"Gõ đầu trẻ"
Trường Trang Trí Mỹ Thuật, đường Chi Lăng, Gia Định trước 1975. (Hình tư liệu, LTTT cung cấp)
Bây giờ Âu châu sắp vào mùa thu, mùa tựu trường của học sinh.
Cô Ti nhìn lũ trẻ sung sướng đạp xe rào rào đến trường, sau bốn mươi lăm ngày
nghỉ hè rộn rã với gia đình, làm cô nhớ ngày xưa “Hoàng Thị” của cô.
Anh Hai kẹt giờ dạy trường khác, nhờ Ti dạy thế bốn giờ Toán ở
trường của ông Lê Vĩnh. Bài dạy anh đã soạn sẵn. Buổi sáng trời mưa hạt nhỏ.
Cũng lạ, hôm nào đi dạy ở trường này đều bị mưa. Cô mặc áo dài màu xanh lá sậm,
quần trắng, giầy creme. Khoá xe xong, cô vừa bước vào văn phòng định tìm ông
Vĩnh, Hiệu Trưởng, thì đã thấy ông ta mặc bộ đồ bà ba trắng từ trên cầu thang
nhà ông, bước vào văn phòng trường.
Cô buồn cười, Hiệu Trưởng mà ăn mặc như thế ư? Phòng làm việc
lại xây kín bít thì làm sao mọi người dễ tiếp xúc? Và cách làm việc của bà vợ
ông cũng buồn cười. Trường không ra trường, nhà cũng không ra nhà. Đúng là trường
mở ra chỉ để làm thương mại, chứ không có gì là giáo dục cả.
Ở Sài Gòn, do tình trạng chiến tranh leo thang từ hơn mươi
năm nay, nhất là sau Tết Mậu Thân 1968, dân chúng đã di tản về thành phố
rất nhiều, nên số trường học cho trẻ con và đội ngũ giáo chức cần bổ sung là vấn
nạn lớn của bộ giáo dục bấy giờ. Có lẽ vì thế nên việc cấp giấy phép mở trường
học dễ dãi hơn xưa chăng?
Cô cười thầm, nếu có thẩm quyền thì cô sẽ rút giấy phép của
ông ta lại ngay, vì mới bước vào trường cô đã nản rồi.
Ti nói:
- Thưa ông, hôm nay tôi thay thầy Long dạy 4 giờ Toán.
Ông ta trầm tĩnh chăm chú nhìn cô, nhưng ông phát ngôn làm cô
giật mình:
- Vâng, không có chi. Cô người Bắc phải không? dễ thương quá.
Cô hốt hoảng muốn thối lui, nhưng ông ta nói tiếp:
- Cô là em ruột hay em vợ ông Long mà tôi không biết, dễ
thương quá.
Eo ơi! Cô bước nhanh lên cầu thang để đến lớp, mấy lần trước
cô cũng đến dạy, ông ta nghiêm trang lịch sự lắm, cô về còn có mỹ cảm. Sao hôm
nay ông ta dị rứa?
Vào lớp Ti dẹp hết tất cả tư tưởng này, vì thấy cái lớp là muốn
hét to: Đây là lớp học hay là cái chợ đây?
Cô nghiêm dễ sợ, mặt lạnh như tiền để bắt đầu trừ lũ “ngựa chứng”
này. À, lớp 8A nghịch có tiếng mà. Vừa thấy cô giáo mới, lũ học trò vỗ bàn hét ầm
lên. Nhưng rồi thấy vẻ mặt cô, chúng im dần.
Ti cứng rắn bắt đầu nói thật to:
- Tất cả hãy đứng lên.
Cả lớp đứng đều, vài đứa che miệng cười hô hố, cô quắt mắt cố
làm chúng sợ. Và chúng sợ thật.
Ti bắt đầu dịu giọng và giảng moral cho chúng nghe, về những
vấn đề tối thiểu của học sinh cấp Trung Học: thứ nhất với ban giảng huấn, thứ
nhì với bạn bè, và thứ ba là với các nữ sinh.
Cô càng nói lời càng nhiều nghĩa, khiến chúng im lặng nghe.
Nhưng vẫn còn giọng nói ồn ồn bể tiếng của thằng ngồi đầu bàn thứ năm. Đây mới
là nguyên nhân. Còn ba đứa to đầu cao gần bằng Ti, ngồi bàn cuối nữa. Chao ơi!
đáng sợ thật, lớp như vậy mà anh Hai cố gắng dạy là đã nhẫn nại lắm. Không lạ
gì anh hay than thở là như vậy. (*)
Thế nên cô nghĩ: dạy được thì phải cố, không phải bỏ ngay,
không thể dạy ương ương được.
Ti quyết trị cho được lũ ngựa chứng này. Lớp đã không có kỷ
luật, mà còn bị bọn lớp bên cạnh phá rối, làm lây lan theo. Tội nghiệp anh
chàng áo xanh lúc nãy ở phòng Giáo Sư, nhìn nhìn cô,chắc anh chàng đang khổ sở
vì bọn chúng.
Sau màn thị sát, cô bắt chúng chép bài thi thử cho kỳ thi thật
sắp đến. Ti phạt một đứa, bắt quỳ. Bọn học trò bỗng im phăng phắc, vì từ trước
đến giờ có Giáo Sư nào bắt chúng quỳ đâu, cô phải thành công mới được. Ti gọi
ngay thằng lớn tiếng phá rối ở dưới lên, dịu dàng:
- Em trông lớp giúp cô nhá, đứa nào nói chuyện gọi ngay lên
cho cô.
Ti quay xuống nói với đám bạn nó, đề cao anh này lên tí đỉnh
để nó vui vẻ nhận lãnh công việc. Lần đầu tiên chúng thấy một cô giáo thi hành
như thế.
Đến giờ về, lớp đã tạm yên. Chúng bỗng dễ thương ra. Ti cho
tên chúa quỷ nghịch này về làm bài, sau mười phút giữ trật tự cho lớp. Phải lấy
độc trị độc mới được. Chuông tan học, lúc cô còn đứng ngoài hành lang, chờ học
trò xuống hết. Một cô bé đến nói:
- Cô dạy tụi nó sợ hơn thầy Long, thầy đánh tụi nó bể kiếng đồng
hồ mà nó cũng không sợ. Tụi nó mất dạy lắm cô ơi, cô trị tụi nó được đó cô.
Ti cười vui
– Ừ, cô biết nam sinh thì phải để cô giáo dạy, chúng mới nể.
Chiều Ti lại có hai. Giờ Sử ở trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ
Thuật Gia Định, gần nhà cô. Trường này lúc xưa là trường Vẽ hay Mỹ Nghệ Thực
Hành Gia Định. Đến năm 1971 nâng lên một cấp học nữa, là cấp một học 4 năm, cấp
hai học 3 năm, và đổi tên là Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định. Nội dung trường
đào tạo chia thành ba ngành học trang trí, kiến trúc, và ấn loát (đồ hoạ, thiết
ấn). Ti chỉ dạy phần giáo dục phổ thông thôi.
Đến trường, Ti tìm ông Ngữ Phó Giám Đốc, ông hướng dẫn cô đến
lớp Đệ Ngũ (lớp 8).
Cô hơi thất vọng. Ôi, có thật lớp học như vậy sao? Bàn ghế lỏng
chỏng, nghênh ngang và mưa hôm qua nước còn xập xình từ ngoài vào lớp. Thế mà
phòng học quá rộng, chỉ ngăn hai lớp với nhau bằng một tấm bảng, bên này giảng
thì bên kia nghe rõ như gì.
Thôi thì phải cố vậy. Từ từ cô rất vui vì học sinh trường
công ngoan và có kỷ luật hơn trường tư nhiều. Nam và nữ sinh, ngồi riêng hai
bên.
Hôm ấy Ti giảng về Lê Lợi mười năm kháng chiến và nhà hậu
Lê. Cô kể về huyền thoại Lê Lợi và Nguyễn Trãi. Chúng ngồi nghe say mê, thấy
thương vô cùng. Cô dẫn chứng vài dữ kiện trong bài học ở trường Văn Khoa cô đã
học, cho chúng hiểu và nhớ. Môn Sử tuy dễ mà lại rất khó dạy, vì nếu không có
các mẩu chuyện ngoài lề này, thì học sinh sẽ mau chán, không muốn học nữa, như
sau này cô dạy ở nước ngoài trường Tiểu Học, lũ trẻ quá nhỏ không thể nào hiểu
nổi lịch sử nước nhà là gì. Nhưng đó là chuyện mới, còn chuyện cũ này thì hãy
trở lại lớp học ngày xưa nhé.
Lúc ấy bỗng dưng Ti nhớ trường và các thầy cô ngày trước,
lòng bâng khuâng: Các thầy cô có biết ngày nay em đã đứng trước đám học trò
ngây thơ như thầy cô không?
Thấy học sinh lớp cạnh nhốn nháo, cô ngạc nhiên hỏi, một em
thưa:
- Thưa cô, hết giờ rồi đó cô.
À, hết giờ mà cũng không có chuông báo ư? buồn cười thế.
Lũ trẻ xếp tập và đổi lớp để học môn Sinh Ngữ. Lúc mới bước
vào lớp, Ti thấy những chiếc bàn vuông khá to mà có cả nắp đậy, nên có hơi ngạc
nhiên. Bây giờ mới hiểu, thì ra nó rất tiện dụng để đựng những dụng cụ vẽ và
trang trí.
Nghỉ giờ giữa, cô bước vào phòng Giáo Sư tìm nước mà bình rỗng,
lại buồn cười, sao tệ thế nhỉ.
Ti muốn đọc sách, nhưng một cô đồng nghiệp vui vẻ đến làm
quen, tên Thuỷ. Thuỷ bảo đã dạy Toán ba năm rồi và chỉ có bằng Tú Hai thôi,
nghĩa là trường mới có thêm các môn phổ thông, nên cần người có khả năng giảng
dạy, vì Giáo Sư chánh ngạch của Đại Học Sư Phạm vừa ra trường đã phải về các
vùng xa,vài năm sau mới có thể xin chuyển về Sài Gòn.
Một chị chơi thân với Thuỷ đi đến. Thấy cô lạ, chị ngỡ ngàng
hỏi:
- Ai vậy Thuỷ, dễ thương quá há.
Thuỷ gật đầu đồng ý và thêm:
- Chị ấy có nét dễ thương ghê, em mới thấy thích liền nên làm
quen nè. Chị ấy dạy Sử đó.
Nghe hai người đối đáp cô hơi thẹn và chào chị ấy.
Ti cũng quen với chị Tuyết gầy gầy, buồn buồn. Chị đã có Cử
Nhân Luật mà chỉ được dạy mấy giờ một tuần, thì làm sao khá được? Và các nam
Giáo Sư cô chỉ chào thôi.
Hết giờ giải lao, Ti đến lớp cấp II, trên lầu. Ở đây trông sạch
sẽ hơn lớp dưới. Cầu thang gỗ ọp ẹp làm cô hiểu. Bên ngoài mặt tiền của trường
được xây cất bề thế từ thời Pháp thuộc, nên đẹp như thế, nhưng bên trong chưa
có ngân khoản tu bổ trường lại, nên tệ như vậy. Tự dưng Ti thấy thương thương.
Vào lớp bàn ghế lại ngổn ngang, phải xếp lại mới được. Học
sinh thấy cô vào, một khuôn mặt lạ hoắc, nhưng có cảm tình. Chúng đưa mắt nhìn
nhau dọ hỏi. Ti cười thầm, không nói gì cả, vì sau này sẽ biết cô là ai, từ đâu
đến. Cả lớp đứng dậy chào cô.
Ti nói:
- Các em ngồi xuống.
Ti vẫn giữ khuôn mặt đạo mạo đó. Chúng bắt đầu ồn ào, cái ồn
nghênh ngang của lớp lớn đầy kiêu hãnh hơn lớp bé con lúc nãy. Cô quan sát từng
khuôn mặt học sinh. Chúng tương đối sáng sủa, đặc biệt nhất là hai đứa con trai
ngồi cuối lớp lai tây, trông nghệ sỹ và dễ thương. Cô cho chép bài học lên bảng.
Gọi một em lên chép, cô nhỏ này sao xí xọn quá, xem cô giáo như không có mặt,
miệng mồm ong óng với bạn phía dưới. Khi chép đến chỗ sai, nó xin lỗi. Hình như
cô nhỏ này chỉ nói đặt biệt cho hai đứa lai tây kia nghe thôi. Thì ra cô nhỏ
này khoái xung phong chép bài trên bảng là như vậy. Cô bé không ngượng ngùng, rất
tự nhiên đùa giỡn và liếc mắt đưa tình xem ghê quá. Con gái bây giờ mau lớn thật.
Nhưng Ti thấy vui vui và đoán chắc bong rằng cô nhỏ này đang yêu. Tình yêu ngây
thơ của tuổi học trò gặp nhau mỗi ngày đã phát sinh, đẹp thật, nhưng cũng nguy
hiểm ở tuổi mới lớn có nhiều nông nổi này.
Chợt dưng Ti có ý nghĩ phải làm cho chúng ý thức được vai trò
và thân phận của mình. Nói cũng dễ vì chúng đã lớn cả rồi. Nhưng cô chỉ bắt đầu
vài lời thân ái, chưa thể nào nói về điều mình muốn nói,vì thầy mới và đề tài lại
quá mới. Ti chờ lúc khác thuận tiện hơn.
Cô nhìn xuống lòng đường xe cộ ồn ào, thấy thích thú vô cùng,
vì nghĩ tự dưng mình đang đứng ở một nơi mà lúc nhỏ đi học ngang qua trường
này, ngước nhìn lên những cửa sổ ở lớp này, mong có ngày vào đấy. Thật không ngờ
bây giờ nó lại xảy ra?? Ngộ nghĩnh làm sao.
Cô vui tươi đi lại trong lớp vì không dấu được niềm vui thích
trong lòng: Có phải các em đang nghĩ, cô giáo mới của mình sao trẻ con thế? Này
nhé, cô phải hoà đồng để hiểu các em, chứ tuổi cô và dáng dấp có hơn các em là
bao!
Sau giờ dạy, Ti đi gặp ông Ý, Giám Đốc Trường. Các đồng nghiệp
thân mật gọi ông là anh Ý, vì ông không già chi lắm và rất tốt, nồng ấm với mọi
người. Cô thấy vui.
Cô thưa chuyện với ông để như trình diện, không ngờ ông nói
sang năm sẽ có thêm giờ dạy cho cô, vì có thêm vài lớp mới nữa. Ông còn hỏi cô
muốn dạy theo ngạch Giáo Sư tư nhân dạy giờ hay làm giờ phụ của công chức, rồi
sẽ làm Sự Vụ Lệnh luôn.
Hôm ấy đi dạy về cô vui như sáo, vì được dạy ở trường mà ngày
nhỏ cô hằng mơ ước, và đám trẻ thật dễ thương. Hai tuần sau anh Ý còn gặp Ti để
hối nộp đơn và bằng cấp cho hồ sơ chánh thức. Anh giới thiệu cho cô gặp ông Hiệp
để lo vụ ấy.
Thật ra, tuy tuổi còn trẻ nhưng Ti đã đi dạy từ lúc mới học Đệ
Tam. Lúc ấy chị hai của cô vừa cấn thai, chị thường bị thai hành khổ cực lắm,
nên phải nhờ cô dạy hộ. Chị dạy hai trường, sáng môn Việt Văn trường Bác Ái
(tên Pháp là Fraternite) ở chợ Quán, chiều chị dạy trường Tiểu Học Chu Mạnh
Trinh, Phú Nhuận. Nhờ đó, cô dạy lớp khá vững là điều không ngờ, cũng có lẽ cô
có năng khiếu về sư phạm, và cô yêu thương trẻ con.
Dạo ấy, cha mẹ trường Bác Ái yêu cầu chị hai dạy thêm Việt
Văn cho lớp hè. Nhân dịp này, cô cũng vừa nghỉ hè nên rảnh rang. Thế là mỗi
sáng Ti phải đưa chị đến trường, vì tuy chị được ban Giám Đốc cho người khác dạy
thay, nhưng cũng phải có mặt mỗi ngày đến ngồi trong văn phòng, chứ không được ở
nhà.
Trường Bác Ái rất rộng lớn, gần trường Petrus Ký và Quốc Gia
Sư Phạm. Trường có hai chương trình Pháp Việt và rất kỷ luật, học sinh khá
ngoan. Ti chỉ cần dạy hai buổi đầu là chúng thích và quen cô giáo mới rất nhanh
dù cô ta quá trẻ.
Buồn cười là đa số học sinh là người Hoa, nên cho chúng làm
luận văn là dịp để tha hồ cười. Cô giáo bảo tả con chó nhà em. Chúng viết: “Nhà
em có nuôi một con chó, nó có hai con mắt, một cái mũi, một cái miệng…”
Vài tuần sau cho bài: Hãy tả bà em. Chúng cũng viết: “Nhà
em có nuôi một bà ngoại, nó có ba chân vì đi đâu nó thường chống gậy…”
Có những buổi sáng đầu tuần, Ti vào đến sân trường đã nghe tiếng
sang sảng của thầy Giám Thị dạy dỗ học sinh sau khi chào cờ, ông nói suốt gần nửa
giờ mới cho học sinh vào lớp. Nhờ vậy trẻ có kỷ luật và đạo đức. Sân trường rộng
mênh mông với tàn cây bóng mát, không khí yên tĩnh, êm đềm vô cùng. Chỉ khác là
ông nói tiếng Quảng Đông, nghe cũng hay hay như hát, nhưng cô không hiểu ông ta
nói gì cả.
Vào mùa hè nhóm ban Việt Văn của chị hai thường tổ chức
picnic ở Vũng Tàu, Ti và me cùng đi theo tắm bể, vui ơi là vui. Chơi đùa bơi mệt
lên đã có sẵn thức ăn của me làm mang theo đầy đủ cho mọi người, ai cũng vui
thích cả. Khi về, cả nhóm giáo chức ghé nhà hàng biển ăn cơm tối thật ngon. Kỷ
niệm ấy cô không bao giờ quên.
Cũng có những lần chị Chuyên ốm – bạn chị hai – cũng nhờ Ti dạy
hộ ở trường Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận. Giờ học là buổi trưa, trường không rộng
vì nằm trong khu phố dân lao động, nên các lớp đều chật chội, mà nhét quá đông
học sinh, khi trời nóng cả thầy và trò đều nhọc mệt cả.
Các trường tư ở Sài Gòn vì chiến tranh, dân làng quê di tản về
thành phố từ mươi năm nay, nên tình trạng số trẻ quá đông và khan hiếm giáo chức.
Lũ trẻ ngoan đến không ngờ, vì khi biết mình có lỗi là chúng
tự động đi lên gần bàn cô giáo để tự phạt mình, như “thụt dầu” 20 cái rồi yên lặng
đi về chỗ, thương vô cùng.
Nghe nói Tết này bọn nhóc không có tiền chơi tất niên, Ti hứa
sẽ đãi các em một chầu kẹo, cả lớp vui mừng thấy thương. Nhìn các em ngoan
ngoãn, cô cảm thấy trìu mến và yêu thương vô cùng, một tình yêu của thầy trò của
người chị với đàn em của người mẹ với đàn con – thật bao la.
Cô sung sướng ở tư tưởng này. Ti cho chúng hát, chúng vui mừng
hát như chim. “Nằm vắt tay lên trán ta nghĩ đến chuyện cuộc đời, ngồi bấm
đốt ngón tay ta nghĩ đến chuyện ngày mai..” và các bài “Em đi trong
thu tàn nào ai nhìn thấy em tôi..” và “Sao mầy nhát thế?” của nhạc
sỹ du ca Nguyễn Quyết Thắng. Chúng hát líu lo, giọng trẻ thơ làm Ti cảm động muốn
khóc. Thời ấy, đôi khi dạy trường Tiểu Học tư, đa số trẻ nghèo mà lại rất dễ dạy
hơn các trường nhà giàu nhiều.
Gần Tết các lớp của Trường Trang Trí Mỹ Thuật đưa thư mời
Ti dự tất niên lớp. Nhìn bao thư nhỏ bé xinh xinh, viết mực tím vẽ thêm cành
hoa. Ti bảo:
- Các em là cô vào những năm trước, cô rất cảm động. Nhưng
làm sao cô có đủ giờ đi hết các lớp đây!
Rồi ông Ngữ, phụ tá học vụ cũng mời các thầy cô về nhà chơi.
Năm ấy Ti dự buổi tiệc tất niên rất thịnh soạn ở trường ấy. Ti quen biết thêm
nhiều bên trường cao đẳng. Nhớ nhất là chị hoạ sỹ Bé Ký có gương mặt tròn tròn,
vui vẻ và tươi sáng. Ti cũng quen một chị thật nghệ sỹ dạy môn trang trí. Hôm ấy
vui quá, ai cũng nói về nhiều vấn đề và lại xoay qua thời sự lúc ấy đang sôi động
và chiến trường đang dầu sôi lửa bỏng.
Mặt tiền trường trung học Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định, 1960.
(Hình tư liệu, LTTT cung cấp)
***
Sau Tết, Ti vào lớp thấy hơi trống:
- Ăn Tết vui không, mà sao lớp lại trống thế này?
- Không vui cô ơi, ít tiền lỳ xì quá.
Thật sao, các lớp khác cũng kêu buồn và ngay cả trường Bác Ái
nhà giàu mà cũng kêu ít tiền lì xì như thế. Có phải chiến tranh đang sôi động
và gần kề thành phố Sài Gòn chăng?
Cô im lặng trả bài thi và giảng về nhà Lý an ninh, càng nói
Ti càng say sưa và tụi học trò càng say mê nghe.Vì bài giảng tuy có ít đề cập đến
bài học khô khan này, nhưng làm cho chúng thích thú và sát đề tài hơn.
Giờ cuối dạy lớp đệ II cấp, lớp chỉ còn 18 đứa. Chúng khá
ngoan. Ti trả bài thi, nói qua đề tài về những nguyên nhân gây ra chiến tranh,
vì những điều lợi nhỏ hay lớn.
Đến vấn đề tuổi hồng của bọn học trò. Nhân lúc Ti hỏi tại sao
vua Lê Thánh Tôn lại tha cho những công thần, người già và trẻ con. Còn các em
có phải là trẻ con không, nếu trong thời đó?
- Không cô, tụi em là tuổi choai choai.
- Đúng, các em không phải trẻ con mà cũng không phải là người
lớn. Tuổi mà sư huynh Mai Tâm gọi là tuổi hồng, tuổi mơ. Nhạc sỹ Phạm Duy cũng
gọi như thế. Nhưng các em không thể ý thức được mình đang có tuổi đẹp ấy. Vì ý
thức được nó đẹp là đã hết đẹp rồi, và chỉ khi nào qua khỏi nó rồi, mới hiểu mới
tiếc thì nó đã vụt mất rồi.
Ti nói rất nhiều về điều mà cô cảm thấy cần nói cho chúng hiểu,
nên giờ dạy vui vô cùng hứng khởi trong tình thầy trò ở lứa tuổi này dễ thân mật,
hiểu nhiều hơn là trẻ Tiểu Học quá bé bỏng.
Có một buổi chiều Ti đến trường muộn năm phút. Nhưng lại là
lúc trường đang có một nhóm người của phòng điện ảnh đến quay phim thời sự, mà
cô bất ngờ bị chỉ định làm tài tử chính.
Eo ơi! cô sợ bắt chít, biết chi mà làm đây? Nhưng cũng muốn
chiều lòng ông phụ tá trường, cô đành đến phòng học lớp Đệ Tứ. Đèn pha nóng quá
và cô không biết gì về vai trò của mình nên cứ lúng túng. Một ông tóc bạch kim
làm đạo diễn, phong thái lịch lãm và ông đã thành công nhiều. Ông ấy chỉ dạy cô
từng động tác và phải thử đi thử lại hai, ba lần mới thực sự quay.
Phim chỉ cần có ba đoạn ngắn thôi mà phải sửa soạn cả giờ, mệt
nhỉ?
Vui, nhưng cô ngượng quá vì môn này hoàn toàn mù tịt, biết gì
mà giảng như ông ta muốn. Thế nên cô cứ buồn cười mà phải bấm môi lại. Quay
phim xong, Ti được biết đó là phần chính của cuốn phim thời sự “Những Hoạt Động
Về Ngành Văn Hoá Giáo Dục của VNCH.” Nhưng ba tháng nữa mới xong. Ông bảo:
- Thế là cô đã đóng phim và là “tài tử” rồi đấy.
Ti phì cười, vui vui, và tò mò muốn được xem mình đóng ra sao
mà chẳng dám hỏi nhiều. Nhưng rồi cuốn phim ấy cô không bao giờ được xem, vì
ngày ấy đã muộn màng.
Rồi từ khi ấy đến khi chiến tranh mang hạnh phúc dần theo, lũ
học trò buồn như cô thầy chúng. Vào trường dạy, Ti nghe chị Thanh chị Tuyết dạy
những lớp Đệ Nhị Cấp, bảo học sinh bỏ cả học, lớp trống, vắng hoe. Thanh niên
bây giờ tội nghiệp quá, 17 tuổi đã bị bốc đi quân trường.
Chúng bi đát nói rằng:
- Tụi em đi sớm đặng nghỉ sớm. Mai mốt em về Biên Hoà đó cô,
em chọn chỗ đó rồi cô ơi.
Ôi! ai nghe mà không não lòng?
Ti vào lớp chúng cũng nhốn nháo. Cô cho đọc bài, thằng Dũng
lai chỉ thuộc bài sơ sơ thôi mà lại cứ đứng cười cười. Cô bắt nó tuần sau phải
lên đọc bài lại, nó hơi bất bình. Các đứa khác đều khá thuộc bài, rất vui. Cô
giảng bài mới về vua Quang Trung đại phá quân Thanh, mà lúc nhỏ cô phải thuộc
lòng. Nhưng lần nào cũng không kịp giờ vì chúng tranh nhau hỏi nhiều quá, cô
cũng hỏi chúng có chờ mong một vĩ nhân như vậy cứu nước mình bây giờ không?
Chúng nhao nhao tranh nói, thật vui.
Thế rồi từ đấy đến những ngày tháng cuối cùng, sắp tan vỡ tất
cả hạnh phúc của miền Nam. Ti đi dạy không cho học bài mới nữa, mà chỉ nói chuyện
vòng quanh, từ lịch sử thế giới sang nước nhà thời Hồng Bàng đến hiện tại.
Cô hỏi rằng các em còn nhớ chuyện Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc?
có phải vì rắn thần trả thù không, ai có ý kiến? Lũ trẻ im lặng, ngẩn ngơ vì
chúng chưa bao giờ thắc mắc về huyền thoại cả. Chúng tin đó là sự thật. Ti nói
cô muốn cho các em học phải biết suy nghĩ đúng hay sai, chứ không nên tin vào tất
cả sách vở, hay người nào mình kính sợ như vậy. Nghĩa là phải tin vào trí sáng
suốt của các em.
Thằng Hiếu đưa tay:
- Thưa cô, em thấy huyền thoại nào cũng hay và linh thiêng
quá, nhưng em thắc mắc tại sao vua Lê chết được như vậy, trong khi Nguyễn Trãi
và bà Thị Lộ là người lương thiện, nào dám giết vua đâu? và con rắn chết như vậy
có thật nó trả thù không hở cô?
Ti sung sướng khen nó giỏi, và bắt đầu giải mã câu hỏi của
nó. Lịch sử nào cũng có thật và có giả, vì thời đại nào họ đều viết tốt theo
vua chúa ấy. Vua Lê không chết vì thuốc độc của Thị Lộ như bị vu oan, mà người
gây ra vụ án này là bà thứ Phi của vua, vì ghen ghét thị Lộ quá sức, nên dựng
nên màn kịch thảm thương như vậy, để Nguyễn Trãi và thị Lộ và ba đời nhà Nguyễn
Trãi là nạn nhân thảm thương như thế. Có phải chỉ vì giận vì tham vì si mê, mà
con người biến chất, nên độc ác như vậy chăng? Còn chuyện con rắn chỉ là cái cớ
dựng lên thôi. Sau này học cao hơn, các em sẽ hiểu nhiều hơn, rất thú vị. Và nếu
ta tự tìm hiểu ngay bây giờ thì lại càng tốt.
Ti nói thì càng hăng, đến say mê, còn đám trẻ cứ nghệt mặt ra
nghe, thương thương là.
Nhưng nỗi buồn đau về tình hình đất nước trong cơn dầu sôi lửa
bỗng này, thầy trò Ti chỉ còn một buổi học nữa là chia tay. Thôi hãy yêu dấu những
gì mình đang có, để ngày sau biết ra sao ngày sau?
Rồi đến buổi dạy cuối cùng, bỗng có đám cháy to ở sau khu Ty
Y Tế Gia Định làm mọi người lại xôn xao, hoảng sợ. Đường kẹt cứng. Cả thầy trò
đều buồn. Lớp học rất đoàn kết và thương nhau, làm Ti thương chúng hơn bao giờ
hết.
Các em đưa lưu bút cho Ti. Cô viết vội cho các em. Viết xong
Ti muốn bật khóc, đám nhóc mắt rơm rớm nhìn cô thương yêu. Ôi! chúng ngây thơ
nào hiểu được những điều rất kinh khủng sẽ xảy ra, mà cô đã cho chúng khái niệm
trước như vậy.
Rồi chuyện gì đến, cũng sẽ đến. Từ giữa tháng 4 các học trò
trường Bác Ái đã rục rịch di tản rồi. Chị Hai đi dạy về bảo:
- Tụi cháu chú Hoả (**) năn nỉ chị đi theo gia đình chúng qua
Hồng Kông trước. Ba má chúng đã dành cho chị một vé bay, nhưng chị từ chối vì
còn chồng con chị. Tụi nó khóc đòi chị theo, chúng thương cô giáo Việt Văn vô
cùng.
Thế rồi gia đình anh chị hai ở lại suốt năm mươi năm nay. Phải
cam chịu bao nhiêu là nhọc nhằn, đau khổ với cộng sản và anh hai đã mất sớm. Chị
hai còn lại đành chịu tiếp tục.. đời đắng cay.
Riêng Ti may mắn hơn, đã ra đi với chồng con và an
lành, đến bến bờ tự do và được trở lại nghề “gõ đầu trẻ.”
Thế mới biết, nghề chọn ta hay ta chọn nghề.
***
*Các năm 1973 đến 1975, tuỳ trường, trả lương giáo sư dạy là
280 đồng/giờ. Một tô phở giá 120 đồng, 1 đĩa bánh cuốn Đình Đakao 120 đồng, 1
lít xăng 100 đồng.
** Ai ở Sài Gòn thời đó đều biết huyền thoại về gia đình chú Hoả. Ông gốc người Phúc Kiến, đạo Chúa. Đến Việt Nam được chúa Nguyễn cho ở Nam Bộ từ thế kỷ 17. Lúc đầu ông bán ve chai sau đổi tên là Jean baptiste Hui Hoa thì giàu có vô cùng. Ông lập công ty bất động sản tên Bui Bon Hoa lớn nhất Sài Gòn, và xây dựng nhiều công trình lớn ở Sài Gòn-Gia Định như bảo tàng viện Mỹ Thuật Sài Gòn; Hotel Majestic, Trung tâm cấp cứu Sài Gòn, bệnh viện, ngân hàng,… Đại gia đình chú Hoả nổi tiếng không chỉ giàu, mà còn giúp cho cộng đồng rất nhiều điều tốt đẹp.
14/11/2025
Lê Thị Thanh Tâm
Nguồn: https://saigonnhonews.com/
Theo https://www.tongphuochiep.com/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét