"Một thời…" của
Nông Thị Ngọc Hòa
Bài thơ “Một thời…” của nhà thơ Nông Thị Ngọc Hòa không chỉ có giá trị một thời bởi âm điệu ấy, hơi thơ ấy, khát vọng và nỗi niềm ấy đã và đang hiện diện trong tâm trí nhiều người. Và khi tìm được tri âm, đồng điệu thì giá trị sẽ còn mãi…
Sinh năm 1955, dân tộc Tày, nhà thơ Nông Thị Ngọc Hòa quê
quán xã Yên Thịnh, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, hiện thường trú tại Phường Tân
Dân, Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Chị là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện
là Chi hội trưởng Chi hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam tỉnh
Phú Thọ, Uỷ viên Ban thường vụ Hội Liên hiệp VHNT tỉnh Phú Thọ.
Nhà thơ Nông Thị Ngọc Hòa đã đạt nhiều giải thưởng về thơ của
Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam, Giải thưởng Hùng Vương và chị đã được tặng
Huy chương Vì sự nghiệp văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam; Kỷ niệm
chương Vì sự nghiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, Kỷ niệm chương Vì sự ngiệp
Tuyên giáo, Kỷ niệm chương Hùng Vương…
Là người dân tộc Tày, chị am tường phong tục miền núi, độc giả
yêu thích nhiều câu thơ, nhiều bài thơ mang phong cách riêng của chị. Trong các
bài thơ của Nông Thị Ngọc Hòa được nhiều người biết đến, được nhiều sinh viên
nghiên cứu, làm đề tài cho luận văn thạc sỹ, tôi thích bài thơ “Một thời…”.
Đọc nhan đề bài thơ “Một thời”của chị, trong tôi lại văng vẳng
câu “Ai cũng có một thời để yêu và một thời để nhớ” của Thuận Hữu. Vâng, “Một
thời…” là nhan đề có sức gợi, sức liên tưởng và dễ thu hút người đọc, nhất là
những người từng trải và những người yêu thích thơ văn. Nó tạo ra một trường
liên tưởng, một sự hoài niệm, nó khiến người đọc quay về quá khứ, khơi dậy những
gì đáng nhớ, đáng yêu đã diễn ra trong khoảng thời gian lâu, hoặc rất lâu trước
đó.
Và câu thơ thứ nhất trong khổ thơ mở đầu “Ta được yêu từ
thiên niên kỷ trước” đã hé lộ điều độc giả nghĩ là không sai, câu chuyện được
tính bằng thiên niên kỷ, là câu chuyện của ngàn năm trước
Ta được yêu từ thiên niên kỷ trước
Ai đến tìm đi hết tiếng chiêng ngân
Trăng sừng nai nhấp nhô trên ngực núi
Má lửa say nghiêng ngả với rượu cần
“Ai đến tìm” ta phải đi qua chiều dài của “tiếng chiêng
ngân”, phải đi qua đêm tức là khoảng cách không hề ngắn. Tuy nhiên, sẽ thật ấm
áp trên hành trình tình yêu ấy bởi đêm không hề tối, đêm có sự soi sáng của “Trăng
sừng nai nhấp nhô trên ngực núi”, có ánh lửa đêm “nghiêng ngả với rượu cần”.
Ngay khổ thơ đầu đã có sức cuốn hút, sức thôi miên khiến người đọc như được ngấm
men say, say tình, say cảnh và say cái cách diễn tả độc đáo, ấn tượng của nhà
thơ. Khổ thơ tựa như bức tranh phong cảnh sống động với âm thanh “tiếng chiêng
ngân” ngân dài, thao thiết; với hình ảnh ánh trăng khuyết, không phải “giống
con thuyền thoi” như hình dung của dân miền biển mà là “Trăng sừng nai” đậm chất
núi rừng. Trăng như con người, không đi thẳng một bước lên đỉnh núi mà “nhấp
nhô trên ngực núi”. Như vậy, không chỉ trăng được nhân hóa mà cả núi, cả lửa, cả
rượu cần cũng được nhân hóa sống động trong bức tranh thi vị. Không nói ánh lửa
bập bùng mà là “Má lửa say nghiêng ngả với rượu cần”. Câu thơ vừa sáng tạo lại
vừa gần gũi, mang đậm chất hiện thực, khai thác chất liệu thực tế nhưng lại
tràn ngập không gian lãng mạn, đắm say lòng người.
Khổ thơ thứ hai, lặp lại câu mở đâu và lại mở ra một trường
liên tưởng mới:
Ta được yêu từ thiên niên kỷ trước
Khi suối nguồn róc rách chảy về sông
Thác kiêu hãnh gầm gào không lạc giọng
Như ngựa hoang- gió chạy khắp núi rừng.
Không gian núi rừng thêm cảnh “suối róc rách”, thêm “Thác gầm
gào”, thêm gió thổi mạnh khắp rừng, nhanh và mạnh như ngựa hoang phi nước đại.
Không gian thực mà đẹp như mơ, chất lãng mạn được thể hiện qua sự tài hoa khi sử
dụng câu chữ, chất lãng mạn còn được tạo nên bởi tâm hồn thi sỹ đang đắm say,
say về với kỷ niệm quá khứ và say bởi tình và cảnh hòa quyện đẹp như tranh. Thủ
pháp nhân hóa tiếp tục được sử dụng khiến cho cảnh vật mang tâm trạng con người,
sống động và hấp dẫn. Tâm trạng của chủ thể trữ tình tiếp tục được khai thác về
chiều sâu “Ta được yêu từ thiên niên kỷ trước/Khi suối nguồn róc rách chảy về
sông”. Vậy là “thiên niên kỷ trước” cũng chỉ là con số ước lệ thôi, ngay từ khi
phát khởi, dòng sông đã đổ về biển cả, vậy không thể tính rõ tháng năm, và từ
thuở ấy “ta” đã được yêu.
Hình tượng “Thác kiêu hãnh gầm gào không lạc giọng” bên
cạnh thủ pháp nhân hóa còn mang tính ẩn dụ cao, là thác tất phải “gầm gào”,
nhưng thuộc tính vốn có ấy lại “gầm gào: trong thế kiêu hãnh, “gầm gào” mà
“không lạc giọng”, nghĩa là mang bản sắc riêng, đầy tự tin và tiết chế, tiết chế
cảm xúc, tiết chế khát vọng. Bổ trợ và nhân lên nét đẹp của bức tranh phong cảnh
khổ thơ thứ hai, bên cạnh nhân hóa, ẩn dụ còn có thủ pháp so sánh và đảo ngữ ở
câu thơ cuối “Như ngựa hoang- gió chạy khắp núi rừng”, nếu diễn xuôi thì của
thơ này là gió như ngựa hoang chạy khắp núi rừng. Sức chạy của ngựa hoang, tốc
độ chạy của ngựa hoang là khó lòng đo đếm. Câu thơ làm nên vẻ đẹp kiêu hùng cho
bức tranh phong cảnh ở khổ thơ thứ hai.
Và, khổ thơ thứ ba dẫn dụ người đọc vào một miền thao thức mới.
Khát vọng tuổi thanh xuân, sự trăn trở về tương lai phía trước, nỗi niềm mong
ngóng một lời hẹn ước được lộ diện
Ta được yêu từ thiên niên kỷ trước
Nơi mặt trời thao thức mấy nghìn năm
Tim đau đáu biết bao giờ ngủ được
Nụ yêu thương có hẹn đến hôm rằm?
Vẫn là khát vọng cháy bỏng về một niềm yêu sẵn có, vốn có “Ta
được yêu từ thiên niên kỷ trước/ Nơi mặt trời thao thức mấy nghìn năm”. Bắt
nhịp lô gic, chặt chẽ và hài hòa với khổ thơ trên “Ta được yêu từ thiên niên kỷ
trước”, từ khi suối chảy về sông, từ nơi mấy nghìn năm trước đã có ánh mặt trời
xuất hiện và soi sáng nhân gian.
Tuy nhiên, cái hay và độ sâu sắc của câu thơ, ý thơ lai được
hiện diện qua thủ pháp nhân hóa “Nơi mặt trời thao thức mấy nghìn năm” không
chỉ là nỗi niềm của thiên nhiên mà sự thực là nỗi niềm, tâm trạng, là khao
khát, là chờ mong, là sự thao thức trong tâm hồn người con gái “Tim đau đáu biết
bao giờ ngủ được/ Nụ yêu thương có hẹn đến hôm rằm ?”. Hai câu hỏi tu từ liên
tiếp xuất hiện. Câu hỏi thứ nhất diễn tả ở cấp độ cao hơn của sự thao thức, mặc
dù ngôn ngữ rất thật, rất đời thường “Tim đau đáu biết bao giờ ngủ được”. Tại
sao không ngủ dược? Tại sao lại thao thức? Câu trả lời xuất hiện cuối khổ thơ,
dưới dạng một khát khao, một mong mỏi, đỉnh cao của chờ đợi, đỉnh cao của dấu
yêu “Nụ yêu thương có hẹn đến hôm rằm ?”.
Khổ thơ cuối bài không chú tâm diễn tả ngoại cảnh nữa mà đi
sâu, đi thẳng vào thế giới nội tâm
Ta được yêu từ thiên niên kỷ trước
Tóc ngả màu cứ ngỡ tuổi đang xanh
Thiên hà trót bỏ quên niềm mong ước
Chốn hư vô – táo chín vẫn để dành.
Bởi thấy mình xứng đáng “được yêu từ thiên niên kỷ trước” nên
hoài niệm khiến con người tỉnh thức “Tóc ngả màu cứ ngỡ tuổi đang xanh”. Tuy
nhiên, thực tế chứng minh, tình yêu và khát vọng của con người không có tuổi,
không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Còn nhớ có ai đó đã nói rằng
“Khi người ta còn yêu là khi người ta còn trẻ”, vì vậy, thật đáng trân trọng
giây phút, cảm giác, nỗi niềm “Tóc ngả màu cứ ngỡ tuổi đang xanh”.
Hai câu thơ cuối “Thiên hà trót bỏ quên niềm mong ước/Chốn hư
vô- táo chín vẫn để dành” cho thấy một thực tại, một khát vọng được sống dậy
kỷ niệm xưa. Hai câu cuối liên hệ chặt chẽ với câu chuyện Vườn địa đàng của A
Đam và Ê Va, vì trót yêu thương, vì trót ăn trái cấm mà bị đày xuống trần gian.
Ở đây, “táo chín vẫn để dành”, khát vọng thuở nào bị kìm nén, tưởng năm tháng
qua đi sẽ nguôi ngoai. Nhưng không, đã là tình cảm chân thành, đã là cảm xúc
đích thực thì không thể “Hãy để ngày ấy lụi tàn” được.
Bài thơ “Một thời…” của nhà thơ Nông Thị Ngọc Hòa không chỉ có giá trị một thời bởi âm điệu ấy, hơi thơ ấy, khát vọng và nỗi niềm ấy đã và đang hiện diện trong tâm trí nhiều người. Và khi tìm được tri âm, đồng điệu thì giá trị sẽ còn mãi. Cảm ơn nhà thơ cho ra đời sản phẩm tuyệt hay, vừa mang nét cá tính riêng của tác giả vừa mang đậm chất núi rừng hào hùng mà sâu lắng.
31/7/2024
Đỗ Nguyên Thương
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét