hoàn toàn giữ
im lặng. Sự im lặng còn lớn lao hơn khi họ nhìn thấy chín trăm vị khất sĩ áo
vàng đang lặng lẽ ngồi vây quanh, trong dáng điệu trang nghiêm và hùng vĩ.
Bụt lên tiếng giảng cho mọi người nghe về đạo Tỉnh Thức. Người
nói về tự tính vô thường duyên sinh của mạng sống và của vạn vật. Người chỉ dạy
con đường diệt trừ lầm lạc và khổ đau, con đường của sự sống tỉnh thức, con đường
của sự thực hành giới luật, định tâm và quán chiếu. Giọng Bụt vọng lớn như tiếng
chuông đồng, ấm như nắng mùa Xuân và trầm hùng như tiếng hải triều. Tiếng nói của
Bụt như mưa Xuân thấm nhuần trên cây cỏ. Hơn một ngàn người lắng tai nghe Bụt,
và không ai dám thở mạnh, sợ âm thanh của hơi thở xem vào làm vẩn đục pháp âm của
người.
Hai mắt vua Bimbisara càng ngày càng sáng. Càng nghe, vua
càng thấy tâm tư mình mở rộng. Bao nhiêu nghi vấn lâu nay trong lòng vua dần dần
được cởi mở. Cuối cùng vua nở một nụ cười sung sướng và rạng rỡ.
Bụt chấm dứt pháp thoại. Vua Bimbisara đứng dậy hai tay cung
kính chắp trước ngực, vua nói:
– Thưa Thế Tôn, hồi còn nhỏ, trẫm có năm điều ước nguyện, giờ
đây tất cả năm điều ước nguyện ấy đã được thành tựu. Ước nguyện thứ nhất là được
làm lễ quán đảnh và lên ngôi vua. Ước nguyện ấy đã thành. Ước nguyện thứ hai là
làm thế nào trong đời được gặp một bậc đạo sư giác ngộ. Ước nguyện ấy cũng đã
thành. Ước nguyện thứ ba là có duyên kính ngưỡng bậc giác ngộ ấy. Ước nguyện ấy
cũng đã được thành. Ước nguyện thứ tư là được bậc giác ngộ ấy dạy cho con đường
chánh pháp. Ước nguyện ấy cũng đã thành. Ước nguyện thứ năm là có thể hiểu được
giáo pháp của bậc giác ngộ ấy. Thưa Thế Tôn, ước nguyện này vừa được thành tựu.
Trẫm đã bắt đầu hiểu được giáo lý mầu nhiệm của ngài. Thế Tôn, ngài đã làm sáng
tỏ giáo lý ấy bằng nhiều cách giảng dạy khác nhau. Thế Tôn, hôm nay xin ngài nhận
cho trẫm làm đệ tử tại gia của ngài.
Bụt mỉm cười im lặng chấp thuận. Vua lại tỏ ý thỉnh cầu Bụt
và tất cả chín trăm vị khất sĩ ngày trăng tròn sắp tới đến thọ trai ở cung điện.
Bụt cũng hoan hỷ nhận lời.
Một trăm hai mươi vị nhân sĩ tân khách cũng đều đứng dậy cám
ơn Bụt. Có khoảng một phần mười trong số những tân khách này tỏ ý muốn được trở
thành đệ tử của Bụt.
Cùng với Uruvela Kassapa, Bụt đưa vua, hoàng hậu, thái tử
Ajatasattu và các vị tân khách ra đến cửa rừng, Bụt biết rằng chỉ còn chưa đầy
một tháng nữa thì mùa mưa sẽ tới, và người không thể trở về quê hương kịp trước
mùa mưa. Người quyết định cùng chín trăm vị khất sĩ an cư ba tháng tại Rừng Kè.
Người biết rằng sau ba tháng an cư tu học, tăng đoàn sẽ khá vững vàng để có thể
tự trị và người sẽ thong thả ra đi vào đầu mùa nắng khi bầu trời đã trong xanh
và cây cối đã xanh tươi.
Vua Seniya Bimbisara có chủ ý tổ chức một cuộc đón rước Bụt
và tăng đoàn thật long trọng. Vua dự tính làm lễ trai tăng cúng dường ngay trước
sân điện chầu, một cái sân gạch rộng có thể có chỗ ngồi cho một vạn người. Vua
cho thông báo với thần dân biết ngày thỉnh Bụt và khuyên dân chúng treo đèn kết
hoa trên những con đường mà Bụt và tăng đoàn sẽ đi ngang qua để tới vương cung.
Vua cho mời rất nhiều nhân sĩ đến nghe Bụt thuyết pháp. Tất cả
các quan chức trong triều cũng đều được mời đến dự. Vua cũng cho mời cả những
em trai vào trạc tuổi của hoàng thái tử Ajatasattu. Thái tử năm nay lên mười
hai tuổi. Biết Bụt và tăng đoàn không chấp nhận việc sát sinh để cúng dường,
vua ra lệnh chuẩn bị những thức ăn thuần túy chay tịnh và rất ngon lành. Những
người thân tín của vua có tới mười ngày để chuẩn bị cho cuộc tiếp đón.
Chương 29 - Muôn vật từ duyên sinh lại từ duyên mà diệt
Trong thời gian ấy, nhiều người có đạo tâm tìm đến với Bụt để
xin xuất gia. Đa số là những thanh niên tuấn tú. Những vị khất sĩ giỏi làm phụ
tá cho Bụt đã có nhiều, nên việc tiếp nhận và giảng dạy các vị khất sĩ mới đều
được họ phụ trách. Con trai và con gái các nhà lành tìm đến Rừng Kè để xin quay
về và nương tựa nơi tam bảo cũng rất đông. Có một hôm, sau lễ quy y của gần ba
trăm người trẻ tuổi, đại đức Kondanna giảng cho người này về ba viên ngọc quý.
Ba viên ngọc quý này là Bụt, Pháp và Tăng. Khất sĩ Kondanna là vị đệ tử đầu
tiên đã thực chứng đạo Tỉnh Thức. Đại đức dạy:
– Bụt (Buddha) là người tỉnh thức, và là người tỉnh thức cao
độ.
Người tỉnh thức biết được và thấy được chân tướng vũ trụ và
cuộc đời. Vì vậy người tỉnh thức không còn bị ràng buộc vào ảo vọng, sợ hãi, giận
hờn và tham đắm. Người tỉnh thức là người tự do, có đầy đủ an lạc, có đầy đủ
tình thương và sự hiểu biết.
Bậc đại sa môn Gotama, thầy của chúng ta, là một bậc tỉnh thức
hoàn toàn. Người là kẻ chỉ đường cho tất cả chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi thế
giới ảo vọng để trở nên những người tỉnh thức.
Mỗi người trong chúng ta đều có tính Bụt (Buddhata) trong
lòng, và vì vậy ai cũng có thể trở thành người tỉnh thức như Bụt. Tính Bụt này
là khả năng tỉnh thức, khả năng vượt thoát ảo vọng. Nếu chúng ta tu tập theo đạo
lý tỉnh thức thì chúng ta làm cho tính Bụt trong ta mỗi ngày mỗi sáng và một
ngày kia chúng ta cũng sẽ đạt được tự do và an lạc hoàn toàn như Bụt. Bụt ở
ngay trong tâm của mỗi chúng ta. Chúng ta phải trở về tìm Bụt ngay trong tâm
ta. Bụt là viên ngọc quý thứ nhất.
Pháp (Dharma) là con đường đưa tới sự tỉnh thức. Con đường
này đã được Bụt tìm ra và đã và đang chỉ dạy cho chúng ta. Con đường này đưa ta
thoát khỏi ngục tù ảo vọng, giận hờn, sợ hãi và tham đắm, và dẫn ta tới chân trời
tự do an lạc, vô úy, làm cho sự hiểu biết và tình thương phát hiện nơi ta. Hiểu
và thương là những hoa trái đẹp đẽ nhất của đạo lý tỉnh thức. Pháp là viên ngọc
quý thứ hai của chúng ta.
Tăng (Sangha) là đoàn thể những người đang cùng nhau thực tập
đạo tỉnh thức và cùng đi trên con đường giác ngộ. Muốn tu tập đạo giải thoát ta
phải nương tựa vào đoàn thể này. Một mình đơn độc, ta sẽ gặp nhiều khó khăn
trong sự tìm học và thực hành đạo lý tỉnh thức. Vì vậy chúng ta phải nương vào
tăng đoàn. Người xuất gia cũng như người tại gia phải biết trở về nương tựa nơi
Tăng để có thể đi xa trên con đường tu tập. Tăng là viên ngọc quý thứ ba của
chúng ta.
Này các thiện nam tử và thiện nữ nhân! Tất cả chúng ta phải
trở về nương tựa nơi ba viên ngọc quý của trần gian là Buddha, Dharma và
Sangha. Có nương tựa rồi chúng ta sẽ hết bơ vơ và chúng ta sẽ vững tiến trên
con đường giác ngộ và trong cuộc đời. Từ hai năm nay, tôi đã trở về nương tựa
nơi ba viên ngọc quý. Hôm nay quý vị cũng phát nguyện đi cùng một con đường.
Chúng ta nên vui mừng và sung sướng khi đưa ba viên ngọc quý vào lòng. Thật ra,
ba viên ngọc quý ấy đã có sẵn trong tự tâm của chúng ta từ vô thỉ. Ta tu tập đạo
giải thoát là để làm cho ba viên ngọc ấy chiếu sáng trong ta.
Các thanh niên rất sung sướng được nghe thầy Kondanna giảng.
Họ cảm thấy một nguồn sinh lực mới trào dâng trong họ.
Từ hôm ấy, những người con trai và con gái các nhà lành có đạo
tâm và ý chí tu học bắt đầu được các thầy khất sĩ gọi là thiện nam tử và thiện
nữ nhân.
Trong thời gian này, Bụt đã thâu nhận vào tăng đoàn hai vị đệ
tử thật xuất sắc: đó là Sariputta và Moggallana. Hai người đã từng tu học với đạo
sĩ Sanjaya, một vị du sĩ nổi tiếng ở thủ đô Rajagaha. Bụt cũng đã từng nghe nói
tới vị du sĩ này. Giáo đoàn của đạo sĩ Sanjaya là giáo đoàn của những vị du sĩ,
gọi là parivrajaka. Sariputta và Moggallana là hai người bạn thân, cả hai đều
thông minh và cởi mở. Họ đã từng hẹn với nhau là ai chứng đạt được đạo lớn thì
phải thông báo và chỉ bảo ngay cho người kia biết.
Một hôm Sariputta trông thấy vị khất sĩ Assaji cầm bát đi khất
thực trong thành phố Rajagaha. Assaji là một trong năm vị đệ tử xuất gia đầu của
Bụt và đã được Bụt khai ngộ cho ở Vườn Nai gần Banarasi. Thấy phong độ ung dung
và giải thoát của Assaji, Sariputta rất lấy làm cảm phục. Phong độ này tạo ngay
được niềm tin trong lòng vị du sĩ. Sariputta tự bảo:
– Đây chắc chắn là một vị đạo sĩ đã đạt đạo. Thật đúng như
mình đã nghĩ: thế nào trên thế gian này cũng có người đạt đến quả vị giải
thoát! Ta phải tới hỏi xem vị ấy tu học với ai, ai là thầy của vị ấy, và người ấy
đã tu học theo giáo pháp nào?
Vừa nghĩ như thế, Sariputta vừa bước theo sau vị khất sĩ
Assaji, nhưng ông lại tiếp:
– Vị đạo sĩ này đang đi khất thực từ nhà này sang nhà khác một
cách lặng lẽ và nghiêm trang. Ta không nên quấy rầy thầy ấy. Ta nên đợi cho đến
khi nào ông ta khất thực xong xuôi rồi hãy tới hỏi chuyện cũng không muộn.
Và Sariputta kiên nhẫn đi theo Assaji. Cho đến khi Assaji khất
thực xong và đi ra khỏi vòng đai thành phố, Sariputta mới rảo bước đi nhanh, vượt
qua ông ta, rồi quay trở lại để chào. Assaji dừng lại. Sariputta cung kính hỏi:
– Thưa đạo sĩ, phong thái của ngài rất ung dung, đạo đức của
ngài biểu hiện ra từ dáng đi, từ cử chỉ cho đến nét mặt. Tôi xin mạn phép hỏi
ngài: Ngài đã xuất gia tu học với ai? Ai là thầy của ngài? Và vị đạo sư ấy dạy
giáo pháp gì?
Khất sĩ Assaji nhìn Sariputta một lát, rồi mỉm cười rất thân
thiện. Ông trả lời:
– Tôi tu học dưới sự chỉ dẫn của vị đại sa môn Gotama. Thầy của
tôi xuất thân từ dòng họ Sakya. Chúng tôi gọi người là Bụt. Người hiện đang ở
nơi đền Suppatthita trong Rừng Kè.
Nghe đến danh từ Bụt, mắt Sariputta sáng lên:
– Thầy của ngài dạy giáo pháp gì, xin ngài vui lòng cho tôi
được biết sơ qua một chút.
– Tôi chỉ mới theo học với thầy tôi gần đây thôi; giáo pháp của
thầy tôi vi diệu lắm tôi chưa đủ sức tuyên giải đâu. Ngài nên tìm đến thầy tôi,
thầy tôi sẽ chỉ dạy cho ngài.
Sariputta nài nỉ:
– Xin ngài cho tôi vắn tắt một vài câu cũng đã quý lắm rồi.
Tôi sẽ đến cầu xin lệnh sư sau.
Assaji mỉm cười rồi đọc cho Sariputta nghe một bài kệ:
Muôn vật từ duyên sinh
Lại từ duyên mà diệt
Bậc giác ngộ tuyệt vời
Đã từng như vậy thuyết.
Nghe xong bài kệ, Sariputta bỗng thấy tâm tư bừng sáng. Cái
thấy không tì vết về chánh pháp được phát sinh ngay trong lòng. Mừng quá, ông
cúi đầu chào Assaji và lập tức chạy về tìm bạn.
Thấy Sariputta trở về mặt tươi như một đóa hoa, Moggallana hỏi:
– Sao mặt sư huynh hôm nay tươi như thế? Hay là sư huynh đã
tìm được đạo lớn rồi? Nói đi, sư huynh!
Sariputta kể lại cho bạn nghe về cuộc gặp gỡ với vị khất sĩ
Assaji. Rồi ông đọc cho Moggallana nghe bài kệ:
Muôn vật từ duyên sinh
Lại từ duyên mà diệt
Bậc giác ngộ tuyệt vời
Đã từng như vậy thuyết.
Nghe bài kệ, Moggallana lập tức thấy tâm trí bừng sáng. Cái
thấy về chánh pháp đến mau như một làn chớp giật. Vũ trụ hiện ra như một màn lưới
nhân duyên chằng chịt, cái này có vì cái kia có, cái này sinh vì cái kia sinh,
cái này không vì cái kia không, cái này diệt vì cái kia diệt. Ý niệm về một thần
linh như nguyên nhân đầu tiên tạo ra vạn vật đột nhiên tan biến. Cái vòng lẩn
quẩn dường như có thể chặt đứt được. Cánh cửa giải thoát thấp thoáng ở đâu đây.
Moggallana giục bạn:
– Sư huynh, chúng ta nên lập tức đi tìm Bụt. Bụt chính là thầy
của chúng ta. Ta phải tới xin tu học với người.
Sariputta do dự:
– Nhưng mà hai trăm năm mươi vị du sĩ trong giáo đoàn đang
trông cậy nơi chúng ta như những người anh cả. Chúng ta không thể bỏ họ một
sáng một chiều như thế được. Chúng ta phải đến cho họ biết trước.
Hai người bạn tu liền trở về trụ xứ tu học của giáo đoàn tu
sĩ. Họ kể cho các bạn nghe về những gì vừa xảy ra cho họ. Cuối cùng, họ nói:
– Các huynh đệ, chúng tôi đã quyết định đi tìm Bụt và xin tu
học dưới sự hướng dẫn của người. Chúng tôi xin có lời từ giã các bạn.
Nghe Sariputta và Moggallana sắp bỏ giáo đoàn du sĩ để theo Bụt,
hai trăm năm mươi vị du sĩ đều tự nhiên cảm thấy bơ vơ. Lâu nay họ đã tin cậy
vào hai vị sư huynh này. Bây giờ hai vị bỏ đi, họ không cảm thấy bơ vơ sao được.
Cuối cùng tất cả ngỏ ý xin đi theo hai vị.
Sariputta và Moggallana đi tìm đạo sĩ Sanjaya, vị lãnh tụ
giáo đoàn du sĩ và báo cho ông biết về quyết định của mình. Đạo sĩ Sanjaya buồn
lắm, ông nói:
– Hai vị ở lại đây đi. Ta sẽ giao quyền lãnh đạo giáo đoàn du
sĩ cho hai vị.
Ông năn nỉ tới ba lần như vậy, nhưng hai người vẫn không chịu
ở lại. Họ nói:
– Thưa ngài, chúng tôi đi tu là cốt tìm con đường giải thoát
chứ không phải là cốt trở thành những người lãnh đạo. Con đường không có thì
chúng ta lãnh đạo người ta đi đâu? Chúng tôi phải tìm tới với sa môn Gotama, bởi
vì sa môn Gotama đã tìm thấy con đường mà chúng tôi thường mong ước.
Nói xong, Sariputta và Moggallana cúi xuống lạy đạo sư và từ
biệt.
Hai trăm năm mươi vị du sĩ cũng làm như thế. Tất cả đều đi
theo hai người.
Sariputta và Moggallana đưa hai trăm năm mươi vị du sĩ tới Rừng
Kè. Mọi người sụp lạy trước Bụt và cầu xin được xuất gia. Bụt hỏi thăm và an ủi
các vị du sĩ. Người dạy đạo lý bốn sự thật cho họ và chấp nhận cho họ xuất gia
tu học trong giáo đoàn khất sĩ. Sau lễ xuất gia, số lượng các vị khất sĩ trong
giáo đoàn lên tới con số một ngàn hai trăm năm mươi vị.
Chương 30 - Venuvana
Ngày trăng tròn đã tới.
Buổi sáng, Bụt khoác cà sa, mang bát, cùng với một ngàn hai
trăm năm mươi vị khất sĩ đi vào thành Rajagaha, đáp lại lời mời của quốc vương
Bimbisara. Đoàn người đi trang nghiêm và lặng lẽ. Đường phố mà các vị khất sĩ
đi qua đã được treo cờ và kết hoa. Dân chúng đổ ra hai bên đường chào đón đông
nghịt. Tới một ngã tư, Bụt và giáo đoàn không đi lên được nữa, bởi vì dân chúng
đã đổ ra đông quá, làm bít mất con đường.
Lúc ấy, khất sĩ Uruvela Kassapa đang đi sát sau lưng Bụt, còn
chưa biết làm cách gì để khai thông con đường thì thầy bỗng thấy xuất hiện trước
mặt Bụt một chàng thanh niên tuấn tú, tay cầm cây đàn mười sáu dây. Thanh niên
cất tiếng hát, giọng chàng trong sáng và vọng lớn lên như tiếng chuông đồng.
Tay đàn, miệng hát, chàng rẽ đám đông để đi tới. Quần chúng tránh đường cho
chàng đi. Con đường được mở rộng, lúc ấy Bụt và giáo đoàn mới tiến lên được.
Thầy Kassapa nhận ra được tung tích người thanh niên đang mở
đường cho Bụt và tăng đoàn bằng âm nhạc và thi ca. Đó là một chàng thi sĩ đã tới
quy y với Bụt cách đây chưa đầy một tháng. Chàng đang ứng khẩu hát lên những cảm
nghĩ của mình. Chàng hát:
Sáng nay trên đất nước, có mùa Xuân thắm tươi
Giữa thủ đô ta có bậc giác ngộ tuyệt vời
Cùng một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử, người đi vào thành
Vương Xá
Bậc điều ngự đang ung dung bước tới, dung quang lặng lẽ mà
sáng ngời.
Quần chúng nghe chàng một cách say mê. Mọi người nhìn vào
chàng, rồi lại nhìn vào Bụt. Chàng mỉm cười rồi hát tiếp:
Bởi ta có may mắn là học trò của bậc toàn giác
Hãy cho ta ca ngợi tình thương và trí tuệ không bờ bến của
Người
Cho ta ca con đường đưa tới chân trời tự tại
Cho ta ca tăng đoàn đang đi trên chánh đạo soi sáng cho đời.
Chàng còn hát nữa, cho đến khi Bụt và tăng đoàn tới được cổng
hoàng cung. Lúc ấy chàng mới cúi đầu làm lễ Bụt rồi biến mất trong đám đông.
Vua Seniya Bimbisara đích thân ra tận ngọ môn để đón chào Bụt
và tăng đoàn. Các nhân sĩ và tân khách của vua, có tới hàng ngàn người, cũng
theo vua ra đón Bụt. Vua đưa Bụt vào hoàng cung. Sân rồng đã được che nắng bởi
những chiếc rạp dựng lên cho cuộc đón tiếp long trọng này. Rạp được kết bằng
hoa lá rất mỹ lệ. Chỗ ngồi của Bụt được đặt ở vị trí trung ương. Chỗ ngồi của một
ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ cũng đã được chuẩn bị chu đáo. Sau khi Bụt đã
ngồi xuống trên ghế của người, vua Bimbisara thỉnh cầu các vị khất sĩ và toàn
thể quan khách an tọa. Vua ngồi một bên Bụt. Phía bên kia là khất sĩ Kassapa.
Ngôi chủ khách đã phân, thái tử Ajatasattu mang nước và khăn
ra cho Bụt rửa tay chân. Tiếp theo, quân hầu cũng đem nước và khăn ra cho tất cả
các vị khất sĩ rửa tay chân. Lễ tẩy tịnh đã xong, vua đích thân đứng dậy cúng
dường các thức ăn cho Bụt. Vua cung kính sớt các thức ăn vào bát của mỗi người.
Trong khi đó, phu nhân của vua, hoàng hậu Vaidehi, hướng dẫn người hầu trong
hoàng cung cúng dường thức ăn cho các vị khất sĩ.
Bụt và giáo đoàn khất sĩ mặc niệm và chú nguyện trước khi ăn.
Vua Bimbisara và tất cả các quan khách cũng đều giữ im lặng trong thời gian
dùng bữa. Trong sáu ngàn tân khách của vua, không ai là không cảm nhận được sự
thanh tịnh và an lạc thoát ra từ nhân cách của Bụt và của giáo đoàn khất sĩ.
Sau khi Bụt, tăng đoàn và quan khách đã thọ trai xong, bình
bát của các vị khất sĩ được người hầu đem rửa và trả lại cho mỗi vị.
Vua Bimbisara hướng về Bụt, cung kính chắp tay. Hiểu được ý
vua, Bụt lên tiếng dạy về chánh pháp. Người nói về năm giới như là phương thức
tạo dựng và bảo vệ hòa bình và hạnh phúc trong quốc gia. Người nói năm giới có
thể được nhận thức như là những nguyên tắc sống chung hòa bình và an lạc, trong
gia đình cũng như ngoài xã hội.
– Giới thứ nhất là không sát hại. Giữ gìn giới này là để nuôi
dưỡng lòng từ bi. Tất cả các loài sinh vật, từ người cho đến chim muông và cầm
thú, loài nào cũng sợ chết. Nếu ta biết tôn quý sự sống của ta thì ta cũng phải
biết tôn quý sự sống của loài sinh vật khác. Không những ta không được tiêu diệt
sự sống của con người, mà ta còn nên tránh việc tiêu diệt sự sống của các chủng
loại khác. Ta phải sống hòa bình với con người và sống hòa bình với các loài
sinh vật khác. Nuôi dưỡng được lòng thương, ta làm cho cuộc đời bớt khổ và đẹp
đẽ thêm lên. Nếu mọi người trong nước đều biết giữ giới không sát hại thì đất
nước sẽ không bị loạn lạc, và dân chúng được sống hòa bình. Khi mọi người
thương nhau và đoàn kết với nhau thì dân giàu và nước mạnh, sẽ không nước nào
có đủ sức để xâm lăng nước mình, và tuy có quân đội hùng mạnh, quốc gia sẽ
không cần sử dụng đến. Quân đội sẽ có thì giờ để làm những công việc xây dựng
đường xá, cầu cống, chợ búa và đê điều.
Giới thứ hai là không xâm phạm đến tài sản của kẻ khác. Nếu
tài sản của mình là do mình tạo ra bằng sức làm việc hàng ngày của mình thì
không ai có quyền xâm phạm đến. Tất cả những lời nói và hành động nào nhằm tước
đoạt tài sản ấy đều được xem là phạm giới. Không được ăn trộm, ăn cướp, lường gạt,
hoặc dùng quyền lực mình để cưỡng chiếm tài sản của kẻ khác. Lợi dụng sự khờ dại,
sức lao động của kẻ khác và hoàn cảnh khó khăn của họ để làm giàu cũng phạm vào
giới này. Nếu dân trong một nước mà biết hành trì giới này thì trong nước sẽ có
công bằng xã hội và những tội ác như cướp của và giết người sẽ giảm bớt rất mau
chóng.
Giới thứ ba là không xâm phạm tiết hạnh của kẻ khác. Ngoài vợ
mình hay chồng mình, người giữ giới không được chung chạ với kẻ khác. Giữ được
giới này thì tạo được đức tin và hạnh phúc trong gia đình mình, đồng thời cũng
tránh được sự gây ra đổ vỡ khổ đau trong các gia đình khác. Muốn có hạnh phúc,
muốn có thì giờ và tâm não để lo việc ích quốc lợi dân thì nên tránh việc có
nhiều tỳ thiếp.
Giới thứ tư là không nói dối và không nói những lời gây chia
rẽ căm thù. Lời nói phải phù hợp với sự thật: có thì nói có, không thì nói
không. Lời nói có thể tạo nên niềm tin và hạnh phúc. Lời nói cũng có thể tạo
nên đổ vỡ và sự thù oán, có khi còn đưa tới sự chém giết lẫn nhau. Có khi lời
nói cũng có thể tạo ra chiến tranh. Ta phải rất cẩn thận cho lắm mới được.
Giới thứ năm là không uống rượu và không sử dụng các chất ma
túy. Rượu và các chất ma túy làm cho ta mất sáng suốt. Khi say ta có thể tạo ra
nhiều đổ vỡ cho bản thân, cho gia đình và cho tổ quốc. Giữ giới này, ta giữ cho
thân thể ta được khỏe mạnh và tâm hồn được sáng suốt, vì vậy bậc thức giả luôn
luôn phải giữ giới này. Nếu đại vương và các vị chức sắc của triều đình mà thấu
triệt và vâng giữ được năm giới này thì đó là một điều đại phước cho quốc gia
và cho tất cả bàn dân thiên hạ trong vương quốc.
Đại vương, bậc quốc vương đứng đầu một nước cần sống trong tỉnh
thức và biết được những gì đang xảy ra trong vương quốc mình. Nếu đại vương làm
cho trong triều ngoài quận ai cũng hiểu thấu và thực hành được năm giới, tức là
năm nguyên tắc sống hòa bình và an lạc, thì vương quốc Magadha sẽ trở nên vương
quốc thịnh vượng nhất trong hoàn vũ.
Vua Bimbisara sung sướng tiến tới trước Bụt và làm lễ người.
Hoàng hậu Vaidehi cũng đứng dậy từ chỗ ngồi của bà. Cầm tay thái tử Ajatasattu,
bà đi tới trước Bụt. Bà dạy thái tử chắp tay thành búp sen để vái chào người, rồi
bà nói:
– Lạy Bụt, hôm nay có thái tử Ajatasattu, con của con và nhiều
trẻ em khác con của các vị vương tử đại thần và quan khách. Các em đông có tới
bốn trăm đứa. Xin Bụt đem lòng thương xót chỉ bày cho các em con đường của tỉnh
thức và của thương yêu.
Nói xong hoàng hậu sụp xuống lạy Bụt. Thái tử Ajatasattu cũng
được bà bảo sụp xuống lạy Bụt. Bụt mỉm cười đưa tay cầm lấy tay thái tử. Hoàng
hậu quay lại làm dấu hiệu. Tất cả các thiếu nhi có mặt đều được đưa ra trình diện.
Đây toàn là trẻ em nhà quyền quý và khá giả, nên em nào cũng được phục sức rất
tươm tất. Trai cũng như gái đều có đeo vòng ở cổ tay và cổ chân. Các em gái mặc
những chiếc sari lộng lẫy đủ màu trông rất tươi mát. Thái tử Ajatasattu cũng ngồi
xuống ngay dưới chân Bụt.
Bụt nhớ lại những em bé nghèo mà người đã gặp dưới cây hồng
táo ở ngoại thành Kapilavatthu. Người tự hứa là mai này về lại quê hương sẽ đi
tìm gặp lại những em bé như thế để làm tròn ước nguyện.
Người nói:
– Này các con, trước khi ta được làm người, ta đã từng làm đất
đá, cây cối, chim chóc và muông thú. Các con cũng vậy, trong những kiếp xưa các
con đã từng làm đất đá, cây cối và chim muông. Ngày hôm nay ta được gặp các
con, cũng có thể là vì trong những kiếp xa xưa ta và các con đã từng gặp nhau.
Chúng ta đã có thể làm cho nhau sung sướng. Chúng ta cũng đã có thể làm cho
nhau khổ đau.
Hôm nay ta muốn kể cho các con nghe một chuyện đã từng xảy ra
hàng ngàn kiếp trước. Đây là chuyện một con cò, một con cua, một cây bông sứ và
rất nhiều tôm cá. Hồi ấy, ta là cây bông sứ, và trong số các con có thể có đứa
đã làm con cò, có đứa có thể đã làm con cua và nhiều đứa có thể đã làm tôm cá.
Trong câu chuyện ấy, con cò là một đứa nham hiểm và có tính
hay lường gạt. Nó đã làm cho biết bao nhiêu con khác chết chóc và khổ đau. Hồi ấy,
như các con đã biết, ta làm cây bông sứ. Con cò cũng đã làm cho ta khổ đau,
nhưng ta đã học được một bài học.
Đó là: khi mình lường gạt và làm khổ đau kẻ khác thì mình
cũng sẽ bị lường gạt và sẽ bị khổ đau trở lại.
Trong kiếp xa xưa đó, ta làm cây bông sứ đứng gần một cái hồ
sen rất thơm và rất mát. Hồ sen này lại không có cá.
Cách hồ không xa, lại có một cái ao nhỏ hẹp, ít nước và nóng
bức, nhưng lại có nhiều tôm cá. Một con cò đi ngang qua đây thấy tôm cá quá nhiều
mới nảy sinh ra một mưu kế. Nó tới đứng gần bên bờ hồ và tự tạo cho mình một vẻ
mặt đăm chiêu.
Bọn cá hỏi:
– Bác Cò, bác suy nghĩ gì đấy?
– Ta đang suy nghĩ đến số phận của các chú. Ở đây ao hẹp, nước
ít lại nóng bức. Các chú lại thiếu thức ăn. Đời sống của các chú có vẻ khổ cực,
ta thương lắm.
– Vậy bác có cách gì giúp tụi cháu không, bác Cò?
– Nếu tụi bay để ta chở từng đứa tới bỏ xuống cái hồ sen đàng
kia, thì ở đó tụi bay sẽ được tha hồ bơi lội trong nước mát và sẽ có vô số thức
ăn.
– Bác Cò ơi, tự thuở cha mẹ sinh ra, chúng cháu chưa bao giờ
nghe nói là loài cò mà lại có lòng tốt với loài tôm cá. Bác bày ra cách đó chẳng
qua chỉ là để ăn thịt chúng cháu, đứa này rồi tới đứa khác, vậy thôi. Có phải
không?
– Tụi bay đa nghi lắm. Tao là bác của tụi bay, không lý tao lại
gạt tụi bay hay sao. Sự thật là đàng kia có một cái hồ sen rộng lắm, nước nhiều
mà lại mát nữa. Nếu tụi bay không tin thì một đứa hãy theo tao qua đó xem. Xem
xong tao lại trả nó về đây để nó báo cáo lại sự thật cho tụi bay biết.
Bọn tôm cá châu đầu vào nhau để bàn luận một hồi lâu. Cuối
cùng chúng cử một bác cá nhám đi với con cò. Con cá nhám này đã già, thân thể gần
như một cục đá. Nói bơi lội giỏi đã đành, mà nó cũng có thể di chuyển dễ dàng
trên đất cạn. Con cò cắp lấy con cá nhám vào mỏ và bay về phía hồ sen. Nó thả
con cá vào hồ sen để cá bơi lội thỏa thích và đi thăm mọi nơi trong hồ. Quả thật
là hồ rộng, nước rất mát và thực phẩm rất nhiều. Một lát con cò chở con cá nhám
về ao, và con cá nhám kể lại tất cả những gì nó đã thấy cho bọn tôm cá trong ao
nghe.
Bọn tôm cá nghe kể rất lấy làm vui sướng. Chúng yêu cầu con
cò chở chúng sang hồ, mỗi chuyến một đứa. Cò bằng lòng. Nó cắp con cá đầu tiên
vào mỏ và bay đi, nhưng thay vì thả cá xuống hồ sen, nó bay về phía cây bông sứ,
nó buông cá vào một chĩa ba của thân cây. Nó dùng mỏ rỉa cá ra và ăn thịt con
cá. Ăn xong, nó hất xương cá xuống gốc cây bông sứ. Rồi nó bay về phía ao để
“chở” một con cá khác, và luôn luôn bỏ xương cá xuống gốc cây.
Ta là cây bông sứ. Ta chứng kiến tất cả những điều này. Ta rất
tức giận con cò nhưng không thể nào ngăn cản được nó. Các con biết, cây bông sứ
chỉ có thể đâm rễ sâu thêm vào đất, mọc cành mọc lá và làm hoa, nhưng không thể
chạy đi đâu được. Ta không thể chạy tới ao để vạch rõ cho bọn tôm cá biết âm
mưu của con cò. Ta cũng không thể vươn cành ra để ngăn con cò không cho cò ăn
thịt cá. Ta đứng yên chịu trận. Mỗi lần cò mang tới một con cá và mổ cho cá
toét ra để ăn thịt là mỗi lần cây bông sứ đau đớn rúng động cả châu thân, nhựa
cây như chảy dồn dập hơn, da cây như co rúm lại. Có khi cây bông sứ rung rung
và những giọt sương rơi xuống như là cây cũng biết khóc. Con cò không để ý tới
những dấu hiệu đó. Ngày này sang ngày khác, nó mang cá tới cây bông sứ để ăn thịt.
Ăn hết cá nó ăn đến tôm. Đống xương cá dưới gốc cây đã cao bằng hai cái thùng lớn.
Làm một cây bông sứ, ta biết mình có bổn phận nở hoa để làm
thơm làm đẹp cho núi rừng, nhưng ta rất đau khổ vì không làm được gì để cứu bọn
tôm cá. Nếu ta là một con nai hoặc một con người thì ta đã có thể làm được một
cái gì. Đàng này ta bị chôn chân xuống đất không đi đâu được. Với niềm thương
trong lòng, ta thầm nguyện sau này nếu được làm thú hay làm người, ta sẽ gắng hết
sức để bênh vực kẻ yếu và ngăn chận không cho kẻ hung bạo và giảo quyệt đi lừa
gạt và tàn sát kẻ khác.
Ngày hôm ấy, dưới ao cá và tôm đã hết. Chỉ còn có một con
cua. Lúc đầu cò ta chê, nhưng sau đó đói bụng quá, nó lại gần bờ nước và nói:
– Này cháu, tất cả những tôm cá mà ta đã chở tới hồ sen, hiện
đang sung sướng vẫy vùng bên đó. Cháu lại đây, bác chở qua đó luôn.
– Bác thì làm sao chở được cháu? Cháu là một con cua mà.
– Thì bác cắp cháu trong mỏ bác, như đã chở những đứa khác.
– Bác mà cắp cháu trong mỏ bác thì không chắc lắm. Bác có thể
để cho cháu rơi xuống và cháu sẽ vỡ toang.
– Đừng có sợ, cháu. Bác sẽ ngậm cháu thật chặt.
Con cua suy nghĩ: có thể là cò đã thả tất cả tôm cá xuống hồ
sen. Cũng có thể là cò đã ăn thịt hết tất cả họ hàng nhà tôm và họ hàng nhà cá.
Ta hãy cẩn thận. Ta phải đề phòng. Nếu cò thả ta xuống hồ thì đó là chuyện tốt.
Nếu cò muốn ăn thịt ta thì ta cũng có sẽ cách tự vệ.
Nghĩ như thế, Cua nói với Cò:
– Bác ơi, mỏ bác không đủ mạnh để giữ cho cháu khỏi rơi dâu.
Bác phải để cháu bám vào cổ bác bằng hai cái càng của cháu mới được.
Cò bằng lòng ngay, nó để cho Cua bám vào cổ nó. Cò vỗ cánh
bay đi, nhưng thay vì bay thẳng xuống hồ, Cò lại bay qua cây bông sứ.
– Bác ơi, tại sao bác không đưa cháu xuống hồ mà lại đem cháu
đi đâu thế?
– Cháu ơi, ai dại dột mà đi chở mướn cho bọn bay. Tao đâu có
phải là đầy tớ của bọn mày. Ta chỉ muốn chở bọn mày tới đây để ăn thịt từng đứa
mà thôi. Coi kìa, mày có thấy đống xương cá cao nghệu dưới gốc cây bông sứ
không? Đó, mày cũng sẽ chấm dứt cuộc đời của mày nơi đó.
– Bác Cò ác độc ơi, tụi tôm cá ấy dại dột quá nên mới bị bác
lừa dối và ăn thịt, nhưng cháu thì bác đừng có hòng mà ăn thịt được cháu. Bác
hãy mang cháu về dưới hồ đi, nếu không cháu sẽ kẹp đứt cổ bác cho mà xem.
Nói xong, Cua bắt đầu siết những gọng kềm của Cua trên cổ Cò.
Những cái càng cua siết cứng như những chiếc gọng kềm bằng sắt khiến cho Cò ta
đau quá. Cò kêu lên:
– Thôi anh Hai ơi, anh Hai đừng kẹp tôi đau quá. Để tôi đưa
anh Hai xuống hồ. Tôi không dám ăn thịt anh Hai đâu.
Cò nghiêng cánh liệng bay trở lại hồ sen và đặt Cua xuống bờ
nước, nơi có chút ít bùn lầy. Cua vẫn chưa buông cổ Cò. Nghĩ tới bao nhiêu tôm
cá trong hồ bị Cò tàn sát hết, Cua nghiến răng kẹp hai cái càng thật mạnh, khiến
cho cổ Cò đứt rời ra, và Cò lăn xuống chết. Rồi Cua đi xuống nước.
Các con ơi, lúc ấy ta là cây bông sứ, ta chứng kiến từng chi
tiết nhỏ của tấn kịch này. Ở đời, ăn hiền ở lành thì sẽ được người hiền lành
giúp đỡ. Ăn ở độc ác sớm muộn gì cũng lâm vào cảnh thảm thương. Ta đã học được
bài học đó. Ta nguyện đời đời sẽ làm việc lợi ích cho muôn loài. Ta đã làm người
trong nhiều vạn kiếp. Giờ đây, gặp các con, ta muốn truyền lại bài học ta đã học
ngày xưa cho các con nghe.
Tất cả các thiếu nhi có mặt đều chăm chú nghe Bụt thuật chuyện
tiền thân. Đứa nào cũng thương cho cây bông sứ và cho tất cả những loài tôm cá
bị lừa gạt. Đứa nào cũng căm giận con cò và khen con cua là biết lo xa. Bụt lặng
yên và bọn thiếu nhi quay lại thầm thì với nhau về câu chuyện người vừa kể.
Vua Bimbisara đứng dậy. Đi tới trước Bụt, vua chắp tay lại
làm lễ người. Vua nói:
– Hôm nay bậc tôn quý trên đời đã ban cho người lớn và trẻ em
một bài học thật quý giá. Trẫm mong thái tử Ajatasattu thấm nhuần được lời dạy
và đạo đức của người. Vương quốc Magadha có được may mắn lớn nên người mới dừng
chân hoằng hóa nơi đây. Trẫm có một món quà muốn dâng lên bậc giác ngộ và tăng
đoàn của người, không biết người có chịu cho trẫm cái hân hạnh được dâng cúng
món quà ấy không?
Bụt không nói. Người đưa mắt nhìn vua, có ý muốn vua nói tiếp.
Vua im lặng một lát rồi nói:
– Về phía Bắc thủ đô Rajagaha có một vườn tre rất rộng và rất
đẹp mà trẫm gọi là Trúc Lâm, hay là Venuvana. Trúc Lâm cách cửa Bắc của kinh đô
chỉ chừng hai dặm. Công viên này rất yên tĩnh, rất mát mẻ và có rất nhiều con
sóc hiền lành. Trẫm muốn hiến cúng công viên ấy lên Bụt và tăng đoàn của người
để làm trụ sở tu học và hành đạo. Mong đức Từ Bi chấp nhận cho lòng thành của
trẫm.
Bụt suy nghĩ. Đây là lần đầu tiên một cơ sở được hiến tặng
cho giáo đoàn để làm nơi tu học. Các vị khất sĩ cũng cần có một căn cứ để an cư
trong mùa mưa. Ta nên chấp nhận tặng phẩm này.
Nghĩ như thế, Bụt mỉm cười và gật đầu ưng thuận. Vua
Bimbisara mừng rỡ. Vua nghĩ là cơ sở đó có thể giữ được bậc giác ngộ lâu dài
trong vương quốc mình. Trong số các vị tân khách, có nhiều người thuộc giới
lãnh đạo Bà la môn. Họ không mấy hoan hỷ về quyết định này của vua, nhưng họ vẫn
giữ im lặng.
Vua truyền đem ra một cái bình vàng. Ngài tự tay làm lễ rót
nước trong bình lên tay Bụt, và trang trọng tuyên bố:
– Bạch Thế Tôn, cũng như nước trong chiếc bình vàng này chảy
vào tay người, khu vườn Trúc Lâm đã được trẫm hiến tặng cho người và giáo đoàn
do người lãnh đạo.
Lễ bàn giao đã xong.
Cuộc thừa tiếp giáo đoàn đã kết thúc, Bụt và một ngàn hai
trăm năm mươi vị khất sĩ từ giã hoàng cung.
Chương 31 - Sang Xuân ta sẽ trở về
Ngay ngày hôm sau, Bụt và các vị trưởng thượng trong giáo
đoàn đi thăm viếng Trúc Lâm. Thật là một nơi cư trú lý tưởng cho giáo đoàn khất
sĩ. Khu vườn rộng vào khoảng bốn chục mẫu. Tre mọc xanh tốt, đủ cả các loại. Hồ
Kalandaka tọa lạc ở giữa rừng tre là một nơi rất thuận lợi để các vị khất sĩ tắm
giặt và đi kinh hành. Tre rất nhiều, những chiếc thảo am có thể được dựng lên rải
rác để làm chỗ cư trú cho các vị đại đức lớn tuổi. Các vị đệ tử lớn như
Kondanna, Kassapa, Sariputta v.v… đều rất hoan hỷ. Họ họp nhau lại và hoạch định
cách tổ chức Trúc Lâm thành một tu viện có quy củ. Bụt dạy:
– Mùa mưa không tiện lợi cho sự du hành. Các vị khất sĩ cần
có nơi an cư trong mùa mưa để cùng tu học với nhau. Như vậy họ tránh được sự ướt
át và dẫm đạp lên trên các loại côn trùng thường bò ra đầy dẫy. Tôi muốn mỗi
năm cứ vào đầu mùa mưa, các vị khất sĩ phải tìm nơi an cư tu học với nhau, khỏi
phải đi du hành đây đó. Trong ba tháng ấy, thiện nam và tín nữ có thể mang thực
phẩm tới cúng dường tại các trung tâm an cư, và mỗi ngày, họ sẽ được các vị xuất
gia chỉ dạy về đạo lý tỉnh thức.
Truyền thống an cư được thiết lập, chỉ còn mười lăm hôm nữa,
mùa an cư được bắt đầu.
Dưới sự điều khiển của đại đức Moggallana, các vị khất sĩ trẻ
tuổi đã dựng lên một tịnh xá nhỏ cho Bụt và nhiều tịnh xá nhỏ khác cho các vị
khất sĩ trưởng thượng hoặc lớn tuổi. Tất cả đều được làm bằng tre, tranh, và
bùn đất. Tịnh xá của Bụt tuy nhỏ nhưng rất xinh xắn. Phía sau tịnh xá có một bụi
tre vàng rất đẹp. Bên trái tịnh xá cũng có một bụi tre thật xanh tươi và cao. Bụi
tre này cho Bụt rất nhiều bóng mát. Thầy Nagasamala đã đóng cho Bụt một cái
chõng tre để người nằm nghỉ. Người cũng ngồi thiền trên đó. Thầy lại còn kê cho
Bụt một vại nước ở phía sau tịnh xá để người có chỗ rửa mặt và tay chân. Thầy
Nagasamala là một vị khất sĩ trẻ. Trước đây thầy đã từng là đệ tử của đại đức
Uruvela Kassapa, khi đại đức còn chưa xuất gia theo Bụt. Từ ngày dọn về tu viện
Trúc Lâm, thầy Nagasamala được đại đức Kassapa tiến cử lên Bụt để làm thị giả
cho người.
Đại đức Sariputta đã tiếp xúc với một vị cư sĩ ở thành Vương
Xá và vị cư sĩ này đã đem cúng dường tu viện Trúc Lâm một chiếc chuông đồng. Đại
đức đã cho treo chuông gần hồ Kalandaka dưới một cành cổ thụ. Tiếng chuông báo
hiệu giờ giấc tu học trong tu viện, và trở thành hiệu lệnh cho tất cả tăng
đoàn. Bụt dạy mỗi khi nghe tiếng chuông, tất cả mọi người đều phải theo dõi hơi
thở và thực tập chánh niệm. Tiếng chuông như vậy không chỉ có tác dụng thông
báo giờ giấc mà còn có tác dụng nhắc nhở mọi người trở về với chánh niệm nữa.
Các vị đệ tử cư sĩ của Bụt ngày nào cũng có lui tới Trúc Lâm
để giúp đỡ công trình kiến thiết tu viện. Họ được đại đức Kassapa cho biết là
ngày trăng tròn sắp đến, tăng đoàn sẽ bắt đầu an cư tu học tại Trúc Lâm. Đại đức
nói:
– Đây là một dịp để các vị khất sĩ được thực tập đạo giải
thoát trực tiếp dưới sự hướng dẫn của Bụt. Họ sẽ có nhiều thì giờ học hỏi và thực
tập hơn trong mùa an cư. Đồng thời họ cũng tránh được sự dẫm đạp lên các loại
côn trùng thường xuất hiện rất nhiều vào mùa mưa trên các con đường, nhất là những
con đường thôn dã. Trong thời gian ba tháng an cư của các thầy, quý vị có thể
đem thức ăn tới cúng dường Bụt và tăng đoàn. Quý vị có thể họp nhau để tổ chức
việc cung cấp thực phẩm cho tăng đoàn, như thế thì sẽ không có ngày nào thức ăn
bị dư hoặc bị thiếu. Tất cả các vị thí chủ, dù là người nghèo khổ nhất và chỉ
có thể cúng dường một vài chiếc bánh chappati, cũng đều được mời ở lại để nghe
Bụt hoặc một vị cao đệ của người thuyết pháp. Mùa an cư sẽ đem lại nhiều tiến bộ
cho sự tu học của tăng đoàn cũng như là của các vị đệ tử tại gia.
Đại đức Kassapa lãnh đạo tăng đoàn rất giỏi mà tổ chức giới
cư sĩ cũng giỏi. Thầy đã hội họp với những vị thí chủ của tu viện và đã giúp
cho họ điều hợp việc cúng dường và hỗ trợ tu viện. Các vị khất sĩ, ngoài áo cà
sa, bình bát và nệm ngồi thiền, còn được cúng dường một chiếc khăn lau mặt và một
chiếc lọc để lọc nước uống nữa.
Ngày an cư đã đến, và thời khóa tu học do các vị trưởng thượng
ấn định, đã được tăng đoàn chấp hành theo một cách nghiêm chỉnh. Buổi sáng vào
lúc đầu canh tư đã có chuông báo thức. Sau khi rửa mặt, các vị khất sĩ bắt đầu
thiền tập ngay tại chỗ của mình. Mọi người thực tập thiền tọa và kinh hành nhiều
lần cho đến khi mặt trời đã lên tới đầu ngọn tre. Sau đó là giờ đi khất thực. Đại
chúng chỉ nghỉ đi khất thực vào những ngày có thí chủ cúng dường thực phẩm đầy
đủ cho tu viện. Vào những ngày này, các vị khất sĩ có thể sử dụng thì giờ buổi
sáng để đi tìm y chỉ sư của mình mà học hỏi thêm giáo lý và tham vấn về những
điều mình chưa nắm vững trong lãnh vực giáo nghĩa cũng như trong lãnh vực thực
tập.
Y chỉ sư là một vị khất sĩ đã đạt tới nhiều tiến bộ trên con
đường học hỏi và hành trì. Các vị đại đức như Kondanna, Assaji, Kassapa,
Sariputta, Moggallana, Bhaddhiya, Vappa, Mahanama v.v… đều là những vị y chỉ sư
lớn, mỗi vị phụ trách hướng dẫn năm sáu mươi vị khất sĩ mới học. Có những vị y
chỉ sư hướng dẫn mười vị, có vị hướng dẫn hai mươi vị, có vị hướng dẫn ba mươi
vị… Vị khất sĩ mới học nào cũng có y chỉ sư của mình. Đó là người huynh trưởng
trong đạo mà mình cần nương tựa vào để học hỏi.
Đại đức Kassapa đã cùng với đại đức Sariputta làm công việc
phân phối này rất kỹ lưỡng trước ngày an cư.
Vào đầu giờ Ngọ, các vị khất sĩ đều đã có mặt tại tu viện. Họ
mang bát đứng thành từng hàng dài ở sân cỏ bờ hồ.
Sau khi đã được cúng dường hoặc đã san sẻ thực phẩm xin được
cho nhau, mọi người ngồi xuống bãi cỏ và bắt đầu thọ trai trong im lặng.
Buổi trai phạn hoàn tất vào cuối Ngọ. Mọi người quây quần bên
Bụt. Có khi người giảng dạy cho các vị khất sĩ và các vị cư sĩ được dự thính,
có khi người giảng dạy cho các vị cư sĩ, và các vị khất sĩ dự thính. Lại có những
buổi giảng dạy cho thiếu nhi và tất cả những người lớn tuổi của cả hai giới xuất
gia và tại gia dự thính. Thường thường trong các buổi giảng cho trẻ em, Bụt hay
dùng những truyện tiền thân.
Có khi các đại đức cao đệ của Bụt đứng ra giảng dạy thay Bụt.
Những lúc ấy, Bụt ngồi nghe, và người thường mở lời khen ngợi khi đạo lý giải
thoát được diễn bày một cách đúng mức và thông minh.
Sau buổi thuyết pháp, giới đệ tử tại gia ra về. Mọi người có
được một thời gian nghỉ ngơi.
Sau đó chuông lại báo hiệu giờ thiền tọa và thiền hành.
Các thầy thực tập tham vấn và học hỏi cho đến đầu giờ Hợi mới
đi nghỉ.
Bụt thường thiền tọa cho đến nửa đêm. Người hay bắc chiếc
chõng tre ra trước tịnh xá ngồi cho mát, nhất là vào những đêm có trăng. Mỗi buổi
sáng khi thức dậy, người ưa đi thiền hành, người không cần ngủ nhiều giờ như
các vị khất sĩ trẻ tuổi. Đại đức Kassapa cũng thức rất khuya để thiền tập.
Vua Bimbisara rất siêng năng đến Trúc Lâm để thăm Bụt và tăng
đoàn. Vua không đem theo hàng trăm người như lần đầu đi gặp Bụt ở Rừng Kè. Những
lần đi thăm Bụt ở Trúc Lâm, vua chỉ đem theo hoàng hậu Vaidehi và thái tử
Ajatasattu. Có khi vua đến một mình. Để xe tứ mã và quân hầu phía ngoài tu viện,
vua đi bộ vào tịnh xá của vị đại sa môn.
Có một hôm thấy các vị khất sĩ ngồi trong mưa để nghe giảng,
vua bạch với Bụt xin xây cất một Pháp đường trong đó chư vị xuất gia có thể thọ
trai và nghe Pháp. Được sự chấp thuận của Bụt, Pháp đường được xây dựng ngay
sau cuộc viếng thăm của vua. Pháp đường không những che mưa nắng cho trên một
ngàn vị xuất gia mà còn che mưa nắng được cho khoảng một ngàn vị đệ tử cư sĩ nữa.
Từ hôm Pháp đường được xây dựng xong, đời sống của tu viện đã
bắt đầu có đủ tiện nghi.
Bụt đưa vua vào thăm tịnh xá bằng tre của mình và mời vua ngồi
thử trên chiếc chõng tre của Bụt. Thầy thị giả của Bụt cũng đã đóng cho Bụt hai
chiếc ghế bằng tre để Bụt tiếp khách. Một hôm Bụt mời vua ngồi chơi với Bụt
trên những chiếc ghế tre đặt trước tịnh xá. Sau một hồi đàm đạo, vua tâm sự:
– Trẫm có một đứa con trai khác mà Bụt chưa gặp. Trẫm rất muốn
nó và mẹ nó tới thăm ngài. Thưa Thế Tôn, mẹ nó không phải là hoàng hậu Vaidehi.
Mẹ nó tên là Ambapali, nó tên là Jivaka, năm nay mười sáu tuổi. Mẹ nó cư trú tại
Vesali, phía Bắc thành phố Pataliputta. Ambapali không ưa đời sống chật hẹp
trong cung cấm. Ambapali không màng chức tước và địa vị. Nàng chỉ thích tự do.
Trẫm đã ban cho hai mẹ con mấy cơ sở tự túc kinh tế, trong đó có một vườn xoài
rất đẹp. Jivaka rất thông minh và đôn hậu. Jivaka cũng không thích chính trị và
quyền binh. Hiện nó đang ở gần thủ đô và đang học nghề y sĩ.
Trẫm thương nó lắm, cầu xin Bụt thương nó như trẫm đã thương.
Nếu được đức Từ Bi chấp nhận, trẫm sẽ bảo nó về đây thăm ngài và để được học hỏi
với ngài.
Bụt mỉm cười lặng thinh, đó là dấu hiệu người ưng thuận. Vua
chắp tay chào Bụt và từ giã.
Một buổi chiều hôm nọ, có hai người khách đặc biệt tới viếng
Bụt ở tu viện Trúc Lâm. Hai người ấy đến từ quê hương của Bụt, kinh đô
Kapilavatthu. Đó là Kaludayi và Channa. Kaludayi là bạn học từ thuở bé của Bụt,
và Channa là người ngày xưa thường đánh xe đưa Bụt đi. Cuộc gặp gỡ này làm ấm cả
Trúc Lâm tịnh xá.
Bụt xa nhà đã bảy năm, và người rất muốn được nghe tin tức
nhà. Người hỏi thăm Kaludayi về phụ vương, hoàng hậu, Yasodhara, Nanda, Sundari
Nanda, Rahula và tất cả những người thân thuộc.
Kaludayi tuy còn rất khỏe nhưng nét mặt đã dạn dày gió bụi.
Channa thì đã già hẳn đi.
Hai người được Bụt tiếp chuyện rất lâu trước túp lều tranh của
người.
Kaludayi đã có chức tước quan trọng trong triều và đã trở nên
một trong những người phụ tá thân tín của vua Sudhodana. Ông nói là tin Bụt
thành đạo và đang hằng hóa ở vương quốc Magadha đã được chuyển về Kapilavatthu
liên tiếp từ hai tháng nay. Ai nghe tin này cũng mừng rỡ. Mừng rỡ nhất là vua,
hoàng hậu, và Gopa. Khi nguồn tin đã được liên tiếp xác nhận, vua đã ủy thác
cho Kaludayi đi mời Bụt trở về quê hương.
Kaludayi rất sung sướng được vua giao cho trách vụ này. Ông để
ra ba hôm để chuẩn bị chuyến đi, và suốt cả mấy đêm ông không ngủ được vì náo nức
trong dạ. Ông đã qua thăm Yasodhara để trình bày với phu nhân về chuyến đi. Phu
nhân mừng rỡ và đề nghị cho Channa đi theo. Khi được báo tin là sẽ được cùng
thượng quan Kaludayi đi mời Bụt, Channa đã mừng rơi nước mắt. Hai thầy tớ đã đi
gần một tháng mới tới được tu viện Trúc Lâm.
Theo lời Kaludayi thì sức khỏe vua Sudhodana đã có phần suy
giảm. Ngài vẫn còn sáng suốt, và hiện nay ngài có đủ người phụ tá giỏi trong
công việc triều chính. Hoàng hậu Gotami vẫn còn rất tráng kiện. Hoàng tử Nanda
đã lớn và đã đính ước với một tiểu thư con nhà dòng dõi tên là Kalyani. Nanda rất
đẹp trai và rất ưa chưng diện, nhưng tính tình không được cương nghị cho mấy.
Sundari Nanda em gái Bụt đã trở nên một cô thiếu nữ kiều diễm.
Phu nhân Yasodhara thì từ ngày Bụt đi đã bỏ hết mọi đồ trang
sức. Bà ăn mặc rất giản dị, bao nhiêu vật quý giá trong cung bà đã cho đem bán
hết để lấy tiền giúp vốn cho những gia đình túng quẫn nhất ở các xóm nghèo.
Nghe nói Bụt mỗi ngày chỉ ăn một bữa, bà cũng bắt đầu mỗi ngày chỉ ăn một bữa.
Bà vẫn còn làm việc từ thiện xã hội như xưa với sự góp sức của hoàng hậu
Gotami. Rahula đã trở thành một cậu bé bảy tuổi xinh đẹp, mạnh khỏe, hai mắt
đen láy, thông minh và quả cảm. Rahula rất được ông nội và bà nội cưng quý,
cưng quý không khác gì cưng quý Siddhatta ngày xưa.
Những điều Kaludayi đã nói được người đánh xe Channa xác định.
Bụt ngồi nghe và cảm thấy rất ấm lòng. Cuối cùng, Kaludayi hỏi Bụt chừng nào
người có thể lên đường trở lại quê hương, Bụt nói:
– Đầu mùa Xuân, tôi sẽ về. Bây giờ là đang là mùa mưa, việc
du hành đã trở nên không thuận lợi. Với lại trong số một ngàn hai trăm năm mươi
vị khất sĩ, có rất nhiều vị còn non yếu trên con đường thực tập. Sau mùa an cư
này họ sẽ vững vàng hơn, và tôi có thể an tâm hơn để ra đi. Kaludayi! Bạn hãy ở
lại đây chơi một tháng, Channa cũng vậy. Sau đó các vị có thể về nước và báo
tin cho phụ vương ta hay là đầu mùa Xuân ta sẽ lên đường trở lại quê hương.
Kaludayi và Channa lưu lại tu viện Trúc Lâm như người khách.
Họ làm quen với các vị khất sĩ. Họ thấy được nếp sống thanh tịnh an lạc của người
xuất gia. Họ thấy được ảnh hưởng của đạo giải thoát trên tâm hồn và trong nếp sống
hàng ngày của người xuất gia. Kaludayi ngày nào cũng được gần Bụt. Ông quán sát
Bụt rất kỹ. Ông thấy được sự thảnh thơi mầu nhiệm của Bụt. Con người này đã đạt
tới chỗ không còn mong muốn hay tìm cầu một cái gì khác nữa.
Bụt như một con cá thảnh thơi trong nước, như một đám mây thảnh
thơi trên trời. Người hoàn toàn an trú trong hiện tại. Cái nhìn và nụ cười của
Bụt chứng minh rằng Bụt đã đạt tới tự do tuyệt đối của tâm linh. Không còn gì
có thể ràng buộc được con người này, nhưng cũng không ai có được sự hiểu biết
và lòng thương yêu rộng lớn và không điều kiện của người. Kaludayi thấy người bạn
học năm xưa đã bỏ mình xa quá trên con đường tâm linh. Ông bỗng ao ước được sống
đời sống tịnh lạc của một kẻ xuất gia dưới sự hướng dẫn của Bụt. Ông muốn bỏ hết
địa vị, chức tước và những lo lắng phiền muộn của cuộc sống lợi danh. Sau ngày
thứ bảy cư trú tại Trúc Lâm, ông ngỏ ý xin Bụt xuất gia.
Bụt hơi tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng người đã gật đầu ưng thuận.
Channa là một người hầu cận rất trung thành. Thấy Kaludayi được
xuất gia, ông cũng muốn được xuất gia.
Nhưng ông nghĩ rằng ông không thể xuất gia nếu không được
phép lệnh bà Yasodhara trước.
Vì vậy ông tự bảo phải chờ đến khi Bụt trở về Kapilavatthu.
Chương 32 - Ngón tay chỉ mặt trăng
Một buổi chiều nọ, hai vị đại đức Sariputta và Moggallana đến
thăm Bụt nơi tịnh xá của người và giới thiệu với Bụt một người quen thân của họ,
du sĩ Dighanakha. Du sĩ Dighanakha không phải là đệ tử của đạo sĩ Sanjaya nhưng
cũng rất nổi tiếng, Dighanakha là cậu ruột của đại đức Sariputta. Nghe nói hai
người thân nhất của mình đã xuất gia theo Bụt, ông tìm tới để hỏi thăm Bụt về
giáo pháp của người. Thay vì mô tả và tường thuật, hai vị đưa ông đến trực tiếp
gặp Bụt.
Dighanakha nói với Bụt:
– Sa môn Gotama, ngài dạy giáo pháp gì? Chủ thuyết của ngài
là chủ thuyết nào? Riêng tôi, tôi không thích một chủ trương hay một lý thuyết
nào hết. Tôi không tin vào một chủ trương hay một lý thuyết nào hết.
Bụt mỉm cười hỏi:
– Vậy ngài có thích cái chủ trương “không thích” của ngài
không? Ngài có tin cái chủ trương “không tin” của ngài không?
Vị du sĩ ngỡ ngàng. Ông ta nói liều:
– Sa môn Gotama, tôi thích hay không thích, tôi tin hay không
tin, thì cũng như vậy thôi, điều đó không quan hệ gì mấy.
Bụt từ tốn:
– Một khi đã bị kẹt vào một chủ thuyết rồi thì người ta mất hết
tự do, người ta trở nên độc đoán, cho rằng chỉ có chủ thuyết của mình mới là
chân lý còn tất cả những chủ thuyết khác đều là tà đạo. Những tranh chấp và cãi
cọ được phát sinh từ thái độ cố chấp này. Những tranh chấp và cãi cọ ấy có thể
kéo dài bất tuyệt, làm mất rất nhiều thì giờ quý báu và có thể tạo ra xung đột
và chiến tranh. Vì vậy cho nên kiến thủ là trở ngại lớn lao nhất trên con đường
tu học.
– Kiến thủ là gì?
– Kiến là nhận thức, là quan điểm. Thủ là sự cố chấp. Kiến thủ
là cố chấp vào một nhận thức hay một quan điểm. Cố chấp như vậy là bị kẹt, vì bị
kẹt cho nên cánh cửa chân lý không còn cơ hội mở ra cho mình nữa.
Này ông bạn, để tôi kể cho ông bạn nghe câu chuyện này. Có một
người lái buôn góa vợ kia đang sống với một đứa con trai năm tuổi. Anh ta cưng
chiều con, xem đứa nhỏ là lẽ sống của đời mình. Một bữa nọ trong khi anh ta bỏ
hàng đi vắng, kẻ cướp đến đốt xóm đốt làng, cướp bóc và bắt đứa con của anh đi
theo. Khi về tới nơi, người cha trẻ thấy thi hài một em bé cháy đen nằm bên căn
nhà đã cháy rụi của mình, anh ta tin ngay rằng con mình đã chết. Anh ta khóc
lóc, làm lễ hỏa thiêu thân xác đứa bé, vì thương con quá, anh ta cất tro của đứa
bé vào một cái túi gấm và đi đâu cũng mang theo bên mình. Mấy tháng sau, đứa
con của anh ta thoát được tay kẻ cướp và tìm về được vào lúc nửa đêm. Nó gõ cửa
đòi vào. Lúc ấy người cha trẻ đang ôm chiếc túi gấm đựng tro và than khóc một
mình. Anh ta không chịu đứng dậy mở cửa. Anh ta tin rằng con anh đã chết thật rồi,
và đứa trẻ đang gõ cửa ngoài kia là một đứa trẻ hàng xóm mất dạy nào đó đang cố
tình trêu ghẹo anh. Vì vậy mà đứa con thật của anh ta phải thất thểu ra đi, và
người cha khốn khổ kia vĩnh viễn mất đứa con duy nhất.
Này ông bạn, nếu ta cố chấp vào một chủ nghĩa và cho đó là
chân lý tuyệt đối, ta sẽ lâm vào tình trạng của người cha trẻ kia. Ta sẽ không
mở lòng ta ra được để đón nhận chân lý. Ta sẽ có cảm tưởng rằng ta không cần đi
tìm sự thật nữa, vì ta đã có sự thật rồi. Lúc ấy nếu sự thật có tới gõ cửa tìm
ta, ta cũng sẽ từ chối không mở cửa.
Dighanakha hỏi:
– Vậy giáo pháp của ngài dạy có phải là một chủ nghĩa không?
Cố chấp vào nó có phải là kiến thủ không?
– Giáo pháp của tôi chỉ dạy không phải là một chủ nghĩa hay một
lý thuyết. Nó không hình thành do công phu suy tư và ức đạt của trí năng, như
những chủ thuyết chủ trương về bản chất của vũ trụ, cho rằng bản chất ấy là lửa,
nước, là đất, là gió hay là thần linh hoặc cho rằng vũ trụ hữu hạn hay vô hạn,
hữu biên hay vô cùng v.v…
Trí năng ức đạt và suy tư về sự thật cũng như con kiến bò
quanh miệng bình bát không đưa ta đi đến đâu cả.
Không, giáo pháp của tôi dạy không phải là một chủ thuyết xây
dựng trên trí năng. Đó là kinh nghiệm thực chứng, những gì tôi nói ra tôi đều
đã thực chứng, và ông bạn cũng có thể kiểm điểm lại bằng kinh nghiệm thực chứng
của ông bạn. Tôi nói vạn vật là vô thường và không có tư ngã. Điều này tôi đã
chứng nghiệm và các bạn cũng có thể chứng nghiệm. Tôi nói vạn vật nương vào
nhau mà sinh khởi, tồn tại, và hoại diệt, chứ không phải xuất phát từ một
nguyên nhân đầu tiên nào hết. Điều này tôi cũng đã chứng nghiệm và các bạn cũng
có thể chứng nghiệm. Tôi nói quán chiếu về vô thường, vô ngã và duyên sinh thì
có thể đạt tới giải thoát và an lạc. Điều này tôi cũng đã chứng nghiệm và các bạn
cũng có thể chứng nghiệm. Những điều tôi nói không có mục đích thuyết minh về
vũ trụ mà chỉ có mục đích hướng dẫn sự thực tập và chứng nghiệm thực tại. Lời
nói không diễn tả được thực tại, chỉ có kinh nghiệm trực tiếp mới làm cho ta tiếp
xúc được với thực tại.
Dighanakha thốt lên:
– Hay quá, hay quá, sa môn Gotama! Nhưng trong trường hợp mà
có người nhận thức giáo pháp của ngài như một chủ thuyết thì sao?
Bụt im lặng gật đầu:
– Du sĩ Dighanakha, câu hỏi của ông bạn hay lắm. Giáo pháp của
tôi không phải là một chủ thuyết do trí năng tạo dựng, nhưng sau này và ngay cả
bây giờ nữa, có thể đã có những người nhận giáo pháp ấy như một chủ thuyết. Tôi
cần nói rõ: giáo pháp của tôi là một phương tiện để đi vào thực tại chứ không
phải là để miêu tả thực tại, cũng như ngón tay chỉ lên mặt trăng không phải là
mặt trăng. Người khôn khéo phải nương vào ngón tay để thấy được mặt trăng. Nếu
cố chấp vào ngón tay, nếu cho ngón tay là mặt trăng thì sẽ không có cơ hội nào
thấy được mặt trăng cả. Giáo pháp của tôi là để thực tập chứ không phải là để cất
giữ mà thờ phụng và ca ngợi. Chiếc bè là để giúp ta qua sông chứ không phải để
ta vác lên trên vai mà tự hào. Này các bạn, giáo pháp tôi dạy cũng như một chiếc
bè. Phải sử dụng nó để đi sang bên bờ bên kia, bờ giải thoát.
– Xin Bụt chỉ bày cho tôi con đường có thể vượt thoát được những
cảm thọ sầu khổ.
– Cảm thọ có ba loại: cảm thọ dễ chịu, cảm thọ khó chịu và cảm
thọ không dễ chịu cũng như không khó chịu. Cả ba loại cảm thọ đều có gốc rễ hoặc
trong thân thể hoặc trong tâm ý và nhận thức. Cảm thọ có sinh có diệt như bất cứ
hiện tượng tâm vật lý nào. Phương pháp tôi chỉ bày là phương pháp quán chiếu.
Quán chiếu để có thể thấy được bản chất và nguồn gốc của các cảm thọ, dù là lạc
thọ, khổ thọ hay xả thọ. Thấy được nguồn gốc của các cảm thọ rồi, ta sẽ thấy được
bản chất của cảm thọ. Ta sẽ thấy cảm thọ cũng có tánh vô thường và vô ngã như tất
cả các pháp khác. Sự sinh diệt của chúng dần dần sẽ không động được tới ta. Hầu
hết các cảm thọ khổ đau của ta đều bắt nguồn từ nhận thức sai lầm của ta về thực
tại. Nhổ bật gốc rễ của những sai lầm ấy lên thì khổ thọ không còn. Các vị nên
biết: nhận thức của con người đầy dẫy sai lầm. Vạn pháp vô thường mà cho là thường,
vạn pháp vô ngã mà cho là ngã. Đó là vô minh. Vô minh là nguồn gốc của khổ đau.
Tu tập đạo giải thoát tức là diệt trừ vô minh của nhận thức. Điều này quý vị chỉ
có thể thực tập bằng phép quán chiếu chứ không thể thực tập bằng cách cầu nguyện
và tế tự.
Trong khi Bụt nói, các đại đức Sariputta và Moggallana đều có
mặt. Họ đứng sau lưng người. Kaludayi cũng có mặt. Thầy thị giả Nagasamala cũng
có mặt. Channa cũng có mặt. Nhưng người thấu đạt sâu sắc những lời Bụt nói là đại
đức Sariputta. Thầy thấy tâm trí thầy sáng lên như có một mặt trời tỏa chiếu.
Không ngăn được xúc cảm, thầy chắp tay sụp lạy xuống trước mặt Bụt.
Moggallana cũng cảm động không kém. Thấy bạn lạy xuống, thầy
cũng lạy xuống. Du sĩ Dighanakha đã thấy thấm thía từ lúc Bụt kể chuyện người
cha trẻ mất con, bây giờ được hoàn toàn chinh phục. Thấy hai bạn lạy xuống, ông
cũng lạy xuống. Ông xin Bụt được xuất gia theo học với người.
Kaludayi và Channa được chứng kiến cảnh tượng này rất lấy làm
cảm động.
Trong họ nảy sinh vừa niềm tin tưởng vừa sự tự hào.
Mấy hôm sau đó, hoàng hậu Vaidehi cùng người của hoàng gia
đưa thực phẩm đến cúng dường đại chúng. Hoàng hậu lại đem theo cả một cây bông
sứ để trồng phía bên trái túp lều của Bụt. Hoàng hậu nhớ mãi câu chuyện tiền
thân về cây bông sứ mà Bụt đã kể cho trẻ em tại sân rồng hơn một tháng trước.
Dưới sự hướng dẫn của Bụt, đại chúng tu học rất tinh tiến và
đạt được rất nhiều tiến bộ. Các đại đức Sariputta và Moggallana đã trở nên những
ngôi sao sáng nhờ sự thông minh, công phu hành trì và tài lãnh đạo của họ. Cùng
với các vị đại đức khác như Kondanna và Kassapa, họ giúp Bụt tổ chức và hướng dẫn
tăng đoàn một cách rất hữu hiệu. Uy tín của tăng đoàn càng ngày càng lên cao và
vì vậy tại thủ đô Rajagaha đã bắt đầu có một luồng dư luận nói xấu Bụt.
Nguồn dư luận này có thể đã phát xuất từ những giáo phái có
tư tưởng cạnh tranh. Các vị đệ tử tại gia đến tu viện Trúc Lâm để cúng dường và
học hỏi thỉnh thoảng lại nói đến nguồn dư luận này. Người ta đồn đãi rằng từ
khi Bụt đến thành Vương Xá, người đã quyến rũ hàng ngàn thanh niên tuấn tú theo
một đạo mới. Họ nói không biết sau này bao nhiêu ngàn người con trai nữa sẽ bỏ
nhà bỏ cửa theo Bụt, và bao nhiêu người con gái lớn lên sẽ không lập được gia
đình và nối dõi được tổ tông.
Một số các vị khất sĩ không mấy hài lòng khi nghe những lời
buộc tội này. Rốt cuộc tiếng đồn tới được tai Bụt. Bụt an ủi các vị khất sĩ và
các vị đệ tử tại gia: “Quý vị đừng phiền muộn về những lời đồn đãi đó. Những lời
đồn đãi đó trước sau gì cũng sẽ im bặt”.
Mà đúng như thế.
Chỉ trong vòng nửa tháng sau, không ai còn nói đến luồng dư
luận kia nữa.
Chương 33 - Cái đẹp không tàn hại
Một hôm nọ, khi mùa an cư chỉ còn nửa tháng nữa thì được hoàn
mãn, có một người thiếu phụ rất đẹp đến viếng thăm Bụt. Người thiếu phụ này đi
xe song mã. Hai con ngựa đều trắng và xe cũng sơn màu trắng. Thiếu phụ bước xuống
xe cùng với một cậu con trai khoảng mười lăm hay mười sáu tuổi. Thiếu phụ trang
sức cực kỳ lộng lẫy và dáng đi rất quý phái. Tại cổng tu viện bà gặp một vị khất
sĩ trẻ tuổi và hỏi thăm về Bụt. Vị khất sĩ này hướng dẫn bà và cậu con trai vào
đến tận túp lều của Bụt. Bụt không có đó. Người đang đi thiền hành. Vị khất sĩ
mời thiếu phụ và cậu con trai ngồi xuống trên hai chiếc ghế tre đặt trước sân tịnh
xá. Chiếc ghế thứ ba là để Bụt ngồi.
Một lát sau Bụt về tới, cùng với Kaludayi, Sariputta và thầy
thị giả. Thiếu phụ và cậu con trai cùng đứng dậy vái chào người. Bụt mời hai mẹ
con an tọa. Người cũng ngồi xuống chiếc ghế đặt sẵn cho người. Người biết đây
là ca nương Ambapali và cậu con trai là Jivaka.
Kaludayi chưa bao giờ thấy một người đàn bà đẹp như thế và
duyên dáng như thế. Thầy chỉ mới đi tu được có một tháng nên thầy bỡ ngỡ, không
biết nhìn ngắm một người đàn bà đẹp như vậy thì có đúng phép không. Nghĩ như vậy,
thầy nhìn xuống đất. Thầy thị giả Nagasamala cũng có phản ứng giống hệt như vậy.
Cả hai thầy đều nhìn xuống đất. Duy chỉ có Bụt và Sariputta là nhìn thẳng vào mặt
thiếu phụ mà thôi.
Sariputta nhìn thiếu phụ rồi xoay sang nhìn Bụt. Thấy sắc diện
của Bụt không khác gì sắc diện của một mặt trăng rằm, tự nhiên, hiền lành,
trong sáng. Phút chốc, thầy cảm thấy cái tự tại và an lạc của Bụt thấm vào lòng
thầy.
Thiếu phụ có tên là Ambapali cũng đang nhìn Bụt. Bà chưa thấy
ai nhìn bà như vậy bao giờ. Từ xưa tới nay mỗi khi có một người đàn ông hay một
thanh niên nhìn bà, bà đều thấy trong ánh mắt người đó hoặc một thoáng bối rối,
hoặc một thoáng ao ước, hoặc một dự tính chiếm hữu. Bụt đang nhìn bà như đang
nhìn một đám mây, một dòng sông hay một bông hoa. Hình như người thấy được tận
trong chiều sâu thẵm của tâm hồn bà.
Ambapali chắp tay bạch Bụt:
– Con là Ambapali, và đây là con trai của con, Jivaka, năm
nay mười lăm tuổi. Cháu nó đang học nghề y, con đã được nghe nói về thầy và con
rất ao ước cháu sẽ được có duyên tới học hỏi cùng thầy.
Bụt hỏi thăm Jivaka về chuyện học văn và đời sống của chàng,
Jivaka trả lời rất lễ phép. Đây là một chàng trai đôn hậu, hiền lành và thông
minh. Cùng cha khác mẹ với thái tử Ajatasattu, nhưng chàng trông có đức độ hơn
và cũng có vẻ thông minh hơn. Sau một vài câu chuyện với Bụt, Jivaka bỗng thấy
trào dâng trong lòng một mối cảm tình sâu đậm đối với ông thầy tu này. Chàng tự
hẹn là sau khi học xong nghề thuốc chàng sẽ xin ở gần bên Bụt.
Ambapali đã tưởng rằng Bụt chỉ là một ông thầy tu nổi tiếng
như những ông thầy tu nổi tiếng khác mà bà đã gặp, nhưng không, bà chưa từng gặp
một người nào như Bụt. Bà chưa từng thấy ai có cái nhân cách như nhân cách Bụt.
Cái nhìn của Bụt hiền dịu làm sao. Bà có cảm tưởng là bà không cần than thở gì
với Bụt mà Bụt vẫn thấy và hiểu được những niềm khổ đau sâu kín trong tâm bà.
Được nhìn Bụt và được Bụt nhìn như thế, bà đã thấy vơi bớt rất nhiều nỗi khổ. Một
giọt nước mắt ứa ra trên khóe mi bà. Bà nói:
– Lạy thầy, đời con khổ lắm. Tuy rằng con không thiếu thốn gì
trên phương diện tiền của và vật chất nhưng con chưa bao giờ có được một niềm
tin. Hôm nay là ngày sung sướng nhất của đời con.
Ambapali là ca nhi, nhưng nàng không hát cho bất cứ ai muốn
nghe nàng hát. Những người mà nàng không ưa hoặc nàng nhận thấy thiếu phong độ
và tư cách thì dù có đem đến cả trăm vạn đồng nàng cũng từ chối. Từ năm mười
sáu tuổi, nàng đã gặp một cuộc tình trắc trở. Sau đó, nàng đã gặp vua Bimbisara
khi vua còn là thái tử. Có những người trong triều đã không muốn hoàng gia công
nhận Jivaka là con của thái tử. Họ nói Jivaka là con hoang mà thái tử bắt gặp ở
trong một cái thúng để ở bên vệ đường. Điều này cũng đã làm cho Ambapali đau khổ.
Nàng đã gánh chịu rất nhiều khổ đau vì ghen ghét và vì thù hận. Nàng trân quý tự
do như bảo vật duy nhất còn lại trong đời, cho nên từ ấy đến nay không ai và
chưa ai trói buộc được nàng.
Bụt dạy:
– Nhan sắc cũng chịu luật sinh diệt và cũng sẽ tàn phai như
bao nhiêu hiện tượng khác. Của cải và sự giàu sang cũng vậy. Chỉ có niềm an lạc
và cái tự do công phu quán chiếu đem tới mới là niềm vui chân thật mà thôi. Này
Ambapali, đã đến lúc con phải tập đời sống tỉnh thức an lạc. Phải trân quý từng
giây phút còn lại của đời mình, đừng lãng phí chúng trong sự vui chơi quên
lãng. Điều này rất quan trọng cho con và cho Jivaka.
Rồi Bụt dạy cho Ambapali cách tổ chức lại đời sống hàng ngày,
cách hành trì năm giới, cách thở, cách ngồi, cách sử dụng thì giờ, cách cúng dường
và làm việc phúc thiện. Ambapali sung sướng ngồi nghe những lời dạy quý báu của
Bụt. Cuối cùng trước khi từ giã Bụt, bà nói:
– Tại ngoại ô thành Vesali, con có một vườn xoài rất mát và rất
thanh tịnh. Con mong có ngày đi hoằng hóa ngang đó, Bụt và chư vị khất sĩ sẽ
ghé nơi ấy để nghỉ ngơi. Đây sẽ là một vinh hạnh lớn cho con và cho Jivaka.
Kính xin đức Từ Bi hoan hỷ nhận lời cho con.
Bụt mỉm cười nhận lời.
Ambapali đi rồi, thầy Kaludayi xin phép được ngồi xuống bên Bụt.
Thầy thị giả cũng mời đại đức Sariputta ngồi xuống trên chiếc ghế còn lại, còn
thầy thì vòng tay đứng hầu sau lưng Bụt. Một số các vị khất sĩ đang đi thiền
hành gần đấy thấy khung cảnh ấm cúng cũng ghé vào. Đại đức Sariputta mỉm cười
nhìn Kaludayi, rồi nhìn thầy thị giả Nagasamala. Cuối cùng thầy hỏi Bụt:
– Lạy đức Thế Tôn, người tu hành nên có thái độ nào đối với nữ
sắc? Cái đẹp, nhất là nữ sắc, có phải là một trở ngại cho công phu tu tập
không?
Bụt mỉm cười. Người biết Sariputta hỏi câu hỏi này không phải
là để cho bản thân thầy mà là cho các thầy khác. Người nói:
– Các vị khất sĩ, tự tính của vạn pháp vượt ra ngoài ý niệm đẹp
và xấu. Đẹp và xấu là những ý niệm tạo ra do tri giác và nhận thức dung thường.
Đứng về tục đế mà nói, ta thấy có đẹp và có xấu. Đẹp và xấu
tùy thuộc rất nhiều vào cơ cấu của năm uẩn. Đối với con mắt của người nghệ sĩ,
cái gì cũng có thể đẹp và cái gì cũng có thể xấu, một dòng sông, một đám mây, một
chiếc lá, một bông hoa, một tia nắng sớm hay một buổi chiều vàng đều có thể có
cái đẹp riêng của nó. Những bụi tre vàng xung quanh đây cũng có những vẻ đẹp
riêng của chúng, Nhưng chưa có cái đẹp nào có thể trói buộc và làm tiêu ma chí
khí của một kẻ nam nhi bằng nữ sắc. Tham đắm vào nữ sắc rồi thì chí nguyện có lớn
lao đến mấy và sự nghiệp có lẫy lừng đến mấy cũng có thể bị tàn hại. Vì vậy tôi
muốn căn dặn quý vị hãy rất cẩn thận đối với nữ sắc.
Đối với những người đã quán chiếu và đạt đạo, cái đẹp vẫn là
cái đẹp, những vị đã đạt tới giải thoát và tự do, họ không còn bị cái đẹp hay
cái xấu khống chế nữa. Không phải là họ dửng dưng không thấy cái đẹp; sự thực
là họ không bị nô lệ cho cái đẹp. Nhìn vào cái đẹp, họ thấy được những cái
không đẹp đã góp phần làm ra cái đẹp. Nhìn vào cái xấu, họ thấy được những cái
không xấu đã góp phần làm ra cái xấu. Họ thấy được tính cách vô thường của vạn
pháp, đẹp cũng như xấu, vì vậy họ không bị cái xấu làm cho chán nản cũng không
bị cái đẹp làm cho đam mê. Đối với những người tu hành chưa đủ công phu quán
chiếu, chưa có được bản lĩnh nhận thức, tôi muốn khuyên họ đừng gần gũi nữ sắc.
Những vị này phải để hết thì giờ vào việc học hỏi và thiền tập.
Chỉ có một cái đẹp không bao giờ tàn hoại và không gây khổ
đau: đó là lòng từ bi và tâm giải thoát. Từ bi là thứ tình thương không có điều
kiện và không cần sự đền trả. Tâm giải thoát cũng là thứ tâm không thối chuyển,
như con gà con một khi ra khỏi vỏ trứng rồi thì không còn chui trở lại nằm
trong vỏ trứng nữa. Đã không còn lệ thuộc vào điều kiện cho nên cái đẹp của
lòng từ bi và tâm giải thoát là cái đẹp chân thực, và niềm an lạc do cái đẹp ấy
cống hiến cũng do đó mà là thứ an lạc chân thực. Này các vị khất sĩ, các vị hãy
tinh tiến mà thực hiện cho được cái đẹp ấy.
Kaludayi và các vị khất sĩ có mặt đều rất sung sướng được
nghe lời Bụt dạy.
Mùa an cư đã được hoàn mãn. Bụt cho gọi Kaludayi và Channa,
và đề nghị hai người về Kapilavatthu trước một tháng để báo tin là Bụt sẽ về.
Kaludayi lĩnh mệnh.
Ngay ngày hôm đó thầy và Channa chuẩn bị cho chuyến hồi
hương, Kaludayi đã trở nên một kẻ xuất gia, có đủ uy nghi của một vị khất sĩ rồi.
Ông nghĩ thế nào khi về tới quê nhà ông cũng sẽ làm cho mọi người ngạc nhiên.
Ông vui mừng vì được giao trách vụ về báo tin mừng, nhưng ông cũng tiếc là thời
gian được học hỏi với Bụt tại Trúc Lâm còn ngắn ngủi quá.
Chương 34 - Mùa xuân đoàn tụ
Công viên Nigrodha ở về phía Nam Kapilavatthu, cách kinh
thành non ba dặm đường, Bụt và các vị khất sĩ tùy tùng nghỉ tại đây, theo lời đề
nghị của khất sĩ Kaludayi. Đi theo Bụt về quê hương người có khoảng ba trăm vị
khất sĩ do đại đức Sariputta dẫn đầu. Đại đức Moggallana ở lại tu viện Trúc Lâm
và cùng các vị cao đức khác như Kondanna với ba anh em khất sĩ Kassapa lãnh đạo
và duy trì nếp sống tu học của tu viện.
Kaludayi sau khi đã về báo tin cho vua, hoàng hậu và
Yasodhara ngày về của Bụt, lại một mình ôm bát ra đi. Lần này thầy không đi với
Channa. Thầy đi một mình với tư cách một du tăng, hướng về phương Nam để đón Bụt.
Thầy áp dụng phép khất thực của giáo đoàn khất sĩ, ngày đi đêm nghỉ. Chỉ dừng lại
các thôn lạc vào giờ khất thực mà thôi. Tới đâu thầy cũng báo tin là thái tử
Siddhatta đi tu hành thành đạo sắp sửa trở về. Đi được chín hôm thì thầy gặp Bụt
và đoàn khất sĩ từ phương Nam đi lên. Mừng rỡ, thầy gia nhập phái đoàn và cùng
đi về hướng Bắc. Bụt và giáo đoàn khất sĩ được tiếp đón niềm nở bất cứ nơi nào
ghé đến.
Về tới Kapilavatthu, Bụt và các vị khất sĩ nghỉ một đêm tại
công viên Nigrodha. Sáng hôm sau người ôm bát cùng tăng đoàn đi vào kinh thành
khất thực.
Cảnh tượng ba trăm vị khất sĩ khoác cà sa vàng, tay ôm bình
bát, lặng lẽ và trang nghiêm đi khất thực trong thành phố đã gây một ấn tượng lớn
trong lòng người thủ đô. Chẳng mấy chốc mà tin này được báo vào hoàng cung. Vua
Suddhodana, hoàng hậu và phu nhân Yasodhara được báo rằng Siddhatta hiện đang ở
trong thành cùng đi xin ăn với hàng trăm vị khất sĩ khác. Vua truyền đánh xe ngự
ra để vua đi gặp thái tử. Hoàng hậu Gotami hồi hộp chờ trong cung. Hai mẹ con
Rahula cũng hồi hộp chờ trong cung. Xa giá vừa ra tới phố Đông thì vua gặp được
đoàn khất sĩ.
Siddhatta có mặt trong đoàn khất sĩ ấy và vị võ quan hầu cận
bên vua nhận ra ngay thái tử.
– Tâu bệ hạ, bệ hạ nhìn vị khất sĩ đi đầu, người mang chiếc
cà sa dài màu hỏa hoàng kia.
Vua chợt nhận ra người con của mình, dáng điệu của Bụt uy
nghi, từ tốn, người Bụt như tỏa chiếu hào quang. Bụt đang ôm bát đứng trước một
ngôi nhà có vẻ nghèo nàn, người đứng trang nghiêm và lặng lẽ, làm như việc xin
ăn là việc quan trọng nhất trong đời. Một lát sau, vua thấy một thiếu phụ ăn mặc
rách rưới từ trong nhà đi ra, trong tay chỉ có một củ khoai nhỏ. Thiếu phụ quỳ
xuống dưới chân Bụt rồi kính cẩn đặt củ khoai ấy trong bình bát của người. Bụt
cũng kính cẩn không kém. Người nghiêng mình đáp lễ thiếu phụ, rồi mới lặng lẽ
giã từ, bước sang ngôi nhà bên cạnh.
Xa giá của vua còn cách Bụt khá xa, nhưng vua bảo ngừng xe để
vua xuống đi bộ. Ngài đi thẳng về phía Bụt. Bụt cũng vừa thấy vua. Hai người tiến
lại gần nhau, dáng đi của vua hấp tấp, nhưng dáng đi của Bụt vẫn thong dong.
– Siddhatta! Vua thốt lên.
– Phụ vương! Bụt trả lời.
Đại đức Nagasamala lúc ấy cũng vừa đi tới bên Bụt. Bụt trao
chiếc bát của người cho thầy thị giả. Người nắm lấy hai bàn tay của vua trong
hai tay người. Mấy giọt nước mắt ứa ra và chảy xuống trên gò má đã bắt đầu nhăn
nheo của vua. Bụt nhìn vua, hai mắt người bao phủ vua với một cái nhìn vừa dịu
dàng vừa đầm ấm.
Vua biết rằng Siddhatta con mình bây giờ đây không còn là một
vị đông cung thái tử nữa mà đã là một nhà tu, một vị lãnh đạo tinh thần. Vua muốn
ôm Bụt vào lòng, nhưng biết làm như vậy là không ổn. Cuối cùng vua chắp hai tay
nghiêng mình trước người con của mình, theo thể thức một vị quốc vương làm lễ một
vị đạo sĩ. Vị võ quan hầu cận cũng bắt chước vua chắp tay nghiêng mình làm lễ Bụt.
Lúc ấy đại đức Sariputta cũng đã đi tới gần bên Bụt. Bụt nói
với Sariputta:
– Tăng đoàn khất thực xong, xin thầy hướng dẫn họ về công
viên Nigrodha để thọ thực và an nghỉ. Thầy Nagasamala sẽ đi theo tôi. Chúng tôi
vào thăm hoàng gia và sẽ thọ thực ở đấy. Chiều nay thầy Nagasamala và tôi sẽ trở
về cùng quý vị.
Khất sĩ Sariputta kính cẩn nhận lệnh của Bụt. Thầy nghiêng
mình làm lễ vua và Bụt rồi quay gót.
Vua nhìn Bụt:
– Ta tưởng con về tới là đi về thăm gia đình ngay. Ai ngờ con
còn đi khất thực ngoài phố. Tại sao con không về thẳng hoàng cung để ăn cơm?
Bụt mỉm cười nhìn cha:
– Con đâu có đi một mình. Con đi với cả giáo đoàn. Giáo đoàn
các vị bikkhu, nghĩa là những người khất sĩ. Con cũng là một vị khất sĩ như mọi
người và vì vậy con phải đi ăn xin như mọi người.
– Nhưng tại sao con phải xin ăn tại những nhà nghèo hèn như
thế? Dòng họ Sakya ta trong bao nhiêu đời có ai làm như con không?
– Thưa phụ vương, dòng họ Sakya thì không ai làm như thế,
nhưng dòng họ khất sĩ thì ai cũng làm như thế. Thưa phụ vương, đi khất thực là
một phép tu nhằm thực hiện tinh thần khiêm cung và bình đẳng. Khi con nhận một
củ khoai của một gia đình nghèo khổ, con cũng có thái độ cung kính như khi con
nhận một món ăn sang trọng do một vị đế vương cúng dường. Thái độ cung kính này
chứng tỏ rằng con đã có thể vượt ra khỏi sự phân biệt sang hèn, và cũng chứng tỏ
rằng bất cứ ai dù nghèo hèn đến mấy cũng có nhân phẩm và cũng có thể đạt tới giải
thoát và giác ngộ. Trong xã hội có nhiều sự chênh lệch về tài sản và quyền thế.
Trong xã hội có rất nhiều bất công. Trong đạo pháp mà con tìm ra, mọi người đều
được hoàn toàn bình đẳng. Đi ăn xin như thế này, con không làm cho nhân cách của
con thấp thỏi đi mà trái lại, con làm cho giá trị của tất cả mọi con người được
sáng tỏ ra. Thưa phụ vương, con mong phụ vương nghĩ tới một đường lối chính trị
mà trong đó phẩm giá của mọi người dân đều được tôn trọng.
Vua Suddhodana há miệng nghe người con trai mình thuyết pháp.
Những lời đồn đãi lâu nay về Siddhatta thì ra đã là sự thật: con mình bây giờ
đã trở nên một vị lãnh đạo tinh thần, và đạo đức của con mình đã bắt đầu chiếu
sáng khắp thế gian.
Cầm tay vua, Bụt đưa vua đi bộ về hoàng cung. Thầy Nagasamala
cũng đi theo sau vua và Bụt.
Trong khi ấy đứng ở lan can trên một từng lầu nơi hoàng cung,
hoàng hậu Gotami, công nương Yasodhara và công chúa Sundari Nanda đã nhìn thấy
hết tất cả những gì xảy ra. Rahula cũng đang đứng gần đấy với một người thị nữ.
Người thị nữ này trước đây khi còn dọn dẹp trên lầu đã trông thấy tăng đoàn
đang khất thực và đã chạy xuống báo với hoàng hậu. Hoàng hậu dắt tay Sundari
Nanda cùng Yasodhara lên lầu. Từ trên cao, ba người nhận ra được Bụt đang dẫn đầu
đoàn người khất sĩ, rồi họ thấy xa giá của vua dừng lại và chứng kiến cuộc gặp
gỡ giữa vua và người con trai lớn của ngài. Họ đã thấy vua vái chào Bụt theo
nghi lễ cần có đối với một vị đạo sĩ lớn.
Bây giờ vua và Bụt đang tiến gần tới cửa hoàng cung.
Yasodhara gọi Rahula lại. Một tay nắm tay con, một tay chỉ xuống Bụt, bà bảo:
– Này con yêu quý của mẹ, con có thấy ông thầy tu đang cầm
tay ông nội và đi vào cửa hoàng cung đó không?
– Dạ con có thấy, Rahula đáp.
– Ông thầy tu ấy là cha của con đó. Con chạy xuống chào cha
con đi. Cha con có gia tài quý báu lắm, cha con sẽ trao gia tài ấy cho con. Con
xuống xin gia tài của con đi.
Rahula nghe lời mẹ, chạy xuống lầu. Trong khoảnh khắc cậu đã
xuống tới sân điện chầu. Cậu chạy ra cửa hoàng cung, rồi cậu chạy lại với Bụt.
Bụt biết ngay cậu bé đang chạy tới là Rahula. Người mở rộng
hai tay ôm lấy cậu bé. Rahula vừa thở hổn hển vừa nói:
– Ông thầy tu ơi, mẹ bảo xuống xin gia tài của ông thầy tu.
Gia tài của con đâu, ông đưa cho con đi.
Bụt vuốt má Rahula. Người nói:
– Gia tài của con hả? Thong thả rồi cha sẽ trao lại cho con.
Bụt nắm lấy tay cậu bé. Người đi ở giữa, tay trái cầm tay
Rahula, tay phải cầm tay vua cha, và ba người tiến vào cung. Hoàng hậu Gotami,
Yasodhara và Sundari Nanda cũng hướng về phía cầu thang đi xuống. Xuống tới sân
điện, ba người thấy vua, Bụt và Rahula đi rẽ vào vườn Thượng Uyển. Ba người
cũng đi theo lối ấy.
Trời mùa Xuân nắng lên rất ấm áp. Ngoài vườn Thượng Uyển tất
cả các loại hoa đều đang nở rộ. Chim chóc ríu rít vang lừng. Bụt đưa vua và
Rahula tới ngồi trên những chiếc cẩm đôn. Thầy Nagasamala cũng được Bụt mời ngồi
xuống trên một chiếc cẩm đôn. Lúc ấy hoàng hậu Gotami, Yasodhara và Sundari
Nanda bước vào vườn Ngự.
Bụt đứng ngay dậy. Người đi tới phía ba người. Hoàng hậu
Gotami, dáng dấp vẫn còn trẻ trung và khỏe mạnh. Bà khoác áo sari màu lá tre
xanh mát. Gopa vẫn xinh đẹp như tự thuở nào tuy nước da có hơi xanh. Chiếc sari
nàng khoác trên người màu trắng như tuyết. Nàng không đeo một thứ phục sức nào
cả, còn cô em gái Bụt năm nay mười sáu tuổi, đang vận sari màu vàng, mắt đen
lay láy. Cả hai vị phu nhân đều chắp tay búp sen trước ngực và cúi đầu rất thấp
để chào Bụt. Họ đã thấy quốc vương làm như thế và họ cũng bắt chước làm như thế.
Bụt chắp tay lại thành búp sen để đáp lễ. Người kêu lên hai tiếng:
– Mẹ! Em!
Nghe tiếng Bụt gọi, bà Gotami và Yasodhara đều rơi nước mắt.
Bụt cầm lấy tay hoàng hậu và đỡ bà ngồi xuống trên một cẩm
đôn. Người hỏi:
– Em Nanda của con đâu?
Hoàng hậu nói:
– Em nó đi tập võ, chắc cũng sắp về tới. Đây là em gái của
con. Con thấy nó mau lớn không?
Bụt nhìn đứa em gái sau gần tám năm xa cách.
– Sundari Nanda, em chóng lớn quá!
Bụt tiến tới cầm lấy tay Yasodhara, bà cảm động đến run rẩy
trong tay Bụt. Người đưa bà tới ngồi xuống trên một chiếc cẩm đôn khác. Khi mọi
người đã an tọa, Bụt mới ngồi xuống trên chiếc cẩm đôn của người. Từ hồi nãy đến
giờ vua không ngớt hỏi thăm Bụt, nhưng bây giờ vua ngồi im lặng. Mọi người đều
ngồi im lặng, kể cả chú Rahula. Bụt nhìn vua, nhìn hoàng hậu, nhìn Yasodhara, rồi
nhìn Sundari Nanda. Niềm vui đoàn tụ được biểu hiện trong mắt của từng người.
Cuối cùng, Bụt lên tiếng:
– Thưa phụ vương, con đã về. Thưa mẹ, con đã về. Gopa, em thấy
không, ta đã về với em.
Lúc ấy hai người phụ nữ mới òa lên khóc.
Những giọt nước của họ là những giọt nước mắt sung sướng. Bụt
để yên cho họ khóc. Người gọi Rahula tới ngồi bên cạnh người, và vuốt tóc chú
bé.
Một lát sau, lệnh bà Gotami lấy chéo áo sari lau khô nước mắt
rồi mỉm cười nói với Bụt:
– Con đi lâu quá. Như vậy là đã hơn bảy năm trời. Con biết
không, Gopa là một người phụ nữ rất can đảm.
Bụt nhìn bà Gotami rồi nhìn Yasodhara. Người nói:
– Điều này con thấy từ lâu rồi. Mẹ và Gopa là hai người phụ nữ
can đảm nhất mà con đã biết. Không những mẹ và Gopa đã gây dựng được ý chí cho
người nam nhi, mẹ và Gopa còn là mẫu mực của những người đàn bà đức hạnh nữa.
Con có duyên lành lắm mới có được mẹ và có được Gopa.
Yasodhara bây giờ mới mỉm cười. Có mặt vua và hoàng hậu, bà
ít khi dám lên tiếng nói chuyện thân mật với Siddhatta.
Vua nói:
– Hồi nãy con có kể sơ lược cho ta nghe về những năm con đi
tìm thầy học đạo và tu khổ hạnh. Bây giờ con có thể nhắc lại những điều đó được
không, trước khi con kể tiếp?
Vâng lời phụ vương, Bụt kể sơ lược về những năm học đạo và
hành đạo của mình. Người kể lại cuộc gặp gỡ giữa người với vua nước Magadha, về
ngày thành đạo, về những đứa trẻ ở xóm nghèo Uruvela, về năm người bạn tu khổ hạnh,
và về cuộc tiếp đón vĩ đại của vua Bimbisara. Mọi người lắng nghe Bụt với tất cả
sự chăm chú. Cả Rahula cũng không phát ra một tiếng động.
Khi Bụt kể đến đoạn vua Bimbisara cúng dường Rừng Trúc, một
cô thị nữ đi ra vườn Ngự và đến gần hoàng hậu Gotami, cô cúi xuống thầm thì mấy
câu bên tai hoàng hậu. Hoàng hậu thầm thì mấy câu trả lời, rồi người thị nữ đi
vào, bà đã ra lệnh cho người thị nữ đặt bàn dọn cơm trưa hoàng gia ra ngoài vườn
Ngự.
Tiếng của Bụt đầm ấm. Người kể khái quát những gì đã xảy ra
và không nói nhiều đến các chi tiết. Người cũng không nói nhiều đến những gian
truân khổ hạnh của người. Nhưng người đã nhân câu chuyện mà gieo vào trong lòng
những người thân thuộc những hạt giống tốt lành của chánh pháp.
Khi cơm nước đã được người hầu dọn ra đầy đủ ngoài vườn thì
hoàng thái tử Nanda cũng vừa đi du hành về tới. Chàng mặc võ phục màu trắng.
Quân gác ở cửa thành đã cho Nanda biết là Bụt đã về, vì vậy
Nanda đã vội vàng chạy vào cung. Không thấy ai, chàng hỏi người thị nữ. Thị nữ
cho biết mọi người đang ở ngoài vườn Ngự. Chàng ra vườn Ngự. Thấy Bụt, Nanda vội
chạy đến chào mừng, Bụt nắm tay em, người nói:
– Em lớn mau lắm. Năm ta đi, em mới có mười lăm tuổi. Bây giờ
em đã hai mươi hai rồi phải không?
Nanda gật dầu. Hoàng hậu nói:
– Con phải chắp tay chào anh con theo cách chào một vị đạo
sĩ. Con làm cho quen đi.
Nanda vâng lời chắp hai tay trước ngực cúi đầu xá Bụt. Bụt
cũng chắp tay lại đáp lễ em.
Mọi người quây quần quanh bàn ăn. Bụt đưa thầy Nagasamala tới
ngồi gần bên mình. Người hầu đem nước tới để mọi người rửa tay. Vua hỏi:
– Hồi nãy hai thầy đã khất thực được những gì trong bát?
Bụt nhìn vào bát mình rồi nhìn vào bát của thầy thị giả. Người
nói:
– Con chỉ mới xin được có một củ khoai, còn thầy Nagasamala
chưa xin được gì hết.
Vua Suddhodana đứng dậy:
– Vậy để ta sẽ cúng dường hai thầy.
Vua đứng dậy. Yasodhara cũng đứng dậy. Bà nói:
– Con xin mang các thức ăn đến để phụ hoàng cúng dường vào
bát các thầy.
Bà nâng chậu cơm trắng giữa bàn lên trên hai tay rồi tiến đến
bên cạnh thầy Nagasamala.
Sau khi vua đã sớt cơm vào bát của thầy Nagasamala và của Bụt
rồi, bà mới đặt chậu cơm xuống và nâng vịm thức ăn lên. Vịm thức ăn này toàn là
thức ăn chay nấu với cà-ri, thức ăn bốc lên thơm ngát. Cúng dường xong, vua ngồi
xuống, Bụt và thầy Nagasamala nâng bát lên mặc niệm. Ngồi quanh bàn, mọi người
thấy thế cũng đều giữ im lặng. Mọi người ăn cơm im lặng theo Bụt. Rahula ngồi
trước bát thức ăn do mẹ xới cho, cũng biết ăn cơm trong im lặng. Nắng càng ấm
và tiếng ca hát của loài chim càng vọng lên rộn rã hơn.
Cơm nước xong, hoàng hậu thỉnh vua và Bụt rời bàn ăn trở về
ngồi trên những chiếc cẩm đôn. Người hầu cận dâng lên mỗi người một trái quít.
Ngoài Rahula, ai cũng cầm trái quít trong tay mà không ăn, bởi vì ai cũng lắng
tai nghe Bụt kể chuyện. Phu nhân Gotami là người hỏi Bụt nhiều câu hỏi nhất.
Khi Bụt nói chuyện về túp lều của Bụt tại tu viện Trúc Lâm, vua có ý định cất
cho Bụt một tịnh thất như vậy ở công viên Nigrodha và một số các tịnh xá nhỏ
khác cho các vị đại đức lớn tuổi trong giáo đoàn. Vua ngỏ ý muốn Bụt ở lại
vương quốc lâu ngày để giáo hóa. Hoàng hậu Gotami, Yasodhara, Nanda và Sundari
Nanda ai cũng tỏ vẻ vui mừng khi nghe lời phát biểu của vua.
Bụt nói đã đến lúc người cần trở về với tăng đoàn. Vua hỏi Bụt:
– Ta muốn Bụt và tăng đoàn tới thọ trai trong hoàng cung. Con
nghĩ điều ấy có tiện không? Ta cũng muốn làm như vua nước Magadha mời các vương
hầu và nhân sĩ đến để được nghe con giảng bày về đạo lý.
Bụt cho phụ vương biết là điều đó có thể làm được. Mọi người
thảo luận và đồng ý rằng trong bảy hôm nữa, hoàng gia sẽ thỉnh Bụt và tăng đoàn
đến để cúng dường. Yasodhara cũng tỏ ý muốn mời Bụt và đại đức Kaludayi tới thọ
trai ở Đông Cung, Bụt cũng nhận lời, nhưng người cho biết cần chờ đợi ít hôm
sau ngày trai tăng của đại chúng.
Vua truyền đem xe tứ mã đưa Bụt về công viên Nigrodha, nhưng
người từ chối. Người nói người đã lập hạnh chỉ đi bộ mà thôi. Cả nhà đưa Bụt và
thầy Nagasamala ra tận cổng hoàng cung. Cả nhà kể cả ông hoàng bé Rahula đều
theo gương vua chắp tay trước ngực kính cẩn chào hai vị khất sĩ.
Chương 35 - Ra nhìn tia nắng sớm
Tin thái tử Siddhatta đi tu đắc đạo đã trở về được truyền đi
rất mau trong thành Kapilavatthu. Tin này được xác định bằng sự có mặt của giáo
đoàn khất sĩ mỗi buổi sáng ở thành phố và các vùng lân cận thủ đô. Nhiều người
đã được trông thấy cảnh tượng những đoàn khất sĩ lặng lẽ và trang nghiêm đi khất
thực trên các nẻo đường. Nhiều nhà đã học được cách thức cúng dường thực phẩm
cho các vị khất sĩ theo nghi lễ. Nhiều gia đình đã được nghe các vị khất sĩ
thuyết pháp. Quốc vương Suddhodana cũng đã ra lệnh dân chúng treo cờ kết hoa
vào ngày rước Bụt và giáo đoàn đến hoàng cung thọ trai. Vua cũng đã ra lệnh dựng
lên những am thất nhỏ rải rác trong công viên Nigrodha để che nắng che mưa cho
Bụt và các vị đệ tử lớn tuổi của người. Ngoài những người có phận sự đến xây dựng
am thất, đã có một số người tìm tới tận công viên Nigrodha để thăm viếng và học
hỏi với Bụt và các vị khất sĩ. Nhiều người ở thủ đô quả quyết đã được gặp thái
tử Siddhatta trong hình thức tu sĩ trang nghiêm mang bình bát đi khất thực.
Trong suốt cả tuần lễ, dân Kapilavatthu chỉ nói có một câu chuyện này khi gặp gỡ
nhau.
Hai vị phu nhân Gotami và Yasodhara cũng rất muốn lên vườn
Nigrodha để thăm Bụt nhưng họ không có thì giờ. Cả hai người đều phải lo điều động
công việc tổ chức lễ trai tăng. Vua đã cho mời hàng ngàn tân khách. Không những
nhân vật trong giới chính trị và văn hóa trong và ngoài hoàng gia được mời mà tất
cả các giới lãnh đạo tôn giáo và trí thức cũng đã được mời. Theo lời Bụt dặn, tất
cả các thực phẩm cúng dường và thết đãi ngày hôm ấy sẽ đều là những món chay tịnh.
Hoàng tử Nanda đã lên thăm Bụt được hai lần vào hai buổi chiều.
Chàng đã được ngồi với Bụt khá lâu và được Bụt giảng dạy cho những điều căn bản
của đạo lý tỉnh thức. Nanda rất thương kính Bụt và rất mến nếp sống tịnh lạc của
các vị khất sĩ. Chàng có hỏi thăm về đời sống hàng ngày của các vị khất sĩ.
Chàng lại hỏi Bụt xem Người thấy chàng có đủ khả năng sống đời sống xuất gia
không. Bụt chỉ mỉm cười không trả lời. Nanda là một thanh niên có nhiều tình cảm
nhưng chưa được vững mạnh lắm về mặt ý chí. Khi ngồi với Bụt thì có ý muốn đi
xuất gia, khi về đến cung điện và nghĩ tới mỹ nhân Kalyani, vị hôn thê của mình
thì chàng lại thấy chàng chưa đi xuất gia được. Chàng tự hỏi không biết anh
mình nghĩ gì về mình.
Ngày trai tăng đã đến. Cả thủ đô treo cờ kết hoa để đón Bụt
và tăng đoàn. Hoàng thành cũng được treo cờ kết hoa bốn phía. Cả thủ đô tưng bừng
chuẩn bị đón rước người hùng của cả nước. Nhiều nơi trong thành phố, thiên hạ mở
hội vũ nhạc. Trên con đường mà Bụt và tăng đoàn sẽ đi qua, quần chúng tập họp rất
đông đảo. Ai cũng muốn thấy tận mặt Bụt. Trong hoàng cung, tân khách của quốc
vương đã tề tựu đầy đủ. Phu nhân Gotami và Yasodhara đích thân điều khiển công
cuộc tiếp đãi. Gopa đã nghe lời hoàng hậu trang điểm và phục sức thật đúng mức
trong ngày hội lớn này.
Trong lúc ấy Bụt cùng đoàn khất sĩ đang trầm lặng và nghiêm
chỉnh đi vào thành. Hai bên đường dân chúng đứng chen từng hàng đông đảo. Nhiều
người chắp tay cúi đầu khi Bụt đi qua. Những em bé được công kênh lên để có thể
thấy được Bụt. Có cả những tiếng hò reo mừng Bụt trở về. Trong không khí rộn rã
tưng bừng ấy, đoàn khất sĩ vẫn lặng lẽ và chậm rãi đi tới. Các vị khất sĩ để hết
tâm ý vào bước chân và hơi thở của họ.
Vua Suddhodana ra đón Bụt tận ngoài cổng hoàng cung, cũng như
vua Bimbisara ở nước Magadha vậy, Bụt và các vị khất sĩ được hướng dẫn vào chỗ
ngồi đã bày sẵn ở giữa sân điện. Thấy vua kính cẩn chắp tay làm lễ Bụt, tất cả
các vương hầu và quan khách đều phải bắt chước đứng lên làm lễ người, dù trong
số đó có người nghĩ rằng không có lý do gì mà họ phải tôn trọng vị khất sĩ trẻ
này một cách quá đáng như vậy.
Sau khi Bụt và các vị khất sĩ đã an tọa, vua ra hiệu cho các
người hầu mang thức ăn ra cúng dường. Chính tay vua cúng dường thức ăn vào bát
của Bụt. Các vị khất sĩ cũng đều được cúng dường một lượt. Trong khi ấy hoàng hậu
và Yasodhara hướng dẫn những cung nhân thừa tiếp trên một ngàn tân khách của
vua, trong đó có nhiều đạo sĩ Bà la môn, các du sĩ và cả những nhà tu khổ hạnh.
Tất cả đều thọ trai im lặng theo Bụt và tăng đoàn. Thức ăn thuần là chay tịnh.
Sau khi mọi người đã thọ trai và bát của Bụt và của chư vị khất
sĩ đã được rửa và trả lại cho từng người, vua đứng dậy chắp tay và thỉnh Bụt
thuyết pháp.
Bụt ngồi im lặng một lát để quán chiếu tâm ý của đại chúng.
Sau đó người lên tiếng. Trước hết người nói cho mọi người nghe sơ lược về kinh
nghiệm học đạo, tìm đạo và tu đạo của người. Những điều này, người biết, ai
trong đại chúng cũng muốn được nghe. Rồi Bụt khai thị cho đại chúng về đạo lý
vô thường, vô ngã, và duyên sinh của vạn vật, nghĩa là về những khám phá căn bản
trong công trình thiền quán của người. Người nói đến con đường quán chiếu và thực
tập tỉnh thức như là con đường duy nhất có thể đưa đến sự diệt khổ và thực hiện
an lạc. Người cũng cho biết là tế tự và cầu nguyện không phải là những phương
thức hữu hiệu để đạt tới giải thoát.
Rồi Bụt giảng dạy về bốn sự thật căn bản: sự có mặt của khổ
đau, nguyên do của khổ đau, khả năng diệt khổ để kiến tạo an lạc và giải thoát,
và con đường thực hiện diệt khổ và kiến tạo an lạc.
Bụt khai thị thêm: “Ngoài những tai nạn như sinh, già, bệnh,
chết, có người còn phải gánh chịu biết bao nhiêu khổ đau khác do mình tự tạo ra
cho mình. Vì vô minh, nghĩa là vì nhận thức sai lầm, con người nghĩ, nói và làm
những điều có thể tạo ra cho bản thân mình và cho những người xung quanh rất
nhiều nỗi khổ. Những đau khổ vì giận dữ, hờn oán, nghi kỵ, ganh ghét, bất mãn…
đều do ta thiếu sáng suốt mà sinh ra. Ta sống trong những khổ đau ấy như sống
trong một căn nhà đang bốc cháy. Phần lớn những khổ đau mà ta chịu đều do ta tự
tạo ra cho ta. Ta không thể thoát ra được khổ đau bằng cách cầu cứu một vị thần
linh. Ta phải quán chiếu tâm ta và hoàn cảnh ta để loại trừ những nhận thức sai
lầm đã từng là nguồn gốc phát sinh ra các khổ đau ấy. Ta phải tìm tới ngọn nguồn
của đau khổ thì ta mới thật sự hiểu được bản chất của đau khổ. Một khi hiểu được
bản chất của một niềm đau khổ thì ta thoát được ra khỏi niềm đau khổ ấy.
Ví dụ có một người kia tới chửi mắng ta. Ta có thể nổi giận
và chửi mắng trả lại người ấy. Trong trường hợp này ta khổ mà người ấy cũng khổ.
Theo đạo lý tỉnh thức thì không nên vội nổi giận và chửi mắng người kia. Ta phải
bình tâm quán chiếu để thấy được vì sao người kia lại tới chửi mắng ta, nghĩa
là ta đi tìm tới cội nguồn của sự giận dữ của người ấy. Do công phu quán chiếu
bình tĩnh đó mà ta có thể thấy được những nguyên nhân sâu xa và chằng chịt nào
đó đưa tới thái độ và hành động hôm nay của người ấy. Nếu ta thật sự có lỗi thì
ta thấy sự chửi mắng đó là kết quả tất nhiên của lỗi lầm ta. Nếu ta quả không
có lỗi lầm gì thì chắc chắn đã có một sự hiểu lầm nơi người ấy. Ta quán chiếu để
tìm ra và chứng minh được sự hiểu lầm ấy cho người kia thấy. Làm như vậy, ta
tránh được khổ đau cho ta và cũng giải tỏa được khổ đau cho người kia.
Thưa Đại vương và các vị quan khách! Tất cả mọi khổ đau của
ta, ta đều có thể thoát ra khỏi bằng đường lối quán chiếu ấy, nhưng muốn quán
chiếu cho thành công ta phải biết theo dõi hơi thở, biết thực tập sống theo
tinh thần giới định tuệ. Giới là những nguyên tắc sống cho an lạc. Có sống theo
các nguyên tắc này, ta mới thực hiện được Định. Định là nếp sống có tỉnh thức,
có chú tâm. Có tỉnh thức và chú tâm ta mới có khả năng quán chiếu về thực tánh
của tâm ta và của hoàn cảnh, và có quán chiếu ta mới có Tuệ. Tuệ tức là sự hiểu
biết.
Một khi đã có hiểu biết, ta có thể thương yêu và tha thứ. Cuộc
đời sẽ bớt khổ rất nhiều khi ta có hiểu biết. Nếu không hiểu biết, ta không thể
thương yêu và tha thứ. Cho nên con đường giải thoát chân thật là con đường thực
hiện sự hiểu biết. Hiểu biết là trí tuệ, là bát nhã. Mà trí tuệ chỉ có thể do
quán chiếu đem lại. Con đường giới, định và tuệ vì vậy là con đường duy nhất
đưa tới giải thoát”.
Bụt lặng yên một lát rồi mỉm cười. Người nói tiếp: “Nhưng khổ
đau chỉ là một mặt của sự sống. Sự sống còn có một mặt khác: đó là sự có mặt của
những mầu nhiệm trong cuộc đời, và nếu con người được tiếp xúc với những mầu
nhiệm ấy, con người sẽ có niềm vui và sự an lạc. Khi tâm ta được giải thoát, ta
tiếp xúc ngay được với những mầu nhiệm ấy. Nếu ta chứng nghiệm được sự thật về
vô thường, vô ngã và duyên sinh thì ta có thể thấy được rằng tất cả đều là mầu
nhiệm: từ tâm ý ta, thân thể ta cho đến cành tre tím, bông cúc vàng, dòng sông
trong, mặt trăng sáng.
Chỉ vì ta tự giam hãm ta trong thế giới khổ đau cho nên ta mới
không xúc tiếp được với thực tại mầu nhiệm. Phá được vô minh rồi, ta sẽ thênh
thang trong thế giới của an lạc, của giải thoát, của Niết bàn. Niết bàn là sự
chấm dứt của vô minh, tham đắm và giận hờn. Niết bàn cũng là sự hiển lộ của niềm
an lạc và giải thoát. Quý vị cứ thử ra nhìn một dòng sông trong hay một tia nắng
sớm. Quý vị sẽ thấy mình đã tiếp xúc được với thế giới của an lạc và giải thoát
chưa. Nếu bị giam hãm trong ngục tù của phiền não, ta vẫn còn chưa tiếp xúc thật
sự được với những nhiệm mầu của vũ trụ, trong đó có hơi thở ta, thân và tâm ta.
Phá giặc phiền não bằng phép quán chiếu, đó là con đường tôi đã tìm ra được.
Tôi đã thực nghiệm, đã thành công và đã chỉ bày cho nhiều người khác. Nhiều người
thực hành theo phương pháp ấy cũng đã thành công”.
Khi Bụt chấm dứt pháp thoại, người đã chinh phục được hầu hết
mọi người trong số những tân khách của vua Suddhodana. Điều này có thể cảm nhận
được trong không khí và trong ánh mắt của các vị tân khách. Vua sung sướng đã
đành mà hoàng hậu Gotami và công nương Yasodhara cũng tỏ vẻ hết sức hoan hỷ. Họ
nhất quyết trong những ngày kế tiếp tìm tới với Bụt để được học về những phương
pháp quán chiếu thực tiễn có thể giúp họ đạt tới giải thoát và giác ngộ.
Sau buổi pháp thoại, vua tiễn Bụt và giáo đoàn ra khỏi hoàng
cung rồi mới đưa tiễn các vị tân khách. Mọi người đều chúc mừng vua về sự thành
công của Bụt.
Công viên Nigrodha đã được biến thành một tu viện cho Bụt và
tăng đoàn. Ở đây có rất nhiều cây sung cổ thụ. Các cây này cho Bụt và tăng đoàn
rất nhiều bóng mát. Rất nhiều người đến xin xuất gia thọ trì năm giới của người
cư sĩ. Trong số những người đến xin Bụt xuất gia có cả những thanh niên thuộc
dòng họ Sakya của người.
Yasodhara thường đi chung với hoàng hậu và Rahula đến thăm và
cúng dường Bụt và tăng đoàn tại tu viện. Bà đã được nghe Bụt thuyết pháp nhiều
lần. Bà cũng đã có cơ hội hỏi Bụt những câu hỏi về sự liên hệ giữa sự tu đạo và
công việc cứu tế xã hội. Bà được Bụt dạy cho những phương pháp theo dõi hơi thở
và thực tập thiền quán để nuôi dưỡng sự an lạc trong thân tâm. Bà biết rằng nếu
không có an lạc thì con người không thể giúp được gì cho kẻ khác. Bà học được rằng
phát triển sự hiểu biết cũng là nuôi dưỡng được tình thương. Bà rất sung sướng
tìm ra được rằng bà có thể thực tập thiền quán ngay trong đời sống hàng ngày và
trong những lúc làm công tác cứu tế xã hội. An lạc có thể đạt được ngay trong
khi mình làm công việc. Phương tiện và cứu cánh không còn là hai cái khác nhau.
Hoàng hậu Gotami cũng đạt được nhiều tiến bộ tu học trong thời
gian mấy mươi ngày sau đó.
Chương 36 - Bông sen duyên kiếp
Một hôm công nương Yasodhara thỉnh Bụt, đại đức Kaludayi và
thầy Nagasamala tới thọ trai ở cung điện riêng của mình. Bà cũng đã mời hoàng hậu.
Sau buổi cúng dường, bà đã thỉnh Bụt và hoàng hậu đi ra ngoại thành thăm những
xóm nghèo nơi bà đã làm việc cứu tế xã hội trong những năm qua. Các thầy
Kaludayi và Nagasamala cũng cùng đi với người, Rahula cũng được đi theo Bụt.
Khi Bụt tới nơi, người thấy trẻ con tập hợp đông có tới hàng
trăm đứa, thì ra công nương Yasodhara đã triệu tập chúng từ những xóm làng
quanh đó. Chỗ tập hợp là gốc cây hồng táo năm xưa, nơi mà Bụt đã ngồi thiền định
lần đầu lúc người mới lên chín tuổi. Mới đó mà hai mươi bảy năm trời đã trôi
qua. Cây hồng táo đã lớn lên gấp bội. Yasodhara cho Bụt biết là những đứa trẻ Bụt
gặp năm xưa nay đã là những người chủ gia đình. Những đứa trẻ mà Bụt được gặp
cách đây tám năm bây giờ cũng đã trở thành những chàng trai cao lớn và những cô
gái duyên dáng. Phần lớn bọn trẻ mà Bụt gặp hôm nay đều từ bảy tới mười hai tuổi,
hầu hết là con cái nhà nghèo.
Bọn trẻ đã được bà Yasodhara dạy cách đón mời Bụt. Khi thấy Bụt
tới, chúng bỏ cuộc chơi, đứng dậy, dàn thành hai hàng để Bụt có lối đi tới gốc
cây hồng táo. Nơi đây chúng đã đặt một cái ghế đặc biệt cho Bụt ngồi. Chúng đã
trải chiếu để mời những vị quan khách khác như bà Gotami, Yasodhara, và các thầy
đi theo Bụt.
Bụt rất hài lòng được ngồi giữa bầy trẻ và giảng dạy giáo
pháp cho chúng. Người nhớ những buổi tập họp của bọn trẻ em nhà nghèo ở
Uruvela. Người kể cho các em nghe về chú bé chăn trâu tên Svastika và cô bé
mang sữa tên Sujata. Người dạy các em về cách nuôi dưỡng lòng thương yêu và mở
rộng tầm hiểu biết. Người lại kể cho các em nghe câu chuyện tranh nhau con chim
thiên nga giữa người với Devadatta hồi người mới lên bảy tuổi. Bọn trẻ con được
nghe giảng dạy bằng những câu chuyện hấp dẫn này rất lấy làm vui sướng.
Cuối cùng Bụt bảo Rahula ra ngồi trước mặt người, rồi Bụt kể
cho tất cả các em bé nghe một câu chuyện tiền thân. Người kể:
“Ngày xưa có một chàng trai trẻ tên là Megha, thông minh, đức
hạnh, hiếu thuận và học giỏi. Chàng sống ở miền chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Chàng
muốn đi về miền đồng bằng để học hỏi thêm. Không có tiền, nhưng chàng cũng can
đảm ra đi. Chàng mang theo một cái gậy, một cái nón, một cái bình đựng nước uống
và một chiếc áo choàng. Trên con đường về kinh đô mỗi ngày chàng ghé lại làm việc
cho những nhà nông dân bên đường để được có cơm ăn, và để tiếp tục đi nữa. Có
khi chàng còn được trả tiền. Khi đến thủ đô Divapati, chàng đã để dành được năm
trăm đồng trong túi áo.
Vào đến cửa thành chàng thấy dân chúng đang mở hội rất vui.
Chàng không biết người ta đang mở hội ăn mừng việc gì nên có ý muốn tìm người để
hỏi. Vừa lúc ấy có một cô thiếu nữ xinh đẹp, mặt mày thật sáng sủa, đi ngang.
Cô cầm trong tay một bó sen. Bó sen có tất cả bảy bông sen hàm tiếu. Chàng hỏi
cô:
– Có việc gì vui mà dân chúng mở hội thế cô?
Thiếu nữ đáp:
– Chắc anh không phải là dân địa phương cho nên mới không biết
hôm nay dân chúng mở hội gì. Số là hôm nay tại thủ đô Divapati có một bậc giác
ngộ xuất hiện tên là Dipankara. Ngài là bó đuốc soi đường cho tất cả chúng
sanh. Ngài là con của vua Areimat, đã đi tu và đã thành đạo. Đạo của ngài sáng
chói cả thế gian. Hôm nay, để mừng ngài, dân chúng tại đây mới mở hội.
Nghe nói có một vị giác ngộ xuất hiện trên thế gian, Megha rất
lấy làm sung sướng. Chàng rất muốn được cúng dường ngài, được tới làm lễ ngài
và học đạo với ngài. Chàng hỏi cô thiếu nữ:
– Cô mua bảy bông sen này bao nhiêu tiền thế, thưa cô?
Thiếu nữa đưa mắt nhìn người con trai lễ phép và có dáng dấp
thông minh. Nàng trả lời:
– Em chỉ mua có năm bông thôi. Hai bông kia là của em đem
theo.Em hái hai bông ấy ở ao nhà.
Megha nói:
– Vậy năm bông kia cô mua bao nhiêu, thưa cô?
– Em mua hết năm trăm đồng.
Megha khẩn khoản cầu xin thiếu nữ để lại cho anh ta năm bông
sen ấy để anh có thể có hoa đem cúng Bụt Dipankara. Thiếu nữ không chịu. Nàng
nói:
– Em mua để cúng Bụt chứ không phải để bán lại.
Megha hết lòng khẩn khoản. Anh nói:
– Cô cúng dường hai bông cũng được rồi mà. Xin cô vui lòng
cho tôi lại năm bông để tôi cũng có dịp được cúng dường bậc giác ngộ với. Thưa
cô được gặp một bậc giác ngộ trên đời là quý hóa lắm. Tôi quyết tâm cùng đi với
cô để tới gặp ngài. Tôi muốn được học hỏi đạo lý do ngài chỉ dạy. Nếu cô vui
lòng nhượng cho tôi năm bông hoa ấy, tôi sẽ nhớ ơn cô suốt đời.
Thiếu nữ nhìn xuống đất, không nói.
Megha lại năn nỉ:
– Nếu cô cho tôi mua lại năm bông hoa, tôi sẽ làm bất cứ điều
gì cô sai bảo để trả ơn cô.
Thiếu nữ không dám ngửng đầu lên. Hai người im lặng đi bên
nhau rất lâu. Cuối cùng cô lên tiếng:
– Anh ơi, không biết tại vì duyên nợ nào từ những kiếp trước
mà khi gặp anh, em đem lòng thương anh liền. Em đã gặp nhiều người con trai,
nhưng chưa bao giờ trái tim của em rung động như hồi nãy khi em mới gặp anh. Em
muốn tặng không cho anh năm bông sen này để anh cúng đức giác ngộ, nếu anh hứa
với em là trong kiếp này cũng như trong những kiếp khác em được làm vợ của anh,
hoài hoài và mãi mãi.
Nàng nói một mạch những điều trên, và nói xong nàng thấy gần
như hụt hơi. Megha im lặng một lát rồi nói:
– Có là người rất dễ mến. Và cô lại là một con người rất chân
thật.Mới đầu gặp cô, tôi cũng thấy có cảm tình với cô ngay, nhưng tôi là người
có chí tu đạo giải thoát. Cưới vợ thì bị ràng buộc, làm sao sau này tôi có được
tự do mỗi khi có dịp ra đi tìm đạo?
Thiếu nữ nói:
– Anh cứ hứa với em đi. Em xin nguyện rằng mỗi khi anh muốn
ra đi tìm đạo thì em sẽ không dám tìm cách ngăn cản anh. Trái lại, em sẽ tìm
cách giúp anh thực hiện được hoàn toàn chí nguyện.
Nghe thiếu nữ nói như thế, Megha vui vẻ nhận lời.
Hai người tìm tới đức giác ngộ Dipankara. Quần chúng đông đảo
đang vây quanh ngài. Thấy sắc diện của vị đạo sĩ Dipankara, Megha biết ngay đó
là một bậc giác ngộ chân thực. Chàng rất sung sướng. Chàng phát nguyện phải tu
học cho đến khi đạt tới quả vị giác ngộ cao tột như đức giác ngộ này. Chàng muốn
tiến tới gần để dâng lên Dipankara năm bông sen, nhưng quần chúng vòng trong
vòng ngoài đang vây phủ lấy ngài, chàng không tài nào tiến tới được. Cuối cùng
chàng dùng hết sức của hai cánh tay chàng tung năm bông hoa sen vào cho đấng
giác ngộ. Lạ thay, cả năm bông sen đều bay tới và rơi đúng vào trong hai cánh
tay ngài. Megha thấy thế mừng rỡ. Chàng biết là lòng thành của chàng đã cảm ứng
được đấng toàn giác. Vừa lúc ấy thiếu nữ trao cho chàng hai bông sen còn lại,
ra hiệu cho chàng tung vào cho Bụt. Chàng nhận hai bông hoa và tung lên. Mầu
nhiệm thay, cả hai bông hoa này cũng đều rơi vào giữa tay đức giác ngộ
Dipankara.
Vừa lúc ấy, đức toàn giác Dipankara lên tiếng gọi người cúng
dường hoa sen tới bên cạnh ngài. Quần chúng hé lối cho Megha đi vào.
Megha cầm tay thiếu nữ kéo nàng theo đến trước mặt Bụt, Megha
và thiếu nữ quỳ xuống. Đức giác ngộ Dipankara nói với Megha:
– Ta biết được tâm thành của con. Ta cũng biết rằng con có
chí lớn muốn tu học để đạt tới quả vị giải thoát và cứu độ cho loài chúng sanh.
Con hãy an lòng. Ta biết con sẽ trở nên một bậc giác ngộ hoàn toàn trong tương
lai.
Rồi nhìn thiếu nữ đang quỳ bên Megha, ngài nói:
– Còn con, trong kiếp này và trong những kiếp tới con sẽ là
người bạn đường của Megha. Con hãy nhớ lời nguyện của con, lo tác thành cho chí
hướng của chồng mà không tìm cách ngăn cản chàng mỗi khi chàng ra đi tìm đạo.
Megha và thiếu nữ rất cảm xúc được nghe lời dạy chỉ bảo của bậc
toàn giác. Từ đó về sau, cả hai người đều chăm chỉ tu học theo đạo lý giải
thoát của đức giác ngộ Dipankara.”
– Các con nghe không, từ kiếp ấy về sau, trong kiếp nào chàng
Megha và cô thiếu nữ cũng đều được gặp nhau và cũng đã trở nên vợ chồng, và mỗi
khi người con trai đến tuổi ra đi tu đạo, người con gái lại tìm cách giúp đỡ
người con trai. Chẳng bao giờ nàng tìm cách cản ngăn chí nguyện của chàng. Vì vậy,
chàng rất biết ơn nàng. Cho đến một kiếp nọ, chàng thực hiện được chí nguyện lớn
của chàng và trở thành một bậc giác ngộ, sáng suốt không kém gì bậc giác ngộ
Dipankara kiếp trước.
Các con nên biết: tiền của và danh vọng không phải là những vật
quý nhất trên đời. Tiền của và danh vọng có thể tiêu tan rất mau chóng, chỉ có
sự hiểu biết và lòng thương yêu mới thật sự là những gì quý nhất trên đời. Có
hai thứ ấy thì chắc chắn là con người có hạnh phúc. Chàng Megha và cô thiếu nữ
đã sống hạnh phúc với nhau trong nhiều đời nhiều kiếp, đó cũng nhờ hai người đã
có sự hiểu biết và lòng thương yêu. Đã hiểu và đã thương thì không có gì mà ta
không thực hiện được trên cõi đời này.
Yasodhara chắp hai tay trước ngực hướng về phía Bụt. Bà rất cảm
động về câu chuyện tiền thân này. Bà biết tuy Bụt kể chuyện này cho bọn trẻ
nghe nhưng người cũng đã kể chuyện này với bà. Bụt đã nói lên lời cảm ơn của Bụt
đối với bà một cách tế nhị. Bà cảm động đến muốn khóc. Hoàng hậu Gotami nhìn
bà. Hoàng hậu cũng hiểu lời Bụt như bà hiểu. Bà đặt một bàn tay lên vai người
con dâu. Rồi bà lên tiếng nói với lũ trẻ:
– Các con biết chàng Megha trong tiền kiếp xa xưa đó là ai
không? Chính là Bụt đấy. Trong kiếp này, chàng đã thành một bậc giác ngộ sáng
suốt hoàn toàn, và các con có biết cô thiếu nữ trong tiền kiếp xa xôi đó là ai
không? Đó chính là lệnh bà Yasodhara của các con vậy. Nhờ lệnh bà có hiểu biết
cho nên lệnh bà đã không ngăn cản thái tử Siddhatta. Thái tử đã đi tu và đã
thành đạo. Các con nên cảm ơn lệnh bà.
Bọn trẻ đã sẵn có lòng quý mến Yasodhara từ lâu. Nay nghe
hoàng hậu nói, chúng đều hướng về bà chắp hai tay lại trước ngực và cúi chào bà
rất kính cẩn.
Thấy cảnh tượng ấy, Bụt rất vui. Người đứng dậy, và cùng các
đại đức Kaludayi và Nagasamala trở về tu viện.
Chương 37 - Một niềm tin mới
Nửa tháng sau, vua Suddhodana thỉnh Bụt tới thọ trai trong
hoàng cung để vua và hoàng gia lại có cơ duyên được nghe Bụt thuyết pháp. Lần
này vua chỉ mời Bụt và đại đức Sariputta chứ không mời tăng đoàn. Vua cũng
không mời vị tân khách nào cả. Trong không khí gia đình, Bụt đã giảng dạy về
cách theo dõi hơi thở, quán chiếu các cảm thọ, phương pháp đi thiền hành và ngồi
thiền tọa. Người dạy dỗ rất kỹ về cách thức quán chiếu để duy trì chánh niệm và
an trú trong chánh niệm. Yasodhara, Rahula, Nanda và Sundari Nanda cũng có mặt
trong buổi thuyết pháp này. Rahula đặc biệt có cảm tình với thầy Sariputta. Cậu
rất ưa đứng gần thầy và nắm lấy tay thầy.
Khi Bụt đứng dậy ra về, mọi người đều muốn đưa người ra tới cổng
Nam. Bụt trao bình bát cho em là Nanda cầm và chắp tay búp sen chào mọi người.
Nanda ôm bát, đợi Bụt chào xong thì trả bát lại, nhưng Bụt không lấy lại bát.
Vì thế Nanda mang bát đi theo Bụt về tới tu viện.
Về tới tu viện, Bụt bảo Nanda ở lại chơi và sinh hoạt năm bảy
hôm tại đây. Vừa yêu vừa kính Bụt, Nanda vâng lời. Thấy nếp sống ở đây rất
thanh tịnh và thoải mái, vị hoàng tử trẻ đem lòng mến mộ. Một hôm, Bụt hỏi
Nanda có muốn xuất gia theo Bụt tu học một thời gian không. Nanda đáp có. Bụt bảo
thầy Sariputta làm lễ xuất gia cho hoàng tử.
Việc xuất gia của Nanda, Bụt đã có bàn trước với phụ vương.
Vua cũng đồng ý với Bụt rằng tuy Nanda đủ thông minh và rất hiền lành, chàng vẫn
chưa có đủ nhận thức độc lập và tính cương quyết cần có của một nhà chính trị.
Bụt nói với vua có thể cho Nanda đi theo tu học và gần gũi với Bụt một thời
gian để Bụt có thể rèn luyện cho chàng những đức tính cần thiết. Vua đã đồng ý
với Bụt.
Nanda xuất gia được một tháng thì bắt đầu nhớ vị hôn thê của
mình là tiểu thư Yanapada Kalyani. Thầy có thể che giấu nỗi buồn, nhưng Bụt đã
thấy hết. Bụt nói với thầy:
– Kẻ nam nhi muốn thực hiện chí nguyện lớn thì phải vượt qua
được những tình cảm thông thường. Em phải quyết tâm học đạo và rèn luyện bản
thân thì sau này mới có cơ giúp ích được cho đời.
Rồi Bụt dặn đại đức Sariputta sắp đặt để thầy Nanda khỏi đi
khất thực về khu phố của tiểu thư Kalyani. Khi Nanda biết điều này, thầy vừa
oán Bụt mà cũng vừa thương Bụt. Thầy thầm bảo là ông anh mình không có cái gì
là không biết. Ông ấy nhìn thấu tận đáy tâm can của mình.
Rahula thấy chú được xuất gia ở suốt ngày với Bụt thì ham lắm.
Cậu phân bì với mẹ. Yasodhara vuốt đầu con, bảo rằng phải lớn lên ít nhất là bằng
chú Nanda thì mới được đi xuất gia. Rahula hỏi mẹ làm sao để có thể lớn mau,
Yasodhara bảo cậu phải ăn uống cho đàng hoàng và tập thể dục mỗi buổi sáng và mỗi
buổi chiều. Rahula đã được mẹ dạy gọi Bụt bằng thầy. Bà nhớ hôm đầu tiên Rahula
được thấy Bụt từ trên lầu cao, bà đã chỉ Bụt và nói với con: “Cái ông thầy tu ấy
là cha con đó. Con chạy xuống chào cha con đi và bảo cha con trao gia tài lại
cho con”. Từ hôm ấy, Rahula cứ quen gọi Bụt là “ông thầy tu ơi”. Yasodhara nghe
được. Bà bật cười, gọi Rahula lại và bảo:
– Con đừng gọi Bụt là “ông thầy tu ơi”. Con phải gọi Bụt là
“Thầy ơi”.
Từ đó, Rahula mới dùng tiếng “Thầy ơi” để gọi Bụt.
Có một hôm tăng đoàn đi khất thực rất gần hoàng cung.
Yasodhara và Rahula đứng ở trên lầu. Bà trông thấy Bụt giữa đám các vị khất sĩ.
Rahula cũng trông thấy người. Yasodhara nói với con:
– Con chạy xuống với Bụt đi, và lần này nhớ xin cho được gia
tài của người.
Rahula chạy xuống lầu. Cậu rất thương mẹ nhưng cũng rất
thương Bụt. Ngày nào cậu cũng được ở với mẹ suốt ngày, nhưng cậu chưa từng được
ở với Bụt suốt một ngày nào. Cậu ao ước được như chú là hoàng thái tử Nanda, hiện
đang được sống suốt ngày bên cạnh Bụt.
Cậu chạy mau lắm, cậu đã xuống tới sân hoàng cung. Cậu chạy
ra cửa Nam và thấy Bụt. Lúc bấy giờ Bụt đã khất thực xong và đang cùng các vị
khất sĩ trong nhóm đi thành hàng chậm rãi trở về tu viện.
Rahula chạy thẳng tới một bên Bụt. Thấy Rahula, Bụt đưa một
ngón tay trái ra. Rahula nắm lấy ngón tay ấy rồi đi theo Bụt. Cậu nói:
– Thầy ơi, đi ở bên thầy mát lắm, và dễ chịu nữa.
Nắng cuối Xuân đã bắt đầu gay gắt. Cậu bé đi bên Bụt vừa được
hưởng bóng mát của người vừa được hưởng tình thương của người.
Đứng trên lầu cao, Yasodhara thấy hết. Bà biết Rahula được Bụt
cho theo về tu viện.
Một lát sau, Rahula hỏi:
– Thầy ơi, gia tài của con đâu?
Bụt đáp:
– Về tu viện thầy sẽ trao cho con.
Trưa ấy về tới tu viện, đại đức Sariputta chia phần ăn của
mình với Rahula, Rahula được ăn cơm im lặng bên cạnh Bụt và bên cạnh đại đức
Sariputta. Rahula lại được gặp chú Nanda để nhõng nhẽo. Bụt bảo Rahula ngủ
chung phòng với đại đức Sariputta. Thầy nào cũng cưng quý cậu. Cậu muốn ở luôn
tại tu viện. Đại đức Sariputta nói muốn được ở luôn tu viện thì phải đi tu.
Rahula nắm tay thầy Sariputta tới xin Bụt cho phép đi tu. Bụt gật đầu. Bụt bảo
thầy Sariputta cho Rahula được xuất gia.
Đại đức Sariputta ngạc nhiên. Thầy tưởng là Bụt nói đùa, ai
dè Bụt lại nói thật. Thầy hỏi:
– Thế Tôn, làm sao mà cho Rahula xuất gia được?
Bụt dạy:
– Thì cho cháu tập sự xuất gia, thọ giới khu ô sa di, và giao
cho cháu phận sự đuổi quạ trong giờ các thầy ngồi thiền. Quạ ở đây nhiều quá,
chúng đến quấy phá các thầy trong giờ thiền tập khá nhiều.
Thầy Sariputta xuống tóc cho Rahula, cho chú thọ tam quy và dạy
cho chú bốn giới: không giết hại, không trộm cắp, không nói dối, không uống rượu.
Thầy lấy bớt một chiếc cà sa của thầy, cắt ra và may lại thành một chiếc cà sa
nhỏ xíu cho Rahula mặc. Thầy dạy cho Rahula cách khoác y và ôm bát. Khoác y và
ôm bát vào, Rahula trông giống một vị khất sĩ con con, ai thấy cũng thương.
Rahula được lệnh ngủ chung với thầy Sariputta, đi khất thực và học hỏi với thầy
Sariputta. Từ hôm có Rahula bên mình, thầy ít khi vào thành khất thực. Thầy đưa
Rahula đi khất thực trong những thôn lạc gần tu viện. Theo phép người xuất gia,
ai cũng chỉ được ăn mỗi ngày một bữa trước khi giờ Ngọ chấm dứt, nhưng Rahula
còn nhỏ quá, sợ chú tiểu mất sức, thầy Sariputta cho phép chú được ăn một lần nữa
vào buổi chiều. Các vị thí chủ thường nhớ mang sữa và thức ăn để dành cho chú.
Tin Rahula đã được cạo đầu mặc áo cà sa làm chú tiểu đã vào tới
trong cung điện. Vua Suddhodana buồn lắm. Từ ngày Rahula đi với Bụt về tu viện,
ông nội, bà nội, và mẹ chú nhớ chú lắm. Họ tưởng chú đi chơi vài hôm rồi về, ai
ngờ chú lại ở trong tu viện và trở thành chú tiểu. Ông bà nội của Rahula không
có cháu để cưng, rất lấy làm buồn khổ, nhưng Yasodhara thì buồn vui lẫn lộn.
Tuy nhớ con quay quắt, nhưng mỗi khi nghĩ đến con đang được gần gũi Bụt, bà
cũng thấy ấm áp trong lòng, bảy năm nay cậu bé đã thiếu cha.
Một buổi chiều, vua truyền lấy xe cho ngài về tu viện. Hoàng
hậu Gotami và bà Yasodhara cũng được đi với ngài. Vua được Bụt ra đón tiếp.
Nanda và Rahula cũng ra đón tiếp hoàng gia. Rahula chạy ra đón mẹ. Thầy
Sariputta gọi chú lại, bảo chú chỉ được đi chứ không được chạy. Yasodhara ôm lấy
chú tiểu vào lòng. Sau đó, Rahula lại đi đến với ông nội và bà nội.
Vua làm lễ Bụt và nói, giọng có vẻ trách móc:
– Thế Tôn, trẫm đã đau xót vô cùng khi người bỏ nhà đi xuất
gia, rồi mới đây, Nanda cũng bỏ trẫm, bây giờ đến Rahula cũng bỏ trẫm. Như vậy
là quá đáng. Thế Tôn, đối với một người tại gia như trẫm, tình cha con và ông
cháu rất nặng. Niềm đau xa cách cũng như nhát dao cắt vào da. Cắt vào da xong,
dao cắt sâu vào da thịt, cắt sâu vào da thịt rồi, dao lại cắt vào xương và vào
tủy. Vậy xin Thế Tôn nghĩ lại cho. Xin Thế Tôn và các vị đại đức từ nay đừng nhận
cho người còn nhỏ tuổi xuất gia nếu không có sự ưng ý của cha mẹ chúng.
Bụt an ủi vua. Người thuyết pháp cho vua nghe để vua thấy được
rõ thêm sự thực về vô thường và vô ngã. Người nói đến công phu tu tập tinh tiến
hàng ngày như là cửa ngõ duy nhất thoát ra ngoài khổ nạn. Người nói Nanda và
Rahula đang thực sự sống trong chánh đạo, đó là một điều may mắn và người
khuyên vua tinh tiến trong sự tu tập đạo giải thoát, tìm được niềm vui chân thật
trong nếp sống tỉnh thức hàng ngày.
Càng nghe Bụt, vua càng cảm thấy nhẹ nhõm, và cuối cùng vua
đã vui lên trở lại. Bà Gotami và Yasodhara cũng được nghe Bụt nói. Hai người
cũng cảm thấy được an ủi rất nhiều.
Nhân có đại đức Sariputta ngồi bên, Bụt quay lại nói với thầy:
– Từ nay trở đi, các vị khất sĩ sẽ không chấp nhận cho trẻ em
xuất gia nếu không có sự đồng ý của phụ huynh các em. Xin đại đức ghi vào quy
chế như vậy.
Thấm thoát mà Bụt và giáo đoàn đã ở lại vương quốc Sakya hơn
nửa năm. Số người đến xin xuất gia với Bụt hoặc với các vị khất sĩ lớn đã lên tới
gần năm trăm vị. Số cư sĩ tại gia thì đông quá không thể nào đếm cho xiết. Vua
Suddhodana đã dâng cúng cho giáo đoàn một cơ sở mới để làm tu viện. Cơ sở này
là cung điện mùa Hè ngày xưa của thái tử Siddhatta, có vườn cây rất rộng rãi và
rất mát, nằm về phía Bắc kinh đô, đại đức Sariputta sắp đặt để đưa mấy trăm vị
khất sĩ về chủ trì tu viện này. Tăng đoàn đạt được cơ sở vững chắc cho sự hành
đạo tại vương quốc, Bụt sẽ trở về tu viện Trúc Lâm cho kịp mùa an cư, như người
đã hứa với vua Bimbisara và với tăng đoàn ở đấy. Vua Suddhodana biết Bụt sắp ra
đi nên đã thỉnh người vào cung để cúng dường và xin người thuyết pháp. Vua đã mời
hoàng tộc và triều đình đến để nghe Bụt.
Trong buổi thuyết pháp này, Bụt đã nói về đạo đức và chính trị.
Người nói đạo đức có thể soi sáng cho chính trị và người làm chính trị có thể
nương theo đạo đức để thực hiện công bằng và hạnh phúc trong xã hội. Người nói:
– Nếu quý vị biết tu dưỡng bản thân, mở rộng tầm hiểu biết và
lòng từ bi, thì quý vị sẽ tìm ra được một đường lối giúp nước và trị dân có thể
đem lại thái bình và hạnh phúc mà không cần đến những phương thức bạo động. Quý
vị không cần chém giết, không cần đến những bản án tử hình, không cần đến những
biện pháp tra tấn, tù đày và tịch biên gia sản. Điều này không phải là mộng tưởng
mà là một điều có thể thực hiện được.
Khi người làm chính trị có đủ hiểu biết và thương yêu thì họ
có thể thấy được sự thật về những người dân đang sống trong nghèo khổ và áp bức.
Thấy được như thế, nhà chính trị sẽ tìm cách cải thiện guồng máy cai trị, để
làm giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội và để loại trừ sự lạm dụng
quyền thế và sự bóc lột dân nghèo.
Thưa quý vị, người làm chính trị phải sống đời gương mẫu. Đừng
sống đời giàu sang thái quá, bởi vì sự giàu sang là bức tường ngăn cách mình với
dân chúng. Nên sống thanh bạch, giản dị, và dùng thì giờ của mình vào việc ích
nước lợi dân chứ đừng mải mê trong việc hưởng thụ dục lạc. Có như thế, người
làm chính trị mới có được niềm tin của dân chúng. Hễ mình thương dân thì dân sẽ
thương mình lại, do đó, mình có thể thực hiện được con đường chính trị nhân ái
của mình. Con đường chính trị này có thể gọi là con đường đức trị, khác với con
đường pháp trị. Đức trị thì dùng đạo đức nhiều hơn sự trừng phạt. Pháp trị thì
dùng sự trừng phạt nhiều hơn đạo đức. Theo đạo lý Tỉnh Thức, hạnh phúc chân thật
có thể đạt được bằng con đường đức trị.
Vua Suddhodana và quần thần lắng nghe Bụt với tất cả sự chú
ý. Hoàng thúc Dronodanaja, chú của Bụt, và là thân sinh của Devadatta, nói:
– Con đường đức trị mà Bụt nói thật là một con đường rất đẹp,
nhưng có lẽ ở đây chỉ có một mình Bụt là có đủ tư cách và đức độ để thực hiện
mà thôi. Tại sao Bụt không ở lại Kapilavatthu, tại sao Bụt không nắm lấy giềng
mối chính trị ở vương quốc Sakya này để tạo an lạc và hạnh phúc cho muôn dân?
Vua Suddhodana cũng nói:
– Tuổi trẫm đã cao rồi. Nếu Bụt chịu ở lại thì trẫm sẽ thoái
vị để Bụt ngồi vào vương vị. Với đạo đức của Bụt, với uy tín và sự thông minh của
người, trẫm tin chắc là quốc dân sẽ hoàn toàn đứng sau lưng Bụt, và vương quốc
chẳng lao lâu sẽ trở nên giàu sang và lừng lẫy.
Bụt mỉm cười, người lặng thinh cúi đầu. Cuối cùng nhìn vua, Bụt
nói:
– Phụ vương, con không còn là người của một gia đình, của một
dòng họ hay của một vương quốc nữa. Bây giờ đây gia đình của con là nhân loại,
nhà cửa của con là trời đất và địa vị của con là một ông thầy tu sống nhờ vào hạt
cơm bố thí của mọi người. Con đường mà con đã chọn là con đường của người đạo
sĩ chứ không phải là con đường của nhà chính trị. Con nghĩ là con sẽ phụng sự
cho nhân loại được bền bỉ hơn với tư cách của một người tu.
Hoàng hậu Gotami và Yasodhara không tiện phát biểu trong một
cử tọa như cử tọa hôm nay, nhưng cả hai đều cảm động gần rơi lệ khi nghe Bụt
nói. Hai người đều thấy Bụt nói đúng.
Bụt tiếp tục thuyết giảng cho vua và cho mọi người nghe về
năm giới và cách tổ chức hành trì năm giới trong khung cảnh gia đình và trong
xã hội. Người nói năm giới có thể được xem như là những nguyên tắc sống có thể
đem lại hạnh phúc trong gia đình và hòa bình trong xã hội. Người giảng cặn kẽ về
từng giới một. Cuối cùng người nói:
– Muốn có đoàn kết toàn dân, một niềm tin cần được tạo dựng.
Những người làm chính trị nếu thực hành được năm giới thì sẽ
tạo được niềm tin lớn trong quốc dân. Với niềm tin ấy không có công trình gì mà
không xây dựng được. Niềm tin ấy có thể bảo đảm được hòa bình, hạnh phúc và
công bằng xã hội trong vương quốc. Nếp sống tỉnh thức là nền đạo lý mà chúng ta
đang cần đến như một đường lối và một niềm tin. Giáo lý truyền thống Bà la môn
không chứa đựng được đức tự tin và không bảo đảm được quyền bình đẳng giữa mọi
con người. Ta hãy dùng đạo lý Tỉnh Thức như một niềm tin mới.
Bụt cho biết người sắp lên đường trở về vương quốc Magadha,
nhưng người sẽ còn trở lại Kapilavatthu.
Vua, triều thần và hoàng tộc rất vui khi nghe người nói như vậy.
Chương 38 - Ôi, hạnh phúc!
Bụt đã rời khỏi vương quốc Sakya nhưng người vẫn còn hoằng
hóa ở miền Bắc vương quốc Kosala. Người và khoảng một trăm hai mươi vị khất sĩ
đang cư trú ở một công viên gần thành phố Anuplya của bộ tộc Malla.
Đại đức Sariputta vẫn còn ở bên người. Kaludayi, Nanda và chú
tiểu Rahula cũng ở bên người.
Trong thời gian Bụt ở ngoại thành Kapilavatthu, nhiều thanh
niên trong hoàng tộc đã đến xin xuất gia với người, phần lớn là xuất thân từ những
gia đình có từ ba người con trai trở lên. Sau khi Bụt rời Kapilavatthu được nửa
tháng, có hai anh em ruột thuộc dòng họ Sakya cũng muốn đi xuất gia. Nhà của họ
giàu lắm. Gia đình có tới ba cơ sở cư trú, một cho mùa Hè, một cho mùa mưa, và
một cho mùa Đông. Hai anh em tên là Mahanama và Anuruddha. Thấy nhiều bạn hữu của
mình trong hoàng gia đã đi xuất gia với Bụt, Mahanama cũng muốn được đi xuất
gia. Mahanama nghĩ trong gia đình có hai người con trai thì nên đi xuất gia một
người thôi, chàng nhường quyền xuất gia cho em. Anuruddha đi tìm mẹ để xin
phép. Bà mẹ nói.
– Mẹ chỉ có hai con là niềm vui của mẹ thôi. Nếu một đứa
trong các con xuất gia thì mẹ buồn lắm.
Anuruddha thưa với mẹ là đã có nhiều thanh niên trong hoàng tộc
xuất gia, và nếp sống xuất gia sẽ đem lại lợi lạc không phải chỉ cho người xuất
gia mà cho cả gia đình và xã hội. Chàng đã được nghe Bụt giảng tại tu viện
Nigrodha nhiều lần nên chàng giảng thuyết về đạo pháp rất hay. Cuối cùng bà mẹ
nói:
– Nếu bạn của con là Baddhiya mà xuất gia, thì mẹ cũng cho
con đi xuất gia.
Bà nói vậy vì bà nghĩ là Baddhiya chẳng bao giờ xuất gia đâu.
Baddhiya là người trong hoàng gia, và chàng có chức vị rất cao, quyền hành và
danh vọng rất lớn, khó có thể bỏ được tất cả để mà đi tu.
Anuruddha nghe mẹ nói liền tìm tới Baddhiya. Baddhiya làm trấn
thủ các tỉnh miền Bắc vương quốc. Dưới quyền chàng có nhiều đội binh. Dinh thự
của chàng có lính gác bốn phía. Kẻ hầu người hạ tấp nập. Baddhiya tiếp
Anuruddha như một thượng khách. Anuruddha bảo bạn:
– Tôi muốn đi xuất gia theo học với Bụt, nhưng tôi không xuất
gia được, đó là tại vì anh.
Baddhiya cười:
– Tại sao vì tôi mà anh không đi xuất gia được? Tôi cấm anh
xuất gia hồi nào? Tôi sẽ làm đủ mọi cách để anh được xuất gia.
Anuruddha kể lại đầu đuôi câu chuyện, rồi chàng nói:
– Anh vừa hứa với tôi là anh sẽ làm đủ mọi cách để tôi có thể
đi xuất gia, mà cách duy nhất là anh cùng đi xuất gia với tôi.
Baddhiya thấy mình kẹt quá, không phải là chàng không hâm mộ
Bụt và đạo lý tỉnh thức. Chàng cũng đã có ý định sau này sẽ đi xuất gia, nhưng
không phải bây giờ. Chàng nói:
– Bảy năm nữa tôi sẽ đi xuất gia. Anh cứ đợi tôi.
– Bảy năm nữa thì lâu quá. Biết tôi có còn sống đến lúc ấy
hay không?
Baddhiya cười:
– Sao anh bi quan quá như vậy? Nhưng thôi, nếu anh nóng lòng
xuất gia thì anh đợi ba năm nữa vậy.
– Ba năm cũng còn lâu quá.
Anuruddha nói:
– Thôi thì bảy tháng. Tôi còn phải sắp đặt công việc nhà cửa
và trao trả quyền hành.
– Đã xuất gia thì cần gì phải sắp đặt lâu như thế. Xuất gia
là từ bỏ hết để đi theo con đường xuất trần siêu thoát. Anh đợi lâu như thế lỡ
ra anh đổi ý thì sao.
– Anh đã nói vậy thì bảy hôm nữa tôi sẽ đi với anh. Thôi anh
về đi.
Anuruddha mừng rỡ về báo mẹ và anh biết tin này. Bà mẹ không
ngờ quan tổng trấn Baddhiya lại chịu bỏ chức tước và danh vọng một cách dễ dàng
như vậy. Bà chợt thấy tầm cao siêu của đạo lý giải thoát, và bà bằng lòng cho
con đi xuất gia.
Anuruddha rủ thêm được một số các bạn hữu nữa cùng đi xuất
gia. Đó là Bhagu, Kimbila, Devadatta và Ananda. Cả thảy là sáu người, tất cả đều
là các vương tử quý phái. Đúng ngày hẹn, họ gặp nhau tại nhà Devadatta rồi lên
đường. Tất cả đều đã là những chàng trai thành niên, trừ Ananda ra, Ananda mới
có mười tám tuổi, nhưng chàng đã được phép cha là thân vương Dronodanaraja cho
phép đi theo anh.
Bảy vị vương tử đi bằng xe tứ mã cho đến khi họ tới một thị
trấn nhỏ nằm sát biên giới Kosala. Họ cho xe trở về và cùng đi bộ tới biên giới.
Họ biết Bụt và các vị khất sĩ tùy tùng đang cư trú ở Anupiya, cách biên giới
không xa, Anuruddha đề nghị mọi người cởi bỏ hết những trang sức trên người và
ăn mặc thật đơn giản trước khi vượt biên. Mọi người tán thành.
Họ cởi những xâu chuỗi ngọc và những chiếc vòng bằng vàng bằng
bạc ra và gói lại trong một cái áo. Họ định đi tìm một người nghèo để tặng tất
cả những châu báu đó rồi sẽ tìm đường ra biên giới sau.
Vừa định đi vào trong thôn để kiếm một người nghèo thì họ thấy
có một quán hớt tóc bên đường. Cái quán khá tồi tàn: người thợ hớt tóc là một
chàng thanh niên trạc tuổi họ, mặt mày cũng khôi ngô, nhưng ăn mặc rách rưới
nghèo nàn. Anuruddha ghé vào quán. Chàng hỏi tên người thợ hớt tóc. Anh ta nói
anh tên là Upali. Chàng nói các vị vương tử muốn nhờ anh ta chỉ đường ra biên
giới. Upali bằng lòng.
Upali đưa các vương tử đến biên giới nước Kosala. Anh ta chào
các vị vương tử để trở về. Anuruddha cám ơn Upali và trao cho Upali một chiếc
áo cuốn tròn, trong đó có đầy đồ trang sức châu báu. Chàng nói:
– Upali, chúng tôi muốn theo Bụt xuất gia. Chúng tôi không cần
những thức trang sức châu báu này. Chúng tôi tặng lại anh. Từng ấy châu báu
vàng bạc đủ để anh sống sung sướng suốt đời.
Các vương tử chào Upali, và lên đường. Người thợ hớt tóc mở
chiếc áo ra. Vàng ngọc làm anh ta lóe mắt. Anh ta không tin đây là sự thật. Anh
thuộc về giai cấp hạ tiện trong xã hội. Cha ông của anh đời này sang đời khác
đã sống cần cù lam lũ và chưa bao giờ có được một lạng vàng hay một chiếc cà
rá. Bây giờ đây anh có một bọc châu báu trong tay. Bỗng nhiên anh cảm thấy lo sợ.
Ôm một bọc châu báu trong người, anh cảm thấy anh mất hết sự an ổn và thảnh
thơi. Anh có thể mất mạng như chơi nếu có người biết anh đang ôm cái gì trong
tay.
Upali suy nghĩ. Anh thấy các vương tử giàu sang đến thế, quyền
hành nhiều như thế mà vẫn bỏ hết để đi xuất gia. Chắc chắn những người này đã
nhận thấy sự nặng nề và nguy hiểm của giàu sang và của danh vọng. Anh chợt có ý
liệng bỏ gói châu báu để đi theo các vị vương tử, tìm cầu an lạc và giải thoát.
Nghĩ như thế, anh làm ngay. Anh treo gói áo trên một cành cây gần đó, thầm nhủ
rằng ai là người đầu tiên thấy được gói châu báu này thì gói châu báu này sẽ
thuộc về người ấy. Treo gói áo lên cây xong, anh vượt biên và chạy theo các vị
vương tử.
Chỉ một giờ sau, Upali bắt kịp họ. Các vị vương tử ngạc nhiên
thấy Upali chạy theo mình. Devadatta hỏi:
– Upali, anh chạy theo chúng tôi làm chi? Gói châu báu anh để
đâu?
Upali thở hổn hển một hồi, rồi kể lại câu chuyện. Chàng nói
chàng đã treo gói áo lên một cành cây và nguyện tặng lại châu báu ấy cho người
đầu tiên bắt gặp. Chàng nói chàng không cảm thấy an ổn với gói châu báu và xin
được cùng các vị vương tử tìm tới Bụt để xuất gia.
Devadatta cười ha hả:
– Anh cũng muốn xuất gia như chúng tôi? Anh là…
Anuruddha ngắt lời Devadatta:
– Hay lắm, hay lắm! Chúng tôi rất hân hạnh được anh cùng đi với
chúng tôi. Bụt có dạy rằng tăng đoàn như là biển cả, và người xuất gia như những
con sông. Sông nào cũng chạy ra biển và cũng thành biển. Chúng ta tuy xuất thân
từ những giai cấp khác nhau, nhưng khi đã gia nhập tăng đoàn thì chúng ta sẽ là
anh em, không còn phân biệt giai cấp nữa.
Baddhiya tán thành ý kiến của Anuruddha. Chàng đưa tay nắm
tay người thợ cạo Upali. Chàng giới thiệu chàng là quan tổng trấn từng tri nhậm
các tỉnh miền Bắc của vương quốc, và chàng giới thiệu các vị vương tử khác với
Upali. Upali cúi chào từng vị với một dáng điệu kính cẩn. Sau đó bảy người lại
tiếp tục lên đường.
Ngày hôm sau họ tới Anupiya. Họ hỏi thăm nơi cư trú của Bụt
và tăng đoàn. Họ được biết Bụt và tăng đoàn hiện cư trú ở một khu rừng về phía
Đông Nam cách thành phố chừng hai dặm. Bảy người tìm tới nơi này và được gặp Bụt.
Baddhiya thay mặt cả nhóm trình lên Bụt ý nguyện của họ được
theo Bụt xuất gia. Bụt lặng yên ưng thuận. Baddhiya nói:
– Chúng con xin Bụt cho Upali được xuất gia trước. Chúng con
sẽ lạy Upali như là một vị sư huynh. Như vậy chúng con có thể trừ khử ý niệm
phân biệt và kỳ thị có thể còn sót lại nơi chúng con.
Bụt khen ngợi cả bảy người. Bụt cho Upali làm lễ xuất gia trước,
và sau đó làm lễ xuất gia cho sáu người: Baddhiya, Anuruddha, Bhagu, Kimbala,
Devadatta và Ananda. Tuy mới có mười tám tuổi, Ananda cũng được xuất gia, nhưng
chàng chỉ được thọ giới sa di và học theo hạnh khất sĩ. Đúng hai mươi tuổi
chàng mới được thọ giới khất sĩ. Chàng là người trẻ nhất trong tăng đoàn, trừ
Rahula. Được gặp lại chú Ananda, Rahula mừng lắm. Ba hôm sau lễ thọ giới của bảy
chàng, Bụt và các vị khất sĩ rời Anupiya, hướng về Vesali.
Tại Vesali, Bụt nghỉ ở rừng Mahavana, Bụt lưu lại ba hôm ở
đây. Trong thời gian ấy Bụt có thuyết pháp cho dân chúng, rồi Bụt lại lên đường.
Đi lần hồi trên mươi hôm nữa, Bụt về tới tu viện Trúc Lâm ở Rajagaha.
Các đại đức Kassapa, Moggallana và Kondanna thấy Bụt về rất
hoan hỷ. Đại chúng trong tu viện đông gần sáu trăm vị, ai cũng tỏ vẻ vui mừng.
Vua Bimbisara nghe Bụt đã về, lập tức tìm tới thăm Bụt. Không khí Trúc Lâm rất
sống động và vui tươi. Mùa mưa đã gần tới, và các đại đức Kondanna và Kassapa
đã chuẩn bị đầy đủ về mặt tổ chức để đại chúng có thể an cư tu học. Đây là mùa
an cư thứ ba từ ngày Bụt thành đạo. Mùa thứ nhất, Bụt ở Vườn Nai, mùa thứ hai
và mùa thứ ba, Bụt ở tại Trúc Lâm.
Đại đức Baddhiya, trước kia làm quan tổng trấn miền Bắc vương
quốc Sakka, và là người trong hoàng tộc Sakya, tu học rất tinh tiến. Tại tu viện
Trúc Lâm, ông học theo đại đức Kassapa, chỉ cư trú dưới gốc cây mà không ngủ
trong am thất. Ông học tập rất chuyên cần và sử dụng phần lớn thì giờ của ông
vào việc thực tập thiền quán.
Một đêm kia trong lúc thực tập thiền tọa dưới một gốc cây,
ông bỗng cảm nhận một niềm vui sướng mà chưa bao giờ ông từng biết tới trong thời
gian còn ở nhà. Ông thốt lên:
– Ôi, hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc!
Lúc ấy trời đã về khuya. Có một vị khất sĩ ngồi thiền tọa
cách ông không xa nghe được những tiếng ấy. Sáng hôm sau, vị này tới gặp Bụt.
Ông thưa với Bụt:
– Thế Tôn, hồi khuya trong lúc thiền tập, con có nghe khất sĩ
Baddhiya thốt lên hai tiếng “Ôi, hạnh phúc!”, con nghĩ là thầy Baddhiya không cảm
thấy thoải mái với đời sống xuất gia. Có lẽ thầy ấy tiếc nuối những giàu sang
và danh vọng khi còn là cư sĩ. Con xin trình bày để Thế Tôn biết, và để người định
liệu.
Bụt gật đầu.
Trưa hôm ấy sau khi tăng đoàn đã thọ trai, Bụt thuyết pháp
cho đại chúng. Sau thời thuyết pháp, Bụt gọi đại đức Baddhiya ra trình diện. Đại
chúng có mặt đầy đủ trong giờ này, không những các vị khất sĩ mà còn có những
người đệ tử cư sĩ đã đến cúng dường và nghe pháp. Bụt hỏi:
– Baddhiya, hồi khuya trong lúc thiền tọa, thầy có thốt lên
“Ôi, hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc!”, có đúng như thế không?
Đại đức Baddhiya chắp tay trả lời:
– Thế Tôn, hồi đêm quả thật con có thốt lên những tiếng đó.
– Tại sao xin thầy hãy nói cho đại chúng cùng nghe.
– Thế Tôn, ngày trước làm tổng trấn, con sống trong giàu
sang, phú quý và có nhiều quyền lực. Đi đâu con cũng có một đội binh theo hầu cận
và bảo vệ. Dinh phủ của con luôn luôn có binh lính canh gác ngày đêm, bên trong
cũng như bên ngoài. Vậy mà lúc nào con cũng lo lắng, sợ hãi, cảm thấy thiếu an
ninh.
Bây giờ đây đi một mình trong rừng, ngồi một mình dưới cội
cây trong đêm vắng, vậy mà con không hề có cảm tưởng nghi ngại và sợ hãi. Con cảm
thấy có một niềm thảnh thơi và an lạc chưa bao giờ từng có. Thế Tôn, đời sống
xuất gia thật là thoải mái đối với con, con không sợ ai, con không sợ mất gì,
con không có gì để sợ mất, và con sống vui thú như một con nai trong rừng.
Trong thiền định đêm qua con thấy được rất rõ niềm thảnh thơi vui thú đó, cho
nên con đã buột miệng kêu lên hai lần: “Ôi, hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc!” làm kinh
động đến Thế Tôn và các bạn tu của con. Con xin thành tâm sám hối.
Bụt ngợi khen Baddhiya trước mặt đại chúng. Người nói:
– Hay lắm, khất sĩ Baddhiya. Thầy đang đi những bước vững
chãi trên con đường tự tại và vô úy. Niềm an lạc của thầy, cả chư thiên cũng biết
ước ao, huống nữa là người đời.
Giữa mùa an cư năm ấy, Bụt có độ cho nhiều người xuất gia,
trong số đó một nhân tài lỗi lạc: đó là Mahakassapa. Mahakassapa là con trai một
thương gia giàu có vào bậc nhất ở vương quốc Magadha. Tên cha mẹ đặt của chàng
là Pippali. Gia tài của vị thương gia này chỉ thua có công khố quốc gia mà
thôi, trong nước không ai giàu có bằng ông ta. Mahakassapa đã thành hôn với một
thiếu nữ sinh trưởng ở Vesali. Nàng tên là Bhadra Kapilani.
Hai người đã sống với nhau được mười hai năm, nhưng cả hai đều
có chí xuất trần, cả hai đều muốn tìm thầy học đạo.
Một buổi sáng nọ khi thức giấc, Mahakassapa thấy vợ mình đang
ngủ say và một cánh tay nàng buông thõng từ trên giường xuống tới gần mặt đất.
Trong khi đó có một con rắn độc đang trườn qua dưới gầm giường nàng.
Mahakassapa nín thở, không dám động dậy. Khi con rắn đã bò ra khỏi nhà, chàng tức
tốc chỗi dậy đánh thức nàng.
Cả hai người cùng ngồi chiêm nghiệm về tính cách vô thường của
cuộc đời. Vợ chàng khuyên chàng nên tức tốc đi tìm thầy học đạo. Nghe nói có Bụt
hiện đang hướng dẫn đại chúng tu học tại Trúc Lâm gần thành Vương Xá,
Mahakassapa liền vội vã đi tìm. Ngay khi mới trông thấy Bụt, chàng biết ngay
đây là thầy của mình. Nói chuyện với Mahakassapa, Bụt nhận thấy đây là một con
người lỗi lạc, hiếm có trên đời, Bụt nhận cho chàng xuất gia. Mahakassapa có
trình bày với Bụt về trường hợp người bạn trăm năm của mình. Bụt bảo chàng cơ
duyên chưa thuận lợi để có thể chấp nhận phụ nữ vào giáo đoàn. Người nói cần đợi
thêm ít lâu nữa.
Chương 39 - Ba lần thức dậy trời vẫn chưa sáng
Mùa an cư mới chấm dứt được ba hôm, thì có một người thương
gia trẻ tên là Sudatta từ vương quốc Kosala đến thăm Bụt và thỉnh cầu Bụt về
vương quốc của chàng để giảng dạy đạo lý tỉnh thức.
Sudatta là một thương gia rất giàu có. Chàng cư trú ở thủ đô
Savatthi nơi quốc vương Pasenadi trị vì.
Cả vương quốc Kosala đều biết tiếng Suddatta, và chàng nổi tiếng
là người biết che chở và bênh vực cho những kẻ nghèo khổ và cô độc.
Chàng luôn luôn để ra một phần của gia sản mình để chu cấp
cho những kẻ nghèo hèn và không có thân nhân. Công việc giúp đỡ người khốn khổ
này chàng đã làm liên tục trong nhiều năm và chàng tìm được rất nhiều nguồn vui
trong công việc ấy. Người đồng bào của chàng đã tặng cho chàng cái mỹ hiệu là
Anathapindika, có nghĩa là “người cứu giúp cho kẻ khốn cùng và cô độc”, gọi là
Cấp Cô Độc. Để có thể tiếp tục công việc cứu trợ những kẻ nghèo khổ, Suddatta
phải tiếp tục nghề nghiệp của mình là một thương gia. Chàng hay qua lại nước
Magadha để buôn bán và mỗi khi tới thủ đô Rajagaha, chàng thường cư trú tại nhà
của người anh vợ của chàng, vốn cũng làm nghề buôn bán. Người anh vợ này rất
quý mến chàng. Mỗi khi chàng đến, ông ta làm đủ mọi cách để giúp đỡ chàng và
làm cho thời gian cư trú tại Rajagaha của chàng được dễ chịu. Ông săn sóc chàng
từng li từng tí. Tuy nhiên, kỳ này Suddatta không được ông anh vợ đặc biệt chú
ý tới như những kỳ trước. Ông bận rộn cắt đặt và sai phái những người ăn người ở
trong nhà như là nhà sắp có đám giỗ hay đám cưới, và đối với chàng em rể giàu
có, lần này ông chỉ chú ý và săn sóc một cách vừa phải thôi. Suddatta lấy làm lạ.
Chàng hỏi thì người anh vợ nói không có đám giỗ mà cũng không có đám cưới nào cả.
Cũng không phải là để rước hoàng gia về nhà thết đãi. Ông nói:
– Ngày mai, anh mời Bụt và các vị khất sĩ tới thọ trai.
Nghe nói đến tiếng “Bụt”, Suddatta ngạc nhiên. Chàng hỏi lại:
– Anh nói sao, ngày mai anh thỉnh “Bụt” hả?
– Đúng rồi, ngày mai anh thỉnh Bụt và các vị khất sĩ học trò
của người.
– “Bụt”? Nghĩa là “người tỉnh thức”?
– Đúng rồi. Bụt là người tỉnh thức. Đó là một bậc giác ngộ
toàn vẹn. Đó là một con người thật mầu nhiệm và thật đẹp đẽ. Sáng mai, thế nào
em cũng sẽ được gặp người.
Danh từ Bụt gây nên trong tâm tư Suddatta biết bao nhiêu nguồn
cảm hứng. Chàng bắt ông anh vợ ngồi xuống và nói thêm cho chàng nghe về con người
giác ngộ này. Ông anh vợ chàng kể rằng ông đã được trông thấy các vị khất sĩ học
trò của Bụt đi khất thực, đã tìm hiểu về Bụt, đã tới nghe Bụt thuyết pháp tại
tu viện Trúc Lâm và đã được người chấp nhận là đệ tử tại gia của người. Ông
cũng kể là hồi đầu mùa an cư ông đã được Bụt cho phép dựng thêm những chiếc nhà
nhỏ lợp lá làm chỗ che mưa nắng cho các vị khất sĩ. Trong một ngày, ông đã cho
dựng luôn sáu mươi căn nhà như thế rải rác trong khuôn viên của tu viện Trúc
Lâm.
Không biết vì một duyên cớ thâm sâu nào đó mà Suddatta đem
lòng thương mến Bụt sau khi mới nghe nói đến danh hiệu của người. Suốt đêm đó
Suddatta không ngủ yên giấc. Chàng cứ mong cho trời sáng để có thể đi viếng Bụt
tại tu viện Trúc Lâm dù chàng biết hôm nay Bụt và giáo đoàn của người sẽ tới thọ
trai tại nhà ông anh vợ. Ba lần chợt tỉnh trong đêm là ba lần chàng tưởng trời
đã sáng, nhưng trời vẫn chưa sáng. Cuối cùng, Suddatta chỗi dậy, trời chưa
sáng, nhưng chàng nhất quyết ra tìm Bụt. Chàng mặc áo, mang giầy và mở cửa ra
đi một mình.
Trời khuya còn đầy sương và lạnh. Qua cổng Sivaka, chàng hướng
về phía tu viện Trúc Lâm. Trời còn tối lắm, nhưng khi chàng vào tới cổng tu viện
thì dáng cây dáng lá đã bắt đầu hiện rõ. Suddatta nóng lòng muốn gặp Bụt nhưng
trong tâm còn e ngại. Chàng nói một mình để trấn tĩnh: “Suddatta, đừng e ngại”.
Lúc ấy Bụt đã thức, và người đang đi thiền hành ngoài trời
ngay phía trước mặt chàng mà chàng không biết.
Bụt gọi: “Suddatta”.
Suddatta giật mình. Tiếng gọi đến từ phía trước. Chàng ngửng
nhìn lên thì thấy dáng một người đang đi tới. Linh tính báo cho chàng biết rằng
đó là Bụt. Bụt đã gọi tên chàng. Chàng đang đi tới với Bụt và Bụt đang đi tới với
chàng. Suddatta bước tới một bước nữa và chắp tay cúi đầu làm lễ Bụt.
Bụt đỡ Suddatta dậy và cầm tay chàng đưa về tịnh thất của người.
Tới nơi chàng được Bụt mời ngồi. Chàng hỏi thăm Bụt có ngủ ngon không. Người
nói người ngủ rất ngon. Suddatta tự giới thiệu mình và kể cho Bụt nghe chuyện
chàng thức dậy ba lần trong đêm và cứ tưởng trời đã sáng. Chàng xin Bụt dạy cho
chàng về đạo lý. Và Bụt bắt đầu giảng dạy cho chàng về trí tuệ và từ bi.
Suddatta rất sung sướng. Chàng lạy xuống xin Bụt nhận chàng
làm đệ tử. Bụt lặng yên chấp nhận. Chàng lại thỉnh Bụt và giáo đoàn ngày mai tới
thọ trai tại nhà người anh vợ của chàng. Bụt cười:
– Hôm nay thầy và các vị khất sĩ sẽ tới đây thọ trai rồi.
Không lý ngày mai cũng tới đây nữa sao?
Suddatta khẩn khoản:
– Ngày hôm nay là anh con thỉnh cầu Bụt. Ngày mai người thỉnh
cầu Bụt và các vị khất sĩ lại là con. Con tiếc không có nhà cửa riêng ở đây để
có thể thỉnh cầu Bụt và các thầy. Xin Bụt từ bi chấp nhận cho con.
Bụt mỉm cười nhận lời Suddatta. Chàng sung sướng làm lễ bái
biệt người. Trời đã sáng hẳn. Chàng phải về để giúp ông anh vợ chuẩn bị công cuộc
đón tiếp Bụt và giáo đoàn.
Trưa hôm ấy, tại nhà ông anh vợ. Suddatta lại được nghe Bụt
thuyết pháp. Niềm hân hoan của chàng như không có bến có bờ. Tiễn Bụt và giáo
đoàn về xong, Suddatta bắt đầu chuẩn bị lo lễ cúng dường ngày mai. Ông anh vợ hết
sức giúp đỡ chàng. Ông nói:
– Suddatta, ở đây dượng là khách chứ không phải là chủ. Thôi
để anh đứng ra đài thọ lễ cúng dường ngày mai cho.
Suddatta không chịu. Chàng muốn tự mình thiết lễ cúng dường.
Chàng nhất quyết đài thọ mọi phí tổn, nhưng chàng bằng lòng để cho gia đình ông
anh vợ tiếp tay với sự nấu nướng và dọn dẹp.
Ngày mai lại, sau lễ cúng dường, Suddatta lại được nghe Bụt
thuyết pháp. Lòng chàng nở ra như một đóa hoa. Sau khi Bụt đã nói xong pháp thoại,
chàng quỳ xuống thỉnh nguyện:
– Lạy Bụt, hầu hết dân chúng nước Kosala chúng con chưa có cơ
duyên tiếp đón Bụt và giáo đoàn tôn quý của người để được học hỏi về đạo lý tỉnh
thức. Con cầu mong Bụt chấp nhận lời mời của con về cư trú và giảng dạy tại
kinh đô Savatthi trong một thời gian. Chúng con xin Bụt rủ lòng thương xót dân
chúng của vương quốc Kosala.
Bụt nói với Suddatta là người sẽ về đàm luận với các vị đệ tử
lớn của người về chuyện này và sẽ trả lời chàng sau.
Sau đó Bụt và giáo đoàn trở về tu viện.
Mấy hôm sau tới tu viện, Suddatta được Bụt cho biết là người
đã chấp nhận việc đi hoằng pháp tại vương quốc Kosala. Người hỏi Suddatta xem ở
gần thủ đô Savatthi có chỗ cư trú cho một giáo đoàn đông đảo không. Suddatta bạch
rằng chàng sẽ lo liệu chu toàn về việc cư trú của giáo đoàn. Suddatta còn thỉnh
Bụt cho phép một vị cao đệ của Bụt là đại đức Sariputta về thủ đô Savatthi một
lần với chàng để chuẩn bị cho công cuộc hoằng pháp của Bụt. Bụt hỏi ý Sariputta
thì thầy bằng lòng.
Một tuần lễ sau đó, Suddatta tới tu viện từ giã Bụt cùng giáo
đoàn, đồng thời rước đại đức Sariputta cùng lên đường về thủ đô.
Hai người hướng về phương Bắc, vượt sông Hằng và đi lên thành
Vesali. Tại Vesali, hai người được bà Ambapali rước về cư trú và nghỉ ngơi tại
vườn xoài trong hai hôm. Đại đức Sariputta có cho nữ phật tử Ambapali biết là Bụt
cùng giáo đoàn sẽ mở một chuyến đi hoằng pháp tại vương quốc Kosala và cũng sẽ
ghé qua thành phố Vesali này. Ambapali rất vui mừng. Bà hỏi thăm đại đức xem chừng
nào Bụt sẽ ghé ngang qua để bà có thể chuẩn bị đón tiếp Bụt và giáo đoàn. Đại đức
nói là trong khoảng sáu tháng. Bà tỏ ý rất hoan hỷ được tiếp đón thầy Sariputta
và cư sĩ Suddatta. Bà ngỏ lời khen ngợi vị trưởng giả trẻ tuổi này về công
trình cứu tế xã hội của chàng và khuyến khích chàng trong công việc tổ chức
chuyến đi hoằng pháp sắp đến của Bụt.
Từ giã Ambapali, hai người hướng về phía Tây Bắc, đi trên tả
ngạn dòng sông Aciravati. Đây là lần đầu Suddatta đi bộ trên một quãng đường
dài như thế. Chàng không thể dùng xe ngựa bởi vì chàng phải cùng đi bộ với đại
đức Sariputta. Đến đâu chàng cũng báo tin là trong vòng sáu tháng Bụt và giáo
đoàn sẽ đi qua và mọi người nên chuẩn bị để đón tiếp.
“Bụt là một bậc tỉnh thức vừa xuất hiện trên cõi đời. Bà con
cô bác hãy thành tâm chuẩn bị để đón tiếp người và giáo đoàn cao quý của người”.
Vương quốc Kosala là một nước hùng mạnh không kém gì vương quốc
Magadha. Biên giới miền Nam của vương quốc là sông Hằng. Đất đai của vương quốc
trải dài tới miền Bắc cho đến những ngọn đồi sát chân dãy Hy Mã Lạp Sơn. Dân
chúng ở vương quốc Kosala không mấy ai là không nghe đến Suddatta. Ai cũng gọi
chàng là trưởng giả Cấp Cô Độc, Anathapindika, người chu cấp cho những kẻ bần
cùng và cô độc. Khi chàng mở lời ca tụng bậc giác ngộ, ai cũng tin ngay lời
chàng. Ai cũng ước ao được thấy mặt Bụt và giáo đoàn của người. Đại đức
Sariputta sáng nào cũng ghé vào các thôn xóm để khất thực, và Suddatta thường
đi theo người. Suddatta thường lấy cơ hội tiếp xúc này để nói cho đồng bào
chàng nghe về Bụt và về giáo đoàn các vị khất sĩ.
Đi như thế được non một tháng thì hai người về tới Savatthi.
Đại đức Sariputta được Suddatta mời về nhà để cúng dường. Chàng ân cần giới thiệu
đại đức với gia đình chàng và cầu xin đại đức thuyết pháp cho mọi người nghe.
Thân phụ, thân mẫu và nội trợ của chàng đều xin phát nguyện thọ trì ba sự quay
về nương tựa và năm giới. Nội trợ của Suddatta tên là Punnalakkhana, dáng người
đoan trang và thùy mị. Nàng đã có bốn đứa con với Suddatta. Cả bốn đều còn nhỏ
tuổi, ba đứa đầu là con gái và đứa chót là con trai. Đứa lớn tên là Subhadha chị,
đứa kế tên là Subhadha em, đứa áp út tên là Sumagadha, cậu con trai tên là
Rala.
Đại đức Sariputta bắt đầu đi hành hóa trong thủ đô Savatthi.
Buổi chiều và ban đêm, thầy về cư trú tại một khu rừng thưa gần bờ sông. Trong
khi đó Suddatta đi tìm một nơi khả dĩ có thể làm chỗ cư trú thuận tiện cho Bụt
và giáo đoàn trong chuyến hoằng pháp quan trọng sắp đến.
Chương 40 - Bao nhiêu tấc đất bấy nhiêu tấc vàng
Suddatta đi xem xét nhiều nơi nhưng chưa có nơi nào đẹp đẽ và
thanh tịnh bằng khu lâm viên của thái tử Jeta nằm sát thủ đô Savatthi. Chàng
nghĩ nếu có được khu lâm viên này làm cơ sở lưu trú và hành đạo của Bụt và giáo
đoàn thì đạo lý tỉnh thức sẽ được truyền bá sâu rộng trong vương quốc. Suddatta
tìm đến thái tử Jeta xin gặp.
Hôm ấy trong dinh thự của thái tử có mặt một vị văn quan
trong triều mà Suddatta cũng có quen biết. Sau khi chào hỏi thái tử và vị văn
quan, Suddatta trình bày ước muốn của mình và xin thái tử nhượng lại cho chàng
khu vườn của thái tử để làm cơ sở tu học và hoằng pháp cho Bụt.
Thái tử Jeta mới có hai mươi tuổi. Khu vườn này là của vua
Pasenadi ban cho chàng năm ngoái.
Thái tử nhìn vị văn quan rồi nhìn Suddatta nói:
– Khu vườn ấy là của phụ vương tôi cho tôi, và tôi quý nó như
vàng. Nếu ông có đủ vàng lá đem trải đầy khu vườn thì tôi sẽ nhường nó lại cho
ông.
Thái tử Jeta nói nửa đùa nửa thật nhưng thương gia trẻ tuổi lại
không cho đó là chuyện đùa. Chàng nói:
– Được rồi, tôi sẽ theo điều kiện của thái tử đặt ra. Sáng
mai, tôi sẽ cho chở vàng tới.
Thái tử Jeta giật mình:
– Tôi nói đùa đó mà, tôi không bán khu vườn của tôi đâu. Ông
đừng chở vàng tới.
Nhưng Suddatta vẫn nghiêm trang:
– Thưa thái tử, ngài là một bậc vương giả, ngài đã nói ra lời
nào thì chắc lời ấy không thể bị xóa bỏ.
Rồi Suddatta quay sang hỏi vị văn quan đang ngồi uống nước với
thái tử:
– Thưa đại nhân, có phải đúng như vậy không?
Vị văn quan gật đầu. Ông ta xoay về phía thái tử Jeta:
– Vị thương gia Anathapindika này nói đúng, thưa điện hạ, đã
không ra giá thì thôi, một khi đã đưa giá cả thì ta không có quyền không bán.
Thái tử Jeta đành nhượng bộ. Tuy nhiên chàng hy vọng rằng
Suddatta không có đủ vàng. Thái tử chưa kịp nói gì thêm thì Suddatta đã đứng dậy
chắp tay tạ ơn và cáo biệt.
Ngay sáng hôm sau, chàng cho người chở vàng tới lót khu vườn.
Thái tử Jeta chứng kiến cảnh tượng lót vàng này và rất lấy
làm kinh ngạc. Thái tử biết đây không phải là một chuyện mua bán tầm thường.
Không ai bỏ ra một số vàng lớn như thế để mà mua một khu vườn giải trí. Bụt và
giáo đoàn của người chắc chắn là những nhân vật lỗi lạc lắm cho nên người
thương gia này mới phát tâm dũng mãnh như thế này được. Nghĩ thế, thái tử tới gần
Suddatta và hỏi thăm chàng về Bụt. Mắt vị thương gia sáng lên. Chàng kể cho
thái tử nghe về con người của Bụt, về đại cương giáo lý của người và về giáo
đoàn các vị khất sĩ. Chàng lại hứa ngày mai sẽ đến mời thái tử đi thăm viếng đại
đức Sariputta, một vị cao đệ của Bụt, hiện đang có mặt tại thủ đô. Nghe
Suddatta nói, thái tử Jeta cũng cảm thấy hứng khởi trong lòng. Lúc bấy giờ người
của Suddatta đã chở vàng được ba chuyến và đã lót được khoảng hai phần ba khu
vườn. Khi chiếc xe sắp đi chuyến thứ tư thì thái tử Jeta đưa tay ngăn lại. Thái
tử nói với Suddatta:
– Thôi, ông lót từng ấy vàng đủ rồi. Phần đất còn lại là phần
tôi hiến tặng cho Bụt và giáo đoàn. Tôi cũng muốn góp phần vào công trình lớn
lao và đẹp đẽ của ông. Tôi nói như thế này, ông nghe có được không nhé: cứ xem
như là ông cúng đất, còn tôi thì cúng cây cho tu viện. Sau này có ai hỏi thì ta
có thể nói rằng tu viện này tên là “Vườn Anathapindika với cây của Jeta”. Ông
chịu không?
Suddatta rất hoan hỷ. Chàng hân hoan thấy thái tử Jeta chịu
đóng góp vào công cuộc hoằng pháp lớn lao này.
Chiều hôm sau, chàng đến rước thái tử đi thăm đại đức
Sariputta, để thái tử được thấy nhân cách của thầy và được nghe thuyết pháp.
Sau đó, cả ba người cùng đi đến khu vườn mà Suddatta vẫn gọi là Jetavana, dù
chàng đã đứng tên làm địa chủ. Suddatta hỏi ý kiến thầy Sariputta và thái tử
Jeta về kế hoạch xây dựng cư xá, thiền đường, nhà giảng và phòng tắm. Chàng muốn
dựng một mái tam quan trước cổng tu viện trên khoảng đất của thái tử Jeta cúng
dường để kỷ niệm và cũng để làm vui lòng thái tử. Thầy Sariputta đã đưa ra nhiều
chỉ dẫn rất quý báu về việc xây dựng cư xá, thiền đường, nhà giảng và phòng tắm,
bởi vì thầy biết rất tường tận về những nhu yếu của các sinh hoạt tu viện. Một
nơi êm mát được chỉ định để làm am lá cho Bụt. Những con đường được vạch ra, và
những giếng nước được bắt đầu đào. Suddatta khẩn khoản yêu cầu đại đức
Sariputta cư trú ngay tại Jetavana để giúp chàng điều động công việc xây cất những
tiện nghi tu viện. Có những buổi sáng gia đình Suddatta mang thức ăn lên để
cúng dường đại đức. Vào những hôm này đại đức không đi khất thực, còn vào những
buổi khác, đại đức thường mặc áo mang bát đi khất thực trang nghiêm trong thành
phố. Dân chúng thủ đô dần dần biết tới đại đức, và từ từ câu chuyện Suddatta
lót vàng mua đất Jetavana đã được truyền đi khắp nơi. Ai cũng biết rằng vị
thương gia trẻ Anathapindika đã mua đất của thái tử và đang xây cất tu viện cho
một giáo đoàn sẽ từ Magadha tới. Thỉnh thoảng vào những buổi chiều, đại đức
Sariputta thuyết pháp tại Jetavana và dân chúng thủ đô đã bắt đầu đi nghe khá
đông, Bụt vẫn chưa tới mà đạo của Bụt đã được dân chúng hâm mộ.
Bốn tháng sau, khi công cuộc xây cất đã gần hoàn tất, đại đức
Sariputta lên đường trở về Rajagaha đón Bụt.
Buổi sáng khi đại đức Sariputta về tới Vesali, thầy thấy bóng
dáng rất nhiều chiếc áo vàng trong thành phố. Hỏi ra thầy biết là Bụt và trên
năm trăm vị khất sĩ đã tới Vesali trước đó mấy hôm. Hiện Bụt đang cư trú trong
Rừng Lớn. Sariputta lập tức tìm về giảng đường thăm Bụt. Bụt cho thầy biết là nữ
cư sĩ Ambapali vừa mới tới thỉnh Bụt và giáo đoàn tới thọ trai ngày mai tại vườn
xoài của bà. Người hỏi thăm về cuộc hoằng hóa của thầy ở Savatthi. Sau khi nghe
Sariputta kể lại những gì đã xảy ra tại thủ đô vương quốc Kosala, Bụt cho thầy
biết rằng hiện các đại đức Kondanna và Uruvela Kassapa đang hướng dẫn đại chúng
tu học tại Trúc Lâm và tất cả các vị khất sĩ hành đạo trong vương quốc Magadha
đã được Bụt thông báo nên y chỉ vào hai thầy ấy.
Trong số năm trăm vị khất sĩ đi theo Bụt, hai trăm vị sẽ ở lại
hành đạo tại tiểu bang Videha và tại Vesali, còn ba trăm vị sẽ theo Bụt qua
Kosala. Mọi việc đều đã được các thầy phụ tá sắp đặt chu đáo. Bụt cho biết ngày
mốt Bụt sẽ rời Vesali để lên đường đi Savatthi và người bảo thầy Sariputta cùng
đi với người.
Được cúng dường Bụt và giáo đoàn khất sĩ tại vườn xoài của
mình, Ambapali rất lấy làm mãn nguyện. Bà chỉ tiếc cậu con trai của bà là
Jivaka đã không có ở nhà để thừa tiếp Bụt và giáo đoàn. Cậu đang theo học ngành
y khoa gần thủ đô Rajagaha. Ngày hôm qua, sau khi tới thỉnh Bụt ra về, bà gặp một
số các vương tử Licchavi ở giữa đường. Các vị vương tử này là những người có
quyền thế vào bậc nhất ở Vesali. Họ đi trên những chiếc xe song mã trang sức cực
kỳ lộng lẫy. Họ đón đường bà. Chiếc song mã của bà phải ngừng lại. Họ hỏi bà đi
đâu. Ambapali trả lời bà vừa đi thỉnh Bụt và giáo đoàn ngày mai về dùng cơm
trưa. Các vị vương tử đề nghị bà hủy bỏ việc mời Bụt đi và chỉ nên mời họ. Họ
nói:
– Nếu nàng chịu mời chúng tôi, chúng tôi sẽ trả giá bữa cơm
ngày mai là một trăm ngàn đồng vàng.
Theo ý các vị vương tử, mời các ông thầy tu thì chẳng có ích
lợi và vui vẻ gì. Ambapali trả lời:
– Quý vị vương tử chưa biết Bụt nên mới nói như thế. Tôi đã mời
Bụt và giáo đoàn của người vào ngày mai rồi. Quý vị vương tử có cho tôi cả
thành Vesali cùng tất cả đất đai bao quanh thành, tôi cũng không đánh đổi bữa
cơm ngày mai cho các vị, đừng nói là các vị trả cho tôi một trăm ngàn đồng
vàng. Thôi tôi xin phép quý vị được về nhà sớm để lo cho cuộc đón tiếp ngày
mai.
Các vương tử Licchavi bắt buộc phải tránh đường cho bà đi.
Ambapali đâu có biết rằng sau khi tránh đường cho bà đi, họ đã rủ nhau tìm đến
Bụt để xem ông thầy tu này là ai mà Ambapali kính trọng đến thế. Họ tìm đến Rừng
Lớn. Họ đậu xe ở ven rừng và đi bộ vào.
Bụt biết đây là những thanh niên có nhiều hạt giống từ bi và
trí tuệ. Người mời họ ngồi và kể chuyện cho họ nghe. Người kể cho họ nghe về
thân thế và lịch trình tu đạo của người. Rồi người nói về đạo lý diệt khổ, và
lý tưởng giải thoát. Người biết họ cũng thuộc về giai cấp Kshatriya, cũng thuộc
về hoàng tộc như người. Nhìn họ, người thấy hình ảnh của người ngày xưa. Câu
chuyện người nói vì thế rất có vẻ thân mật.
Sau khi được nghe Bụt thuyết pháp, các vị vương tử Licchavi bừng
tỉnh. Họ thấy được họ. Họ thấy sự hưởng thụ giàu sang và quyền bính không đủ để
đem lại cho họ hạnh phúc. Họ tìm thấy lý tưởng cho tuổi trẻ họ. Tất cả đều xin
nguyện làm học trò tại gia của Bụt. Họ ngỏ lời thỉnh Bụt ngày mai đến thọ trai.
Bụt mỉm cười:
– Ngày mai tôi đã được Ambapali mời rồi.
Các vị vương tử cũng mỉm cười. Họ nhớ lại cuộc đối đáp giữa họ
và Ambapali trước đó. Một vị nói:
– Vậy thì chúng con xin thỉnh Bụt vào ngày mốt.
Bụt mỉm cười chấp thuận.
Tại lễ cúng dường tổ chức ở vườn xoài, Ambapali đã mời các
thân hữu của bà đến để nghe Bụt thuyết pháp. Một số các vương tử Licchavi cũng
đã được mời tham dự buổi lễ này.
Ngày hôm sau, Bụt với trên một trăm vị khất sĩ tới dự lễ trai
tăng tại trú sở các vương tử Licchavi. Bụt và các vị khất sĩ được đón tiếp rất
long trọng. Các thức ăn được cúng dường tuy là những thức ăn chay nhưng đều là
những thức trân quý vào bậc nhất. Các loại trái cây như mít, xoài, chuối và hồng
táo đều đã được hái từ vườn cây của các vương tử. Thọ trai xong, Bụt giảng cho
mọi người nghe về giáo nghĩa duyên sinh và con đường của tám sự hành trì chân
chính. Bài giảng của người làm rung động tâm can của người nghe. Mười hai vị
vương tử đã cầu Bụt cho được xuất gia. Bụt vui lòng chấp nhận họ. Trong số những
người được xuất gia hôm ấy có Otthaddha và Sunakhatta, hai vị vương có ảnh hưởng
lớn trong bộ tộc Licchavi.
Cuối buổi cúng dường, các vị vương tử trong bộ tộc Licchavi
khẩn khoản thỉnh Bụt và giáo đoàn sang năm về an cư tại Vesali. Họ hứa sẽ cất
tu viện và giảng đường trong khu Rừng Lớn để có chỗ an cư cho Bụt và hàng trăm
vị khất sĩ. Bụt chấp thuận lời thỉnh cầu này.
Sáng hôm sau, nữ cư sĩ Ambapali đến viếng Bụt rất sớm. Bà ngỏ
ý muốn Bụt nhận vườn xoài của bà như một phẩm vật cúng dường của bà cho giáo
đoàn khất sĩ. Bụt nhận lời.
Sau đó, Bụt cùng Sariputta và tăng đoàn lên đường đi về thủ
đô Savatthi.
Chương 41 - Ai có thấy mẹ tôi ở đâu không?
Đường về Savatthi đối với đại đức Sariputta đã trở nên quen
thuộc. Trên con đường này thầy và cư sĩ Anathapindika đã gây được nhiều niềm
tin nơi dân chúng đối với Bụt và giáo đoàn của người. Lần này Bụt đi tới đâu là
được dân chúng tiếp đón niềm nở tới đó.
Trên tả ngạn con sông Aciravati, có nhiều khu rừng mát mẻ,
nơi ấy Bụt và giáo đoàn khất sĩ có thể nghỉ ngơi mỗi tối. Đoàn người chia làm
ba nhóm, nhóm của Bụt đi đầu, có thầy Sariputta hướng dẫn, nhóm thứ hai do đại
đức Assaji cầm đầu, nhóm thứ ba có đại đức Moggallana chăm sóc.
Các đoàn khất sĩ đi rất trang nghiêm, khi khất thực cũng như
lúc đi trên đường rất dài hay trên một bờ sông. Dân chúng các thôn xóm ven sông
thỉnh thoảng được nghe pháp thoại của Bụt.
Ngày tới Savatthi, Bụt và giáo đoàn được hướng dẫn về thẳng Kỳ
Viên tức là tu viện Jetavana. Thấy trung tâm tu học được xây dựng và trang bị
khéo léo và chu tất, Bụt nhìn Suddatta và ngỏ lời khen ngợi. Suddatta rất sung
sướng. Chàng thưa với Bụt rằng đó cũng là nhờ ý kiến và công trình của đại đức
Sariputta và thái tử Jeta.
Chú tiểu Rahula, năm nay đã mười hai tuổi. Theo nguyên tắc
chú phải thân cận với đại đức Sariputta để học hỏi với thầy, nhưng sáu tháng
nay vì thầy Sariputta vắng mặt cho nên chú đã được giao lại cho đại đức
Moggallana. Về tới tu viện Jetavana, chú lại được theo hầu thầy Sariputta như
cũ.
Hoàng thái tử Jeta và cư sĩ Suddatta thiết kế một lễ cúng dường
ngay tại tu viện mới, ngay sau ngày giáo đoàn tới Savatthi. Dân chúng quanh
vùng được mời tới chiều hôm ấy để nghe Bụt thuyết pháp. Đã nghe nói tới Bụt và
giáo đoàn từ nhiều tháng rồi cho nên hôm ấy dân chúng thủ đô về tu viện rất
đông. Bụt đã nói về bốn sự thật và con đường tám sự hành trì chân chính. Trong
số những người ngồi nghe Bụt có cả hoàng hậu Mallika, phu nhân của quốc vương
Pasenadi và công chúa Vajiri. Hoàng hậu và công chúa đã tới do lời mời của thái
tử Jeta. Thái tử đã có lòng hâm mộ Bụt từ ngày biết đại đức Sariputta, và chàng
đã nói nhiều về Bụt với mẹ và em gái. Công chúa mới lên mười sáu.
Nghe thuyết pháp xong, hoàng hậu và công chúa có cảm tình
ngay với Bụt. Cả hai người thấy tâm hồn như mở ra. Cả hai đều muốn xin làm đệ tử
Bụt, nhưng chưa dám. Hoàng hậu tự nhủ là phải có sự đồng ý của vua mới có thể đến
Bụt xin quy y. Hoàng hậu Mallika biết thế nào trong tương lai vua Pasenadi cũng
có cảm tình với Bụt, em gái của vua hiện giờ là chánh hậu của vua Bimbisara nước
Magadha, đã quy y với Bụt từ ba năm nay.
Trong số những người đến nghe Bụt thuyết pháp hôm ấy cũng có
nhiều nhân vật quan trọng thuộc các giáo phái tôn giáo đang thịnh hành ở
Savatthi. Họ đến vì tò mò hơn là vì tìm học. Có người nghe Bụt xong chợt thấy
tâm hồn cởi mở. Có người nghe Bụt xong thì thấy người là một thế lực tranh chấp
đáng ngại, nhưng ai nấy đều công nhận rằng sự xuất hiện của Bụt tại thành
Savatthi này là một biến cố rất trọng đại trong lịch sử tư tưởng và tôn giáo ở
vương quốc Kosala.
Hôm ấy sau khi lễ cúng dường và buổi thuyết pháp đã hoàn mãn,
cư sĩ Suddatta trân trọng tới quỳ trước Bụt và bạch với người:
– Con và gia đình con cùng tất cả các bạn hữu kính dâng tu viện
Jetavana này lên cho Bụt và giáo đoàn. Mong Bụt và giáo đoàn chấp nhận cho
chúng con.
Bụt nói:
– Suddatta, công đức của quý vị thật to lớn. Giáo đoàn khất
sĩ nhờ có cơ sở này mà có nơi tránh mưa, tránh nắng, thú hoang, rắn rết và muỗi
mòng. Đây là một cơ sở tu học rất thuận lợi cho các vị khất sĩ đến từ bốn
phương, trong hiện tại cũng như trong tương lai. Quý vị đã hết lòng hộ trì
chánh pháp, tôi mong là quý vị sẽ giữ vững chí hướng trên con đường tu tập.
Sáng hôm sau, Bụt và giáo đoàn khất sĩ ôm bát và đi vào thành
khất thực. Đại đức Sariputta đã chia các vị khất sĩ thành hai mươi đoàn khất thực,
và mỗi đoàn mười lăm vị. Sự có mặt của các chiếc áo vàng trong thành phố đã khiến
cho dân chúng nói nhiều tới tu viện Jetavana. Phong thái nghiêm trang và lặng lẽ
của các vị khất sĩ đã làm cho dân chúng thủ đô mến phục tăng đoàn.
Cứ mỗi bảy hôm thì lại có một buổi thuyết pháp tại tu viện
Jetavana, những buổi thuyết pháp này do Bụt chủ trì. Dân chúng đến dự rất đông.
Chỉ trong vòng mười hôm quốc vương Kosala là vua Pasenadi đã biết đến sự có mặt
của Bụt. Tuy bận rộn công việc triều chính, vua cũng đã có dịp ngồi nghe các vị
cận thần nói về ngôi tu viện mới và về giáo đoàn khất sĩ từ vương quốc Magadha
mới tới.
Trong một bữa cơm hoàng gia, vua đem chuyện giáo đoàn của Bụt
ra nói, hoàng hậu Mallika cho vua biết là thái tử Jeta có đóng góp vào việc xây
dựng tu viện. Vua cho đòi thái tử đến và hỏi về Bụt. Thái tử Jeta thực lòng tâu
vua về những gì mình nghe thấy. Thái tử nói là nếu được vua cho phép, thái tử sẽ
xin quy y làm học trò tại gia của Bụt.
Vua Pasenadi không tin là một người trẻ tuổi như Bụt mà đã chứng
đạt được quả vị giác ngộ và giải thoát cao tột như lời đồn đãi. Theo lời thái tử
thì Bụt chỉ mới có ba mươi chín tuổi. Ba mươi chín tuổi là tuổi của vua. Vua
nghĩ đức độ của Bụt làm sao cao bằng đức độ của những bậc lãnh tụ tôn giáo lớn
tuổi như Purana Kassapa, Makkhali Gosala, Nigantha Nathaputta và Sanjana
Belatthiputta. Lòng vua nửa tin nửa ngờ. Vua nghĩ thầm là khi nào có cơ hội vua
sẽ tìm tới thăm Bụt để tìm hiểu trực tiếp con người mà cả hoàng hậu Mallika cả
thái tử Jeta đều tỏ lòng cảm mến và kính phục.
Mùa mưa sắp tới, Bụt quyết định sẽ cùng đại chúng an cư tại
tu viện Jetavana, đã có kinh nghiệm từ những mùa kết hạ trước tại tu viện Trúc
Lâm, năm nay các thầy phụ tá cho Bụt tổ chức mùa an cư rất dễ dàng và chu đáo.
Số người mới xuất gia tại Savatthi đã lên tới sáu mươi vị. Suddatta đã đem tới
cho tu viện rất nhiều bạn hữu, những người này rất sốt sắng trong việc tổ chức
cúng dường và bảo trợ cho những sinh hoạt tu học tại tu viện.
Một buổi chiều nọ, Bụt tiếp một người đàn ông còn trẻ nhưng mặt
mũi bơ phờ. Được Bụt hỏi thăm, người này nói là đứa con trai độc nhất của ông
ta mới chết. Suốt mấy ngày nay, ông ta cứ ra ngoài bãi tha ma, vừa khóc vừa kêu
lên: “Con ơi, bây giờ con ở đâu?”, ông ta không thiết gì đến ăn uống và ngủ nghỉ.
Bụt nói:
– Đời là như thế đó, này ông bạn. Hễ có thương là có khổ.
Người đàn ông không chấp nhận lời của Bụt. Ông ta phản đối.
– Thầy nói sai rồi, thương không làm cho người ta khổ, thương
chỉ đem lại cho người ta hạnh phúc và niềm vui mà thôi!
Nói xong, người ấy bất mãn đứng dậy và bỏ đi, không cho Bụt
có cơ hội giải thích thêm về lời người vừa nói. Ông ta đi lang thang một hồi
thì gặp một toán người đang xúm nhau đánh bạc. Ông ta ngồi xuống tham dự và
nhân tiện kể lại cho bọn người đó nghe về cuộc gặp gỡ vừa rồi với Bụt. Những
người đàn ông đang cờ bạc với nhau đều đồng ý với ông ta, cho rằng lời Bụt nói
là sai. “Thương làm sao mà lại đem tới sầu khổ và thất vọng cho được. Thương chỉ
đem tới hạnh phúc và niềm vui mà thôi! Anh nói đúng đấy, ông sa môn Gotama nói
sai rồi”.
Câu chuyện này được truyền ra và chẳng mấy chốc đã trở nên đề
tài bàn tán sôi nổi của những giáo phái ở thủ đô Savatthi. Nhiều vị lãnh tụ
giáo phái cũng cho rằng Bụt có một quan niệm sai lầm về thương yêu, và rốt cuộc
câu chuyện được truyền đến tai quốc vương Pasenadi.
Chiều hôm ấy, trong bữa cơm gia đình, vua nói với hoàng hậu:
– Cái vị sa môn mà người ta thường gọi là Bụt ấy có thể không
phải là người giỏi.
Hoàng hậu hỏi:
– Tại sao hoàng thượng nói như vậy? Ai đã chê sa môn Gotama?
– Sáng nay ta có nghe các quan trong triều bàn tán về sa môn
Gotama. Họ nói rằng theo sa môn Gotama, càng thương nhiều thì càng lo lắng, sầu
khổ và thất vọng nhiều mà thôi.
Hoàng hậu Mallika tâu vua:
– Nếu sa môn Gotama đã nói như thế thì chắc đó là sự thật.
Vua Pasenadi không bằng lòng. Vua nói:
– Hoàng hậu đừng nên nói thế. Mình phải biết suy xét chứ. Đừng
làm như một em bé hễ thầy giáo nói điều gì thì cứ cho ngay điều ấy là đúng.
Hoàng hậu im lặng không nói gì. Bà biết là vua chưa có cảm
tình với Bụt. Sáng hôm sau bà nhờ một người Bà la môn tâm phúc là Nalijangha tới
viếng Bụt và hỏi xem có thật là người đã nói rằng “thương là nguồn gốc của lo lắng,
sầu khổ và thất vọng” không? Bà dặn là nếu Bụt có nói như thế thì hãy xin Bụt
giải nghĩa thêm cho rõ ràng và phải ghi nhớ hết những điều người dạy để về thuật
lại cho bà.
Nalijangha tới thăm Bụt và được Bụt kể cho mấy câu chuyện chứng
tỏ rằng thương là khổ. Bụt nói:
– Tại Savatthi này tôi nghe nói một người thiếu nữ vừa mất mẹ.
Cô ta đau khổ quá đến phát điên, cả ngày cứ đi ngoài đường gặp ai cũng hỏi: Ông
có gặp mẹ tôi đâu không? Bà có thấy mẹ tôi đâu không? Cũng tại Savatthi, tôi lại
mới nghe nói có hai thanh niên nam nữ yêu nhau, nhưng gia đình người con gái lại
ép gả cô cho một chàng trai mà cô không yêu. Do đó mà hai người yêu nhau phải rủ
nhau tự tử, nghĩ rằng chỉ có cái chết mới kết hợp họ với nhau được. Nội hai câu
chuyện này cũng có thể chứng tỏ rằng thương là khổ.
Nalijangha về thuật lại những câu chuyện ấy cho hoàng hậu
Mallika nghe.
Một hôm nhân lúc vua Pasenadi rảnh rỗi, hoàng hậu hỏi vua:
– Bệ hạ nghĩ thế nào, công chúa Vajiri có phải là người bệ hạ
thương yêu và cưng chiều nhất hay không?
– Đúng như vậy, ta thương yêu và cưng chiều con gái ta nhất.
– Vậy nếu có gì không may xảy ra cho công chúa Vajiri thì bệ
hạ có lo lắng, sầu khổ và thất vọng không?
Vua Pasenadi giật mình. Vua thấy rằng trong cái thương, có những
mầm mống của lo lắng, sầu khổ và thất vọng. Vua tự nhiên mất hết an lạc. Câu
nói của Bụt chứa đựng một sự thật phũ phàng làm cho vua ngẩn ngơ. Vua nói:
– Hôm nào có dịp trẫm cũng sẽ đến thăm viếng sa môn Gotama.
Nghe vua nói như thế, hoàng hậu rất vui mừng. Bà tin rằng
không được gặp Bụt thì thôi, chứ nếu được gặp Bụt thế nào vua cũng sẽ có cảm
tình với Bụt.
Chương 42 - Không hiểu biết thì không thể thương yêu
Vua Pasenadi đến thăm Bụt một mình, không có hoàng hậu và
công chúa đi theo. Vua cũng không đem theo vị văn quan hay võ quan nào. Ngài để
xe và thị vệ ngoài cổng tu viện Jetavana và đi bộ vào một mình. Vua được Bụt tiếp
trước chiếc am lá của người. Sau khi an vị và trao đổi những lời thăm hỏi, vua
hỏi Bụt một cách trực tiếp:
– Sa môn Gotama, người ta thường ca ngợi ngài là Bụt, là đã đạt
tới quả vị giác ngộ cao nhất. Trẫm băn khoăn tự hỏi: tuổi của ngài còn nhỏ, năm
tu của ngài cũng còn ít, thế mà tại sao ngài lại đạt tới thành quả đó được? Trẫm
đã nghe nói đến những vị đạo cao đức trọng như Puruna Kassapa, như Makkhali
Gosala, như Nigantha Nathaputta, như Sanjaya Belatthiputta… những vị này là người
tu lâu năm, tuổi tác đều lớn, tại sao họ không tự nhận họ là bậc giác ngộ hoàn
toàn? Lại còn những vị như Pakudha Kaccayana và Ajita Kesakambali nữa. Ngài có
nghe nói đến những vị ấy không?
Bụt ôn tồn:
– Đại vương, tôi có nghe nói tới các vị ấy và có vị tôi cũng
đã từng được gặp. Đại vương, sự tỉnh thức không tùy thuộc vào tuổi tác, và năm
tháng không quyết định được sự có mặt của giác ngộ. Đại vương, có những cái bé
nhỏ mà ta không nên khinh thường: một vị vương tử bé, một con rắn con, một đốm
lửa nhỏ và một nhà tu trẻ. Vị vương tử tuy bé nhưng cũng có vương tính của một
đức vua như bệ hạ bây giờ, một con rắn nhỏ có thể làm ta mất mạng trong chốc
lát. Một đốm lửa hồng có thể làm thiêu rụi một khu rừng hay một thành phố lớn
và một nhà tu trẻ có thể đạt tới quả vị giác ngộ hoàn toàn. Đại vương! Người
khôn ngoan không bao giờ khinh thường một vương tử bé, một con rắn nhỏ, một đốm
lửa hồng và một nhà tu trẻ.
Vua Pasenadi nhìn Bụt kinh ngạc. Người ngồi trước mặt vua đã
nói với vua những điều trên một cách điềm đạm. Những điều Bụt nói không hàm chứa
một hào ly mặc cảm nào. Vua bắt đầu có đức tin nơi Bụt. Vua hỏi Bụt về điều mà
vua còn thắc mắc và chưa giải quyết được xong xuôi:
– Sa môn Gotama, có người nói rằng ngài chủ trương không nên
thương yêu, bởi vì càng thương nhiều thì càng lo lắng nhiều, càng thương nhiều
thì càng sầu khổ nhiều, càng thương nhiều thì càng thất vọng nhiều. Trẫm nghĩ rằng
điều đó có thể đúng, nhưng lòng trẫm vẫn không yên. Trẫm nghĩ nếu không có
thương yêu thì cuộc đời sẽ khô khan và vô vị lắm. Xin ngài giải giùm những nghi
nan ấy cho trẫm.
Bụt nhìn vua:
– Đại vương, câu hỏi của ngài rất hay, và nhiều người sẽ được
khai sáng nhờ câu hỏi này. Tiếng thương yêu có nhiều nghĩa, ta phải xét cho kỹ
về bản chất của từng loại thương yêu. Cuộc đời cần đến sự thương yêu, nhưng
không phải là thứ thương yêu dựa trên căn bản của dục vọng, của đam mê và vướng
mắc, của phân biệt và kỳ thị. Đại vương, có một thứ tình thương mà cuộc đời rất
cần đến, đó là lòng từ bi. Từ là maitri, còn bi là karuna.
Đại vương, tình thương mà người đời thường nói tới là tình
thương giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng, giữa những người cùng trong họ
hàng, cùng thân tộc, cùng giai cấp hoặc cùng quốc gia. Vì tình thương ấy còn dựa
vào ý niệm “tôi” và “của tôi” cho nên bản chất của nó còn là sự vướng mắc và
phân biệt.
Người ta chỉ muốn thương cha của mình, thương mẹ của mình,
thương chồng của mình, thương vợ của mình, thương con của mình, thương cháu của
mình, thương họ hàng của mình, thương đất nước của mình, cho nên người ta còn
vướng mắc và phân biệt. Vướng mắc cho nên lo lắng về những bất trắc có thể xảy
đến dù chúng chưa xảy đến, vướng mắc cho nên phải gánh chịu sầu đau và thất vọng
mỗi khi có những bất trắc xảy đến.
Phân biệt cho nên có thái độ nghi kỵ, hờ hững và ghét bỏ đối
với những người mình không thương. Vướng mắc và phân biệt đều là những nguyên
nhân của khổ đau, khổ đau cho mình và cho người.
Đại vương, thứ tình thương mà muôn loài đang khao khát là
lòng từ bi. Từ là thứ tình thương có thể đem đến an vui cho kẻ khác, bi là thứ
tình thương có thể làm vơi đi những khổ đau của kẻ khác. Từ và bi là thứ tình
thương không có điều kiện, không bắt buộc và không đòi hỏi bất cứ một sự đền
đáp nào. Trong từ bi, người được thương không phải chỉ là cha ta, mẹ ta, vợ ta,
chồng ta, con ta, huyết thống ta, giai cấp ta… Kẻ được thương là tất cả mọi người
và mọi loài.
Trong từ và bi không có sự phân biệt ta và không ta, của ta
và của không của ta. Vì không phân biệt nên không có vướng mắc. Từ và Bi chỉ
đem lại niềm vui và làm giảm đi nỗi khổ; Từ và Bi không gây lo lắng sầu khổ và
thất vọng. Thiếu từ bi, cuộc đời sẽ khô khan, khổ đau và buồn chán như đại
vương nói. Có từ bi, cuộc đời sẽ có an lạc, hạnh phúc và tươi vui. Đại vương,
ngài là bậc nhân chủ cầm đầu của cả một nước, dân chúng vương quốc ngài sẽ được
thấm nhuần ân đức ngài nếu ngài tu tập được tâm Từ và tâm Bi.
Vua cúi đầu suy nghĩ một lúc. Sau đó vua ngửng lên hỏi Bụt:
– Trẫm có một gia đình để coi sóc, có một vương quốc phải
chăm lo. Nếu trẫm không thương yêu gia đình của trẫm và dân chúng trong vương
quốc của trẫm thì làm sao trẫm có thể coi sóc và chăm lo cho họ được? Xin Bụt
soi sáng điểm này cho trẫm.
– Cố nhiên là đại vương phải thương yêu gia đình hoàng gia và
phải thương yêu dân chúng của vương quốc. Nhưng tình thương yêu của đại vương
có thể vượt khỏi phạm vi gia đình và vương quốc. Đại vương thương yêu và chăm
sóc cho các hoàng tử và công chúa. Điều đó không ngăn cản việc đại vương có thể
thương yêu và chăm sóc cho tất cả những người trẻ khác trong vương quốc như là
thương yêu và chăm sóc chính con trai và con gái của đại vương. Nếu đại vương
làm được như vậy thì tình thương hạn hẹp trở thành tình thương rộng lớn, và đột
nhiên tất cả những người trẻ tuổi trong vương quốc đều trở nên con trai và con
gái của đại vương. Đó đích thực là tâm từ bi. Đây không phải là một điều quá lý
tưởng. Đây là một điều con người có thể thực hiện được, nhất là khi con người ấy
có trong tay những phương tiện như đại vương. Nếu đại vương phát được nguyện lớn
thì đại vương chắc chắn có thể làm được điều này.
– Nhưng còn những người trẻ tuổi trong các vương quốc khác?
– Không có gì ngăn cản đại vương thương yêu những người trẻ
tuổi trong các vương quốc khác như con trai và con gái của ngài, dù những người
này không nằm trong vùng cai trị của đại vương. Không phải vì thương yêu dân
chúng của quốc gia mình mà mình không thể thương yêu dân chúng của các quốc gia
khác.
– Thương yêu như thế nào? Họ có nằm dưới quyền cai trị của
mình đâu?
Bụt nhìn vua:
– Sự giàu mạnh và an ổn của một quốc gia không phải được tạo
nên bởi sự nghèo hèn và loạn lạc của những quốc gia khác. Đại vương, nền hòa
bình và thịnh vượng lâu dài của một quốc gia chỉ có thể được xây dựng trên sự
hòa hiếu giữa các quốc gia và ý hướng về một nền thịnh vượng chung. Nếu đại
vương thực sự muốn cho vương quốc Kosala có hòa bình và những người trai trẻ
trong vương quốc không phải xông pha nơi lửa đạn thì đại vương cũng phải giữ
gìn làm sao cho các vương quốc kế cận cũng có hòa bình và để những trai trẻ các
xứ đó cũng khỏi phải xông pha trong vòng lửa đạn. Chính sách ngoại giao và kinh
tế của đại vương phải thực sự đi theo con đường của tâm từ bi thì đại vương mới
có thể làm được chuyện này. Như vậy trong khi đại vương thương yêu và chăm sóc
cho quốc gia Kosala, đại vương cũng chăm sóc cho các vương quốc khác như
Magadha, Sasi, Videha, Sakya và Koliya.
Đại vương, mới năm ngoái đây, sau khi về thăm gia đình và
vương quốc Sakya, tôi và nhiều vị khất sĩ có tới du hóa ở Arannakutila, thuộc
lãnh thổ của quý quốc, sát chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ở đó tôi đã suy nghiệm về một
chính sách trị nước căn cứ trên nguyên tắc bất bạo động. Tôi thấy các vị quốc
vương rất có thể cai trị nghiêm minh, đem lại an hòa và hạnh phúc của muôn dân
mà không cần sử dụng đến những biện pháp bạo động như chinh phạt, xử tử, giam
hãm, tù đày v.v… Tôi đã nói những điều này với phụ vương tôi, vua Suddhodana.
Nhân tiện đây tôi cũng muốn xác định điều đó với đại vương. Làm nhà chính trị
giỏi, đại vương có thể trị nước mà không cần đến những phương thức bạo động, nếu
ngài biết un đúc và nuôi dưỡng Từ Bi.
Vua thốt lên:
– Thật là kỳ diệu! Thật là kỳ diệu! Chưa bao giờ trẫm được
nghe những lời giáo huấn mới lạ và sâu sắc như thế! Ngài thật là một bậc tôn
quý trên đời! Những điều Bụt dạy, trẫm xin lĩnh giáo để về chiêm nghiệm, bởi vì
trẫm biết những lời dạy ấy có những chiều sâu cần phải khám phá. Bây giờ trẫm
xin hỏi ngài một câu hỏi thật đơn giản. Thói thường, thì tình thương của người
đời bao giờ cũng ẩn chứa ý niệm phân biệt, và ít nhiều cũng mang tính chất đam
mê và vướng mắc. Theo Bụt thì thứ tình thương đó có thể gây nên lo lắng, sầu khổ,
và thất vọng. Vậy nếu không thương như thế thì ta phải thương làm sao? Ví dụ
như trẫm đây, trẫm phải thương con cái của trẫm như thế nào để tránh được những
lo lắng, sầu khổ và thất vọng?
– Không ai cấm cản chúng ta thương yêu, nhưng ta phải biết
quán sát để thấy được bản chất của tình thương chúng ta. Tình thương theo lẽ
thì phải làm cho người được thương yêu có an lạc và hạnh phúc, nhưng nếu chỉ là
đam mê, là ích kỷ, là ý chí chiếm hữu thì tình thương này không thực sự là tình
thương, tình thương này không làm cho người được thương có an lạc và hạnh phúc.
Trái lại nó làm cho kẻ kia cảm thấy tù túng, lệ thuộc, mất hết tự do, mất hết
phẩm cách của một con người có tự do. Tình thương trong trường hợp này chỉ là một
tù ngục. Nếu người được thương không có hạnh phúc, nếu người ấy không chấp nhận
cái nhà tù của sự chiếm hữu thì tình thương kia sẽ dần dần biến thành sự ghét bỏ
và hận thù.
Đại vương biết không, tại kinh đô Savatthi này cách đây chỉ
có mười hôm, một chuyện thương tâm đã xảy ra chỉ vì tình thương không được thỏa
mãn đã biến thành hận thù. Có một bà mẹ cảm thấy mất mát khi đứa con trai duy
nhất của bà đem lòng thương yêu một cô thiếu nữ và sau đó cưới cô ấy về làm vợ.
Bà mẹ kia thay vì thấy rằng mình có thêm một đứa con, lại cảm thấy rằng mình đã
mất một đứa con, và cho rằng con trai mình đã phản bội tình thương của mình.
Nghĩ như thế, hận thù nảy sinh trong tâm bà. Một hôm bà đã bỏ thuốc độc vào thức
ăn, và cả con trai lẫn con dâu đều chết vì ngộ độc. Đại vương! Trong đạo lý
giác ngộ, thương yêu phải đi đôi với hiểu biết, thương yêu chính là hiểu biết.
Nếu không hiểu biết thì không thể thương yêu, vợ chồng không hiểu nhau thì
không thể thương nhau, anh em không hiểu nhau thì không thể thương nhau. Muốn
cho một người nào có hạnh phúc, mình phải tìm hiểu cho được những ước vọng và
những khổ đau của chính người ấy. Hiểu được rồi mình mới có thể làm mọi cách để
cho người ấy bớt khổ đau và có hạnh phúc. Như vậy mới gọi là tình thương chân
thật, còn nếu mình chỉ muốn kẻ kia làm theo ý mình, và không biết gì đến những
khổ đau và những nhu cầu chân thực của người ấy thì đó không phải là thương. Đó
chỉ là ước muốn chiếm hữu hoặc ước muốn thỏa mãn ý nguyện của mình, cho dù đó
là ý nguyện muốn cho người kia sung sướng.
Đại vương! Dân chúng trong vương quốc Kosala có những đau khổ
và những ước vọng của họ. Nếu đại vương thực sự hiểu thấu những đau khổ và những
ước vọng ấy thì đại vương sẽ thực sự thương yêu được họ. Các quan chức trong
triều cũng có những đau khổ và những ước vọng của họ. Nếu đại vương thực sự thấu
hiểu những đau khổ và ước vọng ấy, đại vương có thể làm cho họ sung sướng và họ
sẽ suốt đời trung thành với đại vương. Hoàng hậu, các thái tử và công chúa, mỗi
người cũng đều có những đau khổ và những ước vọng của mình; nếu đại vương thực
sự thấu hiểu được những đau khổ và những ước vọng ấy, đại vương cũng sẽ làm cho
họ sung sướng, và khi mọi người được sung sướng và an lạc thì chính đại vương
cũng sẽ được sung sướng và an lạc. Đó là nghĩa thương yêu trong đạo lý tỉnh thức.
Vua Pasenadi cảm thấy xúc động. Chưa có một vị đạo sĩ hay một
vị Bà la môn nào đã chiếu rọi ánh sáng vào các ngõ ngách tâm tư của vua và làm
cho vua thấy hiểu được tâm mình một cách rõ ràng như thế. Vị sa môn này, vua
nghĩ, là một bảo vật quý giá khôn lường của vương quốc, xứng đáng làm thầy của
ta.
Vua cúi đầu suy nghĩ. Một lát sau, vua ngửng mặt nhìn Bụt:
– Trẫm cảm ơn ngài đã soi sáng nhiều cho trẫm, nhưng còn một
điều này nữa, trẫm còn thắc mắc. Ngài đã nói rằng tình thương có đam mê và vướng
mắc thường có tác dụng gây khổ đau và thất vọng, trong khi thương theo đạo lý từ
bi tuy không ích kỷ và không vụ lợi nhưng cũng vẫn đem lại khổ đau và thất vọng
như thường. Trẫm cũng thương dân, nhưng mỗi khi thấy dân chịu khổ đau vì những
thiên tai như bão tố lụt lội, dịch lệ… thì trẫm vẫn cảm thấy khổ đau và thất vọng,
mà trẫm nghĩ ngài cũng thế, mỗi khi thấy người khác khổ đau vì bệnh hoạn, chết
chóc, ngài cũng không thể không khổ đau.
– Câu hỏi của đại vương rất hay; nhờ câu hỏi này mà ngài có
thể hiểu sâu thêm về bản chất của từ bi. Trước hết, đại vương nên biết rằng những
khổ đau do thứ tình thương có bản chất đam mê và vướng mắc đem lại thì nặng nề
và to lớn gấp muôn vạn lần những khổ đau mà lòng từ bi đã làm phát khởi trong
lòng ta. Kế đó, đại vương phải phân biệt hai loại khổ đau: một loại khổ đau
hoàn toàn vô ích và chỉ có công dụng tàn phá cơ thể và tâm hồn người, một loại
khổ đau nuôi dưỡng được lòng từ bi, ý thức trách nhiệm và đưa tới ý chí hành động
diệt khổ. Thứ tình thương có bản chất đam mê và vướng mắc vì được nuôi dưỡng
trong tham đắm và si mê nên chỉ có thể đem lại những phiền não khổ đau làm tàn
phá con người, trong khi từ bi chỉ nuôi dưỡng xót thương cho hành động cứu khổ.
Đại vương! Sự xót thương rất cần cho con người. Đó là một niềm đau có ích.
Không biết xót thương thì con người không thể là con người, vì vậy những khổ
đau do lòng xót thương đem lại là những khổ đau cần thiết và có lợi lớn.
Sau nữa, đại vương nên biết là từ bi là hoa trái của sự hiểu
biết. Tu tập theo đạo lý tỉnh thức là để chứng ngộ được thực tướng của sự sống.
Thực tướng ấy là vô thường. Mọi vật đều vô thường, vô ngã, vì vậy không vật nào
là không có ngày phải tàn hoại. Thấy được tự tính vô thường của vạn vật, người
tu có một cái nhìn điềm đạm và trầm tĩnh, vì vậy những vô thường xảy đến không
làm xáo động được tâm mình. Cũng vì vậy niềm xót thương do lòng từ bi nuôi dưỡng
không bao giờ có tính cách nặng nề và chua cay của những đau khổ thế tục. Trái
lại, niềm xót thương này còn đem đến sức mạnh cho người tu đạo. Đại vương! Hôm
nay đại vương đã nghe khái quát về đạo lý giải thoát. Một hôm khác, tôi sẽ giảng
giải thêm cho đại vương về đạo lý này.
Với tâm hồn tràn đầy sự biết ơn, quốc vương Pasenadi đứng dậy
từ tạ Bụt. Vua tự nhủ là một ngày nào đó vua sẽ xin Bụt nhận vua làm đệ tử. Vua
biết hoàng hậu Mallika, thái tử Jeta và công chúa Vajiri đều đã có cảm tình sâu
đậm với Bụt, và vua nghĩ hôm nào cả gia đình hoàng gia sẽ đến xin quy y làm đệ
tử cùng một lần. Vua cũng biết là em gái mình, công chúa Kosaladevi, chánh hậu
của quốc vương Bimbisara, cũng như chính quốc vương Bimbisara, em rể của mình,
cũng đã từ lâu quy y Tam Bảo.
Chiều hôm ấy, hoàng hậu Mallika và công chúa Vajiri đột nhiên
thấy vua trở nên rất ngọt ngào và thầm lặng. Hoàng hậu và công chúa biết đó là
hiệu quả của cuộc gặp gỡ giữa vua và Bụt. Tuy nhiên cả hai đều không đả động tới
việc này. Họ rất muốn vua kể lại cho họ nghe về cuộc gặp gỡ mà họ biết là rất kỳ
thú ấy, nhưng cả hai người đều mặc nhiên đồng ý rằng họ phải đợi tới một dịp
khác.
Chương 43 - Máu ai cũng đỏ, nước mắt ai cũng mặn
Tuy quốc vương Pasenadi chưa chính thức quy y với Bụt, nhưng
cuộc viếng thăm của vua tại tu viện Jetavana đã được mọi giới trong vương quốc
bàn tán đến và đã đem lại ảnh hưởng không nhỏ cho giáo đoàn của Bụt tại kinh đô
Savatthi. Một số các vị lãnh tụ của các giáo phái tại thủ đô, lâu nay đã từng
được quốc vương kính nể và bảo trợ, bắt đầu có mặc cảm là bị bỏ rơi. Họ nhìn tu
viện Jetavana với con mắt không có thiện cảm.
Tuy nhiên giới trí thức và tuổi trẻ tìm tới tu viện Jetavana
càng lúc càng đông. Ngay trong mùa an cư, trên một trăm năm mươi thanh niên đã
xin được xuất gia và đã được thầy Sariputta cho làm lễ xuống tóc. Đại chúng tu
học rất tinh tấn trong ba tháng an cư này, và cứ bảy hôm hay tám hôm một lần, tại
tu viện có tổ chức thuyết pháp. Thấy quốc vương Pasenadi chuyên cần đi cúng dường
và nghe thuyết pháp một số quan chức trong triều cũng bắt chước vua. Một số đã
làm như thế từ tấm lòng thành thực ngưỡng mộ bậc thầy giác ngộ, còn một số đã
làm như thế để cho vua vui lòng.
Mùa an cư được kết thúc bằng một lễ cúng dường lớn. Vua và
triều thần đã nghe theo lời Bụt tổ chức một pháp hội, cúng dường thực phẩm và y
dược cho mọi giới xuất gia, và chẩn tế cho những gia đình nghèo khổ nhất ở thủ
đô và trong vương quốc. Sau khi lễ này hoàn mãn, vua và hoàng hậu đều xin quy y
với Bụt.
Sau mùa an cư, Bụt và giáo đoàn chia nhau đi hành hóa tại các
vùng lân cận ở thủ đô Savatthi. Số người được tiếp xúc với Bụt và với giáo đoàn
càng ngày càng đông. Một hôm nọ, trong khi đi khất thực ở một xóm ven đô nằm
bên tả ngạn sông Hằng, Bụt gặp một người gánh phân. Người này thuộc về giai cấp
hạ tiện. Anh tên là Sunita, Sunita đã từng nghe nói về Bụt và giáo đoàn khất
sĩ, nhưng đây là lần đầu tiên anh được trông thấy Bụt và giáo đoàn. Sunita lúng
túng. Anh biết anh đang ăn mặc dơ dáy, người anh hôi hám và trên vai anh đang
gánh một gánh phân người. Sunita vội vã tránh đường và tìm lối đi xuống bờ
sông, nhưng từ xa Bụt đã trông thấy Sunita. Người quyết tâm độ người gánh phân
này. Thấy Sunita tìm lối đi xuống bờ sông, người cũng tìm lối đi xuống bờ sông
để đón đường chàng. Thấy Bụt làm như thế, thầy Sariputta cũng bỏ hàng ngũ của
mình đi theo Bụt. Thầy Meghiuya, thị giả của Bụt thấy thế cũng bước theo đại đức
Sariputta. Tất cả các vị khất sĩ khác tuy vẫn còn đứng trong hàng ngũ, nhưng đều
nhất loạt dừng lại im lặng quan sát.
Sunita luống cuống. Chàng đặt gánh phân xuống, dáo dác nhìn.
Phía trên đường thì các vị khất sĩ áo cà sa vàng rựng đang đứng đầy cả đường,
phía dưới này thì Bụt và hai vị khất sĩ đang tiến tới và đi về phía mình. Chẳng
biết làm sao, Sunita liền lội xuống nước, đứng chắp hai tay lại.
Lúc bấy giờ, từ dãy nhà bên sông, dân chúng đã đổ ra đứng
nhìn khá nhiều. Từ già trẻ trai gái, không ai biết chuyện đang xảy ra, Sunita
vì sợ làm ô uế giáo đoàn đã tìm cách tránh xuống bờ nước, nhưng chàng đã bị Bụt
chặn đường. Chàng nghĩ giáo đoàn này gồm toàn các giới quý phái và làm ô uế
giáo đoàn là một tội rất lớn không thể nào tha thứ được. Tuy chàng đã lội xuống
sông, nước ngập tới đầu gối, nhưng gánh phân của chàng vẫn còn để phía trên bờ
nước. Chàng hy vọng Bụt và hai vị khất sĩ vì thế mà trở lên phía đường trên trở
lại.
Nhưng Bụt không trở lên, người đi tới bờ nước, gần chỗ Sunita
đứng, người nói với chàng:
– Này anh bạn, anh lên trên này để chúng tôi nói chuyện.
Sunita chắp hai tay vái lia lịa:
– Bạch đại đức, con không dám! Bạch đại đức, con không dám!
– Tại sao? Bụt dịu dàng hỏi.
– Con là người thuộc giai cấp hạ tiện, con sợ làm ô uế ngài
và giáo đoàn của ngài.
Bụt ôn tồn:
– Chúng tôi đã đi tu rồi, chúng tôi không còn phân biệt giai
cấp.Bạn cũng là người như tất cả chúng tôi. Chúng tôi không sợ bị ô uế đâu. Chỉ
có tham dục, sân hận, và si mê mới làm ô uế được chúng ta, chứ một con người dễ
thương như bạn thì chỉ cho chúng tôi thêm niềm vui mà thôi. Bạn tên là gì?
– Bạch ngài, con tên là Sunita.
– Sunita, bạn có muốn xuất gia làm khất sĩ như chúng tôi
không?
– Con không dám.
– Tại sao bạn không dám?
– Tại vì con thuộc giới hạ tiện ngoại cấp.
– Tôi đã nói người đi tu không còn phân biệt giai cấp.
Sunita! Trong đạo lý tỉnh thức và trong giáo đoàn khất sĩ, không có sự phân biệt
giai cấp. Bạn hãy nghe đây. Nước trong các dòng sông như sông Ganga, sông
Yamuno, sông Actravati, sông Sarabhu, sông Mahi, sông Rohini v.v… một khi đã chảy
ra biển cả rồi thì đều trở nên biển cả mà không còn giữ lại cá tính và danh hiệu
riêng biệt của mình. Cũng như vậy, người đi xuất gia dù xuất thân từ giới quyền
quý Khattiya hoặc giới Bà la môn Brahma, hoặc các giới Vessa và Suddha, hoặc
không thuộc giai cấp nào, khi đã vào trong giáo đoàn để tu học theo đạo lý tỉnh
thức thì đều phải từ bỏ giai cấp và chủng tộc của mình để trở nên một người khất
sĩ. Sunita, nếu bạn muốn, bạn có thể trở thành một vị khất sĩ như chúng tôi.
Sunita hân hoan vô cùng, chàng chắp hai tay trên trán, thưa:
– Lạy Bụt, chưa có ai nói với con một lời dễ thương như là
người đã nói. Ngày hôm nay là ngày hạnh phúc nhất của đời con. Con sẽ rất sung
sướng nếu Bụt cho con dự vào hàng ngũ những người xuất gia trong đạo lý của người.
Nếu Bụt chấp nhận con, con sẽ đem hết lòng thành để theo người!
Bụt trao bình bát cho thầy Meghiya. Người bước xuống bờ hồ và
đưa tay cho Sunita bảo chàng nắm lấy. Rồi người bảo thầy Sariputta:
– Sariputta! Thầy giúp tôi một tay. Chúng ta tắm gội sạch sẽ
cho Sunita và cho Sunita xuất gia ngay tại đây, trên bờ nước này.
Đại đức Sariputta mỉm cười. Thầy đặt bình bát của thầy trên bờ
sông và bước xuống giúp Bụt. Sunita không cảm thấy thoải mái lắm khi được Bụt
và thầy Sariputta kỳ cọ và tắm rửa, nhưng chàng không dám làm phật lòng hai người.
Bụt bảo thầy thị giả lên tìm đại đức Ananda để xin một chiếc y khoác ngoài, và
người làm lễ xuất gia cho Sunita ngay trên bờ sông. Làm lễ xuất gia xong,
Sunita được giao cho đại đức Sariputta. Đại đức đưa vị khất sĩ mới về tu viện
Jetavana, trong khi Bụt và giáo đoàn tiếp tục trên con đường khất thực.
Tất cả những gì xảy ra bên bờ sông hôm ấy dân chúng địa
phương đều đã được chứng kiến. Tin Bụt thâu nhận Sunita một người làm nghề hốt
phân, một người thuộc giai cấp hạ tiện vào trong giáo đoàn khất sĩ bắt đầu được
loan truyền trong các giới ở thủ đô, nhất là giới tôn giáo, và đã gây xúc động
lớn. Chưa bao giờ ở vương quốc Kosala này mà một người trong giới ngoại cấp như
Sunita lại được đón nhận và đưa vào hàng ngũ của những nhà lãnh đạo tinh thần.
Có những người lên án Bụt, cho rằng sa môn Gotama bất chấp truyền thống và tập
tục xã hội. Có người đi xa hơn, cho là Bụt có ý gây đảo lộn trật tự xã hội với
mục đích phá rối sự trị an trong nước.
Những bàn tán xôn xao này được vọng về tu viện Jetavana do
các giới nam nữ cư sĩ cũng có mà do các vị khất sĩ về thuật lại cũng có. Các vị
đại đức lớn như Sariputta, Mahakassapa, Mahamoggallana và Anuruddha đã tìm cơ hội
gặp Bụt để bàn về cách đối trị lại những phản ứng của các giới ở thủ đô về vụ
khất sĩ Sunita. Bụt bảo các thầy:
– Quý vị biết rằng sớm muộn gì chúng ta cũng phải chấp nhận
vào giáo đoàn những thiện nam nữ trong giới ngoại cấp, bởi vì giáo nghĩa của
chúng ta là giáo nghĩa bình đẳng, không chấp nhận được sự phân chia giai cấp.
Ta đã gặp khó khăn bây giờ, nhưng nếu ta vượt thắng được thì ta sẽ mở được cánh
cửa chưa từng được mở ra trong lịch sử, và các thế hệ mai sau này sẽ được thừa
hưởng công đức. Chúng ta phải có can đảm.
Thầy Moggallana bạch:
– Can đảm thì chúng con có đủ. Chúng con cũng có đủ kiên nhẫn
nữa, nhưng làm thế nào để dư luận bớt xôn xao thì công trình vào đời hành đạo của
các huynh đệ khất sĩ mới đỡ phần nặng nhọc.
Thầy Sariputta đề nghị:
– Điều quan trọng nhất là giáo đoàn tu học cho tinh tấn. Con
sẽ nỗ lực giúp đỡ và hướng dẫn cho khất sĩ Sunita. Sự thành công của Sunita sẽ
là bằng chứng hùng mạnh nhất để bênh vực chúng ta. Huynh đệ chúng ta cũng cần học
cách giải thích cho quần chúng mỗi khi tiếp xúc với họ để cho họ hiểu được chân
nghĩa bình đẳng của con đường Bụt dạy. Lạy Bụt, nếu đức tôn quý trên đời có
cách thức gì hay hơn nữa thì xin người chỉ dạy chúng con.
Bụt để tay lên vai Sariputta:
– Những điều thầy nói đó rất đúng với ý của tôi. Chúng ta cứ
như thế mà hành trì.
Chừng một tháng sau, sự đồn đãi về Sunita tới được tai quốc
vương Pasenadi. Một số các vị lãnh đạo các giáo phái tại thủ đô đã đến xin yết
kiến vua. Vốn sẵn có lòng thành kính đối với tất cả các bậc lãnh tụ tôn giáo,
vua Pasenadi đã tiếp kiến họ và sau khi nghe mọi người nói chuyện vua cũng cảm
thấy hoang mang, dù rằng vua có cảm tình nồng hậu với Bụt. Vua hứa hẹn với các
vị lãnh đạo tôn giáo ấy là sẽ suy xét về vấn đề này.
Rồi một hôm vua bảo xa giá đưa ngài tới tu viện Kỳ Viên.
Xe ngừng trước cổng tu viện, vua một mình đi bộ vào. Bóng các
vị khất sĩ áo vàng thấp thoáng sau những hàng cây xanh mát trong khuôn viên tu
viện. Đã quen thuộc với con đường nhỏ dẫn tới tịnh thất của Bụt, vua cứ một
mình đi, không cần hỏi thăm. Thỉnh thoảng trên đường đi, vua gặp một vị khất
sĩ. Mỗi lần như thế, vua đều đứng lại chắp tay và cúi đầu. Vị khất sĩ nào cũng
đứng lại chắp tay đáp lễ. Vua nhận thấy vị nào cũng có dáng điệu trầm lặng,
thong dong, không vội vã, và vua bỗng nhiên cảm thấy đức tin của vua nơi Bụt lớn
mạnh bội phần.
Nửa đường vào tịnh thất, vua gặp một vị khất sĩ đang thuyết
pháp trên một phiến đá, vây quanh vị khất sĩ này có chừng mười mấy vị khất sĩ
khác và khoảng độ ba bốn mươi người cư sĩ áo trắng. Cảnh tượng rất đẹp đẽ.
Phiến đá nằm dưới gốc cây thông lớn xòe lá che mát cả một
vùng. Vị khất sĩ đang ngồi thuyết pháp kia tuổi chưa tới bốn mươi nhưng phong
thái của ông đoan nghiêm và sáng rỡ. Những người ngồi và đứng quanh ông đang hết
sức chăm chú nghe ông nói. Vua dừng lại để nghe và cảm thấy thích thú. Định ngồi
xuống để nghe cho hết bài thuyết pháp nhưng vua chợt nhớ ra rằng mình đã tới
đây với một chủ đích, cho nên ngài phải bỏ đi.
Vua nghĩ bụng là trong chuyến về ngài sẽ ghé lại để cùng đàm
đạo với vị khất sĩ ấy.
Bụt ra đón vua ngoài ngõ trúc phía trước tịnh xá và mời vua
vào, Bụt mời vua ngồi, cũng vẫn trên những chiếc ghế tre như hôm hai người gặp
nhau lần đầu. Sau khi trao đổi những lời thăm hỏi, vua hỏi Bụt vị khất sĩ đang
thuyết pháp trên phiến đá dưới gốc thông già là ai. Bụt mỉm cười, nói:
– Đó là thầy Sunita xuất thân từ giới ngoại cấp, trước làm
nghề đổ thùng. Đại vương thấy vị khất sĩ ấy thế nào?
Vua giật mình, thì ra vị khất sĩ có tướng mạo đoan nghiêm và
sáng rỡ kia vốn là người đổ thùng Sunita. Nếu Bụt không nói thì vua không thể
nào đoán ra được. Vua còn chưa biết nói gì thì Bụt đã nói:
– Vị khất sĩ Sunita từ ngày xuất gia đến nay đã tu học rất
tinh tiến.Đó là một con người thẳng thắn, thành thật, thông minh và có chí nguyện
lớn. Mới được tu học chưa đầy ba tháng mà thầy ấy đã nổi tiếng là người có đạo
hạnh và phong thái thanh cao. Đại vương có muốn gặp gỡ và cúng dường cho vị khất
sĩ rất xứng đáng ấy hay không?
Vua thành thật đáp:
– Trẫm rất sẵn sàng gặp gỡ và cúng dường y áo và thức ăn cho
vị khất sĩ Sunita. Thế Tôn! Giáo pháp của ngài thật là thâm diệu! Trẫm chưa thấy
một vị đạo sư nào có cái nhìn và tầm tay mở rộng như ngài. Thế Tôn! Có lẽ không
một người nào, một loài nào hay một vật nào mà không được dự vào giáo pháp thâm
diệu của ngài. Trẫm đã đến đây với một mục đích là hỏi ngài tại sao ngài lại chấp
nhận một người trong giai cấp hạ tiện vào trong giáo đoàn cao quý của ngài,
nhưng trẫm đã được thấy, được nghe, và đã được hiểu. Trẫm không phải hỏi ngài nữa.
Trẫm xin cúi lạy trước Thế Tôn!
Vua đứng dậy chắp tay định lạy xuống, Bụt cũng đứng dậy. Người
kéo tay vua mời vua ngồi trở lại trên chõng tre. Người cũng ngồi lại trên chõng
tre. Nhìn vua, Bụt nói:
– Đại vương! Trong đạo lý giải thoát, không có sự phân biệt
giai cấp và chủng tính. Trước con mắt người giác ngộ, tất cả mọi chúng sinh đều
bình đẳng. Máu ai cũng đỏ, nước mắt ai cũng mặn, tất cả chúng ta đều là con người.
Ta phải tìm cách để mọi người có cơ hội đồng đều và vươn tới và thực hiện hoài
bão của mình cũng như hoàn thành nhân phẩm của mình, vì vậy cho nên tôi đã đón
nhận Sunita vào giáo đoàn khất sĩ.
Vua chắp tay:
– Trẫm đã hiểu, con đường của Thế Tôn đi là một con đường có
nhiều chông gai. Trẫm biết là trên con đường ấy người sẽ gặp nhiều khó khăn và
trở ngại, nhưng trẫm cũng biết là người có đủ hùng lực để vượt qua những trở ngại
đó. Riêng trẫm, trẫm sẽ làm hết sức mình để yểm trợ cho chánh pháp.
Vua từ giã Bụt, nhưng khi ra đến tảng đá nằm dưới cây thông
già, vua không thấy vị khất sĩ và thính chúng của người đâu nữa. Mọi người đã
giải tán, vua chỉ gặp trên đường những vị khất sĩ đang chậm rãi đi thiền hành.
Chương 44 - Tứ đại tan rã rồi tứ đại lại kết hợp
Một hôm Bụt được thầy Meghiya cho biết là đại đức Nanda, em
cùng cha khác mẹ với Bụt, không cảm thấy thoải mái và hạnh phúc trong đời sống
xuất gia. Thầy Nanda có tâm sự với thầy là thầy nhớ người yêu cũ ở thành
Kapilavatthu quá.
“Sư huynh biết không,” thầy Nanda nói, “tôi còn nhớ hôm tôi cầm
bình bát theo Bụt đi về tu viện Nigrodha, công nương Janapada Kalyani đã nhìn
tôi và nói: điện hạ đi mau mà về nhé, em chờ điện hạ. Tôi nhớ rất rõ mái tóc mượt
như nhung được vắt một phần sau cái vai thon nhỏ của nàng. Hình ảnh này hay hiện
về với tôi mỗi khi tôi ngồi thiền, mà mỗi khi hình ảnh đó hiện về là tôi cảm thấy
xốn xang và thao thức; mỗi lúc như thế này tôi thấy tôi không có hạnh phúc khi
sống đời sống xuất gia”.
Chiều ngày hôm sau, Bụt rủ Nanda đi thiền hành chung với người.
Ra khỏi vườn Kỳ Đà, hai người đi về phía một thôn trang hẻo lánh, họ đi tới một
cái hồ và cùng ngồi xuống trên một phiến đá bên hồ. Nước hồ trong vắt, một đàn
vịt bơi lội thảnh thơi dưới hồ. Ở những lùm cây phía trên, chim chóc ca hát
vang lừng, Bụt nói với Nanda:
– Các thầy có nói là em không được hạnh phúc trong đời sống
xuất gia, có phải vậy không?
Thầy Nanda im lặng. Một lát sau, Bụt hỏi:
– Hay là em muốn trở về Kapilavatthu tập sự làm chính trị để
sau này thay thế cho phụ vương?
Nanda vội đáp:
– Không, em đã nói là em không thích làm chính trị. Em biết
em không có khả năng làm chính trị, vì vậy em cũng đã nói là em không thích làm
vua.
– Vậy tại sao em lại không có hạnh phúc khi sống đời sống xuất
gia?
Nanda lại giữ sự im lặng.
– Hay là em nhớ cô Kalyani?
Thầy Nanda đỏ mặt, nhưng thầy vẫn không nói gì.
Bụt bảo:
– Này Nanda, ở xứ Kosala này cũng có rất nhiều cô thiếu nữ mà
nhan sắc còn mặn mà hơn cả cô Kalyani của em. Em còn nhớ hôm dự trai tăng ở
trong cung vua Pasenadi không? Theo em, các cô thiếu nữ tiếp tân hôm ấy có đẹp
bằng Kalyani không?
Nanda tỏ ý không bằng lòng:
– Có thể là trong số các cô ấy, có nhiều cô đẹp hơn Kalyani,
nhưng mà em chỉ lưu luyến Kalyani mà thôi. Ở trên đời chỉ có một Kalyani thôi.
– Nanda, luyến ái là một trong những trở ngại lớn cho sự tu tập.
Sắc đẹp của phụ nữ cũng chóng tàn như sắc đẹp của một bông hồng. Em đã biết
trên lý thuyết rằng cuộc đời là vô thường. Em phải thật sự quán chiếu tự tánh
vô thường của vạn vật. Này em nhìn xem.
Theo ngón tay Bụt, Nanda nhìn lên thì thấy một bà lão đang chống
gậy đi qua ngõ trúc. Bà lão còn mạnh khỏe, nhưng da trên mặt bà đã nhăn nhúm lại.
– Bà già này hồi trẻ chắc chắn là người có nhan sắc. Nhan sắc
Kalyani rồi cũng sẽ tàn tạ trong vòng vài mươi năm. Trong khi đó sự nghiệp giác
ngộ của em có thể đem lại ánh sáng và an lạc từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nanda, em hãy nhìn lên đôi khỉ đang đong đưa trên cành cây kia. Em hãy để ý tới
con khỉ cái, em có thể nghĩ rằng với một cái miệng nhọn như thế và một cái đít
đỏ như thế, con khỉ đó không đẹp đẽ gì, nhưng đối với con khỉ đực ngồi một bên
thì đó là một con khỉ cái đẹp nhất trên đời. Đối với nó, con khỉ cái là độc nhất,
và nó có thể sẵn sàng để chết vì con khỉ cái kia. Em có biết rằng…
Nanda ngắt lời Bụt:
– Thôi xin Bụt đừng nói nữa. Em đã hiểu rồi, em hứa từ nay sẽ
tinh tiến tu học.
– Vậy thì tốt lắm, em phải thực tập trở lại phép quán niệm
hơi thở cho chuyên cần mỗi ngày, rồi em sẽ tập quán chiếu thân thể, quán chiếu
cảm giác, quán chiếu tâm ý và cuối cùng quán chiếu các pháp. Các pháp chính là
đối tượng của tâm ý. Phải quán chiếu để thấy cho được quá trình sinh khởi, tồn
tại và hoại diệt của mọi hiện tượng, từ thân thể qua cảm giác đến tâm tư và các
pháp. Có gì không hiểu em có thể đến hỏi lại ta, hoặc nếu ta không có đó thì em
có thể hỏi thầy Sariputta. Nanda! Nên nhớ rằng hạnh phúc của giải thoát mới là
thứ hạnh phúc chân thật, không tùy thuộc vào điều kiện, không bao giờ bị tàn hoại.
Em phải đạt cho được thứ hạnh phúc ấy.
Trời đã chiều, Bụt đứng dậy, và đưa thầy Nanda về tu viện.
Tu viện Jetavana đã tạo được nền nếp tu học vững chãi. Số lượng
các thầy khất sĩ ở lại tu học đã lên tới năm trăm vị.
Mùa mưa năm sau, Bụt về an cư tại Vesali. Địa điểm an cư là Rừng
Lớn, nơi ấy có một tòa giảng đường hai tầng có nóc nhọn gọi là giảng đường
Kutagara và một số các tăng đường rải rác trong rừng.
Tất cả những ngôi nhà này đều đã được các vương tử trong bộ tộc
Licchavi vận động xây cất trong năm vừa qua để làm chỗ tu học cho Bụt và các vị
khất sĩ. Hầu hết cây trong rừng đều là cây sala. Mùa an cư năm nay, các vương tử
Licchavi là những người đứng ra bảo trợ. Ambapali đã rất sốt sắng đóng góp phần
mình vào việc xây cất và bảo trợ khóa tu. Nhiều vị khất sĩ hành đạo rải rác
trong vương quốc Magadha và cả ở vương quốc Sakya nghe Bụt về an cư tại giảng
đường Trùng Các cũng đã tìm về kịp thời để được cùng an cư với Bụt. Số lượng
các vị khất sĩ an cư năm nay lên tới sáu trăm vị.
Từ vương quốc Magdha, nhiều vị nhân sĩ và cư sĩ nghe nói Bụt
an cư tại đây cũng đã tìm tới để được thân cận và học hỏi trong ba tháng với Bụt.
Họ tìm chỗ cư trú trong đô thị Vesali để thỉnh thoảng có thể vào tu viện Trùng
Các để cúng dường và nghe pháp.
Một buổi sáng đầu thu khi mùa an cư vừa chấm dứt, có tin từ
Kapilavatthu báo về là quốc vương Suddhodana bệnh nặng. Ngài sắp từ trần. Chính
vua đã cho người đi triệu Bụt về để được thấy Bụt lần chót. Sứ giả là hoàng
thân Mahanama. Hoàng thân xin Bụt dùng phương tiện xe ngựa về tới quê hương cho
kịp giờ trước giờ vua băng hà. Bụt nhận lời. Người bảo Anuruddha, Nanda,
Ananda, và Rahula cùng lên xe với người. Bụt khởi hành ngay buổi trưa hôm ấy.
Các vương tử từ Licchavi và ca nương Ambapali cũng có cơ hội để tiễn đưa người,
nhưng hàng trăm vị khất sĩ đã ra tiễn ở cửa tu viện Trùng Các. Sau khi Bụt đi rồi,
trên hai trăm vị khất sĩ cũng khởi hành đi về miền Bắc, nhắm hướng
Kapilavatthu. Họ muốn có mặt bên Bụt trong lễ trà tỳ của quốc vương Suddhodana,
phụ thân của người. Trong số các vị này có mặt tất cả các vương tử Sakya đã đi
xuất gia theo Bụt.
Gia đình hoàng gia đón Bụt ngay ở cổng hoàng cung. Lệnh bà
Mahapajapati đưa Bụt ngay vào tâm điện. Thấy Bụt, vua tươi tỉnh hẳn lên. Ngồi
bên giường ngự, Bụt đưa hai tay ra nắm lấy bàn tay vua. Vua đã già yếu: năm nay
ngài đã tám mươi hai tuổi. Bụt nói:
– Phụ vương hãy thở thật nhẹ, thật dài và mỉm cười. Không có
gì quan trọng cho bằng hơi thở của phụ vương lúc này. Nanda, Rahula, Anuruddha
và con cũng thở theo phụ vương.
Vua nhìn Bụt, nhìn Nanda, nhìn Rahula, nhìn Ananda, nhìn
hoàng hậu Gotami, nhìn công nương Yasodhara. Ngài mỉm cười, rồi ngài thở theo lời
Bụt dạy. Không ai dám khóc lóc trong lúc này. Ai cũng nghe lời Bụt, theo dõi
hơi thở của mình. Một lát sau, vua nhìn Bụt nói:
– Bây giờ ta thấy được rõ ràng cuộc đời là vô thường, và con
người muốn có hạnh phúc, thì không nên tham đắm vào vòng ái dục. Hạnh phúc là một
cuộc sống thanh thản, bình dị và có tự do.
Hoàng hậu Gotami nói với Bụt:
– Mấy tháng nay, hoàng thượng sống rất thanh thản. Ngài đã thật
sự làm theo lời Bụt dạy. Thế Tôn! Những lời Bụt dạy đã chuyển hóa được nếp sống
của nhiều người ở đây. Hoàng thượng là một trong những người đã được thấm nhuần
nhiều nhất lời giáo huấn của Bụt.
Vẫn cầm tay vua trong tay mình, Bụt khai thị:
– Phụ vương hãy nhìn con, nhìn Nanda, nhìn Rahula. Phụ vương
hãy nhìn cây cối màu xanh qua các cửa sổ. Sự sống còn tiếp tục. Sự sống vẫn còn
thì phụ vương vẫn còn. Phụ vương vẫn còn tiếp tục sống trong con, trong Nanda,
trong Rahula, trong tất cả mọi loài. Sắc thân hiện thời là do tứ đại kết hợp. Tứ
đại tan rã rồi kết hợp hoài hoài. Phụ vương đừng có vì sự tan rã của một thân tứ
đại mà nghĩ rằng sự sống chết có thể ràng buộc được ta. Sắc thân của Rahula đây
cũng là sắc thân của phụ vương vậy.
Bụt ra hiệu cho Rahula lại gần và bảo Rahula nắm lấy tay của
ông nội trong hai tay mình. Một nụ cười rất tươi nở trên môi của vị quốc vương
sắp băng hà. Vua đã hiểu được lời nói của Bụt. Vua có vẻ không còn sợ sự sống
chết nữa.
Bên giường ngự lúc đó, các vị cận thần cũng đều có mặt.
Một lúc sau, vua ra hiệu cho các vị cận thần lại gần. Vua nói
với họ:
– Các khanh, có thể là trong thời gian cùng làm việc nước, trẫm
đã có làm những điều lầm lỗi khiến các khanh phiền lòng. Trước khi nhắm mắt, trẫm
muốn các khanh tha thứ cho trẫm.
Giọng vua yếu ớt, các quan đều khóc. Hoàng thân Mahanama, quỳ
xuống bên gối, tâu:
– Tâu bệ hạ, bệ hạ là một ông vua có đức khoan dung và công
bình lớn nhất trên đời. Các quan trong triều không ai có lòng oán trách bệ hạ.
Vua nói:
– Nhân có đủ mọi người ở đây, xin Bụt và các quan sắp xếp việc
cử người thay thế cho trẫm để trị nước. Trẫm tin nơi sự sáng suốt của Bụt và của
mọi người.
Mahanama tâu:
– Thần xin đề nghị hoàng thái tử Nanda cởi bỏ áo tu, lên ngôi
và chấp chính. Đó là giải pháp đẹp đẽ nhất theo thần. Trăm họ sẽ được an lòng
khi chính thái tử đông cung đảm trách nhiệm này. Riêng thần, thần sẽ đem hết cuộc
đời của thần để phụ tá hết lòng cho thái tử.
Đại đức Nanda nhìn về phía Bụt cầu cứu. Hoàng hậu Gotami cũng
nhìn về phía Bụt. Bụt lặng lẽ nói:
– Nếu phụ vương, các quan và mọi người muốn tôi phát biểu ý
kiến thì tôi xin nói thế này. Em Nanda không có khiếu về chính trị và không muốn
làm chính trị. Em còn phải tu học nhiều thêm mới có đủ các đức kiên trì và dũng
cảm. Rahula thì còn bé quá, năm nay cháu mới có mười lăm tuổi. Tôi thấy hoàng
thân Mahanama hiện là người xứng đáng nhất để lên ngôi cửu ngũ. Ai cũng biết
hoàng thân là một người có chí khí lớn. Hoàng thân lại là một người có lòng từ
bi, có nhiều hiểu biết và có nhiều kinh nghiệm về chính sự. Hoàng thân đã làm
phụ tá cho phụ vương trên sáu năm rồi. Tôi nghĩ là hoàng thân nên vì hoàng gia
và vì dân tộc mà đứng ra lãnh trách nhiệm khó khăn và nặng nề này.
Mahanama chắp tay thối thác:
– Con sợ tài đức kém cỏi không cáng đáng nổi việc lớn. Xin
hoàng thượng, xin Bụt và các vị cận thần xét lại mà cử người xứng đáng hơn.
Một vài vị đại thần đứng lên phát biểu ý kiến. Người nào cũng
tán đồng đề nghị của Bụt, cho đó là một đề nghị thiết thực và thông minh. Cuối
cùng tất cả các quan đều một lòng một dạ thỉnh cầu hoàng thân Mahanama đứng lên
chấp chính. Vua gật đầu, ngài gọi Mahanama tới bên giường ngự. Cầm tay
Mahanama, vua nói:
– Các quan đã tín nhiệm khanh, Bụt cũng tín nhiệm khanh,
khanh là con cháu của trẫm. Trẫm rất sung sướng được khanh chấp nhận trách vụ nối
tiếp trẫm để mà an lòng trăm họ.
Mahanama phủ phục lạy xuống để vâng mệnh.
Vua hoan hỷ nhìn mọi người:
– Trẫm rất an lòng mà nhắm mắt. Trẫm rất vui được gặp Bụt trước
khi từ giã cõi đời. Lòng trẫm thanh thản lắm, trẫm không luyến tiếc gì, cũng
không ân hận gì, trẫm mong Bụt để tâm nâng đỡ cho Mahanama và hướng dẫn cho
Mahanama trong những bước đầu. Đạo đức của Bụt sẽ khiến cho đất nước và trăm họ
an lành.
Giọng của vua càng lúc càng yếu. Bụt ngồi xuống gần bên giường
ngự. Người cầm tay vua:
– Con xin hứa là sẽ nâng đỡ cho Mahanama. Xin phụ vương yên
lòng. Con sẽ ở lại đây một thời gian, cho đến khi nào mọi việc được an bài và
tình thế hoàn toàn ổn định.
Vua mỉm cười yếu ớt, nhưng vẻ mặt của ngài an hòa và mãn nguyện.
Rồi ngài nhắm mắt qua đời.
Hoàng hậu Gotami và công nương Yasodhara khóc lên thành tiếng.
Các quan cũng khóc rống lên. Bụt vuốt mắt cho vua, đặt hai tay vua lại cho ngay
ngắn và đứng dậy. Người ra hiệu cho mọi người nín khóc, và bảo mọi người theo
dõi hơi thở để hộ niệm cho vua. Cuối cùng, người đề nghị mọi người ra hội ý với
nhau ở phòng ngoài về việc tổ chức tang lễ.
Lễ trà tỳ của quốc vương Suddhodana được tổ chức bảy hôm sau
đó. Các thầy Bà la môn ở thủ đô và từ các tỉnh về tham dự trên một ngàn vị. Đặc
biệt trong lễ trà tỳ này là sự có mặt của gần năm trăm vị tu sĩ của một giáo
đoàn mới, đó là giáo đoàn khất sĩ. Tất cả các vị khất sĩ đều khoác cà sa màu
cam. Ngoài kinh lễ cổ truyền của đạo Bà la môn lại có kinh lễ của giáo đoàn mới.
Các vị khất sĩ đã trì tụng kinh Bốn Sự Thật, kinh Lửa, kinh Vô Thường, kinh
Nhân Duyên và sau hết là Ba Lời Quay Về Nương Tựa. Kinh tụng toàn bằng tiếng
Magadha, ngôn ngữ miền Đông lưu vực sông Ganga, nên tất cả quần chúng tham dự đều
nghe và hiểu rõ.
Bụt đứng lên đi ba vòng quanh hỏa đàn rồi tự tay châm lửa cho
hỏa đàn. Trước khi châm lửa, người nói:
– Sinh, già, bệnh và chết là những gì phải xảy đến cho tất cả
mọi người. Chúng ta phải nghĩ đến sinh, già, bệnh và chết trong đời sống hàng
ngày để đừng bị chìm đắm trong dục vọng, để sống an lạc, thảnh thơi và làm cho
cuộc đời chung quanh bớt khổ. Sinh, già, bệnh và chết cũng là lý thường nhiên.
Người đạt đạo có thể đạt tới trạng thái thản nhiên trước sinh, già, bệnh, và chết.
Trong tự tính của vạn pháp, không có gì sinh, không có gì diệt, không có gì
còn, không có gì mất, không có gì thêm, không có gì bớt.
Hỏa đàn bốc cháy phần phật. Có tiếng chiêng tiếng trống hòa lẫn
với tiếng tụng kinh trầm bổng. Dân chúng Kapilavatthu tới lễ trà tỳ rất đông. Họ
biết hôm nay chính Bụt sẽ châm lửa cho hỏa đàn.
Sau lễ đăng quang của Mahanama, Bụt còn ở lại giáo hóa một thời
gian ba tháng tại Kapilavatthu. Một hôm, thái hậu Mahapajapati Gotami đến tu viện
Nigrodha viếng Bụt để cúng dường mấy chiếc cà sa và cầu xin được xuất gia để
làm một vị nữ khất sĩ.
Bà nói:
– Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn cho phép phái nữ được đi xuất gia
thì trong thiên hạ sẽ có những kẻ được thừa hưởng ân huệ từ bi của người lắm.
Thế Tôn, trong hàng vương tử có nhiều vị đã đi xuất gia theo học với Bụt. Trong
số đó, có vị đã từng có gia đình, phu nhân của các vị cũng rất ước ao được học
theo giáo pháp của Bụt với tư cách của những người xuất gia. Tôi cũng muốn xin
Thế Tôn cho tôi được xuất gia. Đó là niềm vui lớn nhất mà tôi mong mỏi, sau khi
thượng hoàng đã từ bỏ cuộc đời.
Bụt lặng thinh, một lát sau, người nói:
– Không được đâu, lệnh bà Gotami.
Bà Pajapati cầu khẩn:
– Tôi biết đây là một điều khó cho đức Thế Tôn, Thế Tôn chấp
thuận cho người nữ xuất gia thì thế nào cũng có sự chống đối trong xã hội,
nhưng tôi nghĩ là Bụt sẽ không e ngại gì sự chống đối đó.
Bụt lại lặng thinh, rồi người nói:
– Tại Rajagaha cũng đã có những người phụ nữ muốn xin xuất
gia, nhưng con nói rằng chưa đến lúc. Con thấy hiện chưa có đủ điều kiện để nhận
cho người nữ xuất gia.
Ba lần thỉnh cầu, ba lần Bụt không chấp thuận. Hoàng hậu
Gotami buồn bã giã từ Bụt. Bà trở về cung và than thở với lệnh bà Yasodhara.
Mấy hôm sau, Bụt lên đường trở về Vesali. Tới Vesali, người
cư trú tại tu viện Trùng Các.
Trong khi đó, bà Gotami đi tập hợp những người phụ nữ có ý
chí xuất gia lại, trong đó có cả những thanh nữ muốn theo gương nam giới đi xuất
gia. Những thiếu nữ này chưa từng lập gia đình. Hầu hết đều thuộc về bộ tộc
Sakya. Bà Gotami nói với họ:
– Tôi biết chắc rằng trong tinh thần đạo pháp tỉnh thức, mọi
người đều bình đẳng, bởi vì ai cũng có khả năng giác ngộ và giải thoát. Chính Bụt
đã nói điều này. Người đã nhận vào giáo đoàn cao quý những người thuộc giai cấp
hạ tiện, thì không có lý nào người lại kỳ thị phái nữ. Người nữ cũng là người,
người nữ cũng có thể đạt tới giác ngộ và giải thoát. Vậy thì không có lý do gì
mà chúng ta lại không được đối xử bình đẳng, tôi đề nghị là chúng ta nên tự ý
xuống tóc, cởi bỏ mọi đồ trang sức và khoác y vàng lên người. Rồi chúng ta cũng
bỏ hết guốc dép và đi bộ về thành Vesali để xin được xuất gia. Trước hết chúng
ta phải chứng tỏ quyết tâm của chúng ta, và sau đó chúng ta phải chứng tỏ khả
năng của chúng ta. Chúng ta phải chứng tỏ cho Bụt và mọi người thấy rằng chúng
ta cũng có thể từ bỏ xa hoa, sống đời đơn giản của kẻ không nhà không cửa, có
thể đi chân đất hàng trăm dặm và có thể đi xin ăn mà sống. Nếu không làm như vậy
được thì không bao giờ chúng ta hy vọng có thể được chấp nhận và giáo đoàn. Muốn
được chấp nhận, chúng ta phải được công nhận trước đã.
Mọi người trong cuộc họp đều phấn khởi khi nghe bà Gotami
nói. Họ thấy nơi bà một vị lãnh đạo thực sự của phái nữ. Yasodhara cũng có mặt
trong buổi họp. Bà mỉm cười, đã từ lâu, bà biết tính khí của thái hậu Gotami.
Thái hậu Gotami là người không thối tâm trước bất cứ một trở lực nào. Những năm
cùng làm việc với bà để giúp cho kẻ nghèo đói, Yasodhara đã thấy rõ điều đó.
Tất cả mọi người trong buổi họp đã quyết định làm theo đề nghị
của lệnh bà Gotami. Họ hẹn ngày giờ hành động. Bà Gotami nói với Yasodhara:
– Gopa, con hãy thong thả, đừng đi theo ta trong chuyến này,
không có con kỳ này, tình trạng có thể ít khó khăn hơn, chừng nào ta thành công
con sẽ đi theo sau cũng không muộn.
Gopa lĩnh hội ý, bà mỉm cười nhìn hoàng hậu.
Nhất Hạnh
Theo https://thuvienonline.org/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét