Đường xưa mây trắng 3
Chương 45 - Cánh cửa phương tiện
Một buổi sáng khi đi ra hồ lấy nước, đại đức Ananda gặp lệnh
bà Gotami và khoảng năm mươi người phụ nữ đứng phía bên ngoài tịnh xá của Bụt,
người nào cũng đã xuống tóc, người nào cũng khoác y vàng, và bàn chân người nào
cũng sưng vù và chảy máu. Ban đầu, thầy tưởng đó là một nhóm khất sĩ, nhưng
nhìn kỹ lại thầy mới biết là không phải. Ngạc nhiên đến cực độ, thầy tới hỏi bà
Gotami:
– Trời ơi, lệnh bà đi đâu mà mới sáng tinh sương đã thấy đứng
ở đây, chân cẳng tại sao sưng trầy và chảy máu? Và còn các công nương nữa…
Bà Gotami nói:
– Đại đức Ananda, chúng tôi đã xuống tóc, đã bỏ hết đồ trang
sức, đã từ bỏ hết mọi tiện nghi vật chất trong cuộc đời. Chúng tôi đã đi bộ từ
Kapilavatthu tới đây, từ hơn mười lăm hôm nay và đã xin ăn dọc đường. Chúng tôi
muốn chứng tỏ rằng chúng tôi cũng có khả năng sống đời sống của người xuất gia
được. Đại đức Ananda, xin đại đức bạch giùm với Bụt cách nào để chị em chúng
tôi được chấp nhận vào giới xuất gia.
Ananda nói:
– Lệnh bà và các công nương hãy cứ đứng chờ đây. Tôi sẽ vào
thưa ngay với Bụt. Tôi hứa sẽ làm hết sức của tôi.
Đại đức vào trong tịnh xá khi Bụt mới thay áo xong.
Đại đức Nagita hiện là thị giả của người cũng có mặt trong tịnh
thất. Thầy bạch với Bụt những điều mà thầy vừa trông thấy và nghe thấy. Bụt im
lặng. Một hồi sau, thầy hỏi Bụt:
– Thế Tôn, người nữ xuất gia và tu hành theo chính pháp thì
có thể chứng ngộ được những quả vị như Nhập Lưu, Nhất Hoàn, Bất Hoàn hay A La
Hán không?
Bụt nói:
– Được chứ.
– Vậy thì tại sao Bụt không cho người nữ xuất gia? Thế Tôn, lệnh
bà Gotami là người đã chăm sóc và nuôi nấng Bụt ngay từ khi Bụt mới sinh ra, và
thương yêu Bụt không khác gì một người mẹ đẻ. Lệnh bà đã xuống tóc, đã cởi bỏ hết
mọi trang sức, đã đi chân đất từ thành Kapilavatthu về tới đây. Lệnh bà muốn chứng
tỏ rằng những gì đàn ông làm được thì người đàn bà cũng có thể làm được. Xin Bụt
từ bi cho lệnh bà được xuất gia trong giáo pháp của người.
Bụt lặng thinh, một lát sau, người bảo thầy Nagita đi tìm các
đại đức Sariputta, Moggallana, Anuruddha, Bhaddiya, Kimbala, và Mahakassapa và
mời họ đến cho người thỉnh ý.
Bụt và các vị đệ tử phụ tá hội ý khá lâu. Bụt nói Bụt không kỳ
thị người nữ, nhưng người chưa nghĩ ra được cách thức chấp nhận những người nữ
vào trong giáo đoàn mà không tạo ra những trở ngại trong nội bộ cũng như từ bên
ngoài.
Sau một hồi trao đổi ý kiến, đại đức Sariputta nói:
– Lệnh bà Gotami lâu nay là một người có quyền hành và ảnh hưởng
rất lớn trong hoàng tộc cũng như ngoài xã hội, theo như lời đại đức Bhaddhiya
đã nói. Nếu ta không có một pháp chế quy định sự phân biệt nam nữ và quyền hạn
cho rõ rệt thì sau này có thể có những rắc rối xảy ra. Ta cần có một pháp chế
như thế. Pháp chế này đồng thời cũng là để giảm thiểu những phản ứng bên ngoài
của một xã hội đã ngàn đời có tính cách trọng nam khinh nữ. Tôi đề nghị một
pháp chế tám điểm như sau:
– Thứ nhất, một vị nữ khất sĩ – bhikkhuni – phải luôn luôn
cung kính chào hỏi một vị nam khất sĩ – bhikkhu – dù vị nữ khất sĩ này tuổi đời
lớn hơn và tuổi tu cũng lớn hơn vị nam khất sĩ.
– Thứ hai, các vị nữ khất sĩ phải tìm về an cư mỗi năm ở những
trung tâm nào có đoàn thể nam khất sĩ để nương tựa và học hỏi.
– Thứ ba, cứ mỗi tháng hai kỳ, giới nữ khất sĩ phải cử người
đi thỉnh chúng nam khất sĩ chỉ định ngày bố tát – uposatha – và cử người đến
thăm viếng, giáo huấn và khích lệ việc tu học của nữ chúng.
– Thứ tư, vào ngày kết thúc mùa an cư, vị nữ khất sĩ phải dự
lễ tự tứ và cầu chỉ giáo về sự tu học của mình, không những ở trung tâm nữ khất
sĩ của mình mà còn ở trung tâm của vị nam khất sĩ nữa.
– Thứ năm, khi phạm giới, vị nữ khất sĩ phải sám hối trước cả
hai chúng nam và nữ.
– Thứ sáu, những người nữ, sau thời gian tập sự xuất gia, phải
cầu xuất gia thọ đại giới trước cả hai chúng nam và nữ.
– Thứ bảy, một vị nữ khất sĩ không được nói hành và chỉ trích
một vị nam khất sĩ.
– Thứ tám, vị nữ khất sĩ không được phép giảng dạy cho đoàn
thể các vị nam khất sĩ.
Đại đức Moggallana cười:
– Tám điều này rõ rệt là có kỳ thị người nữ rồi, sao lại nói
là không kỳ thị?
Đại đức Sariputta đáp:
– Tám điều này được đưa ra với mục đích chính là mở được cửa
cho giới phụ nữ đi vào giáo đoàn. Mục đích của nó không phải là kỳ thị, mà là
chấm dứt sự kỳ thị. Điều cốt yếu là người phụ nữ được xuất gia, sư huynh không
thấy điều đó sao?
Đại đức Moggallana mỉm cười gật đầu, tỏ vẻ thông cảm sâu xa với
bạn. Đại đức Bhaddiya góp ý:
– Tôi thấy pháp chế “Bát kính” rất cần thiết. Lệnh bà Gotami
là một người có quyền hành lớn, lại là mẹ của đức Thế Tôn. Nếu không có pháp chế
“Bát kính” thì bà sẽ không thấy được ranh giới quyền hạn của bà, và sẽ không có
ai có khả năng điều chỉnh bà ngoài Bụt.
Bụt bảo Ananda:
– Ananda, thầy hãy ra bảo cho lệnh bà Mahapajapati biết tin
này.Thầy nói rằng nếu lệnh bà chấp nhận tám điều gọi là “Bát kính pháp” vừa nói
thì lệnh bà sẽ được phép xuất gia.
Lúc Ananda ra thì mặt trời đã lên tới đỉnh đầu, nhưng bà
Gotami và các vị công nương vẫn còn đứng chờ ngoài ngõ. Sau khi nghe nội dung
“Bát kính pháp”, bà Gotami nói:
– Đại đức Ananda, xin đại đức bạch với đức Thế Tôn rằng, khi
một cô gái xinh đẹp và trẻ trung mới tắm và gội đầu bằng nước thơm, mà sẵn có
người ta đem tới cho vành hoa kết bằng hoa sen hoặc bằng hoa hồng thơm ngát,
thì cô gái sẽ sung sướng đưa hai tay đón nhận và để trên đầu mình; cũng như thế,
tôi rất sung sướng chấp nhận pháp chế “tám sự cung kính” và hành trì theo suốt
đời, nếu tôi được phép xuất gia.
Đại đức Ananda hoan hỷ vào báo tin này với Bụt. Trong số các
vị công nương đi theo, có người nhìn đức bà Gotami có ý như dò hỏi. Bà mỉm cười
nói:
– Các em đừng e ngại, điều quan trọng nhất là chúng ta được
xuất gia làm nữ khất sĩ. Những điều trong “Bát kính pháp” không phải là những
trở ngại cho sự tu học của chúng ta, mà chính là cửa ngõ để chúng ta đi vào.
Năm mươi mốt người nữ được làm lễ xuất gia ngay trong ngày
hôm đó. Đại đức Sariputta sắp đặt để các vị này có ngay một trung tâm tạm cư. Nữ
cư sĩ Ambapali vui lòng để cho các vị nữ khất sĩ được sử dụng vườn xoài của bà
để làm chốn tu học. Đại đức Sariputta cũng được Bụt ủy thác việc dạy các vị nữ
khất sĩ những phép tắc hành trì sơ đẳng của đời sống xuất gia.
Sau đó tám hôm, nữ khất sĩ Mahapajapati tới xin tham vấn Bụt,
bà thưa:
– Thế Tôn, xin người từ bi dạy cho tôi vắn tắt cách hành trì
để tôi có thể tiến mau trên đường giải thoát.
Bụt nói:
– Nữ khất sĩ Mahapajapati! Điều quan yếu nhất là phải nắm lấy
tâm ý của mình. Phải học phương pháp theo dõi hơi thở và quán niệm về bốn lãnh
vực thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý. Quán niệm như thế nào để càng
ngày càng thấy phát triển nơi mình các đức khiêm nhường, thanh thản, buông bỏ,
thanh bần và an lạc. Khi những phẩm chất ấy của tâm ý được phát triển, mình có
thể an tâm là mình đang đi trên con đường chánh pháp, con đường tỉnh thức và
giác ngộ.
Nữ khất sĩ Mahapajapati rất hoan hỷ, bà từ giã Bụt và trở về
với các vị nữ khất sĩ đồng tu. Bà dự tính sẽ thiết lập một trung tâm tu học cho
ni chúng ngay tại Vesali này để có thể được gần gũi và học hỏi với Bụt và với
các vị đệ tử lớn của người, ít nhất là trong thời gian Bụt còn lưu trú tại đây.
Bà lại có ý nguyện trở về Kapilavatthu để mở một trung tâm tu học cho ni chúng
ngay tại quê hương mình.
Ngay hôm đó, bà nhờ người về báo tin mừng cho công nương
Yasodhara tại Kapilavatthu, Bà biết rằng tin nữ giới được chấp thuận vào giáo
đoàn khất sĩ sẽ nổ tung ra như một tiếng sét và sẽ có rất nhiều phản ứng trong
xã hội. Người ta sẽ lên án và công kích Bụt cùng giáo đoàn. Bụt và giáo đoàn sẽ
gặp những khó khăn không thể nào lường trước được. Nghĩ đến đó, bà thấy một niềm
biết ơn tràn ngập tâm tưởng bà. Bà thấy rõ pháp chế “Bát kính” không phải là những
điều kỳ thị nữ giới mà lại là những phương tiện bảo vệ và che chở cho giáo đoàn
trong đó có nữ giới. Bà tin rằng trong tương lai, khi sự kiện nữ giới được xuất
gia đã trở nên một sự thực rồi thì pháp chế “Bát kính” sẽ không còn cần thiết nữa.
Từ hôm có ni chúng, giáo đoàn của Bụt bắt đầu được gọi là một
giáo đoàn bốn chúng: chúng nam khất sĩ (bikkhu), chúng nữ khất sĩ (bikkhuni),
giới nam cư sĩ (upasaka) và giới nữ cư sĩ (upasika).
Ni trưởng Mahapajapati đã suy nghĩ kỹ về cách phục sức của giới
nữ khất sĩ. Bà đã trình với Bụt ý kiến của mình và đã được Bụt chấp thuận. Các
vị nam khất sĩ thường chỉ vận ba thứ: một tấm antaravasaka, gọi là an đà hội,
là quần dưới, một tấm uttarasanga, gọi là uất đa la tăng, là áo mặc bên trên và
một tấm sanghati, gọi là tăng già lê, là chiếc áo khoác bên ngoài. Các vị nữ khất
sĩ, ngoài ba tấm ấy, còn được phép vận thêm hai tấm khác: một là samkaksika,
dùng để thắt ngang hông và hai là kusulaka, dùng như một chiếc váy.
Ngoài y và bát, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ có quyền làm sở
hữu chủ của một cái quạt để che đầu khi trời nắng, một chiếc lọc nước uống, một
cây kim và một ít chỉ để khâu vá lại xiêm y, một cái tăm xỉa răng, và một chiếc
dao cạo để cạo tóc và râu, mỗi tháng hai lần.
Chương 46 - Nắm lá simsapa
Tu viện Trúc Lâm (Venuvana) ở Rajagaha, tu viện Trùng Các
(Kutagarasala) ở Vesali và tu viện Kỳ Đà Cấp Cô Độc (Jetavana) ở Savatthi đã trở
nên ba trung tâm hành đạo và hoằng pháp lớn.
Các vị khất sĩ đã tạo lập những trung tâm tu học khác rải rác
trong các vương quốc Magadha, Kosala và những vương quốc nhỏ kế cận. Hình bóng
những vị khất sĩ áo vàng khoan thai và tĩnh lặng xuất hiện khắp nơi.
Đạo lý tỉnh thức đã được truyền bá đi mọi nơi chỉ sau sáu năm
hành hóa của Bụt.
Mùa an cư thứ sáu, Bụt cư trú trên núi Makula. Mùa an cư thứ
bảy người ẩn cư một mình trên núi ở Samkasya, mãi trên vùng thượng lưu sông
Ganga. Mùa an cư thứ tám người cư trú tại Sumsumaragira ở xứ Bhagga và vào mùa
an cư thứ chín người về cư trú tại Kosambi. Kosambi là một thị trấn thuộc vương
quốc Vamsa nằm trên tả ngạn sông Jamuna, nơi đây đã có một trung tâm tu học
quan trọng. Tu viện nằm trong một khu vườn ở Rừng Lớn gọi là Ghosira.
Vào mùa an cư thứ chín các thầy lớn như Mahakassapa,
Mahamoggallana, Sariputta và Mahakaccana không có mặt bên Bụt ở tu viện Ghosira
tại Kosambi, nhưng thầy Ananda vẫn được kề cận Bụt. Chú Rahula cũng không có mặt,
vì chú phải theo học với thầy Sariputta. Các khu rừng quanh tu viện đầy những
cây simsapa, và Bụt ưa vào tĩnh tọa trong rừng vào những buổi trưa khi trời nắng
gắt.
Một buổi chiều từ rừng về, Bụt cầm trong tay một nắm lá
simsapa. Người đưa nắm lá lên và hỏi các vị khất sĩ có mặt:
– Các vị khất sĩ! Lá trong tay tôi nhiều hay lá trong rừng
nhiều?
Các vị khất sĩ đáp:
– Lá trong tay Bụt thì ít mà lá trong rừng thì nhiều.
Bụt nói:
– Cũng như thế đó, các vị khất sĩ! Những điều tôi biết do sự
thực chứng thì nhiều, nhưng những điều tôi đem ra dạy quý vị thì ít. Tại sao thế?
Tôi chỉ muốn trình bày cho quý vị những gì thực sự có ích lợi cho công trình tu
tập của quý vị mà thôi…
Bụt nói như thế, vì độ ấy trong giới các vị khất sĩ có nhiều
người có khuynh hướng muốn đi vào những vấn đề siêu hình không thiết thực mấy đối
với sự tu học. Mấy tháng trước ở Savatthi, Bụt đã khuyên thầy Malunkyaputta về
việc không nên để tâm trí vướng bận vào những vấn đề không thiết yếu cho sự tu
học.
Thầy Malunkyaputta lúc đó thường hay hỏi Bụt những câu hỏi
thuộc phạm vi siêu hình, nhưng Bụt từ chối không trả lời. Ví dụ thầy hỏi: Vũ trụ
này là hữu biên hay vô biên? Hữu hạn hay vô hạn? Một hôm thầy không chịu đựng sự
im lặng của Bụt được nữa. Thầy quyết định đi gặp Bụt để ép Bụt phải trả lời những
câu hỏi của thầy. Thầy tự bảo là lần này nếu Bụt từ chối thì thầy sẽ xin xả giới
không tu theo người nữa. Thầy đi gặp Bụt và nói: “Nếu Thế Tôn chịu trả lời những
câu hỏi của con thì con sẽ nguyện tiếp tục theo học với người. Nếu không, con sẽ
xin từ bỏ giáo đoàn khất sĩ. Nếu quả thật người biết vũ trụ là hữu biên hay vô
biên, thì xin người cứ nói ra, còn nếu người không biết thì người cứ nói thẳng
là người không biết”.
Bụt nhìn thầy Malunkyaputta:
– Hồi thầy xin đi xuất gia, tôi có hứa với thầy là sẽ giảng
giải cho thầy về những câu hỏi như thế không? Tôi có nói: “Này Malunkyaputta,
anh cứ xuất gia đi, rồi tôi sẽ dạy cho anh về những vấn đề siêu hình” không?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Vậy sao bây giờ thầy lại đặt điều kiện với tôi?
Malunkyaputta! Ví như có một người nọ bị trúng một mũi tên có tẩm thuốc độc. Bà
con mời ông thầy thuốc tới để nhổ mũi tên ra, bôi thuốc vào và cho uống thuốc
trừ độc, nhưng người bị trúng tên không cho ông thầy thuốc đụng vào vết thương
mình. Người ấy nói: “Khoan đã, trước khi chữa trị tôi muốn biết ai là kẻ đã bắn
mũi tên này, tên họ người đó là gì, mấy tuổi, ở đâu, làm nghề nghiệp gì, thuộc
giai cấp nào, vì cớ sao mà bắn tôi. Tôi cũng muốn biết loại cung bắn này là loại
cung nào và chất độc nó dùng là thứ chất độc lấy từ đâu”. Malunkyaputta, người
bị thương sẽ chết trước khi anh ta tìm hiểu được hết những điều đó. Người đi xuất
gia cũng vậy, những điều mà người xuất gia phải biết và phải hành là những điều
căn bản mà tôi đã và đang dạy các thầy, còn những điều khác vì không có ích lợi
thực tế cho sự tu học và hành trì để đi đến giải thoát cho nên tôi không nói tới.
Này Malunkyaputta, thầy phải biết điều này: dù vũ trụ là hữu
biên hay vô biên, hữu hạn hay vô hạn thì thầy cũng phải công nhận điều này: có
những đau khổ trong cuộc đời, những đau khổ đó có nguyên do và ta có thể quán
chiếu các nguyên do ấy mà tìm cách làm cho cuộc đời bớt khổ. Những điều tôi dạy
quý thầy có thể giúp quý thầy đạt tới sự buông bỏ, vô dục, thanh tịnh và giải
thoát, còn những điều không thiết thực cho việc tu học thì tôi từ chối không
nói tới.
Đại đức Malunkyaputta nghe Bụt nói rất lấy làm hối hận. Thầy
đã xin sám hối Bụt về tội đã dám ra điều kiện cho người.
Bụt thường khuyến khích các vị khất sĩ gia công tu học và
tránh những cuộc luận đàm có tính cách lý thuyết suông. Người gọi những lý thuyết
suông không ích lợi gì cho sự tu học ấy là hý luận. Trong số các thầy ở
Kosambi, có những thầy rất ưa hý luận và cũng vì lẽ ấy Bụt đã đem tặng cho họ một
nắm lá simsapa.
Tại Kosambi, có một thí chủ lớn tên là Ghostra. Vị thí chủ
này đã cúng dường rừng cây của mình để làm tu viện cho tăng đoàn, gọi là tu viện
Ghostra. Ngoài ra ông còn bảo trợ thành lập thêm hai trung tâm tu học cho các vị
khất sĩ nữa: đó là tu viện Kukuta và tu viện Pavarikambavana. Tu viện thứ tư
trong vùng là tu viện Badarika.
Quốc vương Udayana không có cảm tình nhiều với Bụt, nhưng
thái tử Bodhi trị vì xứ Bhanga lại là một người sùng kính Bụt đúng mức. Tại xứ
Bhanga Bụt và giáo đoàn đã từng được thái tử Bhodi đón tiếp rất nồng hậu.
Tại Kosambi, cũng như tại các trung tâm tu học khác, có một số
các vị kinh sư, nghĩa là những thầy chuyên về sự giảng dạy và ôn tụng các lời Bụt
dạy. Những lời Bụt dạy trong gần mười năm qua được kết tập và ôn tụng dưới những
đề mục gọi là sutra. Sutra là kinh. Ví dụ kinh Chuyển Pháp Luân là bài giảng đầu
tiên mà Bụt nói tại Vườn Nai phía Bắc thành phố Baranasi cho năm vị khất sĩ đầu.
Các kinh như kinh Vô Ngã Tướng, kinh Nhân Duyên, kinh Bát Chánh Đạo đều được học
thuộc lòng và được ôn tụng mỗi nửa tháng. Ngoài các vị kinh sư còn có các vị luật
sư, chuyên lo trì tụng về giới luật. Người tập sự xuất gia thì có giới luật của
người xuất gia. Những vị chưa đến tuổi hai mươi như chú Rahula thì chưa được thọ
giới khất sĩ, mà chỉ được thọ giới sa di.
Năm ấy ở Kosambi đã xảy ra một vụ tranh chấp giữa một vị kinh
sư và một vị luật sư tại tu viện Ghostra. Nguyên do vụ tranh chấp thật là bé nhỏ
nhưng vì lòng tự ái của một số các thầy khất sĩ mà vụ tranh chấp đã gây nên
chia rẽ trầm trọng trong đại chúng. Vị kinh sư này vì vô ý đã không đổ nước
trong chậu sau khi sử dụng. Vị luật sư cho đó là phạm luật. Vị kinh sư nghĩ là
vì không cố tình cho nên mình không có lỗi. Nguyên do vụ tranh chấp chỉ có thế,
nhưng đệ tử của hai vị ai cũng bênh vực thầy mình và nói bên đối phương và sai
lầm. Cuộc tranh chấp vì thế mà leo thang. Bên này bắt đầu nói bên kia là vu khống.
Bên kia bắt đầu nói bên này là vọng ngữ. Cuối cùng vị luật sư tuyên bố giữa đại
chúng là vị kinh sư phạm giới, và nếu không sám hối thì vị này sẽ không được
phép tham dự các buổi bố tát tụng giới hàng nửa tháng.
Tình trạng trở nên căng thẳng. Hai bên nói qua nói lại. Những
lời qua lại này cũng tai hại như những mũi tên độc. Các vị khất sĩ chia thành
hai phe. Cũng may là có một số các vị khất sĩ không chịu theo phe nào. Họ than
thở với nhau: “Chết mất, chết mất! Thế nào cũng có chia rẽ trầm trọng trong
giáo đoàn”.
Trong khi đó, Bụt vẫn chưa hay biết gì, tuy người đang an cư ở
một tịnh xá sát bên tu viện. Một số các vị khất sĩ đi tìm Bụt và trình lên người
hiện tình của đại chúng, và cầu Bụt can thiệp. Bụt liền đi tìm vị luật sư. Người
nói:
– Chúng ta không nên quá tin ở quan điểm riêng của chúng ta.
Chúng ta phải lắng nghe và tìm hiểu quan điểm của người bên kia. Chúng ta phải
làm mọi cách để tránh sự chia rẽ trong đại chúng.
Rồi Bụt đi tìm vị kinh sư. Người cũng nói với vị kinh sư những
lời mà người đã nói vị luật sư, hy vọng hai người sẽ đi tới hòa giải. Sau đó
người trở về tịnh xá.
Nhưng cuộc can thiệp của Bụt không có hiệu quả. Cả hai bên vì
lời qua lẽ lại đều đã bị thương tích trầm trọng. Các vị khất sĩ đứng ở giữa
không đủ sức để dàn xếp một cuộc hòa giải. Nội vụ được chuyền tới tai giới đệ tử
tại gia và chẳng bao lâu các giáo phái bên ngoài đều biết tới. Uy tín của đoàn
thể khất sĩ bị thương tổn nặng. Đại đức Nagita thị giả của Bụt thấy thế, không
chịu nổi nữa. Thầy lại đem nội vụ trình lên Bụt và cầu cứu Bụt tới can thiệp một
lần nữa.
Bụt khoác áo và tới thẳng thính đường của tu viện. Người bảo
đại đức Nagita thỉnh chuông triệu tập đại chúng. Khi mọi người đã tụ họp đầy đủ,
Bụt nói:
– Xin các thầy hãy chấm dứt việc tranh chấp và cãi cọ. Xin
các thầy hãy chấm dứt tình trạng chia rẽ trong nội bộ giáo đoàn. Xin trở về với
sự tu học. Nếu chúng ta tu học thật sự thì chúng ta không còn là nạn nhân của tự
ái, giận hờn và chia rẽ nữa.
Một vị khất sĩ đứng lên, bạch:
– Thế Tôn, xin Thế Tôn đứng ra ngoài vụ tranh chấp này. Xin
người cứ an trú trong niềm vui tịnh lạc của thiền định. Đây không phải là việc
của người. Chúng tôi đã lớn: chúng tôi có thể tự mình giải quyết vụ này được,
không cần đến Thế Tôn.
Vị khất sĩ nói xong, mọi người đều im lặng. Bụt cũng im lặng.
Một lát sau, người đứng dậy, rời bỏ thính đường. Người trở về
tịnh xá lấy bình bát và áo, rồi người một mình đi vào Kosambi để khất thực. Khất
thực xong, người vào rừng một mình để thọ trai. Thọ trai xong người đứng dậy,
ôm y bát từ bỏ thành phố Kosambi, hướng về phía bờ sông mà đi. Không ai được
phép đi theo người, kể cả thầy thị giả, kể cả đại đức Ananda.
Bụt đi lần hồi tới thị trấn Balakalonakaragama. Tại đây người
gặp một vị đệ tử là đại đức Bhagu. Thấy Bụt, đại đức rất vui mừng, đại đức rước
Bụt vào một cụm rừng, mời Bụt ngồi rồi đi tìm nước và khăn cho Bụt rửa mặt và
tay chân. Bụt hỏi thăm về sự tu học của thầy Bhagu. Thầy nói thầy rất an lạc ở
đây, dù thầy ở có một mình. Bụt nói:
– Ở một mình đôi khi mà khỏe hơn là ở với nhiều người.
Sau khi giảng dạy thêm giáo lý và khích lệ đại đức Bhagu về sự
tu học, Bụt từ giã thầy để đi về phía công viên Đông Trúc cách đó không xa. Bước
vào công viên, Bụt bị người cai vườn ngăn lại, ông ta nói:
– Sa môn, ông đừng đi vào trong công viên, sợ làm rộn các vị
đang tu hành trong ấy.
Bụt chưa biết nói sao thì từ trong công viên đại đức
Anuruddha đi ra. Thầy vái chào Bụt và nói người cai vườn:
– Đó là thầy của chúng tôi đấy, xin ông cứ để cho người vào.
Rồi đại đức đưa Bụt vào phía trong công viên. Ở đây, Bụt gặp
thêm hai vị khất sĩ khác: đại đức Nandiya và đại đức Kimbila. Hai người được gặp
Bụt rất mừng. Thầy Nandiya nâng bát cho Bụt, còn thầy Kimbila thì nâng áo
sanghati của người. Họ sắp chỗ ngồi cho Bụt bên một bụi tre vàng. Họ đem nước
và khăn tới cho Bụt rửa mặt và rửa chân. Rồi cả ba thầy chắp tay làm lễ Bụt. Bụt
bảo ba thầy ngồi xuống bên cạnh:
Người hỏi:
– Các thầy ở đây có được an tịnh không? Sự tu học có thuận lợi
không? Việc khất thực hành hóa có dễ dàng không?
Thầy Anuruddha đáp:
– Bạch thầy, chúng con ở đây rất an ổn. Ở đây khung cảnh rất
an tịnh. Việc khất thực và hành hóa cũng dễ dàng. Chúng con đã đạt được nhiều
tiến bộ trong sự tu học.
Bụt hỏi:
– Các thầy có thương mến nhau và hòa hợp với nhau không?
– Thưa Thế Tôn, chúng con rất thương mến nhau. Chúng con hòa
hợp với nhau một cách dễ dàng như nước với sữa. Riêng con, được sống với hai
huynh Kimbila và Nandiya là một điều may mắn lớn cho đời con. Con trân quý tình
bằng hữu này lắm. Mỗi khi con nói hay con làm một điều gì, dù là khi hai huynh
không có mặt, con cũng nghĩ đến hai huynh. Con tự hỏi con: nói như thế và làm
như thế thì hai huynh có vừa ý không? Nếu con có một chút nghi ngờ rằng lời nói
và việc làm ấy có thể làm cho hai vị phật ý là con nhất định không nói và không
làm. Thưa Thế Tôn, chúng con tuy là ba người mà cũng như là một.
Bụt gật đầu ưng ý. Người nhìn hai thầy kia. Thầy Kimbila nói
với Bụt:
– Điều sư huynh Anuruddha nói đó là sự thật. Chúng con rất
hòa hợp với nhau và rất thương mến nhau.
Thầy Nandiya nói:
– Chúng con biết chia xẻ cho nhau đồng đều mọi thứ. Từ chỗ ăn
ngủ cho đến kiến thức và kinh nghiệm, chúng con đều sẵn lòng chia xẻ cho nhau.
Bụt khen:
– Tốt lắm! Tôi rất hài lòng khi thấy các thầy ăn ở với nhau
như vậy. Có sự hòa hợp đó, một đoàn thể tu học mới thật sự là một đoàn thể tu học.
Các thầy đã thật sự tỉnh thức cho nên mới thực hiện được sự hòa hợp đó.
Bụt ở lại với ba thầy một tháng.
Người nhận xét như sau: Buổi sáng sau giờ thiền tọa, ba thầy
cùng đi khất thực một lần. Khất thực xong, vị nào về trước thì đi sắp đặt chỗ
ngồi, đi lấy nước uống, nước rửa và một cái chậu sạch để sẵn tại đó. Xong rồi vị
ấy mới đi rửa mặt, rửa chân, và ngồi xuống để quán niệm và thọ trai. Trước khi
thọ trai, vị ấy san bớt thức ăn trong bát vào chiếc chậu sạch. Thức ăn này là để
dành cho vị khất sĩ nào không xin được đủ một phần ăn. Khi các vị kia về, thì
nước rửa và nước uống đã có sẵn. Họ khỏi phải đi xách nước. Họ chỉ cần ngồi xuống
rửa tay, rửa mặt và rửa chân trước khi ngồi xuống thọ trai. Sau khi thọ trai và
uống nước, cả ba người cùng đi dọn dẹp. Nếu thức ăn trong chậu còn dư, họ đem đổ
ở một khoảng đất không có cây cỏ, hoặc đổ xuống nước nơi không có loài vật nào
đang sống. Họ cùng rửa và cùng úp các chậu lại. Ai thấy bình nước uống hết nước
thì đi lấy thêm. Ai thấy vại nước rửa lưng đi thì đi xách nước thêm. Ai thấy cầu
tiêu không được sạch thì đi chùi rửa. Việc gì cần hai hoặc ba người mới làm nổi
thì họ đâu vai chung sức lại. Họ không cần bàn cãi gì hết về công việc hàng
ngày. Cứ mỗi năm ngày họ ngồi lại một lần để cùng học hỏi giáo lý và trao đổi
kinh nghiệm tu tập.
Trước khi từ giã ba thầy, Bụt nói:
– Các thầy, bản chất của một tăng đoàn (sangha) là sự hòa hợp.
Theo tôi, ta có thể minh định sự hòa hợp như sau:
– Thứ nhất là thân hòa đồng trú, nghĩa là cùng chia xẻ với
nhau một trung tâm tu học, một khu rừng hay một mái nhà.
– Thứ hai là lợi hòa đồng quân, nghĩa là cùng chia xẻ với
nhau đồng đều những tiện nghi của cuộc sống.
– Thứ ba là giới hòa đồng tu, nghĩa là cùng hành trì với nhau
những giới và những luật đã được truyền thọ và ban hành.
– Thứ tư là khẩu hòa vô tránh, nghĩa là chỉ sử dụng thứ ngôn
ngữ hòa hợp, tránh tất cả những lời nói có thể gây ra sự xích mích và tranh
cãi.
– Thứ năm là kiến hòa đồng giải, nghĩa là trao đổi và chia xẻ
những hiểu biết và những kiến thức với nhau, không giấu giếm cái hiểu biết cho
riêng mình, để cho mọi người cùng được học hiểu.
– Thứ sáu là ý hòa đồng duyệt, nghĩa là các ý kiến khác nhau
phải được tổng hợp lại, và không ai có thể bắt buộc mọi người khác phải làm
theo ý kiến riêng của mình như thế để tạo nên sự vui vẻ hòa hợp trong đoàn thể.
Các vị khất sĩ! Từ nay về sau, chúng ta phải lấy sáu nguyên tắc
hòa hợp này mà sống với nhau.
Ba vị đại đức hoan hỷ tiếp nhận lời nhận của Bụt.
Từ giã ba thầy, Bụt lên đường. Bảy ngày sau, người tới
Parileyyaka, Bụt đi vào rừng Rakkhita, và tìm thấy một cây sala cành lá sum
suê. Người đặt y bát xuống và ngồi nghỉ dưới gốc cây đẹp đẽ này.
Bụt có ý định muốn ở lại một mình tại đây trong mùa an cư sắp
tới.
Chương 47 - Cứ theo chánh pháp mà hành trì
Dưới cây sala, Bụt cảm thấy có nhiều an lạc và thoải mái. Đây
là một khu rừng xanh tốt, có đồi, có suối lại có hồ. Sống một mình, Bụt thấy dễ
chịu hơn khi có đông đảo đệ tử. Ở Kosambi, hiện giờ nhiều vị khất sĩ đang sống
trong phiền não, và phiền não lan tới cả giới đệ tử tại gia. Người cảm thấy buồn
vì chính đệ tử của người cũng không chịu nghe lời người khuyên bảo. Người biết
đó là sự buồn giận đang che mất tâm trí họ.
Trong rừng Rakkhita, Bụt gặp rất nhiều loài thú vật. Có cả một
đàn voi nữa. Con voi mẹ vốn là một con voi chúa thường hay đem những con voi
khác và đàn voi con xuống tắm dưới hồ. Nó dạy cho những con voi con uống nước,
ăn cỏ và ăn những cây bông súng. Bụt nhìn con voi mẹ dạy đàn voi con ăn những
cây bông súng. Nó lấy vòi nhổ một đám bông súng, khỏa những cây bông súng để rửa
ở mặt nước cho bùn đất trôi đi rồi mới đưa vào miệng. Các con voi con tập một hồi
rồi cũng làm được như con voi mẹ.
Mấy con voi con này rất có cảm tình với Bụt. Voi và Bụt rất
thân cận và yêu mến nhau. Có khi voi mẹ hái cả trái cây để cúng dường Bụt. Bụt
ưa vuốt đầu những con voi con và đưa chúng xuống bờ hồ. Con voi chúa thường
dùng tiếng rống để triệu tập đàn voi và những con voi con. Tiếng rú của con voi
chúa rất là oai vệ. Bụt đã học và bắt chước được tiếng rú này. Có một lần sau
khi con voi chúa rú lên tiếng rú oai vệ của nó, Bụt cũng bắt chước rú lên, con
voi chúa nghe tiếng rú lập tức nhìn về phía Bụt, và nó tới trước Bụt rồi quỳ
hai chân trước xuống, Bụt vuốt ve và đỡ nó dậy.
Bụt ở lại an cư tại đây. Đây là mùa an cư thứ mười của Bụt
sau ngày thành đạo. Đây là lần thứ hai người an cư một mình. Suốt ngày người ở
trong rừng. Chỉ buổi sáng vào giờ khất thực người mới rời khỏi khu rừng xanh tốt
của người để đi vào tụ lạc mà thôi.
Sau mùa an cư, Bụt từ giã đàn voi và khu rừng xinh đẹp. Người
đi về hướng Đông Bắc. Nửa tháng sau người về tới tu viện Cấp Cô Độc ở Savatthi.
Đại đức Sariputta thấy Bụt về mừng lắm. Rahula cũng có mặt tại đó. Nhiều vị đại
đệ tử cũng có mặt tại đó: các đại đức Mahamoggallana, Mahakassapa, Mahakunda,
Upali, Mahakotthiya, Mahakappina, Mahakunda, Revata, và Devadatta… Các đại đức
Anuruddha, Kimbila, Nandiya từ công viên Rừng Trúc ở Karagama cũng đã về tới.
Ni sư Gotami cũng có mặt tại Savatthi. Thấy Bụt ai nấy đều mừng rỡ.
Bước vào tịnh xá, Bụt gặp thầy Ananda đang sắp đặt và quét dọn
lại tịnh xá.
Một năm và bốn tháng trời, Bụt đã vắng mặt tại đây.
Thấy Bụt, đại đức Ananda mừng quá.
Thầy buông chổi vái chào Bụt, Bụt hỏi thăm thầy về tình trạng
ở Kosambi. Thầy nói:
– Sau khi Bụt bỏ đi, một số huynh đệ đến tìm con và nói: “Này
sư huynh, Thế Tôn đã bỏ đi rồi, người đi một mình. Tại sao sư huynh không tìm
theo Bụt để làm thị giả cho người. Nếu sư huynh không đi thì chúng tôi đi vậy”.
Con trả lời: “Nếu Bụt đi mà không cho ai biết mà cũng không từ giã huynh đệ
chúng ta, đó là vì người muốn đi một mình. Chúng ta không nên làm phiền người”.
Sau đó khoảng sáu tháng, một số huynh đệ lại tới nói với con: “Này sư huynh,
lâu nay chúng mình không được nghe Thế Tôn dạy bảo, không được nghe giáo pháp
trực tiếp từ miệng của bậc thầy nói ra. Chúng ta nên đi tìm người”. Chúng con
đã lên đường tìm Bụt nhưng không được gặp. Không ai biết Bụt ở đâu. Cuối cùng
chúng con tìm về Savatthi. Về tới đây chúng con cũng không thấy Bụt. Chúng con
tự bảo nên kiên nhẫn chờ Bụt tại đây. Thế nào người cũng về. Thế nào người cũng
không bỏ các đệ tử xứng đáng của người.
– Khi thầy rời Kosambi, tình trạng như thế nào? Các vị khất
sĩ còn cãi cọ nhau nhiều không?
– Thế Tôn, hồi ấy tình trạng còn căng thẳng lắm. Căng thẳng
hơn ngày Thế Tôn ra đi nhiều, không bên nào chịu thua bên nào. Không khí thật
là khó thở. Mỗi lần đi vào thành phố khất thực là chúng con lại bị giới cư sĩ hỏi
nhau về vụ tranh chấp. Chúng con nói: “Có nhiều vị khất sĩ đứng ngoài vụ tranh
chấp. Xin quý vị biết cho điều đó”, và đó là điều duy nhất mà chúng con có thể
làm.
Dần dần giới cư sĩ bắt đầu phản ứng. Họ tìm tới tu viện và
nói với các vị khất sĩ trong vụ tranh chấp: “Quý thầy đã không nghe lời Bụt để
cho Bụt phải buồn lòng mà bỏ đi. Quý thầy có trách nhiệm rất lớn. Giới tại gia
của chúng tôi đã mất rất nhiều niềm tin. Xin quý thầy xét lại”.
Thưa Thế Tôn, ban đầu thì các thầy không chú ý tới lời cảnh
cáo của giới tại gia, nhưng sau đó, giới tại gia cương quyết bảo nhau không
cúng dường cho các vị có mặt trong cuộc tranh chấp. Hỏi tại sao không cúng dường
tăng bảo, họ trả lời: “Quý vị không xứng đáng với Bụt, bởi vì quý vị không có sự
hòa hợp. Nếu quý vị nghe lời Bụt mà hòa giải được với nhau, rồi sau đó đi tìm Bụt
để sám hối, thì chúng tôi sẽ khôi phục được niềm tin. Lúc đó chúng tôi mới hành
trì lại phép cúng dường với tất cả tâm thành của chúng tôi được”. Thưa Thế Tôn,
giới tại gia ở Kosambi cương quyết lắm. Họ nói thì họ làm. Ngày rời Kosambi,
con nghe nói là hai bên định ngày tập hợp để đi tới sự hòa giải. Con nghĩ là họ
sẽ hòa giải được và sớm muộn gì họ cũng tìm về tới đây để xin sám hối với Bụt.
Bụt nói:
– Ananda, đưa chổi đây để tôi dọn dẹp tiếp cho. Thầy hãy đi
kiếm đại đức Sariputta về để tôi nói chuyện.
Ananda đi rồi, Bụt lấy chổi quét tịnh xá. Người làm công việc
này một cách thong thả và thoải mái. Rồi người bắc một chiếc ghế ra ngoài sân
ngồi. Tu viện Cấp Cô Độc quả là một nơi đẹp đẽ. Cây cối xanh tươi và chim chóc
ca hát vang lừng cả bốn mặt. Người ngồi chơi một lát thì đại đức Sariputta tới.
Hai thầy trò ngồi bên nhau im lặng một hồi lâu. Rồi Bụt nói cho đại đức nghe điều
người đang quan tâm. Bụt bảo: “Phải làm mọi cách để những cuộc cãi cọ vô nghĩa
lý đừng xảy ra ở trung tâm tu học xinh đẹp này”. Hai người bàn bạc với nhau khá
lâu.
Một buổi chiều nọ, đại đức Sariputta được báo tin là các thầy
ở Kosambi đang lục tục kéo về. Họ đông tới cả mấy trăm người. Họ còn ở dưới phố,
chưa lên tới tu viện. Thầy đi tìm Bụt và hỏi người:
– Thế Tôn, con nghe là các huynh đệ từ Kosambi đã về đến và sắp
tới nơi rồi. Chúng con phải tiếp xử với họ như thế nào?
– Thì cứ tiếp xử đúng chánh pháp.
– Lạy Bụt, đúng chính pháp nghĩa là sao, xin người dạy cho.
– Thầy mà cũng còn hỏi một câu như thế sao?
Đại đức Sariputta im lặng. Vào lúc đó, các thầy Moggallana,
Kassapa, Kaccana, Kotthiya, Kappina và Anuruddha tìm tới tịnh thất của Bụt. Các
thầy hỏi:
– Lạy Bụt, các huynh đệ sắp về tới. Chúng con phải tiếp xử với
họ như thế nào?
– Thì các vị cứ tiếp xử đúng như chính pháp.
Các thầy đưa mắt nhìn đại đức Sariputta.
Đại đức chỉ mỉm cười, Bụt nhìn những vị đệ tử lớn của người.
Rồi người nói chậm rãi:
– Phải lắng tai nghe cả hai bên, phải đừng có thành kiến với
bên nào hết. Những điều giới mình nghe từ một phía, mình phải trầm tĩnh xét
đoán, xem cái gì đúng với chánh pháp và cái gì không đúng với chánh pháp. Chánh
pháp là những gì tôi đã trình bày như là con đường đưa đến an lạc và giải
thoát, những điều mà chính tôi, tôi đang làm theo. Không phải chánh pháp là những
gì tôi đã khuyên răn không nên làm và chính tôi, tôi không bao giờ làm. Khi quý
vị biết được cái gì là chánh và cái gì là không chánh ở mỗi bên thì quý vị có
thể giúp đỡ họ trong công việc hòa giải.
Vừa lúc ấy các vị thí chủ lớn của tu viện do cư sĩ
Anathapindika lãnh đạo cũng tìm tới tịnh thất. Họ hỏi:
– Thế Tôn, những vị khất sĩ ở Kosambi sắp tới. Chúng con phải
đối xử như thế nào? Chúng con nên cúng dường hay không nên cúng dường? Nếu cúng
dường thì Bụt dạy nên cúng dường phía bên nào?
Bụt mỉm cười:
– Nên cúng dường cả hai bên, và nên tỏ lòng yểm trợ và tán
thành mỗi khi có người nói lên những điều đúng với chánh pháp.
Lúc đó, thầy Ananda xuất hiện. Thầy báo tin cho đại đức
Sariputta biết là hiện các thầy Kosambi đã về tới cổng tu viện đầy đủ. Tất cả
đang đứng chờ bên ngoài tu viện vì chưa dám đi vào. Đại đức Sariputta hướng về
phía Bụt:
– Lạy Bụt, các anh em của con từ Kosambi đã tới. Con có nên mở
cửa cho họ vào không?
Bụt nói:
– Nên mở cửa cho họ vào.
Sariputta bạch tiếp:
– Rồi con sẽ giải quyết thế nào về sự cư trú của họ.
– Cho hai phe ở riêng ra hai bên.
– Lạy Bụt, có thể là không đủ chỗ cư trú riêng cho tất cả mọi
người.
– Nếu vậy thì chịu khó ở chật hơn một chút. Tuy nhiên, đừng
nên để ai phải ngủ ở ngoài trời, nhất là các thầy lớn.
– Còn về thực phẩm và thuốc men?
– Thực phẩm và thuốc men thì cũng được phân phát cúng dường đồng
đều như nhau.
Theo lệnh của đại đức Sariputta, các thầy tri khách mở cửa
đón tiếp các vị khất sĩ từ Kosambi tới. Các vị được chia chỗ ở và những tiện
nghi cư trú theo đúng như lời Bụt dạy. Tất cả mọi việc đều được diễn tiến trong
im lặng.
Sáng ngày hôm sau, tất cả các vị mới đến đều được lệnh cho đi
khất thực, nhưng trước khi họ đi, thầy Sariputta đã chia họ thành từng toán và
chỉ định đi từng địa phương khác nhau theo tinh thần lời Bụt dặn. Buổi chiều,
các thầy ngỏ ý muốn đại đức Sariputta dàn xếp cho họ được làm lễ sám hối Bụt. Đại
đức nói:
– Theo sự hiểu biết của tôi thì việc sám hối với Bụt không phải
là việc căn bản. Việc căn bản là các thầy đạt được sự hòa giải. Với sự hòa giải
đó như một thành quả, lễ sám hối mới có ý nghĩa và mới có bản chất chân thực.
Tối hôm ấy, vị kinh sư chủ chốt của sự bất phục tùng tìm tới
vị luật sư thù nghịch. Thầy chắp tay lại và làm lễ vị này. Thầy quỳ xuống và
tác bạch:
– Bạch đại đức, tôi xin công nhận là tôi đã phạm giới, và sự
kết tội của đại đức vào mùa hè năm ngoái là đúng luật. Tôi sẵn sàng sám hối trước
đại chúng, để được trở lại tình trạng giới thể thanh tịnh.
Vị kinh sư làm được như vậy vì thầy không thấy có một nẻo
thoát nào khác cho giáo đoàn khất sĩ. Ông sẵn sàng hy sinh tự ái để đem lại hòa
khí cho giáo đoàn.
Biết thế, vị luật sư liền phản ứng một cách mau lẹ. Ông cũng
quỳ xuống trước vị kinh sư. Ông nói:
– Tôi cũng xin sám hối với đại đức là tôi đã thiếu khiêm nhượng
và thiếu khéo léo trong vụ này. Xin đại đức từ bi chứng minh cho tấm lòng thành
khẩn của tôi.
Ngay buổi tối hôm đó, lễ phát độ của vị kinh sư được tổ chức,
và vị kinh sư khôi phục được giới thể thanh tịnh. Ai nấy đều thở phào, nhất là
các vị khất sĩ từ Kosambi đến, trong số đó có nhiều thầy chưa bao giờ có dính
líu đến cuộc tranh chấp.
Bụt được báo tin này vào lúc nửa đêm. Chính đại đức Sariputta
đem tin này tới cho người.
Người chỉ gật đầu không nói năng gì. Cuộc tranh chấp đã chấm
dứt, nhưng vết thương vẫn còn.
Phải một thời gian nữa thì vết thương mới có thể lành hẳn.
Chương 48 - Rơm phủ lên bùn
Theo đề nghị của đại đức Mahakassapa, một cuộc hội họp được tổ
chức tại giảng đường Kỳ Viên, quy tụ những vị đệ tử lớn của Bụt và cả những vị
đã từng là chủ chốt trong vụ tranh chấp ở Kosambi. Mục đích của buổi họp là để
rút tỉa kinh nghiệm và đề ra những nguyên tắc ngăn ngừa những cuộc tranh chấp
có thể xảy ra trong giáo đoàn. Đại đức Mahakassapa làm chủ tọa buổi họp.
Mở đầu buổi họp, thầy Anuruddha được đại đức Mahakassapa yêu
cầu trùng tuyên lại những điều mà thầy đã được nghe Bụt dạy tại công viên Đông
Trúc về sáu nguyên tắc sống chung hòa hợp. Thầy Anuruddha lập lại với đầy đủ
chi tiết sáu nguyên tắc ấy mà thầy gọi là pháp chế Lục Hòa. Đại đức Moggallana
rất mừng sau khi được nghe pháp chế này. Thầy đề nghị tất cả các vị khất sĩ nên
học thuộc lòng sáu nguyên tắc sống chung hòa hợp.
Thầy nói:
– Sáu nguyên tắc này cũng cần được học thuộc lòng để đem phổ
biến tới các trung tâm tu học khác.
Sau bốn hôm góp ý và thảo luận, các thầy đã thiết lập được bảy
phương pháp để dập tắt các cuộc tranh chấp. Họ gọi đó là thất diệt tránh pháp
(Saptadhikarana-samatha), và họ đem đệ trình lên Bụt. Thất diệt tránh pháp được
xem như là những phương pháp đưa tới sự hòa giải, được trình bày như sau:
– Thứ nhất là hiện tiền tỳ ni (samukha-vinaya). Theo nguyên tắc
này, tất cả những phát biểu về cuộc tranh chấp được nói ra trong đại chúng, với
sự có mặt của hai phía tranh chấp. Tránh tất cả những sự phát biểu và bàn bạc
riêng tư, những phát biểu thường có tác dụng tuyên truyền cho một bên và do đó
có tác dụng gây thêm nứt rạn và hận thù.
– Thứ hai là ức niệm tỳ ni (sati-vinaya). Ức niệm tức là nhớ
lại.Trong buổi họp có sự hiện diện của cả hai phía tranh chấp, các đương sự phải
hồi tưởng lại những gì đã thực sự xảy ra và tuần tự trình bày tất cả những điều
đó theo trí nhớ của mình, với tất cả những chi tiết, và nếu có thì đưa ra những
bằng chứng xác thực. Đại chúng sẽ im lặng lắng nghe hai bên để có đủ mọi dữ kiện
mà thẩm sát vấn đề.
– Thứ ba là bất si tỳ ni (amudha-vinaya). Bất si có nghĩa là
không cứng đầu, không ngu dốt hoặc tâm trí không bình thường. Trong buổi họp mặt
có sự hiện diện của cả hai phía tranh chấp, đại chúng trông chờ các đương sự
bày tỏ thiện chí hòa giải của mình với tất cả khả năng của mình. Thái độ ngoan
cố được xem như là một điểm tiêu cực căn bản. Trong trường hợp đương sự nêu lên
lý do là vì mình ngu dốt không biết, hoặc vì mình tâm trí bất thường cho nên đã
vô tình phạm vào quy luật thì đại chúng phải nương vào đó để giảm luật án cho đẹp
lòng đôi bên.
– Thứ tư là tự ngôn tỳ ni (tatsvabhaisya-vinaya). Tự ngôn là
tự mình nói ra, tự mình công nhận sự vô ý, sự vụng về hoặc sự yếu đuối của
mình, không cần sự hạch hỏi của đối phương hay của đại chúng. Trong buổi họp mặt
có sự hiện diện của cả hai phía tranh chấp, đại chúng trông đợi mỗi bên tự nói
ra những nhược điểm của mình, dù là những điểm nhỏ nhặt nhất. Tự nhận lỗi mình
tức là khởi sự cho một cuộc xuống thang tranh chấp, điều này sẽ khuyến khích đối
phương cũng làm như vậy, để cuối cùng thiện chí của cả hai bên sẽ đủ sức đưa tới
hòa giải.
– Thứ năm là đa ngữ tỳ ni (pratijnakaraka-viaya). Đa ngữ là lấy
biểu quyết bằng đa số. Sau khi đã nghe hết tất cả hai bên và đã chứng kiến nỗ lực
và thiện chí của hai bên, đại chúng sẽ biểu quyết bằng đa số.
– Thứ sáu là tội xứ sở tỳ ni (yadbhuyasikya-vinaya). Án lệnh
tối hậu về tội tướng và cách thức hối cải được đưa ra để đại chúng quyết định bằng
phương pháp bạch tứ yết ma (jnapticaturbin-karmavacana), nghĩa là phương pháp đọc
lớn bản án và hỏi ba lần. Nếu trong ba lần này mà tất cả đều im lặng và không
ai lên tiếng phản đối thì bản án lệnh có hiệu lực. Cố nhiên là các đương sự chỉ
có thể tuân hành chứ không có quyền phản đối, bởi vì cả hai bên từ lúc bắt đầu
đã phát nguyện tin tưởng vào phán quyết của đại tăng.
– Thứ bảy là thảo phú địa tỳ ni (trnastaraka-vinaya). Thảo
phú địa nghĩa là rơm cỏ phủ lên đất sình lầy. Trong buổi họp mặt có sự hiện diện
của cả hai phía tranh chấp, hai vị trưởng lão đức độ được chỉ định để bảo trợ
cho hai phía. Các vị này thường được đại chúng tôn kính và nghe lời. Các ngài
ngồi chăm chú nghe, rất ít nói, nhưng mỗi khi nói là có ảnh hưởng rất lớn. Tiếng
nói của các vị trưởng lão này nhằm hàn gắn những vết thương, kêu gọi thiện chí
hòa giải và tha thứ, cũng như phủ rơm cỏ lên trên mặt đất sình lầy để mọi người
bước lên mà không bị lấm chân. Cả hai phía sẽ nghe lời các vị mà bỏ qua đi những
điều không đáng kể, mất đi sự gay gắt, và đại chúng cũng đi đến một bản án lệnh
nhẹ nhàng làm mát lòng cả hai bên.
Bảy phương pháp dập tắt tranh chấp được các vị đệ tử lớn đem
trình lên Bụt. Bụt rất vui lòng. Người tỏ ý khen ngợi các thầy và đồng ý đưa bảy
điều này vào giới luật.
Bụt ở lại tu viện Jetavana trong sáu tháng nữa, sau đó người
về Rajagaha.
Trên đường về, người đã ghé lại thăm cây Bồ Đề. Người cũng đã
ghé lại xóm Hạ làng Uruvela để thăm mấy anh em Svastika. Svastika bây giờ đã
thành một chàng trai cao lớn. Svastika đã hai mươi mốt tuổi.
Nhớ lời hứa năm xưa, Bụt đã ghé lại để độ chú, đưa chú về
Rajagaha. Ở đây chú đã được xuất gia và đã được làm quen với chú Rahula.
Chương 49 - Con hãy học hạnh của đất
Vị khất sĩ trẻ Svastika nghe hai thầy Assaji và Ananda kể về
công trình hành đạo của Bụt trong mười năm qua một cách say mê. Ngồi với chú,
có ni sư Gotami và chú Rahula.
Tuy đã biết và đã được chứng kiến nhiều việc xảy ra, nhưng
chú Rahula cũng tỏ vẻ thích thú khi nghe các đại đức thuật lại. Thầy Ananda có
trí nhớ rất dị thường, thầy đã nhắc rất nhiều chuyện mà thầy Assaji quên không
nói tới.
Svastika cảm thấy một niềm biết ơn sâu xa đối với các thầy
Assaji và Ananda, với ni sư Gotami và với chú Rahula.
Nếu không có bốn vị này làm sao chú được dịp nghe kể từng ấy
chuyện về đời của Bụt.
Chú hy vọng từ đây về sau sẽ được thân cận Bụt để được sống
và chứng kiến những gì xảy đến trong đời người và cũng để được học hỏi trực tiếp
từ người.
Tuy xuất thân là một chú bé chăn trâu, Svastika cũng có đôi
chút học thức và chữ nghĩa. Đây là nhờ công trình của chị Sujata con gái của
ông hương cả trong làng Uruvela. Chị đã dạy Svastika từ năm chú mười một tuổi.
Mấy năm gần đây chú không được học với chị nữa, bởi vì chú đã
lớn. Svastika được chị báo tin là chị sắp đi lấy chồng, và vì chồng chị cư trú ở
Nadika, nên chị cũng sẽ rời bỏ Uruvela để về Nadika vào cuối năm nay.
Svastika lớn hơn Rahula tới ba tuổi, nhưng chú cảm thấy chú
phải học rất nhiều điều từ chú Rahula. Phong cách của Rahula rất thanh tao, đã
là dòng giống vương giả, Rahula lại được thực tập gần tám năm trời trong nếp sống
tĩnh lặng và uy nghi cho nên so với Rahula, Svastika thấy mình còn thô tháo nhiều
lắm.
Chú ý thức được điều đó nên chú hết sức cố gắng, thầy
Sariputta đã giao cho Rahula chỉ bảo cho chú những phép tắc liên hệ tới việc mặc
áo, ôm bát, đi, đứng, nằm, ngồi, đi vào thôn lạc, khất thực, ăn cơm, rửa bát,
nghe pháp… Có tất cả bốn mươi lăm điều mà chú phải học thuộc và làm theo. Những
điều này gọi là uy nghi và tế hạnh. Vị xuất gia nào làm đúng theo những điều
này thì tự khắc có phong thái uy nghi và trầm lặng của một vị khất sĩ.
Trên nguyên tắc, Svastika là một vị khất sĩ – bhikkhu – trong
khi Rahula chỉ mới là một vị sa di – samanera.
Đúng hai mươi tuổi, Rahula mới được thọ giới khất sĩ. Giới luật
của sa di có mười điều: không sát sinh, không trộm cướp, không dâm dục, không
nói dối, không uống rượu, không trang điểm, cài hoa và xức dầu thơm, không nằm
và ngồi trên những giường ghế cao sang và rộng lớn, không ca vũ, không sử dụng
tiền bạc, và không ăn sau giờ mặt trời đứng bóng. Bốn mươi lăm điều uy nghi và
tế hạnh tuy thuộc về giới luật của một vị khất sĩ nhưng Rahula cũng phải học và
hành trì, bởi vì Rahula đang tập sự để được thọ giới khất sĩ. Khất sĩ có tới một
trăm hai mươi giới, trong đó có bốn mươi lăm điều uy nghi tế hạnh. Theo chú
Rahula nói thì số lượng các giới điều khất sĩ sẽ tăng lên với thời gian, và có
ngày giới này có thể sẽ tăng lên hai trăm giới, hoặc hơn thế nữa.
Theo chú Rahula kể lại thì trong những năm đầu, các vị khất
sĩ sống không cần giới luật gì hết mà trong giáo đoàn vẫn chẳng có vấn đề đáng
tiếc nào xảy ra. Lễ xuất gia thật đơn giản: chỉ cần quỳ dưới chân Bụt hoặc dưới
chân một vị khất sĩ để đọc lên ba câu quay về nương tựa là đã chính thức thành
người xuất gia.
Bây giờ đây, xuất gia thì phải phát nguyện tiếp nhận và hành
trì giới luật. Số lượng người xuất gia đã trở nên đông đảo. Đông đảo cho nên có
những thành phần không tự mình cảnh giác được và phải cần đến những kỷ luật và
phép tắc để chế ngự. Những phép tắc này gọi là giới và luật.
Chú Rahula kể rằng người phạm giới đầu tiên là thầy Sudina,
và chính vì thầy Sudina mà Bụt khởi sự áp dụng việc hành trì giới luật. Thầy
Sudina trước khi đi xuất gia đã có thành lập gia đình rồi, và lúc ấy còn cư trú
tại làng Kalanda gần thành phố Vesali. Được nghe Bụt thuyết pháp ở giảng đường
Trùng Các, Sudina xin đi xuất gia.
Một thời gian sau đó, thầy Sudina có dịp ghé về làng Kalanda.
Gia đình thầy ngỏ ý muốn thỉnh thầy về thọ trai ngày mai. Thầy nhận lời. Ngày
mai lại, sau khi thọ trai, thầy được gia đình yêu cầu hoàn tục để chăm lo sự
nghiệp và cửa nhà. Thầy không bằng lòng. Gia đình than phiền rằng thầy là con một,
thầy đi tu thì không còn ai nối dõi, và sản nghiệp sẽ rơi vào tay người khác.
Gia đình thầy giàu có lắm. Cuối cùng mẹ thầy đề nghị nếu thầy cương quyết không
hoàn tục thì ít nhất thầy cũng phải để lại một đứa con. Nể lời mẹ, và cũng vì
lý do giáo đoàn chưa có pháp chế giới luật, thầy nhận lời. Mẹ thầy sau đó sắp đặt
để cho thầy gặp lại người vợ cũ. Cuộc gặp gỡ này xảy ra trong rừng Mahavana.
Sau đó, người vợ cũ của thầy có thai. Đứa con trai sinh ra được
ông bà nội đặt tên là Bijaka, có nghĩa là hạt giống. Rồi sau đó thầy Sudina bị
các bạn gọi đùa là “Ba của Hạt Giống”. Bắt đầu có sự gièm pha trong quần chúng.
Việc này tới tai Bụt. Người triệu tập các vị khất sĩ lại, thầy Sudina bị Bụt
khiển trách. Giới luật được chế tác bắt đầu từ đó. Mỗi khi có một vị khất sĩ
làm một việc gì trái với tinh thần của đạo lý giác ngộ và giải thoát thì giáo
đoàn lại được tập họp và một điều luật mới được ghi vào giới bản. Giới bản này
được gọi là Patimokkha.
Ngày Svastika thọ giới, giới bản đã lên tới một trăm hai chục
điều. Bốn giới đầu là bốn giới căn bản, phạm vào một trong bốn điều là tự động
mất giới thể, không còn được công nhận là một vị khất sĩ nữa. Nếu phạm vào những
điều khác thì còn có thể sám hối.
Bốn giới đầu gọi là trọng giới: không dâm dục, không trộm cướp,
không sát hại, không tuyên bố mình có thực chứng đạo quả khi mình chưa có thực
chứng đạo quả. Bốn giới này gọi là bốn giới parajika: vị khất sĩ nào phạm vào
thì không còn là một vị khất sĩ nữa, cũng như khi một cây cau bị chặt ngọn thì
không thể nào mọc lên lại được.
Chú Rahula cho biết là Bụt dạy chú rất nghiêm, dù chú biết Bụt
thương chú lắm. Từ năm chú mười ba tuổi, chú đã xin được ăn uống theo các thầy
khất sĩ, nghĩa là không ăn sau giờ mặt trời đứng bóng nữa. Hồi chú mười một tuổi,
có một lần chú đã lỡ nói dối với đại đức Sariputta. Chú đã nói dối chỉ vì sợ thầy
Sariputta mắng về một vụ ham chơi thôi, nhưng rốt cuộc vì nói dối một lần mà phải
nói dối liên tiếp tới bốn lần, sợ tội nói dối lòi ra, nhưng rốt cuộc thì vụ nói
dối cũng lòi ra như thường, Bụt hay được chuyện này và Bụt đã dạy dỗ chú thật kỹ
lưỡng về vấn đề nói dối.
Hồi ấy Bụt ở tịnh xá Trúc Lâm, và hai thầy trò Sariputta thì ở
lại vườn Ambalatthika, Rahula thấy Bụt tới liền đi bắc ghế cho Bụt ngồi và lấy
thau đi múc nước cho Bụt rửa chân. Trong khi Bụt rửa chân Rahula được thầy
Sariputta cho phép ngồi xuống một bên thầy, gần Bụt.
Rửa chân xong, Bụt đổ nước đi, nhưng người còn giữ lại một ít
nước trong chậu, rồi người nhìn Rahula hỏi:
– Này Rahula, nước trong chậu nhiều hay ít?
– Lạy Bụt, nước trong chậu còn rất ít.
– Con nên biết đó, Rahula. Những người nói dối thì căn lành
không còn lại bao nhiêu, ít như nước trong chậu này.
Rahula nín thinh. Bụt lại đổ hết nước trong chậu đi và hỏi:
– Rahula, con có thấy ta đã đổ hết nước trong chậu đi rồi
không?
– Con có thấy.
– Đối với những người tiếp tục nói dối, thì thiện căn sẽ mất
hết như chiếc chậu không có nước này.
Bụt lật úp chậu lại. Người hỏi:
– Rahula, con có thấy cái chậu bị úp lại không?
– Lạy Bụt, con có thấy.
– Nếu ta không tu tập chánh ngữ, nhân cách ta cũng sẽ bị đảo
lộn như cái chậu này.
Bụt nói:
– Rahula, cho nên không nên nói dối bao giờ, dù là để đùa cợt.
Con có biết một tấm gương là để dùng làm gì không?
– Lạy Bụt, tấm gương dùng để soi mặt mình.
– Cũng vậy đó Rahula, con phải quán sát hành động, tư tưởng
và lời nói của con như người soi gương vậy.
Nghe Rahula kể, chú Svastika ý thức được tầm quan trọng của hạnh
nói năng chân thực. Chú nhớ hồi bé chú đã từng nói dối bố, và mẹ, và có một lần
chú đã nói dối với chị Sujata, nhưng may mắn làm sao, chú chưa từng nói dối Bụt
lần nào. Chú có cảm tưởng không thể nói dối Bụt được. Nói dối Bụt thì thế nào
người cũng biết. Chú thầm nghĩ: “Ta phải dứt khoát từ bỏ lời nói không chân thực,
không những ta không được nói dối Bụt, ta cũng không được nói dối với bất cứ
ai, dù người đó là một em bé. Có như thế ta mới chuộc được lỗi lầm hồi ta còn ấu
thơ. Có như thế ta mới đền đáp được ơn đức của Bụt, với lại đã thọ giới rồi thì
phải hành trì giới cho thật nghiêm chỉnh.”
Mỗi tháng hai lần vào ngày trăng tròn và ngày trăng mới, tất
cả các vị khất sĩ tập họp để bố tát và tụng giới. Các giới điều đều được tuyên
đọc, và đại chúng được hỏi có vi phạm các giới ấy hay không. Nếu đại chúng giữ
im lặng tức là không có ai vi phạm, nếu có ai vi phạm thì vị ấy đứng dậy phát lộ
để sám hối. Trừ những lỗi parajika mà người phạm vào thì tự động bị tản xuất,
những lỗi khác đều có thể sám hối được.
Có nhiều hôm Svastika cũng được đi khất thực trong đoàn của Bụt,
có cả Rahula và đại đức Sariputta.
Mùa an cư ấy Bụt lại cư trú ở Ekanala, một khu đồi núi về
phía Nam thủ đô Rajagaha.
Một buổi sáng, đi khất thực ngang qua cánh đồng ở làng
Ekanala, Bụt và các vị khất sĩ bị một nông dân chận đường.
Nông dân này tên là Bharadvaja, ông là một nhà triệu phú, ông
có hàng ngàn mẫu ruộng, đây là mùa cày ruộng, ông đang đốc thúc dân cày đi cày.
Có hàng trăm người đang cày ruộng cho ông trong ngày hôm đó. Chận đường Bụt và
các vị khất sĩ, ông nói:
– Chúng tôi là nông dân, chúng tôi phải cày sâu cuốc bẫm, bỏ
phân, chăm bón và gặt hái mới có được gạo ăn, còn các vị không làm gì cả, không
sản xuất gì hết mà các vị cũng ăn. Các vị không có ích lợi gì cho đời cả. Các vị
không cày, không cuốc, không gieo trồng, không bỏ phân, không chăm bón, không gặt
hái…
Bụt bảo Bharadvaja:
– Có chứ, chúng tôi cũng có cày, cuốc, gieo trồng, bỏ phân,
chăm bón và gặt hái.
– Cày của quý vị đâu, cuốc của quý vị đâu, bò của các vị đâu,
hạt giống của các vị đâu? Các vị chăm bón cái gì, săn sóc cái gì, gặt hái cái
gì?
Bụt nói:
– Hạt giống của chúng tôi là niềm tin. Đất của chúng tôi là
chân tâm. Cày của chúng tôi là chánh niệm. Bò của chúng tôi là sự tinh tiến.
Mùa màng của chúng tôi là sự hiểu biết và thương yêu. Điền chủ! Nếu không có niềm
tin, sự hiểu biết và lòng thương yêu thì cuộc đời sẽ khô cằn và đau khổ lắm.
Chúng tôi cũng gieo trồng và cũng gặt hái như điền chủ.
Vị chủ ruộng Bharadvaja rất thích thú được nghe lời Bụt nói.
Ông truyền gia nhân đem thức ăn trưa dành cho ông ta tới để cúng dường Bụt. Thức
ăn là cơm gạo thơm nấu với sữa. Bụt từ chối. Người nói:
– Tôi thuyết pháp không phải với mục đích là được cúng dường.
Các vị khất sĩ không đổi giáo pháp với phẩm vật cúng dường. Nếu điền chủ muốn
cúng dường, xin để đến một hôm khác.
Vị điền chủ rất cảm phục. Ông lạy xuống và xin được quy y với
Bụt.
Được chứng kiến cuộc gặp gỡ này giữa Bụt và ông chủ ruộng
Bharadvaja, Svastika thấy rằng nếu được thân cận Bụt chú sẽ học hỏi được rất
nhiều, và chú rất mong được đi theo Bụt suốt đời. Chú biết rằng có cả hàng ngàn
vị khất sĩ tuy là học trò của Bụt mà không được thân cận Bụt như chú, như
Rahula và các thầy phụ tá Bụt như Sariputta, Moggallana và Anuruddha.
Sau mùa an cư, Bụt lại đi hành hóa về phương Tây Bắc, và cuối
mùa Thu năm ấy Bụt tới Savatthi. Một buổi sáng, trong khi cầm bát đi khất thực
sau lưng Bụt, Rahula đánh mất chánh niệm. Tuy vẫn đi như mọi người, tâm chú lại
nghĩ đến chuyện khác. Chú nhìn Bụt phía trước và tự hỏi ngày xưa Bụt không đi
tu thì không biết bây giờ Bụt đang làm gì và mình đang làm gì. Chú đã nghe kể lại
là khi Bụt mới sinh, có ông thầy Bà la môn tiên đoán rằng khi lớn lên Bụt sẽ đi
tu và nếu không đi tu thì sẽ trở nên một vị chuyển luân thánh vương, nghĩa là một
vị vua có quyền hạn trên tất cả các vị vua trên hoàn vũ. Đời sống của một vị
chuyển luân thánh vương ra sao, và nếu Bụt bây giờ làm chuyển luân thánh vương
thì chú đang làm gì? Trí óc vơ vẩn nghĩ như thế, bước chân, hơi thở và dáng đi
của chú cũng không còn an trú trong uy nghi nữa. Lạ quá, Bụt đi phía trước mà
người cảm thấy được những điều đó. Bụt biết là chú mất chánh niệm, người dừng
bước và quay trở lại. Tất cả các vị khất sĩ cũng dừng bước, Bụt bảo Rahula:
– Này Rahula, con có theo dõi hơi thở và duy trì chánh niệm
không?
Rahula cúi đầu im lặng.
Bụt dạy:
– Muốn an trú trong chánh niệm thì phải duy trì hơi thở có ý
thức.Trong khi đi khất thực, ta phải thực tập thiền quán. Ta có thể quán sát về
tính cách vô thường và vô ngã của những yếu tố tạo nên muôn loại. Những yếu tố
đó là sắc, thân, cảm thọ, tri giác, tâm ý và nhận thức. Nếu ta duy trì hơi thở
có ý thức thì ta có thể tiếp tục việc thiền quán ngay trong khi ta đi khất thực,
và ta sẽ không bị rơi vào tình trạng thất niệm.
Nói xong, Bụt quay lại và tiếp tục đi. Được sách tấn, tất cả
mọi người đều nắm lấy hơi thở và duy trì chánh niệm.
Nhưng một lúc sau đó, Rahula tách ra khỏi hàng ngũ các vị khất
sĩ, chú tìm đến một cụm rừng bên đường và ngồi xuống dưới một gốc cây.
Thấy thế, Svastika cũng rời hàng ngũ và đi theo Rahula. Thấy
chú tới gần, Rahula nói:
– Chú cứ đi khất thực với các thầy đi. Tôi không có tâm nào
mà đi khất thực nữa. Tôi mới bị Bụt rầy la trước đại chúng là đánh mất chánh niệm.
Tôi phải dành cả ngày hôm nay để thực tập thiền quán. Tôi xấu hổ lắm.
Biết không làm gì hơn được, Svastika từ giã Rahula và trở lại
nhập đoàn với các vị khất sĩ.
Trên đường về đại đức Sariputta đã cùng Svastika ghé lại cụm
rừng để đón Rahula về tu viện. Svastika chia xẻ phần ăn của mình xin được vào
bát của Rahula. Sau giờ thọ trai, thầy Sariputta bảo Rahula đi gặp Bụt.
Svastika xin được đi theo.
Biết tâm ý của Rahula đã đến lúc có thể tiếp nhận giáo lý giải
thoát. Bụt dạy:
– Này Rahula, con hãy học theo hạnh của đất. Dù người ta đổ
và rải lên đất những thứ tinh sạch và đẹp đẽ như hoa, nước thơm, sữa thơm, hoặc
người ta đổ lên đất những thứ dơ dáy hôi hám như phân, nước tiểu và máu mủ, hoặc
người ta khạc nhổ xuống đất thì đất cũng tiếp nhận tất cả những thứ ấy một cách
thản nhiên, không vui vẻ mừng rỡ mà cũng không chán ghét tủi nhục. Cũng như thế,
khi những cảm thọ khoái lạc hoặc buồn khổ phát sinh, con đừng để cho chúng làm
nhiễu loạn tâm con và chiếm cứ lòng con.
Con hãy học theo hạnh của nước. Khi người ta giặt rửa những
thứ dơ bẩn trong nước, nước cũng không vì thế mà cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và
chán chường. Con lại nên học hạnh của lửa. Lửa đốt cháy mọi thứ, kể cả những thứ
dơ bẩn, vậy mà lửa cũng không vì thế mà cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và chán chường.
Con lại cũng nên học hạnh của không khí. Không khí thổi đi các thứ mùi, mà vẫn
không cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và chán chường.
Rahula, con hãy tu tập lòng Từ để đối trị giận hờn. Lòng Từ
là lòng thương yêu được thực hiện bằng cách đem lại niềm vui cho kẻ khác. Từ là
thứ tình thương không có điều kiện và không chờ đợi sự đền trả.
Con hãy tu tập lòng Bi để đối trị tàn ác. Lòng Bi là lòng
thương yêu được thực hiện bằng cách làm vơi đi sự khổ đau nơi người khác. Bi
cũng là thứ tình thương không có điều kiện và cũng không chờ đợi sự đền trả.
Con lại phải tu tập lòng Hỷ để đối trị ganh ghét. Lòng Hỷ là lòng vui phát sinh
từ khả năng vui theo cái vui của người khác và niềm ước ao làm sao cho kẻ khác
được an vui, mong cho kẻ khác được thành công và hạnh phúc. Con lại nên tu tập
lòng Xả để đối trị kỳ thị và vướng mắc. Lòng Xả là tâm niệm thanh thoát và cởi
mở đạt được do sự nhận thức về tính cách tương quan bình đẳng giữa mọi loài;
cái này như thế này vì cái kia như thế kia, mình và người không phải là hai thực
thể riêng biệt, không nên ghét bỏ cái này để đi nắm bắt một cái khác.
Rahula, Từ, Bi, Hỷ và Xả là bốn tâm tư lớn, rộng rãi không có
bờ bến và cũng đẹp đẽ không cùng, đó gọi là Tứ Vô Lượng Tâm. Tu tập theo phép
này thì mình trở nên một nguồn suối mát đem lại sinh lực và niềm vui cho tất cả
vũ trụ.
Rahula, con lại phải quán chiếu về vô thường để phá trừ ảo tưởng
về cái “ta”. Con phải quán chiếu về tính sinh diệt và thành hoại của thân thể để
hiểu sâu về sống chết và để thoát ly tham dục, và nhất là con phải tập quán niệm
hơi thở. Quán niệm hơi thở sẽ đem lại nhiều thành quả lợi lạc lớn.
Ngồi kề Rahula, được nghe tất cả những điều Bụt dạy, Svastika
sung sướng vô cùng. Đây là lần đầu tiên chú được nghe những lời thâm sâu như vậy
trực tiếp từ miệng Bụt. Chú đã học thuộc lòng trên mười kinh, trong đó có những
kinh căn bản như kinh Chuyển Pháp Luân và kinh Vô Ngã Tướng mà Bụt nói ở Vườn
Nai Isipatana, nhưng chú chưa thấy thấm thía mùi vị đạo của đại pháp như hôm
nay. Có lẽ vì những kinh đó chú không được nghe trực tiếp từ miệng Bụt. Kinh đầu
tiên mà chú nghe trực tiếp từ miệng Bụt là kinh Chăn Trâu, chú đã thuộc lòng,
nhưng hồi Bụt nói kinh ấy, chú còn đang mới quá, tâm trí chưa đủ chín chắn để cảm
nhận lấy tất cả những cái hay. Chú tự hẹn là những lúc rảnh rỗi chú sẽ ôn tụng
lại các kinh đó bằng nhận thức mới của mình để có thể thâm nhập được nghĩa lý
sâu xa trong ấy.
Suy nghĩ tới đó thì Svastika lại nghe tiếng Bụt cất lên. Bụt
bắt đầu dạy Rahula về phương pháp thở. Svastika và Rahula đã từng học phép quán
niệm hơi thở rồi và cũng đã thực tập, nhưng đây là lần đầu hai người được Bụt dạy
trực tiếp về phép tu này. Bụt dạy rằng tác dụng đầu tiên của hơi thở có ý thức
là chấm dứt tạp niệm và phát khởi chánh niệm. Mỗi khi thở vào ta biết là đang
thở vào, mỗi khi thở ra, ta biết rằng ta đang thở ra, đó là hơi thở có ý thức.
Trong lúc thở như thế ta để tâm nơi hơi thở và chỉ để tâm nơi hơi thở mà thôi.
Làm như vậy lập tức ta chấm dứt ngay được những tạp niệm, nghĩa là chấm dứt những
suy nghĩ viển vông, những suy nghĩ đã không ích lợi mà còn làm cho tâm ta loạn
động. Một khi những tạp niệm được cắt đứt thì tâm ta an trú trong chánh niệm.
Ta biết ta đang thở, ta biết ta đang tỉnh thức, ta không bị tạp niệm bao vây và
dẫn dắt. Chỉ cần một hơi thở thôi, ta đã có thể thiết lập trạng thái tỉnh thức
trong ta. Trạng thái tỉnh thức ấy là chất Bụt sẵn có trong mọi người.
Bụt dạy: “Thở một hơi dài mình biết là mình thở một hơi dài,
thở một hơi ngắn mình biết là mình thở một hơi ngắn. Như vậy có nghĩa là mình ý
thức được trọn vẹn hơi thở của mình. Duy trì ý thức và hơi thở, ta thiết lập được
định tâm. Lúc bấy giờ ta mới nương theo hơi thở để quán chiếu thân thể ta, cảm
giác ta, tâm ý ta và mọi sự vật trong ta và ngoài ta. Các sự vật ấy gọi là các
pháp (sarvadharma).”
Svastika tin chắc rằng sau buổi giảng này, chú sẽ thành công
rất dễ dàng trong việc thực tập quán niệm về hơi thở.
Bụt đã tận tình dạy chú và dạy Rahula: lời dạy của người rất
đơn giản mà cũng rất sâu sắc.
Sau khi lạy tạ Bụt, chú và Rahula cùng rủ nhau ra bờ hồ.
Hai người lặp lại với nhau những lời Bụt dạy để cùng ghi nhớ
cho kỹ mà thực tập.
Chương 50 - Một vốc cám rang
Mùa an cư năm sau, Bụt cư trú ở Vejanra. Khóa an cư năm đó có
tất cả là năm trăm thầy tham dự. Hai đại đức lớn là Sariputta và Moggallana làm
phụ tá cho Bụt trong khóa an cư này.
Vào giữa mùa an cư, trời rất nóng, không muốn ở trong tịnh xá
của người nữa, suốt ngày Bụt ra ngồi dưới cây nimba cành lá xanh tốt che mát cả
một vùng. Bụt thọ trai, nói pháp thoại, ngồi thiền và trải chiếu nằm ngủ ngay
dưới gốc cây này. Vào tháng thứ ba của mùa an cư, các vị khất sĩ than thở với
nhau là thức ăn xin được mỗi ngày càng lúc càng hiếm. Có nhiều thầy đi khất thực
về với chiếc bát không.
Hỏi thăm, Bụt biết rằng năm nay ở đây mất mùa, và kho lúa dự
trữ của chính quyền địa phương sắp cạn. Dân chúng địa phương đói và chính quyền
phải phát thẻ cứu trợ thực phẩm. Dân chúng không có ăn thì làm gì có để cúng dường.
Số lượng năm trăm vị khất sĩ là một số lượng lớn quá, chính Bụt cũng có hôm phải
mang bát không về. Có nhiều hôm người chỉ sống bằng nước trong và hơi thở. Nhiều
vị khất sĩ thiếu ăn ốm đi trông thấy. Đại đức Moggallana đề nghị với Bụt là
giáo đoàn nên di cư về Uttarakuru ở miền Nam để tiếp tục mùa an cư vì ở đó
không có nạn đói.
Bụt không chấp nhận. Người nói:
– Không nên làm thế, Moggallana. Có phải chỉ có một mình mình
đói mà thôi đâu. Cả dân chúng đều đói, chỉ trừ những nhà giàu, nếu ta vì đói mà
bỏ đi thì ta không chia sẻ được những khó khăn và thông cảm được với dân chúng ở
đây. Moggallana, chúng ta nên ở lại đây cho đến hết mùa an cư.
Người thỉnh Bụt về Vejanra an cư là một thí chủ Bà la môn
giàu có đã từng được nghe Bụt thuyết pháp, tên là Agnidatta, nhưng ông này bận
rộn với việc đi đây đi đó để buôn bán cho nên không thấy được tình trạng của
giáo đoàn. Một hôm đại đức Moggallana chỉ cho Bụt thấy một vùng cây cỏ xanh
tươi gần nơi trung tâm tu học và thưa với Bụt:
– Lạy thầy, con nghĩ là nếu cây cối xanh tốt như vậy là vì ở
dưới đất có nhiều chất dinh dưỡng. Con xin đề nghị là chúng ta lật đất lên, lấy
phần đất mềm và bổ dưỡng ở dưới, hòa tan trong nước và uống lấy nước ấy cho có
chất bổ dưỡng.
Bụt đáp:
– Không nên làm như thế, Moggallana. Hồi tu ở núi Dangsitri,
tôi cũng đã có làm như thế mà không thấy có công hiệu gì. Với lại có bao nhiêu
sinh vật đang sống bình an dưới mặt đất, không bị sức nóng và ánh sáng mặt trời
làm khô chết. Nếu ta lật đất lại thì biết bao nhiêu loài sẽ bị hy sinh, trong
đó có cả các loại cây cỏ đang tốt tươi.
Nghe Bụt nói thế, thầy Moggallana im lặng không dám nói nữa.
Theo thường lệ thì khi đi khất thực về, các thầy chia bớt phần
mình xin được vào những chiếc chậu đặt ở giữa trai đường để những vị nào không
xin được có thể đến lấy, nhưng cả mươi hôm nay chẳng có hôm nào Svastika thấy
được một chiếc bánh chapati hay một hạt cơm trong các chậu đó. Lý do là nếu thầy
nào xin được một ít thức ăn thì thức ăn ấy cũng không đủ cho thầy ấy sử dụng,
nói gì đến chuyện chia xẻ. Rahula có tâm sự với Svastika là khi đi khất thực về,
các thầy lớn có cơ hội được cúng dường hơn là các thầy nhỏ. Svastika cũng đồng
ý như vậy. Svastika nói với bạn:
– Không hiểu tại sao độ rày vừa thọ trai xong thì một lát sau
đã thấy đói. Từ trước đến giờ có bao giờ chú thấy như thế không?
Rahula công nhận Svastika nói đúng. Chú nghĩ có lẽ thời buổi
đói kém nó sinh ra như vậy. Rahula đang vào tuổi lớn. Ăn đủ mà nhiều đêm còn thấy
đói, huống hồ bây giờ có ngày chẳng có hạt cơm hay một trái ổi để vào trong bụng.
Một hôm, sau khi đi khất thực về, đại đức Ananda đi kiếm một
cái om đất, rồi bắc om lên trên một cái bếp ngoài trời. Cái bếp được dựng bằng
ba cục đá. Đại đức nhặt các cành củi khô và loay hoay nhóm lửa.
Thấy lạ, chú Svastika tới gần. Chú nói:
– Thầy để con nhúm bếp cho.
Svastika nhúm bếp tài hơn thầy Ananda nhiều. Trong chốc lát,
lửa đã cháy bùng lên. Đại đức Ananda trịnh trọng lấy bát ra. Trong bát có một
thứ gì giống như mạt cưa. Thầy đổ tất cả vào trong chiếc om đất. Thầy nói với
Svastika:
– Đây là cám. Chúng ta rang cám này cho thơm rồi đem dâng cho
Bụt thay cơm trưa.
Trong khi Svastika dùng hai que củi nhỏ để trộn cám trong nồi
rang, đại đức Ananda kể cho chú nghe rằng có một người lái buôn ngựa từ miền Bắc
xuống đem theo năm trăm con ngựa. Hiện ông ta đang ở Vejanra. Ông ta đã có dịp
làm quen với các vị khất sĩ áo vàng, ông ta biết về tình trạng đói kém ở đây và
biết rằng các vị khất sĩ cũng đang đói.
Sáng hôm nay, ông gặp đại đức Ananda ở cổng chuồng ngựa. Ông
ta nhắn với đại đức là hôm nào không xin được thức ăn cúng dường, các vị có thể
ghé chuồng ngựa và mỗi vị sẽ nhận lãnh vào bát một vốc cám để ăn cho đỡ đói.
Nghe nói thế, đại đức Ananda liền ngỏ ý là ông có thể cúng dường cho Bụt và cho
thầy hai phần cám để ăn cho đỡ đói, bởi vì hôm nay chưa có ai đặt thức ăn vào
bát thầy. Người chủ ngựa đưa thầy vào và vốc hai vốc cám cúng dường, một vốc
cho Bụt và một vốc cho thầy. Thầy hứa sẽ báo tin mừng này cho các vị khất sĩ biết
và thầy có ý định đem rang cám này lên cho thơm trước khi dâng Bụt.
Cám đã thơm, thầy Ananda trút cám trở lại vào bát. Thầy rủ
Svastika đi với thầy về phía cây nimba. Thầy dâng cám lên Bụt, Bụt hỏi thầy và
Svastika có gì ăn chưa. Svastika bạch là sáng nay chú đã xin được hai củ khoai
nhỏ. Thầy Ananda nói là thầy đã có phần cám của thầy. Bụt bảo hai người ngồi xuống
bên người. Cả hai vâng lệnh. Họ ngồi xuống, trang nghiêm mở nắp bình bát ra.
Svastika cầm củ khoai trên tay, quán niệm, rồi chú ngửng đầu lên, Bụt đang bốc
cám trong tay và ăn ngon lành. Chú nhìn mà muốn ứa nước mắt.
Sau buổi pháp thoại chiều hôm đó, đại đức Ananda báo tin cho
đại chúng biết về lời nguyện cúng dường cám của người chủ ngựa. Thầy thêm là chỉ
khi nào hoàn toàn không xin được thức ăn, các vị khất sĩ mới nên ghé tới chuồng
ngựa. Thầy nói có cả thảy năm trăm con ngựa, và số lượng cám được cúng dường sẽ
được lấy bớt ra từ phần ăn của ngựa.
Đêm nay có trăng, đại đức Sariputta đến thăm Bụt dưới cây
nimba. Thầy được Bụt mời ngồi trên một tọa cụ gần đấy, thầy hỏi Bụt:
– Thế Tôn, đạo lý tỉnh thức mà Thế Tôn dạy thật là mầu nhiệm.Đạo
lý này chuyển đổi cả sự sống của những ai được có cơ hội nghe, hiểu và làm
theo. Thế Tôn! Làm thế nào để đạo lý này được tiếp nối sau khi người đã trăm tuổi.
– Sariputta, nếu các vị khất sĩ thông hiểu kinh kệ thực hành
theo những pháp môn được chỉ dẫn trong các kinh kệ đó và nhất là biết chấp hành
giới luật cho nghiêm chỉnh thì đạo lý giác ngộ có thể tiếp nối nhiều trăm năm,
có thể là cả ngàn năm về sau.
– Thế Tôn, con thấy số lượng các huynh đệ thông thuộc kinh điển
rất đông và hầu hết đều chuyên cần ôn tụng kinh kệ. Con nghĩ rằng nếu các thế hệ
người xuất gia tiếp tục học hỏi và trì tụng đều đều như thế thì giáo huấn của Bụt
có thể truyền về rất xa trong tương lai.
– Nhưng truyền tụng kinh điển chưa đủ. Cần phải thực tập theo
các pháp môn chỉ bày trong kinh điển nữa, và nhất là phải nghiêm trì giới luật.
Này Sariputta, nếu các vị khất sĩ không nghiêm trì giới luật thì chánh pháp sẽ
không được trường tồn. Chánh pháp sẽ mai một rất sớm.
– Vậy con xin thỉnh cầu Bụt thiết chế và ban hành giới luật để
làm mẫu mực ngàn đời cho nếp sống xuất gia.
– Chưa được đâu, Sariputta. Giới luật không thể được thiết chế
đầy đủ trong một ngày và từ một người. Vào những năm đầu của giáo đoàn, chúng
ta chưa có một giới luật nào hết, nhưng từ từ vì những vụng dại và lỗi lầm của
các phần tử trong giáo đoàn mà một số các giới điều đã được thiết chế nên. Số
lượng các điều, như thầy biết, hiện đã lên tới trên một trăm hai mươi khoản. Số
lượng này sẽ tăng lên nữa với thời gian. Những giới chưa thiết chế mình không
thể thiết chế trước được. Bây giờ đây chúng ta biết là các điều khoản giới luật
vẫn chưa đầy đủ, và vì vậy chúng ta sẽ phải đợi một thời gian. Khi thấy các giới
điều đã đầy đủ, lúc đó chúng ta sẽ ban hành giới luật cụ túc. Sariputta, số lượng
các giới điều, theo tôi thấy sẽ lên tới ít nhất là hai trăm.
Ngày tự tứ đã tới, vị thí chủ giàu có bảo trợ cho mùa an cư
đã từ phương xa trở về. Nghe nói các vị khất sĩ nhiều người bị đói trong mùa an
cư, ông ta rất lấy làm hối hận. Ông tổ chức một buổi trai tăng thật long trọng
tại nhà. Sau khi cúng dường cơm nước, ông còn cúng dường cho Bụt và các vị khất
sĩ mỗi người một áo cà sa. Sau buổi thuyết pháp, Bụt và các vị khất sĩ từ giã
ông và đi về miền Nam.
Con đường về miền Nam thật đẹp. Bụt và đoàn khất sĩ đi thành
từng chặng. Ngày đi, đêm nghỉ, buổi sáng thiền tọa trước giờ khất thực. Trưa thọ
trai và nghỉ trong rừng. Buổi chiều tiếp tục đi. Gặp những nơi cần giáo hóa, Bụt
và các vị khất sĩ ở lại nhiều hôm. Buổi tối các thầy học hỏi và ôn tụng kinh điển
trước giờ tọa thiền. Sau thiền tọa là nghỉ ngơi.
Một buổi chiều nọ, Svastika gặp trên đường đi mấy em bé chăn
trâu đang lùa trâu về. Chú dừng lại để nói chuyện. Svastika nghĩ đến thời niên
thiếu của mình. Đột nhiên chú nhớ tới các em chú quá. Chú nhớ thằng Rupak, chú
nhớ con Bala, và nhất là chú nhớ con Bhima, em út của chú. Niềm nhớ quặn lên
trong lòng chú. Chú không biết rõ là đã đi tu thì còn có quyền nghĩ tới gia
đình của mình hay không. Chú định một hôm nào hỏi Bụt hoặc là hỏi thầy Ananda.
Theo chú biết thì chú Rahula có nhiều lúc cũng nhớ mẹ lắm. Chính Rahula đã tâm
sự với chú như vậy.
Tuy đã hai mươi tuổi, Svastika vẫn còn cảm thấy gần gũi với bọn
trẻ hơn là với người lớn. Chú ưa quấn quít bên cạnh Rahula. Rahula cũng cảm thấy
thoải mái khi gần gũi chú. Hai người đã có dịp tâm sự. Chú đã từng kể cho
Rahula nghe về cuộc đời mình như một em bé chăn trâu. Rahula chưa bao giờ từng
được ngồi trên một con trâu. Nghe nói con trâu hiền lắm, Rahula vẫn chưa tin được.
Chú nói với Rahula rằng con trâu là một con vật thuộc loại hiền nhất trong các
loài động vật, dù hình tướng của nó to lớn có thể làm cho nít ở thành phố e ngại.
Chú nói đã nhiều lần chú nằm ngửa thoải mái trên lưng trâu trên con đường từ
bên sông về nhà. Trong khi chú nhìn trời xanh, mây trắng và đàn chim bay lượn,
thì con trâu cứ chầm chậm đưa chủ về nhà; các con trâu khác đều đi theo một
cách ngoan ngoãn. Có khi nằm ngửa trên mình trâu, chú còn thổi sáo nữa. Lưng
trâu rất ấm và cũng rất êm. Chú lại kể về những trò chơi chú từng chơi chung với
bọn trẻ giữ trâu trong xóm. Rahula nghe chú kể rất lấy làm ưa thích.
Rahula đã ở trong cung điện trong suốt thời gian ấy, chú đã
có bao giờ được chơi đùa theo cách đó đâu. Rahula từng ngỏ ý muốn được ngồi
trên lưng trâu một phen. Svastika hứa là sẽ tìm cách giúp cho Rahula toại nguyện.
Chính Svastika mà cũng còn muốn trở về ngồi trên lưng trâu, huống chi là
Rahula. Nhưng tình thế khó khăn lắm, đã làm khất sĩ mà còn muốn chơi đùa ngồi
trên lưng trâu như bọn mục đồng, điều này không dễ. Svastika tính thầm là có dịp
đi hành hóa gần quê nhà, chú sẽ xin Bụt cho chú ghé về thăm các em, rồi chú
cũng sẽ xin Bụt cho phép Rahula cùng đi với chú. Rahula đã từng gặp các em của
chú rồi. Về thăm các em, chú sẽ bảo Rupak tập cho Rahula cỡi trâu trên bờ ruộng,
gần dòng Neranjara. Ở đấy vắng vẻ không có ai nhìn đến; chú cũng sẽ cởi áo khất
sĩ và cũng cỡi trâu như ngày xưa. Ít nhất là trong một buổi chiều.
Mùa an cư năm tới, Bụt cư trú trên núi đá Calika. Đây là Hạ
thứ mười ba kể từ ngày Bụt thành đạo. Năm nay thầy Meghiga được làm thị giả cho
Bụt. Một hôm thầy Meghiga thú thật với Bụt là có khi ngồi một mình trong rừng vắng,
thầy thấy những tư tưởng tạp loạn và ái dục nổi dậy trong tâm. Thầy thường nhớ
Bụt dạy là vị khất sĩ phải biết sống một mình để có thì giờ và cơ hội mà thực tập
thiền quán, nhưng khi ở một mình thầy lại gặp những chướng ngại khác trỗi dậy từ
trong tâm.
Bụt dạy thầy rằng biết sống một mình không có nghĩa là sống
không có bạn đạo. Gần gũi bạn bè mà chỉ để chuyện trò phù phiếm, điều ấy không
có lợi cho sự tu tập và làm mất hết thì giờ, nhưng gần gũi bạn hữu để nâng đỡ
và chỉ dẫn nhau trong việc thực tập là một điều cần thiết. Vị khất sĩ nên sống
trong một đoàn thể, để được nâng đỡ và khuyến khích, đó là ý nghĩa của những tiếng
“quay về nương tựa Tăng” (Sangham saranam gacchami).
Bụt dạy đại đức Meghiga:
– Người khất sĩ cần hội đủ năm điều kiện. Thứ nhất là có thiện
hữu trí thức, tức là những bạn đồng tu có trí tuệ và đạo hạnh đủ để hướng dẫn
mình. Thứ hai là phải có giới luật để giúp mình an trú trong chánh niệm. Thứ ba
là phải có cơ hội học hỏi giáo pháp. Thứ tư là phải chuyên cần. Thứ năm phải có
sự hiểu biết. Bốn điều kiện sau cũng có liên hệ nhiều tới điều kiện thứ nhất là
có thiện hữu trí thức. Meghiga, muốn điều phục ái dục, sân hận và si mê, thầy
phải thường xuyên thực tập cửu tưởng quán, từ bi quán, vô thường quán và tùy tức
quán. Bốn phép quán này có công năng đưa đến giải thoát và giác ngộ.
Cửu tưởng quán là quán chiếu về quá trình tàn hoại của cơ thể,
thấy được quá trình hủy diệt của một thân thể từ khi tắt thở cho đến khi xương
cốt tan thành tro bụi. Quá trình này có cả thảy là chín giai đoạn, cho nên gọi
là cửu tưởng quán. Cửu tưởng quán có thể giúp ta đối trị ái dục.
Từ bi quán là quán chiếu về những nguyên nhân đã đưa tới tâm
niệm giận dữ của mình, trong đó có những nguyên nhân thuộc tâm lý của mình, và
những nguyên nhân xa gần đã khiến người khác nói năng và hành động thế nào để
mình nổi cơn giận dữ. Từ bi quán giúp ta đối trị sân hận.
Vô thường quán là quán chiếu quá trình sinh diệt của vạn
pháp; phép quán này có công năng diệt trừ si mê. Tùy tức quán là theo dõi hơi
thở và nuôi dưỡng chánh niệm; phép quán này có công năng đối trị loạn tâm.
Nếu thầy thường xuyên thực tập bốn phép quán ấy, thầy sẽ đạt
tới trạng thái tự do của tâm ý.
Chương 51 - Kho tàng của cái thấy
Mãn mùa an cư, Bụt lên đường, hướng về Savatthi. Svastika và
Rahula được phép tùy tùng người.
Đây là lần đầu Svastika được đến tu viện Jetavana. Tu viện rất
đẹp và đầy đủ mọi tiện nghi cho sự tu học.
Khung cảnh đã tươi mát mà không khí lại đầm ấm. Thấy
Svastika, thầy nào cũng mỉm cười.
Ai cũng biết là do vị khất sĩ trẻ này mà Bụt đã nói kinh Chăn
Trâu. Svastika nhận thấy rằng trong một hoàn cảnh thuận tiện cho sự tu học như
thế này chắc chắn chú sẽ đạt được nhiều tiến bộ. Chú hiểu tại sao Tăng cũng
quan trọng như Bụt và Pháp. Tăng là đoàn thể của những người cùng đi trên con
đường tỉnh thức, và ta phải tìm về nương tựa Tăng để được nâng đỡ và hướng dẫn.
Cũng như ta đã tìm về nương tựa Bụt và Pháp.
Năm nay, vị sa di Rahula được hai mươi tuổi. Chú được đại đức
Sariputta làm lễ trao giới khất sĩ.
Cả tu viện đều vui mừng. Đại đức đã dạy chú thật chu đáo nhiều
ngày trước ngày chú thọ giới.
Chú Svastika cũng được hân hạnh dự nghe những lời giáo huấn
này.
Sau khi Rahula được thọ giới khất sĩ, Bụt đã để thì giờ đặc
biệt dạy cho chú về các công phu thiền quán, Svastika cũng được dự thính các buổi
dạy. Bụt dạy Rahula quán chiếu về sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và
ý, về sáu đối tượng của giác quan là hình sắc, âm thanh, mùi vị, xúc chạm và ý
niệm, và về sáu thức là cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm và
ý thức.
Người dạy Rahula quán chiếu về tự tính vô thường của mười tám
hiện tượng đó mà người gọi là thập bát giới. Mười tám hiện tượng gồm có sáu
căn, sáu trần và sáu thức. Căn tức là cơ quan cảm giác, trần là đối tượng của
các cơ quan đó, và thức là những nhận thức phát sinh ra từ sự xúc chạm giữa căn
và trần. Phép quán này gọi là giới phân biệt quán.
Bụt dạy quán chiếu căn, trần và thức để thấy tất cả các hiện
tượng này đều nương vào nhau mà có mặt, để thấy được tự tính vô thường và duyên
sinh của chúng. Một khi đã thấy như thế thì hành giả chứng đắc được tính cách
vô ngã và thoát ly được sinh tử. Bụt dạy thầy khất sĩ trẻ Rahula thật kỹ lưỡng
về đạo lý vô ngã. Bụt nói:
– Này Rahula, trong năm uẩn là thân thể, cảm thọ, tri giác,
tâm hành và nhận thức, không có gì bất biến để có thể gọi là ngã cả. Thân thể
này không phải là ngã. Thân thể này cũng không phải là ngã sở, nghĩa là vật sở
hữu của ngã. Ngã không nằm trong thân thể, thân thể cũng không nằm trong ngã.
Có ba loại kiến chấp về ngã. Kiến chấp đầu là cho rằng thân
thể này là ngã. Hoặc cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức này là ngã. Kiến
chấp này gọi là ngã chấp. Khi nói tới thân thể này không phải là ngã, người ta
có thể rơi vào kiến chấp thứ hai, cho rằng ngã là một cái gì riêng biệt với
thân thể, và thân thể chỉ là một vật sở hữu của ngã. Kiến chấp thứ hai này gọi
là dị ngã chấp. Kiến chấp thứ ba cho rằng trong thân thể có ngã và trong ngã có
thân thể, hai không là hai mà cũng không là một, cái này nằm trong cái kia. Kiến
chấp này gọi là tương tại chấp.
Rahula, quán vô ngã là phải nhìn sâu vào lòng năm uẩn để thấy
năm uẩn không phải là ngã, không phải là dị ngã, cũng không phải là tương tại.
Vượt được ba kiến chấp này rồi mới thực sự chứng nghiệm được tự tính vô ngã của
vạn pháp.
Tại tu viện Cấp Cô Độc này có một thầy tên là Thera. Svastika
nhận xét rằng thầy này ít ưa nói chuyện với ai, và đi đâu cũng đi một mình, làm
gì cũng làm một mình. Đại đức Thera không làm phật lòng ai, cũng không phạm vào
giới điều nào, nhưng thầy sống có vẻ lẻ loi và không thật sự hòa hợp với đại
chúng, Svastika đã có lần tới gần thầy để gợi chuyện nhưng thầy cũng tránh đi.
Mọi người đặt tên cho thầy là “người ưa sống một mình”.
Svastika biết rằng Bụt thường khuyến khích các thầy tránh tụ
họp chuyện trò, tránh những buổi nhàn đàm vô ích để có thì giờ sống một mình mà
thiền quán, nhưng chú cảm thấy cách sống của thầy Thera không thật sự là cách sống
mà Bụt muốn.
Một buổi chiều, nhân có cơ hội, Svastika đem chuyện này trình
bày lên Bụt.
Ngày mai lại, trong giờ pháp thoại, Bụt gọi đại đức Thera lên
và hỏi:
– Thầy là người ưa sống một mình, làm cái gì cũng ưa làm một
mình và tránh sự chung đụng với các thầy khác, có phải vậy không?
Đại đức đáp:
– Bạch Thế Tôn, đúng như vậy. Thế Tôn thường dạy người khất
sĩ nên biết độc cư, nghĩa là nên sống một mình.
Quay lại đại chúng, Bụt nói:
– Các vị khất sĩ, tôi muốn dạy cho các vị thế nào là thật sự
biết sống một mình.
Người thật sự biết sống một mình là người biết an trú trong
chánh niệm. Người ấy ý thức được những gì đang xảy ra trong thân thể, trong cảm
giác, trong tâm ý và nơi những đối tượng của tâm ý. Người ấy biết quán chiếu sự
sống trong giờ phút hiện tại, không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai,
vì quá khứ thì không còn mà tương lai thì chưa tới. Sự sống chỉ có mặt trong giờ
phút hiện tại. Nếu ta bỏ giờ phút hiện tại, ta đánh mất sự sống.
Này các vị, thế nào là tìm về quá khứ? Tìm về quá khứ ở đây
có nghĩa là tự đánh mất mình trong quá khứ, trôi dạt trong quá khứ trên những đợt
sóng tư duy: trong quá khứ hình thể ta từng như thế đó, cảm thọ ta từng như thế
đó, địa vị ta từng như thế đó, hạnh phúc ta từng như thế đó… Phát khởi lên những
tư duy như thế và bị ràng buộc bởi những gì thuộc về quá khứ, đó là tìm về quá
khứ.
Này các vị, thế nào là tưởng tới tương lai? Tưởng tới tương
lai ở đây có nghĩa là tự đánh mất mình trong tương lai, trôi dạt trong tương
lai, trên những đợt sóng tư duy, lo sợ hoặc mơ tưởng: trong tương lai, hình thể
ta sẽ được hay sẽ bị như thế đó, cảm thọ ta sẽ được hay bị như thế đó, hạnh
phúc ta sẽ được như thế đó, khổ đau ta sẽ bị như thế đó… Phát khởi lên những tư
duy như thế và bị ràng buộc bởi những ước mơ hoặc lo sợ về tương lai… đó là tưởng
tới tương lai.
Này các vị, trở về giây phút hiện tại là để tiếp xúc với sự sống
và để quán chiếu sự sống. Nếu không tiếp xúc thì không thể quán chiếu. Chánh niệm
giúp ta trở về hiện tại, tiếp xúc với hiện tại và quán chiếu sự sống trong hiện
tại. Trở về hiện tại không có nghĩa là tự đánh mất mình trong những đam mê hoặc
sầu khổ về hiện tại. Nếu bị ràng buộc bởi những đam mê và sầu khổ về những gì
đang xảy ra trong hiện tại thì sự sống cũng không có mặt. Sự sống không có mặt
vì chánh niệm không có mặt.
Này các vị khất sĩ, người biết sống một mình là người biết an
trú trong hiện tại, dù người ấy đang ngồi giữa đám đông. Một người ngồi trong rừng
sâu mà nếu không có chánh niệm, nếu bị những con ma quá khứ và tương lai lôi cuốn
và ám ảnh thì người ấy vẫn không phải là người biết sống một mình. Rồi Bụt đọc
cho các thầy nghe một bài kệ:
“Đừng tìm về quá khứ
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại
Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi
Phải tinh tiến hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp
Cái chết đến bất ngờ
Không thể nào mặc cả
Người nào biết an trú
Đêm ngày trong chánh niệm
Thì Mâu Ni gọi là
Người Biết Sống Một Mình.”
Đọc xong bài kệ, Bụt cảm ơn đại đức Thera và bảo thầy đi xuống.
Người không trực tiếp khen hay chê thầy. Nhưng chắc chắn là lần này đại đức thật
sự hiểu được ý Bụt.
Trong buổi pháp đàm hôm đó, Svastika nghe các thầy lớn nói rằng
những lời dạy của Bụt hôm đó rất là quan trọng, mọi người cần phải ghi nhớ. Đại
đức Ananda trùng tuyên một lần nữa những điều Bụt nói cho mọi người nghe. Thầy
đọc lại bài kệ của Bụt một cách trôi chảy và thông suốt. Svastika lấy làm lạ.
Hình như thầy Ananda nhớ hết những lời Bụt nói không sót một tiếng nào. Cách
nói, lời nói, và cú pháp giống hệt như khi Bụt nói. Khi đại đức Ananda trùng
tuyên xong lời Bụt, đại đức Mahakaccana đứng lên nói:
– Ta hãy nên lấy lời Bụt dạy hôm nay làm thành một kinh văn.
Thưa các huynh đệ, tôi xin đề nghị gọi kinh này là kinh
Bhaddekaratta, nghĩa là kinh Người Biết Sống Một Mình, và cũng xin đề nghị tất
cả các huynh đệ học thuộc lòng để hành trì. Ít nhất mỗi người trong chúng ta đều
phải học thuộc lòng bài kệ.
Đại đức Mahakassapa đứng dậy tán đồng ý kiến ấy.
Sáng hôm sau, trong khi đi khất thực, Bụt gặp một đám trẻ con
đang tụ họp với nhau chơi đùa. Các em bé này đang hành hạ những con cua nhỏ mà
chúng bắt được dưới ruộng. Một đứa trong bọn chúng lấy ngón tay trỏ của bàn tay
trái đè xuống lưng một con cua. Với tay phải, nó bẻ một càng của con cua. Bọn
trẻ reo hò vang dậy. Đứa kia thích chí, bẻ gãy một cái càng cua khác. Bọn trẻ lại
vỗ tay hò reo. Chúng chơi như vậy cho đến khi tất cả hai càng và tám chân của
con cua đều bị bẻ gãy hết. Rốt cuộc chúng liệng con cua xuống ruộng và đi bắt một
con khác để chơi.
Thấy Bụt và các thầy tới, bọn chúng ngửng đầu lên rồi lại cúi
xuống chơi trò hành hạ mấy con cua. Chúng tàn ác mà không biết là chúng tàn ác.
Bụt bảo bọn trẻ ngừng tay. Người nói:
– Này các con, nếu các con bị trặc chân tay hay gãy tay thì
các con có đau không?
“Bạch thầy, có,” bọn trẻ trả lời.
– Con cua bị các con bẻ gãy càng và gãy chân cũng đau đớn như
thế đó. Các con có biết không?
Bọn trẻ nín bặt.
Bụt nói tiếp:
– Con cua cũng biết ăn uống, con cua cũng có cha, mẹ, anh và
chị của nó như là các con vậy. Các con làm khổ con cua như thế thì các con cũng
làm khổ luôn cả cha mẹ và anh chị nó. Các con hãy suy nghĩ đi.
Bọn trẻ tỏ vẻ hối hận.
Lúc bấy giờ thấy Bụt và các thầy xúm quanh một bọn trẻ, những
người qua lại gần đấy cũng ghé lại xem. Nhân cơ hội này Bụt dạy cả trẻ em lẫn
người lớn về lòng từ bi. Người nói:
– Chúng ta phải làm sao để cho tất cả mọi loài đều cảm thấy
có an ổn và có niềm vui trong sự sống. Chúng ta phải bảo vệ sự sống cho nhau và
đem niềm vui cho nhau. Tất cả mọi loài, dù lớn, dù nhỏ, dù đi bằng hai chân hay
đi bằng bốn chân, dù bò trên mặt đất hay bay trên hư không hoặc bơi lội trong
nước cũng đều có quyền sống. Chúng ta không nên đem tâm hận thù nhau, sát hại
nhau. Chúng ta nên che chở cho nhau.
Này các con, cũng như một bà mẹ đem thân mạng che chở cho đứa
con thân yêu duy nhất của mình, mỗi người trong chúng ta phải mở lòng ra để đón
nhận và che chở cho tất cả các loài có sinh mệnh. Lòng thương của chúng ta phải
bao trùm tất cả mọi loài sinh vật đang có mặt trên, dưới, trong, ngoài và chung
quanh ta. Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, trái tim ta phải mang theo tình thương
đó, và ta hãy an trú đêm ngày trong tình thương đó.
Dạy xong, Bụt rủ bọn trẻ cùng đem thả những con cua còn lại
xuống ruộng, rồi người cùng các vị khất sĩ tiếp nối con đường đi khất thực.
Svastika biết Bụt rất chú tâm đến việc hướng dẫn trẻ em nên
chú bàn với chú Rahula tổ chức những buổi tập hợp thiếu nhi tại tu viện
Jetavana để các em có dịp được học hỏi với Bụt. Với sự cộng tác của những người
cư sĩ trẻ thường hay đến tu viện nghe Pháp, nhất là với bốn người con của cư sĩ
Sudatta.
Svastika và Rahula thường quy tụ các em thiếu nhi trong vùng
về chùa mỗi tháng một lần.
Cư sĩ Sudatta có bốn người con: Subhada chị, Subhada em,
Sumana và Kala. Kala là con trai duy nhất của cư sĩ.
Ban đầu Kala không có vẻ hăng hái lắm, nhưng vì mến Svastika
nên cậu từ từ dấn thân vào việc tu học. Công chúa Vajiri con quốc vương
Pasenadi cũng yểm trợ đắc lực cho việc giáo dục thiếu nhi này.
Một buổi chiều rằm, công chúa rủ bọn trẻ đem hoa lên tận tịnh
xá dâng Bụt. Mỗi em cầm trong tay những cành hoa hái được trong vườn nhà của
mình. Có em đã hái được cả những cành hoa dại trên đường đến tu viện. Công chúa
Vajiri ôm theo một bó sen đã hái được ngay trong hồ sen vườn Thượng Uyển.
Khi lên tới tịnh xá thì công chúa và bọn trẻ được biết Bụt đã
ra giảng đường. Đã đến giờ người nói pháp thoại. Pháp thoại hôm nay được nói
chung cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Các em thiếu nhi rủ nhau cùng lên
pháp đường.
Thấy thiếu nhi tới, các thầy và các vị cư sĩ đều nhường lối
cho các em đi.
Bụt đã ngồi trên pháp tòa. Tất cả các em thiếu nhi được công
chúa Vajiri hướng dẫn đã lên dâng những bông hoa của mình hái được trên chiếc
bàn nhỏ đặt trước mặt Bụt rồi cúi đầu xá Bụt.
Bụt mỉm cười đáp lễ các em và bảo tất cả đi xuống tìm chỗ ngồi
phía trước đại chúng.
Buổi pháp thoại hôm đó thật là đặc biệt. Đợi các thiếu nhi ngồi
xuống yên ổn, Bụt mới đứng dậy. Người cầm lấy một bông sen đưa lên trước mặt đại
chúng, không nói năng gì. Tất cả đại chúng đều im phăng phắc. Không ai hiểu Bụt
muốn nói gì bằng cử chỉ ấy.
Một lát sau, Bụt đưa mắt quan sát đại chúng rồi mỉm cười. Người
lên tiếng:
– Tôi có con mắt của chánh pháp, kho tàng của cái thấy mầu
nhiệm và tôi đã trao lại cho Mahakassapa.
Mọi người đổ dồn hai mắt về đại đức Kassapa. Nụ cười chưa tắt
trên môi đại đức. Mắt thầy vẫn nhìn lên Bụt. Mọi người lại nhìn lên Bụt. Bụt
đang nhìn bông hoa và mỉm cười.
Svastika không hiểu gì hết và nghĩ rằng có nhiều người cũng
ngẩn ngơ như chú. Chú biết điều quan trọng nhất trong lúc này là giữ chánh niệm
và chú bắt đầu theo dõi hơi thở theo phương pháp đã được học với Bụt.
Chú thấy bông hoa Bụt cầm trên tay là một bông sen trắng đang
vào lúc hé nở. Bàn tay Bụt cầm đóa sen trong một dáng điệu thanh tao và trang
trọng, ngón tay cái và ngón tay trỏ kẹp cuống hoa vào giữa, và cuống hoa nằm
xuôi ép theo lòng bàn tay. Chính bàn tay Bụt cũng xinh đẹp như một bông hoa, và
đóa sen trắng phía trên, tinh khiết và mầu nhiệm, cũng có vẻ như là một bàn tay
khác của người.
Svastika cảm nhận được cái đẹp tinh khiết và trang trọng mà
không cần suy tư tìm hiểu.
Bất giác chú cũng mỉm miệng cười.
Bỗng Bụt cất tiếng nói. Tiếng của người trong, ấm và sang sảng:
– Đại chúng, bông hoa này là một thực tại mầu nhiệm. Khi tôi
cầm nó đưa lên trước đại chúng, tất cả chúng ta đều có cơ hội tiếp xúc với bông
hoa. Cơ hội ấy là một cơ hội đồng đều. Tiếp xúc được với bông hoa là tiếp xúc
được với thực tại mầu nhiệm, tiếp xúc với sự sống.
Mahakassapa đã mỉm cười trước tiên vì Mahakassapa đã tiếp xúc
được với bông hoa trước tiên. Trong đại chúng đây, có những vị không tiếp xúc
được với bông hoa, đó là vì trong tâm của quý vị còn có những chướng ngại.
Có những vị đang đặt câu hỏi: “Vì cớ gì mà sa môn Gotama hôm
nay đưa cành hoa lên?” Vì tâm các vị ấy đang bận rộn về những ý tưởng, cho nên
các vị ấy không tiếp xúc được với bông hoa.
Đại chúng, đắm chìm trong suy tư là một trong những nguyên do
khiến ta không tiếp xúc được với thực tại.
Trong trường hợp đang bị lo lắng, phiền muộn, giận hờn hay
ghen ghét chế ngự, ta cũng mất cơ hội tiếp xúc với thực tại mầu nhiệm.
Đại chúng! Bông hoa trong tay tôi có thể chỉ thật sự có mặt đối
với những ai biết an trú trong chánh niệm nơi giờ phút hiện tại. Nếu quý vị
không trở về an trú trong giờ phút hiện tại thì bông hoa có mặt cũng như không.
Có những người đi ngang qua rừng cây trầm hương mà không thấy
được một cây trầm hương. Có những người đi qua sự sống mà không tiếp xúc được với
sự sống. Đại chúng! Sự sống chứa chất khổ đau mà sự sống cũng đầy những mầu nhiệm.
Quý vị phải tinh cần và tỉnh thức để tiếp xúc với những khổ đau và những mầu
nhiệm ấy của sự sống.
Nhưng tiếp xúc với khổ đau không có nghĩa là tự đánh mất mình
trong khổ đau và tiếp xúc với mầu nhiệm không có nghĩa là tự đánh mất mình
trong mầu nhiệm. Tiếp xúc là để thực sự chứng nghiệm sự sống và quán chiếu sự sống,
ta sẽ thấy được tự tính duyên khởi và vô thường của sự sống, do đó ta sẽ không
đánh mất ta trong tham đắm, trong giận hờn và trong mê muội. Ta sẽ thường xuyên
an trú trong tự do và giải thoát.
Svastika rất sung sướng. Chú hiểu được lời Bụt dạy. Chú hài
lòng lắm khi nhớ ra rằng chú đã mỉm cười khi tay Bụt còn cầm bông hoa đưa lên.
Đại đức Mahakassapa mỉm cười trước vì đại đức là một đệ tử lớn của Bụt, đứng về
hàng thầy của chú. Chú làm sao tự so sánh mình với đại đức, cũng như với các vị
cao đệ khác của Bụt như các thầy Sariputta, Moggallana, Assaji v.v… Năm nay chú
chỉ mới hai mươi bốn tuổi.
Chương 52 - Phước điền y
Năm sau, Svastika được theo Bụt về an cư ở tu viện Nigrodha
sát bên thành Kapilavatthu quê hương của Bụt.
Bụt đã về quê trước mùa an cư bởi vì người nghe nói có sự
xích mích và tranh chấp giữa hai nước Sakya và Koliya.
Sakya là quê nội của Bụt và Koliya là quê ngoại của người.
Hoàng hậu Mahamaya và công chúa Yasodhara đều có gốc gác từ
Koliya. Hai nước đã chống nhau vì dòng sông Rohini.
Số là năm ấy trời không có mưa mà cả hai bên đều thiếu nước
tưới ruộng. Mực nước sông Rohini cũng rất thấp. Nước không đủ cho cả hai bên
dùng, mà bên nào cũng muốn đắp đập dẫn hết nước sông về phía mình. Ban đầu chỉ
là lời qua tiếng lại giữa nông dân hai phía. Sau đó thì có xung đột và đấm đá,
rồi dân vệ và cảnh sát hai bên nhập cuộc. Cuối cùng là binh đội hai nước dàn trận
hai phía bờ sông. Tình thế trở nên gay cấn và nguy hiểm.
Bụt muốn biết nguyên do của cuộc tranh chấp. Hỏi các vị tướng
chỉ huy quân đội, Bụt được cho họ biết là vì phía bên kia khinh người, xâm phạm
tài sản và tính mạng bên này. Hỏi các nhà chính trị, họ cũng trả lời tương tợ.
Không ai nói cho Bụt nghe nguyên do thật sự của cuộc tranh chấp. Mãi đến khi Bụt
nói chuyện với các nông dân nghèo, người mới biết nguyên do thật sự của cuộc
tranh chấp là nước tưới.
Vốn có liên hệ thân tộc sâu xa với cả hai dòng họ Sakya và
Koliya, Bụt sắp đặt được một cuộc gặp gỡ giữa các vị quốc vương, một bên là quốc
vương Mahanama, một là quốc vương Suppabuddha.
Người xin với hai vị quốc vương thảo luận để đi đến một cuộc
hòa giải.
Người nói rằng trong một cuộc chiến tranh, ai cũng là người
thua cuộc, dù là thua nhiều hay thua ít.
Bụt hỏi:
– Các vị đại vương, nước sông quý hơn hay mạng người quý hơn?
Vua nào cũng trả lời là mạng người là quý hơn, mạng người là
vô giá.
Bụt nói:
– Các vị đại vương, nước tưới là đầu mối của cuộc tranh chấp
giữa hai nước, nhưng nếu không có lòng tự ái và sự căm giận thì sự tranh chấp về
nước tưới sẽ không đủ để đưa tới một cuộc chiến tranh. Các vị đại vương! Chúng
ta phải xét lại tâm ý chúng ta. Chúng ta đừng vì lòng tự ái và sự căm giận lẫn
nhau mà làm tổn phí máu xương của dân chúng hai nước.
Buông bỏ tự ái và giận hờn là chúng ta tháo gỡ được guồng máy
chiến tranh. Giải quyết vấn đề tranh chấp về nước tưới không khó. Chúng ta chỉ
cần ngồi lại thương thuyết với nhau. Có bao nhiêu nước trong dòng Rohini thì ta
chia cho cả hai phía, dù nước không đủ cho cả hai bên. Chúng ta sẽ tìm ra giải
pháp để bên nào cũng được thừa hưởng đồng đều số lượng nước tưới.
Nhờ sự can thiệp của Bụt mà hai bên đã đi tới một sự thỏa thuận
về vấn đề nước tưới và thiết lập liên lạc ngoại giao thân tình như cũ. Quốc
vương Mahanama khẩn khoản xin Bụt lưu lại trong một mùa an cư ở vương quốc
Sakya. Bụt nhận lời. Đây là mùa an cư thứ mười lăm sau ngày thành đạo của Bụt.
Sau mùa an cư ở Kapilavatthu, Bụt trở về miền Nam.
Mùa an cư thứ mười sáu, người cư trú tại Alavi.
Mùa an cư thứ mười bảy, người về tu viện Trúc Lâm.
Mùa an cư thứ mười tám, người ở Koliya.
Mùa an cư thứ mười chín, người lại trở về Rajagaha.
Tại Rajagaha, từ mấy năm nay, Bụt ưa cư trú trên núi
Gijjhakuta, một ngọn núi đá có hình dáng chim thứu nên cũng được gọi là Thứu
Sơn. Vua Bimbisara thường hay đến viếng Bụt và nghe pháp trên núi này.
Vua đã cho xây bậc đá từ chân núi lên tới tịnh xá của Bụt. Mấy
cái thung lũng nhỏ đã được vua cho san bằng. Vua lại cho bắc cầu qua mấy thác
nước.
Xa giá tới chân núi, vua đi bộ lên theo các bậc đá.
Gần tịnh xá có một tảng đá lớn bằng cả mấy tòa nhà. Tịnh thất
của Bụt được xây bằng đá lấy ngay tại chỗ.
Phía Đông Bắc tịnh xá, có một dòng suối chảy qua khe đá. Bụt
thường giặt áo cà sa trên dòng suối này và phơi áo trên một phiến đá khá lớn
bên suối.
Ngồi trước tịnh xá, vào những ngày quang đãng, Bụt thấy được
cả kinh đô Rajagaha, Bụt rất ưa ngồi ngắm mặt trời lặn từ điểm nhìn này. Cảnh
tượng mặt trời lặn ở đây thật huy hoàng và diễm lệ.
Các đại đức lớn như Sariputta, Uruvela Kassapa, Moggallana,
Upali, Devadatta và Ananda đều có tịnh xá riêng trên núi Linh Thứu. Trong vùng
lân cận thủ đô Rajagaha đã có tới mười tám cơ sở tu học quan trọng của tăng
đoàn. Ngoài tu viện Trúc Lâm (Venuvana) và núi Linh Thứu (Gijjhakuta), còn có
những trung tâm nổi tiếng khác, trong đó nổi bật nhất là Vaibharavana,
Sarpasundikapragbhara, Saptaparnaguha và Indrasailaguha. Hai nơi sau là hai động
đá lớn.
Gần núi Linh Thứu, có tịnh xá của một vị y sĩ trẻ nổi tiếng
tên là Jivaka. Vị y sĩ này là một trong những đệ tử tại gia thân cận nhất của Bụt.
Jivaka là con của vua Bimbisara và của bà mệnh phụ Ambapali. Chàng học thuốc từ
năm mười bốn tuổi tại Taksassila. Năm mười lăm tuổi, chàng đã được mẹ tới đón,
đưa về tu viện Trúc Lâm để viếng Bụt.
Năm nay Jivaka đã hai mươi sáu tuổi. Tốt nghiệp ngành y từ
năm hai mươi ba tuổi, Jivaka đã trở nên một lương y nổi tiếng sau khi chữa lành
cho nhiều người đã từng mắc những chứng bệnh hiểm nghèo. Jivaka cũng đã từng chữa
bệnh cho vua Bimbisara.
Từ mấy năm nay, Jivaka thường lui tới tu viện Trúc Lâm và núi
Linh Thứu để chăm sóc sức khỏe của Bụt và các vị khất sĩ. Vào đầu mùa lạnh,
Jivaka cổ động các bạn cúng dường thêm y áo cho các vị khất sĩ để họ đắp mà ngủ
ban đêm. Jivaka cũng đã cúng dường Bụt một bộ y. Vị lương y này không những lưu
tâm đến việc trị bệnh mà còn lưu tâm đến việc ngừa bệnh nữa. Ông đề nghị với Bụt
một số biện pháp vệ sinh cần được áp dụng cho các vị khất sĩ.
Mỗi thầy nên có một dụng cụ lọc nước để uống, và nước lấy từ
ao hồ thì nên được đun sôi. Y áo mỗi bảy ngày phải được giặt ít nhất một lần.
Nhà tắm cần được dựng thêm trong tu viện. Thức ăn hôm nay không nên dành lại
cho ngày hôm sau.
Tất cả những điều Jivaka đề nghị, Bụt đều chấp nhận.
Cúng dường cà sa đã trở nên một hành động rất phổ thông trong
dân chúng. Có một hôm Bụt thấy một vị khất sĩ trở về tu viện trên vai nặng trĩu
cả y áo. Bụt hỏi:
– Thầy có bao nhiêu chiếc y tất cả?
– Lạy Bụt, con được cúng dường tất cả tới tám chiếc y.
– Thầy cần dùng nhiều y đến thế sao?
– Lạy Bụt, con không cần dùng nhiều y như thế, tại vì người
ta cúng dường nên con phải nhận.
– Theo thầy thì mỗi vị khất sĩ cần có bao nhiêu chiếc y là đủ?
– Lạy đức Thế Tôn, con nghĩ ba chiếc y là đủ cho mỗi người.
Ngồi thiền trong rừng lạnh hoặc ngủ nghỉ ban đêm dưới gốc cây mà có được ba y
thì đã là đủ ấm.
Bụt nói:
– Tôi cũng nghĩ như thầy vậy. Khi nào lạnh lắm tôi cũng chỉ cần
tới chiếc y thứ ba. Từ rày về sau, mỗi vị khất sĩ chỉ có quyền có một cái bình
bát và ba chiếc y cà sa mà thôi. Nếu được cúng dường thêm quý vị nên từ chối.
Vị khất sĩ bái tạ Bụt và đi về tăng xá của mình.
Có một hôm khác đứng trên một ngọn đồi, Bụt chỉ những thửa ruộng
nối nhau chạy dài đến chân trời và nói với đại đức Ananda:
– Ananda, thầy có thấy những thửa ruộng lúa chín vàng được
chia thành từng ô chạy dài tới chân trời không? Đẹp quá! Tại sao ta không đề
nghị may áo cà sa cho các vị khất sĩ theo kiểu mẫu này?
Ananda bạch:
– Ý của Thế Tôn thật hay. Áo cà sa may theo hình dáng những
thửa ruộng như thế này thì đẹp biết bao nhiêu. Con từng nghe Thế Tôn nói một vị
khất sĩ tu học nghiêm chỉnh là một thứ đất ruộng rất tốt trên đó ta có thể gieo
những hạt giống phước đức cho hiện tại và tương lai. Cúng dường, học hỏi và tu
tập theo vị khất sĩ ấy tức là gieo những hạt giống phước đức vậy. Nếu Thế Tôn
cho phép, con sẽ bố cáo với đại chúng về cách thức may y trong tương lai và sẽ
gọi kiểu y này là phước điền y.
Bụt mỉm cười. Người gật đầu ưng thuận.
Mùa an cư năm sau, Bụt cư trú tại tu viện Jetavana ở thủ đô
nước Kosala.
Cư sĩ Suddata đã thân hành về Rajagaha thỉnh người. Cư sĩ nhắc
là đã từ lâu Bụt không an cư tại Jetavana.
Đây là mùa an cư thứ hai mươi của Bụt sau ngày người thành đạo.
Năm nay Bụt đã năm mươi lăm tuổi. Được tin Bụt về an cư tại
Savatthi, quốc vương Pasenadi mừng rỡ. Vua đem cả gia đình hoàng gia tới viếng
Bụt. Đi theo vua có thứ hậu Vrsabhasatriya và hai người con của thứ hậu là thái
tử Vidudabha và công chúa Vajna. Thứ hậu là người dòng Sakya.
Sau ngày được gặp Bụt và trở nên đệ tử của người, quốc vương
Pasenadi đã gửi một phái đoàn qua vương quốc Sakya để xin cưới một người trong
hoàng gia làm thứ hậu. Vương quốc đã tuyển chọn vị công nương xinh đẹp
Vrsabhasatriya để gả cho vua. Công nương là con gái của hoàng thúc Mahanama.
Trong suốt mùa an cư, không có một pháp thoại nào của Bụt mà
vua không đến nghe. Người đến nghe pháp càng ngày càng đông. Trong số những vị
đệ tử mới có nữ cư sĩ Visakha, được xem như là nữ thí chủ lớn nhất của tu viện.
Thấy các vị khất sĩ tại tu viện quá đông đảo, bà phát tâm đem khu vườn rộng rãi
và xanh tốt của bà ở phía Đông thành phố Savatthi cúng dường cho Bụt và cho
giáo đoàn. Khu đất này đẹp không thua gì vườn cây Jeta, nhưng diện tích thì hẹp
hơn. Với sự hợp sức của các bạn, bà Visakha đã xây dựng được nhiều tăng xá và
thiền đường trong khu đất. Khi tu viện mới được hoàn thành, đại đức Sariputta đề
nghị đặt tên là tu viện Đông Viên (Purvarama). Giảng đường ở trung tâm tu viện
được đặt tên là Lộc Mẫu Đường, Lộc Mẫu Đường là biệt hiệu của nữ cư sĩ Visakha,
Lộc (Migarai) là tên con trai lớn của bà.
Nữ cư sĩ Visakha sinh trưởng ở Bhaddhya trong vương quốc
Anga. Cô là con gái của nhà triệu phú Dhananjaya. Lớn lên cô lấy chồng ở
Savatthi. Chồng cô cũng là một triệu phú. Hai cha con đều là đệ tử trong giáo
phái Nigantha Nataputta; hai người vốn không có cảm tình với Bụt và giáo đoàn
khất sĩ, nhưng nhờ đức hạnh và sự đằm thắm của Visakha mà hai người dần dần có
cảm tình với Bụt và sau đó không lâu đều trở nên đệ tử của Bụt.
Bà Visakha thường hay đi chùa với một người bạn gái tên là
Suppiya. Bà phát nguyện với Bụt là sẽ thường xuyên cúng dường thuốc men cho bất
cứ vị khất sĩ và nữ khất sĩ nào đến Savatthi mà bị đau ốm, sẽ cúng dường áo cà
sa và khăn tắm cho tất cả các vị khất sĩ và nữ khất sĩ nào đến an cư tại
Savatthi. Bà cũng đã triệt để ủng hộ ni sư Mahapajapati trong việc thiết lập và
trang bị một trung tâm tu học cho các vị nữ khất sĩ bên hữu ngạn sông Ganga gần
sát thủ đô Savatthi. Bà là người hộ trì rất đắc lực cho các vị nữ khất sĩ,
không những về phương diện vật chất mà còn trên phương diện tinh thần nữa. Bà
đã từng can thiệp và hóa giải những vụ xích mích xảy ra giữa ni chúng trong nữ
tu viện.
Trong một buổi pháp đàm tại giảng đường Lộc Mẫu, các vị cao đệ
của Bụt đã đi tới hai quyết định quan trọng sau nhiều giờ đàm luận.Quyết nghị đầu
là đề nghị thầy Ananda làm thị giả thường xuyên cho Bụt. Quyết định thứ hai là
từ nay về sau, cứ tới mùa an cư thì thỉnh Bụt trở về Savatthi.
Đề nghị đầu là do đại đức Sariputta đưa ra. Đại đức nói:
– Sư huynh Ananda là người có trí nhớ bền bỉ nhất trong chúng
ta. Trí nhớ của sư huynh thật là lạ lùng, trên trần gian này không ai bì kịp. Mỗi
khi Bụt dạy điều gì mà có mặt sư huynh Ananda thì những lời Bụt dạy không rơi rớt
đi đâu cả. Khi trùng tuyên lại những điều Bụt dạy thì sư huynh Ananda trùng
tuyên không sót một câu hoặc một tiếng, vì vậy, nếu được làm thị giả cho Bụt,
sư huynh sẽ có dịp nghe hết những điều Bụt nói, dù là nói cho một đám đông hoặc
là nói cho một người, và sư huynh sẽ ghi nhận được những điều đó. Lời dạy nào của
Bụt cũng quý hóa không cùng, do đấy chúng ta phải làm đủ mọi cách để gặt hái và
bảo trì tất cả những điều người giáo huấn. Trong hai mươi năm qua, chúng ta đã
dại dột để rơi rớt và mất mát rất nhiều điều Bụt dạy. Vậy sư huynh Ananda nên
vì chúng ta và vì các thế hệ tương lai mà nhận lấy trách nhiệm làm thị giả cho
Bụt.
Các vị khất sĩ có mặt trong buổi họp đều tán đồng ý kiến của
đại đức Sariputta. Đại đức Ananda có vẻ ngần ngại.
Đại đức nói:
– Tôi thấy có nhiều điều bất tiện nếu các sư huynh cử tôi làm
thị giả cho Bụt. Không chắc rằng Bụt đã bằng lòng cho tôi làm thị giả, nếu chịu
khó nhận xét, chắc các sư huynh cũng đã thấy rằng Bụt đã rất cẩn thận để khỏi
mang tiếng là có con mắt đặc biệt với những người trong thân tộc Sakya. Đối với
nữ khất sĩ Mahapajapati, vốn là dì mẫu của người mà người cũng rất cứng rắn,
còn Rahula thì từ ngày được làm sa di, không bao giờ chú được ngủ trong tịnh xá
của Bụt hay ngồi ăn cơm riêng với Bụt. Tôi cũng thế, tôi cũng không bao giờ được
Bụt cho thân cận một cách quá đáng, với lại tôi cũng không dám thân cận với Bụt
một cách quá đáng. Tôi cũng ngại các huynh đệ nói ra nói vào, cho là tôi thóc
mách, và cho rằng vì tôi thóc mách cho nên Bụt mới thỉnh thoảng gọi các huynh đệ
lên để mà răn dạy.
Nói tới đó, đại đức ngửng lên nhìn đại đức Sariputta:
– Đối với sư huynh Sariputta, Bụt có một cái nhìn đặc biệt, bởi
vì sư huynh là người thông minh và tài giỏi vào bậc nhất trong số chúng ta. Sư
huynh đã là một người phụ tá rất đắc lực cho Bụt trong việc dạy dỗ cũng như
trong việc tổ chức, và cố nhiên là Bụt có đặt niềm tin lớn nơi sư huynh. Cũng
vì vậy mà sư huynh đã bị nhiều huynh đệ ghen ghét. Tôi thấy khi có quyết định
điều gì, Bụt thường hỏi ý kiến của nhiều người, chứ không phải là chỉ hỏi ý kiến
một sư huynh Sariputta. Vậy mà có những huynh đệ dám nói là những quyết định ấy
là những quyết định của Sariputta chứ không phải thật sự là những quyết định của
Bụt. Làm như Bụt là người không có trí óc suy xét để đi tới được những quyết định
quan trọng. Tôi thấy đó là một tội tăng thượng mạn rất lớn. Tôi ngần ngừ không
muốn vâng lời các sư huynh là vì thế.
Đại đức Sariputta cười:
– Tôi thì tôi không ngại khi có huynh đệ nào hiểu lầm tôi mà
tỏ vẻ ganh ghét. Tôi nghĩ là khi nhận thấy điều gì thật sự có lợi lạc, mình phải
có can đảm làm theo; dù ai nói ngửa nói nghiêng mình cũng không nên vì vậy mà
thối chí. Sư huynh Ananda! Chúng tôi biết sư huynh là người có ý tứ lắm, nhưng
chúng tôi nghĩ là nếu sư huynh không nhận lời yêu cầu của anh em thì đạo pháp sẽ
rất bị thiệt thòi, cho thế hệ hiện tại và nhiều thế hệ về sau.
Đại đức Ananda im lặng hồi lâu không nói gì. Cuối cùng thầy
lên tiếng:
– Tôi sẽ vâng lời các sư huynh để làm thị giả thường xuyên
cho Bụt, nếu các sư huynh có thể bạch với người chấp nhận những điều mà tôi yêu
cầu sau đây. Thứ nhất là xin Bụt đừng cho tôi y áo mà người ta cúng dường người.
Thứ hai là xin Bụt đừng cho tôi những thức ăn mà người ta đem đến cúng dường
người. Thứ ba là xin Bụt đừng cho tôi ở cùng trong một tịnh thất với người. Thứ
tư là xin Bụt đừng cho tôi đi theo khi có một thí chủ thỉnh người thọ trai. Thứ
năm là xin Bụt biết là Bụt có thể cùng đi với tôi khi tôi được một thí chủ thỉnh
tới thọ trai. Thứ sáu là xin Bụt cho tôi có quyền tiến dẫn hoặc từ chối những
người muốn được diện kiến với người. Thứ bảy là xin Bụt cho tôi được hỏi lại
người mỗi khi có điều gì người nói mà tôi chưa hiểu. Thứ tám là xin Bụt lặp lại
cho tôi đại ý những bài pháp thoại mà vì bất đắc dĩ tôi không có mặt để nghe.
Đại đức Upali góp ý:
– Những điều sư huynh Ananda đưa ra đều là chính đáng, tôi chắc
những điều ấy sẽ được Bụt chấp nhận. Duy có điều thứ tư tôi thấy chưa ổn, nếu
sư huynh không đi theo Bụt khi có thí chủ thỉnh Bụt tới thọ trai thì làm sao sư
huynh được nghe những lời Bụt dạy vị thí chủ? Sư huynh không được nghe thì làm
sao sư huynh có thể trùng tuyên lại những lời ấy cho chúng tôi nghe, trong trường
hợp những lời ấy là những lời mới lạ rất quý báu? Tôi đề nghị như sau: Mỗi khi
Bụt được cung thỉnh, ngoài sư huynh ra, nên có một huynh đệ khác cùng đi, như vậy
sư huynh tránh được miệng thế gian là nhờ nương vào Bụt mà sư huynh thường có
thức ăn ngon.
Ananda cười:
– Điều sư huynh nói đó cũng chưa ổn. Trong trường hợp thí chủ
chỉ đủ sức cúng dường cho hai người mà thôi, thì sao?
– Thì hôm ấy Bụt và hai sư huynh ăn ít lại một chút chứ sao.
Các thầy cùng cười rộ lên một cách vui vẻ.
Vấn đề thị giả giải quyết xong, các thầy bàn tới chuyện thỉnh
Bụt an cư hàng năm tại Savatthi.
Savatthi hiện có tới hai tu viện lớn cho nam giới, tu viện Kỳ
Thọ Cấp Cô Độc và tu viện Lộc Mẫu. Ngoài ra còn có một tu viện cho ni giới. Vì
vậy, nên lấy Savatthi làm căn cứ hành đạo.
Ở những vương quốc lân cận ai muốn gặp Bụt mà không biết người
ở đâu thì cứ về Savatthi trước mùa an cư là tự khắc được gặp. Đó là cơ hội đồng
đều cho tất cả mọi người. Các vị khất sĩ và nữ khất sĩ từ các quốc gia khác có
thể tới Savatthi an cư mà không gặp trở ngại, vì các đại thí chủ lớn như
Anathapindika và Visakha đã phát nguyện cung cấp thực phẩm, thuốc men, y áo và
chỗ cư trú cho bất cứ vị khách tăng nào tới đây. Sau khi kết thúc buổi pháp
đàm, các thầy cũng đi đến tìm Bụt tại tịnh thất của người để trình bày những ý
kiến đã được tổng hợp lại.
Bụt chấp nhận hai đề nghị của các vị cao đệ một cách hoan hỷ.
Chương 53 - An trú trong hiện tại
Mùa Xuân năm sau, tại Kammassadhamma thủ phủ xứ Kuru thuộc
vùng Tây Bắc, Bụt nói kinh Niệm Xứ (Satipatthana sutta) cho một thính chúng khất
sĩ trên ba trăm người.
Đây là một kinh rất quan trọng cho công phu tu tập thiền
quán. Bụt nói phép quán niệm xứ này là con đường có thể giúp mọi người đạt tới
sự thanh tịnh hóa thân tâm, vượt khỏi sầu não, diệt được khổ ưu, thành tựu được
hiểu biết lớn và đạt tới tự do hoàn toàn.
Nghe Bụt dạy xong kinh này, đại đức Sariputta đã nói với đại
chúng rằng đây là một trong những kinh văn quan trọng vào bậc nhất, và đề nghị
tất cả các vị khất sĩ và nữ khất sĩ ôn tụng kinh này cho thuộc lòng để mà hành
trì theo.
Ngay tối hôm ấy, đại đức Ananda trùng tuyên lại từng lời từng
tiếng những điều Bụt dạy. Niệm Xứ là an trú trong chánh niệm. Theo phép tu này
người hành giả ý thức được những gì đang xảy ra trong các lĩnh vực thân thể, cảm
giác, tâm ý và đối tượng tâm ý mình. Ý thức ấy tức là chánh niệm. Bốn lĩnh vực ấy
là bốn lĩnh vực quán niệm.
Trong lĩnh vực thứ nhất là thân thể, người hành giả quán niệm
về hơi thở của mình, về bốn tư thế của thân thể mình là đi, đứng, nằm, ngồi, về
những động tác của thân thể mình như đi tới, đi lui, nhìn, mặc áo, ăn, uống, đại
tiểu tiện, nói chuyện, giặt áo… về những bộ phận của cơ thể như tóc, lông,
răng, gân, xương, thận, tủy, ruột, nước miếng, mồ hôi, v.v… về những yếu tố tạo
nên cơ thể như nước, sức nóng, không khí, vật thể… và về sự tàn hoại của một tử
thi từ khi nó trương phồng lên cho đến khi xương cốt tan thành tro bụi. Quán niệm
về thân thể bằng cách phát khởi ý thức về những hiện tượng thuộc về thân thể.
Ví dụ khi đang thở vào, hành giả biết là mình đang thở vào; khi đang thở ra,
hành giả biết là mình đang thở ra; khi đang thở vào và làm cho toàn thân an tịnh,
hành giả biết là mình đang thở vào và làm cho toàn thân an tịnh. Khi đi, hành
giả biết là mình đi, khi ngồi xuống, hành giả biết là mình đang ngồi xuống. Khi
làm những động tác như mặc áo, uống nước, hành giả biết là mình đang mặc áo, uống
nước v.v…
Như vậy công phu quán niệm về thân thể không phải chỉ được thực
hiện trong lúc ngồi thiền mà phải được thực hiện suốt ngày, ngay cả những lúc
đi khất thực, ăn cơm và rửa bát.
Trong lĩnh vực thứ hai là cảm giác, người hành giả quán niệm
về những cảm giác đang phát sinh, tồn tại hoặc tàn hoại nơi mình, những cảm
giác dễ chịu (lạc thọ), khó chịu (khổ thọ) và những cảm giác trung tính (xả thọ).
Những cảm thọ ấy có thể có nguồn gốc sinh lý hay tâm lý. Quán niệm cảm giác bằng
cách phát khởi ý thức về sự phát sinh, tồn tại và hoại diệt của những cảm giác ấy.
Ví dụ khi đang bị nhức răng, hành giả biết là mình đang bị nhức răng, khi đang
sung sướng vì được một người khác khen ngợi, hành giả biết là mình đang sung sướng
vì được một người khác khen ngợi. Hành giả còn quán chiếu để an tịnh hóa những
cảm giác của mình và để thấy rõ nguồn gốc phát sinh của mọi cảm giác. Công phu
quán niệm về cảm giác, do đó cũng không phải chỉ được thực hiện trong lúc ngồi
thiền, trái lại, đây là một công phu được thực hiện suốt ngày.
Trong lĩnh vực thứ ba là tâm ý, người hành giả quán niệm về
những trạng thái tâm ý đang có mặt. Khi có tham dục, biết là có tham dục, khi
không có tham dục, biết là không có tham dục. Khi có giận hờn, lầm lạc, biết là
có giận hờn hay lầm lạc, khi không có giận hờn hay lầm lạc thì biết không có giận
hờn hay lầm lạc. Khi tâm ý tập trung hay tán loạn, thì biết là có tập trung hay
tán loạn. Những lúc tâm ý mở rộng, khép kín, có giới hạn, cố định hay có giải
thoát thì hành giả liền biết, không có thì cũng liền biết. Nói tóm lại, hành giả
nhận diện và có ý thức về tất cả những trạng thái tâm ý có mặt trong giờ phút
hiện tại.
Trong lĩnh vực thứ tư là đối tượng tâm ý, người hành giả quán
niệm về năm trạng thái chướng ngại của giải thoát (tham đắm, giận hờn, hôn trầm,
kích thích và nghi ngờ) mỗi khi chúng có mặt; về năm yếu tố cấu tạo nên con người
gọi là năm uẩn (thân thể, cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức); về sáu giác
quan và đối tượng của chúng; về bảy yếu tố giác ngộ (chánh niệm, trạch pháp,
tinh tiến, hỷ lạc, khinh an, định và hành xả) và về bốn sự thật là khổ đau,
nguyên do của khổ đau, sự giải thoát khổ đau và con đường thực hiện giải thoát.
Tất cả những thứ ấy đều là đối tượng của tâm ý. Vạn pháp đều bao hàm trong những
đối tượng ấy.
Bụt chỉ dạy cặn kẽ về từng phép quán niệm trong cả bốn lĩnh vực.
Người dạy tinh chuyên hành trì phép quán này trong bảy năm thì chắc chắn sẽ đạt
được giải thoát. Người lại nói: có người có thể đạt tới giải thoát trong bảy
tháng, hoặc nội trong bảy ngày, nhờ hành trì phép quán niệm này.
Trong một buổi pháp đàm, đại đức Assaji cho biết đây không phải
là lần đầu Bụt dạy về bốn phép lĩnh vực quán niệm. Người đã dạy nhiều lần phép
này rồi, nhưng đây là lần đầu tiên người tổng hợp lại những gì người đã dạy về
phép tu trong một bài giảng thật đầy đủ, thật cặn kẽ. Đại đức cũng đồng ý với đại
đức Sariputta là kinh này cần được tất cả các vị khất sĩ học thuộc lòng để tụng
đọc và hành trì.
Trở về tu viện Jetavana vào cuối Xuân năm ấy, Bụt độ được một
tên sát nhân nổi tiếng tên là Angulimala.
Một buổi sáng đi vào thành Savatthi khất thực, Bụt có cảm tưởng
đây là một thành phố chết. Ngoài đường không có bóng người qua lại. Hai bên đường
không có nhà nào mở cửa.
Đứng hồi lâu trước một căn nhà nơi đó người đã từng được cúng
dường, Bụt thấy cửa nhà hé mở, người gia chủ chạy ra mời Bụt vào. Vào tới nhà,
người gia chủ khép cửa và cài then lại.
Người ấy mời Bụt ngồi, và đề nghị với Bụt ở lại thọ trai, đừng
nên đi khất thực nữa:
– Bạch sa môn, đi ra đường hôm nay nguy hiểm lắm. Người ta
cho biết tên sát nhân Angulimala đã xuất hiện trong thành phố. Nghe nói nó đã hạ
sát rất nhiều người ở nhiều thành phố, và sau khi hạ sát, nó lại còn chặt ngón
tay của người ta để xâu thành một tràng chuỗi và đeo nó vào cổ. Cũng vì vậy cho
nên người ta đã đặt cho nó cái tên Angulimala. Con nghe đồn rằng nếu Angulimala
giết được đủ một trăm người và có được một trăm lóng tay đeo vào cổ thì nó sẽ
thành tựu được một quyền lực bùa chú ghê gớm lắm. Có một điều lạ là nó giết người
mà không cướp giật của cải của bất cứ ai. Con nghe nói là vua Pasenadi đã cho
điều động quân đội và cảnh sát bao vây và truy nã nó.
Bụt hỏi:
– Tại sao chỉ có một tên sát nhân mà chính quyền phải huy động
cả binh đội và cảnh sát như thế?
– Bạch sa môn Gotama, tên sát nhân này ghê gớm lắm. Võ nghệ
nó rất cao cường, có khi ba bốn người đàn ông gặp nó giữa đường cũng không đủ sức
đối địch lại nó. Một số bị nó hạ sát và số còn lại phải bỏ chạy tán loạn.
Angulimala thường trú ẩn trong rừng Jalini. Lâu nay không ai dám đi qua rừng
này cũng vì thế. Có lần một toán cảnh sát địa phương có trang bị đủ khí giới đã
đi vào rừng để lùng bắt Angulimala. Toán này có đến hai mươi người, trong số đó
chỉ có hai người sống sót trở về. Cũng vì vậy khi nghe tin nó xuất hiện trong
thành phố, dân chúng đều kinh hoàng. Không ai buôn bán làm ăn gì được.
Bụt cám ơn vị gia chủ đã cho người biết về Angulimala và từ
giã ra đi. Người này có ngăn cản Bụt nhưng không được. Bụt nói Bụt phải thực
hành phép trì bát khất thực như mọi hôm, để giữ vững niềm tin của mọi người.
Đang đi thong thả trong chánh niệm, Bụt bỗng nghe tiếng chân
một người chạy đuổi theo ở phía sau. Bụt biết đó là Angulimala đang chạy theo
mình, nhưng Bụt không hốt hoảng. Người vẫn đi từng bước chậm rãi, an nhiên, ý
thức được điều gì đang xảy ra trong tâm ý và trong hoàn cảnh của mình, và người
nghe tiếng của Angulimala gọi người từ phía sau lưng vọng tới:
– Ông sa môn! Dừng lại!
Bụt không đứng lại. Bụt vẫn chậm rãi đi. Tiếng bước chân của
Angulimala cho Bụt biết là Angulimala đã ngừng chạy mà chỉ còn rảo bước theo Bụt.
Tuy đã năm mươi sáu tuổi nhưng thính giác và thị giác Bụt còn bén nhạy lắm và sức
khỏe của Bụt vẫn đầy đủ. Trong tay Bụt chỉ có một chiếc bình bát mà thôi. Người
mỉm cười nhớ lại ngày xưa trong các võ đường, khi còn là thái tử, người là võ
sinh nhanh nhẹn nhất, và chưa ai chạm được vào người. Bụt biết Angulimala đã đuổi
kịp người, và Angulimala thế nào cũng có đeo khí giới, nhưng người vẫn ung dung
bước.
Angulimala đã rượt kịp Bụt và hiện đang đi ngang hàng với Bụt.
Bụt nghe anh ta nói:
– Ta đã bảo ông dừng lại, tại sao ông cứ tiếp tục đi mà không
chịu dừng?
Bụt vừa đi vừa đáp:
– Angulimala, ta đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có anh mới chưa
chịu dừng lại mà thôi.
Angulimala giật mình. Angulimala nín thinh không nói thêm gì
được bởi vì anh ta quá ngạc nhiên.
Ông sa môn này nói cái gì lạ thế. Ông ta đã dừng lại đâu nào.
Rõ ràng là chân ông ta vẫn còn bước đi, vậy mà ông ta lại nói rằng ông ta đã dừng
lại. Ta phải hỏi cho ra mới được.
Nghĩ như vậy, Angulimala phóng tới phía trước, đứng chận đường
đi của Bụt. Bụt dừng lại. Người đưa mắt nhìn Angulimala. Mắt người chiếu sáng
như những ngôi sao. Angulimala chưa bao giờ thấy ai trầm tĩnh như thế, uy
nghiêm như thế và thản nhiên đến thế. Thường thường ai gặp Angulimala thì nếu
không sợ hãi bỏ chạy cũng mất đi ít nhiều bình tĩnh. Vậy mà ông thầy tu này lại
xem mình như một kẻ không ra gì. Hoặc giả ông ta chưa biết mình là ai cho nên
ông ta không biết sợ chăng? Không đúng, bởi vì ông ta đã gọi ngay tên
Angulimala khi trả lời câu hỏi của mình. Vậy thì ông ta biết mình là ai rồi. Biết
mình là một tên sát nhân ghê gớm, vậy mà vẫn giữ được sự điềm đạm, ung dung
không hề tỏ một vẻ gì sợ hãi, lại còn nhìn mình bằng một con mắt thật hiền hòa.
Angulimala cảm thấy mình không đối đầu được cái nhìn của Bụt.
Anh ta cất tiếng hỏi:
– Sa môn, hồi nãy ông nói ông đã dừng lại rồi, trong khi chân
ông vẫn bước, điều đó có nghĩa là sao? Ông lại nói rằng tôi chưa chịu dừng lại,
điều này có nghĩa là gì? Ông nói cho tôi nghe đi.
Bụt bảo:
– Angulimala, những hành động có thể gây đau khổ cho các loài
chúng sanh, ta đã dừng lại, và dừng lại tự lâu rồi. Ta đã học được hạnh bảo vệ
sự sống, không những của con người mà còn của tất cả các loài sinh vật.
Angulimala, trong các loài sinh vật, kể cả loài người, loài nào cũng muốn sống,
sợ chết; vì vậy ta phải có lòng thương, đem tình thương ấy mà bảo vệ sự sống của
muôn loài.
Angulimala la lớn như hét vào tai Bụt:
– Nhưng loài người có ai thương ta đâu, tại sao ta phải
thương loài người? Loài người là một loài độc ác, gian trá, phản bội, ta muốn
tiêu diệt cho hết mới thỏa được niềm uất hận của ta.
Bụt dịu dàng:
– Angulimala, ta biết rằng anh đã từng khổ đau, và ta biết những
kẻ đã làm khổ anh là những con người. Angulimala, con người quả có khi rất là độc
ác. Ác độc vì si mê, vì hận thù, vì tham dục, vì ganh tị, nhưng lại có khi rất
hiểu biết và rất từ bi. Anh đã từng gặp một vị khất sĩ nào chưa? Vị khất sĩ nào
cũng đã phát nguyện bảo vệ sự sống cho mọi người và mọi loài, vị khất sĩ nào
cũng đã phát nguyện diệt trừ tham dục, hận thù và si mê. Ta biết có nhiều người
không phải là khất sĩ, nhưng vẫn sống theo nếp sống hiểu biết và thương yêu đó.
Angulimala! Anh đừng vơ đũa cả nắm, ở đời có người ác, nhưng cũng có người hiền.
Đạo lý của ta có công năng chuyển hóa kẻ ác ra kẻ hiền. Hận thù là con đường
nên tránh. Anh đang đi trên con đường ấy. Nên dừng lại đi thôi. Hãy chọn con đường
của tha thứ, của hiểu biết và của tình thương mà đi.
Angulimala bị thu hút trong giọng nói đầm ấm mà đầy tình
thương của vị sa môn. Gan ruột anh như bị ai xé nát và xát muối vào. Tuy nhiên
đây là lần đầu tiên mà anh cảm thấy ấm áp trong lòng.
Người đang đứng trước mặt anh thật sự là vì thương anh mà
nói. Nơi con người này quả không có hận thù, quả không có sợ hãi, không có sự
khinh ghét. Người này đã có thể nhìn mình như nhìn một con người. Hay chính người
này là sa môn Gotama, là người mà thiên hạ đã ca tụng và tôn xưng là Bụt? Chắc
là đúng như vậy rồi. Chắc là hôm nay mình gặp người ấy rồi. Angulimala hỏi:
– Thầy có phải là sa môn Gotama đó không?
Bụt gật đầu.
Angulimala nói:
– Rất tiếc, thầy gặp tôi quá muộn. Tôi đã đi quá xa trên con
đường này rồi, bây giờ có muốn dừng lại cũng không được.
Bụt bảo:
– Đừng nói thế, Angulimala, làm một việc lành thì không bao
giờ muộn cả.
– Việc lành gì đâu nào?
– Dừng lại trên con đường hận thù và bạo động là việc lành lớn
nhất trên tất cả các việc lành. Angulimala! Biển khổ tuy mênh mông, nhưng quay
đầu lại là tự khắc thấy được bờ bến.
– Sa môn Gotama ơi! Bây giờ tôi có muốn quay đầu về cũng
không còn kịp nữa. Người ta sẽ không để cho tôi yên.
Bụt đưa tay ra nắm lấy tay Angulimala. Người nói:
– Angulimala, ta sẽ bảo vệ cho anh, nếu anh phát nguyện cải
tà quy chánh và từ nay siêng năng học đạo, sám hối lỗi lầm và bắt đầu làm những
công việc phục vụ cho người. Ta thấy anh là kẻ thông minh, anh đã hiểu được điều
ta muốn nói. Thế nào anh cũng thành công trong bước đường hướng thiện.
Angulimala quỳ xuống trước mặt Bụt. Anh đưa tay cởi lưỡi dao
to bản đeo bên lưng, nâng nó lên trên hai tay rồi đặt nó xuống đất, rồi
Angulimala sụp lạy sát đất dưới chân Bụt, ôm mặt mà khóc nức nở. Một hồi lâu,
anh nói:
– Con xin nguyện từ đây hối cải, bỏ ác làm lành, quyết tâm
theo Bụt để học hạnh từ bi. Cúi xin Bụt chấp nhận con làm đệ tử của người.
Vừa lúc ấy các đại đức Sariputta, Ananda, Upali, Kimbila và
nhiều vị khất sĩ khác xuất hiện. Họ bao vây quanh Bụt và Angulimala. Thấy Bụt
an lành và Angulimala đã quy y, mọi người đều lấy làm mừng rỡ. Bụt dạy Ananda:
– Ananda, hãy đưa cho ta một bộ y áo. Upali, đại đức hãy làm
lễ xuống tóc cho Angulimala ngay tại đây. Sariputta, thầy hãy ghé vào nhà trước
mặt mượn con dao cạo tóc.
Ngay tại chỗ, Angulimala được làm lễ thế phát, đọc ba lời
quay về nương tựa, tiếp nhận các giới pháp do đại đức Upali trao truyền. Lễ thế
phát cử hành xong, mọi người lập tức theo Bụt trở về tu viện Jetavana.
Trong mười hôm liên tiếp, Angulimala được đại đức Upali hướng
dẫn về giới luật và đại đức Sariputta chỉ dạy về giáo lý và những phép thiền tọa,
khất thực, thiền hành. Angulimala nỗ lực học hỏi và thực tập như chưa có ai từng
học hỏi và thực tập như vậy.
Nửa tháng sau, khi đến thăm Angulimala tại tăng xá, Bụt cũng
phải ngạc nhiên. Angulimala đã hoàn toàn lột xác. Bây giờ đây Angulimala đã trở
nên một vị khất sĩ có tướng tụng và dung mạo rất uy nghi và đẹp đẽ. Bây giờ
trong tu viện ai cũng gọi Angulimala là đại đức Ahimsaka. Tên này vốn là tên thật
của Angulimala ngày trước, có nghĩa là bất bạo động hay bất hại. Svastika nghĩ
rằng danh hiệu này rất hạp với vị đại đức mới, bởi vì theo Svastika ngoài Bụt
không ai có vẻ hiền lành như thầy Ahimsaka bây giờ.
Sáng hôm sau, Bụt đi vào thành Savatthi khất thực với khoảng
năm mươi vị khất sĩ, trong đó có đại đức Ahimsaka. Vừa đến cửa thành, Bụt gặp
vua Pasenadi và các tướng lãnh đang điều động quân đội và cảnh sát. Quốc vương
cũng đang mặc quân phục như các vị chỉ huy quân đội khác, lưng đeo trường kiếm,
ngồi trên lưng ngựa. Thấy Bụt, vua xuống ngựa, tiến đến vái chào. Bụt hỏi:
– Đại vương! Có biến cố gì mà đại vương và các vị tướng soái
phải điều động quân đội để đánh dẹp? Có nước láng giềng nào đang gây hấn ở biên
giới chăng?
Vua đáp:
– Thế Tôn! Không có nước láng giềng nào định đến đánh chiếm
Kosala cả. Trẫm điều động quân đội và cảnh sát là để vây bắt tên sát nhân
Angulimala. Tên tướng cướp này ghê gớm lắm. Chưa có một lực lượng nào đã có thể
vây bắt và trừng trị được nó. Trẫm được báo cáo là Angulimala đã xuất hiện tại
thủ đô Savatthi từ hơn nửa tháng nay. Dân chúng thủ đô đang mất tinh thần mà
các lực lượng cảnh sát vẫn chưa tìm ra được nó.
Bụt hỏi:
– Tên sát nhân Angulimala lợi hại đến thế sao?
Vua đáp:
– Thế Tôn chưa biết, chứ Angulimala là một mối họa lớn cho mọi
người. Trẫm phải tìm đủ cách để bắt giết cho được nó. Angulimala là một tên sát
nhân vô cùng nguy hiểm.
Bụt hỏi:
– Nhưng giả dụ tên sát nhân đó cải tà quy chánh, phát nguyện
suốt đời giữ giới không sát sinh, sống đời xuất gia đạm bạc, tôn trọng sự sống
của muôn người và của mọi loài chúng sanh khác, thì bệ hạ có cần tìm bắt giết
nó nữa không?
– Thưa Thế Tôn! Nếu Angulimala mà theo Bụt xuất gia, giữ giới
bất sát, sống đời phạm hạnh thanh cao như các vị khất sĩ ở đây thì trẫm vui mừng
xiết bao! Không những trẫm sẽ không bắt giết mà còn tới đảnh lễ và cúng dường y
áo, thực phẩm và thuốc men cho, y như trẫm đã từng cúng dường Thế Tôn và các vị
đại đức ở tu viện Jetavana vậy, nhưng chuyện này chắc chẳng bao giờ xảy ra đâu,
bạch Thế Tôn!
Bụt đưa tay chỉ vào đại đức Ahimsaka đứng sát sau lưng người
và nói với vua:
– Đại vương, đây là Angulimala đã được trao truyền giới pháp
xuất gia và đã trở nên một vị khất sĩ sống đời phạm hạnh từ nửa tháng nay.
Quốc vương Pasenadi sợ dựng tóc gáy. Bụt nói:
– Đại vương đừng sợ, khất sĩ Angulimala bây giờ hiền hơn cục
đất. Bây giờ mọi người gọi vị khất sĩ này là đại đức Ahimsaka.
Vua nhìn đại đức Ahimsaka trong một giây, và từ từ tiến tới
trước mặt đại đức. Vua chắp tay xá thầy. Vua hỏi:
– Bạch đại đức, ngài xuất thân từ gia đình nào? Thân phụ ngài
tên gì?
– Tâu đại vương, thân phụ tôi tên là Gagga, thân mẫu tôi tên
là Mantan!
– Xin đại đức Gagga Mantanniputta nhận nơi đây niềm thành
kính của trẫm và xin đại đức cho phép trẫm cúng dường ngài y áo, thực phẩm và
thuốc men.
Đại đức Ahimsaka đáp lễ:
– Tâu đại vương, tôi đã có đủ ba y áo, thực phẩm thì mỗi ngày
đều có thí chủ cúng dường trong giờ đi khất thực, còn thuốc men thì hiện giờ
tôi không cần đến, xin tạ ơn đại vương.
Vua cúi đầu chào đại đức một lần nữa rồi trở về đứng trước mặt
Bụt. Vua làm lễ Bụt và nói:
– Bạch đức Thế Tôn, đạo đức của người thật là mầu nhiệm. Thế
Tôn dập tắt được những gì rất khó dập tắt, an ổn được những gì rất khó an ổn,
điều phục được những gì rất khó điều phục. Những gì không giải quyết được bằng
binh lực và bạo động, Thế Tôn đã giải quyết được bằng đức độ của người. Trẫm
xin ghi ơn đức Thế Tôn, bây giờ trẫm xin từ giã.
Vua từ giã Bụt và các vị khất sĩ. Ngay sáng hôm đó các đơn vị
quân đội và cảnh sát được lệnh trở về vị trí cũ.
Chương 54 - Thanh thản trước cuộc thịnh suy
Chỉ trong vài hôm, dân chúng ở thủ đô đều hay tin là
Angulimala đã được chế ngự, và ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm, nhưng điều người
ta bàn tán đến nhiều nhất là việc Angulimala đã cải tà quy chánh, xuất gia theo
Bụt.
Câu chuyện này được truyền ra trong xứ và còn truyền ra những
xứ khác. Uy tín của Bụt và của giáo đoàn khất sĩ lên rất cao, ở đâu và lúc nào
các vị khất sĩ cũng được nhìn bằng con mắt kính trọng.
Uy thế của giáo đoàn còn lên cao hơn nữa khi mọi người thấy số
trí thức và thanh niên từ các giáo phái từ bỏ giáo phái mình để theo Bụt càng
ngày càng đông. Câu chuyện cư sĩ Upali thuộc giáo phái Nigantha bỏ giáo phái
này để theo Bụt là một trong những đề tài được đàm luận sôi nổi nhất trong giới
tôn giáo và triết học ở Magadha và ở Kosala.
Upali là một người cư sĩ giàu có và thông minh vào bậc nhất ở
miền Bắc nước Magadha. Ông là người thí chủ lớn nhất của giáo phái Nigantha mà
người lãnh đạo là giáo chủ Nataputta. Giáo phái này gồm toàn những du sĩ lõa
hình, có rất đông quần chúng tín mộ.
Lúc ấy là mùa Xuân, Bụt cư trú trong vườn xoài Pavarika tại
Nalanda, miền Bắc nước Magadha. Một hôm du sĩ lõa hình Digha Tappasi, một cao đệ
của giáo chủ Nataputta, nhân đi khất thực ở Nalanda, đã ghé vào thăm Bụt để đàm
luận về đạo lý. Bụt hỏi thăm và được vị du sĩ này cho biết rằng giáo phái
Nigantha chỉ dùng danh từ tội báo (dandani) mà không dùng danh từ hành nghiệp
(karmani). Được hỏi về bản chất của tội báo, Digha Tappasi cho biết là có ba loại:
thân tội, khẩu tội, và ý tội.
Được hỏi loại nào nặng nhất và căn bản nhất, du sĩ nói:
– Tội của thân là nặng nhất, và là căn bản nhất.
Bụt cho biết trong đạo lý của người, ý nghiệp là quan trọng
nhất, tại vì ý là căn bản, du sĩ Tappasi buộc Bụt phải lặp lại điều này ba lần
để Bụt không thể chối cãi, và sau đó kiếu từ ra về.
Gặp lại giáo chủ Nataputta, du sĩ kể lại những chi tiết của
cuộc đàm thoại. Nataputta cười lớn và nói:
– Sa môn Gotama đã lầm lẫn nghiêm trọng. Tội trong tâm ý và
nơi lời nói chưa phải là tội lớn. Chính những tội do thân thể gây nên một cách
cụ thể mới là quan trọng, và có ảnh hưởng lâu dài. Du sĩ Tappasi! Thầy đã nắm
được yếu chỉ của đạo pháp ta.
Trong buổi đàm đạo giữa Nataputta và Tappasi còn có mặt một số
người cư sĩ, trong đó có vị trưởng giả trí thức Upali và các bạn của ông ta từ
thành phố Balaka đến. Nghe tới đây, Upali xin tình nguyện đi thăm Bụt để nói
cho Bụt biết là vị sa môn này đã thấy sai khi cho rằng ý nghiệp có tính cách
căn bản hơn thân nghiệp và khẩu nghiệp. Giáo chủ Nataputta rất muốn cho Upali
đi, nhưng du sĩ Tappasi e ngại. Ông sợ Upali sẽ bị Bụt chinh phục, nhưng giáo
chủ Nataputta có đức tin lớn nơi Upali. Ông nói:
– Đừng sợ cư sĩ Upali sẽ trở nên đệ tử của sa môn Gotama. Sa
môn Gotama, trái lại có thể trở nên đệ tử của Upali cũng chưa biết chừng.
Du sĩ Tappasi cố ngăn nhưng không được. Upali đến thăm Bụt và
cuộc đàm đạo giữa hai người rất là hào hùng. Đây là lần đầu tiên nhà trí thức
này được gặp Bụt. Trong bảy ví dụ liên tiếp, Bụt chỉ cho Upali thấy ý tội là
căn bản. Bụt biết các du sĩ lõa hình phái Nigantha là những người có trì giới
không sát sinh và biết giữ gìn không giẫm đạp lên trên các loại côn trùng. Bụt
khen ngợi điều này. Nhưng người hỏi Upali:
– Nếu không cố ý mà giẫm đạp lên các loại côn trùng thì có phạm
tội không?
Upali trả lời:
– Giáo chủ Nataputta bảo rằng nếu không cố tình giết thì
không phạm tội.
Bụt cười và nói:
– Như vậy thì giáo chủ Nataputta công nhận ý tội là căn bản rồi;
nói thân tội là căn bản sao được nữa?
Upali rất khâm phục đức độ và tuệ giác của Bụt. Ông thưa với
Bụt là ngay từ đầu ông đã thấy giáo chủ giáo phái Nigantha là sai, nhưng ông vẫn
cứ gạn hỏi để Bụt giảng giải thêm nữa. Nghe đến đâu, ông càng thấy sáng và cuối
cùng ông lạy Bụt xin Bụt cho ông làm đệ tử.
Bụt nói:
– Upali, hãy nghĩ cho thật kỹ. Một người trí thức có tầm vóc
như ông không thể quyết định một cách vội vã được. Hãy suy nghĩ cho thật chín
chắn.
Upali lại quý mến Bụt hơn vì câu nói vừa rồi của Bụt. Câu nói
đó chứng tỏ Bụt không ham có thêm đệ tử, dù là một đệ tử có uy tín lớn trong giới
nhân sĩ như ông. Không một vị giáo chủ nào khi nghe Upali xin vào đạo mà lại
còn bảo Upali nên suy nghĩ cho chín chắn như vị sa môn này. Upali nói:
– Thế Tôn, con đã suy nghĩ chín chắn lắm rồi. Xin Bụt cho con
quay về nương tựa Bụt, nương tựa Pháp và nương tựa Tăng. Con rất mừng đã tìm thấy
nền đạo lý chân chính, con rất mừng đã tìm thấy Bụt.
Bụt nói:
– Cư sĩ Upali, lâu nay ông là một trong những người bảo trì đắc
lực nhất cho các thầy du sĩ phái Nigantha. Vậy đừng vì theo tôi mà chấm dứt việc
cúng dường các thầy bên đó.
Upali bạch:
– Thế Tôn thật là cao cả. Thế Tôn thật là rộng lượng. Giáo chủ
phái Nigantha không được như Thế Tôn đâu.
Nghe tin Upali đã theo Bụt, du sĩ Tappasi đến báo cho giáo chủ
Nataputta. Vị này không tin, cả hai tìm tới nhà Upali và được chính Upali cho
biết sự thực.
Uy tín của Bụt và giáo đoàn khất sĩ lên cao, nền đạo lý mới
đã chinh phục được lòng người trong hai nước lớn và trong các nước kế cận. Có
nhiều vị khất sĩ tỏ vẻ vui mừng khi báo tin này về Savatthi lên Bụt. Bụt nói:
– Đáng mừng hay không là ở chỗ các thầy có tu học tinh tiến
hay không. Chúng ta không nên vui buồn theo sự thịnh suy. Chúng ta phải học
thái độ thản nhiên trước cái suy cũng như trước cái thịnh.
Một buổi sáng, trong khi Bụt và các thầy khất sĩ đang chuẩn bị
lên đường đi khất thực thì có một toán cảnh sát vào tu viện Jetavana. Họ cho biết
là được lệnh đi tìm một người đàn bà mất tích. Các thầy ai cũng ngạc nhiên,
không biết tại sao đi tìm một người đàn bà mất tích mà lại tới tu viện nam giới
vào một buổi sớm mai. Đại đức Bhaddiya hỏi người bị mất tích là ai. Cảnh sát bảo
là nữ du sĩ Sundari. Sundari là một tiểu ni xinh đẹp của một giáo phái lớn có
cơ sở ở Savatthi. Mấy tháng nay cô thường hay đến tu viện để nghe thuyết pháp.
Nói là để học hỏi thêm về các tông giáo khác. Các thầy bảo với cảnh sát là hiện
cô không có ở đây. Nhưng các vị cảnh sát bảo là đã được lệnh khám xét kỹ lưỡng.
Sau một hồi tìm kiếm, họ phát giác tử thi của tiểu ni Sundari được chôn cất sơ
sài trong đất tu viện, không xa tịnh thất của Bụt là mấy.
Không ai hiểu được tại sao cô Sundari chết và tại sao thi hài
của cô lại bị chôn ở đất tu viện. Sau khi cảnh sát đưa xác Sundari đi, Bụt bảo
các thầy cứ đi khất thực như thường lệ, người bảo:
– Quý vị hãy hết lòng an trú trong chánh niệm.
Ngày hôm đó, giáo phái của tiểu ni Sundari tổ chức rước thi
hài cô đi ngang qua nhiều đường phố để tụng niệm. Thỉnh thoảng họ dừng lại để
khóc kể. Quần chúng thấy thế xúm lại gần. Họ phân bua:
– Bà con cô bác có thấy không? Xác của tiểu ni Sundari đó! Họ
chôn trong đất của tu viện Jetavana! Bà con nghĩ có chán ngán không? Họ xưng là
con cháu dòng họ Sakya, là những người tu theo phạm hạnh, họ nói từ bi hỷ xả,
thế mà họ hãm hiếp người ta đến chết rồi chôn giấu người ta đi cho mất tích! Bà
con cô bác nghĩ sao?
Dân chúng ở Savatthi rất hoang mang. Ngay trong số những người
đã được trực tiếp biết Bụt và các vị khất sĩ mà cũng có người cảm thấy niềm tin
lung lay. Những người có niềm tin vững chãi nơi Bụt và nơi các vị khất sĩ thì
nghĩ rằng đây là một vụ vu khống. Tuy nhiên họ cũng đau khổ không kém. Các giáo
phái chống đối Bụt nhân cơ hội này ráo riết tuyên truyền để triệt hạ uy tín của
giáo đoàn khất sĩ. Đến đâu cũng nghe người ta bàn tán về vụ này. Các vị khất sĩ
tới đâu cũng bị chất vấn ráo riết. Họ cố giữ thái độ trầm tĩnh và an trú trong
chánh niệm như Bụt đã căn dặn, nhưng đối với các vị khất sĩ mới tu và còn non yếu,
việc đương đầu với quần chúng trong vụ tiếng tăm này là một điều cực kỳ khó
khăn. Họ cảm thấy tủi hổ. Nhiều khi họ không muốn đi vào thành phố để khất thực
nữa.
Bụt biết được tâm trạng của các vị khất sĩ này. Một buổi chiều
tại giảng đường, người nói:
– Những chuyện oan ức như thế này có thể xảy ra bất cứ ở đâu
và bất cứ thời nào. Quý vị khất sĩ đừng cảm thấy tủi hổ. Quý vị chỉ nên cảm thấy
tủi hổ khi mình không sống đời sống phạm hạnh cho xứng đáng mà thôi. Nếu giới
luật được nghiêm trì, nếu đời sống phạm hạnh không có tì vết, thì không việc gì
các thầy phải tủi hổ. Dư luận phát sinh, dư luận tồn tại rồi dư luận sẽ tiêu diệt.
Ngày mai đi khất thực mà có người hỏi, quý vị cứ thẳng thắn trả lời: “Người nào
gây nhân thì người ấy sẽ chịu quả”. Và chỉ cần nói từng ấy thôi là đủ.
Nghe Bụt nói thế, các thầy cảm thấy được an ủi rất nhiều.
Trong khi đó nữ cư sĩ Visakha rất khổ đau. Bà có đức tin trọn
vẹn nơi Bụt và nơi giáo đoàn. Bà biết đây là một vụ vu khống để bôi nhọ Bụt và
giáo đoàn khất sĩ. Ngay từ hôm nghe được tin này, bà lập tức đi tìm cư sĩ
Sudatta. Hai người đàm luận rất lâu, và cuối cùng họ đồng ý là phải cho người
đi bí mật dò la để tìm ra thủ phạm của vụ bôi nhọ. Cư sĩ Sudatta đề nghị phải
có người giả trang đi thám thính ngay cả trong nội bộ giáo phái du sĩ của tiểu
ni Sundari. Hai người đến thăm thái tử Jeta để nhờ thái tử giúp một tay trong
việc này.
Chỉ trong vòng bảy hôm, thám tử đã tìm ra được thủ phạm giết
người. Sau khi nhận tiền thù lao, hai tên giết người này đã đi ăn nhậu với nhau
để chia nhau số tiền được thưởng. Trong cơn say họ đã cãi lộn với nhau và tiết
lộ những điều bí mật. Cảnh sát hoàng gia đã được phái tới bắt họ. Các thủ phạm
đã thú nhận tất cả tội lỗi và kể tên những vị lãnh đạo tôn giáo đã thuê họ giết
cô Sundari và chôn giấu tử thi cô gần tịnh thất của Bụt.
Vua Pasenadi tới tu viện Jetavana thăm Bụt sau khi được báo
cáo về tin này. Vua tỏ ý mừng cho Bụt và cho giáo đoàn vừa thoát được một tai nạn.
Bụt cho vua biết là hận thù và ganh ghét có thể làm cho con người mù quáng, và
xin vua giảm tội cho các phạm nhân. Người nói những vụ như thế này có thể xảy
ra trong tương lai nếu con người không vượt thắng được hận thù và ganh ghét.
Chỉ trong vòng hai hôm sau là tất cả dân chúng trong thủ đô
biết được sự thật về âm mưu bôi nhọ Bụt và giáo đoàn khất sĩ. Dân chúng thủ đô
bắt đầu nhìn các vị khất sĩ trở lại bằng con mắt thán phục và nhiều kính nể.
Chương 55 - Ánh mai vừa tỏ rạng
Một hôm Bụt và thầy Ananda đi thăm một tu viện nhỏ ở ngoại
thành. Hai người tới tu viện vào giờ các thầy đi khất thực vắng. Trong khi đi một
vòng ở khuôn viên tu viện, hai người nghe có tiếng rên la trong một am nhỏ. Bước
vào am, Bụt thấy một vị khất sĩ bị ốm đang nằm rên trong xó nhà. Trong am rất
hôi hám. Bụt tiến tới hỏi:
– Khất sĩ, thầy bị đau ra sao?
– Thưa Thế Tôn, con bị kiết.
– Không có ai săn sóc cho thầy sao?
– Các huynh đệ đi khất thực hết rồi có ai ở nhà đâu? Với lại
ban đầu cũng có mấy huynh đệ tới săn sóc, nhưng con thấy mình không làm được lợi
ích gì cho các huynh đệ mà cứ bắt các huynh đệ săn sóc cho mình thì tội chết,
cho nên con nói với các huynh đừng tới nữa.
Bụt bảo thầy Ananda:
– Ananda, đi kiếm ít nước, chúng ta sẽ rửa ráy cho thầy khất
sĩ này.
Sau khi Ananda đi lấy nước về, hai thầy trò tắm rửa và mặc áo
sạch cho vị khất sĩ. Rồi hai người đặt thầy lên giường. Xong xuôi, Bụt và
Ananda đi quét rửa trong am cho hết mùi hôi hám và đem áo quần ra giặt và phơi.
Lúc ấy các vị khất sĩ đi khất thực đã tuần tự trở về. Đại đức Ananda xin họ đi
nấu nước sôi và kiếm thuốc men cho thầy khất sĩ bị kiết.
Bụt hỏi :
– Các vị khất sĩ, vị khất sĩ ngoài tịnh thất kia đau bệnh gì
vậy?
– Bạch đức Thế Tôn, thầy ấy bị kiết.
– Có ai săn sóc cho thầy ấy không?
– Bạch đức Thế Tôn, ban đầu thì chúng con có săn sóc, nhưng
sau đó thầy ấy ngại không cho chúng con săn sóc nữa.
– Này các vị khất sĩ! Chúng ta đã đi tu và chúng ta không còn
được cha mẹ hoặc bà con săn sóc cho chúng ta mỗi khi đau ốm như khi còn ở nhà nữa.
Vậy nếu chúng ta không săn sóc cho nhau thì ai sẽ săn sóc cho chúng ta? Chúng
ta phải săn sóc cho nhau, mỗi khi có ai bị đau ốm, dù người ấy là thầy hay bạn
hay học trò thì chúng ta cũng phải săn sóc tận tình cho đến khi người ấy bình
phục hoàn toàn. Này các vị khất sĩ! Nếu tôi bị đau ốm thì quý vị có săn sóc cho
tôi không?
– Bạch đức Thế Tôn, chúng con chắc chắn sẽ săn sóc cho Thế
Tôn.
– Vậy thì từ nay, khi có vị nào bị ốm đau thì quý vị hãy săn
sóc cho đến khi bình phục. Săn sóc cho vị ấy tức là chăm sóc cho chính tôi vậy.
Các vị khất sĩ có mặt đều chắp tay cúi đầu, vâng theo lời Bụt
dạy.
Mùa Hạ năm sau, Bụt an cư tại tu viện Lộc Mẫu ở Savatthi. Năm
nay tại Savatthi, ni sư Mahapajapati cũng lãnh đạo một ni chúng đông đảo an cư
tại tu viện của các vị nữ khất sĩ. Phụ tá ni sư có ni sư Khema. Ni sư Khema
ngày xưa vốn là một vị quý phi của vua Bimbisara nước Magadha. Cách đây hai
mươi năm, bà đã được quy y làm học trò tại gia của Bụt. Bà vốn là người thông
minh, nhưng có tính tự hào, nhờ được gặp Bụt và nghe Bụt thuyết pháp nên bà tỉnh
ngộ và bắt đầu học phép khiêm cung.
Sau bốn năm tu học với tính cách một cư sĩ tại gia, bà đã xin
Bụt xuất gia và gia nhập ni chúng do ni sư Mahapajapati lãnh đạo. Bà tu học rất
tinh tiến, và trong những năm gần đây đã trở nên một trong những vị lãnh đạo
quan trọng của ni chúng. Nữ cư sĩ Visakha thường cùng các con đi cúng dường và
nghe pháp ở nữ tu viện này. Nam cư sĩ Sudatta cũng đã được bà nhiều lần mời tới
cúng dường và nghe pháp. Tại đây cư sĩ đã được gặp nữ khất sĩ Khema, nữ khất sĩ
Dhammadinna, nữ khất sĩ Utpalavanna và nữ khất sĩ Palacara. Bà Visakha được biết
tường tận về cuộc đời của các vị nữ khất sĩ này và bà đã kể cho ông Sudatta
nghe lại những điều bà biết.
Một hôm đến ni viện với một người bạn nam giới cũng có tên là
Visakha, cư sĩ Sudatta được gặp nữ khất sĩ Dhammadinna. Vị nữ khất sĩ này là một
trong những vị giảng sư nổi tiếng nhất của ni viện. Hai người đã được học hỏi đạo
lý với vị ni sư này. Ni sư đã giảng giải cho cả hai vị cư sĩ rất rành rẽ về những
yếu tố tạo nên con người là năm uẩn, tức là sắc, thọ, tưởng, hành và thức, và về
con đường của tám sự hành trì chân chính gọi là bát chánh đạo. Cư sĩ Visakha rất
ngạc nhiên khi thấy kiến thức thâm uyên của ni sư về đạo lý tỉnh thức. Ông về
tu viện Kỳ Thọ và đem tất cả những điều ni sư giảng dạy bạch lại với Bụt, Bụt
nói:
– Visakha, nếu ông hỏi ta, thì ta cũng sẽ trả lời như nữ khất
sĩ Dhammadinna không khác. Ông nên biết là qua bài pháp mà ông được nghe, nữ khất
sĩ Dhammadinna đã nắm rất vững đạo pháp giải thoát và giác ngộ.
Nói xong, Bụt quay lại đại đức Ananda và bảo:
– Ananda, thầy nên trùng tuyên lại cho đại chúng nghe bài
pháp của ni sư Dhammadinna. Bài pháp này là một bài pháp quan trọng.
Bên cạnh ni sư Dhammadinna, còn có ni sư Bhaddha Kapilani là
một vị nữ khất sĩ cũng nổi tiếng thông tuệ về giáo lý. Hai ni sư này thường được
các giới cư sĩ thỉnh cầu đến thuyết pháp tại nhiều địa điểm trong xứ.
Câu chuyện về nữ khất sĩ Patacara là một câu chuyện rất
thương tâm. Patacara là con gái một người rất giàu có ở Savatthi. Bố mẹ của
Patacara giữ con kỹ lắm, không bao giờ cho con gái đi ra ngoài đường. Cả ngày
Patacara bị nhốt trong nhà và vì thế không được gặp ai. Đến tuổi dậy thì, cô
đem lòng thương một người con trai giúp việc trong nhà. Bố mẹ của cô hoàn toàn
không hay biết gì về điều này. Họ sắp đặt để gả cô cho một chàng trai, con của
một nhà phú hộ khác.
Hoảng kinh, cô bàn tính với người yêu bỏ nhà đi trốn. Rạng
sáng ngày cưới, cô hóa trang làm con ở đi gánh nước và thoát ra khỏi nhà. Qua bến
đò, cô gặp người yêu. Hai người đi trốn đến một nơi thật xa và cưới nhau. Ăn ở
với nhau được ba năm thì cô có mang. Gần đến ngày sinh con, cô đòi chồng đưa về
nhà cha mẹ để sinh, theo tục lệ xứ cô. Chồng cô sợ ông bà nhà phú hộ lắm, nhưng
vì vợ cương quyết quá nên anh bất đắc dĩ phải đưa vợ về. Nhưng khi về đến nửa
đường thì cô lâm bồn và sinh được một cháu bé trai. Việc trở về nhà cha mẹ vì
thế không còn cần thiết nữa. Hai vợ chồng liền quay về nơi sinh sống cũ.
Hai năm sau, cô lại có mang, và cô lại ép chồng đưa cô về quê
để sinh đẻ. Nhưng lần này họ rủi ro quá. Giữa đường họ gặp một trận bão lớn. Cô
lại muốn lâm bồn. Người chồng bảo vợ ngồi xuống bên đường chờ đợi, để anh ta
vào rừng đốn cây bẻ lá về che thành một túp lều tạm, Patacara đợi mãi không thấy
chồng về. Nửa đêm cô sinh ra một đứa bé trai, trong lúc trời vẫn mưa vẫn gió.
Sáng hôm sau, khi bão tạnh, Patacara tay ôm đứa bé sơ sinh
tay dắt đứa bé chưa đầy ba tuổi đi vào rừng tìm chồng. Cô thấy chồng nằm chết
trong rừng. Hôm qua trong khi đốn củi, anh ta đã bị một con rắn độc cắn và nằm
chết ngay tại chỗ, Patacara khóc than thảm thiết, rồi cô ẵm dắt con ra đi, tìm
về nhà cha mẹ. Cô đi mãi cho đến khi gặp một dòng sông. Mực nước sông lên cao
vì mưa gió đã kéo dài hơn một đêm một ngày. Không biết làm sao, cô mới dặn đứa
con ba tuổi đứng chờ cô bên này sông để cô ẵm đứa bé sơ sinh sang bên kia sông
trước. Bằng hai tay, cô nâng đứa bé lên quá đầu và lội qua sông. Tới giữa dòng,
một con chim ưng sà xuống và cắp đứa bé bay đi. Patacara hoảng hốt la lớn lên để
con chim ưng sợ mà buông đứa bé. Ai ngờ tiếng kêu của cô vọng tới sang bờ phía
sau, và em bé ba tuổi, tưởng mẹ gọi mình, vội vã lội xuống nước chạy theo. Con
chim ưng cắp đứa bé sơ sinh bay xa rồi, Patacara không làm gì được nữa. Ngoái
nhìn lại bờ bên nọ cô thấy đứa con trai ba tuổi của cô đã lội xuống nước. Hoảng
kinh, Patacara la lên và nhoài mình trở về bờ bên nọ để cứu con, nhưng chậm mất
rồi, đứa bé đã bị dòng nước cuốn đi mất.
Qua tới bờ bên kia, Patacara kiệt sức. Cô không còn khóc được
nữa. Cô nằm trên bờ sông lâu lắm mới lấy lại được chút sức lực. Rồi cô tìm đường
lần hồi về Savatthi.
Về tới Savatthi cô được tin là ngôi nhà của cha mẹ cô đã bị
trận bão ngày hôm kia xô ngã và cả cha lẫn mẹ cô đều bị đè chết trong ngôi nhà
sụp đổ. Ngày hôm cô về tới là ngày người ta đưa xác ông bà lên giàn hỏa.
Chưa bao giờ mà nhiều biến cố khổ đau dồn về một lúc trên một
con người như thế. Patacara ngã quỵ bên lề đường. Cô không còn muốn sống nữa.
Những người qua đường ghé lại thăm hỏi và đưa cô về tu viện Jetavana gặp Bụt. Bụt
nhờ các vị nữ cư sĩ đưa Patacara đi tắm rửa và lấy áo quần khô và sạch cho
Patacara mặc. Rồi người ngồi chăm chú nghe Patacara kể lại chuyện mình. Bụt an ủi:
– Con đã gặp quá nhiều tai nạn và rủi ro. Nhưng cuộc đời
không phải chỉ có khổ đau và tai nạn. Con hãy học theo pháp giác ngộ để có thể
mỉm cười với chính những khổ đau của mình và để tạo an lạc cho hiện tại và cho
tương lai.
Patacara lạy Bụt xin quy y với người. Bụt cho vời ni sư
Mahapajapati tới. Người gửi gắm Patacara cho ni sư.
Chiều hôm đó, Patacara theo ni sư về ni viện. Sau một thời
gian tập sự, Patacara được thọ giới làm nữ khất sĩ. Patacara được ni trưởng và
các ni sư trong viện thương yêu lắm. Sau mấy năm tu học, Patacara đã tìm lại được
nụ cười. Một hôm trong khi múc nước rửa chân, thấy những dòng nước theo hai
chân chảy xuống và thấm vào lòng đất, nữ khất sĩ Patacara ngộ được lý vô thường.
Suốt mấy đêm liền, cô thực tập thiền quán bằng hình ảnh ấy. Một buổi sáng nọ,
Patacara chứng nghiệm được nguyên tắc sinh diệt. Cô đọc lên mấy câu thơ:
Hôm nọ đang rửa chân
Tôi thấy dòng nước chảy
Nước thấm vào lòng đất
Tôi hỏi: nước về đâu?
Thiền quán trong tĩnh lặng
Tôi nắm giữ thân tâm
Như một con tuấn mã
Tôi quán sát lục trần
Ngồi nhìn ngọn đèn dầu
Tôi đi vào phép quán
Thời khắc trôi qua mau
Lửa đèn còn chiếu sáng
Lấy cây tăm khêu bấc
Tôi dìm bấc xuống dầu
Ánh đèn bỗng phụt tắt
Tất cả chìm đêm sâu
Ngọn lửa về Niết bàn
Nhưng hồn tôi chợt sáng
Tâm được cởi trói rồi
Ánh mai vừa tỏa rạng.
Nữ khất sĩ Patacara được gặp ni trưởng Mahapajapati sáng hôm ấy.
Cô trình lên bà bài thơ và rất được bà khen ngợi.
Nữ khất sĩ Uppadavanna được xuất gia là nhờ công tiến dẫn của
đại đức Moggallana. Vị ni sư có dung quang rất mỹ lệ, dù bà đã cạo đầu mặc áo
khất sĩ. Bà tu học tinh tiến lắm và cũng là một trong những người phụ tá giỏi của
ni trưởng Pajapati.
Một hôm đi qua công viên thành phố, đại đức Moggallana gặp
người thiếu phụ nhan sắc mặn mà đang đứng chặn đường người. Đó là Uppadavanna,
lúc ấy là một hoa khôi trong giới thương nữ. Người đời gọi cô là Liên Hoa Sắc
vì cô có sắc đẹp và sự tươi mát của một bông hoa sen xanh. Đại đức Moggallana
nhìn thẳng vào mặt người phụ nữ này và biết ngay đây là một người mà tâm hồn chứa
chất rất nhiều u uẩn khổ đau. Đại đức nói:
– Cô có hình dáng xinh đẹp, cô lại có bề ngoài trang phục lộng
lẫy, nhưng tôi biết bên trong cô là một người đầy khổ đau và mặc cảm. Nghiệp
chướng cô nặng nề lắm và cô đang càng ngày càng sa vào con đường lầy lội. Cô
nên thức tỉnh càng sớm càng hay.
Uppadavanna hoảng kinh thấy vị khất sĩ nhìn thấu nội tâm
mình, nhưng cô vẫn giữ vẻ bình thản. Cô nói:
– Có thể là đại đức nói đúng, nhưng tôi không có con đường
nào khác hơn.
Thầy Moggallana nói:
– Tại sao cô lại bi quan như thế? Dù quá khứ có sao đi nữa,
ta vẫn có thể chuyển hướng và xây dựng cho tương lai. Áo quần dơ bẩn thì ta
dùng nước sông để giặt giũ. Thân thể dơ bẩn thì ta tắm gội. Tâm tư vẩn đục và
chán chường thì ta lấy nước giải thoát mà gạn lọc. Bụt dạy: Ai cũng có khả năng
tỉnh thức và thanh tịnh hóa thân tâm của mình.
Uppadavanna sa nước mắt:
– Nhưng cuộc đời của con đầy dẫy tội lỗi, con sợ Bụt cũng
không cứu được con nữa là đại đức.
Vị khất sĩ mỉm cười:
– Không sao đâu, cô cứ kể tự sự cho tôi nghe đi.
Uppadavanna thuật lại rằng nàng là con gái của một nhà triệu
phú. Nàng lấy chồng năm mười sáu tuổi. Sau ngày cha chồng nàng mất, mẹ chồng
nàng lại ăn nằm với chính chồng của nàng. Lúc đó Uppadavanna đã sinh được một đứa
con gái. Chứng kiến cảnh loạn luân ấy, cô bỏ nhà ra đi, bỏ luôn đứa con gái lại.
Mấy năm sau, cô gặp một thương gia và được ông này cưới làm vợ.
Một thời gian sau, cô nghe nói chồng cô có mua về một nàng hầu và đem giấu giếm
ở một ngôi nhà cách biệt ngoài thành phố. Cô tìm đến đánh ghen thì phát giác ra
rằng đó chính là con gái năm xưa của cô.
Đau xót vô cùng, cô đem lòng thù hận trời đất và con người.
Cô không còn tin được ai và thương được ai nữa. Cô theo nghề kỹ nữ. Cô chỉ cần
tiền bạc, đồ trang sức và một nếp sống vật chất dư dả. Nên cô đã có ý định
chinh phục cả những vị khất sĩ, đó là vì cô muốn trả thù con người và chửi thẳng
vào mặt cái đạo đức giả của con người.
Nói tới đó, Liên Hoa Sắc úp mặt trong hai tay và khóc. Đợi
Uppalavanna khóc cho thỏa thuê xong, đại đức Moggallana mới bắt đầu dạy đạo cho
cô. Rồi thầy đưa cô về gặp Bụt.
Bụt an ủi Uppadavanna và cho phép cô đi về ni viện tập sự tu
học dưới sự hướng dẫn của ni sư Gotami. Chỉ trong vòng bốn năm, Uppadavanna đã
trở nên một vị ni sư gương mẫu.
Chương 56 - Trùng sinh ân nặng
Thỉnh thoảng Bụt hoặc các vị đệ tử lớn của người lại tới thăm
và nói pháp thoại tại ni viện.
Mỗi tháng một lần các vị nữ khất sĩ cũng được tới nghe pháp ở
tu viện Jetavana hoặc ở giảng đường Lộc Mẫu.
Năm nay theo lời yêu cầu của đại đức Sariputta, Bụt cho kéo
dài mùa an cư thêm một tháng.
Lễ tự tứ sẽ được cử hành vào ngày trăng tròn tháng Kattika,
thay vì vào ngày trăng tròn tháng Assayuja như những năm khác. Ý của đại đức
Sariputta là nếu Bụt kéo dài mùa an cư thêm một tháng thì các vị khất sĩ và nữ
khất sĩ đang an cư tại các trung tâm tu học khác trong nước và ở các nước lân cận,
sau khi làm lễ tự tứ cuối ba tháng an cư của họ, có thể tìm về Savatthi để được
gặp Bụt.
Tin Bụt sẽ kéo dài mùa an cư năm nay thêm một tháng đã được
truyền đi các nơi rất mau chóng, vì vậy sau lễ tự tứ các thầy và các ni cô từ
các địa phương lục tục tìm về thăm Bụt rất đông. Các vị thí chủ lớn như
Sudatta, Visakha và Mallika đã tìm mọi cách để cung cấp phương tiện cư trú và
thực phẩm cho cả ngàn vị khách tăng từ các nơi dồn đến. Vào cuối tháng Kattika,
số lượng các vị khất sĩ và nữ khất sĩ tại thủ đô Savatthi đã lên tới ba ngàn vị.
Thấm thoát mà ngày trăng tròn tháng Kattika đã đến. Hoa
kumudi nở rộ khắp nơi, kumudi là một thứ sen trắng thường hay nở rộ vào tiết
này nên ngày trăng tròn tháng Kattika cũng được gọi là ngày hoa Kumudi.
Đêm ấy trăng sáng vằng vặc. Bụt ngồi ở ngoài trời, có cả ba
ngàn vị đệ tử xuất gia. Hương sen từ hồ bay lên thoang thoảng. Mấy ngàn vị khất
sĩ ngồi bao quanh Bụt im lặng. Người nói người rất bằng lòng thấy được thực chất
của sự tu học nơi các vị khất sĩ và nữ khất sĩ. Rồi nhân cơ hội này, người nói
kinh Quán Niệm Hơi Thở.
Đúng ra thì vị khất sĩ nào cũng đã được học về phép quán niệm
hơi thở, và Bụt đã nhiều lần dạy về pháp môn này, nhưng đây là lần đầu mà đa số
các vị xuất gia có mặt được nghe Bụt giảng dạy trực tiếp về phép quán niệm hơi
thở.
Đây cũng là lần đầu Bụt tổng hợp những điều đã từng dạy về
pháp môn này và đúc kết lại trong một bài giảng. Biết trước rằng kinh này sẽ phải
được trùng tuyên để tất cả học thuộc mà hành trì, đại đức Ananda lắng nghe và
ghi nhận tất cả những tiếng và những lời Bụt dạy.
Trong buổi tụ họp hôm nay có mặt cả ni sư Yasodhara mẹ của đại
đức Rahula và ni sư Sundari Nanda – cô của đại đức, em gái của Bụt. Hai vị này
đã xuất gia dưới sự hướng dẫn của ni sư Gotami và trong những năm qua đã tu học
tại một ni viện miền ngoại ô phía Bắc thành Kapilavatthu; ni viện này cũng đã
do ni sư Gotami sáng lập.
Sáu tháng sau khi bà Gotami được xuất gia, Yasodhara đã xin
được xuất gia và gia nhập vào ni chúng. Chỉ trong vòng một năm, ni sư Yasodhara
đã trở nên một vị phụ tá đắc lực cho ni sư Gotami.
Từ những năm Bụt bắt đầu an cư tại tu viện Cấp Cô Độc, ni
chúng đã tổ chức an cư ở thủ đô Savatthi để được thừa hưởng sự giáo huấn của Bụt
và của các vị đại đệ tử. Hoàng hậu Mallika và nữ cư sĩ Visakha đã tận lực ủng hộ
ni chúng trong việc thành lập tu viện cho phái nữ. Hai năm đầu, ni chúng được
phép sử dụng vườn Thượng uyển để làm trung tâm an cư.
Đến năm thứ ba họ mới lập được tu viện riêng biệt. Biết mình
tuổi đã cao, ni sư Gotami nỗ lực đào luyện những vị lãnh đạo ni chúng trong giới
những ni sư trẻ tuổi. Ni sư Yasodhara là một trong những vị lãnh đạo ni chúng
xuất sắc. Cũng xuất gia một lượt với bà còn có các ni sư Sela, Vimala, Soma,
Mutta và Nanduttara. Tất cả các vị ấy đều có mặt hôm nay tại tu viện Lộc Mẫu. Đại
đức Rahula đã giới thiệu ni sư Yasodhara và ni sư Sundari Nanda với đại đức
Svastika. Đại đức Svastika rất kính mến hai người này; đại đức đã từng được
nghe bạn nói nhiều về họ.
Bụt dạy:
– Này các vị khất sĩ, phép quán niệm hơi thở, nếu được phát
triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quả lớn. Do quán niệm hơi
thở quý vị có thể thành tựu phép quán Tứ Niệm Xứ và phép quán Thất Giác Chi, tức
là bảy yếu tố giác ngộ, và đạt tới trí tuệ và giải thoát.
Hơi thở thứ nhất: Thở vào một hơi dài, ta biết ta đang thở
vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài, ta biết ta đang thở ra một hơi dài.
Hơi thở thứ hai: Thở vào một hơi ngắn, ta biết ta đang thở
vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, ta biết ta đang thở ra một hơi ngắn.
Hai hơi thở này nhằm mục đích cắt ngang những thất niệm và
suy tư vẩn vơ vô ích, đồng thời làm phát khởi chánh niệm và tiếp xúc được với sự
sống trong giờ phút hiện tại. Thất niệm là sự quên lãng, là sự vắng mặt của
chánh niệm. Hơi thở có ý thức đưa ta trở về với ta và với sự sống.
Hơi thở thứ ba: Ta đang thở vào và có ý thức về toàn thân ta.
Ta đang thở ra và có ý thức về toàn thân ta.
Hơi thở này là để quán niệm về thân thể và để tiếp xúc với
thân thể của chính mình. Ý thức về thân thể như một tổng thể và ý thức về các bộ
phận trong cơ thể để thấy được những mầu nhiệm về sự có mặt và về quá trình
sinh diệt của thân thể.
Hơi thở thứ tư: Ta đang thở vào và làm cho toàn thân ta an tịnh.
Ta đang thở ra và làm cho toàn thân ta an tịnh.
Hơi thở này là để thực hiện sự an tịnh trong cơ thể và cũng
là để đạt tới trạng thái thân tâm nhất như trong đó thân tâm và hơi thở trở nên
một hợp thể mầu nhiệm.
Hơi thở thứ năm: Ta đang thở vào và cảm thấy mừng vui. Ta
đang thở ra và cảm thấy mừng vui.
Hơi thở thứ sáu: Ta đang thở vào và cảm thấy an lạc. Ta đang
thở ra và cảm thấy an lạc.
Với hai hơi thở này hành giả đi sang lãnh vực cảm thọ. Hai
hơi thở này tạo ra sự an lạc cho thân tâm để nuôi dưỡng thân tâm. Nhờ chấm dứt
vọng tưởng và quên lãng, hành giả trở về với bản thân, tỉnh thức trong giây
phút hiện tại, cho nên niềm vui mừng và sự an lạc phát sinh. Hành giả an trú
trong sự sống mầu nhiệm và sự tịnh lạc của chánh niệm. Nhờ tiếp xúc với sự sống
mầu nhiệm, hành giả biến những cảm thọ không khổ không vui (gọi là xả thọ)
thành những lạc thọ. Hai hơi thở này đem tới những lạc thọ ấy.
Hơi thở thứ bảy: Ta đang thở vào và có ý thức về những hoạt động
tâm ý trong ta. Ta đang thở ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta
an tịnh.
Hơi thở thứ tám: Ta đang thở vào và làm cho những hoạt động
tâm ý trong ta an tịnh. Ta đang thở ra và làm cho những hoạt động tâm ý trong
ta an tịnh.
Hai hơi thở này là để quán chiếu tất cả những cảm thọ đang xảy
ra trong ta, dù đó là lạc thọ, khổ thọ hay xả thọ; và để làm cho an tịnh những
cảm thọ ấy. Những hoạt động tâm ý tức là những cảm thọ. Có ý thức về những cảm
thọ và quán chiếu về gốc rễ và bản chất của những cảm thọ ấy, ta điều phục được
chúng và làm cho chúng trở nên an tịnh, dù đó là những khổ thọ từ tham dục, giận
hờn và ganh ghét phát sinh.
Hơi thở thứ chín: Ta đang thở vào và có ý thức về tâm ý ta.
Ta đang thở ra và có ý thức về tâm ý ta.
Hơi thở thứ mười: Ta đang thở vào và làm cho tâm ý ta hoan lạc.Ta
đang thở ra và làm cho tâm ý ta hoan lạc.
Hơi thở thứ mười một: Ta đang thở vào và thu nhiếp tâm ta vào
định. Ta đang thở ra và thu nhiếp tâm ta vào định.
Hơi thở thứ mười hai: Ta đang thở vào và cởi mở cho tâm ý ta
được giải thoát tự do. Ta đang thở ra và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự
do.
Với bốn hơi thở này hành giả đi sang lãnh vực thứ ba là tâm
ý. Hơi thở thứ chín nhằm nhận diện tất cả những hoạt động của tâm ý như tri
giác, tư duy, phân biệt, vui, buồn, nghi kỵ v.v… Nhận diện để thấy được sự vận
hành của những hoạt động tâm ý, và khi đã nhận diện rồi, hành giả thu nhiếp tâm
ý, làm cho tâm ý lắng lại và cảm thấy an lạc trong trạng thái tâm ý lắng đọng
này. Đó là tác dụng của hơi thở thứ mười và thứ mười một. Hơi thở thứ mười hai
nhằm tháo gỡ những chỗ kẹt của tâm ý. Nhờ quán chiếu mà ta thấy được nguồn gốc
của tâm ý và do đó ta tháo gỡ được những chỗ kẹt ấy.
Hơi thở thứ mười ba: Ta đang thở vào và quán chiếu tính vô
thường của vạn pháp. Ta đang thở ra và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp.
Hơi thở thứ mười bốn: Ta đang thở vào và quán chiếu tính tàn
hoại của vạn pháp. Ta đang thở ra và quán chiếu tính tàn hoại của vạn pháp.
Hơi thở thứ mười lăm: Ta đang thở vào và quán chiếu về giải
thoát. Ta đang thở ra và quán chiếu về giải thoát.
Hơi thở thứ mười sáu: Ta đang thở vào và quán chiếu về sự
buông bỏ. Ta đang thở ra và quán chiếu về sự buông bỏ.
Với bốn hơi thở này, người hành giả bước sang lãnh vực đối tượng
của tâm thức, và chú tâm quán sát thực tướng của vạn pháp. Trước hết là quán về
tự tính vô thường của vạn pháp. Vì vô thường cho nên tất cả sẽ đi đến tàn hoại.
Biết rõ tướng trạng vô thường là tàn hoại của vạn pháp, hành giả không còn bị
những sinh diệt thành hoại của vạn pháp trói buộc nữa, do đó hành giả có thể
buông bỏ và đi đến giải thoát. Buông bỏ không có nghĩa là ghét bỏ và chạy trốn.
Buông bỏ có nghĩa là buông bỏ sự vướng mắc và đam mê, không bị ràng buộc và khổ
đau vì sanh diệt thành hoại của các pháp nữa. Một khi đạt được giải thoát và
buông bỏ, hành giả sống an lạc trong cuộc đời mà không có gì trong cuộc đời có
thể ràng buộc hành giả.
Bụt đã dạy phép hành trì mười sáu hơi thở trong quá trình
quán chiếu thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý. Người còn dạy áp dụng
mười sáu hơi thở này trong công phu tu tập bảy yếu tố giác ngộ là chánh niệm,
quyết trạch về vạn pháp, tinh tiến, hỷ lạc, khinh an, định và hành xả. Bảy pháp
này được gọi là Thất Giác Chi.
Đại đức Svastika đã từng được nghe kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm.
Bây giờ đại đức lại được nghe kinh Quán Niệm Hơi Thở. Đại đức nhận thấy rằng nhờ
kinh Quán Niệm Hơi Thở này mà đại đức hiểu được kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm một
cách sâu sắc hơn. Hai kinh này, theo đại đức, có thể bổ túc cho nhau, và theo đại
đức, đây là những kinh căn bản nhất của công trình thiền tập.
Gần ba ngàn vị khất sĩ và nữ khất sĩ đêm ấy được nghe kinh
này đều lấy làm sung sướng. Đại đức Svastika thầm cám ơn đại đức Sariputta đã sắp
đặt để có được buổi tu tập trong đêm trăng mầu nhiệm này.
Một hôm đại đức Ahimsaka đi khất thực về tới tu viện, bước đi
khập khiễng và mặt mũi đầy cả máu me.
Svastika trông thấy liền chạy tới đỡ đại đức. Đại đức
Ahimsaka nhờ thầy đưa vào yết kiến Bụt.
Hôm nay trong khi đi khất thực ở thành phố, đại đức bị một
nhóm người nhận ra đại đức chính là Angulimala ngày xưa. Họ đã đến vây quanh và
tấn công đại đức. Đại đức chắp hai tay thành búp sen, tuyệt đối không chống trả,
để cho họ tha hồ đánh đập, nhóm người ấy đã đánh đại đức trẹo cả chân và hộc cả
máu mồm máu mũi.
Thấy Ahimsaka trong tình huống ấy, Bụt liền đi ngay ra đỡ thầy.
Người bảo Ananda đi lấy một chậu nước và một chiếc khăn mặt để người lau máu
cho thầy, và người bảo Svastika đi hái lá dâu để dịt vào những vết thương trên
cơ thể thầy.
Đại đức Ahimsaka không hề rên rỉ, dù thầy đau lắm. Bụt nói:
– Hãy cố gắng chịu đựng đi Ahimsaka! Những đau khổ hôm nay có
thể rửa sạch được những đau khổ của ngày qua. Chịu đựng khổ đau trong tình
thương và trong tỉnh thức là một thứ tịnh thủy mầu nhiệm có thể xóa bỏ tất cả
oán thù trong muôn kiếp.
Bụt nói:
– Ahimsaka, áo cà sa của thầy đã bị xé rách tả tơi, còn bình
bát của thầy đâu?
– Bạch đức Thế Tôn, họ đã đập vỡ bình bát của con ra hàng
trăm mảnh rồi.
Bụt nói:
– Thôi để tôi nhờ thầy Ananda đi tìm cho thầy một chiếc y
sanghati khác và một cái bình bát khác.
Vừa rịt thuốc dâu vào những vết thương của thầy Ahimsaka,
Svastika vừa thấy rằng đây là một tấm gương toàn vẹn của tinh thần bất bạo động.
Thầy Ahimsaka kể cho Svastika nghe rằng trước đây một hôm đang đi khất thực thầy
gặp một thiếu phụ nghèo đang lâm bồn ngay dưới một cội cây ở chốn lâm viên. Thiếu
phụ đau đớn vô cùng mà vẫn không sinh nở được. Đại đức xúc động la lên: Khổ
quá! Khổ quá! Và chạy nhanh về báo cáo với Bụt. Bụt nói:
– Thầy hãy chạy ngay tới thiếu phụ và chú nguyện cho người
đàn bà ấy. Thầy nói: “Này cô, từ ngày sinh ra cho đến nay, tôi chưa từng cố ý
phạm đến sinh mạng của một loài nào. Nguyện rằng nhờ sự thật ấy mà cô sinh cháu
được bình an”.
Ahimsaka la lên:
– Con nói như thế là nói dối! Sự thật là con đã cố ý phạm đến
sinh mạng của nhiều người từ khi con sinh ra.
Bụt bảo:
– Vậy thì thầy nói: “Này cô, từ ngày tôi được sinh ra trong
giáo pháp giác ngộ, tôi chưa bao giờ cố ý phạm đến sinh mạng của loài nào. Nguyện
rằng nhờ sự thực ấy mà cô sinh cháu được bình an”.
Lập tức thầy Ahimsaka chạy về khu lâm viên và nói với người
thiếu phụ đúng theo lời Bụt chỉ dạy. Chỉ một vài phút sau đó, thiếu phụ sinh được
em bé bình an.
Từ ngày ấy về sau, công phu tu học của thầy Ahimsaka càng
ngày càng tinh tiến. Thầy được Bụt khen ngợi. Cho đến ngày hôm nay…
Chương 57 - Chiếc bè đưa người
Mùa Đông năm ấy trong khi Bụt nhập thất gần giảng đường Trùng
Các ở Vesali, có mấy vị khất sĩ rủ nhau tự sát ngay trong tu viện. Sau thời hạn
nhập thất Bụt được báo tin này. Người hỏi nguyên do. Các thầy trả lời là các vị
khất sĩ ấy vì quán sát tính vô thường và tàn hoại của thân thể cho nên đã sinh
lòng chán ghét thân thể và không muốn sống nữa. Bụt cho triệu tập tất cả các vị
khất sĩ trong tu viện lại. Người nói:
– Các vị khất sĩ, quán vô thường là để thấy được tự tính chân
thực của vạn pháp và đừng bị vạn pháp thao túng và làm cho khổ đau. Quán tính
tàn hoại của thân thể cũng có mục đích ấy. Người ta không đạt tới giải thoát và
tự do bằng cách trốn chạy vạn pháp. Người ta chỉ đạt tới giải thoát và tự do bằng
cách thấy được thực tính của vạn pháp. Có một vài người trong quý vị đã không
hiểu được điều đó và đã tìm con đường dại dột của sự trốn chạy và đã phạm vào
giới sát.
Này các vị! Người giải thoát là người không kẹt vào sự tham đắm
mà cũng không kẹt vào chán ghét. Tham đắm và chán ghét đều là những sợi dây
ràng buộc. Người tự do là người vượt thoát cả tham đắm lẫn chán ghét. Do sự vượt
thoát đó, người ấy an trú trong tịnh lạc. Niềm hạnh phúc của người đó không thể
nào đo lường được. Những cố chấp về vô thường và vô ngã cũng không có mặt nơi
người ấy. Này các vị khất sĩ! Các vị hãy học và hành theo giáo lý tôi dạy một
cách thông minh và trong tinh thần phá chấp.
Về lại Savatthi, Bụt lại có dịp dạy các vị khất sĩ thêm về vấn
đề phá chấp. Tại Savatthi có một vị khất sĩ tên là Arittha cũng đã vì không hiểu
được chân ý của lời Bụt dạy mà bị kẹt vào những cố chấp.
Trước đại chúng các vị khất sĩ tại tu viện Jetavana, Bụt dạy:
– Hiểu giáo pháp một cách sai lạc, người ta có thể đi vào cố
chấp, từ cố chấp người ta đi sâu vào sai lầm, gây đau khổ cho mình và cho người.
Này các vị! Hãy nghe, hiểu và hành giáo pháp một cách thông
minh. Như thế giáo pháp mới đưa đến một lợi ích thiết thực. Một người bắt rắn
giỏi biết cách dùng một cái cây có nạng và chận vào phía cổ của con rắn và cuối
cùng nắm bắt được rắn ở chỗ cổ của nó. Nếu không biết bắt rắn mà nắm lấy rắn ở
lưng hay ở đuôi thì người có thể bị rắn quay lại cắn tay. Học hỏi giáo lý, cũng
phải học hỏi thông minh như là bắt rắn vậy.
Này các vị! Giáo lý là phương tiện chỉ bày chân lý, đừng chấp
phương tiện là chân lý. Ngón tay chỉ mặt trăng không phải là mặt trăng. Không
có ngón tay ấy thì quý vị không biết hướng của mặt trăng, nhưng nếu quý vị nhận
lầm ngón tay là mặt trăng, thì vĩnh viễn quý vị không thấy được mặt trăng.
Giáo lý là chiếc bè đưa người sang sông. Chiếc bè rất cần thiết,
nhưng chiếc bè không phải là bờ bên kia. Một người thông minh khi sang tới bờ
bên kia rồi không bao giờ dại dột đội chiếc bè lên đầu mà đi. Này quý vị! Giáo
pháp tôi dạy là chiếc bè đưa quý vị vượt qua bờ sinh tử. Quý vị phải sử dụng
chiếc bè để qua bờ sinh tử mà không nên nắm giữ chiếc bè. Quý vị cần hiểu rõ ví
dụ này để đừng bị kẹt vào giáo pháp, để có khả năng buông bỏ được giáo pháp.
Này quý vị! Giáo pháp còn cần được buông, huống hồ là giáo pháp hiểu sai. Giáo
pháp hiểu sai không phải là giáo pháp.
Này quý vị, tất cả những giáo pháp mà quý vị đã học như Tứ diệu
đế, Bát chánh đạo, Tứ niệm xứ, Thất giác chi, vô thường, vô ngã, khổ, không, vô
tướng, vô tác… tất cả những giáo pháp quý vị phải học hỏi và thực tập một cách
thông minh và khôn khéo. Hãy sử dụng những giáo pháp ấy để đi tới giải thoát,
nhưng đừng bị kẹt vào những giáo pháp ấy.
Trung tâm tu học của ni chúng tại Savatthi đã có đến năm trăm
vị nữ khất sĩ. Trung tâm này thường thỉnh Bụt và các vị cao đức từ Jetavana tới
giảng dạy. Đại đức Ananda được Bụt giao cho trách nhiệm công cử các vị giảng sư
cho ni chúng. Một hôm đại đức đề cử đại đức Bhanda. Đại đức Bhanda là người có
thật tu, có chứng đắc, nhưng đại đức không rành về chuyện diễn giảng, tuy nhiên
vì đã được chỉ định, đại đức phải vâng lời. Ngày hôm sau, sau khi đi khất thực,
đại đức ghé vào một cụm rừng để thọ trai. Thọ trai xong, đại đức đi về phía nữ
tu viện. Đại đức được các ni sư đón tiếp niềm nở. Ni sư Gotami thỉnh đại đức
lên pháp tọa.
Lên pháp tọa, đại đức Bhanda chỉ đọc vỏn vẹn một bài kệ:
An trú trong tĩnh mặc
Thấy Pháp, trở về nguồn
Không hận thù bạo động
Niềm an lạc trào tuôn
Điều phục được kiêu mạn
Sống an hòa chân thật
Vượt ra ngoài ái nhiễm
Là niềm vui lớn nhất.
Đọc xong bài kệ, đại đức im lặng đi vào đại định. Bài thuyết
pháp của đại đức Bhanda chỉ có mấy chục từ nhưng đạo phong của đại đức đã làm
cho các ni sư hoan hỷ. Một số các vị ni sư còn trẻ thấy bài thuyết pháp ngắn
quá, liền bạch với ni sư Gotami xin đại đức nói thêm. Ni sư Gotami chìu họ, tiến
lên làm lễ đại đức Bhanda và chuyển lời thỉnh cầu của các ni sư trẻ. Nhưng đại
đức chỉ lập lại một lần nữa bài kệ trên rồi bước xuống pháp tọa.
Câu chuyện này mấy hôm sau được trình lên Bụt. Có vị đề nghị
là nếu cần cử vị giảng sư cho ni chúng thì nên cử những vị có biện tài nhiều
hơn đại đức Bhanda. Bụt dạy: Thực chứng là điều căn bản nhất. Vị giảng sư có thể
ít dạy bằng lời nhưng dạy nhiều bằng đạo phong của mình, và người căn dặn là vị
giảng sư cho ni chúng phải được công cử bởi đại chúng.
Một buổi trưa đi khất thực về, Bụt không thấy Ananda đâu cả.
Người hỏi đại đức Rahula xem thầy có biết thầy Ananda ở đâu không. Rahula trả lời
là không biết. Một vị khất sĩ cho biết là thầy thấy thầy Ananda đi khất thực ở
một xóm nghèo trong giới những người hạ tiện không giai cấp. Thầy lại nói lâu
nay thầy vẫn thấy đại đức Ananda lui tới xóm ấy để khất thực. Nghe nói thế, Bụt
nhờ vị khất sĩ này đi tìm thầy Ananda.
Vị đại đức đi hỏi thăm và tìm được thầy Ananda về. Đại đức
cũng đem về theo những vị thí chủ của thầy Ananda. Đó là cô Prakriti và bà mẹ của
cô. Thầy Ananda đã được mời lại thọ trai tại nhà này, và hai mẹ con đã tìm cách
lưu thầy ở lại. Bà mẹ của Prakriti đã cho thầy uống một thứ nước lá cây lạ khiến
đầu óc thầy choáng váng, tay chân thầy như bủn rủn và thầy không còn đủ sức đứng
dậy ra về nữa.
Lúc ấy Bụt đang nói pháp thoại cho các vị khất sĩ. Đại đức
Ananda thuật lại cho Bụt nghe là cô Prakriti đã đem lòng thương đại đức, và đại
đức đã tìm mọi cách giảng giải để cô từ bỏ mối tình tuyệt vọng đó đi, nhưng đại
đức chưa thành công. Đại đức cầu xin Bụt giúp đỡ đại đức.
Theo thầy Ananda kể thì một hôm trên đường đi khất thực về, cảm
thấy khát nước, thầy đã ghé vào một cái giếng trong xóm để giải khát. Hôm ấy chỉ
có một mình cô Prakriti đang múc nước ngoài giếng. Prakriti tuy là một cô gái
thuộc dòng hạ tiện, nhưng nhan sắc rất mặn mà. Thầy Ananda ngỏ ý xin cô nước uống.
Cô không dám đưa nước cho thầy, nói rằng cô thuộc về ngoại cấp, không có quyền
cúng dường nước cho thầy, sợ làm ô uế thầy. Ananda bảo:
– Tôi đâu cần xin địa vị hay giai cấp trong xã hội. Tôi chỉ cần
xin nước uống thôi. Cô cứ cho tôi uống nước đi, đừng sợ.
Prakriti liền đưa nước cho thầy Ananda uống. Cô chưa thấy một
người đàn ông nào đẹp trai, hiền hậu và ăn nói dịu dàng như thầy. Từ giờ phút
đó cô đem lòng thương thầy. Tối đến cô không ngủ được, cứ nằm nghĩ đến thầy. Cô
thường ra giếng nước ngồi đợi hàng giờ, mong mỏi được gặp thầy cho đỡ bớt nỗi
nhớ niềm thương.
Prakriti đã từng bàn với mẹ mời thầy Ananda về nhà thọ trai mấy
lần. Thầy đã nhận lời tới thọ trai tại đây hai lần, nhưng sau đó thấy được niềm
đam mê của cô nên thầy đã tránh và đã từ chối. Cô Prakriti đau khổ vì tình, người
cô càng ngày càng ốm xanh đi. Bà mẹ hỏi mãi, cô mới thú thật là cô yêu thầy
Ananda và muốn thầy Ananda ra đời để cưới cô. Bà mẹ la cô, nói đó chỉ là cuồng
vọng, nhưng cô nhất quyết nói rằng nếu không lấy được thầy Ananda thì cô sẽ chết.
Cuối cùng bà mẹ của cô, vốn thuộc về dòng Matanga có biết ít
nhiều về bùa chú và ma thuật, đã tìm cách cho thầy uống nước một thứ lá lạ để
cho thầy mất minh mẫn mà đáp lại mối tình nồng nhiệt của con gái mình.
Sáng hôm nay bà đã đón đường thầy, và cầu khẩn thầy ghé nhà
thọ trai một lần chót. Thầy đinh ninh hôm nay sẽ có cơ hội giảng rõ cho hai mẹ
con về đạo lý để họ buông bỏ thầy, nhưng chưa kịp làm việc ấy thì thầy đã uống
nhằm thứ nước trà quái đản kia. Uống xong thầy biết ngay là mình cần phải ngồi
lại để thực hành phép quán niệm hơi thở. Thầy ngồi yên trong tư thế kiết già
như thế rất lâu, dùng khí công để giải tỏa chất ma túy cho đến khi được Bụt
phái người đến triệu về.
Bụt gọi Prakriti tới gần. Người hỏi, giọng rất hiền lành:
– Con thương thầy Ananda lắm phải không?
Prakriti bạch:
– Con thương thầy Ananda lắm.
– Con thương cái gì nơi thầy Ananda? Con thương hai mắt, cái
mũi hay là cái miệng của thầy?
– Con thương hết những gì nơi thầy Ananda. Mắt con cũng
thương, mũi con cũng thương, miệng con cũng thương, giọng nói con cũng thương,
dáng đi con cũng thương. Bạch sa môn, con thương hết tất cả những gì nơi thầy ấy.
– Ngoài hai con mắt, cái mũi, cái miệng, giọng nói, dáng đi
và cái nhìn, thầy Ananda có nhiều cái đẹp khác mà ta nghĩ là con chưa biết và
con chưa thương.
– Bạch sa môn, ví dụ như cái gì?
– Ví dụ như lòng thương của thầy Ananda, con có biết thầy
Ananda thương gì không?
– Con không biết. Con chỉ biết là thầy Ananda không thương
con.
– Con lầm rồi. Thầy Ananda có thương con, nhưng không thương
theo kiểu con muốn thầy Ananda thương. Con biết không, thầy Ananda thương cuộc
sống giải thoát, tự do và an lạc. Do sự giải thoát và tự do mà thầy Ananda thường
mỉm cười và thầy thương được mọi người và mọi loài, và thầy muốn đem đạo lý giải
thoát để dạy cho mọi người, để mọi người có thể có tự do và an lạc như thầy. Thầy
Ananda thương lý tưởng giải thoát của thầy, thầy ấy cũng thương mọi người và mọi
loài, vì tình thương ấy đi đôi với giáo pháp giác ngộ và giải thoát cho nên thầy
Ananda tuy thương mà không bị sầu khổ và thất vọng như con thương. Nếu con thật
sự thương thầy Ananda, thì con cũng thương cái tình thương ấy của thầy, để cho
thầy có thể tiếp tục sống đời sống phạm hạnh giải thoát và tiếp tục soi sáng được
cho mọi người. Nếu con biết thương như thế thì con đâu có bị sầu khổ và thất vọng.
Sở dĩ con thất vọng và sầu khổ vì con chỉ muốn chiếm thầy Ananda cho riêng một
mình con. Tình thương ấy ích kỷ. Con phải học thương như thầy Ananda thương mới
được.
Prakriti ngước lên nhìn Bụt:
– Bạch sa môn, con phải học thương như thế nào?
– Thương như thế nào để con có hạnh phúc mà thầy Ananda cũng
có hạnh phúc. Thầy Ananda như một cơn gió mát. Nếu con cố ý nhốt cơn gió mát ấy
lại trong cái ngục tù của tình thương nhỏ bé thì cơn gió mát ấy sẽ chết và
không ai được hưởng sự mát mẻ của nó, trong đó có cả con. Vậy con thương một ngọn
gió mát như thế nào thì con cũng thương thầy Ananda như thế đó. Prakriti, nếu
con biết thương thì chính con, con cũng có thể trở thành một cơn gió mát, làm dịu
đi nỗi nóng bức của bao nhiêu người.
– Bạch sa môn, xin người chỉ dạy cho con.
– Con có thể làm như đại đức Ananda, con có thể sống cuộc sống
giải thoát an lạc như thầy và con cũng có thể đem niềm vui tới cho mọi người
như thầy. Con có thể xuất gia tu học như thầy Ananda.
– Thật như thế hả, bạch sa môn? Con có thể đi xuất gia hả?
Con là người hạ tiện, không có giai cấp…
– Điều đó, ở trong giáo đoàn khất sĩ không có ai nghĩ tới cả.
Trong giáo đoàn ta, có những vị khất sĩ xuất thân từ giới ngoại cấp. Đại đức
Sunita mà quốc vương Pasenadi rất trọng vọng đó là một người xuất thân từ giới
ngoại cấp. Nếu con xuất gia tu học thì con sẽ là vị nữ khất sĩ đầu tiên xuất
thân từ giới ngoại cấp. Nếu con bằng lòng, ta sẽ nhờ ni sư Khema làm lễ thế
phát cho con.
Prakriti sung sướng lạy xuống. Cô cầu Bụt cho cô được xuất
gia tu học. Bụt phó thác Prakriti cho ni sư Khema, hôm ấy cũng có mặt trong buổi
pháp thoại.
Ni sư Khema đưa Prakriti đi rồi. Bụt nhìn Ananda rồi bảo đại
chúng:
– Các vị khất sĩ, giới thể của thầy Ananda còn nguyên vẹn,
nhưng tôi muốn các vị cẩn thận hơn trong lúc giao tiếp. Nếu chúng ta luôn an
trú trong chánh niệm thì chúng ta có thể thấy được rất sớm những gì đã và đang
xảy ra trong ta và chung quanh ta. Nếu thấy được sớm, ta sẽ sớm có những biện
pháp để đối trị và tiếp xử với hoàn cảnh. Trường hợp của Ananda chỉ là trường hợp
của định lực còn non yếu. Thực hiện chánh niệm trong từng giây phút của đời sống
hàng ngày đó là phương cách nuôi dưỡng định lực hay nhất. Một khi định lực đã vững
mạnh thì cái thấy của ta sẽ sáng và hành động của ta sẽ kịp thời. Định và tuệ
đi với nhau, định và tuệ bao hàm nhau, định và tuệ là một.
Các vị khất sĩ! Đối với giới phụ nữ, các vị nên tập quán sát
như sau. Với những người lớn tuổi, ta xem họ như mẹ, hoặc như chị của chính ta,
với những người nhỏ tuổi hơn, ta xem họ như em hoặc như con của chính ta. Những
vị khất sĩ còn nhỏ tuổi mới bước vào đường đạo nên cẩn thận hơn nữa trong lúc
tiếp xử với phụ nữ. Sự dịu dàng của người phụ nữ có thể đưa đến những trở ngại
của sự tu học. Hãy hạn chế sự tiếp xúc. Cần tiếp xúc mới tiếp xúc, khi tiếp xúc
chỉ nên trao đổi những lời thật sự cần thiết có liên hệ tới sự học hỏi và hành
trì giáo pháp.
Được Bụt chỉ dạy cặn kẽ, các thầy khất sĩ đều hoan hỷ phụng
hành.
Chương 58 - Con gái đắt giá hơn con trai
Một hôm nọ đi khất thực qua một xóm nghèo Bụt gặp một đám thiếu
nhi đang chơi giữa đường. Các bé đang xúm nhau xây một thành phố bằng đất và
cát. Chúng xây thành vua, kho lúa, nhà cửa và đào một con sông chảy qua thành
phố. Bọn nhỏ đông có đến mười lăm đứa.
Bụt và đoàn khất sĩ dừng lại. Một em bé, chừng như là đầu đàn
của bọn nhỏ, nói:
– Có Bụt và các vị khất sĩ đi ngang qua thành phố chúng ta.
Chúng ta phải cúng dường người và các vị đệ tử của người mới được.
Bọn trẻ nhao nhao hỏi:
– Chúng ta lấy gì mà cúng dường Bụt? Người lớn mới có thể
cúng dường chứ chúng ta là con nít mà cúng dường sao được?
Em bé kia trả lời:
– Tại sao chúng ta lại không có thể cúng dường? Này các bạn,
trong kho lẫm nội thành có bao nhiêu là thóc lúa. Chúng ta hãy lấy thóc lúa
trong kho ra mà cúng dường Bụt và tăng đoàn.
Bọn nhỏ reo hò vang dậy. Chúng moi bụi cát trong kho lúa của
chúng ra và đặt bụi cát đó trên một chiếc lá bàng. Em bé đầu đàn nâng chiếc lá
bàng có đựng bụi đất trên hai tay, quỳ xuống trước Bụt và dâng lên Bụt những đất
bụi ấy. Bọn trẻ đều bắt chước quỳ xuống, hướng về Bụt và tăng đoàn mà chắp tay.
Em bé đầu đàn nói:
– Dân chúng trong thành phố chúng con kính dâng lên Bụt và
tăng đoàn chút ít lúa gạo trong kho lẫm của chúng con. Xin Bụt và tăng đoàn nhận
cho.
Bụt mỉm cười. Người đưa tay xoa đầu em bé và nói:
– Cám ơn các con đã cúng dường lúa gạo cho Bụt và cho các thầy
khất sĩ. Các con dễ thương lắm.
Rồi người xoay lại nói với thầy Ananda:
– Ananda, thầy hãy nhận lấy bụi đất trong chiếc lá bàng này rồi
đem về hòa với nước và trét lên vách đất của tịnh thất ta.
Thầy Ananda lĩnh mệnh, thu nhận vật cúng dường của các bé. Bọn
trẻ mời Bụt ngồi trên một tảng dá dưới một cội cây đa, rồi tất cả kéo tới quây
quần xung quanh Bụt. Ananda và các vị khất sĩ cũng xúm lại gần.
Bụt kể cho bọn trẻ nghe chuyện tiền thân Visvantara. Kiếp
xưa, thái tử Visvantara là một người giàu lòng thương, luôn luôn bố thí tất cả
những gì mình có cho những người nghèo khổ túng thiếu, không tiếc bất cứ một vật
gì. Thái tử có một người vợ tên là Madri rất hiền thục và đảm đang. Nàng biết
niềm vui của chàng là cứu giúp kẻ thiếu thốn và vì vậy nàng không bao giờ tỏ vẻ
nuối tiếc một thứ gì mà chồng đem cho. Hai người sinh được hai đứa con, một đứa
trai tên là Jalin và một đứa gái tên là Krishnajina. Vào những năm đói kém
hoàng tử được phép vua cha cho lấy lương thực và vải vóc trong kho để phát tặng
cho những người đói rét. Các kho lẫm vì thế cạn dần. Một vài vị quan trong triều
thấy thế tìm cách chận thái tử lại. Một hôm họ tâu vua là thái tử làm sạt nghiệp
quốc gia và nhân dịp thái tử lỡ cho mất của triều đình một con voi quý, họ đề
nghị đày thái tử tới một nơi hẻo lánh trên núi Jayatura để thái tử học sống cuộc
đời nghèo khổ và đạm bạc. Bị áp lực của các quan, vua cha nghe lời. Vợ chồng và
hai đứa con vì vậy phải lên đường đi đày biệt xứ.
Giữa đường có người nghèo ghé tới xin bố thí. Thái tử cởi chiếc
áo quý đang mặc mà cho. Khi có những người nghèo khác tới xin, vợ thái tử cởi
chiếc áo đẹp bên ngoài của nàng, và khi có những người nghèo khác tới nữa,
Jalin và Krishnajina lại cởi áo và những đồ trang sức để tặng. Đi mới được hai
phần ba đường mà thái tử và gia đình đã cho hết tất cả những gì có giá có thể
bán được để mua gạo. Cuối cùng, họ phải cho luôn chiếc xe và hai con ngựa. Thái
tử ẵm Jalin, Madri ẵm Krishnajina; họ đành lòng đi bộ tới xứ Jayatura để sống
thời gian lưu đày của mình. Không còn của cải gì nhưng họ vẫn vui, vẫn hát, vì
lòng họ thanh thản. Họ biết họ đã cho người khác những niềm vui.
Thái tử và vợ đi mãi đến khi chân họ rướm máu và chai đi thì
mới tới nơi. Đó là một ngọn núi và những khu rừng rậm. Leo lên núi họ tìm thấy
một túp lều bỏ không. Túp lều mà chắc ngày xưa đã có một vị đạo sĩ cư trú để tu
hành. Hai vợ chồng sửa sang quét dọn túp lều, bứt tranh bứt lá lót giường cho bốn
người, và nghĩ đến việc đi tìm thực phẩm. Hai người đi tìm các loại trái cây và
các loại rau lá mọc hoang trong rừng có thể ăn được. Hai đứa bé cũng được dạy dỗ
cách đi tìm trái cây, hái rau, giặt áo và phơi áo bên bờ suối, gieo hạt và làm
vườn. Ngoài ra các bé còn được học chữ nữa. Họ dùng lá kè và viết chữ bằng một
cái gai nhọn.
Họ sống đơn giản như thế trên núi được ba năm, và cuộc sống rất
vui tươi, nhưng có một hôm nọ, trong khi Visvantara và Madri đang đi hái trái
cây trong rừng thì ở nhà có người tới bắt cóc mất hai đứa trẻ. Khi về nhà không
thấy hai con, hai vợ chồng hoảng hốt đi tìm. Họ đi khắp núi rừng và khi không
thấy con, họ tìm về phố chợ. Hai tháng trôi qua nhưng họ vẫn không tìm được
con. Họ trở về túp lều một lần nữa, hy vọng các con đi đâu lạc đã trở về. Về tới
nhà, họ gặp sứ giả của vua cha. Vua cha triệu hai vợ chồng về. Sứ giả cho biết
là Jalin và Krishnajina đã về tới trong hoàng cung và đang sống với ông nội.
Hai người mừng rỡ hỏi thăm. Sứ giả nói:
– Một hôm nọ có người đem bán hai đứa bé ngoài chợ kinh đô.
Có một bà mệnh phụ đi chợ nhận ra hai đứa này là con của thái tử Visvantara. Bà
liền về báo cho chồng biết. Vị quan này tức tốc ra chợ. Ông bảo người kia rằng
nếu đem hai đứa trẻ vào cung bán thì sẽ được giá rất cao, và ông tiến dẫn người
bán vào cung.
Thấy hai đứa nhỏ, dù áo quần tả tơi và mặt mày lem luốc, vua
cha cũng giật mình nhận ra cháu mình. Vua bàng hoàng. Lòng nhớ thương con cháu
sống dậy mãnh liệt nơi vua. Vua truyền:
– Nhà ngươi tìm được hai đứa bé này ở đâu thế? Bán mỗi đứa
bao nhiêu?
Người kia chưa kịp tâu bày gì thì vị đại thần đã lên tiếng:
– Tâu hoàng thượng, đứa bé gái bán giá một ngàn lượng vàng và
một ngàn con bò, còn đứa bé trai bán giá một trăm lượng vàng và một trăm con
bò.
Mọi người, kể cả hai đứa trẻ, đều ngạc nhiên. Vua hỏi:
– Tại sao con gái lại bán đắt hơn con trai?
Vị đại thần nói:
– Vì hoàng thượng quý con gái hơn con trai. Các công chúa
không bao giờ bị hoàng thượng trừng phạt và la rầy, cả đến những cung nhân
trong cung cấm cũng được đối đãi thật tử tế. Hoàng thượng chỉ có một đứa con
trai duy nhất mà hoàng thượng lại đày lên núi xa ở với cọp beo, phải đi hái
trái rừng để ăn và để nuôi con. Như vậy con gái không đắt hơn con trai là gì?
Vua rơi nước mắt:
– Thôi khanh đừng nói nữa, trẫm đã hiểu rõ rồi.
Vua hỏi người kia gặp hai đứa trẻ ở đâu. Người kia trả lời là
đã mua lại hai đứa bé từ một miền núi xa xăm. Vua ban tiền bạc cho người ấy và
ra lệnh cho người này cộng tác với thám tử của vua truy nã người đã bắt cóc trẻ
em đem đi bán.
Rồi vua gọi hai cháu lên và ôm vào lòng. Vua hỏi thăm về cuộc
sống trên núi. Sau đó, vua lập tức ban chiếu chỉ triệu vợ chồng thái tử về.
Từ đó về sau, vua rất cưng chiều thái tử và còn làm hết sức
mình để giúp thái tử có thêm lúa gạo và vải vóc để chia tặng cho những người
nghèo khổ.
Bọn trẻ em nghe Bụt kể chuyện một cách say mê. Bụt nói:
– Thái tử Visvantara tìm thấy niềm vui khi chia xẻ những gì
mình có với những kẻ khác. Này các con, hồi nãy các con chỉ cho ta một ít bụi đất
trong kho lẫm của các con mà ta cũng đã rất vui rồi. Các con nên biết: mỗi ngày
ta có thể đem lại niềm vui cho kẻ khác bằng cách tặng cho kẻ ấy một món quà.
Món quà ấy không cần phải mua. Khi các con hái một hông hoa bên bờ ruộng đem về
tặng cho cha mẹ là các con đã cho cha mẹ các con một niềm vui rồi. Nói một câu
hiếu thuận hoặc dễ thương cũng là một món quà quý giá. Ôm lấy cha mẹ mà nói rằng
mình rất thương quý cha mẹ đã làm lụng khó nhọc để nuôi mình, đó cũng là một tặng
phẩm rất quý. Một cái nhìn, một sự săn sóc nhỏ nhặt cũng đưa tới những niềm
vui. Đối với cô bác và bạn bè, các con cũng có thể làm cho họ vui bằng những tặng
phẩm như thế. Bây giờ ta với các thầy phải từ giã các con để tiếp tục đi khất
thực, nhưng ta sẽ nhớ mãi những bụi đất mà các con đã tặng cho ta trong ngày
hôm nay.
Bọn trẻ em rất sung sướng được gặp Bụt ngày hôm ấy. Chúng bàn
nhau sẽ rủ các bạn tới tu viện Jetavana để thỉnh thoảng được nghe Bụt và các thầy
kể chuyện.
Mùa nắng năm sau, Bụt về Rajagaha. Thăm hỏi và dạy dỗ đại
chúng ở đây xong, người lên núi Linh Thứu. Y sĩ Jivaka được tin Bụt về Linh Thứu
liền lên núi thăm người. Rồi Jivaka thỉnh Bụt về vườn xoài của ông dăm bữa. Bụt
nhận lời. Thầy Ananda cũng đi theo Bụt.
Y sĩ có một vườn xoài rất mát mẻ và xum xuê. Xoài ở đây đã
lên tới năm thứ tám. Jivaka đã dựng một tịnh thất nhỏ để Bụt ở. Hàng ngày ông
đem thức ăn chay do ông tự tay nấu để cúng dường Bụt. Ông xin Bụt nghỉ ngơi ít
hôm đừng đi khất thực để có dịp bồi bổ lại sức khỏe. Ông lại đem thuốc bổ đến để
cúng dường Bụt. Thuốc bổ này gồm toàn rễ cây, lá cây, và trái cây. Một hôm ngồi
với Bụt trong vườn xoài, Jivaka hỏi:
– Lạy Bụt, có người đồn đãi rằng các vị khất sĩ được phép Bụt
cho ăn mặn. Họ còn nói: Sa môn Gotama cho phép giết thú vật, để làm thức ăn
cúng dường ông ta và các vị khất sĩ học trò của ông. Có người than thở: Vì sa
môn Gotama mà dân chúng phải sát hại sinh vật để làm thức ăn cho ông và cho đệ
tử ông. Bạch Thế Tôn, con thấy những lời đồn đãi này không đúng, nhưng con muốn
nghe Thế Tôn trực tiếp nói về điều này.
Bụt nói:
– Này Jivaka, những ai nói rằng thầy cho phép giết sinh vật để
làm thực phẩm cho thầy và cho các vị khất sĩ, những người ấy đã không nói đúng
sự thật. Jivaka, thầy đã từng nói rõ nhiều lần: Nếu một vị khất sĩ thấy người
ta giết thú vật để làm thực phẩm cúng dường mình, vị khất sĩ ấy phải từ chối
không được ăn. Nếu không thấy mà chỉ nghe nói rằng người ta đã vì mình mà giết
thú vật thì vị khất sĩ cũng phải từ chối không được tiếp nhận thực phẩm, và hơn
thế nữa, dù không thấy không nghe nhưng một khi đã nghi rằng người ta có vì
mình mà giết thú vật thì vị khất sĩ cũng phải từ chối không được ăn.
Jivaka, theo phép khất thực, người ta cho thức ăn gì thì phải
nhận thức ăn ấy, nhưng trong trường hợp đã thấy đã nghe và đã nghi rằng người
ta đã vì mình mà sát hại thú vật thì vị khất sĩ có quyền từ chối và phải từ chối.
Như thế mới nuôi dưỡng và bảo vệ được lòng từ bi của mình. Jivaka, những thí chủ
nào biết Bụt, biết Pháp và biết Tăng thì mỗi khi sửa soạn vật thực cúng dường họ
đều dùng những thức ăn chay tịnh. Trong trường hợp không có sẵn các món chay họ
mới chia xẻ cho các thầy khất sĩ món mặn họ sẵn có mà thôi. Những người lần đầu
tiên cúng dường các vị khất sĩ cũng không biết rằng các thầy ưa thức ăn chay
hơn thức ăn mặn cho nên cũng chỉ cúng dường và san sẻ những thức ăn họ sẵn có.
Trong trường hợp này, các vị khất sĩ có thể thọ dụng thức ăn mặn, để khỏi phụ
lòng thí chủ và cũng để thí chủ có dịp kết duyên từ từ với đạo giải thoát.
Jivaka, một mai kia, khi tất cả thiên hạ đều biết rằng các vị
khất sĩ không ăn thịt thú vật bị giết vì họ thì thiên hạ sẽ không cúng dường thịt
cho các vị khất sĩ nữa. Lúc ấy các vị khất sĩ sẽ ăn chay hoàn toàn.
Jivaka biện bạch:
– Con thấy ăn chay làm cho cơ thể nhẹ nhàng và ít bệnh hơn ăn
mặn. Thế Tôn, từ mười năm nay, con đã ăn chay. Con nghĩ rằng ăn chay vừa được
khỏe mạnh vừa nuôi dưỡng được lòng từ bi. Hôm nay con rất vui mừng được thầy chỉ
dạy rõ ràng về việc ấy.
Jivaka cũng tỏ ý khen ngợi Bụt về pháp chế không ăn sau giờ
Ngọ và không ăn những thức ăn cất giữ từ ngày hôm qua, trừ trong mùa lạnh. Ông
thấy những điều này rất hợp với phép vệ sinh. Không ăn buổi chiều và buổi đêm
thì vừa cảm thấy nhẹ nhàng vừa có thêm thì giờ tu tập. Thức ăn để lại ngày hôm
sau có thể bị hư và làm độc hại cơ thể, nếu trời nóng quá.
Bụt khen ngợi Jivaka và ngỏ lời mời ông một hôm nào về tu viện
nói cho các vị khất sĩ nghe về các phép vệ sinh của đời sống hàng ngày.
Chương 59 - Nhảy cao mấy cũng rơi lại vào trong lưới
Vườn xoài của y sĩ Jivaka rất rộng rãi và thanh tịnh. Rải rác
trong vườn có những tịnh thất nhỏ của các vị nữ khất sĩ.
Buổi chiều ấy, có một vị nữ khất sĩ trẻ tên là Subha đến xin
tham vấn Bụt. Hồi sáng cô đã bị một thanh niên đón đường và suýt bị thanh niên ấy
xâm phạm đến tiết hạnh. Ni cô xin Bụt đặt ra một pháp chế để bảo đảm thêm sự an
ninh cho giới nữ khất sĩ. Bụt hỏi đầu đuôi câu chuyện. Ni cô thuật lại với tất
cả chi tiết.
Hôm qua đi khất thực về ngang một khu hẻo lánh, Subha bị một
thanh niên đón đường. Biết là mình đang lâm vào tình trạng khó khăn, ni cô theo
dõi hơi thở để duy trì sự bình tĩnh. Nhìn thẳng vào người thanh niên, cô hỏi:
– Thưa ông, tôi đâu có làm điều gì lầm lỗi mà ông lại chặn đường
tôi? Tôi chỉ là một người xuất gia tu hành theo giáo pháp của Bụt. Tại sao ông
lại ngăn không cho tôi đi về tu viện?
Người kia nói:
– Cô còn trẻ và đẹp lắm. Tại sao cô lại đi hủy hoại đời mình
bằng cách cạo đầu, mặc áo vàng và sống như những người tu khổ hạnh? Này ni cô,
đáng lý cái thân hình xinh đẹp của cô phải được khoác lên một chiếc sari lụa
mua từ Kasi. Tôi chưa thấy ai xinh đẹp bằng cô. Tôi muốn cho cô nếm mùi dục lạc
của thân xác. Cô đi với tôi đi.
Subha vẫn bình tĩnh:
– Ông đừng có nói bậy. Người tu hành đã quyết tìm niềm vui
nơi cuộc sống giải thoát và giác ngộ. Năm thứ dục lạc chỉ đưa tới tội lỗi và khổ
đau. Ông hãy tránh đường cho tôi đi. Tôi sẽ rất cảm ơn sự hiểu biết của ông.
Người thanh niên kia nói:
– Cô có hai con mắt rất đẹp. Tôi chưa thấy người đàn bà nào
có đôi mắt đẹp như cô. Tôi dại gì mà để cô đi. Thôi cô hãy đi với tôi.
Và người thanh niên đưa tay ra định nắm lấy cô. Subha lùi lại
một bước. Cô nói:
– Này ông kia, ông đừng chạm tới tôi. Ông đừng chạm tới một
người tu phạm hạnh. Tôi đã chán ngấy đời sống dục vọng và hận thù cho nên tôi
muốn đi tu. Ông nói tôi có hai con mắt đẹp. Thôi để tôi móc hai con mắt của tôi
đưa cho ông. Thà rằng tôi mù còn hơn là để ông chạm tới.
Subha nói với giọng cương quyết. Người thanh niên kia nao
núng. Anh ta biết vị ni cô này có thể nói và làm ngay. Anh ta lùi lại một bước.
Subha tấn công thêm:
– Ông đừng vì dục vọng mà tạo nên tội ác. Ông không biết đức
vua Bimbisara đã ra lệnh trừng phạt nặng nề những kẻ phạm pháp hay sao. Chính
tôi, tôi đã chứng kiến những tội phạm bị hành xử. Nếu ông không tỉnh táo, nếu
ông xâm phạm tới phạm hạnh và sanh mạng của tôi, ông cũng sẽ bị bắt và hành xử
như những tội phạm ấy.
Người thanh niên tỉnh ngộ. Anh ta hình dung ra được cảnh khổ
do dục vọng điên cuồng gây ra. Anh ta tránh sang một bên đường cho Subha đi. Rồi
anh nói vọng theo:
– Tôi xin lỗi sư cô. Tôi chúc sư cô tu hành cho tới khi thành
đạt.
Subha đi thẳng, không ngoái nhìn trở lại, lòng dặn lòng sẽ
trình lên Bụt trường hợp của mình.
Sau khi nghe kể chuyện, Bụt khen ngợi niềm quả cảm và sự
thông minh của nữ khất sĩ Subha. Người nói:
– Người con gái đi một mình ở nơi vắng vẻ thì nguy hiểm lắm.
Đó là một trong những lý do tại sao ngày xưa tôi đã ngần ngại chưa muốn cho giới
nữ xuất gia. Này Subha! Từ hôm nay trở đi, đi đâu vị nữ khất sĩ cũng không được
đi một mình. Lội qua một dòng sông, đi vào thôn xóm, băng qua một cánh đồng hay
một khu rừng, vị nữ khất sĩ không được đi một mình. Ngủ cũng vậy. Trong tu viện,
trong tịnh xá, trong thôn lạc hay dưới gốc cây, người nữ khất sĩ không được ngủ
một mình. Phải ngủ với một vị nữ khất sĩ khác để có thể bảo vệ cho nhau.
Rồi Bụt quay lại nói với thầy Ananda:
– Ananda, thầy nên ghi nhớ điều này và yêu cầu các vị lãnh đạo
ni chúng đưa điều này vào giới luật của các vị nữ khất sĩ.
Rời vườn xoài của y sĩ Jivaka, Bụt lên đường đi Nalanda. Cùng
đi với người, có rất đông các vị khất sĩ.
Bụt và các vị khất sĩ đi lặng lẽ và trang nghiêm; ai nấy đều
theo dõi hơi thở và nuôi dưỡng chánh niệm.
Phía sau lưng các vị, có hai thầy trò vị du sĩ Suppiyo cùng
đi. Họ nói chuyện vang lên suốt cả dọc đường. Đệ tử của du sĩ Suppiyo là thanh
niên Bramadatta. Đề tài của câu chuyện là Bụt và giáo pháp của người. Du sĩ
Suppiyo cố ý nói lớn để những vị khất sĩ có thể nghe. Tất cả những lời ông nói
đều nhắm tới sự kích bác Bụt và giáo pháp của người.
Trong khi đó thì lạ thay, thanh niên Bramadatta lại hết lòng
bênh vực cho Bụt và giáo pháp của người. Bramadatta dùng những lý luận và hình ảnh
rất khéo léo để tán dương Bụt và giáo đoàn của người. Khéo léo đến nỗi tất cả
các vị khất sĩ đi trước đó đều có cảm tình với chàng.
Chiều hôm ấy Bụt ghé vào nghỉ đêm ở Ambalatthika.
Ambalatthika là một khu vườn rừng rất sum suê và tốt đẹp, chỗ nghỉ mát của gia
đình hoàng gia. Vua Bimbisara đã ngỏ ý là các vị tu sĩ của bất cứ giáo phái nào
nếu cần sử dụng Ambalatthika thì đều có quyền sử dụng để nghỉ ngơi. Đêm đó hai
thầy trò du sĩ Suppiyo cũng nghỉ đêm tại đấy.
Sáng hôm sau các thầy khất sĩ bàn tán với nhau về thái độ hôm
qua của hai thầy trò vị du sĩ. Bụt nghe được những câu bàn tán ấy. Người bảo:
– Này các thầy, khi nghe người ta công kích tôi, phỉ báng
tôi, công kích và phỉ báng giáo pháp và giáo đoàn khất sĩ, các thầy đừng buồn,
các thầy đừng sinh lòng công phẫn, tức tối hay phiền muộn. Điều ấy có hại cho
các thầy. Khi nghe người ta khen ngợi tôi, khen ngợi giáo pháp và giáo đoàn khất
sĩ, các thầy cũng không nên mừng rỡ, thích thú và mãn ý. Điều này cũng có hại
cho các thầy. Thái độ đứng đắn là xét xem những điều công kích ấy đúng hay sai,
đúng ở chỗ nào, sai ở chỗ nào. Có như thế quý vị mới có dịp học hỏi để đạt được
nhiều tiến bộ.
Này các vị khất sĩ! Phần lớn những người khen ngợi Bụt, Pháp
và Tăng là những người chỉ thấy được những cái đẹp cái hay nhỏ bé của giáo pháp
và giáo đoàn thôi. Như là nếp sống phạm hạnh, công phu trì giới, đời sống đạm bạc,
thái độ thanh thản của chúng ta. Số người thấy được cái cao siêu mầu nhiệm nhất
của giáo pháp mà đem lời ca ngợi thì ít lắm.
Tôi muốn nói đến trí tuệ thực chứng của đạo giác ngộ. Trí tuệ
này siêu việt, mỹ diệu, mầu nhiệm, vượt khỏi tầm tư duy và ngôn ngữ của người
thường. Thấy được, hiểu được và chứng được trí tuệ ấy mới có thể biết và thấy
được giá trị thật của đạo giải thoát.
Này các vị khất sĩ! Trong thế gian có bao nhiêu chủ thuyết và
bao nhiêu luận chấp. Người ta không ngớt công kích và cãi vã nhau vì sự khác biệt
của những chủ thuyết và luận chấp ấy. Các vị khất sĩ, như tôi đã thấy và đã
nghe, đã có ít nhất là sáu mươi hai luận chấp làm căn bản cho hàng ngàn chủ
thuyết hiện giờ có mặt trong các giới tư tưởng và tôn giáo. Các vị nên biết rằng
trước cái thấy của đạo giác ngộ giải thoát, tất cả sáu mươi hai luận chấp ấy đều
có những chỗ kẹt, đều có những chỗ sai lầm.
Hôm ấy Bụt nói kinh Phạm Võng. Người phân tích nội dung của cả
sáu mươi hai luận chấp và vạch ra những sai lầm của các luận chấp này. Có mười
tám luận chấp về quá khứ: bốn chủ trương thuyết thường trú, bốn chủ trương thuyết
vừa thường trú vừa vô thường, bốn chủ trương thuyết hữu biên và vô biên, bốn chủ
trương thuyết ngụy biện và hai chủ trương thuyết không có nhân quả. Có bốn mươi
bốn luận chấp về tương lai: mười sáu chủ trương là còn tri giác sau khi chết,
tám chủ trương là không còn tri giác sau khi chết, tám chủ trương là không phải
còn cũng không phải không còn tri giác sau khi chết, bảy chủ trương thuyết đoạn
diệt và năm chủ trương thuyết hiện tại là Niết bàn.
Trình bày xong những sai lầm của sáu mươi hai luận chấp, Bụt
nói:
– Một người đánh cá giỏi khi quăng lưới xuống hồ tóm được hết
tất cả tôm cá hồ vào trong cái màn lưới có mắt lưới sít sao, ông ta nhìn những
con tôm con cá đang cố nhảy lên cao để rồi lại rơi mình vào trong lưới, và nói:
“Dù các ngươi nhảy cao đến mấy các ngươi cũng vẫn còn nằm trong lưới của ta”.
Ông ta nói đúng. Hàng trăm hàng ngàn học thuyết đang hiện hành và tranh chấp
lăng xăng trong giới triết học và tôn giáo này đều nằm kẹt trong cái lưới của
sáu mươi hai luận chấp ấy, không thể nào vượt thoát ra nổi. Các vị khất sĩ! Đừng
đi vào trong cái lưới mê hồn ấy để mất hết thì giờ và cơ hội tu tập đạo giải
thoát. Đừng đi vào cái lưới của sự hý luận.
Này các vị khất sĩ! Tất cả những luận chấp kia đều phát sinh
do sự lừa gạt của tri giác và của cảm thọ. Vì không tu tập chánh niệm, vì không
quán chiếu nên người ta không biết được chân tướng của tri giác và cảm thọ, do
đó đã bị tri giác và cảm thọ lừa gạt. Nếu thấy được nguồn gốc và bản chất của
tri giác và cảm thọ, người ta sẽ thấy được tự tính vô thường và duyên sinh của
sự vật, người ta sẽ không bị vướng vào lưới tham ái, lo âu và sợ hãi, người ta
sẽ không bị vướng vào cái lưới của sáu mươi hai luận chấp.
Hôm ấy đại đức Ananda đã nỗ lực ghi nhớ hết những lời Bụt dạy.
Thầy đi bách bộ và thầm lặng trùng tuyên lại những lời Bụt nói. Rồi thầy nghĩ:
Kinh này quan trọng lắm. Ta sẽ đặt tên kinh này là Kinh Phạm Võng. Phạm Võng là
cái lưới vĩ đại thu tóm tất cả những chủ thuyết sai lạc trong cuộc đời.
Chương 60 - Ngày nào đầu tóc cũng ướt
Bụt từ giã vườn Ambalatthika. Người đi đến Nalanda. Sau khi
thăm viếng và giáo hóa tại đây, người đi về Ampa.
Ampa là thành phố lớn nhất của xứ Anga; xứ này nằm dưới quyền
bảo hộ của vua Bimbisara nước Magadha.
Dân cư ở đây đông đúc, ruộng đất ở đây phì nhiêu, cây cỏ ở
đây xanh tươi.
Bụt cư trú trong một khu rừng mát mẻ bên bờ hồ Gaggara. Trong
hồ, hoa sen nở thơm ngát.
Nghe Bụt tới, dân chúng lũ lượt đến thăm người. Có một người
trai trẻ dòng Bà la môn giàu có tên là Sonadanda, nổi tiếng thông minh xuất
chúng tại địa phương này, cũng có ý muốn đi viếng Bụt. Những người Bà la môn
khác cố ý ngăn giữ không cho ông ta đi, bảo rằng nếu Sonadanda tới thăm sa môn
Gotama thì gây uy tín cho vị sa môn này nhiều quá. Sonadanda mỉm cười trả lời rằng
Bụt là nhân vật lỗi lạc, trên đời chỉ có một, và nếu không đi thăm người thì thật
là bỏ phí cơ hội ngàn năm một thuở. “Ta phải đi để học hỏi chứ. Để biết ta hơn
sa môn Gotama ở những điểm nào và sa môn Gotama hơn ta ở những điểm nào”. Vừa
nói, Sonadanda vừa mỉm cười bí mật.
Nghe Sonadanda nói vậy hàng trăm người trí thức Bà la môn
khác cũng muốn xin đi theo. Người trí thức này, theo họ nghĩ, sẽ không làm mất
mặt giới Bà la môn trước đám quần chúng đông đảo đến viếng Bụt.
Sonadanda còn chưa biết mở đầu câu chuyện ra sao cho thông
minh, thì Bụt đã ân cần hỏi:
– Các vị học giả trong giới Bà la môn hãy cho chúng tôi biết
đâu là những điều kiện cần thiết để có thể thật sự là một người Bà la môn chân
chính. Quý vị nói đi và nếu cần thì nên viện dẫn kinh điển của quý vị.
Sonadanda rất hoan hỷ. Ông ta trả lời Bụt rằng một vị Bà la
môn đích thực phải có đủ năm điều kiện sau đây: thứ nhất là phải có dung sắc đẹp
đẽ, thứ hai là phải biết kỹ thuật xướng tụng và chú thuật, thứ ba là phải có
huyết thống thuần túy trong bảy đời, thứ tư là phải có đức hạnh, thứ năm là phải
có tuệ giác.
Bụt hỏi:
– Trong năm điều kiện ấy, điều kiện nào là căn bản? Còn điều
nào dù là không có thì người Bà la môn vẫn còn có thể đích thực là một người Bà
la môn?
Trả lời dần theo những câu hỏi của Bụt, Sonadanda đi đến kết
luận rằng hai điều kiện sau chót là hai điều kiện căn bản của một vị Bà la môn
đích thực. Sonadanda công nhận rằng các điều kiện dung sắc, kỹ thuật xướng tụng
chú thuật và huyết thống bảy đời không phải là những điều kiện căn bản. Không
có ba điều kiện ấy nhưng nếu có các điều kiện đức hạnh và tuệ giác thì người ta
vẫn có thể là một vị Bà la môn đích thực như thường.
Gần năm trăm vị Bà la môn có mặt đưa tay phản đối Sonadanda.
Họ kết tội Sonadanda đã bị Bụt dùng hý luận đưa tới chỗ chấp nhận lập trường của
Bụt và chối bỏ một điều kiện mà họ cho là căn bản là điều kiện huyết thống. Họ
đã đặt hết niềm tin nơi sự thông minh và tài mẫn tuệ của Sonadanda mà họ coi
như vị lãnh đạo tinh thần của họ. Nay Sonadanda công nhận lập trường của Bụt
thì họ mất mặt biết bao.
Bụt can thiệp:
– Này quý vị quan khách! Nếu quý vị có lòng tin nơi người
lãnh đạo của quý vị là Sonadanda, thì quý vị im lặng đi để tôi tiếp tục đối thoại
với ông ta, còn nếu quý vị không có lòng tin ở ông ta, thì quý vị xin ông ta im
lặng đi để tôi nói chuyện với quý vị.
Mọi người lặng thinh. Sonadanda nói:
– Xin sa môn Gotama yên lòng. Để tôi xin có đôi lời nói với
các bạn tôi.
Rồi Sonadanda quay lại với năm trăm vị Bà la môn. Ông ta chỉ
vào một thanh niên ngồi hàng đầu và nói:
– Các bạn có thấy cháu tôi, vị thanh niên Bà la môn tên là
Angaka đang ngồi kia không? Angaka là một người thanh niên tuấn tú, khôi ngô,
có phong thái trang nhã và thanh cao. Đứng về phương diện dung sắc, trong chúng
ta không ai so được với Angaka, trừ sa môn Gotama ra mà thôi. Angaka lại thông
hiểu ba bộ kinh Veda, thông hiểu văn phạm, ngữ pháp và kỹ thuật xướng tụng và
chú thuật; điều này ai cũng biết. Angaka cũng có huyết thống thanh tịnh, cho đến
bảy đời, kể cả về bên cha lẫn mẹ. Angaka có đủ ba điều kiện là dung sắc, kỹ thuật
xướng tụng chú thuật và huyết thống thanh tịnh. Nhưng giả sử Angaka sát sinh,
trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu, thì dung sắc ấy còn có giá trị gì? Kiến
thức Veda và chú thuật còn có giá trị gì? Thưa các bạn, hai điều kiện sau mới
là hai điều kiện căn bản của một người Bà la môn đích thực. Đó là giới hạnh và
tuệ giác. Đây là sự thực chung cho tất cả chúng ta chứ không phải là sự thực
riêng của sa môn Gotama.
Sonadanda nói đến đây thì tiếng hoan hô của quần chúng nổi
lên vang dậy. Đợi cho tiếng hoan hô chấm dứt, Bụt hỏi Sonadanda:
– Nhưng trong hai điều kiện căn bản kia còn lại là giới hạnh
và trí tuệ, ta có thể bỏ bớt một điều để giữ lại một điều hay không?
– Thưa sa môn Gotama, không thể được, nhờ giới hạnh tịnh
nghiêm mà tuệ giác phát triển, nhờ tuệ giác phát triển mà giới hạnh càng tịnh
nghiêm. Sa môn Gotama, cũng như lấy tay để rửa tay, lấy chân để kỳ cọ chân, hai
thứ giới hạnh và tuệ giác nâng đỡ và phát triển lẫn nhau; giới hạnh làm cho tuệ
giác thêm sáng và tuệ giác làm cho giới hạnh thêm thanh tịnh. Giới hạnh và tuệ
giác là hai cái quý nhất trên đời.
Bụt nói:
– Hay lắm, Sonadanda! Những điều ông nói đúng là sự thực. Giới
hạnh và tuệ giác là hai cái quý nhất trên đời. Ông hãy nói thêm đi. Làm thế nào
để phát triển giới hạnh và tuệ giác đến mức độ cao nhất?
Sonadanda chắp tay xá Bụt, mỉm cười:
– Bạch sa môn, xin người chỉ dạy cho. Chúng con chỉ biết
nguyên tắc thế thôi. Sa môn là người có thực tập và có chứng đắc. Xin người chỉ
bày cho chúng con rõ đâu là những phương pháp có thể giúp ta phát triển giới hạnh
và tuệ giác đến mức viên mãn.
Bụt bắt đầu dạy đạo giải thoát. Người nói đến nguyên tắc tam
học là giới định tuệ. Có giới thì có định, có định thì có tuệ, có tuệ thì giới
thể vững vàng. Giới thể càng vững thì định lực càng lớn, định lực càng lớn thì
tuệ giác càng sâu. Người nói đến phép quán duyên sinh để phá trừ những kiến chấp
về thường, về ngã, để cắt đứt những sợi dây tham ái, hờn giận, si mê, để đạt tới
giải thoát và an lạc.
Sonadanda say sưa nghe Bụt nói. Khi Bụt dứt lời, Sonadanda đứng
dậy chắp tay:
– Sa môn Gotama! Con xin cám ơn sa môn đã mở mắt cho con hôm
nay. Những lời của sa môn nói đã có hiệu lực đưa con ra khỏi vũng lầy tăm tối.
Con xin được quy y Bụt, quy y Pháp và quy y Tăng để làm một kẻ môn đệ của người.
Con xin kính thỉnh Bụt và giáo đoàn ngày mai tới nhà con thọ trai.
Cuộc đàm thoại hôm ấy giữa Bụt và giới trí thức trẻ tuổi Bà
la môn thật là hào hứng và đã gây chấn động sâu xa trong mọi giới. Những người
trẻ tuổi trong giới Bà la môn đi theo Bụt rất đông.
Sau đó ít lâu, một người thanh niên Bà la môn nổi tiếng khác
tên là Ambattha và thầy của anh là Pokkharasadi do một cuộc thăm viếng và đàm đạo
với Bụt cũng đã phát nguyện quy y Tam Bảo. Việc này xảy ra tại một làng Bà la
môn tên là làng Lechanankala trong vương quốc Kosala. Phong trào thanh niên Bà
la môn theo Bụt càng ngày càng lớn. Niềm bực tức của những nhà lãnh đạo Bà la
môn và của các giáo phái khác cũng vì vậy mà khó tiêu tan đi được.
Tại công viên Ambalatthika, đại đức Svastika đã có dịp gần
gũi đại đức Moggallana để hỏi thăm về các giáo phái hiện đang thịnh hành nhất
và đã được đại đức nói cho nghe một cách sơ lược về chủ trương của các giáo
phái ấy.
Trước hết là giáo phái của đạo sĩ Purana Kassapa. Phái này chủ
trương một thái độ hoài nghi về luân lý, cho rằng ý niệm về thiện và ác chỉ là
nhận thức do thói quen và tập quán mà có.
Kế đến là giáo phái của đạo sĩ Makkhali Gosala. Giáo phái này
chủ trương thuyết tất nhiên, cho rằng hành vi và vận mạng con người đều do những
quy luật vận hành tự nhiên sắp đặt và con người không thể làm gì hơn được. Nếu
năm trăm hoặc một ngàn kiếp sau mà con người được giải thoát thì đó cũng là do
sự vận hành của tự nhiên giới, chứ không phải vì nỗ lực của con người mà có giải
thoát.
Thứ ba là giáo phái của đạo sĩ Ajita Kesakambati, chủ trương
một thuyết duy vật thuần túy, cho rằng con người là do bốn yếu tố, đất, nước, lửa
và không khí tạo thành, và sau khi chết thì không còn gì nữa. Theo phái này, mục
đích của đời người là hưởng lạc trong khi con người đang còn sống.
Giáo phái thứ tư do đạo sĩ Pakudha Kaccayana cầm đầu, chủ
trương ngược lại thuyết của giáo phái của đạo sĩ Ajita. Giáo phái này chủ
trương thuyết bất diệt, cho rằng tâm ta cũng như thân ta không bao giờ có thể bị
hủy diệt. Theo giáo phái này, có bảy yếu tố làm nên con người, đó là đất, nước,
lửa, không khí, khổ, vui, và sinh mạng. Sống và chết chỉ là hiện tượng bên
ngoài do sự kết hợp hay tụ tán của bảy yếu tố ấy tạo nên, trong khi tự thân của
bảy yếu tố ấy là trường cửu và bất diệt.
Giáo phái thứ năm do đạo sĩ Sanjaya Belatthiputta thành lập.
Ngày xưa các đại đức Sariputta và Maha Moggallana đã từng
theo học với đạo sĩ này.
Đạo sĩ Sanjaya dạy thuyết thích ứng, cho rằng chân lý tùy thuộc
vào trường hợp, vào không gian và vào thời gian. Có thể trong trường hợp này,
thời gian này và địa phương này, một điều nọ có thể là chân lý, nhưng trong trường
hợp khác, thời gian khác và địa phương khác thì điều đó có thể không còn là
chân lý. Nhận thức con người là thước đo của muôn vật.
Giáo phái thứ sáu là giáo phái của đạo sĩ Nigantha Nataputta.
Các đạo sĩ trong giáo phái này thực hành pháp khổ hạnh cực đoan, không mặc quần
áo và giữ giới bất sát một cách tuyệt đối. Đạo sĩ Nigantha chủ trương một thứ vận
mạng luận có tính cách nhị nguyên, cho mạng (jiva) và phi mạng (ajiva) là nền tảng
cho vũ trụ và sự sống. Thế lực của các du sĩ lõa hình này trong xã hội khá lớn,
và với đoàn khất sĩ của Bụt, các du sĩ lõa hình đã có nhiều liên lạc và tiếp
xúc qua lại. Điểm tương đồng căn bản giữa giáo đoàn du sĩ và giáo đoàn khất sĩ
là ý niệm tôn trọng sự sống, nhưng giữa hai giáo đoàn có nhiều điểm dị biệt. Có
những vị trong giáo đoàn Nigantha đã tỏ vẻ chống đối giáo đoàn khất sĩ. Đại đức
Moggallana thường không chịu đựng được thái độ quá khích của một số các vị du
sĩ lõa hình, và đã không ngần ngại nói lên cảm tưởng ấy, vì thế, đại đức thường
bị các vị du sĩ lõa hình chống đối kịch liệt.
Về tới Savatthi, Bụt cư trú ở tu viện Đông Viên, nơi có giảng
đường Lộc Mẫu. Các giới đệ tử nghe Bụt về, đến thăm người không ngớt. Một buổi
sáng, nữ thí chủ Visakha tới tìm Bụt, đầu tóc và xiêm y ướt đẫm, Bụt hỏi:
– Visakha, bà đi đâu về mà đầu tóc và xiêm y ướt đẫm thế này?
– Lạy đức Thế Tôn, đứa cháu nội của con mới chết. Con buồn
quá đi tìm Bụt mà quên mang theo cả dù, cả nón.
– Visakha, đứa cháu nội của bà lên mấy tuổi, cháu ốm bệnh gì
mà mất?
– Bạch Thế Tôn, nó mới có ba tuổi, nó bị bệnh thương hàn.
– Tội nghiệp cháu. Này Visakha, bà có tất cả bao nhiêu con và
cháu?
– Bạch Thế Tôn, con có tới mười sáu đứa con, chín đứa đầu đã
lập gia đình, và con đã có tám đứa cháu, vừa nội vừa ngoại. Bây giờ con chỉ còn
có bảy đứa cháu, toàn là cháu ngoại.
– Visakha, bà muốn có nhiều cháu lắm phải không?
– Vâng, bạch đức Thế Tôn, con muốn có thật nhiều con và thật
nhiều cháu. Nhà càng đông con cháu thì lại càng vui.
– Này Visakha, nếu con cháu bà nhiều như dân số ở thủ đô
Savatthi này thì chắc là bà vui lắm.
– Vâng, thưa đức Thế Tôn, con mà có được nhiều con nhiều cháu
như dân số ở Savatthi thì còn gì bằng.
– Visakha, bà biết mỗi ngày ở thủ đô Savatthi có bao nhiêu
người chết không?
– Thưa Thế Tôn, có ngày thì mười người chết, có ngày thì chín
người, tám người, bảy người hay sáu người, ít nhất là một người. Thế Tôn, ở
Savatthi không có ngày nào là không có người chết.
– Này Visakha, nếu con cháu bà đông đúc như dân cư ở Savatthi
thì ngày nào mà tóc tai và áo quần của bà lại không ướt đẫm như thế kia?
Visakha chắp hai tay lại:
– Thôi, thôi, con không muốn con cháu đông đảo như dân số ở
Savatthi nữa đâu. Con hiểu rồi. Càng thương nhiều thì càng bị ràng buộc nhiều,
càng bị ràng buộc nhiều thì càng khổ đau nhiều. Bụt đã dạy con điều này nhiều lần,
mà con cứ quên mãi.
Bụt im lặng, mỉm cười. Visakha nói:
– Thế Tôn, người thường du hành hóa độ khắp nơi và chỉ về
Savatthi vào trước mùa mưa. Đệ tử chúng con nhiều khi nhớ Bụt, lên tu viện thăm
thì ít khi được gặp người. Cho nên mỗi khi chúng con đến, chúng con chỉ biết đi
vòng ba lần quanh tịnh thất của người rồi đi về mà thôi.
Bụt dạy:
– Visakha, bà nên nhớ rằng việc tu học tinh tiến theo giáo
pháp cần thiết hơn việc thăm viếng. Mỗi khi tới chùa, các vị đều có dịp nghe
các vị đại đức thuyết pháp để học hỏi thêm giáo lý và để đem về thực hành. Giáo
pháp ấy chính là thầy đó. Đừng vì sự vắng mặt của thầy ở tu viện mà xao lãng việc
tu học.
Đại đức Ananda bạch:
– Con ý định là sẽ trồng một cây bồ đề ngay trong tu viện. Mỗi
khi các vị đến thăm Bụt mà không có Bụt thì có thể đến thăm và làm lễ cây bồ đề.
Như vậy thì cũng như làm lễ Bụt. Chúng con sẽ đặt một pháp tọa bằng đá dưới gốc
bồ đề. Nếu các vị đệ tử đem hoa tới cúng dường Bụt, các vị có thể dâng hoa trước
pháp tọa làm lễ, và đi nhiễu ba vòng xung quanh cây bồ đề để quán niệm về Bụt.
Bà Visakha nói:
– Ý kiến của đại đức rất hay. Nhưng biết lấy cây bồ đề con ở
đâu ra mà trồng?
Đại đức Ananda nói:
– Ta có thể đến xin hạt của cây bồ đề ở thôn Uruvela, nơi Bụt
thành đạo. Visakha, bà đừng lo, tôi sẽ phụ trách về việc lấy hạt, ươm hạt và trồng
cây bồ đề. Tôi sẽ trồng một cây ở tu viện và một cây ngay ở đây.
Nữ thí chủ Visakha đã cảm thấy nhẹ bớt trong lòng. Bà lạy Bụt
và đại đức Ananda rồi ra về.
Chương 61 - Tiếng gầm của sư tử lớn
Mùa an cư an năm nay, nhân một câu hỏi của đại đức Ananda về
đạo lý duyên sinh, Bụt đã dạy các vị khất sĩ về mười hai nhân duyên như là động
cơ của guồng máy sinh tử.
Người bảo thầy Ananda:
– Đạo lý duyên sinh là đạo lý rất vi diệu và thâm sâu. Các vị
đừng nghĩ rằng có thể thấu hiểu được hết chiều sâu của đạo lý này bằng ngôn từ
và lý luận.
Các vị khất sĩ! Ngày xưa thầy Uruvela Kassapa nhờ được nghe đạo
lý nhân duyên mà thấy được và vào được chánh pháp. Ngày xưa Sariputta cũng nhờ
nghe được một bài kệ về đạo lý nhân duyên mà hôm nay đã trở nên một trong những
khuôn mặt của chúng trung tôn.
Này các vị! Trong mỗi giây phút của cuộc sống hàng ngày, các
vị phải quán chiếu về tự tính duyên sinh của vạn pháp. Nhìn vào một tờ lá hay một
hạt mưa, các vị phải tập thấy cho được tất cả những điều kiện gần xa đã đưa tới
sự có mặt của tờ lá ấy hay của hạt mưa ấy. Các vị nên biết rằng thế giới được dệt
thành bởi những màn nhân duyên chằng chịt, cái này có vì cái kia có, cái này
không vì cái kia không, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia
diệt. Sự sinh diệt của một pháp tùy thuộc vào sự sinh diệt của tất cả các pháp.
Sự sinh diệt của tất cả các pháp tùy thuộc vào sự sinh diệt của một pháp. Trong
cái một có cái tất cả, và trong cái tất cả có cái một.
Cái một tức là cái tất cả, cái tất cả tức là cái một. Không
có cái một thì không có cái tất cả, không có cái tất cả thì không có cái một.
Đây là chỗ vi diệu của đạo lý duyên sinh. Nếu quán sát cho thấu triệt tự tính của
vạn pháp, các vị sẽ vượt thoát ra ngoài cái lo và cái khổ về sinh tử, nói một
cách khác hơn là thoát ra được ngoài vòng sinh tử.
Các vị khất sĩ! Duyên khởi chằng chịt nhiều tầng nhiều lớp,
nhưng quý vị có thể phân biệt bốn loại: đó là nhân duyên, tăng thượng duyên, đẳng
vô gián duyên và sở duyên duyên.
Nhân duyên là điều kiện chính yếu gần nhất, như hạt lúa là điều
kiện chính yếu để phát sinh ra cây lúa. Tăng thượng duyên là những điều kiện
phù trợ, như nắng, mưa, hơi ấm, đất màu giúp cho hạt lúa nảy mầm lớn lên thành
cây lúa.
Đẳng vô gián duyên tức là sự tiếp nối không gián đoạn của
dòng lưu chuyển. Thiếu sự tiếp nối thì sự trưởng thành của cây lúa bị gián đoạn
nửa chừng.
Sở duyên duyên là đối tượng của nhận thức, bởi vì nhận thức
bao giờ cũng là nhận thức một cái gì, nhận thức không rời đối tượng nhận thức.
Hạt lúa, cây lúa và các điều kiện xa gần đưa tới sự có mặt của cây lúa… tất cả
đều là đối tượng của nhận thức, không thể tách rời ra khỏi nhận thức. Tâm thức
vì vậy là một điều kiện căn bản của hiện hữu.
Này các vị khất sĩ! Sở dĩ có khổ đau là vì có sinh tử. Tại
sao có sinh tử? Tại vì có vô minh. Nếu các vị quán chiếu và thấy được tự tính
duyên khởi của vạn vật thì các vị sẽ tiêu diệt được vô minh. Tiêu diệt được vô
minh thì siêu thoát được quan niệm về sinh tử. Thoát được sinh tử thì diệt được
mọi khổ đau và lo âu.
Này các vị! Có tử là vì có sinh, có sinh tử là vì còn ý niệm
có ta, còn ý niệm có ta là vì bị dính mắc, bị dính mắc là vì tham ái, tham ái
là vì không thấy được tự tính của cảm giác, không thấy được tự tính của cảm
giác là vì bị kéo theo dòng tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng, bị kéo theo
dòng tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng là vì tâm tư không sáng suốt và an
tĩnh, tâm tư không sáng suốt an tĩnh là vì tâm thức hôn mê. Tâm thức hôn mê là
vì vô minh. Mười hai cái khoen của vòng xích ấy nối liền nhau, trong một cái có
cả mười một cái kia, thiếu một cái thì mười một cái kia cũng không có. Tử,
Sinh, Hữu, Thủ, Ái, Thọ, Xúc, Lục nhập, Danh sắc, Thức, Hành và Vô minh là tên
gọi của mười hai cái khoen ấy.
Các vị khất sĩ! Vô minh là chất liệu căn bản của cả mười hai
nhân duyên. Nhờ quán chiếu tự tính duyên sinh, ta lấy ánh sáng của trí tuệ làm
tan rã chất liệu vô minh đó và ta vượt thoát được tất cả những lo sợ đau buồn của
sinh tử. Người phàm phu bị nhận chìm trong biển khổ sinh tử. Bậc giải thoát cỡi
trên những đợt sóng sinh tử mà đi. Mười hai cái khoen của vòng xích trở nên mười
hai cái bánh xe của một cỗ xe chở người tới giác ngộ. Bậc giác ngộ sống trên đời
nhưng không bao giờ bị cuộc đời làm cho chìm đắm. Các vị khất sĩ! Các vị đừng
trốn chạy sinh tử, các vị chỉ cần vượt thắng lên trên sinh tử mà thôi. Siêu việt
sinh tử, đó là chí khí của bậc đại trượng phu.
Trong một buổi pháp đàm được tổ chức sau đó mấy hôm, đại đức
Mahakassapa cho biết Bụt đã từng giảng dạy nhiều lần về đạo lý nhân duyên, và đạo
lý này có thể coi như là trọng tâm của đạo giác ngộ, và đại đức cho biết có lần
Bụt đã dùng hình ảnh một bó lau để làm ví dụ. Người nói không có ai làm ra các
nhân duyên cả mà chính các nhân duyên tự làm ra nhau. Vô minh làm ra hành và
hành làm ra vô minh, hành làm ra thức và thức làm ra hành. Cũng như những cọng
lau dựa vào nhau mà đứng, một cọng lau bị kéo qua một bên thì cọng kia rơi xuống.
Vạn vật trong vũ trụ cũng vậy. Một làm ra tất cả, và tất cả làm ra một. Nhìn
cho sâu, ta thấy cái một trong tất cả và ta thấy tất cả trong cái một.
Cũng trong mùa an cư, Bụt bị một nhóm Bà la môn âm mưu trả
thù bằng cách vu cáo rằng người đã ăn nằm với một người đàn bà cho đến khi người
này có thai rồi bỏ.
Vụ âm mưu này được tổ chức rất khéo léo. Những người chủ mưu
đã tìm được một cô gái trong giới Bà la môn sẵn sàng cộng tác với họ. Cô này
tên là Cinca, nhan sắc khá mặn mà. Những người chủ mưu đã than thở với cô về sự
sụp đổ của niềm tin nơi đạo Bà la môn của giới trẻ tuổi. Giới trẻ tuổi Bà la
môn đã theo Bụt nhiều quá, và trong số ấy có những người rất xuất sắc. Một khi
theo Bụt họ đã không ngần ngại nói tới những cái mà họ cho là sai lầm và hẹp
hòi trong đạo Bà la môn. Nóng lòng vì nền đạo đức của tổ tiên, cô Cinca nói rằng
cô có thể làm bất cứ gì để cứu vãn tình thế, và cô đã làm theo những lời chỉ dẫn
của những người chủ mưu.
Ngày nào cô cũng ăn mặc thật đẹp và đi về tu viện Jetavana,
trên tay luôn luôn có một bó hoa. Nhưng cô không đi chùa vào giờ người khác đi
chùa. Cô chỉ tới chùa vào giờ những người khác rời chùa để về nhà sau khi nghe
thuyết pháp. Ai hỏi đi đâu, cô chỉ mỉm cười mà không nói. Có khi cô lại nói nửa
úp nửa mở: “Tôi đi đâu thì đi, việc gì đến quý vị mà hỏi?”. Thiên hạ lấy làm hồ
nghi. Sau đó nhiều tuần lễ, cô lại trả lời người ta như sau: “Tôi đi thăm sa
môn Gotama”. Rồi mấy hôm sau, cô lại nói: “Ngủ lại tu viện Jetavana thật là
vui!”.
Những điều đó làm nhiều người chối tai, nhưng cũng làm cho một
số người sinh ra hoài nghi. Tuy nhiên không ai phê phán gì. Cho đến một hôm,
Cinca xuất hiện trong một buổi thuyết pháp của Bụt. Bụng của cô đã phình lên
khá lớn, Bụt đang thuyết pháp nửa chừng thì cô bước lên. Trước mặt thính chúng
đông đảo, cô nói lớn:
– Sa môn Gotama! Ngài thuyết pháp rất là hay, và ngài là một
người có thế lực lớn, nhưng ngài không bao bọc được cho một người đàn bà yếu đuối
đã vì ngài mà bụng mang dạ chửa. Đứa con trong bụng này là của ngài. Nếu ngài
không chịu nhận trách nhiệm làm cha nó thì ai nhận đây?
Thính chúng xôn xao, mọi người đưa mắt hỏi nhau rồi nhìn lên
Bụt. Bụt nói với Cinca, miệng người mỉm cười:
– Này cô bé, chuyện này là thật hay giả thì chỉ có cô và ta
biết rõ mà thôi.
Cinca hơi mất bình tĩnh, nhưng cô cố lấy giọng rắn rỏi:
– Đúng rồi, việc này có thật hay không có thật thì chỉ có sa
môn Gotama và tôi biết mà thôi.
Quần chúng không chịu đựng được sự ngạc nhiên nữa. Nhiều người
xô ghế đứng dậy. Nhất là những người ngồi phía sau. Cinca hoảng hốt, tưởng
thiên hạ đang lén tấn công mình. Cô tìm cách thoát thân, cô vụng về vấp phải một
cái cột nhà, cô gượng níu lấy cột nhà để đứng dậy. Lúc đó có một sợi dây đứt và
miếng gỗ tròn lép từ bụng cô rơi xuống đánh rầm một cái. Miếng gỗ khá nặng, dầy
ở giữa và có mép mỏng chung quanh. Miếng gỗ rơi xuống trúng vào hai ngón chân của
bàn chân cô làm cô đau điếng. Cinca rú lên, cúi xuống ôm lấy bàn chân. Cái bụng
của cô bây giờ xép xẹp.
Quần chúng thở phào nhẹ nhõm. Nhiều người phá lên cười ngặt
nghẽo. Có một ni sư đứng dậy và tiến lên. Đó là ni sư Khema. Ni sư bước tới, dịu
dàng dìu Cinca ra khỏi phòng. Đợi cho hai người khuất bóng, Bụt trở lại với bài
thuyết pháp. Giọng nói của người bình thản, như là vừa rồi chẳng có chuyện gì
quan trọng xảy ra.
Bụt nói:
– Đại chúng! Đạo lý giác ngộ có năng lực công phá những thành
trì kiên cố nhất của vô minh, cũng như ánh sáng có năng lực làm tiêu tan bóng tối.
Những đạo lý như bốn sự thật, vô thường, vô ngã, duyên sinh, bốn niệm xứ, bảy
giác chi, ba cánh cửa giải thoát và con đường tám sự chân chính đã được tuyên
thuyết trong nhân gian như những tiếng gầm của một con sư tử lớn, đẩy lui hàng
trăm hàng ngàn tà thuyết và hý luận.
Này các vị, sư tử là vua của các loài thú. Khi con sư tử ra
khỏi hang, nó uốn mình và vươn vai. Sau khi uốn mình và vươn vai, nó đưa cặp mắt
sáng nhìn ra bốn phía. Rồi nó gầm lên ba lần tiếng gầm của loài sư tử. Sau đó
nó mới đi tìm mồi.
Này các vị, bất cứ loài thú nào trong rừng nghe tiếng gầm của
sư tử cũng đều lấy làm sợ hãi, có con núp kín, có con run rẩy, có con bỏ chạy,
có con rời rã cả tứ chi không còn biết làm gì nữa. Chim bay lên cao, loài cư
trú dưới nước như thuồng luồng và cá sấu hấp tấp lội xuống nước, chồn, cáo và
các loài ở hang chui xuống hang sâu. Những con voi trong các làng xóm lân cận,
dù là voi của vua có trang sức dây nịt và lộng vàng, đều hoảng sợ, tung bỏ tất
cả những đồ trang sức mà chạy, có khi văng cả phân và nước tiểu. Con sư tử có
uy lực lớn như thế đó.
Đại chúng! Pháp âm của đạo giác ngộ cũng giống như tiếng gầm
của con sư tử! Pháp âm giác ngộ được cất lên thì tất cả các tà thuyết đều run sợ.
Các đạo lý vô thường, vô ngã, duyên sinh… một khi được tuyên thuyết lên thì tất
cả những ai lâu nay nương náu và cảm thấy an ổn trong vô minh và trong quên
lãng đều phải giật mình. Loài người cũng vậy mà loài trời cũng vậy. Khi bừng tỉnh
giấc mơ, mọi người thấy được sự thật chói lòa: “Thì ra lâu nay chúng ta đang ôm
lấy hiểm nguy, chúng ta đã nhận cái vô thường làm cái thường, cái vô ngã làm
cái ngã, cái khổ làm cái vui, cái tạm bợ làm cái vĩnh cửu, cái giả làm cái thật.
Đã đến lúc chúng ta phải phá tung tất cả những màn lưới quên lãng và luận chấp
mà đi”.
Đại chúng! Các học thuyết của nhân gian đều bị ràng buộc vào
ý niệm có và không. Pháp âm của đạo giác ngộ đưa nhân gian ra khỏi màn lưới dầy
đặc của muôn ngàn lý luận ấy.
Đạo lý giác ngộ vượt thoát mọi ý niệm có không. Mỗi khi có một
bậc giác ngộ ra đời là pháp âm giác ngộ lại được dịp vang động như tiếng hải
triều. Khi hải triều lên, tất cả đều bị cuốn phăng theo ngọn sóng.
Pháp âm giác ngộ cũng hùng vĩ như tiếng hải triều.
Đại chúng! Nhân gian thường bị vướng mắc trong bốn cái cạm bẫy
lớn. Cạm bẫy thứ nhất là dục lạc. Cạm bẫy thứ hai là kiến thức. Cạm bẫy thứ ba
là nghi lễ. Cạm bẫy thứ tư là ý niệm về ngã. Vướng mắc vào các cạm bẫy ấy, con
người không còn vùng vẫy được. Pháp âm giác ngộ đưa con người thoát ra bốn thứ
cạm bẫy lớn này.
Đại chúng! Đạo lý duyên khởi là con đường đưa mọi người ra khỏi
mọi cố chấp và cạm bẫy. Các vị phải thường xuyên quán sát tự tánh duyên khởi
trong đời sống hàng ngày của các vị, nơi thân thể, nơi cảm thọ, nơi tâm ý và
nơi vạn pháp, đối tượng của tâm ý.
Buổi thuyết pháp của Bụt được đại đức Ananda trùng tuyên ngày
hôm sau tại giảng đường Lộc Mẫu. Đại đức đặt tên cho bài thuyết pháp này là
kinh Tiếng Gầm Của Sư Tử.
Mùa an cư năm ấy, rất nhiều vị khất sĩ trong tu viện mắc phải
bệnh sốt rét. Có nhiều thầy sốt cho đến ốm o và xanh xao. Rất nhiều thầy không
đủ sức để ôm bát đi khất thực. Họ phải nằm tại nhà chờ các vị khất sĩ đi khất
thực về chia xẻ thức ăn với họ. Nhưng hầu hết thức ăn xin được là cơm có chan
nước cà ri. Thức ăn này quá cứng và quá khô đối với người bệnh, thành ra những
vị khất sĩ bị sốt không thể nào nuốt được. Biết vậy, Bụt cho phép giới cư sĩ
cúng dường cho các vị khất sĩ bệnh các thức ăn mềm và có nhiều chất lượng bổ dưỡng
như mật, sữa, đường, đề hồ và dâu.
Nhờ những thức ăn ấy, các vị khất sĩ bị bệnh phục hồi được sức
khỏe một cách từ từ.
Một hôm sau giờ ngồi thiền, Bụt nghe tiếng quạ kêu râm ran bốn
phía. Người đi ra thì thấy một số các vị khất sĩ đang cho quạ ăn các thức ăn rất
quý đã được cúng dường đặc biệt cho người bệnh. Các vị khất sĩ này là những người
được cử ra săn sóc cho bệnh nhân. Họ trình với Bụt rằng sở dĩ họ phải cho quạ
ăn các thức ăn quý giá này vì có một số các vị khất sĩ sốt vào buổi sáng nên
không thọ thực được. Quá giờ Ngọ thì không được ăn nữa, cho nên thức ăn phải
đem cho quạ ăn. Bụt hỏi tại sao không giữ các thức ăn này lại cho ngày mai. Các
vị trả lời là họ không được phép giữ thức ăn qua đêm. Bụt dạy trong khi bệnh,
các vị khất sĩ có quyền thọ thực sau giờ Ngọ, và cũng có quyền giữ các thức ăn
đến ngày hôm sau.
Một vị y sĩ tại thủ đô gặp đại đức Sariputta và đề nghị với đại
đức một thứ thức ăn được chế biến bằng năm yếu tố có nhiều chất đạm để bồi bổ
cho các vị khất sĩ đã vì sốt và rét mà trở nên ốm yếu xanh xao.
Chương 62 - Đừng vội tin cũng đừng vội bài bác
Mùa an cư hoàn mãn, đại đức Sariputta đến từ biệt Bụt để lên
đường hành hóa, Bụt chúc đại đức lên đường bình yên, thân thể và tâm trí nhẹ
nhàng, không gặp quá nhiều khó khăn trên đường giáo hóa. Đại đức Sariputta cảm
tạ và lên đường ngay sau đó.
Trưa hôm ấy có một vị khất sĩ lên tìm Bụt và phàn nàn với người
là thầy đã bị đại đức Sariputta hất hủi. Bụt hỏi hất hủi như thế nào. Vị khất
sĩ ấy đáp:
– Con hỏi thầy ấy đi đâu, thầy ấy đã không thèm trả lời mà lại
còn xô con ngã rồi bỏ đi không thèm xin lỗi.
Bụt bảo Ananda:
– Chắc Sariputta chưa đi xa đâu. Ananda, hãy nhờ một vị sa di
đi tìm đại đức Sariputta về. Tối hôm nay chúng ta sẽ tập họp đại chúng ở giảng
đường Jeta.
Đại đức Ananda vâng mệnh. Chiều hôm ấy đại đức Sariputta trở
về tu viện với vị sa di. Thầy lên trình diện Bụt.
Bụt bảo:
– Sariputta, tối hôm nay chúng ta sẽ họp tại giảng đường, có
vị khất sĩ buộc tội thầy đã xô ngã thầy ấy và bỏ đi không thèm xin lỗi.
Các đại đức Moggallana và Ananda chiều hôm đó tay cầm xâu
chìa khóa đi vào khắp các tăng xá của tu viện. Tới đâu họ cũng thông báo về cuộc
họp tối nay. Họ nói:
– Mời chư huynh đệ tối nay tới họp mặt đông đảo tại giảng đường.
Tối nay sư huynh Sariputta thế nào cũng gầm lên tiếng gầm sư tử của sư huynh
trước mặt Thế Tôn và đại chúng, sẽ hào hứng lắm.
Tối hôm ấy giảng đường không thiếu mặt ai. Ai cũng muốn biết
đại đức Sariputta phản ứng thế nào trước những người lâu nay đã có thái độ ganh
ghét và hờn giận mình. Ai cũng biết rằng đại đức là một người đệ tử lớn của Bụt
và được Bụt tin yêu, và vì vậy ông đã là mục tiêu của rất nhiều sự hiểu lầm và
ganh ghét.
Trong giới môn đệ Bụt, có người nghĩ rằng Bụt đã tin cậy
Sariputta một cách quá đáng, rằng người đã quá nghe lời Sariputta, hoặc đã đi tới
những quyết định dưới ảnh hưởng nặng nề của vị đại đức này. Có người lại nghĩ rằng
nếu họ bị Bụt quở trách và giáo giới đó là cũng vì Bụt đã nghe những lời nói
ra, nói vào của đại đức Sariputta. Và họ đem lòng hận thù đại đức. Họ nhắc mãi
tới việc năm xưa có lần Bụt đã mời Sariputta ngồi chung một ghế.
Có một thầy tên là Kokalika, trước đây cũng từng cư trú tại
tu viện Jetavana, và đã từng thù ghét các sư huynh Sariputta và Moggallana đến
nước không ai có thể can ngăn được.
Chuyện đã xảy ra cách trên tám năm, nhưng vẫn còn đậm nét
trong lòng thầy Ananda.
Theo thầy Kokalika thì cả hai vị đại đệ tử Bụt là Sariputta
và Moggallana đều là những người tu hành giả dối, đều là người hành động theo
ái dục. Niềm ganh tỵ và hận thù của thầy Kokalika quá lớn khiến không ai có thể
hòa giải được.
Chính Bụt đã có lần gọi thầy tới và bảo: “Này khất sĩ
Kokalika, đừng có nói rằng Sariputta và Moggallana là những người bị ái dục chi
phối. Họ là những người có đạo đức chân thật và tính tình rất hòa ái”.
Tuy nhiên vì tâm thầy Kokalika đã bị hận thù che lấp nên thầy
không tiếp nhận được lời của Bụt. Cuối cùng thầy bỏ tu viện ra đi. Sau đó thầy
mắc một chứng bịnh rất lạ kỳ. Da thầy trở nên sần sùi, rồi tự nhiên đầy mình mọc
ra hàng vạn cái mụt nhỏ lớn bằng hạt cải, những cái mụt này lớn lên bằng những
hạt đậu. Rồi những chiếc mụt ấy vỡ ra, chảy đầy máu và mủ. Thuốc men nào cũng
không chữa được, Bụt nhận thầy về tu viện, nhưng thầy không về.
Sau đó thầy mạng chung. Bụt rất xót thương. Người bảo: “Hận
thù và ganh ghét là những chất độc làm ung thối tâm hồn, sau khi làm ung thối
tâm hồn, những chất độc ấy còn phá hoại thân thể và gây thành những chứng bệnh
rất kỳ lạ. Này các vị khất sĩ, các vị đừng để cho những chất độc ấy thấm vào
thân tâm”.
Đại đức Ananda biết hết những tình tiết đó cho nên đã ngần ngại
rất nhiều trước khi nhận trách nhiệm làm thị giả cho Bụt. Trong những điều kiện
thầy đưa ra có điều kiện là nếu làm thị giả cho Bụt, thầy xin Bụt đừng bao giờ
cho thầy áo, đừng cho thầy ngủ chung một phòng và đừng bao giờ chia cho thầy những
thức ăn mà người ta cúng dường riêng cho Bụt. Thầy biết rất rõ là trong số những
người đến với Bụt có nhiều người muốn được Bụt tiếp xử bằng một thái độ đặc biệt,
và nếu không được tiếp xử như thế họ cảm thấy buồn tủi và từ sự buồn tủi đó họ
có thể sinh ra hờn oán và ghét bỏ luôn cả Bụt.
Đại đức Ananda nhớ rằng hồi Bụt an cư tại làng Kaimasadamya ở
Kosambi, có một người đàn bà tên là Magandika đã vì không được Bụt đối xử một
cách đặc biệt mà sinh lòng thù hận Bụt. Magandika là một phụ nữ xinh đẹp, con
gái của một gia đình Bà la môn. Lần đầu thấy Bụt – hồi đó Bụt mới có bốn mươi bốn
tuổi – cô đem lòng yêu mến người, rồi khi tình cảm đó lớn mạnh, cô đòi hỏi Bụt
có một biệt nhãn đối với cô. Cô đã làm mọi cách để Bụt đối xử với cô như một
người đặc biệt, nhưng cô không thành công.
Rốt cuộc, tình cảm biến thành thù hận. Sau này trở nên thứ hậu
của vua Udayana xứ Vamsa, cô đã dùng quyền thế và phương tiện của cô để cho người
đi nói xấu và nhục mạ Bụt, làm áp lực cho những chính quyền quận và ấp đừng cho
Bụt và giáo đoàn tới thuyết pháp. Cô lại tìm cách trả thù và hành hạ vương phi
Samavati, một người rất được vua Udayana ân sủng, chỉ vì người này là đệ tử rất
thuần kính của Bụt. Thấy Bụt bị nhục mạ và làm khó dễ quá, đại đức Ananda đề
nghị người nên đi hành đạo tại một xứ khác. Bụt hỏi:
– Nếu tới xứ khác mà cũng bị nhục mạ và làm khó dễ nữa, thì
ta sẽ đi đâu?
Ananda nói:
– Thì ta nên tới một xứ khác nữa.
Bụt bảo:
– Nói như thế không được. Ananda ơi, gặp khó khăn, ta không
nên nản lòng. Phải từ trong môi trường khó khăn ấy mà tìm ra giải pháp ổn thỏa.
Ananda, nếu ta thực tập phép hành xả, ta sẽ không thấy khó chịu khi bị nhục mạ,
và những lời nhục mạ ấy không động được đến ta. Những người chửi rủa ta sẽ
không làm tổn thương được ta và chí hướng ta nếu ta thực tập được phép xả; còn
họ, họ sẽ phải chịu đựng những kết quả của sự chửi rủa của họ. Khi một người nhổ
nước bọt lên Trời với ý định làm bẩn người, Trời đã không bị bẩn mà nước bọt sẽ
rơi xuống mặt người nhổ nước bọt.
Bụt đã thành công năm xưa ấy, Ananda thấy lòng bình thản và
không lo ngại gì cho đại đức Sariputta tối nay. Đạo hạnh của Sariputta đã được
số đông các huynh đệ công nhận. Nếu đứng vào địa vị của Bụt, chắc Ananda cũng
phải làm như Bụt và cũng phải trọng dụng đại đức Sariputta.
Sư huynh Sariputta thật xứng đáng ở địa vị một huynh trưởng.
Thông minh xuất chúng, kiến giải và đạo hạnh cao siêu, sư huynh đã từng thay thế
Bụt nhiều lần trong việc lãnh đạo giáo đoàn. Sư huynh đã thuyết pháp nhiều lần
và nhiều bài pháp thoại của sư huynh đã được Bụt khen ngợi và cũng đã được
trùng tuyên thành kinh điển.
Chính kinh Dấu Chân Voi – Hatthipadopanna sutta – là do sư
huynh nói. Trong kinh này sư huynh đã dạy về tứ diệu đế. Sư huynh không lặp lại
những lời của Bụt, mà đã diễn giải tứ diệu đế một cách rất kỳ thú căn cứ vào sự
tu chứng của bản thân sư huynh. Những lời sư huynh nói về bốn yếu tố đất, nước,
lửa và không khí liên hệ tới năm uẩn thật là những giáo lý kỳ đặc và mới mẻ.
Khi Bụt bước vào giảng đường, tất cả các vị khất sĩ đều đứng
dậy. Người đưa tay mời mọi người an tọa. Người cũng ngồi xuống pháp tọa dành
cho người và ra hiệu cho đại đức Sariputta tới ngồi trên một chiếc ghế thấp bên
tay phải của người.
Đợi cho mọi người an tọa hết, Bụt mới xoay lại nói với đại đức
Sariputta:
– Sariputta, có vị khất sĩ buộc tội thầy xô vị ấy ngã và bỏ
đi mà không xin lỗi. Thầy có điều gì nói về việc này không?
Đại đức Sariputta đứng dậy chắp tay xá Bụt rồi chắp tay xá đại
chúng. Thầy lên tiếng:
– Thế Tôn, một ông thầy tu không tu, không quán niệm thân thể
nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của thân thể, một ông thầy tu
như thế có thể xô ngã một người bạn tu của mình và bỏ đi mà không thèm xin lỗi.
Thế Tôn, con nhớ bài học mà ngày xưa Thế Tôn đã dạy cho khất
sĩ Rahula, hồi ấy mới mười tám tuổi, cách đây đã trên mười bốn năm. Thế Tôn dạy
Rahula học theo hạnh của đất, của nước, của lửa và của không khí, để nuôi dưỡng
và phát triển bốn đức Từ, Bi, Hỷ và Xả. Hôm ấy con cũng có mặt. Thế Tôn dạy
Rahula, nhưng con đã có duyên học và thực tập bài học ấy trong suốt mười bốn
năm qua và con đã nhiều lần thầm biết ơn Thế Tôn về bài học ấy.
Thế Tôn, con đã tập hành sự như đất, và con đã thành công. Đất
bao giờ cũng đầy đặn, rộng lớn, bao la, có khả năng thu nhận và chuyển hóa. Dù
người ta đổ và rải lên những thứ tinh sạch như hoa, nước thơm, sữa thơm hoặc đổ
và rải xuống đất những thứ dơ bẩn và hôi hám như phân, nước tiểu, máu, mủ, đàm,
nhớt… thì đất cũng tiếp nhận những thứ đó một cách thản nhiên, không tham đắm,
không giận hờn, cũng không ghê tởm…
Lạy Bụt, con đã quán niệm để thân và tâm con được như đất. Một
ông thầy tu không quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những động
tác của thân thể, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ
đi mà không thèm xin lỗi. Con không đến nỗi như vậy.
Thế Tôn, con đã tập hành sự như nước. Khi người ta giặt những
thứ thơm tho hoặc dơ bẩn trong nước, nước cũng không vì thế mà cảm thấy tham đắm
hoặc tủi nhục, buồn khổ và chán chường. Nước bao la, lưu chuyển, có năng lực
hóa giải và gạn lọc. Lạy Bụt, con đã quán niệm để thân và tâm con được như nước.
Một ông thầy tu không quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những
động tác của thân thể, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu
và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con không đến nỗi như thế.
Thế Tôn, con đã tập hành sự như lửa. Lửa đốt cháy mọi thứ kể
cả những cái đẹp đẽ hoặc hôi hám và dơ bẩn, nhưng lửa không vì vậy mà cảm thấy
hoặc tham đắm hoặc tủi nhục, buồn giận và chán chường. Lửa có năng lực thiêu đốt,
gạn lọc và hóa giải. Lạy Bụt, con đã quán niệm để thân và tâm con được như lửa.
Một ông thầy tu không quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những
động tác của thân thể, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu
và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con không đến nỗi như thế.
Thế Tôn, con đã tập hành sự như không khí. Không khí thổi đi
những thứ mùi hoặc thơm hoặc thối, dù mùi đó là mùi máu mủ, phân và nước tiểu,
mà không cảm thấy tham đắm hoặc tủi nhục, buồn giận hay chán chường. Không khí
có khả năng giải tỏa, gạn lọc và hóa giải. Lạy Bụt, con đã quán niệm để thân và
tâm con được như không khí. Một ông thầy tu không quán niệm thân thể nơi thân
thể, không có ý thức về những động tác của thân thể, một ông thầy tu như thế có
thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con không đến nỗi
như thế.
Thế Tôn, như một em bé dòng dõi hạ tiện, áo quần rách rưới ôm
bát vào làng xóm mà xin ăn, trong lòng không có một hào ly nào tự phụ, con cũng
thế, trái tim con cũng như trái tim của một em bé dòng dõi hạ tiện, luôn luôn
tràn đầy khiêm cung, đâu có dám lên mặt với ai. Lạy Bụt, một ông thầy tu không
quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của tâm ý, một
ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin lỗi.
Con không đến nỗi như thế.
Đại đức Sariputta còn muốn nói nữa, nhưng vị khất sĩ buộc tội
đại đức đã đứng dậy. Vị này vắt chéo áo sanghati lên vai, và lạy xuống trước Bụt,
rồi quỳ xuống với hai bàn tay chắp lại, vị ấy nói:
– Bạch Thế Tôn, con đã phạm giới, con đã buộc tội sư huynh
Sariputta một cách oan uổng, con xin sám hối trước Bụt và đại chúng để được
thanh tịnh, và tự nguyện từ nay về sau sẽ không tái phạm.
Bụt nói:
– Thầy đã nhận là mình có tội trước đại chúng và sám hối. Điều
này rất tốt, đại chúng đã chấp nhận sự sám hối của thầy.
Quay lại đại đức Sariputta, Bụt nói:
– Mong đại đức bỏ qua lỗi lầm của vị khất sĩ này.
– Con xin sẵn lòng bỏ qua nếu thầy ấy hối cải, và con cũng
xin thầy ấy bỏ qua và tha thứ những lỗi lầm có thể có của con.
Vị khất sĩ đến trước Sariputta chắp tay lại làm lễ. Đại đức
Sariputta đứng dậy đáp lễ. Hai vị cung kính lạy nhau. Đại chúng rất hoan hỷ.
Không khí rất cởi mở và hòa dịu. Đại đức Ananda đứng dậy nói:
– Sư huynh Sariputta, mời sư huynh ở lại chơi với các huynh đệ
dăm ba hôm rồi sau đó hãy lên đường đi hành hóa. Anh em rất nhiều người muốn được
gặp gỡ thân mật với sư huynh.
Đại đức Sariputta mỉm cười, im lặng chấp thuận.
Sau mùa an cư, Bụt đi du hành ở nhiều thị trấn trong xứ.
Một hôm người đến Kesaputta, thị trấn của bộ tộc Kalama. Giới
trẻ tìm gặp người rất đông, họ đã từng nghe tiếng sa môn Gotama nhưng chưa lần
nào được gặp.
Một thanh niên chắp tay hỏi Bụt:
– Sa môn Gotama, lâu nay có rất nhiều vị đạo sĩ Bà la môn đến
viếng xứ Kesaputta này, để giảng dạy đạo lý. Vị nào cũng nói chỉ có đạo lý của
mình là hay và thường hay chê bai những đạo lý khác. Chúng con thật là bối rối,
không biết đường nào mà đi, và rốt cuộc chúng con sinh ra nghi ngờ tất cả. Sa
môn, chúng con nghe nói người là bậc giác ngộ liêm trực, xin người cho chúng
con biết là nên tin theo ai và không nên tin theo ai? Ai là nói đúng và ai là
người đang truyền bá tà thuyết?
Bụt nói:
– Trong trường hợp này, nếu các bạn có sinh tâm nghi ngờ, đó
cũng là việc tự nhiên, dễ hiểu.
Này các bạn, các bạn đừng vội tin vào một điều gì dù điều đó
là điều mà người ta thường nói đến luôn, dù điều đó có trong kinh điển, dù điều
đó là do một bậc thầy mà thiên hạ tôn sùng nói ra. Các bạn chỉ nên chấp nhận và
tin vào những điều mà các bạn thấy hợp với lý trí của các bạn, những điều được
các hiền nhân đồng ý, những điều mà nếu đem ra thực hành thì đưa tới những kết
quả tốt đẹp cho đời sống, còn những điều không hợp với lý trí, những điều bị
các hiền nhân chê trách, những điều mà nếu đem ra thực hành thì đưa tới khổ đau
và đổ vỡ, những điều đó các bạn nên bác bỏ, đừng chấp nhận nữa.
Người thanh niên Kalama nói:
– Xin sa môn Gotama chỉ bày thêm cho chúng con.
Bụt hỏi:
– Này các bạn, ví dụ có một người để tham vọng, giận hờn và
si mê chế ngự tâm mình, thì những tham dục giận hờn và si mê ấy sẽ làm cho người
kia vui hay là khổ?
– Thưa sa môn, những tham vọng, giận hờn và si mê ấy sẽ làm
cho người kia phạm vào tội ác và sẽ đem lại khổ đau lâu dài cho người ấy.
– Vậy thì sống theo tham vọng, giận hờn và si mê có phải là lối
sống mà các bậc hiền nhân chấp nhận và khuyến khích không?
– Thưa không.
– Giả dụ có một người kia sống theo hạnh Từ, Bi, Hỷ, và Xả,
biết đem lại hạnh phúc cho kẻ khác, biết làm giảm bớt nỗi khổ của người đời, biết
vui theo niềm vui của kẻ khác, biết đối xử với kẻ khác một cách không kỳ thị,
không oán trách, thì những hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả ấy sẽ làm cho người ấy vui hay
là khổ?
– Những hạnh ấy không những sẽ làm cho người ấy có hạnh phúc
mà còn làm cho mọi người sống chung quanh có hạnh phúc nữa.
– Vậy thì sống theo Từ, Bi, Hỷ và Xả có phải là lối sống mà
các bậc hiền nhân chấp nhận và khuyến khích không?
– Thưa sa môn, có.
– Hay lắm, các bạn. Các bạn hiện có đầy đủ tư cách để phán
xét những gì nên tin và nên chấp nhận, và những gì không nên tin và không nên
chấp nhận. Tôi xin nhắc lại: chỉ nên tin và chấp nhận những gì hợp với trí xét
đoán của mình, những gì được các bậc hiền nhân chấp nhận và khuyến khích, những
gì mà nếu đem ra thực hành sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mình và cho kẻ
khác. Những gì sai trái, chống lại niềm vui và hạnh phúc, thì nên từ chối, đừng
chấp nhận.
Những người trẻ trong bộ tộc Kalama rất lấy làm hoan hỷ sau
khi nghe Bụt nói. Họ nhận thấy giáo lý của Bụt rất phù hợp với lý trí họ, không
đòi hỏi một đức tin không điều kiện.
Họ thấy nơi giáo lý ấy một niềm tôn trọng tự do tư tưởng rất
lớn. Nhiều người xin được quy y làm học trò của Bụt.
Chương 63 - Đường về biển cả
Trên đường đi, Bụt ghé vào thị trấn Alavi. Tại đây người được
dân chúng đón tiếp và cúng dường trai phạn tại một trú sở công cộng. Đi theo Bụt
có tám vị khất sĩ, trong đó có thị giả của người là Ananda.
Sau khi Bụt và các vị khất sĩ đã thọ trai, mọi người đều ngồi
lại ăn uống.
Hôm ấy đến dự có khoảng ba trăm người. Cơm nước đã xong, đại
đức Ananda thỉnh Bụt nói pháp cho quần chúng.
Mọi người đã ngồi yên sẵn sàng nghe Bụt nói, thì một bác nông
dân đẩy cửa bước vào. Bác đã đến trễ, vì sáng hôm nay bác phải đi tìm một con
trâu lạc. Tìm được trâu rồi, bác đóng cửa chuồng trâu và vội vã tìm tới trụ sở
buổi họp, chưa kịp bỏ một hạt cơm nào vào bụng.
Biết bác nông dân đang đói, Bụt không thuyết pháp vội. Người
bảo đem cơm và cà ri ra để bác nông dân ăn trước. Có người sốt ruột, bảo rằng
ba trăm người mà phải chờ một người thì quá đáng, nhưng Bụt nhất định chờ. Người
chờ cho bác nông dân ăn cơm và uống nước xong mới bắt đầu thuyết pháp. Người
nói:
– Thưa quý vị, nếu tôi thuyết pháp trong khi bác nông dân này
đang đói bụng, thì bác sẽ không theo dõi được bài giảng và như thế là sẽ thiệt
hại cho bác. Đại chúng nên biết không có gì khổ bằng đói. Cái đói nó hành hạ ta
và làm cho ta mất hết thanh tịnh và an lạc. Chúng ta phải nghĩ tới những kẻ bị
đói, người lớn cũng như trẻ em. Đói vì ăn cơm trễ đã là khổ rồi, huống hồ không
ăn trong nhiều ngày nhiều tháng. Ta phải làm sao để đừng có ai bị đói trên cuộc
đời này mới được.
Ngược dòng sông Hằng, Bụt hướng về Kosambi phía Tây Bắc. Đứng
bên dòng sông, Bụt nhìn thấy một khúc gỗ lớn đang theo dòng chảy về phương
Đông. Người gọi các vị khất sĩ cùng đi, chỉ cho họ thấy khúc gỗ đang trôi và
nói:
– Các vị khất sĩ! Khúc gỗ kia nếu không bị vướng mắc vào hai
bờ, nếu không chìm đắm nửa chừng, nếu không vướng một doi cát, nếu không bị người
ta vớt lên, nếu không bị cuốn theo dòng nước xoáy và nếu không bị mục nát từ
bên trong mục nát ra, thì sẽ cứ trôi như thế cho đến ngày ra được biển cả.
Các vị cũng thế, trên con đường tu đạo, nếu quý vị không bị
vướng mắc vào hai bờ, nếu quý vị không bị chìm đắm nửa chừng, nếu không vướng
vào một doi cát, nếu không bị người ta vớt lên, nếu không bị cuốn theo dòng nước
xoáy và nếu không bị mục nát từ bên trong mục nát ra, thì chắc chắn các vị cũng
sẽ đi về tới đại dương của sự giải thoát và giác ngộ hoàn toàn.
Các vị khất sĩ hỏi Bụt:
– Xin Thế Tôn nói rõ cho chúng con hiểu, thế nào là vướng mắc
vào hai bờ? Thế nào là không bị chìm đắm nửa chừng? Thế nào là không bị cuốn
trôi theo dòng nước xoáy?
– Bị vướng mắc vào hai bờ tức là bị vướng mắc vào sáu giác
quan và sáu loại đối tượng. Sống tinh cần và tỉnh thức thì các vị sẽ không đánh
mất chánh niệm và sẽ không bị kẹt vào những cảm thọ do sự xúc tiếp giữa sáu
giác quan và sáu loại đối tượng của chúng gây ra.
Chìm đắm nửa chừng tức là bị những sợi dây tham dục và mê đắm
buộc lại và không còn đủ sức để đi tới, và rốt cuộc phải nửa chừng bỏ lỡ sự
nghiệp tu học của mình.
Vướng vào một doi cát tức là vướng vào sự phục vụ cái ngã của
mình, suốt đời chỉ nhắm tới chuyện quyền lợi và hư danh mà quên đi mục đích tối
hậu là giải thoát.
Bị người ta vớt lên nghĩa là mải mê cái vui phàm tục, chỉ ưa
la cà suốt ngày suốt buổi rong chơi với bạn xấu mà xao lãng công việc tu hành.
Cuốn theo dòng nước xoáy có nghĩa là chìm đắm trong vũng tù của
năm thứ dục lạc: ăn ngon, mặc đẹp, sang giàu, dâm dục, hư danh, và lười biếng
mê ngủ.
Mục nát từ bên trong mục nát ra là sống đời sống đạo đức giả
dối, lường gạt quần chúng, lợi dụng đạo pháp để thỏa mãn cá nhân.
Các vị khất sĩ! Các vị nên tinh tiến tu học, giữ gìn để đừng
vướng mắc vào một trong sáu trở ngại đó. Như thế các vị chắc chắn sẽ đi về quả
giác ngộ, như khúc gỗ kia nếu không bị vướng mắc vào bất cứ trở ngại gì trên
sông thì chắc chắn sẽ về được tới biển cả.
Trong lúc Bụt giảng dạy cho các vị khất sĩ thì có một thiếu
niên chăn trâu khoảng mười sáu tuổi đứng gần đó. Thiếu niên này tên là Nanda,
trùng với tên vị khất sĩ Nanda, em cùng cha khác mẹ với Bụt. Nanda nghe Bụt giảng,
thích lắm, em đến gần Bụt xin Bụt cho em đi theo làm học trò người. Em nói:
– Sa môn, con cũng muốn được như các vị khất sĩ có dung mạo
trang nghiêm kia. Con cũng muốn tu học như các vị. Con hứa sẽ đem hết sức mình
để tu học, để đừng bị vướng vào hai bờ, để đừng bị chìm đắm, để đừng bị vướng
vào một doi cát, để đừng bị người ta vớt lên, để đừng bị cuốn theo dòng nước
xoáy và để đừng bị mục nát từ trong mục nát ra. Xin sa môn nhận con làm học trò
của người…
Thấy thiếu niên tuy ít học mà có vẻ thông minh, Bụt gật đầu.
Người hỏi:
– Con bao nhiêu tuổi?
– Bạch sa môn, con mười sáu.
– Con có cha mẹ ở nhà không?
– Ba mẹ con đều đã mất. Con không có anh em và bà con nào hết.Con
chỉ ở giữ trâu cho một người giàu có trong làng mà thôi.
Bụt hỏi tiếp:
– Con có thể ăn một ngày một bữa không?
– Con đã quen ăn như thế từ lâu.
Bụt nói:
– Đáng ra, con phải có đủ hai mươi tuổi mới được chấp nhận
vào giáo đoàn. Tuổi chưa hai mươi thì chưa đủ chịu đựng được nếp sống không nhà
không cửa, nhưng con là một thiếu niên đặc biệt, ta sẽ xin giáo đoàn cho con được
miễn điều kiện tuổi tác. Con sẽ tập sự bốn năm với tư cách một vị sa di trước
khi thọ giới khất sĩ. Bây giờ con đi lùa trâu về trả cho chủ con đi, và con xin
phép chủ con cho nghỉ việc. Xong xuôi, con sẽ đến tìm ta.
Thiêu niên thưa:
– Bạch sa môn, con không cần làm như thế, những con trâu này
khôn lắm, chúng có thể đi về chuồng một mình mà không cần con lùa.
– Nhưng con phải lùa chúng về, giao lại cho chủ đàng hoàng và
xin phép chủ nghỉ việc thì con mới được chấp nhận theo ta.
– Nếu lỡ con lùa trâu về giao cho chủ và xin phép chủ được rồi,
nhưng khi trở lại Bụt và các thầy đã đi hết rồi thì sao?
Bụt cười:
– Con đừng lo, ta đã hứa thì chúng ta sẽ đứng đây chờ con.
Nanda sung sướng đi lùa trâu về chuồng.
Bụt gọi khất sĩ Svastika. Người nói:
– Svastika, thầy giao cho con hướng dẫn em thiếu niên chăn
trâu này. Thầy tin rằng con biết cách giúp nó.
Svastika chắp tay phụng mệnh. Thầy Svastika năm nay đã ba
mươi chín tuổi. Thầy biết tại sao Bụt giao trách nhiệm hướng dẫn em thiếu niên
chăn trâu này. Svastika được gặp Bụt hồi mới mười một tuổi và đã được Bụt cho
xuất gia năm thầy lên hai mươi mốt. Chính vì Svastika mà Bụt đã nói kinh Phong
Ngưu. Kinh này thầy Svastika vẫn thuộc lòng. Thầy đã trùng tuyên kinh này rất
nhiều lần cho các bạn đồng tu. Cậu bé Nanda này sẽ được tập sự xuất gia, và bốn
năm sau sẽ được thọ giới khất sĩ. Thầy Svastika tin tưởng là mình đủ sức để hướng
dẫn chú bé này. Đã đến lúc Bụt giao cho thầy trách vụ tiếp độ những người trẻ
tuổi. Bạn thân nhất của thầy là đại đức Rahula năm nay cũng đã ba mươi sáu.
Tất cả mấy đứa em của thầy Svastika đến nay đã có vợ và có chồng.
Ai cũng có gia đình và nhà cửa riêng. Ngôi nhà ngày xưa của gia đình Svastika
bây giờ đã xiêu vẹo và đổ nát. Trong một chuyến du hành ngang qua thôn Uruvela,
Svastika đã ghé thăm lại chốn cũ năm xưa, khi thầy còn là cậu bé mười một tuổi,
một mình phải đi chăn trâu nuôi bốn đứa em.
Năm ấy Rupak mới bảy tuổi, Bala mới năm tuổi, Bhima mới hai
tuổi. Năm nay Bhima đã ba mươi tuổi rồi. Cũng như chị nó là Bala, Bhima đã có
chồng có con, em trai của Svastika sau khi cưới vợ đã đi lập nghiệp ở một nơi
khác. Svastika đã có gần hai mươi đứa cháu, và trong số đó cũng có những đứa
đang đi chăn trâu cho người khác như Svastika và Rupak ngày xưa. Svastika nhớ
có lần thầy đã mời thầy Rahula ghé lại quê nhà. Lúc đó Rupak đã cưới vợ và đi
sinh sống nơi khác. Hai đứa em gái còn ở với nhau, sống vào nghề làm bánh.
Svastika đã cùng đi với Rahula ra bờ sông. Nhớ lời hứa với bạn, Svastika đã đi
tìm bọn chăn trâu đang thả trâu cho ăn bên bờ cỏ cạnh dòng sông Ni Liên Thuyền
và bảo chúng để cho Rahula thử cỡi lên mình trâu. Lúc đó Rahula đã thọ giới khất
sĩ, nên hơi ngần ngại, nhưng cuối cùng, Rahula đã cởi áo sanghati cho Svastika
cầm. Một em bé mục đồng chỉ cho Rahula cách leo và ngồi trên mình trâu. Thấy
con trâu to lớn nhưng quá hiền lành, Rahula làm đúng theo lời em bé. Ngồi trên
mình trâu, để trâu thong thả bước đi, Rahula cho Svastika biết cái cảm giác là
lạ của thầy. Rahula ý thức về cảm giác ấy, rồi Rahula nói không biết nếu thấy cảnh
này Bụt sẽ nghĩ gì. Svastika biết nếu không đi tu, thì ở lại hoàng cung để sau
này làm vua, chắc hẳn Rahula sẽ không bao giờ có dịp cỡi lên mình trâu mà đi
như hôm nay.
Chú bé Nanda đã trở lại, đại đức Svastika trở về giờ phút hiện
tại. Thầy bảo Nanda tới gần thầy, và cho chú biết thầy sẽ là thầy nương tựa của
chú. Ngay tối hôm ấy Nanda được xuống tóc làm một vị sa di. Chú tiểu mới này được
dạy cách mặc áo, mang bát và những cách đi, đứng, nằm, ngồi theo chánh pháp.
Nanda đã mười sáu tuổi và có vẻ chín chắn; thầy Svastika nghĩ
rằng hướng dẫn chú sa di này không phải là việc khó. Thầy nhớ năm xưa ở tu viện
Trúc Lâm, có một nhóm mười bảy em bé được các thầy trong tu viện chấp nhận vào
giáo đoàn để tu học, em lớn nhất mười bảy tuổi và em bé nhất chỉ mới có mười
hai. Tất cả đều là con nhà khá giả, đứa lớn nhất tên là Upali. Mười sáu em kia
đều là bạn chơi thân của Upali. Khi Upali xin đi xuất gia, cả bọn mười sáu đứa
kia đều đòi cha mẹ cho đi tu theo. Sau khi được chấp nhận, bọn trẻ được khép
vào kỷ luật của tu viện. Luật của tăng đoàn là không thể ăn quá Ngọ. Đêm đầu, mấy
em nhỏ đói quá nên khóc. Các thầy bảo phải đợi tới ngày mai mới được ăn cơm. Buổi
sáng, Bụt hỏi các thầy tại sao ban đêm lại có tiếng trẻ em khóc. Các thầy trình
bày lại tự sự. Bụt bảo:
– Từ nay về sau, các thầy không nên nhận vào giáo đoàn những
người dưới hai mươi tuổi. Các em chưa đủ sức để chịu đựng nếp sống của người khất
sĩ.
Tuy nhiên, vì các em đã được chấp nhận lỡ rồi nên vẫn được giữ
lại. Bụt dạy các thầy nên cho phép các em từ mười lăm trở xuống được ăn thức ăn
nhẹ vào buổi chiều, cũng như Rahula hồi tám tuổi. Em bé nhỏ nhất năm ấy, năm
nay cũng đã được thọ giới khất sĩ rồi vì đã đến tuổi hai mươi.
Nhất Hạnh
Theo https://thuvienonline.org/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét