Tiêu Sơn tráng sĩ 1
Hồi 1
Người Khách Lạ
Tuy mới vào khoảng đầu giờ Dậu, nhưng về tiết mùa đồng, trời
đã nhá nhem tối. Các nhà, các hàng xén ở phố Từ Sơn đều đóng cửa. Chỉ trừ một
hàng cơm là có ánh sáng. Và luôn luôn ở trong đưa ra tiếng cười nói ầm ỹ.
Một trang thiếu niên kỵ sĩ, từ phía Nam tới, kìm ghì cương ngựa
trước cửa hàng. Chàng y phục nai nịt gọn gàng, đầu đội nón lông đen, chân đi
hia chẽn, cỗ quấn một cái khăn lụa trắng thắt lỏng, mối bỏ rủ sau lưng. Con ngựa
của chàng sắc nâu xẫm, và tuy nhỏ thon, nhưng có dáng mạnh mẽ và khoẻ dai. Trời
lạnh buốt căm căm mà mình nó ướt đẫm mồ hôi, xem đó đủ đoán biết chủ nó đi từ
xa lại. Thế mà mũi nó hục hặc thở ra hai luồng hơi khói, bốn gió nó cuốc xuống
đất như gõ nhịp, để tỏ ý muốn là còn thừa sức chạy một thôi dài nữa. Kỵ sĩ lấy
tay vỗ khẽ vào cổ ngựa nói :
- Hãy thong thả, tuấn mã, đi đâu mà vội thế? Thầy trò ta nghỉ
chân ăn lót dạ đã.
Chàng vừa toan xuống ngựa, thì mắt chàng ngầu nhiên để tới một
cái bảng gỗ vuông quét vôi trắng, trên viết những chữ nôm thật to, to đến nỗi
trời đã gần tối hẳn mà chàng còn lỗ mỗ đọc được...
Nhưng giữa lúc đó, sau một tiếng hét của con ngựa thì tiếng ồn
ào cười nói trong hàng cơm im bặt. Rồi cánh cửa hé mở, một người thò đầu ra hỏi:
- Ai?
Không trả lời , thanh thiên võ sĩ nhnh nhẹn nhảy ngoắt xuống
đất, kéo và vuốt áo cho hết nếp răn vì ngồi trên yên, chàng đã giắt vạt cả vào
trong chiếc giây lưng điều. Đoạn, thong thả, dõng dạc, chàng bảo người vừa hỏi
:
- Chú còn đợi đến bao giờ mới ra giắt ngựa của ta vào tàu?
Ý chừng cho là lời nói đó hỗn xược, người kia mở mạnh cánh cửa
bước ra đường đứng phưỡn ngực chống tay vào sườn, gật gù hỏi lại:
- Anh co biết tôi là ai không mà dám nói xách mé như thế?
Người khách mới đến mỉm nụ cười khinh bỉ thản nhiên đáp :
- À, ra tôi lầm! Ý chững chú không phải là chủ quán hay người
nhà hànng cơm.
Rồi, sau khi đã buộc giây cương vào đầu một cái kèo ở mái
hiên, chàng đi thẳng vào trong hàng, lớn tiếng gọi :
- Chủ quán!
Nghe tiếng chàng sang sảng, ngắm thân thể chàng cao lớn, mạnh
mẽ, nhất lại nghe lách cách cái vỏ kiếm chàng đeo bên sườn đập vào ngường cửa,
người chủ hàng cơm hốt hoảng chạy ra húm núm chào và lễ phép hỏi :
- Bẩm quan lớn truyền...?
- Sắp rượu làm một con gà nhắm. Đoạn ra giắt ngựa vào tầu cho
nó ăn thóc.
- Dạ
Bốn người ngồi quây quần đánh tam cúc ở một cái phản bên rướng mắt ngạc nhiên, yên lặng nhìn. Người ở ngoài đường quay vào nói to bảo bọn
họ, có lẽ cốt để vò sĩ vừa tới nghe rõ:
- Lệnh trên ban xuống cho anh em mình canh phòng ở đây, các
chú phải cẩn mật, nếu vô ý để phạm nhân trốn thót thì đầu anh em mình chẳng còn
đâu!
Dứt lời, bác cai - vì bọn đó là một viên cai và bốn tên lính
- trèo lên ngồi chểm chệ trên một cái phản cao kê liền bên.
Người trẻ tuổi mới đến tò mò đưa mắt quanh phòng rồi mỉm cười
hỏi bọn lính :
- Này các chú, có xảy ra việc gì mà việc canh phòng cẩn mật
thế?
Một người lính trỏ lên cái bảng cũng giống cái bảng treo ở
ngoài cửa mà nói rằng :
- Đọc đó sẽ hiểu.
Trong khi người khách lạ đứng lên cái ghế đẩu vuông để xem bảng,
thì viên cai và mấy chú lính nháy nhau thì thầm:
- Khả nghi!
- Đề phòng!
- Tôi hỏi tín bài hắn nhé?
- Hãy thong thả. Nhưng phải luôn luôn để ý đến hắn. Mà khí giới
để đâu cả?
- Để cả dưới gầm phản.
- Đeo dao ngay vào thắt lưng. Còn mã tấu, đoản kích thì của
ngươ`i nào, ngươ`i ấy đặt ngay bên mìn để phòng biến. Mà se sẽ chứ chẳng hắn biết.
Nghe chừng hắn ta cũng không phải tay vừa đâu.
Người trẻ tuổi vẫn đứng trên ghế lẩm mhẩm đọc :
" Quan trấn thủ trấn Kinh Bắc Nguyễn Mỗ có lời yết thị
như sau này :
" Từ khi đức Thái tổ Võ Hoàng đế đánh đuổi quân Tôn Sĩ
Nghị như đàn chuột về Tàu, và trừ tiệt giặc giã quấy nhiễu trong nước, thì trăm
họ đều được an cư lạc nghiệp. Nhưng gần đây một tên ngông cuồng dấy loạn để làm
rối cuộc thái bình, nhân dân đều oán coi như kẻ thù chung. Tên ấy là Nguyễn
Đoàn người hạt Từ Sơn. Than ôi! Lưới trời tránh sao cho thoát, nhờ oai hoàng đế,
bản chức đã bắt sống được tên phản quốc và đã hành hình nó rồi. Song dư đảng bọn
giặc còn luẩn quẩn vùng này, mà trong bọn có một tên rất nguy hiểm ấy tên là Phạm
Thái tức Phạm Phụng con tên nghịch tặc Thạch Trung Hầu, quán thôn Yên thị, xã
Yên Thượng, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn.
" Phạm Tha'i vào trạc hai mươi tuổi, người vừa tầm, nhưng
rất khỏe, rất giỏi võ. Dưới đây có phác bức hình , hoạ theo những lời trình bày
của các thám tử...
" Ai bắt sống được Phạm Thái sẽ thưởng tiền một nghìn
quan. Ai giết chết hắn sẽ thưởng tiền năm trăm quan.
" Nhận được giấy yết thị nầy, các viên phân tri phải dán
ở các ngã ba cùng các tửu quán có đông người lai vãng. Lại cho lính ngày đêm
canh phóng ở các nơi mà quân gian có thể tụ họp được.
" Niên hiệu Cảnh Thịnh, Năm thứ năm, tháng chạp, ngày mồng
ba ".
Ở một góc bảng, có vẽ rất sơ sài diện mạo một ngưòi đàn ông
và chừng mấy hàng chữ sau này :
" Mặt trái soan, miệng rộng, mắt hơi xếch lông mi rậm,
tai to, có một nốt ruồi ở sau tai bên phải "
Chàng trẻ tuổi bỗng nhiên cất tiếng cười vang. Bọn lính cơ ngạc
nhiên nhìn nhau, rồi một người mạnh bạo hỏi :
- Cớ sao đọc tờ yết thị của quan trấn thủ, nhà ngươi lại dám
chế nhạo?
Chàng kia quay lại đáp :
- Không, ta có chế nhạo ai đâu? Ta chỉ tức cười chết đi vì
câu : " Có một nốt ruồi sau tai phải ". Thiết tưởng nếu tráng sĩ Phạm
Thái là người rất khoẻ, rất giỏi võ như tờ yết thị đã nói, thì còn ai dám đến gần
vạch tai hắn ra mà xem nốt ruồi? Thành thử câu chỉ thị đó là thừa.
Dứt lời, chàng lại cười, lấy làm thích chí lắm :
- Trời ơi? Sao không chua : Phạm Thái có cái mũi ở giữa mặt,
có cáo cằm ở dưới mũi, có phải dễ nhận hơn không?
Viên cai đứng dậy quát :
- Anh không được hỗn xược với quan trấn thủ!
Chàng trẻ tuổi vờ nhún nhường đấu dịu :
- Sao chú vội giận thế? Nào tôi có hỗn xược gì đâu! chẳng qua
bản một câu cho vui đấy thôi chứ.
Vừa nói chàng bước xuống đất, rồi như quên hẳn câu chuyện vừa
xảy ra, chàng gọi :
- Chủ quán!
- Dạ
Một người to béo mặc áo cánh bông, đầu chít chéo vuông khăn
nhuộm nâu, nặng nề đi lại gần, chắp tay chờ lệnh.
- Chủ mi đâu?
- Bẩm quan lớn! Chủ con đương làm nhắm hầu quan lớn.
- Sao rượu ta gọi từ nãy vẫn chưa đem ra?
- Bẩm, con, tưởng còn chờ nhắm.
- Cứ đem rượu ra trước đã.
- Bẩm có hâm nóng không?
- Không cần. Mau lên!
- Dạ! Nhưng ngài sơi rượi gì?
- Rượu Cúc! Mau!
- Dạ!
Tức thì tên hầu rượu vào buồng lấy ra đặt lên bàn một cái nậm
và một cái chén vại mà hỏi :
- Bẩm công tử ngồi giường hay ngồi bàn?
- Ngồi bàn được rồi. Mà sao đèn lù mù thế này. Chặp ba sợi bấc
vào, rồi đi lấy thêm dầu rót cho đầy bát.
- Dạ
Chàng trẻ tuổi uống luôn ba chén rượu đầy, chép miệng liếm
môi chau mày nói lớn :
- Hừ! Rượu thằng cha pha nước lã nhiều quá, uống chẳng mùi mằn
gì!...Quán!
- Dạ
Tên hầu sợ hãi bước tới, vì hắn đã nghe rõ lời chê bai của
ông khách. Nhưng ông khách ôn tồn hỏi :
- Có mực không?
Tên kia vui mừng đáp :
- Bẩm công tử, có mực Bắc Hải ngon lắm.
- Bậy đi sắp cho ta cái hỏa lò than hồng với lại đem lên đây
mươi con mực.
Một lát sau, mùi mực nướng thơm phức bay khắp gian phòng. Và
ông khách đã dùng đến nậm rượu thứ ba.
Viên cai bắm bọn lính ra hiệu thì thầm :
- Thằng này tôi xem chừng nó là Phạm Thái. Mặt trái soan thì
đích rồi. Lông mày tuy không rậm nhưng không thưa. Còn miệng hắn như thế cũng
có thể cho là rộng được.
- Vâng, có lẽ đích rồi.
- Giá bây giờ ai lén đến sau lưng lật trái tai hắn ta lên xem
có nốt ruồi không, thì mới biết chắc chắn được.
Mọi người im lặng nhìn nhau, có ý lo sợ. Viên cai ngẫm nghĩ rồi
nói :
- Các chú ạ, ta nói phải dùng mưu...Thế này này : Bây giờ ta
nói phỉnh cho nó uống thật nhiều rượu. Khi nào nó say mềm, ta chỉ việc trói gô
lại là xong.
- Nhỡ nó không phải Phạm Thái.
- Thì thả nó ra.
- Vậy được rồi.
Người trẻ tuổi thấy bọn kia ở ngoài đi vào, nét mặt ai nấy có
vẽ bí mật, thì vui cười hỏi :
- Các chú đi tìm Phạm Thái về đấy à?
Viên cai cơ đáp :
- Phạm Thái hắn ẩn núp ở nơi rừng rú, chứ dám bén mảng về
đây.
- Phải, hắn ta dại gì mà về chứ để người ta bắt.
Nói dứt câu, chàng thích chí cười khanh khách. Rồi chàng nâng
chén rượu nốc một hơi cạn. Viên cai tấm tắc khen :
- Giỏi thực! Tửu lượng công tử ít người sánh kịp. Thưa công tử,
công tử uống nổi mấy nậm?
- Cái đó tùy! Rượu ngon thi mười nậm cũng là ít.Chứ rượu thằng
cha này nhạt thếch uống chán phè. Nhưng kìa, sao các chú không uống rượu với
tôi?
Nghe người ta gọi mãi mình bằng chú, viên cai căm tức muốn
sinh sự ngay, nhưng lại nghĩ đến mưu sâu đã sắp thành, nên cố nén lòng nhẫn nại
và phỉng thêm một câu :
- Vâng, rượu này chỉ bọn anh em chúng tôi uống, chứ công tử
thì phải sơi những thư rượu hoàng cúc, thanh mai, hay ngũ da bì chính hiệu kia.
Chàng tuổi trẻ cười :
- Nhưng thôi, các chú ạ, người quân tử không nên nghĩ đến cái
an, cái uống tha thiết quá. Tối nay ta có thứ rượu cúc khổ này của anh quán khổ
thì ta hãy tạm thích nó vậy.
- Dạ, ngài nói phải lắm .
- Vậy bây giờ tôi mừng các chú mỗi người một chén để các chú
tỉnh ngủ mà canh phòng nhé?
- Dạ, đa tạ công tử.
Chàng tuổi trẻ liền đập mạnh cái nậm thiếc xuống bàn gọi :
- Bớ quán!
- Dạ
- Lấy thật nhiều rượu ra đây để ta thết lính nhà vua.
- Dạ
Tức thì chủ quán mang ra đặt lên bàn năm cái chén lớn và một
cái bình thiếc to gần bằng cái hũ... Chàng trẻ tuổi quay về phía bọn lính :
- Các chú lại cả đây cùng uống cho vui.
- Dạ
Tức thì chủ quán mang ra đặt lên bàn năm cái chén lớn và một
cái bình thiếc to gần bằng cái hũ... Chàng trẻ tuổi quay về phía bọn lính :
- Các chú lại cả đây cùng uống cho vui.
- Dạ, chúng tôi không dám.
- Thì cứ dám đi mà!
Vừa nói, chàng vừa rót sáu chén rượu đầy. Lúc bấy giờ có lẽ
đã cuối giờ Tuất. Phố phủ im vắng. Chỉ thỉnh thoảng có tiếng trống trong phủ và
tiếng mõ ở các điếm cầm canh mà thôi. Bọn lính thì thầm bảo nhau :
- Ta cứ lại xem sao.
- Nhớ mời nó uống thật say nhé?
- Mà đừng quên dao đấy.
Chàng trẻ tuổi cười, nói :
- Có thế mà cứ bàn tính mãi.
- Dạ, chúng tôi xin lại đây.
Sáu người vừa uống cạn chén thì phía ngoài có tiếng gọi. Chủ
quán ra mở cửa. Một nhà sư khoác tấm mền ướt nâu cúi chào :
- A - di đà phật!
- A - di đà phật!
Nhà sư đi thẳng vào một góc phòng ngồi xếp bằng trê phản, miệng
lâm râm như đọc kinh. Viên cai hỏi chàng tuổi trẻ :
Chẳng hay nhà sư có biết uống rượu không nhỉ?
Sao lại không?
Nhưng chúng tôi chưa chúc mừng công tử chén nào.
Vừa nói vừa rót đầy chén rượu năng lên mời :
- Xin chúc công tử vạn sự như ý.
Lần lượt năm người mời chàng tuổi trẻ luôn năm chén. Thấy
chàng uống rượu như uống nước lã, bọn lính đưa mắt nhìn nhau. Rồi một người nói
:
- Bây giờ ta chúc thọ thiên tử một chén.
Chàng tuổi trẻ đáp :
- Ừ, thì chúc thọ thiên tử. Nhưng con gà của ta nó đã mang
lên kia.
Uống cạn chén rượu chúc thọ thiên tử, chàng tuổi trẻ lại bàn
uống một chén để mừng cho linh hồn con gà thiến đã được siêu tục qui tiên. Rồi
lần lần họ chúc thọ quan Thái sư Bùi đắc Tuyên, quan Thái úy Phan Côn Hưng,
quan Đại tư khấu Trần Quang Riệu, quan Đại tư mã Ngô Văn Sở, quan trấn thủ,
quan phân tri. Khi chúc thọ đến chủ quán thì chàng tuổi trẻ đã say mèm, mặt đỏ
gay, đầu lảo đảo lưỡi cứng đờ, nói díu lại không ra câu nữa.
- Này các....chú...nhắm đi chứ...rồi ta còn chúc thọ...nhiều...Ừ!
Sao các chú không...chúc thọ tôi....
- Dạ, vậy xin công tử cho biết quý tính phương danh.
- Qúy..tính phương danh à? Tên ta...à...! Ta là Ngang...tàng
công tử....Lê Báo...người trấn Sơn Nam.
Bọn lính đưa mắt phân trần thầm với nhau rằng đó là một câu
nói dối. Nhưng viên cai cũng vờ nâng chén rướu chúc tụng :
- Ngang tàng công tử Lê Báo thiên tuế!
Cả sáu người giốc cạn chén rồi cùng cất tiếng cười vang. Ngó
thấy nhà sư vẫn ngồi ở cái phản đầu bên kia, co ro, ủ rủ trong chiếc mền nâu,
có vẻ rét mướt ốm yếu lắm, một chú lính đã hơi chuếch choáng mời đùa:
- Sư cụ sơi rượu.
Nhà sư có dáng sợ hãi, chắp tay se sẽ đáp:
- Xin mời các thầy, bần tăng không dám.
Nhưng lúc bấy giờ, chàng tuổi trẻ càng say lắm, không nghĩ đến
giữ gìn nữa, bạ câu gì nói câu ấy. Nhân bàn chuyện đến quan trấn thủ và quan
phân tri, chàng vừa cười vừa mắng :
- Dốt! dốt tệ!
Chừng đã muốn dở mặt, người cai sừng sộ hỏi lại :
- Công tử bảo ai dốt?
- Dốt! Dốt...cả lủ.
- Nhưng ai dốt mới được chứ?
Như không nghe rõ câu hỏi...chàng kia nói luôn :
- Hừ! Không dốt....mà lại phải dùng...chữ nôm.Đời thuở nhà
ai...lại yết....thị...bằng chữ nôm..bao giờ không...Cha mách qué...Đồ mách qué?
Người cai sấn đến tận mặt :
- Anh này bảo ai là đồ mách quá? Anh phải biết tiên đế đã xuống
chỉ cấm tiệt chữ Ngô...Thi cữ, tờ bối dùng toàn tiếng, toàn chữ nước nhà...Tiên
đế làm thế là để gây lấy một thứ chữ riêng cho người mình, sao lai dám ngạo mạn,
khi quân....
Chàng trẻ tuổi cười phì cả rượu ra :
- Tiên đế... các...chú à?
- Của cả nước Nam, chứ của riêng gì ai!
Chàng kia lại cười :
- không...phải...của..ta...Ta chỉ biết...có nhà Lê.
Tức thì viên cai hô lớn một tiếng, bốn tên lính rút cả dao ra
chĩa vào mặt chàng tuổi trẻ.
Chàng chợt hiểu, đứng dậy lùi lại mấy bước, rút gươm ra đối địch.
Nhưng vì chàng say quá, chân tay run lẩy bẩy, vừa bị viên cai đẩy mạnh cái bàn
vào người đã ngã quay ra. Bọn lính cười ầm lên xúm lại toan trói, thì một tiếng
hét sau lưng khiến mọi người kinh hoảng :
- Bay! Không được vô lễ với công tử.
Nhà sư lù rù ban nãy tung cái mền nâu xuống phản đã vụt trở
nên võ sĩ lẫm liệt oai phong, tay cầm kiếm xông vào. Bọn lính bỏ chàng say rượu
quay lại chống cự với nhà sư. Nhưng chống cự sao nổi? Lưỡi kiếm đi đến đâu, máu
chảy đến đấy, chỉ trong khoảnh khắc, năm thây đã nằm ngổn ngang dưới đất.
Nhà sư liền giơ kiếm vụt mạnh một cái vào cây đèn dầu lạc cho
tắt, rồi xốc chàng trẻ tuổi sau rượu cắp nách ra sân vào tàu giắt ngựa, nhảy
vót lên yên trông thẳng phía tây bắc, phi nước đại.
Hồi 2
Bến Lo
Trên con đường từ thành Kinh Bắc đến huyện Đa Phúc, buổi sáng
hôm ấy. Những người lái buôn nói với nhau câu chuyện sở gáy, rùng mình.
Trong bọn có bác gánh một nồi đồng nặng là nhát gan hơn cả. Mới
tới cầu Dọi, bác đã hoãng hốt hết vía vì một câu chuyện vừa được nghe và nhất định
đòi lại trấn lỵ, không đi nữa. Một cô hàng nồi đất, người bé nhỏ xinh xắn đưa
con mắt sắc sảo liếc chàng và mỉm cười nói :
- Ví bằng bác chẳng chịu hộ vệ chúng em qua khỏi bến đò Lo
thì cũng xin bác đưa chúng em đến chợ Chờ để chúng em bán mấy gánh nồi đất này
chứ.
Một cô khác cũng thêm một câu :
- Đàn ông các ông mà sợ hãi thế, thì bọn đàn bà con gái chúng
em còn đi buôn bán làm sao?
Một anh chàng trẻ tuổi làm nghề hoạn lợn, tay vác cái cần dài
đầu có thòng lòng, nghe chừng cảm động và mạnh bạo vì những đôi mắt đưa tình,
nhừng cặp môi tươi thắm. Chàng bàn :
- Thì ta hãy vào trong cầu ngồi nghỉ mệt đã nào.
- Phải đấy, trời mưa bay cũng có vẻ đẹp, nhưng chúng ta chẳng
khỏi rét muốt đến xương. Vậy còn gì hơn là vào ẩn ưới mái cầu, trú mưa một lát.
Giọng bình tĩnh của cô hàng nồi đất trẻ tuổi khiến mọi người
phải nể phục và lấy làm thẹn cho cái tính nhút nhát của mình. Vì thế, ai nấy
vui vẻ cười nói đi vào trong cầu, đặt gánh hai bên lan can, kẻ ngồi người đứng,
góp câu chuyện gẫu. Anh chàng hoạn lơn đứng phải chỗ mái cầu giột liền nói đùa
:
- Rõ may ! Đương khát lại với được chỗ có nước.
Rồi anh thọc tay vào gánh hàng của cô xinh xắn kia lấy ra một
cái niêu nhỏ hứng nước mưa. Cô hàng cũng chẳng phải tay vừa :
- Se sẽ chứ không vỡ cả của em đấy.
Mọi người cất tiếng cười vang. Cô hàng lại tiếp luôn :
- Cười vừa chứ, chẳng lỡ sụt mái cầu thì chết cả lũ bây giờ.
Lúc bấy giờ nàng mới kịp lưu ý đến một người đàn ông vào trạc
ba mươi ngồi bên hai cái tay nải nây to kếch, vẻ mặt lo lắng, sợ hãi. Nàng liền
quay lại hỏi :
- Bác gánh vải sợi đi đâu đấy?
Người kia se sẽ đáp :
- Không, cô ạ, tôi gánh tơ sang bán bên chợ Phù Lỗ.
- Ồ thế thì hay quá nhỉ, em cũng đi chợ Phù Lỗ. Vậy ta phải
lên đường thôi, chẳng trễ quá thì bán cho ai.
- Tôi đợi trời sáng hẳn mới dám đi. Nghe nói vùng này loạn lạc
ghê gớm lắm.
Cô kia cười :
- Bác cả lo quá, từ khi nhà Nguyễn ta nối nghiệp nhà Lê thì
giặc gĩa còn đâu cơ chứ.
Anh hoạn lợn gia sản mang theo có mỗi một cái thòng lọng. Vì
thế, anh ta chẳng lo ngại gì cho tính mệnh anh ta, dù có giữa đường có gặp cướp
đi nữa, nên anh ta càng bình tĩnh bao nhiêu, anh ta lại muốn mọi người lo sợ bấy
nhiêu, nên gặp bác hàng tơ và vài hàng vải, hàng xén đứng trong cầu, anh ta rắp
kể cho nghe câu chuyện mà anh ta đã thuật với mọi người trên quãng đường từ trấn
lỵ tới đó. Anh ta kiền vờ giọng đạo đức bảo cô hàng nồi đất :
- Cô ác lắm. Nói thế nhỡ bác ta tưởng thực thì sao? Không
đâu, bác ạ, vùng ta nhộn lắm kia đấy.
Bác hàng tơ run lập cập :
- Vâng, tô cũng nghe thấy người ta đồn thế. Hình như tối hôm
qua, quân của Nguyễn Đoàn hạ... mất Phủ Từ Sơn rồi thì phải.
Cô hàng nồi đất cười ròn :
- Nguyễn Đoàn bị xử tử rồi còn đâu.
Anh hoạn lợn bĩu môi :
- Xử tử hắn, nhưng dư đảng của hắn liệu có xử tử hết được
không? Phạm Thái còn đáng ghê sợ gấp mấy Nguyễn Đoàn.
Cô hàng, giọng khinh bỉ :
- Nhưng đảng họ chống cự với vua Tây Sơn, chứ có phải bọn giặc
cướp tầm thường đâu mà đi bóc lột bọn con buôn như chúng mình.
- Không ! Cứ một việc xảy ra ở một tửu quán phố Từ Sơn tối
hôm qua cũng đủ hiểu bọn họ chỉ là một bọn giết người lấy của.
Người hàng tơ nhớn nhác hỏi :
- Vậy à? Câu chuyện thế nào, bác cho chúng tôi nghe với.
Anh hoạn lợn ra bộ ta đây thành thạo việc thạo đời, hắn giặng
hai, ba tiếng lấy giọng rồi kể :
- Nguyên tôi có người anh con nhà bác đóng đội cơ tại dinh
quan Hiệp trấn Kinh Bắc. Tối hôm qua, tôi ở chơi đẵng nhà bác đợi. Cơm nước
xong đi ngủ như thường..
Cô hàng nồi đất cười và ngất lời :
- Bác nên kể tóm tắt thì hơn. Chúng ta còn phải lên đường chớ.
Kìa bác coi, đã sáng rõ rồi, phương đông đã đỏ ứng ánh sáng mặt trời. Mưa thì
cũng đã tạnh.
Anh chàng kế chuyện kiếc cô một cái rất tình :
- Sao mà cô táo cấp thế? Vâng thì kế tóm tắt. Chúng tôi đi ngủ...Vào
khoảng cuối giờ Sửu sang đầu giờ Dần, có tin cấp báo ở Từ Sơn đưa lên. Một người
lính cưỡi ngựa truy phong phi thẳng vào dinh quan Hiệp trấn báo có giặc ở Từ
Sơn.
Tên giặc ấy chẳng phải ai ca lạ, chính là Phạm Thái tức Phạm
Phụng mà quan quân vẫn tróc nã bấy lâu nay. Đầu đuôi việc ấy như thế này : Chập
tối, một nhà sư vào một hàng cơm ở phố Từ Sơn ngủ trọ để sáng hôm sau lên chùa
Phật tích sơm. Nhà sư đem theo nhiều đồ thờ quá giá lắm, ấy là không kể tiền bạc
gói chặt trong một chiếc mền nâu. Tức thì Phạm Thái đã nấp sẳn đâu đó tiến theo
vào liền sau. Hắn ăn vận chừng chạc, nai nịt gọn gàng; khi lính canh trong tửu
quán hỏi tín bài thì hắn giơ tay ra một cái tín bài giả cũng có khắc bốn chữ
"thiên hạ đại tín" y như trong những tín bài của triều đình. Nhưng
tên tuổi quê quán thì hắn chu man là Lê Báo, người trấn Sơn Nam. Tuy thế lính vẫn
chú ý đề phòng vì thấy hắn ta có dáng khả nghi lắm. Quả không sai. Vào khoảng nữa
đêm, tên Lê Báo giả tứ Phạm Thái, chém giết hết bọn lính đông đến ngót ba chục,
rồi cướp nhà sư với các bảo vật kim ngân nhảy phắt lên ngựa trốn mất. Bây giờ
nghe đâu hắn ta vẫn còn lấn quất ở vùng ta thi phải.
Bác bán tơ run như cầy sấy, hỏi lại :
- Hắn ta còn lẩn quất ở vùng nầy?
Cô hàng nồi đất cất tiếng cười khanh khách nói bông:
- Bác hoạn lợn kế chuyện hay nhỉ, nghe như truyện Tam Quốc vậy.
Nhưng anh em chị em đừng tin bác ta, cứ mạnh bạo lên đưòng là hơn hết.
Dứt lời, nàng nhanh nhẹn quẩy gánh và giục mọi người ra đi.
Muốn ai nấy quên câu truyện ghê gớm nàng cất tiếng hát một bào quan họ có ý tứ
bỡn cợt, trêu ghẹo, lẳng lơ :
" Đêm qua em mơ gặp chàng,
Đôi ta tạc nghĩa đá vàng cùng nhau.
Ước gì anh trước em sau,
Đi chợ Phú Lỗ trao cầu kết duyên ".
Hát xong, nàng lại cười ròn như nắc nẻ, anh hoạn lợn nghe
nàng nói đùa bác bán tơ thì tỏ vẻ tức tối, hậm hực. Ý chững nàng cũng biết vậy,
nên lại hát luôn câu nữa để lấy lòng anh ta.
" Anh thợ hoạn ơi,
Anh về gánh đất nặn nồi,
Để em đem bán cho người nấu cơm ".
Những ngươi đàn ông ôm bụng cười ngất. Mấy cô hàng nồi đất xấu
hổ đỏ mặt. Nhưng ai nấy hầu như đã quên bẵng câu chuyện cướp bóc và đề cất gánh
lững thững đi theo cô hàng lém lỉnh.
Lúc bấy giờ, mưa bay đã tạnh hẳn và mặt trời đã ló trên phía
thành quách, chiếu xuống một làn ánh sáng dịu dàng.
Bọn lái buôn vừa trai vừa gái, vừa nhà quê vừa thành thị độ
hơn mười người, gồng gánh, đội vác đi tren bờ đê nhỏ hẹp, bên con sông Dọi, nước
về mùa đông, hầu cạn hẳn. Họ xúm xít đi sát vào nhau, hình như để đỡ lo sợ. Lòng
lo sợ gầy nên quang cảnh quanh vùng, tiêu điều, xơ xác, vớ những cây trơ trụi,
khẳng khiu, trên những mồ đất rải rác trong một cánh đồng rộng đầu nước, bát
ngát, mênh mông trắng xoá tới tận rặng tre xanh xa tắp.
Đi nửa giờ tới huyện lỵ Đông Ngàn. Viên phân tri đã nhận được
giấy sức tróc nã phạm nhân ngay từ buổi sớm tinh sương, nên sự canh phòng ở đây
rất cẩn mật. Viên phân xuất thân ra cổng huyện xem xét kỹ lưỡng tín bài. Song
chỉ một mình anh hoạn lợn là phải giữ lại, vì tín bài của anh thiếu điểm chỉ.
Trước khi đến chợ Chờ, ai nấy còn phải dừng bước ở một cái
quán con lợp cói, mà người ta gọi là cầu Chờ, để làm việc thiện: Nghĩa là lần
lượt mỗi người kính cẩn đến trước cái nong, để trên mặt đất, trong có cắm mấy
nén hương,và bó vào đó từ mười tới ba mươi đồng tiền trinh, tùy theo tài sản từng
người mang theo. Ai dáng cúng hai mươi đồng mà chỉ cúng mười đồng thì sẽ gặp sự
nguy biến ngay.
Vì đâu có sự cúng tiền như thế?
Nguyên ở vùng ấy, trong vòng ba, bốn năm, một bọn cướp nhũng
hiếp tróc nhân dân hai bên ven sông Cà Lồ, nhất là ở gần bến đò Kim Lũ, Quan hiệp
trấn đã cho quân lính về tuần phòng nhưng vẫn vô công hiệu. Đến nỗi bến đò Kim
Lũ khách vãng lai đã đặt cho cái tên " bến Lo". Mà cũng vì thế mới có
tên "cầu Chờ": Ai ai đi đến đây đều phải nghỉ lại để chờ cho thực
đông người mới dám cùnh nhau sang sông.
Một đêm, một nhà sư qua đò. Bọn cướp đến vây bắt, bị nhà sư
đánh một trận chạy tán loạn. Rồi luôn mấy đêm liền, nhà sư vô danh kia đem đồ đảng
đến Kim Lũ trừ tiệt bọn cướp. Từ đó, nhân dân đi lại được như thường và sự
thương mại đã kém sút lại trở nên phồn thịnh như xưa.
Nhưng đảng cướp vừa trừ xong thì một tục lệ bỗng thành lập,
không rõ do một tay kỳ dị nào. Người ta chỉ biết rằng ai đi đến cầu Chờ mà
không lễ phép bỏ vào cái nong một số tiền đế cúng nhà chùa thì sẽ bị bóc lột một
cách chắc chắn khi qua bến đò. Cúng vào chùa nàp, và bi, ai bóc lột? Còn ai biết.
Hình như có một đảng bí mật nã tiền phải nộp, không hề ta oán, kêu ca hay thóc
mách báo quan, hay tò mò tìm biết tung tích người tung tích người đứng thu thuế
một cách trái phép như thế.
Người ta đồn rằng - nhưng đó chỉ là một lời đồn phỏng - quan
trấn thủ, quan hiệp trấn và viên phân tri Đông Ngàn đã rõ có sự nã tiền ấy,
song vì không ai tố cáo , nên cũng làm ngơ để khỏi lôi thôi đến mình: Các quan
cũng thừa biết trong hạt có một đảng bí mật rất đáng sợ, kiêng nể, nên các quan
định sẽ dùng mưu kế, chứ không thể dùng sức mạnh mà trị được.
Bọn lái buôn trên kia khi đến cầu Chờ đã biết sự lệ. Ai nấy đặt
gánh cởi hầu bao, khi thấy cô hàng nồi đất vui vẻ bỏ vào nong năm mươi đồng tiền
trinh mà nói rằng :
- Anh em ạ, việc nghĩa ta nên rộng rãi một chút.
Cố nhiên nhiều người lấy làm khó chịu về cử chỉ của nàng,
nhưng không ai dám cúng ít, vì phần sợ xấu hổ với cô hàng nồi đẹp đẽ, phần lo
đáng bí mật trị tội. Ở khắp vùng, họ đồn đại rằng tuy chung nong tiền không có
người trông coi, nhưng chẳng một cử chỉ, chẳng một lời nói của khách qua đường
là không bị một người nấp đó ghi chép.
Làm xong việc thiện - việc thiện miễn cưỡng - bọn lái buôn vội
vã gánh gỗng hoặc đến chợ Phú Mẫn bán hàng, hoặc đến Kim Lũ để qua đò sang
sông. Một mình cô hàng nồi đất còn ngồi lại nghỉ mệt một lát.
Bỗng nhớn nhác trông trước trông sau không thấy ai, nàng hắng
dặng một tiếng. Tức thì ở cửa buồng nhỏ bên cánh, tường vách xiêu đổ như một
nơi bỏ hoang, một chú tiểu thò đầu ra giơ một ngón tay trỏ lên trời rồi biến mất.
Cô hàng liền rẽ bờ ruộng vào làng Ngô Xá, vừa đi vừa rao:
"Có ai mua nồi đất ra mua?"
Một lát sau, nàng dừng bước ở cổng chùa Liên Đài làng Nghiêm
Xá, một ngôi chùa nhỏ không có chi khiến ai lưu ý tới. Cổng chùa đóng, nàng ghé
mồm vào giậu rau lớn :
- "Ai mua nồi đất ra mua? Trong chùa có mua nồi đất
không?"
Đáp lại lời rao hàng, một đàn chó vừa sủa vừa chạy ùa ra. Đi
liền theo sau, một chú tiểu y phục tuy màu nâu sồng, nhưng hẹp chẽn gọn gàng.
Vuông khăn nâu chú chít chéo trên đầu tựa cái đầu mâu của chiến tướng đời cổ
khi ra trận càng làm tăng vẻ mảnh liệt của chú lên lắm. Chú cầm cái roi tre đuổi
đàn chó to lớn, dữ tợn rồi ra mở cổng mà hỏi rằng :
- Cái gì thế?
- Ai di đà Phật. Nhà chùa có mua nồi đất không?
Chú tiểu nhìn cô hàng nồi, nói khẽ :
- Có, vào nhà oản ngồi chờ một lát.
Cô hàng có dáng lo lắng :
- Không thế ngồi chờ được, việc cần gấp lắm.
- Nhưng ông sư đã truyền không ai được lên chùa trên trong
khi sư ông làm việc...
Cô hàng giọng quả quyết nhắc lại :
- Không thể chờ được.
- Vậy để tôi lên chùa xem.
Hồi 3
Sư Ông
Đã luôn ba hôm nay, sư ông đóng cửa chùa trên, cả ngày cặm cụi
làm việc.
Làm việc gì? Trong chùa không một ai hay. Chỉ biết rằng đã
sáu bữa nhà sư bỏ cơm, và mỗi lần có ai vào khiến đàn chó sủa ầm ĩ, thì trên
chùa lại nghe có tiếng mõ đều đều và tiếng tụng kinh sang sảng. Mãi cho đến lúc
một chú tiểu thân cận đến gõ cửa và báo cho nhà sư biết người mới đến là ai.
Lần này cũng vậy, đàn chó vừa im sủa thì người ta nghe thấy
tiếng tụng kinh du dương huyền bí ở trong chùa đưa ra, lẫng trong mùi trầm, mùi
hương phảng phất. Nhưng chú tiễu vừa bạch có cô hàng nồi đất ở Kinh Bắc đến, thì
nhà sư vội vã mở cửa bảo đưa cô ta lên ngay.
Công việc của cô hàng chỉ có giao tận tay cho sư ông một bức
thư mật. Đoạn, nàng hấp tấp xin đi ngay. Muốn tránh sự ngờ vực, nhà sự lớn tiếng
bảo chú tiểu mua hai cái niêu thổi cơm.
Đóng cửa cải then xong, nhà sư đến chỗ bệ gạch bày tượng. Tức
thì hở ra một khe. Khi ấy lại mảnh tường để lấp cái khe đi, không ai có thể nhận
thấy dâu vết được, nhất là chỗ đó lúc nào cũng tối như ban đêm.
Cố nhiên cái bệ ấy rỗng, và tuy ở trong có thắp đèn, thở cũng
vẫn dễ, vì có nhiều lỗ thông hơi đục qua thân bụt gỗ khổng lồ.
Ở một góc buồng nhỏ hẹp ấy có một bàn gồ trên khắc chữ nôm.
bên cạnh, một tập giấy vừa in xong. Thì ra luôn ba hôm nay, sư ông bận khắc bản
gồ ấy. Chẳng nói thì độc giã cũng thừa biết công việc bí hiểm của nhà sư quan
trọng là chừng nào.
Nhưng có lẽ nhà sư cho bức thư kia còn quan trọng hơn nhiều,
nên mới bỏ dở việc in giấy mà vội vàng xé phong bì ra xem.
Bức thư vắn tắt như sau này:
Phạm quý hữu nhã giám.
Bọn đồng chí chúng ta mới thêm được một người văn võ kiêm
toàn. Người ấy là Lê Báo công tử con cả quan Thiên thư khu mật viện sự Lê Ban.
Lê Báo hiện ẩn núp ở bản am, khao khát được gặp mặt quý hữu lắm. Vậy quý hữu
nên sang ngay Tiêu Sơn hội viện đế bàn một điều rất là cẩn trọng, cần kíp.
Phổ Tĩnh tiền sư kính thư.
Niên hiêu Chiêu Thống (Đảng Tiêu Sơn vẫn giữ niên hiệu cũ của
nhà Lê không chịu dùng niên hiệu Cảnh Thịnh nhà Nguyễn Tây Sơn) thứ mười một
năm Bính Thìn tháng chạp ngày mồng bốn.
Xem xong thư, Phạm Thái - vì sư ông chính là Phạm Thái tức Phạm
Phụng - vội vàng thu xêp bản in giấy má gọn gàng, rồi ra ngoài đóng cửa phòng
bí mật lại.
Sau khi đã cặn kẽ dặn các tiểu trông nam chùa, chàng buộc
hành lý vào trong một cái tay nải nâu, vắt lên vai đi.
Vì cớ gì Phạm Thái vội vàng thế?
Có lẽ cũng vì một phần việc đảng bộ, nhưng nhất vì tính tò mò
muốn biết Lê Báo là ai, là người thế nào võ nghệ cao siêu lạ thường như thế?
Nguyên sáng sớm hôm nay, thám tử của chàng về báo cho biết tối
hôm trước, có một người trẻ tự xưng là Lê Báo vào uống rượu ở một tửu quán phố
Từ Sơn rồi trong khi bất ngờ giết bọn lính canh trong quán và cướp một nhà sư
trốn biệt.
Phạm Thái vừa rảo bước trên con đường Từ Sơn vừa lẩm bẩm:
"khó hiểu? Chẳng nhẽ nhà sư ấy lại là Phổ Tỉnh? Vô lý! Trí dũng như anh Trần
Quang Ngọc, còn ai bắt cóc nổi. Mà dù bắt cóc, dù cướp đi nữa, sao lại đến Tiêu
Sơn?"
Câu truyện xảy ra năm trước, chàng còn nhớ rành mạch, và khiến
chàng không thể nào tin được sự bắt cóc kia là có thực.
Hồi ấy Nguyễn Đoàn vừa bị giết, đồ đảng vờ lỡ tán loạn, sào
huyện bị phá tan hoang. Phạm Thái phải lang thang, lẩn lút quanh vùng, luôn
luôn bị quân lính của quan hiệp trấn Kinh Bắc và viên phân phủ Từ Sơn tróc nã.
Một hôm chàng đến chùa Tiêu Sơn ngủ trọ. Thấy cảnh chùa hùng
vĩ độc chiếm một trái đồi, chàng mừng thầm rằng chốn ấy có thể nương thân được
chờ vận mà đi tìm kiếm, tụ hội các nhân tài trong nước. Lòng sốt sắng báo thù
cho cha và cho chủ đảng bị hại bởi tay Tây Sơn làm cho chàng trở nên tàn ác. Đối
với chàng, chỉ một mục đích chàng đương theo đuổi là đáng kể. Chàng không kiêng
nể một sự gì để đi tới mục đích ấy, dù phải quả quyết hung bạo cũng đành.
Bởi vậy chàng có manh tâm muốn giết nhà sư Tiêu Sơn để chiếm
giữ ngôi chùa làm một nơi sào huyệt. Chàng cho đó là một việc rất dễ dàng và giản
dị. Sau khi chàng cạo trọc đầu và thắng bộ quần áo nâu vào thì còn ai nhận được
chàng là Phạm Thái nữa; người ta sẽ gọi chàng là sư Tiêu Sơn và không bao giờ
dám ngờ rằng chàng đã kế nghiệp nhà sư chân tu kia một cách võ đoán.
Nhưng Phổ Tĩnh thiền sư trụ trì ở chùa Tiêu Sơn há phải là một
thầy tu tầm thường mà chàng có thể giết như giết con gà mái non! Vì thế vào khoảng
giờ Tý, Phạm Thái vừa lẻn vào nhà trai, nơi túc phòng của Phổ Tĩnh, định giở
tay, thì dưới ánh lù mù một ngọn đèn dầu, hai người liền đánh nhau một trận kịch
liệt.
Ý chừng đều biết sức nhau, nên sau khi đã giở mấy miếng võ
ra, đôi bên cùng lùi lại và cất tiếng cả cười. Nhà sư khinh bỉ hỏi Phạm Thái:
- Cớ sao ta đã cho nhà ngươi ngủ trọ, nhà ngươi lại trả ơn ta
một cách xứng đáng thế?
Phạm Thái đáp vắn tắt:
- Không lôi thôi! Trong hai ta chỉ một người được sống.
Rồi chàng lại sấn tơi giơ dao chém. Nhà sư né người sang một
bên mà nói rằng:
- Khoan! Phònng này chật hẹp quá, không phải nơi đấi võ. Vã
như ngươi có dao mà ta tay không. Chẳng lẽ nhà ngươi lại hèn nhát đến thế. Có
giỏi hãy đi ngủ một giấc cho khoẻ khoắn đã rồi sáng mai lên ngọn đồi sau chùa,
cùng ta tỉ thí. Ngươi có ưng thế không, Phạm Thái?
Phạm Thái nghe nhà đọc đến tên mình thì giật mình kinh hãi.
Phổ Tĩnh liếc mắt thấy vậy liền bất thình lình nhảy lại giật phắt lấy con dao rồi
mỉm cười bảo:
- Phạm Thái, chú có dao còn không làm gì nổi ta, bây giờ con
dao ấy đã sang tay ta, vậy chú nghĩ sao?
Phạm Thái cũng mỉm cười:
- Điều đó không cần biết vội, hãy hỏi nhà sư điều này: Sao
nhà sư nhận được tôi là Phạm Thái?
- Hỏi dở, một nghìn quan tiền thưởng của triều đình, ngươi bảo
dễ không đáng khiến ta lưu ý đến diện mạo nhà ngươi chăng?
Phạm Thái không nén được tức giận, thét mắng:
- Thằng sư hổ mang kia! Tao cho phép mày bắt tao đem nộp mà
lĩnh thưởng.
Nhà sư lạnh lùng bỉu môi, đáp:
- Nhưng ta đã trót hứa với nhà ngươi rằng mai lên đồi đấu võ
mất rồi!
- Ta không thèm đấu võ với quân khốn nạn đội lốt sư để đi do
thám cho giặc của nhà Lê!
- Khá đấy! Phạm Thái anh hùng đấy! Còn kẻ đang đêm lẻn vào
phòng này để giết trộm thì Phạm Thái liệt vào hạng gì?
Phạm Thái phần xấu hổ, phần căm tức, sấn lại đánh nhà sư,
nhưng nhà sư nhanh nhẹn tránh sang một bên mà lớn tiếng hỏi:
- Thong thả, Phạm Thái có biết ông Trần Quang Châu là ai
không?
- Sao ta không biết? Bậc trung thần ấy là bạn của thân phụ ta
khi xưa, sao ta lại không biết? Nhưng ta cấm thằng ác tăng kia không được đọc đến
tên ngài.
Phạm Thái bỗng kêu rú lên:
- Trời ơi! Anh Trần Quang Ngọc!
- Chính ta là Trần Quang Ngọc.
Phạm Thái vội sụp lạy xuống đất, tạ tội:
- Anh tha chết cho em, vì em thật đáng chết.
Trần Quang Ngọc đỡ Phạm Thái dậy mà nói rằng:
- Chúng ta quen biết nhau từ thuở nhỏ. Ngày nay anh còn nhận
sao được mặt tôi, nhất tôi lại ẩn núp trong bộ thiền phục.
Hai người mừng rỡ đem truyện riêng ra kể cho nhau nghe. Phạm
Thái nói:
- Chẳng hay sau khi bác đốc trấn bị mắc mẹo lừa ở Chí Linh rồi
ra sao?
Trần Quang Ngọc ứa nước mắt trả lời:
- Khi ấy thân phụ bị bắt giải về Phú Xuân, Quang trung dụ
thân phụ quy hàng, thân phụ nhất định không chịu nghe, nên đã bị hắn hại rồi,
còn đâu.
- Thằng giặc già! Cha chúng mình cùng chết về tay nó. Nhưng đại
huynh còn cặm cụi chống chọi mãi với quân Tây Sơn kia mà?
- Phải, được gần một năm. Vả hiện giờ đồ đảng của tôi còn tới
hơn nghìn, tản mạn khắp các trấn, nếu cần dùng đến, có thể có ngay. Nhưng còn
hiền hữu, nay định đi đâu?
- Tôi cũng chẳng biết đi đâu.
- Ngày hiền hữu ở bên Nguyễn Đoàn, tôi vẫn có ý muốn sang
theo, nhưng sau biết Nguyễn Đoàn không phải tay làm nổi việc lớn, nên lại thôi.
- Thế thì đại huynh có con mắt tinh đời lắm. Quả thực, Nguyễn
Đoàn là một tay chủ trại tầm thường, chẳng qua chỉ sai khiến nổi một bọn lâu la
ô hợp mà thôi, hiểu làm sao được chí lớn của anh em mình. Nếu hắn biết theo bài
quân yếu về mấy yhế chiến công của tôi thì đâu đến nổi.
Quang Ngọc cười, hỏi:
- Tôi nghe nói bài quân yếu của hiền hữu có thể so sánh với
những binh thư có tiếng của cổ nhân như Lục Thao Tam Lược của Thái Công, Thập
Tam Thiên của Tôn Tử...
Phạm Thái gạt đi mà rằng :
- Đại huynh nói quá. Tôi tài hèn đâu dám ví với các bậc đại
tướng xưa.
Hai người chuyện trò với nhau mãi đến sáng về binh lược, võ
nghệ. Hôm sau Trần Quang Ngọc khuyên Phạm Thái thế phát quy y đễ dễ trốn tránh,
rồi nhân chùa Liên Đài ở xã Nghiêm Xá chưa có ai trụ trì (vì vùng ấy loạn lạc
không nhà sư nào dám ở tu) Phổ Tĩnh thiền sư liền cắt Phạm Thái về đó lấy đạo
hiệu là Phổ Chiêu thiền sư.
Phạm Thái vừa đi vừa ôn lại trong trí quãng đời dĩ vãng.
Chàng lấy làm lạ rằng Phổ Tĩnh thiền sư tức Trần Quang Ngọc là một tay võ nghệ
cao cường mà còn bị Lê Báo bắt thì không hiểu Lê Báo sức khỏe đến bực nào. Mà nếu
Phổ Tĩnh đã bị bắt cóc, sao lại còn có bức thư gọi mình sang hội diện. Hay là bức
thư man trá?
Nhưng chính tay Nhị Nương đưa cho ta kia mà. Vả xét tự dạng
thì đích thư của Phổ Tĩnh rồi, chắc có điều gì bí mật chi đây.
Phạm Thái mải suy nghĩ đến nỗi tới đò Thọ Khê mà vẫn không biết.
Mãi lúc bị lính giữ lại hỏi, chàng mới giựt mình như choàng thức dậy:
- Nhà sư kia đi đâu?
Một viên đội cười bảo tên lính của mình:
- Sư ông Phổ Chiêu ở chùa Nghiêm Xá mà chú không biết hay
sao?
Liền vẫy tay cho phép nhà sư xuống đò.
Thấy sự canh phòng nghiêm mật, Phạm Thái càng nóng ruột về
câu chuyện xảy ra ở tửu quán...Vì thế, trước khi đến Tiêu Sơn, chàng đi thẳng tới
hàng nhà Ngỗng (bạn đồng chí của chàng thường họi họp ở đấy) để dò tin tức.
Thấy cửa quán đóng im ỉm, chàng liền gõ năm tiếng, đó là hiệu
riêng của đảng. Người chủ quán thì thầm mấy câu rồi đóng sập cửa lại. Trong
lòng mừng rỡ, Phạm Thái thong rong bước lên chùa Tiêu Sơn.
Hồi 4
Tiêu Sơn Kết Nghĩa
Đã lâu nay cửa tam quan chùa Tiêu Sơn rào kén hẳn hàng ba, bốn
lần tre, hóp và chông chà.
Khách thập phương phải đi qua một con đường vòng chạy theo
chu vi trái đồi, rồi rẽ ngoặt ra phía bên. Ở đó có một cái cổng nhỏ hẹp nhưng
xây rất kiên cố. Qua lần cổng, một hàng bậc gạch cao và giốc đưa đến nhà trai.
Như thế, đứng trên ngồi đồi hay trong lầu Tiêu Lĩnh nhìn xuống có thể biết ai sắp
đến chùa, nhất là có một cái lạch nước rất sâu ngăn chận đồi ra với con đường
vòng. Cái lạch ấy, sư Phổ Tĩnh cho đào để lấy đất đắp tường dài bao bọc quanh đồi.
Và cũng nhờ việc to tát ấy mà nhà sư đã được dân làng nức nở ca tụng công đức.
Họ cho nhà sư đắp tường đào hào như thế không những chỉ có một mục đích giữ
chùa, mà còn có mục đích che chở cho dân quanh vùng trong khi nhiễu loạn, vì hạt
ấy, họ sợ hãi bọn Nguyễn Đoàn, Phạm Thái lắm, tuy chỉ sợ bóng sợ gió.
Ý chừng Phổ Tĩnh thiền sư cũng biết vậy, nên ngay ở cửa tam
quan, có dán một tờ yết thị nói cửa từ bi không hẹp, ai sợ quân cường đạo cướp
bóc cứ vào chùa nương náu ít ngày, nhà chùa sẳn sàng lòng dung nạp.
Kỳ thực chỉ có đồ đảng của Phổ Tĩnh là hay lui tới cửa chùa
và tờ yết thị kia không có mục đích gì khác là để che mắt quan quân. Chẳng thế
có khi trong chùa tụ họp đến hàng trăm người mà viên phân phủ Từ Sơn vẫn không
lưu ý tới, cho rằng đó toàn là những bọn quê mùa yếu hèn, nhút nhát đến ẩn núp.
Không những thế, viên phân phủ còn nhân tờ chiếu của vua Quang Trung bắt bỏ
chùa nhỏ trong các làng để dựng một ngôi chùa lớn ở mỗi phủ, mỗi huyện, mà đệ tờ
bẩm lên quan trấn thủ xin lấy chùa Tiêu Sơn làm chùa chính thức được trụ trì, ở
chùa ấy. Tuy việc tư xin bị đình bãi, vì từ khi vua Quang Trung thăng hà, vua
Quang Toàn và thái sư Bùi Đắc Tuyên không còn lưu gì đến công việc cải cách thiền
học nữa, nhưng lòng tín nhiệm của quan quân hạt Kinh Bắc đối với Phổ Tĩnh thiền
sư, nhờ việc đó mà ngày một thêm vững chặt.
Lòng tín nhiệm hầu hoàn toàn ấy đã giúp đồ đảng bí mật của
Quang Ngọc hoành hành dễ dàng ở vùng Kinh Bắc, vì những viên kiện tướng của
chàng đều là các sư ông, sư bác mà tay quan trọng nhất là Phạm Thái tức sư ông
Phổ Chiêu chùa Linh Đài, làng Nghiêm Xá.
Chiều hôm trước nhân sư bác chùa Bình Bảng đến báo có một bà
hoàng phi bị bắt giải về giam ở phủ Từ Sơn, Quang Ngoc liền hốt hoảng chít vội
cái khăn vuông xuống tận mắt và khoác vội vào mình cái mền nâu cũ, cho người ta
không nhận được ra đi.
Nguyên chàng vẫn biết rằng từ khi thành Thăng Long mới vỡ,
người em thứ ba vua Lê là Lan quận công Duy Chí đem bà hoàng phi họ Nguyễn chạy
lên Tuyên Quang rồi chiêu dụ những người thổ hào cùng nhau lo toan việc hưng phục.
Nhưng Duy Chí mới chống chọi với quân Tây Sơn được vài tháng ở Bắc Lạc thì bị bắt
bỏ cũi giải về Phú Xuân đầu hàng cùng với hết thảy các tướng tá. Hoàng Phi liền
rời Tuyên quang trở về hạt Kinh Bắc ẩn núp ở trong các nhà bình dân. Quân Tây
Sơn thường đi lùng bắt mà không được, vì người Kinh Bắc vẫn còn mến tiếc nhà
Lê, không ai chịu tố cáo nơi hoàng phi trú ẩn.
Khi đã dò biết đích xác rằng hoàng phi bị bắt, Quang Ngọc vào
hàng cơm nhà Ngỗng ở phố phủ, định sai chủ quán, một đảng viên của đảng Tiêu
Sơn, đưa ngay tin đến Nghiêm xá cho Phạm Thái. Chẳng ngờ gặp giữa lúc Lê Báo
đang uống rượu và nói nhiều câu khảng khái. Chàng liền dốn ngồi lại để xem ông
khách trẻ tuổi kia là người thế nào, nhất chàng lại như như bị cái sức vóc vạm
vỡ và nét mặt tươi như hoa của kẻ kia lưu luyến.
Việc cần kíp thứ nhứt của Quang Ngọc khi đã đưa Lê Báo về tới
chùa là viết thư sai người tức tốc đến Kinh Bắc giao Nhị Nương đem về Nghiêm Xá
cho Phạm Thái. Chàng biết tất có binh mã đuổi theo con đường Từ Sơn - Kim Lũ,
nên chàng không cho người mang thư đi lối ấy. Chàng lại biết đàn bà, con gái ít
khi bị ngờ vực, khám xét, nên việc thông tin tức chàng thường giao cho bọn họ.
Vào khoảng cuối giờ Tỵ, Phạm Thái tới chùa Tiêu Sơn. Quang Ngọc
đã đứng chờ ở chân đồi. Hai người lớn tiếng chào nhau: "A di đà phật!"
- Lê Báo đâu?
Quang Ngọc cũng khe khẽ đáp lại :
- Trong chùa.
- Có việc gì quan hệ nữa không?
- Có, chốc nói chuyện.
Lên đến đầu bực thang gạch, nghe có tiếng mõ lớn thưa thớt rời
rạc. Phạm Thái mỉm cười, theo Quang Ngọc qua cái cửa nách bước vào chùa trên. Một
nhà sư đầu mới cạo nhẵn thín, khoác áo cà sa ngồi ở cái bục gỗ trước bàn thờ,
miệng lẩm nhẩm đọc kinh, tay uể oải gõ mõ. Hình như nhà sư chú hết tinh thần
vào sự tụng niệm, nên không biết có hai người vừa vào, tuy họ cất tiếng đã cất
tiếng chào: " A di đà phật! "
Thấy người kia không nhúc nhích, Quang Ngọc đưa mắt liếc Phạm
Thái, mỉm cười rồi lại gần bàn thờ gọi:
- Lê Báo?
Lê Báo vờ không nghe rõ, vẫn ngồi đọc kinh, mắt chăm chăm để
vào quyển sách lớn mở đặt trên giá. Quang Ngọc cáu tiết, đến sau lưng ghé vào
tai nói:
- Mới tu được một buổi mà đã mộ đạo thế ư?
Bấy giờ Lê Báo mới rời quyển kinh, ngước mắt nhìn lên, nhoẻn
miệng cười:
- Không, đệ có đọc kinh đâu, đệ ngâm thơ đó chứ!
Cả ba người cùng cười ồ. Bỗng một chú tiểu ở ngoài đi vào để
thắp hương. Các nhà sư lại im bặt, nét mặt người nào người ấy đều có vẻ thành
kính, nhu mì, kín đáo. Phổ Tĩnh vờ hỏi Lê Báo:
- Sư cụ bên ấy vẫn được mạnh đấy chứ?
Lê Báo hấp tấp đáp lại:
- Thưa ngài....
Phổ Chiêu vẻ mặt nghiêm trang vội đỡ lời:
- Bạch sư ông, cụ Phổ Mịch nhờ ơn Phật tổ vẫn được như thường.
Phổ Tĩnh mỉm cười rồi quay ra bảo chú tiểu, ý chừng mới tu ở
chùa này:
- Gọi chú Mộc!
Một lát sau, bước vào một người to lớn, gân cốt nở nang, cặp
mắt tròn xoe, da dẻ hồng hào.
Phổ Tĩnh hất hàm hỏi:
- Nó mới đến, chú đã biết tâm địa ra sao mà dám cho lên chùa
trông nom việc đèn nhang?
- Bạch sư ông, nó ở trong bọn thủ túc chân thành của đệ tử. Đệ
tử xin cam đoan chịu hết trách nhiệm.
Phổ Tĩnh hơi gắt:
- Đành vậy, nhưng cứ phòng bị trước thì vẫn hơn. Tiệc đã sửa
soạn xong chưa?
- Bạch sư ông đã.
- Có nhiều rượu ngon đấy chứ?
- Bạch sư ông đủ cả. Đệ tử đã cho xong đâu đấy ở trên lầu
Tiêu Lĩnh.
- Được, ta không cần đến chú nữa.
Chú tiểu lễ phép cúi đầu chào, đi ra. Phổ Tĩnh đóng cửa cẩn
thận mà nói rằng:
- Thôi, bây giờ chúng ta không còn lo sợ điều gì, cứ việc
bình tĩnh mà đánh chén, vì muốn lên Tiêu Lĩnh tất phải qua chùa, mà cửa chùa
thì đóng khóa kiên cố lắm.
Thấy Phạm Thái thì thầm nói chuyện với Lê Báo, quang Ngọc
quay lại hỏi hai người:
- Chỗ quen biết cả đấy. Mà dù chưa quen biết thì rồi cũng phải
quen biết. Anh hùng trong thiên hạ phỏng được bao người, sao không cùng nhau
làm việc đại nghĩa.
Phạm Thái đáp:
- Ngu đệ vẫn được nghe đại danh của quan Thiên thơ khu mật viện
sự. Nay được gặp ngài thực lấy làm hân hạnh.
Quang Ngọc thẳng thắn cười lớn:
- Ngài! Cái tiếng xưng hô ấy không được ổn bỏ nó đi.
Lê Báo cũng nói:
- Phải, chỗ anh em sao lại gọi thế?
Quang Ngọc bàn:
- Muốn chính kỳ danh, trước hết phải chính kỳ vị. Ngày xưa
anh em Lưu, Quan, trương kết nghĩa tại vườn đào, rồi lập nên cơ nghiệp kinh
thiên động địa. Vậy ngày nay, sao chúng ta không theo gương ấy mà cũng kết
nghĩa làm anh em?
Lê Báo vỗ tay, thét vang như tiếng lệnh:
- Ồ! Phải đấy! Hay! Hay! Ý đại huynh hay lắm!
Phạm Thái mỉm cười:
- Trong ba anh em mình chẳng biết có ai giống Lưu Huyền Đức,
Quan Vân Trường không, như giống Trương Dực Đức thì Lê hiền hữu là giống như
đúc.
Vậy đệ xin làm em út chứ sao?
Quang Ngọc hỏi:
- Hiền hữu niên canh bao nhiêu?
Mười chín tuổi.
- Thế thì hiền hữa là em út hẳn đi rồi, vì Phạm quân hơn hiền
hữu một tuổi.
Phạm Thái khiêm tốn:
Nhưng Lê hiền hữu giòng dõi tôn thất nhà Lê, ngu đệ xin nhường
làm anh.
Phổ Tĩnh vội gạt:
- Không được, chỉ có một điều đáng kể: Ai hơn tuổi là anh.
- Hiền huynh đã dạy như thế, thì hai em hẳn phải vâng theo. Vậy
bây giờ chúng ta phải thề ra sao?
Lê Báo hỏi:
Ở chùa này cũng có thờ Quan Công đấy chứ?
Quang Ngọc cười:
- Chùa nào lại chẳng thờ đức Thánh Quan.
- Thế thì hay lắm. Chúng ta cứ đến trước bàn thờ ông ấy mà thề.
- Phải đấy, phải đấy!
Ba người liền cùng nhau lại bàn thờ Quan Công. Lê Báo bảo hai
bạn:
- Trông Quan Vân Trường lẫm liệt oai phong lắm nhỉ! Có lẽ vẻ
lẫm liệt oai phong ấy là nhờ ở bộ mặt đỏ, mà muốn có một bộ mặt đỏ tất phải uống
nhiều rượu.Vậy trước khi phát thệ, sao ta không đem rượu lên dâng ngài rồi cùng
nhau uống thực say đã?
Quang Ngọc cười:
- Vì say rượu hiền hữu suýt bị thiệt mạng ở tửu quán, thế mà
vẫn không chừa?
Lê Báo lấy làm xấu hổ với Phạm Thái, nói chữa thẹn:
- Hiền huynh ngu đệ say à? Ngu đệ uốn gấp năm, gấp mười thế
cũng chẳng thấm vào đâu. Chẳng qua giữa lúc bất ngờ bị chúng nó đẩy cái bàn vào
người, nên ngu đệ ngã đó mà thôi.
Phạm Thái vốn thích rượu mà uống bao nhiêu cũng không say, liền
đỡ lời bạn:
- Lê hiền hữu nói rất đúng. Lễ phát thệ long trọng này không
có rượu sao được?
Dứt lời, Quang Ngọc đi thẳng lêl lầu Tiêu Lĩnh. Ở lại trước
bàn thờ Quan Công, Phạm Thái sẽ bảo Lê Báo:
- Nghe nói tửu lượng hiền hữu khá lắm.
- Vâng, cũng khá. Hôm nay xin uống thi.
- Thi cái gì chứ thi uống rượu thì không bao giờ ngu đệ dám
nhận lời.
- Sao vậy?
- Vì kẻ tu hành phải giới tửu.
- Thế thì buồn lắm nhỉ?
Quang Ngọc bê xuống một bình rượu lớn và hỏi hai người :
- Ngần này đã đủ chưa?
Lê Báo đáp:
- Cũng tiềm tiệm. Nhưng rượu có ngon không đấy? Chứ rượu của
thằng cha chủ quán, ngu đệ uống hôm qua không thể nuốt được.
Phạm Thái cười:
- Ấy là không thể nuốt được thì không biết hiền hữu say tới
đâu?
Quang Ngọc cũng cười:
- Hai chú không ngại. Rượu đây tôi thửa mãi tận ở Thủ Khôi
chính hiệu hoàng cúc. Nhưng ta làm lễ đã rồi hãy hay.
Quang Ngọc nói:
- Bây giờ mỗi người thề một câu. Tôi hơn tuổi hai hiền đệ tôn
làm anh xin thề trước.
Chàng liền quỳ trước bàn thờ Quan Công và dõng dạc khấn rằng:
- Ngày xưa Quan thánh đế có kết nghĩa với Lưu Huyền Đức,
Trương Dực Đức tại vườn đào, thề cùng chết để cùng nhau phò nhà Hán, cứu giúp
muôn dân. Ngày nay ở nước Việt Nam chúng tôi trăm họ loạn lạc, bị lầm than chẳng
kém đời hậu hán, hai anh em lũ giặc Tây Sơn đem quân đi ăn cướp phá đánh đuổi
vua chúng tôi phải chạy trốn sang bên quý quốc, giết cha chúng tôi, giết họ
hàng chúng tôi, vậy trước bàn thờ ba chúng tôi là Trần Quang Ngọc, hai mươi
nhăm tuổi, Phạm Thái hai mươi tuổi, Lê Báo mười chín tuổi, xin theo gương ngài
cùng họ Lưu, họ Trương, kết nghĩa anh em, trước là để phò nhà Lê, sau nữa là để
rửa thù cho cha chúng tôi. Tôi thề rằng tôi coi Phạm Thái, Lê Báo như hai anh
em ruột, cũng hai người sống chết có nhau. Nếu tôi ở không đúng lời thề xin chết
như thế nầy.
Dứt lời chàng bẻ hương ra làm hai đoạn mà vứt xuống đất. Phạm
Thái thề cũng như Quang Ngọc. Đến lượt Lê Báo. Chàng rót thêm vào chén rượu thờ,
rồi tự rót cho mình một chén đầy giốc một hơi cạn. Đoạn chàng bảo hai người:
- Hai hiền huynh thề như thế không được, nghe ngu đệ đây nè.
Tức thì chàng vào quì trước bàn thờ và lớn tiếng khấn:
- Tôi đây lê Báo tuy mới mười chín tuổi đầu nhưng trong ba
năm nay tôi đã đi chu du khắp nước, vì vậy tôi biết dân tình rất khổ sở. Tôi nhớ
sách Mạnh Tử có câu: dân vì quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Thế mà họ coi
nước như tư sản của họ, không tưởng gì đến dân, đến xã tắc nữa. Vì vậy ba chúng
tôi là Trần Quang Ngọc, Phạm Thái, Lê Báo cùng nhau kết anh em để ra tay tồn
phò một vị nhân quân biết coi dân làm trọng. Tôi thề rằng (vừa nói vừa rót rượu
vào chén) tôi xin giữ trọn đạo làm em út dốc lòng tuân theo mệnh lệnh của đảng
trưởng là ông anh cả Trần Quang Ngọac của tôi, nếu tôi trái lời thề ấy thì nguồn
ngày xanh của tôi cũng cạn như chén rượu này.
Cùng với câu thề, chén rượu cùng hết. Quang Ngọc và Phạm Thái
đưa mắt nhìn nhau mỉm cười. Rồi Quang Ngọc rót ba chén rượu đầy mà nói rằng:
- Xin uống cạn chén rượu để chúc cho tình huynh đệ chúng ta
ngày thêm bền chặt với non sông Nam Việt.
Uống xong Phạm Thái khen:
- Rượu của hiền huynh ngon lắm.
Lê Báo nghĩ thầm: "Đã giới tửu mà còn biết rượu
ngon?"
Quang Ngọc mời hai bạn lên lầu Tiêu Lĩnh dự tiệc. Lê Báo sợ bỏ
quên mất bình rượu, vội vàng bê theo.
Hồi 5
Trên Lầu Tiêu Lĩnh
Vừa ngồi yên chỗ, Phạm Thái hỏi Quang Ngọc:
- Có việc gì quan trọng thế? Hiền huynh?
- Việc nào đi việc ấy. Bây giờ hãy chén đã.
Lê Báo cười hỏi rỡn Phạm Thái:
- Sư ông giới tửu chứ?
Phạm Thái làm thinh, miệng lâm râm cầu nguyện, khiến Quang Ngọc
cái kỉnh gắt:
- Thôi, xin thầy tu hãy tạm cất cái lòng mộ đạo của thầy đi
cho chúng thôi nhờ.
Phạm Thái ung dung đáp:
- Ngu đệ đọc bài kinh sám hối để cầu nguyện Phật tổ xá cho
anh em mình cái tội sắp ăn thịt lợn.
Lê Báo cười:
- Chúng mình có sát sinh đâu mà sợ, còn như ăn thì ai không
ăn. Không ăn, sống sao được!
Quang Ngọc khen:
- Chú ba nói phải lắm. Vả Phật tổ khi xưa cũng ăn thịt kia
mà. Trong thánh kinh có chép rằng vì ăn thịt lợn rừng của một chú tiều phu kính
dâng mà Phật tổ hóa ở giữa đường.
Lê Báo reo mừng:
- Ồ! thế thì hay lắm nhỉ! Hôm nay không có thịt lợn rừng, anh
em chúng ta ăn thịt lợn nhà vậy. Cũng là một cách kỷ niệm ngày Phật tổ hoá chứ
sao.
Quang Ngọc cất tiếng cười vang. Còn Phạm Thái thì chàng có vẻ
mặt buồn rầu, nghĩ ngợi, tâm trí như để cả đâu đâu. Song tuy chàng làm ra không
tưởng tới ăn uống, mà chàng ăn rất khỏe, uống rất nhiều có phần gấp rưỡi hai
người kia. Khi ai nấy rượu ngà ngà say. Lê Báo thấy chàng vẫn ngồi ngây như người
mất linh hồn liền bảo Quang Ngọc:
- Phạm hiền huynh sao hôm nay nhạt nhẽo thế? Hay vì co em
đây, nên không được vui?
Quang Ngọc đáp:
- Phạm hiền đệ vẫn thế đấy, càng say càng lỳ. Chẳng thế đã
không nổi danh là Chiêu Lỳ?
Lê Báo cười hỏi:
- Chiêu là Phổ chiêu hay là cậu chiêu đấy?
Phạm Thái gật gù đáp:
- Cả hai.
Rồi chàng khoan thai ứng khẩu đọc:
Có ai muốn biết tuổi tên gì?
Vừa chẵn hai mươi, gọi chú Lỳ
Năm, bẩy bài thơ ngâm lếu láo,
Một vài câu kệ tụng a ê.
Tranh vờn sơn thủy màu nhem nhuốc.
bầu giốc kiền khôn giọng bét be.
Miễn được ngày nào ngang dọc đã.
Sống thì nuôi lấy chết chôn đi.
Lê Báo khen lấy khen để. Quang Ngọc thì chau mày tỏ vẻ không
bằng lòng mà cự rằng:
- Hay thì có hay, nhưng ý chưa được rồi rào lại kém khí phách
anh hùng.
- Vậy xin đại huynh phủ chính cho. Hay hơn nữa xin hiền
huynh, hiền đệ mỗi người họa lại một bài cho bữa tiệc này thêm vui.
Lê Báo nhanh nhẫu đáp:
- Ồ! Phải đấy!
Quang Ngọc mỉm cười:
- Vậy xin nhường chú ba hoạ lại. Còn Ngọc này thì đành thú thực
rằng văn thơ rất kém, địch sao nổi tài Chiêu Lỳ.
- Hiền huynh nhún nhường quá!
Nhưng Lê Báo đã cầm thìa gõ vào miệng bát, đọc luôn:
Anh Phạm làm như chẳng biết gì,
Hỏi anh, anh cứ giả ù lì.
Trông thì có vẻ nhà nhân đạo,
kỳ thực ra tuồng loại xú ê.
Thơ thánh ngâm nga không thiếu vận,
Rượu thần nốc cạn kể hàng be,
Đương trai sao đã lo khi chết
Còn tám mươi năm hãy sống đi.
Quang Ngọc cười ngất, nhưng Phạm Thái lặng lẽ rót đầy chén rượu
mà nói rằng:
- Ba chữ "loại xú Ê" thì phải phạt đủ tam bôi.
Lê Báo chữa thẹn:
- Phạt gì chớ phạt rượu thì ngu đệ không lo lắm. Nhưng vận
"ê" của hiền huynh cũng xét lại cho ngu đệ được nhờ.
Tuy nói vậy mà chàng cũng uống luôn ba hơi vạn ba chén rượu
phạt.
Quang Ngọc bảo Phạm Thái:
- Thơ Lê hiền đệ tuy không được hay, nhưng mà có hậu. Hai câu
kết thực đã làm cho bài thơ của Phạm hiền đệ bớt sai: "Còn tám mươi năm
hãy sống đi" là là phải lắm, chứ sao lại nói gỡ" chết chôn đi"
được?
Phạm Thái mỉm cười:
- Vậy xin phép hiền huynh trưởng cho chú ba sáu chén rượu nữa.
Lê Báo chau mày xua tay:
- Thưởng với phạt sao lại giống nhau thế được. Hoạ chăng có
phạt Trần đại huynh ba chén về tội không hoạ thơ thì còn có lý.
Phạm Thái hỏi Quang Ngọc:
- Vậy Trần đại huynh nghĩ sao? Chẳng lẽ lại trốn rượu phạt.
Hay là thế này này, câu chuyện tức cười mà hiền huynh chưa bao giờ chịu kể cho
ngu đệ nghe, nay nhân tiện có Lê hiền đệ đây, đại huynh đem thuật ra mà thế vào
bài thơ là ổn.
Lê Báo vui mừng hỏi:
- Truyện gì mà bí mật thế, Phạm đại huynh?
- Truyện tu hành của một vị sư ông.
Quang Ngọc cười đáp:
- Xin hiền đệ đừng tưởng Quang Ngọc này không làm nổi thơ. Chẳng
qua chí ngu huynh còn để cả chỗ khác, có tĩnh tâm mới làm được thơ hay, chứ làm
bậy làm bạ chỉ tổ bị phạt rượu!
Lê Báo thấy Quang Ngọc riễu mình thì tức giận nói bướng:
- Chẳng qua hiền huynh nói khoác. Có giỏi cứ hoạ thơ đi đã
nào?
Phạm Thái mỉm cười:
- Lại xin phạt Lê hiền đệ một chén rượu về tội xúc phạm huynh
trưởng.
- Có phải nhị vị đại huynh về bè nhau để công kích ta chăng?
Phạm Thái vẫn tươi cười:
- Lê hiền đệ có lẽ say rượu.
Thấy Lê Báo có tính lỗ mãng, Quang Ngọc liền giải hoà:
- Thôi xin hai hiền đệ, lỗi tại ngu huynh cả. Vậy cố nhiên là
ngu huynh phải kể câu chuyện đã hứa.
Lê Báo hết giận, vỗ tay reo:
- Ừ, có thể chứ! Nếu không, ta bắt đấu võ liền, mà đấu võ thì
ta chấp hai anh một bên.
Quang Ngọc biết Lê Báo say lắm rồi, liền vui vẻ cười vang nói
đùa:
- Lê hiền đệ nên để dành lực lượng với võ nghệ, có lẽ tối hôm
nay phải dùng đến. Bây giờ hãy xin lắng tai nghe câu truyện khôi hài của ngu
huynh.
Lê Báo cười:
- Truyện khôi hài chắc là nhạt thếch.
Phạm Thái đỡ lời:
- Thì cứ để Trần đại huynh kể đã nào.
Quang Ngọc giốc cạn chén rượu đầy, rồi nói rằng:
- Ba năm trước đây, một khách chinh phu niên thiếu lang thang
trên con đường gió bụi. Chàng ta đi xa cửa xa nhà tìm chốn trú thân.
"Cha chàng vừa qua đời, mà lúc qua đời, chàng không gặp
mặt, qua đời một cách thảm khốc đầu bị rời mình nơi pháp trường....
Lê Báo ngắt lời:
- Thì cứ nói ngay là bị chém có giản dị hơn không!
Nhưng thấy Quang Ngọc ngồi yên, cặp mắt đỏ ngầu dữ tợn, đăm
đăm nhìn nơi chân trời xa tắp, thì chàng lấy làm sợ hãi im ngay. Bỗng Quang Ngọc
cười sằng sặc một hồi, rồi kể tiếp:
- Một buổi chiều, tâm hồn ngây ngất, chàng thiếu niên bỏ lỏng
dây cương để mặc ngựa theo con đường hẻm, cỏ rậm, muốn mang đi đâu tùy ý. Chàng
đưa cặp mắt mỏi mệt nhìn sắc trời tà đỏ mà đoái tưởng lại thời oanh liệt theo
cha tung hoành trong hai trấn Đông, Bắc.
"Cái võ kiếm lách cách đập vào yên ngựa lại nhắc tới những
bài ca chàng thường hát để tự phấn khởi tâm hồn trong khi thất vọng. Chàng liền
kìm cường. Rút thanh kiếm báu giơ lên múa. Toan cất lời ca thì xa xa có tiếng
chuông rời rạc, buồn tẻ, như gieo vào lòng chàng sự hư vô chán nản. Chàng thong
thả tra kiếm vào vỏ rồi theo tìm nơi có tiếng chuông.
"Trời nhá nhem tối, thiếu niên tới chân một quả đồi. Ở
lưng chừng có một ngôi chùa. Tiếng chuông đổ hồi từ trên cao gieo xuống, gieo
vào lòng khách chinh phu, làm cho tắt hẳn ngọn lửa đương bùng bùng cháy.
"Thiếu niên xuống yên, buộc ngựa ở cửa tam quan. Chờ lâu
vẫn không thấy có người ra, mà gọi cửa cũng không ai thưa. Mãi sau, khi chàng
quay đi mới có một nhà sư ở gian phòng trai bước tới. Người ấy nói mình chỉ là
sư bác, còn sư cụ thì chơi vắng phương xa. Chàng liền nhờ sư bác cho ở trú một
đêm, sáng hôm sau lại xin đi sớm, nhưng sư bác nhất định không thuận, nói không
có phép sư cụ thì không thể tự tiện để khách thập phương ngủ trọ trong chùa được.
Ngôn ngữ, cử chỉ, nhất là sức vóc của nhà sư khiến chàng trẻ tuổi phải nghĩ thầm:
"Quái! Sao đi tu mà hỗn xược dữ tợn đến thế?"
"Chàng muốn nói khó, chàng tuổi trẻ lẳng lặng xuống đồi,
ra cửa tam quan. Nhưng, ôi thôi! Con ngựa buộc đó đã biến đâu mất, mà lạ nữa,
nghe xa xa có tiếng ngựa phi nước đại về phía làng Nỗi duệ. Chàng biết kẻ trộm
vừa trốn thoát. Bực tức uất người, nhất là từ trên chùa lại ném xuống những tiếng
cười mai mỉa. Chàng lộn tiết chạy một mạch lên đồi, lại gần sư bác sừng xộ hỏi:
- "Sao người biết ta mất ngựa lại cười?
- "Ta cười thì có can dự gì đến ai?
"Chàng tuổi trẻ mắm môi trợn mắt, giọng đe doạ:
- "Có can dự đến ta. Nếu ngươi không bảo cho ta biết đứa
nào bắt trộm ngựa của ta thì ta thề xin đưa linh hồn người lên Nát bàn ngay lập
tức.
"Nhà sư cười ha hả đáp lại:
- "Mi làm như Nát bàn của nhà mi gần lắm! Dẫu sao, xuống
địa ngục vẫn dễ dàng hơn, vậy nếu mi muốn xuống thì cứ việc ỡm ờ đứng lại.
"Chẳng nói chẳng rằng, chàng tuổi trẻ tuốt ngau kiếm ra.
Nhà sư ý chừng đã phòng bị trước, cũng giơ ngay câu búa dấu sẳn trong vạy áo
ra. Hai người đánh nhau được một hồi, thì nhà sư biết sức không chống nổi quay
đầu chạy. Chẳng may chân vướng cỏ khô, vấp ngã bổ chửng. Chàng trẻ tuổi liền
nhanh nhẹn dẫm chân lên ngực rồi dí mũi kiếm vào ngực hắn mà doạ rằng:
- "Ai lấy trộm ngựa ta?
"Bất giác nhà sư kêu rống lên. Tức thì ba chú tiểu lực
lưỡng ở nhà trai chạy ra. Chàng tuổi trẻ cả tiếng thét lớn:
- "Nếu chúng mày lại gần hay kêu cần cứu thì trước hết
tao hãy thí cho thầy chúng mày một mũi kiếm đã, rồi tao giết chết hết chúng mày
như tao giết một đàn nghé.
"Bọn tiểu thất kinh quỳ cả xuống lạy van xin"công tử"
xá cho sư bác. Còn lão sư thì luôn mồm kêu: "Nam vô a di đà phật! Lạy ngài
tha tội cho bần tăng, bần tăng thứ hết, Nam vô a di đà phật!"
"Chàng tuổi trẻ lộn ruột vì mấy tiếng Nam vô a di đà phật
của lão ác tăng, đã toan đưa lưỡi kiếm vào cổ hắn, nhưng nghĩ đến con ngựa bị mất
trộm chàng lại thôi..."
Lê Báo vui vẻ giốc cạn chén rượu rồi vỗ tay reo:
- Ồ! Ngộ lắm nhỉ! Ngu đệ tưởng như trông thấy ở trước mắt một
tráng sĩ dẫm chân lên ngực một nhà sư, gần đấy, ba chú tiểu quỳ gối chắp tay
van lơn. Thực là một bức tranh linh hoạt của một họa sĩ đời Chiến quốc.
Phạm Thái thì lâm râm cầu nguyện, có vẻ cảm động xót thương.
Mãi sau, chàng mới ôn tồn bảo Quang Ngọc:
- Nếu trang thiếu niên kia không là hiền huynh thì ngu đệ xin
bảo chàng ta là một người lỗ mãng, dám quý con ngựa hơn mạng một nhà sư, dù là
một nhà sư ăn trộm.
Quang Ngọc cười đáp:
- Nhưng hắn ta có lấy trộm ngựa của chàng tuổi trẻ đâu?
- Vậy ai lấy?
- Không ai lấy cả. Nhà sư sợ hãi thú thật với chàng tuổi trẻ
rằng giữa lúc chàng lên chùa thì sư cụ đi ra cửa sau vòng ra tam quan thấy có
con ngựa tốt liền mượn tạm vì có chút việc cần. Nhà sư lại mời chàng tuổi trẻ
hãy vào nghĩ trong phòng quan cư để chờ một lát nữa sư cụ về.
"Chàng tuổi trẻ đoán rằng nhà sư muốn cạm bẫy mình để trả
thù cho bỏ ghét, nhưng đấng trượng phu ngang tàng há sợ chì? Vả chàng cũng muốn
dò xét ngôi chùa còn giấu diếm những sự bí mật ghê gớm gì nữa chăng, vì cứ ngắm
cái cử chỉ bất chính của vị sư cụ mượn ngựa bằng một cách khác thường để đi
chơi đêm, chàng cũng đoán biết rằng chùa này không phải là một nơi tu hành của
các bậc đồ đệ tôn sùng đức Thích Ca.
"Chàng bèn theo sư bác vào phòng trai. Tức thì các chú
tiểu xúm xít hầu hạ, kẻ lấy thau, người pha nước. Nhưng chàng không dám uống nước,
sợ trong đó có thuốc mê. Và lúc nào chàng cũng nhăm nhăm cầm thanh kiếm tuốt trền
ở tay để phòng ngừa sự phản trắc.
"Chờ mãi tới cuối giờ Tuất cũng không thấy gì, chàng liền
đóng cửa phòng tắt đèn đi ngủ. Kỳ thực chàng vẫn thức, nằm nghe ngóng...
"Bỗng vào khoảng nửa đêm, nghe có tiếng ngựa hí. Chàng
rón rén đứng dậy, ghé mắt nhòm ra cửa, thấy dưới anh trăng suông lờ mờ hiện ra
hai cái bóng đen từ chân đồi đi lên: một bóng nhà sư lực lưỡng và một bóng người
thiếu nữ rất yểu điệu, thướt tha..."
Lê Báo vỗ tay cười:
- Sư cụ hỗ mang, tới rước gái về chùa rồi!
Phạm Thái buồn rầu chắp tay nói:
- Nam Vô a di đà phật, nhưng rồi sao nữa, thưa hiền huynh?
Quang Ngọc kể tiếp:
- "Chàng tuổi trẻ toan cầm kiếm xông ra thì lại nghe có
tiếng - tiếng sự cụ - hỏi một người thứ ba vừa đi tới:
- "Hắn ta ra sao?
"Tiếng trả lời của sư bác:
- "Bạch cụ, hắn ta nằm trong buồng quan cư. Xin cụ nên đề
phòng, hắn ta giỏi võ lắm kia đấy!"
"Hai người còn nói nhiều, chàng tuổi trẻ không nghe rõ,
vì họ nói nhỏ, nhưng ý chừng sư bác thuật lại cuộc đánh nhau vừa xảy ra, vì thấy
người thiếu nữ khúc khích cười có dáng chế nhạo. Bỗng sư cụ lớn tiếng:
- "Được! Để nó đấy, ta đây sẳn lòng đưa nó về cực lạc thế
giới.
"Bấy giờ ba người đi ngay sát cửa phòng chàng thiếu
niên. Sư bác thì thầm bảo sư cụ:
- "Hắn ta ở trong này, nhưng chắc đương ngủ say.
"Thiếu nữ không biết thích chí điều gì, vỗ tay cười
vang, cười ngã cả vào cánh của phòng đến rầm một tiếng. Sư bác vội vàng xua tay
bảo:
- "Se sẽ chứ! Hắn ta thức dậy thì nguy bây giờ.
"Thiếu nữ vần cười:
- "Sư cụ sợ gì thằng nhãi ranh ấy, phải không bạch sư cụ?
"Sư cụ được gái khen, phỗng mũi:
- "Phải, ái khanh nói phải. Ngữ ấy vị tất đã chịu nỗi nửa
chùy này.
"Vừa nói vừa giơ ra một cái chùy đồng nặng. Sư cụ lại
nói:
- Nhưng ái khanh ạ, bây giờ ta hãy cùng nhau hưởng cuộc ái ân
đã..."
"Thiếu nữ nũng nịu:
- "Không. Bao giờ sư cụ giết được tên hỗn xược ấy, em mới
chịu nghe lời.
"Tức thì cánh cửa phòng mở toang, chàng trẻ xông ra, tay
múa kiếm, miệng thét:
- "Có ta đây!
"Sư cụ cũng khoa chùy lên đối địch. Trong khi ấy thì, lạ
lùng xiết bao, thiếu nữ nhân lúc bất ngờ rút ngay dao dấu trong bọc ra thí cho
sư bác một nhát trúng ngay cửa họng, nằm vật xuống đất chết tươi. Rồi nàng quay
lại giúp sức chàng tuổi trẻ. Thấy nàng trong tay chỉ có một cây đoản đao, không
đỡ nỗi cái chùy nặng của sư cụ, chàng tuổi trẻ vội kêu:
- "Cô lùi ra, cứ một mình tôi cũng đủ giết nổi thằng sư
hổ mang này rồi.
"Nhân lúc chàng để ý đến thiếu nữ, giữ mình không được
kín, nhà sư nhằm trúng thanh kiếm chàng cầm, giáng xuống một chùy hết sức mạnh,
khiến kiếm văng ra. Tính mệnh chàng sắp bị nguy thì thiếu nữ đã múa tít lưỡi đoản
đoa xông vào cứu viện. Cử chỉ hào hiệp ấy giúp chàng tuổi trẻ đủ thời giờ nhặt
thanh kkiếm sấn lại đánh nhà sư. Chàng tức vì đã bị nhà sư làm mất thể diện ở
trước mặt má hồng, nên chàng rán hết sức bình sinh, giở hết võ nghệ ra đối địch.
Bởi thế, chẳng bao lâu thiếu nữa nghe thấy chàng thét lên một tiếng rất lớn, rồi
nhảy bổ vào đâm nhà sư một nhát xiên từ ngực sang lưng".
Lê Báo cười the thé:
- Thế là cả sư cụ, lẫn sư bác cùng được lên Nát bàn chầu Phật.
Quang Ngọc cũng cười:
- Họa chăng xuống địa ngục chầu vua Diêm vương.
Phạm Thái mơ màng đăm đăm nhìn, hỏi:
- Còn người thiếu nữ?
Quang Ngọc thản nhiên đáp:
- Tức Nhị Nương.
Phạm Thái kinh ngạc:
- Nhị Nương?
- Phải, Nhị Nương. Mà người thiếu nữ là Nhị Nương thì có chi
lạ.
Lê Báo ngơ ngác hỏi:
- Nhị Nương là ai?
- Rồi hiền đệ ắt biết.
- Vậy bây giờ ta hãy uống mỗi người hai chén rượu để chúc thọ
Nhị Nương đã!
- Lê hiền đệ nói rất phải.
Ba người cùng vui vẻ nâng chén. Lê Báo lại hỏi:
- Thế rồi sao nữa.
Quang Ngọc mỉm cười:
- Rồi chàng trẻ tuổi trở nên sư ông...
Phạm Thái nói tiếp:
- Đạo hiệu là Phổ Tĩnh thiền sư, phải không bạch sư ông?
Trần Quang Ngọc vẫn mỉm cười:
- Ý thế, giết xong hai tên ác tăng, Nhị Nương cùng ngu hữu xục
xạo đi tìm bọn tiểu, thì chúng, - tất cả năm tên - đều ra quỳ xuống van lạy xin
tha. Ngu hữa liền sai chúng khiêng hai cái thây đem chôn ở phía bên kia đồi. đoạn
ai nấy lại đi ngủ, tuy lúc đó gà đã bắt đầu gáy sáng.
"Từ hôm sau, Ngọc đã nghiễm nhiên dùng đạo hiệu của nhà
sư đã tịch một cách phi thường, nghĩa là hiệu Phổ Tĩnh thiền sư. Ở vùng này,
nhiều người không ngờ rằng có xẩy ra sự biến gì hết. Một ít người biết chuyện
thì lại làm ngơ, vì họ rất ghét, rất sợ lão ác tăng kia, nên biết hắn bị giết,
họ rất đỗi vui mừng. Bởi vậy, ngu huynh đây, nhờ trời, nhờ phật tổ được yên
lành mà tu đạo nhiệm mầu..."
Phạm Thái từ nãy vẫn theo đuổi ý nghĩ về Nhị Nương, tò mò hỏi:
- Thế còn Nhị Nương? Nàng không nói chuyện vì sao nàng lại để
tên ác tăng bắt về chùa? Hình như nàng cũng thông võ lược kia mà?
- Phải, nàng rất tinh thông võ nghệ. Cứ kể tay đôi đánh nhau,
nhà sư hổ mang kia cũng chưa dễ làm gì nổi, nhưng vì nhiều lẽ, nàng muốn dùng
mưu giết tên ác tăng một cách kín đáo, không để thiết lộ cho ai biết.
" Nguyên nàng là con gái quan binh bộ thương thư Nguyễn
Đình Giản. Khi Nguyễn Huệ lên chiếm ngôi nhà Lê, quan thượng thư vì theo không
kịp đức Chiêu Thống, đành phải quay về ẩn núp ở vùng huyện Lập thạch, tỉnh Sơn
Tây, Bắc bình vương dụ mãi ngài ra làm quan không được, liền sai người đến
Thanh Hoá bắt Nhị Nương - khi ấy mới mười lăm tuổi - cho vào hậu cung, tưởng
làm thế thì thường con, thế nào ngài cũng phải ra hàng. Chẳng dè được tin, ngài
rửng rưng như không, cười gằn mà nói rằng:
- "Con ta không biết chết đi để làm nhục môn hộ nhà ta,
chẳng vì tình phụ tử nhỏ mọn mà bỏ đại nghĩa đâu".
"Nguyễn Huệ biết không dụ nổi, mới dùng mẹo bắt sống đem
về. Nguyễn thượng thư không chịu khuất phục mà chết, Nhị Nương, bên thây cha
không kêu khóc nửa lời, chỉ thì thầm khấn thề với linh hồn cha rằng: "Thù
này xin trả".
" Nhân xin được phép đi đưa đám cha , nàng thừa lúc bối
rối trốn thoát, rồi đi chu du khắp đó đây, tìm đến những chỗ quen thuộc để cầu
học nghề võ. Ba, bốn, năm trời, nàng lẩn lút trong vùng quê các trấn Nghệ An,
Thanh Hóa, Sơn Nam, Kinh Bắc, cho đến hôm gặp nhà sư hổ mang, mê cái sắc đẹp của
nàng, thả lời chọc ghẹo. Nàng đã sắp ra tay cự địch, nhưng khốn nổi một sự ngẫu
nhiên lạ lùng! Tên sư kia lại là người đồng hương với nàng: Sáu năm trước hắn
trụ trì ở chùa làng.
"Hắn dọa nếu không bằng lòng hắn , thì hắn tố cáo tung
tích, nàng với quan phân phủ Từ Sơn. Bất đắc dĩ nàng phải giả ưng thuận, cùng định
chờ đêm khuya ra tay trừ khử tên cường bạo hoang dâm cho bỏ ghét..."
Ngừng một lát Quang Ngọc lại nói tiếp:
- Chính nàng cùng ngu huynh đã lập nên đảng Tiêu Sơn. Nàng đã
giúp đảng được nhiều việc lắm, ấy là không kể cái công cứu sống cho Ngọc đây.
Lê Báo cười sằng sặc:
- Thế mà hai người không yêu nhau thì cũng lạ!
Quang Ngọc buồn rầu đáp:
- Nói kính trọng nhau thì đúng hơn. Đương lúc theo đuổi công
cuộc lớn lao, còn bụng đâu nghĩ tới ái ìtnh. Vả lại xin nhị đệ hiểu cho rằng,
mình tuy không thực bụng tu hành, song đã nhờ cái áo cà sa để trốn tránh thì
cũng không nên làm nhem nhọ nó.
Phạm Thái mỉm cười ngờ vực, ngồi im. Quang Ngọc lại nói:
- Nàng cũng bảo ngu hữu rằng khi nào việc lớn xong xuôi đã,
hai người mới cùng nhau đi chu du khắp nước Nam như Phạm Lãi, Tây Thi đời xưa
chứ nay còn ở thời kỳ nằm gai nếm mật, nghĩ chi tới hạnh phúc êm đềm của tình
ái!....Lời vàng ấy, ngu hữu đây đã khắc ở bên lòng, thề không bao giờ dám sai.
Lê Báo bông đùa một câu:
- Nghĩa là hai anh chị còn tạm là đôi bạn cầm kỳ để chờ ngày
trở nên đôi bạn cầm sắc chứ gì.
Quang Ngọc quắc mắt lườm, rồi giữ vẻ mặt trang nghiêm chàng
nói:
- Thôi! Đã quá dài lời nói chuyện phiếm.Bây giờ rượu cạn nhắm
đã hầu tàn, xin mời nhị hiền đệ đi nghỉ một giấc cho thực ngon, tối hôm nay ngu
huynh cần đến lòng can đảm đến hai cánh tay cứng cáp của nhị đệ lắm đấy.
Lời nói rắn rỏi như câu hô binh, khiến hai người vâng lời
ngay.
Hồi 6
Quan Quân
Chiều hôm ấy, trước trại lính phủ Từ Sơn, người lính, nón
sơn, quần áo chẽn, mỗi người cầm một cây tre dài bịt vải đứng xếp hàng chữ nhất
. Khi đã tập một lúc về đủ các miếng đâm trên, đánh dưới, phạt ngang thì người
đội chọn từng cặp sức tương đương cho ra dấu với nhau.
Biết rằng có viên phân suất đứng trên mặt thành nhìn xuống,
thầy đội, làm ra bộ ta đây giỏi võ, nắm tay người này, kéo chân kẻ khác hò hét,
dạy bảo, mắng nhiếc luôn miệng:
- Chú đứng tấn trống quá. Mũi roi chúc xuống thế này thì người
ta khẽ bẩy một cái cũng băng cả roi đi, còn đánh chác gì....
Viên phân suất từ trên thành đi xuống, lại gần đội cơ ban lời
khen ngợi. Được thể, đội ta càng lên mặt:
- Bẩm ông lớn, với năm mươi tên lính giỏi võ, tôi có thể chống
nổi mấy trăm quân ô hợp, chẳng nói đâu xa, giá tối hôm qua năm người canh phòng
trong tửu quán đều là lính tôi luyện tập thì có đâu đến nỗi bị giặc giết như
ngoé thế? Đấy, ông lớn cứ tinh lính trấn giỏi!
Phân suất hỏi:
- Ngày mai bản chức thân giải Thị Kim lên trấn lỵ, vậy anh
tính nên cho bao nhiêu lính hộ tống cũi tội nhân?
- Bẩm chỉ cho mười tên đi là chắc chắn lắm rồi - mười tên với
tôi nữa là mười một thì dẫu giặc mang trăm binh đến đánh giải vây cũng không
lo.
Phân suất gật đầu, mỉm cười:
- Anh nên hết lòng làm việc quan. Thế nào ta cũng tự thăng
thưởng cho...À! Hai mươi tên lính mới mộ này đã biết gì chưa?
- Bẩm ông lớn, khá lắm rồi, xin ông lớn đứng coi.
Liền hô cho bọn lính tập các miếng trông rất đều và ngoạn mục.
Phân xuất vẫy tay cho bọn lính vào trại nghỉ, rồi hỏi đội cơ:
- Anh có dạy tập đoàn côn, đoản đao đấy chứ?
- Bẩm, có cả. Cả bắn cung nữa. Còn bắn súng hoả mai thì vì ở
phủ này quan hiệp trấn phát cho có năm cây, nên tôi đã chọn mười người giỏi nhất,
nhanh nhẹn nhất mà dạy tập thôi.
Phân suất mỉm cười:
- Ta cũng không tin gì ở hiệu quả súng hoả mai. Trong tận
Tiên đế đánh nhau với Tôn Sĩ Nghị, bên địch có tới hàng nghìn cây súng còn bên
ta chỉ dùng toàn dáo dài, mã tấu, thế mà quân kia thua chạy không còn một mảnh
giáp thì đủ biết đoản binh vẫn lợi hại hơn trường binh nhiều.
- Bẩm ông lớn, nhưng giữ thành thì súng hoả mai được cái lợi
bắn xa lại trúng hơn cung, nỏ nhiều. Còn như bắn cây súng thần công đặt bốn góc
thành, thì thực là vô ích, xoay xở đã chậm mà bắn lại không trúng. Chỉ được cái
tiếng to để dương oai với bên địch.
- Kể ra khi có quân giặc kéo đến hàng nghìn vạn thì súng thần
công cũng có lợi: Bắn bừa vào đám đông người, thế nào chẵng trúng. Nhưng phủ
này thì trừ khi trấn Kinh Bắc có thất thủ, địch quân mới kéo binh đến vây. Mà nếu
Kinh Bắc đã thất thủ, thì Từ Sơn cũng chẳng cố thủ với ai được. Thành thử súng
thần công có đó cũng như không. Còn như súng hoả mai thì một trận Ngọc hồi đủ
chứng tỏ rằng đó là những binh khí vô dụng.
- Bẩm, nghe đâu ông lớn cũng có dụ chiến trận ấy?
- Có. Ta theo Tiên đế ngay sau trận Cẩm Thủy. Bấy giờ, ta ở
trong toán nghĩa quân của nhà Lê. Tiên đế vừa sang sông thì quân nhà Lê vỡ lở
ngay. Ta cùng vài bạn đồng chí đến xin hàng Tiên đế mà bấy lâu nay ta vẫn mộ tiếng
anh hùng, ao ước được gặp long nhan, nhất từ ngày ta đem lòng khinh bỉ Chiêu Thống
đã rước quân ngoại quốc về giày xéo người đồng bang. Thế là ta theo Tiên đế đến
đánh Phú Xuyên, đến vây Hà Hồi. Trận Hà Hồi cũng như trận Phú Xuyên không có
chi là đáng kể. Tiên đế đến, giặc trông bóng cờ là đem hết quân lương, binh khí
ra hàng răm rắp, chẳng phải đánh chác gì.
- Bẩm, còn trận Ngọc Hồi? Nghe nói trận ấy đánh hăng hái lắm.
- Phải, hăng hái lắm là vì quân Tàu có rất nhiều súng hoả
mai.
Đôi cơ mỉm cười:
- Đó, ông lớn coi, súng hoả mai vẫn lợi hại.
Phân suất cau mày:
- Ta đã bảo không ăn thua gì mà lại. Sáng tờ mờ ngày mồng
năm, quân ta tiến lên tới làng Ngọc Hồi, quân tàu bắn súng ra như mưa. Đến đây,
anh mới nhận thấy mưu lược Tiên đế. Ngài sai lấy những mảnh ván, ghép ba bốn mảnh
vào làm một, quấn một lần rơm ướt ở phía ngoài rồi truyền một toán quân kiêu
dõng, cú hai mươi người khiên một bức, mỗi người dắt một con dao nhọn, lại hai
mươi người cầm khí giới theo sau. Ta cũng tình nguyện nhập bọn này nên mới biết
rất tường tận. Đạn bên địch bắn ra vẫn vun vút rào rào, nhưng chỉ trúng bồm bộp
vào ván quấn rơm chứ không thiệt một mạng người. Anh coi đó, súng có ích lợi gì
đâu. Khi đến gần cửa đốn toán quân ta liền bỏ ván xuống đất, rút dao ra, xong lại
chém giết, quân đi sau kéo ùa vào trợ lưc, còn vua ta thì cưỡi voi theo sau đốc
chiến. Quân Tàu địch không nổi, vứt cả súng mà chạy tán loạn. Quân ta thừa thế
đánh tràn đi, lấy được đồn, giết quân Thanh, thây rải khắp đồng. Sau điểm binh
khí bắt được thì số súng hoả mai có trên năm trăm cây.
Lúc đó, một tên lính lệ hầu trà chạy ra nói với phân suất:
- Bẩm, phủ đường cho ra mời đại nhân vào phòng khách xơi nước.
Phân suất lật đật theo tên lính đi vào nhà trong. Sau khi vui
vẻ chào mời, hỏi thăm qua loa về cách việc binh lương, phân phủ truyền cho hết
cả người nhà ra ngoài rồi thì thầm bảo phân suất:
- Về việc bắt được Lê hoàng phi họ Nguyễn, ngài có ý kiến gì
không?
Phân suất ngẫm nghĩ, trả lời:
- Thưa ngài, không. Vả ta chỉ việc giải tù nhân lên trấn lỵ
là xong.
Phân phủ mỉm cười:
- Thế thì ngài thiển cận quá. Ngài nên biết tù nhân nào phải
người tầm thường. Nàng Nguyễn thị Kim này xưa kia được Chiêu Thống sủng ái vì
có tầm nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành. Buổi sinh thời đức Tiên đế ta nóng
đánh trấn Tuyên Quang làm loạn biết đâu không phải vì ở đó có bực mỹ nữ ấy ẩn
núp. Nhưng khi ngài bắt được Duy Chí thì Lê hoàng phi lại trốn được. Nay viên
ngọc quý ấy lọt vào tay, mà ta không biết lợi dụng thì thực cũng uỗng.
- Vậy ý ngài tính ra sao?
- Tôi thiết tưởng chúng ta đã trải qua bao khó nhọc mới tới
được chức này, tôi thì nhờ có Bình phái hầu Ngô Thị Lang tiến cử, còn ngài thì
nhờ sự xông pha mũi tên hòn đạn tại trần tiền. Thế mà dịp này còn bằng mấy lời
tiến cử cùng là những sự hiểm nghèo ở nơi chiến địa, có thể nhảy ngay đến chức
trấn thủ, hiệp trấn cũng chưa biết chừng. Nhưng...
- Nhưng sao nữa, thưa ngài?
- Nhưng nếu chúng mình chỉ sơ ý một tí là làm cỗ sẵn cho kẻ
khác ăn mà thôi. Thí dụ bây giờ chúng mình nộp tù nhân lên trấn lỵ để quan trấn
thủ áp giải về kinh, thì thế nào họ chẳng nhận hão rằng chính họ đã bắt Lê
hoàng phi mà bao nhiêu công trạng họ nghiễm nhiên toạ hưởng kỳ thành. Chi bằng
một mặt ta hãy bí mật giam Lê hoàng phi vào một nơi, một mặt sai một tên cận
tính tức tốc mang tờ sớ về kinh tâu rằng hai chúng ta đã lao tâm khổ tứ bày mưu
lập mẹo trong nửa năm trời mới bắt nổi Lê hoàng phi Nguyễn thị Kim. Việc này là
việc rất quan trọng nên có sớ về triều để hỏi xem phải Thị Kim tới trấn Lỵ hay
về kinh đô, như thế thì huân nghiệp của mình không ai làm mai một nổi.
Phân suất cả mừng:
- Ngài thực có mưu trí hơn người.
- Lại còn điều này nữa: Ta đệ mật thư lên thái sư, ca tụng
cái nhan sắc tuyệt thế của Lê hoàng phi. Thái sư vốn...
Phân suất cười:
- Tôi hiểu rồi. Vậy ngài nên thảo ngay sớ viết kíp thư đi mới
được.
- Việc đó tôi xin cáng đáng, nhưng việc giải Lê hoàng phi
ngài chưa tiết lộ cho ai hay đấy?
- Tôi mới ngỏ với tên đội Nhất, nhưng hắn là tay tùy tòng
trung thành của tôi, tôi bảo được hắn giữ bí mật.
- Thế thì được rồi. Vả lại không cứ người ngoài mà ngay trong
phủ cũng ít người biết rằng ta bắt được hoàng phi, vì lúc giải nàng về đây, đêm
đã khuya lắm. Mà tôi lại giam nàng ở một cái buông nhỏ trong tư thất, chẳng ai
biết hết...Kể nàng đẹp lắm đấy chứ , ngài nhỉ.
Hai người đương nói chuyện, bỗng một tên lính ở ngoài chạy
vào có vẻ hấp tấp, kinh hãi. Viên phân suất đứng dậy hỏi:
- Có việc gì thế bây?
Tên lính cất giọng run run nói:
- Bẩm...Yên Phụ đến báo có giặc.
Phân suất tỏ vẻ sợ, chau mày gắt:
- Sao nó không báo ở trấn lỵ? Đâu? gọi nó vào đây.
Một lát sau, tên lính đưa tới một người nhà quê hiền lành, thực
thà, run như cầy sấy và nói lắp bắp không ra tiếng, lí nhí không ra hơi.
Phân suất thét lớn hỏi:
- Mày ở đâu? Ở đâu? Ở làng nào? sao hỏi lại không nói?
Tên kia chớp mắt luôn, đưa tay lên gãi mang tai, luống cuống
đáp:
- Bẩm...Bẩm quan lớn, con người làng Yên Phụ ạ
- Tín bài đâu?
Người nhà quê quay ra phía ngoài, vắt vạt áo nâu lên vai, rồi
thong thả cởi hầu bao lần mãi mới lấy ra được một cái bìa nhỏ bằng bàng tay và
cuộn tròn. Trong khi ấy phân suất thì thầm bảo phân phủ:
- Phải cẩn thận lắm mới được. Biết đâu nó không là một tên
trong bọn cướp.
Phân phủ phì cười:
- Cướp! Thằng ốm kia mà là cướp được. Ngài đa nghi quá đỗi.
Người nhà quê cúi đầu, hai tay dâng tín bài, phân suất đỡ lấy
ngắm nghía, xem xét từng ly, từng tí, rồi khi áp ngón tay người kia thấy đúng vạch
điểm chỉ, liền giao trả cái thẻ mà nói rằng.
- Mày trình gì?
- Bẩm...Bẩm hai quan lớn, có một bọn cướp đông lắm đến đóng ở
bến đò Kim Lũ.
- Đông độ bao nhiêu?
- Bẩm con không đếm, nhưng đông lắm, mà hình như tên đầu đảng
là một...nhà sư
Phân suất kinh hãi:
- Bẩm...Vâng...Một nhà sư khoẻ lắm.
Phân suất nói khẽ với phân phủ:
- Tôi nghe dân sự đồn đại rằng ở vùng bến đò Kim Lũ vốn có một
tên cường đạo mặc giả sư đến quấy nhiễu.
- Để bọn nó hoành hành mãi vùng này, nhỡ đến tai Thái sư thì
chúng mình cũng khó lòng ngồi yên mà hưởng phú quý. Chi bằng ta đánh rát cho
chúng nó một trận để chúng nó lẩn đi địa hạt khác mà bóc lột. Hiện phủ ta có
hơn hai trăm lính, tôi đã luyện tập trong luôn mấy tháng nay cũng chỉ vì một mục
đích ấy. Vậy đêm nay xinh lưu lại năm tên giữ súng hoả mai lòn bao nhiêu binh
lính, tôi đem theo hết để trị cho bọn giặc kia một mẽ. Phen này mà tóm được tên
sư bí mật giả mạo kia thì thực tiếng tăm chúng ta lừng lẫy.
Phân suất quay ra bảo người nhà quê:
- Mày dẫn đường cho quan quân, nghe!
Tên kia chừng hoàn hồn, trả lời trơn chu:
- Dạ, nhưng con sợ bọn giặc báo thù đốt nhà giết vợ con con mất.
Bẩm chúng nó ghê gớm lắm cơ, ở vùng chúng con ai cũng phải kiêng nể....Vì sáng
hôm nay chúng đốt nhà con, lai bắt mất trâu, mất lợn, gà của con mổ ăn thịt nên
tình con oan ức con mới liều đến kêu quan lớn, xin quan lớn thương tình...Chẳng
nhẽ giữa đời thái bình mà chúng nó cứ hiếp tróc, lấn áp, bóc lột mãi lương dân,
chẳng coi phép nước vào đâu như thế.
Phân phủ nghe người nhà quê nói lý, mà lại hơi xúc phạm tới
oai quyền vua, quan thì cả tiếng mắng át:
- Không được hỗn! Tên kia hãy xuống tại ngồi chờ lệnh.
Rồi bàn nhau với phân suất đi kiểm điểm cơ đội để tức khắc cất
quân.
Hồi 7
Bà Hoàng Phi Họ Nguyễn
Lúc bấy giờ trùng vào cuối giờ Dậu. Những tiếng huyên náo nhộn
nhịp cất quân hồi nửa giờ trước đã im bẵng. Mấy toà nhà trong phủ như ngủ say
dưới lớp màn đen tối yên lặng. Vì đêm hôm ấy là một đêm thượng tuần tháng chạp,
mưa phùn gió bắc, rét buốt đến xương.
Trong một gian phòng tư thất, phòng chứa lương thực và khí cụ
và sửa sang thành nơi ngục thất tạm thời, bà Lê hoàng phi họ Nguyễn ngồi ủ rũ
nghĩ ngợi ở bên một ngọn đèn dầu lạc lù mù.
Bà bình tĩnh nhớ lại ngững sự xảy ra từ hôm trước. Bà không
khỏi lấy làm lạ: Trong vòng bảy tám năm, bà trốn tránh ở hạt Từ Sơn, trừ những
bực cựu thần trung nghĩa nhà Lê, thường bí mật lui tới thăm bà, thì không một
ai trong đám dân gian để ý dò la tung tích bà hết. Họ coi bà như những người
sinh trưởng ở vùng này, hay ít ra cũng như một người đến ngự cư không biết từ
bao giờ. Bà lại khéo theo phong tục ngôn ngữ, y phục dân quê và đi lại chơi bời
với những bà chánh tổng, lý trưởng để làm thân với họ.
Ở cùng nhà với bà chỉ có một viên quan già mà bà nhận là cha,
và người con trai viên quan ấy mà bà nhận là em. Người ta cho rằng bà goá bụa về
ở cùng với cha mẹ, thủ tiết thờ chồng, vì gia đình chồng bà trong thời loạn lạc
bị giặc giết chết sạch và đốt phá mất cả cửa nhà.
"Thế mà hôm qua sao bỗng dưng...!"
Bà thở dài, ngước nhìn ngọn đèn sắp tắt đặt trên cái giá cao.
Thong thả, bà đứng dậy cầm cái que khêu bấc, rồi đưa mắt ngắm người thị tì theo
hầu nằm co ro gối đầu lên hai viên gạch, tiếng ngáy nghe se sẽ, đều đều.
Hoàng phi vừa buồn rầu vừa kinh hãi, vẩn vơ, rón rén lại gần
lay thị tì dậy:
- Này em sao ngủ nhiều thế?
Thị tỳ choàng thức giấc, mở mắt nhìn ngơ ngác rồi nhớ lại cảnh
bị tù, oà lên khóc, Hoàng phi dỗ:
- Lan ơi, khóc lóc như thế có ích chi? Chẳng qua số mệnh thầy
trò ta đến lúc gặp nạn, nên nó xui ra như vậy.
Lan nức nở:
- Bẩm bà...Số mệnh gì!...Con biết....Con biết đứa nào...Tố
giác rồi.
Hoàng phi vội gạt:
- Đừng ngờ oan cho ai hết, tội nghiệp con ạ.
- Còn ngờ gì nữa, bẩm bà..Chính..Thằng....
Bỗng một người lính mở cửa vào bảo:
- Quan truyền im ngay! Phải biết, người ta cho phép cùng ở một
buồng với nhau như thế không phải để mà than vãn...Nếu không tuân lệnh, thì ta
tống cổ con bé kia ra ngoài tức khắc.
Dứt lời, hắn bước ra, đóng sập cửa phòng lại.
Hoàng phi buông một tiếng thở dài nhìn theo, Lan thì ngồi xuống
ôm lấy chân chủ mà nức nở. Hoàng phi ghé vào tai thì thầm:
- Em Lan, em nín đi kẻo chúng nó kéo vào chia rẽ thầy trò
mình ra bây giờ...Em có đói không?
Lan sụt sịt:
- Khốn nạn! Con còn...Bụng đâu...Tưởng tới ăn?
- Nhưng em cũng cố gượng mà ăn một tí chẳng lẽ...Còn nắm cơm
với ít muối vừng ta để phần em đấy.
- Thôi, mời bà sơi...Con không đói.
- Từ tối hôm qua đến bây giờ chưa có một hột cơm lót dạ lại
còn không đói?
Tiếng người lính canh ở ngoài thét:
- Im ngay!
Dưới ánh đèn lờ mờ, hoàng phi và người thị tỳ nhìn nhau, ứa
hai hàng lệ. Rồi muốn giữ không nói chuyện nữa để khỏi bị xa chủ, Lan ra chỗ cũ
nằm ngủ, kéo chiếu đắp chùm kín đầu.
Hoàng phi ngồi lại một mình trên cái giường tồi tàn xiêu vẹo,
không dám động đậy, sợ tiếng lát tre kêu lạch cạch, khiến tên lính canh nghe thấy
lại mở cửa vào chăng.
Rồi yên lặng, bà để tư tưởng lặng lẽ theo giòng. Sự ngờ vực của
thị tỳ Lan khiến bà không thể không nghĩ tới lòng phản trắc của những người sống
quanh mình bà. Bà tự nhủ thầm:
- Nguyễn ngự sử thì chắc khổng phải rồi. Bậc lão thần ấy, ta
kính trọng như người cha già, khi nào lại nỡ hại ta. Hay con trai ngự sử? Ừ, biết
đâu! Bấy lâu ta thấy tính nết hắn biến cải đi nhiều lắm. Mà con người hay nhìn
trộm thì cũng khả nghi lắm đấy. Ngoài hai cha con hắn ra thì chẳng còn ai. Hay
Đào Phùng ở Phù Lưu?...Có lẽ nó chăng? Trời ơi, ta là một món hàng cao giá lắm
kìa mà! Bắt được ta đem nộp bán cho bọn Nguyễn Quang Toản, Bùi Đắc Tuyên thì
làm gì không được dăm nghìn quan tiền hay ít cũng được bổ đi phân tri, phân suất
ở một hạt béo bở.. Chúng nó chỉ vì lợi tuốt, chứ trung nghĩa gì?
Bà chép miệng:
- Thôi! Mỗi cái ta chẳng nên oán trách nghi hoặc ai là hơn hết:
Cớ sao ta không đủ cam đảm mà yên lặng chờ chết?...
Hoàng phi lim dim cặp mắt nhìn vào xó tối như thấy hiện ra
thanh mã tấu của tên đao phủ. Bà mỉm cười khinh bỉ:
- Chẳng lẽ chúng nó lại xử trảm một người đàn bà, một vị
hoàng phi? Chà! Nếu chúng nó giết cho ta chết? Ta cũng chẳng còn mong sống!...Nhưng
ta sợ chúng nó không giết, mà lai chỉ làm nhơ nhuốc tấm thân ta..
Bà nghiến răng nguyền rủa:
- Ba đời bọn giặc cỏ...
Rồi bà cúi xuống ngắm cái dây lưng nghĩ đến sự tự ải. Gian
phòng bỗng tối sầm lại. Thì ra mãi tư lự, bà không để ý đến bát dầu cạn từ bao
giờ. Bà sợ hãi đưa mắt cố nhìn bốn phía, nhưng chẳng thấy gì hết, lắng tai nghe
tiếng dế kêu ngoài hiên.
Nhớ rằng ở một phía tường có cái cửa sổ, rào chắn song sắt,
bà rón rén đứng dậy lần mò ra cửa. Nhưng vừa khẽ hé thì theo luồng gió lạnh và
giọt mưa nhọn hoắt tạt vào mặt, tiếng quát lớn của tên lính đứng canh bên
ngoài:
- Ai?
Hoàng phi vội đóng sập cửa lại lên giường cuộn thân trong tấm
chăn màu nâu mốc, sặc mùi hôi hám, và vờ ngủ say, vì bà chắc thế nào tên lính
kia cũng sắp sửa vào phòng để thốt lời quở mắng hỗn xược. Chờ mãi không thấy
gì, bà mới hoàn hồn.
Tiếng trống, tiếng mõ, tiếng kiểng mỗi lúc một thưa. Hình như
vì đêm lạnh quá, các chú lính không buồn cầm canh nữa...
Sang canh hai được một lúc lâu, thốt có tiếng ầm ầm ở ngoài cổng
phủ. Tiếp tiếng ngựa hí, người kêu. Hoàng phi hoảng hốt lo sợ, đoán chắc rằng đội
binh kéo đi chinh phạt buổi chiều đã trở về. Xót cảnh mình, bà nghĩ ngay tới số
phận ngững người đàn bà nào đó có lẽ vừa bị toán quân kia bắt giam như bà.
Nhưng đội binh về thì sao lại huyên náo, rối loạn đến thế được?
Mà hình như họ đánh nhau chí mạng thì phải, vì nghe có tiếng loảng xoảng của
gươm, giáo đụng chạm nhau, và súng hoả mai nổ đến hơn mười phát.
Tiếng hò hét mỗi lúc một gần chỗ bà nằm. Thị tỳ Lan thức giấc
thấy tối mịt thì sợ hãi, vừa khóc vừa hỏi:
- Cái gì thế bà?
Hoàng phi cố tự trấn tĩnh, trã lời:
- Ta cũng không rõ em ạ.
Lan lại bên giường:
- Bà đâu? Bà đâu?
- Ta đây, em đừng lo.
Bỗng bà thấy rùng mình, vì nghe có kẻ thét ngay ở gian nhà
bên cạnh, nới tư thất của viên phân phủ.
- Đừng để nó trốn thoát! Trói gò lấy nó! Còn vợ con nó thì
không được đụng tới.
Lan ghé mắt nhòm qua khe cửa, rồi quay lại giọng run run bảo
Hoàng phi:
- Bẩm bà, có lẽ cướp! Họ đốt đuốc sáng trưng.
Lại có tiếng thét:
- Nó trốn rồi à? Hãy để nó đấy! Ta đến phá cửa phòng chứa
lương thực kia đã. Việc ấy cần kíp hơn.
Lan tru lên khóc:
- Bà ơi! Bà có nghe thấy không? Họ sắp đến phá buồng này bây
giờ...Tính mạng bà...Con lo lắm.
Lan định đi tìm bàn ghế, đồ đạc để chặn lại, nhưng trong
phòng tối đen như mực không trông rõ một vật gì. Mà ở ngoài thì người ta đã bắt
đầu phá cửa, mỗi tiếng đập như đâm mạnh vào trái tim hai người bị giam. Xen lẫn
với tiếng phá phách có tiếng đàn bà, trẻ con khóc như gì và tiếng một tên lính
van lơn:
- Lạy các quan, tha cho con, con xin nộp chìa khoá buồng để
các quan khỏi phải phá.
- Vậy chìa khóa đâu? Đưa mau.
Hoàng phi biết rằng sắp có sự biến cố xảy ra. Song bà cố giữa
hết can đảm ngồi im, chờ đợi. Lan thì lăn ra đất khóc thảm thiết...
Cánh cửa mở tung. Ánh sáng hai cây đuốc ùa vào trong phòng.
Hoàng phi đứng phắt dậy, đăm đăm nhìn ra phía ngoài. Một võ tướng chạy thẳng lại
gần nói lớn:
- Bà đi ngay cho.
Hoàng phi trợn mắt, dõng dạc hỏi:
- Đi đâu? Chúng mày định bắt ta đi đâu?
Võ tướng có vẻ lo lắng:
- Trời ơi, xin bà đừng trùng trình nữa, đi ngay cho kẻo lỡ việc
bây giờ.
Hoàng phi vẫn cương quyết:
- Ta thà chết ở trong phòng này, chứ không đi đâu hết.
Lan thì vừa níu lấy vạt áo chủ vừa nói:
- Lạy các ông, các ông tha cho bà tôi.
Võ tướng lại gần. Lan tưởng chàng sắp ra tay làm ác, kêu hét
lên. Nhưng võ tướng chỉ nắm lấy cánh tay nàng và ghé vào tai thì thầm mấy câu.
Nghe dứt lời nàng vui mừng quay lại nói với Hoàng phi:
- Xin mời bà đi.
Hoàng phi cũng chẳng hiểu ra sao, song nghĩ bụng thử cứ liều
xem, chết với bọn lạ mặt này, hay chết ở trong phủ thì phỏng có khác gì nhau.
Bà liền lạnh lùng đi theo bọn kia. Khi mọi người đã ra ngoài, võ tướng đẩy cả
gia đình viên phân phủ cùng người lính canh vào trong phòng, khoá trái cửa lai.
Đoạn chàng lớn tiếng dặn:
- Hễ kêu, ta giết chết, nghe!
- Dạ.
Ở sân phủ đã có một toán binh đứng tề chỉnh sắp hàng. Võ tướng
mời Hoàng phi lên ngựa, rồi cùng ba võ tướng khác đi kèm chung quanh kéo quân
lên đường.
Hồi 8
Cửa Bắc
Cũng chiều hôm ấy, vùng Vĩnh Kiều, Tiêu Niệm, nhân dân nhớn
nhác nhìn nhau kinh ngạc. Họ vừa nghe thấy chuông chùa Tiêu Sơn gióng giả oang
oang từ trên cao gieo xuống. Trước đỉnh xóm Dương một ông già bảo mọi người đứng
xúm xít chung quanh:
- Có tiếng chuông.
Mọi người trả lời:
- Vâng, chùa Tiêu Sơn.
- Ừ. Lạ nhỉ!
Thôi chắc chú tiểu Mộc lú ruột rồi, đã thỉnh chuông mà còn tưởng
là chưa thỉnh.
Chuông đổ hồi, rồi im bẵng. Ai nấy cất tiếng cười. Có người
nói:
- Biết ngay mà! Đích thực chú Mộc lú lấp rồi. Chẳng thế lại
thỉnh có một hồi chuông.
- Thì ra dứt hồi chú mới nhớ ra rằng nhầm nên thôi không thỉnh
nữa.
Kỳ thực chú Mộc không lầm, mà ở chùa Tiêu Sơn cũng không ai
lú ruột cả. Buổi chiều hôm ấy có hồi chuông thứ hai, hồi chuông bất thường, là chỉ
vì sư Phổ Tĩnh dùng cách báo hiệu ước định ấy để gọi đồng đảng đến tụ hội ở
chùa Tiêu Sơn.
Nguyên sau bữa tiệc trên lầu Tiêu Lĩnh, Quang Ngọc, Phạm
Thái, Lê Báo đều đi ngủ, vì cứ lời Quang Ngọc thì tối hôm ấy bọn họ cần phải ra
tay làm một việc khó khăn gì đó. Chẳng nói thì chúng ta cũng đoán được là việc
đi cứu bà Lê hoàng phi, mà tối hôm trước nhà sư Phổ Tĩnh đã lần mò tới phủ nha
dò xem tung tích rất tường tận.
Quang Ngọc lập chiến lược như thế này:
Buổi trưa hôm ấy cho Nhị Nương quẩy gánh nồi đất đến phố phủ
bán và lảng vảng qua phía cửa Bắc rao to ba câu liền: "Nồi đất ai
mua?" Tức thì sẽ có người trong phủ đi ra. Người ấy chính là cai lệ Tảo, một
thám tử mà đảng Tiêu Sơn đã cho vào phủ làm lính. Nhị Nương sẽ đưa cho Tảo một
phong thơ trong đó Quang Ngọc dặn đêm nay phải xoay hết cách để canh hai được
coi giữ phòng bà hoàng phi. Vào khoảng cuối canh hai, ba tráng sĩ họ Trần, họ
Phạm, họ Lê, cùng hiệp nữ họ Nguyễn sẽ do cữa Bắc vào phủ, vì cửa Bắc đổ nát đã
lâu ngày mà vẫn chưa sửa sang lại, khiên người nào biết rõ, chỉ lấy cái gậy bẩy
mạnh lên là cánh cổng mở ra tức khắc. Vào trong phủ rồi, công việc giết tên
lính canh bên cửa sổ cố nhiên sẽ rất là dễ dàng lặng lẽ, vì đêm hôm ấy trời tối
đen như mực, hai người giáp mặt mới trông thấy nhau. Bấy giờ Phạm Thái sẽ bắt
chước tiếng mèo để báo cho Tảo biết mà mở cửa phòng ngục. Chỉ còn một việc mời
hoàng phi ra cửa Bắc lên ngựa phóng nước đại. Có điều này Quang Ngọc hơi ngại,
là sợ hoàng phi không chịu đi trốn, vì bà chưa biết mặt ba tráng sĩ. Bởi vậy
chàng mới nghỉ đến đem Nhị Nương đi theo: Nhị Nương thường vẫn lại thăm hoàng
phi và hai người chơi với nhau thân mật lắm.
Chiến thuật xếp đặt xong đâu đấy, Quang Ngọc đi ngủ để lấy sức,
một nụ cười sung sướng nở trên cặp môi khi chàng thức giấc, vì chàng biết chắc
rằng thế nào chàng cũng sẽ hoàn toàn đắc thắng. Chàng liền gọi Phạm Thái và Lê
Báo dậy bàn việc. Lê Báo hậm hực, trách:
- Sao bây giờ đại huynh mới bảo cho hai em biết?
Quang Ngọc nghiêm sắc mặt dõng dạc hỏi:
- Lê hiền đệ còn nhớ lời thề không?
Giọng rắn rỏi, quả quyết làm cho Lê Báo sợ hãi đứng im. Muốn
nhân thể luyện tính nết của Lê Báo bớt cương ngạnh, Quang Ngọc rút kiếm chém xuống
bàn nói:
- Quân lệnh truyền ra, không ai tuân, ta sẽ chặt đầu ngay lập
tức.
Phạm Thái và Lê Báo chắp tay cúi đầu chờ lệnh. Quang Ngọc cặp
mắt tròn xoe, có vẻ oai phong lẫm liệt.
Lúc bấy giờ vào khoảng giờ Dậu, vì chùa vừa thỉnh chuông chiều
xong, mà chuông chiều chưa bao giờ cũng thỉnh vào cuối giờ Thân. Bỗng một chú
tiểu hấp tấp chạy lại thưa:
- Bạch sư ông, có một công tử cưỡi ngựa cùng đi với ba kỵ sĩ
theo hầu, nói xin lễ phật. Quang Ngọc tra kiếm vào vỏ, mỉm cười đáp:
- Được, cứ mời công tử lên nói có ta chờ đây.
Phạm Thái vội giữa chú tiểu lại bảo Quang Ngọc:
- Đại huynh nên hãy cho mời người ta ngồi lại phòng trai đã.
Nhưng khách đã bước tới, lễ phép chấp tay chào. Lê Báo trừng
mắt đăm đăm nhìn, vì khách là một trang thiếu niên, mắt sắc như nước, miệng
tươi như hoa, mặt trái xoan, xinh xắn và da trắng phớt hồng hồng. Thực là một
trang diễn lệ công tử.
Lê Báo thì thầm bảo Phạm Thái:
- Hắn đẹp như con gái đẹp!
Quang Ngọc nói với khách:
- Mời công tử vào lễ phật.
Khách yên lặng bước thẳng tới lầu Tiêu Lĩnh, Lê Báo kinh ngạc
nhìn Phạm Thái. Nhưng thầy Quang Ngọc đi theo, nên hai chàng không dám hỏi,
cũng bước theo lên.
Tới lầu, Quang Ngọc hỏi:
- Thế nào?
Khách đáp:
- Xong.
- Lành, dữ ra sao?
- Tốt, tốt lắm!
Quang Ngọc vui mừng, quay lại giới thiệu với Lê Báo:
- Hiền đệ khao khát được biết mặt Nhị Nương. Vậy Nhị Nương đấy.
Phạm Thái sửng sốt:
- Nhị Nương?
Rồi chàng nhìn kỹ lại và bật cười:
- Trời ơi! Quý nương khéo cải trang quá chính Thái này cũng
không còn nhận ra được.
Lê Báo làm bộ ra thạo xem tướng:
- Thảo nào tôi ngờ ngợ. Nam tử gì mà cặp mi lại thanh như lá
liễu thế!
Quang Ngọc cười lớn:
- Nói hậu thì ai nói không được. Nhưng ta hãy để Nhị Nương
thuật lại cuộc do thám đã /
Nhị Nương trỏ Lê Báo hỏi Qang Ngọc:
- Đây là công tử mắc nạn ở tửu quán tối hôm qua?
- Thưa hiền muội chính đó. Công tử đã làm lễ tuyên thệ nhận
Ngọc này với Phạm Thái là anh.
Ý chừng để đáp lại cái nụ cưòi chế nhạo của Nhị Nương , Lê
Báo hỗn xược nói lời Quang Ngọc:
- Vậy cố nhiê Báo đây phải nhận tiểu thư là chị.
Nhị Nương chẳng chút e lệ, ung dung nói:
- Nhị Nương xin vui lòng nhận, Lê Báo là em.
Rồi nàng cười nói tiếp:
- Bọn ta kết làm anh em, chị em là phải lắm. Có thứ giây liên
lạc thiêng liêng hơn tình huyết giàng buộc chúng ta lại với nhau...Giây liên lạc
ấy là sự phục thù.
Vâng chúng ta tuy không cùng một huyết thống, nhưng giòng máu
ở bốn cái đầu của bốn người cha bị chém đã cùng phung vào mặt chúng ta khiến
cho chúng ta phải trở nên ruột thịt.
Lê Báo nghe mấy lời khảng khái ở miệng xinh xắn một thiếu nữ
thốt ra mà lấy làm cảm động. Nhị Nương lại nói:
- Trần đại huynh cùng nhị vị công tử đã làm lễ tuyên thệ kết
làm anh em, chớ như thôn nữ này thì chỉ xin nhận miệng mà thôi, thiết tưởng như
thế cũng đủ lắm rồi, lo là còn phải thề thốt nặng lời.
Rồi nàng mỉm cười nói bông đùa:
- Thưa trần hiền huynh, năm nay em hai mươi ba tuổi, vậy tùy
hiền huynh đặt đâu em xin ngồi đấy.
Quang Ngọc cũng cười:
- Còn phải đặt đâu nữa. Nguyễn hiền muội hai mươi ba tuổi thì
cố nhiên phải là em hai, vì nhờ trời Ngọc này ra trước hiền muội hai năm, còn
hai nhị đệ đây lai ra đời sao hiền muội ba năm, một người bốn năm.
Lê Báo hậm hực, tức tối, cố nói châm chọc một câu:
- Thưa hiền huynh, đối với hai em, Nguyễn Nhị Nương là chị,
thì đã hẳn đi rồi.
- Chứ sao?
Nhị Nương quắc mắt đáp lại giọng đùa rỡn của Lê Báo, rồi nàng
quay về phía Quang Ngọc nói tiếp:
- Thưa hiền huynh, ban nãy ngu muội có nói kết quả công việc
của ta sẽ được tốt đẹp hoàn toàn là vì ngu muội biết một sự bất ngờ vừa xảy
ra...Thực có trời phật phù hộ tính mệnh hoàng phi.
Quang Ngọc nóng ruột vội hỏi:
- Sự gì xảy ra mà may mắn đến thế?
- Phủ Từ Sơn chỉ còn độ một chục tên lính ở lại canh giữ, mà
trong số đó có cai Tảo.
Ngọc kinh ngạc:
- Vậy hơn hai trăm lính đi đâu cả?
- Ngu muội gặp trên con đường Thọ Khê.. Chừng họ đi Kim Lũ.
- Thế thì hồng phúc nhà Lê còn to.
- Nhưng hiền huynh đừng vội mừng.
- Sao vậy?
- Vì ta chưa biết hơn hai trăm quân đó kéo đi đâu Nghiêm Xá,
Ngô Xá, Phú Mẫn, Yên Phụ, Kim Lũ đều là những nơi sào huyệt của đảng ta. Thế mà
bọn kia sắp sửa sang đòn Thọ Khê.. Hiền huynh thử nghỉ xem ta có đáng lo không?
- Cũng có lý.
Dứt lời, Quang Ngọc ra lịnh thỉnh một hồi chuông. Vì thế mà
nhân dân vùng Vĩnh Kiều, Tiêu Niệm đã hai lần nghe thấy tiếng chuông.
Một lát sau, đồ đảng Tiêu Sơn lục tục kéo đến có tới vài chục.
Quang Ngọc phân phát cho mỗi người đi một ngả để do thám sự hành động của đội
quân Từ Sơn, và cấp báo cho các nơi căn cứ của đảng biết mà phòng bị.
Phạm Thái cũng xin đi, nói mạn Kim Lũ, Nghiêm xá thuộc quyền
hộ vệ của mình. Nhưng Quang Ngọc giữ chàng lại để cùng đi cứu hoàng phi đã, rồi
đến giờ Tý xong công việc, chàng sẽ về Nghiêm xá cũng kịp:
- Vì quan quân đi chinh phạt bao giờ cũng chậm như sên, ta
không vội lo ngại. Giá ở thời Quang Trung thì cũng sợ đấy. Nhưng ngày nay thì
chỉ là thời Bùi Đắc Tuyên.
Mọi người cười rộ.
Bàn định, cắt đặt xong đâu đấy, thì đêm đã khuya. Vào khoảng
nửa giờ Hợi, ba tráng sĩ nai nịt gọn gàng, đội mũ đầu mâu để che cái đầu trọc,
rồi cùng Nhị Nương lên ngụa (bốn con ngựa ấy chinh Nhị Nương đã đêm đến chùa).
Tới cửa Bắc phủ Từ Sơn, bốn người kìm giây cưong đứng lại
nghe ngóng, và lấy làm lạ rằng trong phủ không có một tiếng động đưa ra.Trống,
mõ cầm canh đều im phăng phắc.
Nhưng bọn họ cũng vượt qua hào và bẩy cánh cổng mà vào.
Quang Ngọc bảo ba người hãy ở lại sau để một mình chàng đi do
thám động tĩnh ra sao đã. Chàng rón rén đến bên cửa sổ: Tên lính canh không có ở
đấy, chàng liền bắt chước tiếng mèo: Vẫn không ai ra. Mấy nếp nhà như bỏ hoang
đã lâu ngày.
Quang Ngọc quay ra thuật lại sự thể với mọi người rồi bàn
cùng vào cả trong tư thất xem sao.
Lê Báo hăng hái xin đi trước dẫn đường, tay nhăm nhăm cầm
thanh kiếm tuốt trần.
Hai địch thủ thứ nhất mà chàng lại gặp hai người bị trói gò
vào hai cột nhà. Ở giữa hai cột ấy có cắm một ngọn đuốc cháy đã gần tàn, và chiếu
anh sáng le lói lên mặt hai người khốn nạn. Quang Ngọc cởi giây cho họ mà hỏi rằng:
- Vì sao hai người lại bị trói?
Một người - người lính - thuật lại những sự đã xảy ra. Quang
Ngọc kinh hãi, sửng sốt hỏi:
- Vậy ra chúng nó cướp mất bà hoàng phi đi rồi?
- Vâng.
- Chúng nó đi về ngã nào?
- Thưa, tôi không được biết.
Dứt lời, tên lính ôm đầu chạy mất. Quang Ngọc tức thì ra lịnh
đuổi theo bọn cướp.
Hồi 9
Trong Rừng Đình Bảng
Quang Ngọc đi trước dẫn đường, rẽ cương lượn qua cửa Tây, tức
cửa chính phủ Từ Sơn.
Lê Báo cho ngựa chạy ngang hàng và hỏi:
- Sao đại huynh lại cho ngựa chạy về phía này?
Nhưng Quang Ngọc không trả lời, im lặng cho ngựa phi thật
nhanh mãi khi tới chỗ ngã ba mới kìm cương nhảy xuống đất. Nhị Nương cũng nhanh
nhẹn nhảy ngoắt theo xuống, hỏi:
- Đại huynh dừng lại làm gì vậy?
- Hiền muội không biết đây là ngã ba ư?
Thấy ở bên đường có một người bắt ếch giơ cao bó đuốc nứa đứng
nhìn. Quang Ngọc gọi lại bảo soi ánh lửa xuống đường xem. Chàng chau mày chép
miệng lẩm bẩm nói:
- Thế thì lạ quá nhỉ? Cả hai ngã cùng có vết móng ngựa...Hay
họ đến một lối mà đi một lối...Cũng vô lý, vì xét kỹ thì vết chân ngựa đều đi tản
ra hai phía.
Lê Báo thấy Quang Ngọc loay hoay tìm đường thì cười bảo:
- Sao hiền huynh không hỏi ngay tên bắt ếch xem họ chạy đường
nào?
Người bắt ếch ngơ ngác:
- Thưa ai cơ?
Nhưng Quang Ngọc đã theo ý Lê Báo và lớn tiếng hỏi:
- Tên kia, vừa giờ có một bọn qua đây. Vậy họ chạy về ngã
nào?
Người bắt ếch chỉ con đường Kim Lũ:
- Có hơn mười người cưỡi ngựa đi về ngã này.
- Đã bao lâu?
- Họ đi chưa xa đâu. Nhưng các ông làm gì mà cưỡi ngựa đi
chơi khuya thế? Những ông ban nãy cũng vậy, làm ếch của tôi sợ trốn biệt.
Phạm Thái chú mục nhìn thẳng vào mặt người bắt ếch thấp
thoáng dưới ánh lửa. Thì thầm chàng bảo Nhị Nương:
- Thằng này không phải làm nghề bắt ếch đâu, trông dữ tợn lắm,
mà ngôn ngữ, cử chỉ của nó có vẻ bướng bỉnh, tuy nó cố làm ra vẻ rù rờ, ngớ ngẩn,
sợ hãi:
Có lẽ Quang Ngọc cũng cùng một ý nghĩ, nên chàng vặn.
- Anh nói láo....
Chàng ngừng bặt, rồi nhảy phắt lên mình ngựa vẫy mọi người
theo đường Phù Lưu, Đình Bảng thẳng tiến. Lê Báo hỏi:
- Sao người ta nói ngã kia, hiền huynh lại đi ngã này?
Quang Ngọc cười đáp:
- Thế thì hiền đệ thật thà quá. Hiền đệ phải biết ban chiều
khi viên phân suất rầm rộ dẫn quân đi, thế nào bọn kia chẳng rõ. Nhất họ lại đã
rắp định đêm nay đến phủ cướp hoàng phi thì họ càng phải xem xét binh thế trong
phủ lắm. Thế mà họ còn đi cùng một đường với quan quân, thì hoạ chăng họ không
óc mà ngu huynh thì chắc rằng họ có óc. Đó là một lẽ. Lẽ nữa là trước đây một
lát ở trong phủ có đánh nhau. Vậy thì tên bắt ếch kia, nếu là một tên bắt ếch,
sao còn đủ can đảm ở lại đây bắt ếch. Nó đứng ngay chỗ ngã ba, há không phải chỉ
cốt để trỏ đường láo cho quan quân đuổi theo. Nó có ngờ đâu quân đuổi theo lại
chính là bọn ta, nghĩa là bao giờ cũng không ngoan hơn quan quân.
Chàng thích chí cười ha hả. Mọi người cũng cất tiếng cười
theo. Lê Báo hỏi:
- Còn vết chân ngựa sao lại có ở cả hai ngã đường?
- Điều ấy thì phỏng khó gì. Cho ngựa phi về đường kia, rồi
khi trở lại thì rẽ xuống ruộng. Hiền đệ không thấy ruộng khô à?
Bọn kỵ sĩ vượt qua làng Đình Bảng, Quang Ngọc kìm cương lại bảo
mọi người:
- Bây giờ cho ngựa đi bước một, vì đây gần đến nơi rồi.
Phạm Thái kinh ngạc hỏi:
- Sao đại huynh biết?
Quang Ngọc cười:
- Làm một ông tướng phải biết địa thế khắp vùng mình hoạt động.
Ta xét ra gần đây có hai nơi hiểm trở, nếu ban ngày cũng ít người lai vãng: một
là rừng Sặt ở mạn Tràng Liệt, hai lá rừng Bát Đế ở sau làng Đình Bảng. Rừng Sặt
ở gần đương Thọ Khê, chắc họ không đến. Còn rừng Bát Đế thì họ có thể giấu người
trong đó được. Thực là một nơi thâm u. Nguyên cùng vua chúa đời Lý đến nghỉ
mát, bỏ hoang lâu ngày cây cối mọc ùm tùm thành rừng. Lại thêm có hào chung
quanh khiến khó ai tìm được lối vào, chắc thế nào bọn kia chẳng có thuyền chờ sẳn
trước cửa đền Lý Bát Đế!
Mọi người đều phục tài xét đoán của Quang Ngọc. Nhưng Lê Báo
cười thầm, chỉ mong Quang Ngọc đoán sai để sau này chế riễu chơi. Quang Ngọc lại
nói:
- Còn một điều ngu huynh nghĩ mãi không ra. Là bọn kia cướp
hoàng phi làm gì? Hay là lũ trung thần nhà Lê đến cứu bà? Phải chờ khi nào gặp
nhau mới biết rõ được.
Bấy giờ chỉ còn cách đến Lý Bát Đế độ vài trăm bước, Phạm
Thái bàn buộc ngựa một nơi, rồi đi bộ lại đền. Chàng nói:
- Ngày theo Nguyễn Đoàn, ngu đệ cũng đã nhiều lần trốn ở
đó.Quả thực là một nơi bí hiểm nhưng ngu đệ thuộc đường lối trong rừng như đường
lối chùa Tiêu Sơn, vậy xin đến dọ thám trước đã, rồi hãy kéo đại quân đến sau.
Lê Báo cười:
- Đại quân có tất cả bốn người.
Nhị Nương khảng khái nói:
- Bốn người này lại không địch nổi một trăm quân ư? Vậy thì
Phạm hiền đệ cứ đi trước xem binh thế họ ra sao, rồi về báo, dẫu họ đông đến
đâu ta cũng không sợ.
Phạm Thái tuân lời đi thẳng. Biết chắc thế nào bên địch cũng
có quân canh trên con đường tới rừng, chàng rẽ xuống ruộng đi vòng về phía sau
đền rồi quay lên mạn Nam. Chàng biết ở đó có một quãng hào vừa hẹp vừa nông, nước
chưa tới thắt lưng.
Đến đó Phạm Thái cởi quần áo lội qua để vào rừng. Trời rét,
nước giá buốt, nhưng chàng chẳng coi vào đâu. Cái thân chiến sĩ phiêu lưu đã từng
xông pha tên đạn, đã từng làm quen với cái chết giữa đám can qua, có quản gì một
dòng nước lạnh.
Tới rừng, chàng se sẽ mặc lại quần áo vào, rồi cúi lom khom,
tay cầm kiếm, rón rén đi quanh bờ hào một vòng để dò xem trong rừng có ánh lửa
không. Khi đến mạn Bắc khu rừng, và nghe có tiếng sột soạt răng rắc như tiếng
bàn chân đi lên đám cành lá khô, chàng vội nằm rạp xuống, vì chàng sợ ở trong rừng
nhìn ra, bên địch sẽ thấy bóng chàng thấp thoáng in trên nền trời.
"Đích là họ núp ở đây rồi, vì rõ ràng có tiếng nhiều người
nói chuyện. Trần đại huynh thực đoán việc như thần", Phạm Thái vừa nghĩ vậy,
vừa men bờ hào, vòng sang phía đông rừng.
Bỗng chàng mừng quýnh, suýt buột miệng kêu lên. Một chiếc
thuyền buộc ở gốc cây si cỗi, dưới đám lá rườm rà phủ xuống che lấp.
Chàng bước vào thuyền cầm bơi chèo nhẹ nhàng chở sang bờ bên
kia rồi hấp tấp về chổ cũ báo tin cho anh em biết. Tức thì cả bọn kéo đến thuyền
bơi sang bên rừng. Vừa bước chân lên đất thì một bọn đông ẩn sau khóm cây xồ ra
ai nấy tay cầm khi giới. Một người hỏi:
- Các ngươi đến đây tìm cái chết, phải không?
Chẳng nói chẳng rằng anh em Quang Ngọc xông vào múa kiếm đánh
liền. Bên địch, có ai thét:
- Khoan! Đánh nhau phải có cớ. Vậy vì cớ gì chúng ta đâm chém
nhau?
Lê Báo hùng hổ cầm thanh kiếm dài vẫn đứng giữ miếng. Nghe bọn
kia hỏi, chàng liền trả lời:
- Chẳng vì cớ gì hết.
Người kia cười, ôn tồn nói:
- Xin tiểu tướng đừng vội giận. Ta hỏi thế là vì trước ta vẫn
tưởng chư tướng là quân trong phủ đi đuổi bắt chúng ta. Nhưng thiết tưởng đội
binh trong phủ khi nào lùng biết mà đến đây. Mà dù có đến đây nữa cũng chẳng có
đủ can đảm dám lội qua hào để vào tới rừng. Vậy ta hỏi, sao chư tướng lại lần
mò theo chúng ta?
Lê Báo nóng nẩy thét:
- Vì bọn ngươi cướp bà hoàng phi đem đi, ta hãy hỏi: Có phải
các người định đem bà giải nộp để lĩnh thưởng chăng?
Người kia mắng:
- Đồ hỗn xược! Nếu ta không thương ngươi còn nhỏ dại, thì ta
đã thí cho một mũi kiếm.
Lê Báo nổi thịnh nộ xông vào đánh, Quang Ngọc phải lôi bạn mà
bảo rằng:
- Sao hiền đệ hấp tấp thế?
Rồi chàng nói với bên địch?
- Tôi xem ra các ông đều là tay khảng khái có dõng cảm. Chắc
không phải là bọn cướp tầm thường. Vậy sao chúng ta không đem lễ nhượng ra đôi
đãi nhau, dù vì việc nghĩa phải đánh nhau đi nữa.
Một người bên địch đáp lại:
- Ừ, ông này biết điều đấy, chớ như cái ông kia thì hung hăng
quá. Các ông phải biết, đánh nhau thì chúng tôi cũng vui lòng đánh nhau với các
ông. Nhưng bên các ông có bốn người mà bên chúng tôi những hơn hai chục, chẳng
lẽ lấy nhiều lấn ít, e không tiện.
Lê Báo thét:
- Anh em ta không sợ nhiều đâu. Đánh thì đánh ngay, không cần
phải trì hoãn.
Người kia giọng chế nhạo:
- Hãy khoan! Can gì mà vội thế? Đến sáng cũng không muộn kia
mà..Bây giờ các ông đã đến đây, chúng tôi hãy xin lấy địa vị chủ nhân mời các
ông lại đằng nhà xơi chén rượu với chúng tôi cho vui...
Thấy anh em Quang Ngọc do dự, người kia cười:
- Các ông đừng ngại, chúng tôi không coi các ông như bọn tù
binh vô giá trị đâu.
Lê Báo hầm hầm nổi giận.
- À bọn này láo, dám bảo chúng ta là tù binh.
Người kia giọng bình tĩnh ôn tồn:
- Gớm! Ông này sao mà nóng như Trương Phi thế?
Phạm Thái từ nãy vẫn đứng im. Chàng bỗng thủng thỉnh tiến đến
gần bên địch, dõng dạc nói:
- Các ông đã lấy lễ độ chủ nhân mà đón tiếp chúng tôi lẽ nào
chúng tôi lại không lấy lễ độ tân khách mà nhận lời. Vậy thanh kiếm của tôi đây
xin gửi các ông (vừa nói chàng vừa tháo kiếm đưa cho bọn kia). Sau khi cùng
nhau hội ẩm, mà chúng tôi cần phải đấu gươm, thì lại xin các ông trả kiếm tôi.
Còn như nếu các ông không phải là tay hảo hán mà nhất định đoạt thanh kiếm của
tôi, thì lúc đó ta hãy nói chuyện. Xin các ông dẫn đường cho chúng tôi theo về
nhà, chẳng trời sáng thì lỡ mất cả công việc của chúng tôi.
Cảm động vì khí phách anh hùng, vì sự thành thực và nhã nhặn
của Phạm Thái, bên địch lễ phép đưa anh em chàng tới một nếp nhà tranh làm ở giữa
mấy khóm cây đầy lá che kín mít tứ phía, sau khi đã đi quanh co trong rừng rậm.
Vừa bước chân vào trong nhà, Nhị Nương khinh hoảng kêu:
- Trời ơi! Bà hoàng phi!
Quả thực, trên một cái ổ rươm giải chiếu, bên ngọn đền dầu
ánh sáng lờ mờ, hoàng phi đương ngồi hơ hai bàn tay trên than hồng đựng trong
cái nồi đất. Bà ngước mắt đăm đăm nhìn mấy người lạ mặt có vẻ lo lắng.
- Ai đấy?...nghe tiếng hình như quen quen.
- Em đây mà! Em Nhị Nương mà bà không nhận ra sao? (Trong khi
trốn tránh, hoàng phi thường xưng chị với Nhị Nương, và gọi Nhị Nương bằng em).
Hoàng phi mừng quýnh, đứng dậy ôm lấy Nhị Nương vừa khóc nức
nở vừa kể lể:
- Em Nhị Nương ơi...Chị đã tưởng không bao giờ còn nhìn thấy
mặt em nữa...
Nhị Nương thuật lại cho bà nghe công việc xếp đặt từ hôm trước
để tối nay đến phủ phá ngục cứu bà ra, ngờ đâu khi đến nơi thì được tin một bọn
đã cướp bà đem đi...
Một người đứng gần đấy cười có vẻ tự phụ nói riễu:
- Hừ! Trâu chậm uống nước đục!
Hoàng phi trỏ người ấy bảo Nhị Nương:
- Đây là Đào Phùng, người làng Phù Lưu. Chính Đào quân đã họp
anh em cứu chị. Ơn ấy không bao giờ chị dám quên.
Đào Phùng đáp:
- Tâu lệnh bà, nhà kẻ hạ thần đời đời ơn thánh đến , nay kẻ hạ
thần dẫu chết cũng chưa đủ báo đền, lệnh bà nói đến ơn huệ làm chi, khiến hạ thần
thêm xấu hổ. Để lệnh bà bị quân giặc bắt được, tội kẻ hạ thần cũng đã nặng lắm
rồi.
Hoàng phi rót một chén rượu đầy đưa cho Đào Phùng mà rằng:
- Đào anh hùng trung nghĩa ai bì kịp? Xin tặng anh hùng một
chén rượu.
Đào Phùng đỡ lấy nói:
- Lệnh bà ban, hạ thần xin bái lĩnh.
Hoàng phi đưa mắt nhìn Quang Ngọc, Phạm Thái, và Lê Báo đứng
chắp tay ở một bên và thì thầm hỏi Nhị Nương:
- Ai thế em?
- Tâu lệnh bà, đó là ba tráng sĩ, bạn thân của em, đã cùng em
kết nghĩa anh em.
Hoàng phi rót ba chén rượu nữa rồi bảo Nhị Nương bưng mời ba
chàng.Đoạn, bà hỏi Đàp Phùng:
- Công tử đã cứu tôi thoát nạn, bây giờ công tử bảo nên đi ẩN
lánh ở đâu?
Bà rơm rớm nước mắt, thở dài nói tiếp:
- Bệ hạ có rõ cảnh lưu lạc này cho thiếp không?
Quang Ngọc bàn:
- Tâu lệnh bà, bây giờ người ta đã nhận được dung nhan lệnh
bà, thì lệnh bà đến nương náu cửa thiền, thiết tưởng có phần chắc chắn hơn nhiều.
Hoàng phi vui mừng đáp:
- Phải, tướng quân bàn rất phải. Vả lại ta cũng nên thế phát
quy y thôi.
Quang Ngọc lại nói:
- Tâu lệnh bà, ở làng Ngô Xá có một ngôi chùa sư nữ, vậy mai
mời lệnh bà đến ẩn ở đó.
Quay ra, chàng bảo Nhị Nương:
- Ngu huynh giao cho hiền muội việc đó. Sáng mai...
Nhị Nương ngắt lời:
- Sáng mai không bằng đêm nay. Ngu muội xin phò giá lên đường
ngay bây giờ.
- Thế thì càng hay lắm.
Mọi người đều lấy làm phải, liền chở thuyền đưa hoàng phi và
Nhị Nương qua hào. Hai người lên ngựa đi thẳng.
Phạm Thái cũng xin đi theo. Quang Ngọc giữ lại mà rằng:
- Một mình Nhị Nương cũng đủ rồi.
- Nhưng thưa hiền huynh, ngu đệ phải về xem hạt Kim Lũ ra
sao. Hiền huynh hẳn chưa quên rằng có hai trăm binh lính đang hoành hành ở đó.
- Đào Phùng hỏi:
- Phải hai trăm binh lính Từ Sơn không?
- Chính.
- Vậy thì không lo.
Chàng kể cho anh em Quang Ngọc nghe cái mưu kế của chàng.
Chàng cho một thám tử giả làm người làng Yên Phụ đến phủ báo ở vùng ấy có bọn
giặc rất đông, mà người đi đầu là nhà sư. Chàng bịa ra điều đó, là vì nghe người
ta tuyên truyền có một nha sư rất hung tợn thường đem đồ đảng đi tống tiền bọn
nhà giàu. Chàng chắc báo có một nhà sư, mà lại nói khích thì thế nào viên phủ
chỉ còn một ít lính ở lại canh và việc phá ngục cứu hoàng phi dễ như trở bàn
tay.
Phạm Thái nghe truyện mỉm cười đưa mắt nhìn Quang Ngọc rồi
phàn nàn:
- Tội nghiệp! Người ta đã xuất gia tu hành mà công tử còn đổ
cho người ta cái tội tầy trời!
Đào Phùng đáp:
- Chẳng qua cũng là một sự bất đắc dĩ. Không thế, sao cứu được
hoàng phi.
Mọi người cùng cười, rồi mời nhau uống rượu cho mãi tới gần sáng
mới chịu chia tay giải tán, hẹn thỉnh thoảng lại đến rừng hội họp uống rượu múa
gươm.
Hồi 10
Chín Và Sống
Từ hôm đánh hụt trận Kim Lũ thì hai viên phân phủ, phân suất
đem lòng thù oán bọn cựu thần nhà Lê lắm, vì họ chắc rằng cánh quân đến phá ngục
cứu Lê hoàng phi chỉ có thể là bầy tôi nhà Lê. Phân phủ bàn với phân suất:
- Việc nầy ta nên giữ bí mật. Quan trên với triều đình đều
chưa biết tin ta bắt được Thị Kim. May mà chưa kịp cho chạy giấy về kinh đấy.
Phân suất hậm hực tức tối:
- Tôi thề không đội trời chung với bọn này. Không những chúng
nó giết mất viên đội nhất của chúng ta mà chúng nó còn làm cho tôi lặn lội đêm
khuya cất quân đi, rồi lại đem quân về, thực là mình làm trò múa rối cho dân
vùng Kim Lũ coi.
Phân suất cười khà nói tiếp:
- Rõ đen cho mấy tên lái thuyền vô tội bị chặt đầu.
- Ngài chặt đầu?
- Vâng, Bực mình về nỗi bị lừa nên gặp mấy thằng lái đò đương
họp nhau ở dưới thuyền đánh bài phu, tôi cầm dao khoa tay một lượt, bốn, năm
cái đầu rơi xuống ván! Như thế cũng hả lòng được đôi chút.
Phân phủ ngồi trầm ngâm suy nghĩ. Cái bực tức của ngài, ngài
cho còn gắp năm gắp mười cái bực tức của phân suất. Đêm hôm ấy còn bao giờ ngài
quên được? Trốn vào chuồng ngựa nằm ở máng ăn, lấy rơm phủ chùm kín người, rất
là khó thở, lại thêm mùi phân ngựa khai quá đỗi, thế mà ngài phải nằm dí ở đấy
cho tới sáng rõ, trong mấy canh dài đằng đẳng lắng tai nghe động tĩnh ra sao.
Giữa lúc ấy thì gia quyến ngài đang bị nhốt ở trong buồng chứa, lo sợ im hơi lặng
tiếng.
Nhớ lại những sự đau đớn đáng kỷ niệm ấy phân phủ mỉm cười. Đối
với con nhà võ như phân suất thì cái tức giận hiện ra nét mặt, thốt lời chửi rủa
thề nguyền. Nhưng đối với con nhà văn thâm nho như phân phủ thì cái tức dẫu dữ
dội đến đâu cũng chỉ ngụ trong một khoé mỉm cười chua chát. Chẳng thế ngài lại thường
mỉa tính võ đoán của phân suất bằng những câu thơ đại ý nói: Trăm quân hùng
tráng không mạnh bằng một lời văn mát mẻ của nhà cầm bút.
Lần này lại là một dịp để ngài phô cái sức mạnh của sự giận
yên lặng ngấm ngầm cháy trong lòng ngài. Ngài không làm thơ nữa. Ngài chỉ mở
tráp lấy ra một cái bảng mà theo sự dò xét cẩn mật của bọn thám tử, ngài đã làm
ra. Đó là bảng chứa đủ tên nhừng bực trung thần nhà Lê trốn trong địa hạt Từ
Sơn.
Phân phủ gõ xuống cái bảng ấy bảo phân suất:
- Bấy lâu tôi để bọn chúng ăn ngon ngũ yên là cũng tưởng họ
hiểu thời thế, không hoạt động nữa. Ai ngờ ngày nay lại chính họ gây sự. Vậy bắt
đắc dĩ, ta phải mời những ông tướng đến chơi ít bữa.
Lời ngài thật ngọt như mía lùi. Ngài lại mỉm cười nhìn phân
suất nói tiếp, ý chừng để được lòng ông bạn đồng thành:
- Việc đó phải nhờ đến bàn tay sắt của tướng quân.
Tướng quân phổng mũi đáp liền:
- Đại nhân cứ truyền, việc dẫu khó đến đâu tôi cũng xin đảm
nhận.
- Vậy chúng ta cùng bàn xem nên bắt những tay nào trước.
Tức thì phân phủ mở rộng cái bảng đẹp đẽ của ngài ra.
- Đây đại nhân coi, tất cả có bãy mươi ba tên. Nhưng xét ra
chỉ có bảy tên thực lợi hại. Bảy tên đó là cho con ngự sử Nguyễn Bặc, người chứa
chấp Thị Kim. Hai tên này ta hãy để đó vì hiện tại chúng còn trốn tránh, mà trốn
thì hẳn trốn ở nơi khác. Nếu ta bẩm tỉnh sức giấy đi lùng thì cũng bắt được,
nhưng là thế là làm cổ sẳn cho kẻ khác ăn. Chi bằng ta cứ để yên, ít lâu thế
nào chim chẳng bay về tổ, lúc ấy ta hãy mời nhẹ hai ngài vào cũi.
Phân suất cười lớn:
- Hay! mưu hay lắm! Còn ai nữa, thưa đại nhân?
- Kế đến Đào Phùng.Tên này tuy còn trẻ, nhưng đáng lo ngại lắm
đấy. Nhiều bài thơ hẳn ngâm vịnh có ý nghĩa cuồng bột, phạm thượng. Mà hắn tụ họp
anh em rượu chè luôn luôn. Trong một bữa tiệc hắn ngà ngà say có nói một câu hỗn
xược mà thám tử đã chép lại đem nộp tôi. Câu ấy đây.
Phân phủ vừa nói vừa đưa phân suất một mảnh giấy. Phân suất vốn
không biết chử, cười gượng nói:
- Đại nhân đọc cho tôi nghe xem nào.
- Xin vâng. Hắn ta nói thế này: Kẻ sĩ cúi cổ khom lưng làm
tôi bọn Bùi Đắc Tuyên, Nguyễn Quang Toản thì khác gì bán rẻ linh hồn cho bọn đồ
tể.
Phân suất đập mạnh tay xuống ghế ngựa quát tháo:
- Nó bảo thế? Thực nó bảo thế? Được để nó đấy rồi ta bán rẻ
linh hồn nó cho Diêm vương. Nhưng còn ai nữa?
- Còn Hoàng An ở Phù Đổng, Nguyền Tiết ở Phù Ninh, Nguyễn Đắc
ở Đồn Kỹ. Trần Xá ở Phú Xuân.Đó toàn là những tay ghê gớm cả!
- Được, đại nhân cũng nên cẩn thận, vì chúng không phải là những
tay tầm thường. Mà biết đâu chúng nó lại không mật thông với đồ đảng Phạm Thái?
Phân suất lớn tiếng cười, toan nói câu gì để tỏ lòng khinh bỉ
với bọn kia. Bỗng ngài ngừng bặt, hoảng hốt quay ra hỏi:
- Cái gì thế?
Một tên lính mặt tái như gà cắt tiết chạy xồng xộc vào trong
phòng đứng thở không ra hơi:
- Bẩm...hai ông lớn...có người...chết ở cổng phủ...
- Người chết?...Ai?
Tên lính đứng thở một hồi nừa rồi mới thuật lại rằng một võ
sĩ trông rất mạnh mẽ, dữ tợn, phi ngựa qua cỗng phủ và ném xuống đó một cái xác
người chết.
Phân phủ và phân suất vội vàng theo lính ra cổng. Một người
trần truồng nằm sấp ở giữa đường, ngay bên cầu treo. Phân suất cúi xuống lật ngửa
cái thây lên thì thấy một con dao sáng loáng cắm trúng chỗ trái tim. Thốt nhiên
phân phủ hét lớn:
- Trời ơi! Nguyễn Kha! Nguyễn Kha bị giết rồi!
Phân suất kinh hải vội hỏi:
- Nguyễn Kha là ai vậy?
Phân phủ vẫn đứng yên lặng nhìn tròng trọc vào cặp mắt trắng
đã mở to của người chết và nói một mình hai, ba lần:
- Trời ơi! Nguyễn Kha bị giết! Ai giết Nguyễn Kha? Nguyễn
Kha! Ai giết?
- Vâng, tôi cũng hỏi đại nhân: Ai giết người này, mà người
này là ai?
Phân phủ như chợt tỉnh, quay lại bảo phân suất:
- Ngài cho lính cỡi ngựa đuổi theo lùng bắt ngay lấy nó...Mau
chẳng nó trốn thoát.
- Nhưng biết nó chạy ngả nào?
- Cho mỗi người đuổi một ngả.
Phân suất ra lệnh, tức thì hai chục lính kỹ mã chia làm bốn bọn,
đem theo bốn cây súng hoả mai rầm rộ kéo đi.
Phân suất theo phân phủ vào công đường và nhắc lại câu hỏi:
- Nguyễn Kha là ai vậy, thưa đại nhân?
Phân phủ có vẻ lo sợ, nhìn trước nhìn sau, rồi nói khẽ:
- Người đến báo tối hôm ấy, ngài đã quên? Hắn là một viên
thám tử rất có tài của tôi?
- À? Tôi nhớ ra rồi. Chính hắn đã đến báo cho ta biết người
con gái ở nhà Nguyễn Bặc làng Hà Vị là Thị Kim, vợ Lê Chiêu Thống.
- Chính hắn, Nguyên tôi sai hắn giả danh là một bậc trung thần
nhà Lê đi lại chơi bời với bọn kia để dò tin tức. Nhưng không rõ sao bọn kia biết
là thám tử của ta.
Nghĩ một lát, phân phủ lại nói:
- Việc này ta phải ra tay mới xong...Phiền ngài đem quân áp đến
bắt ngay năm tên đầu sỏ, hiềm nghi phạm điệu về phủ cho.
Phân suất tuân lời, xem lại bảng kê tên tuổi và chổ ở của những
người kia rồi điểm binh mã ra đi.
Chiều hôm ấy, quân lính khiêng về phủ ba cái củi đóng sơ sài,
trong mổi cái có một người bị trói ngồi lom khom như con khỉ lớn. Phân suất xuống
ngựa vào con đường hớn hở bảo phân phủ:
- Tuy không bắt được đủ năm tên, nhưng trong ba tên này có
tên Đào Phùng. Mời ngài ra coi.
Phân phủ vui mừng vừa theo ra sân vừa hỏi:
- Có Đào Phùng? Làm thế nào mà ngài bắt được hắn?
Có tiếng cười the thé trong một cái cũi đưa ra. Phân suất tức
giận vì giọng cười chế nhạo, đạp mạnh vào cái cũi làm nó đổ lăn ra. Tiếng cười
càng ròn, càng to, rồi người bị nhốt dằn từng tiếng hỏi phân suất:
- Ông bảo ông bắt được tôi. Vậy dám hỏi ông: Ông bắt được tôi
ở đâu?
Sau một cái đạp thứ hai của phân suất, người kia khẳng khái
nói tiếp:
- Than ôi! Kẻ chiến sĩ anh hùng mong ước được bỏ mạng ở nơi
trận địa, da ngựa bọc thây, nhưng tôi đây vô tội được người anh hùng bắt trói
giữa lúc tôi yên giấc ở nơi buồng tối, nhưng tôi đây vô tội được anh hùng giơ
chân đạp một cái mạnh bạo, trong khi tôi bị nhốt trong cũi hẹp. Đáng kính thay
cái dõng cảm của người anh hùng.
Thấy phân suất rút gươm hầm hầm xông lại, phân phủ vội ngăn cản
và ung dung nói:
- Ngài cần gì phải nóng thế, cứ để Đào quân đấy cho tôi.
Rồi trỏ hai cái cũi khác hỏi:
- Còn hai ông này?
- Thưa ngài, đó là Nguyễn Tiết với Trần Xá. Còn Hoàng An,
Nguyễn Đắc đi đâu mất từ tháng trước.
Phân phủ truyền lệnh tháo cũ lôi ba người ra, rồi lại gần ôn
tồn hỏi:
- Thưa ba ngài, nếu ba ngài làm ơn cho tôi biết ba ngài dấu
bà hoàng phi ở đâu, thì tôi xin cho lính đem kiệu rước ba ngài về nha ngay.
Nguyễn Tiết và Trần Xá cùng cãi.
- Hai ngài không biết Lê hoàng phi là ai, vậy chắc ngài Đào
Phùng thì hẳn biết?
Đào Phùng thản nhiên đáp:
- Tôi ấy à? Có, tôi có biết Lê hoàng phi, khi ngài còn ở
trong cung điện kinh thành Thăng Long. Ngài thật là bậc quốc sắc, khuynh thành.
- Vâng, ngài cũng là bậc quốc sắc khuynh thành! Bữa nọ tôi đã
được hân hạnh gặp long nhan. Nhưng tôi muốn biết Đào quân giấu ngài ở nơi nào?
Đào Phùng vờ ngơ ngác:
- Giấu ngài? Chết ai giấu được ngài?
- Đào quân! Nhà tôi có quen Đào tướng công, vì thế tôi không
muốn để Đào quân bị hình phạt đau đớn. Vậy Đào quân chẳng nên chối cãi. Việc
này tôi biết tường tận lắm rồi.
Đào Phùng mỉm cười:
- Thưa Nguyễn đại nhân, tôi biết tường tận hơn nhiều, vì tôi
biết đích xác rằng tôi không giấu hoàng phi.
- Có lẽ Đào quân không giấu thực, nhưng Đào quân biết nơi ẩn
núp của Lê Hoàng phi.
Rồi nhìn thẳng vào mặt Đào Phùng, phân phủ đột ngột hỏi:
- Phạm Thái vẫn được mạnh đấy chứ?
Đào Phùng chau mày hỏi lại:
- Phạm Thái? Tôi tưởng Phạm Thái bị giết với Nguyễn Đoàn rồi?
Phân phủ cáu tiết gắt:
- Chú đừng trách tôi ác nhé? Vì bổn phận, tôi không thể không
trừng phạt chú được.
Liền ra lệnh đánh mỗi người hai chục trượng. Một tên lính lực
lưỡng giơ roi song ráng sức quật vào mông, vào lưng phạm nhân, khiến Nguyễn Tiết,
người chịu hình phạt thứ nhất, kêu la ầm ỹ và Trần Xá một nhà văn yếu đuối mới
đến roi thứ mười lăm đã chết ngất đi rồi.
Đến lượt Đào Phùng, chàng chỉ cười và cắn chặt hàm rằng trên
xuống môi dưới, không thốt một tiếng kêu ca, đến nỗi chú lính cáu tiết, đánh
thêm cho ba roi rất mạnh. Đào Phùng giơ hai tay bị trói lên lau mồ hôi, bảo tên
kia:
- Chú rõ quá cẩn thận! Quan truyền đánh có hai mươi roi, chú
lại ra thêm cho ba roi nữa.
Phân suất căm tức trừng mắt nhìn, còn phân phủ thì có ý khen
thầm. Trong khi ấy trần Xá được một tên lính lấy nước phun vào mặt, đã tỉnh
dây, lim dim cặp mắt và nằm thở hổn hển. Phân suất hỏi:
- Trần Xá! Ngươi đã chịu cung khai chưa?
- Bẩm đại nhân.. Đoái thương tôi già yếu. Tôi không biết một
tí gì thì cung khai...làm sao được?
Nghe lời nói có vẻ thành thực, phân phủ xuống lệnh hãy giam
Xá vào ngục, rồi quay ra bảo Nguyễn Tiết?
- Còn ông này thì nghĩ sao?
Nguyễn Tiết lại gần nói thầm mấy câu. Phân phủ vui mừng cởi
trói và mời vào trong nhà, Đào Phùng vội kêu:
- Hắn sợ đòn nên khai láo, ngài chớ nghe.
Phân phủ tức giận thét:
- Im ngay!
Rồi sai lính đi lấy một cái hỏa lò than hồng và hai cái kìm.
Một lát sau thịt đùi Đào Phùng cháy xèo xèo, xông lên mùi giẻ khét. Đào Phùng bảo
phân phủ:
- Xin ngài miển cho cái hình phạt này.
Phân phủ hớn hở:
- Vậy ông chịu cung khai?
Đào Phùng nói luôn:
- Vì khó ngửi lắm. Tôi đến lợm nôn vì mùi thịt cháy mất thôi.
- Bản chứa bằng lòng chuẩn lời xin của Đào quân.
Liền quay ra gọi:
- Lính đâu dùng kìm và nước lạnh.
Tiếng dạ ran.. Họ lại bắt đầu kẹp đùi bên kia của Đào Phùng,
hẳn kìm sống đau hơm kìm chín nhiều, vì kẻ bị hình phạt hiến hai hàm răng vào
nhau, tiếng kêu ken két, và tuy chàng cố cười gượng, nước mắt chảy ràn rụa ướt
dẫm hai bên má. Phân phủ bỡn cợt hỏi:
- Thế nào, bây giờ thì đỡ khét chứ?
Đào Phùng muốn trả lời một câu chua chát, nhưng vì phần đau
quá, phần hai hàm răng nghiến mạnh như sai khớp, chàng nói không ra tiếng nữa.
Đưa hai tay bị trói lên, nắn lại hàm dưới, rồi khi đã hơi hoàn hồn, ôn tồn bảo
phân phủ:
- Thưa ngài, tôi còn biết phân trần sao cho ngài tin được, vì
ngài yên trí rằng tôi là đồ đảng của Phạm Thái mà tôi không biết mặt, lại buộc
cho tôi cái tội tàng nặc Lê hoàng phi mà tôi tưởng đã chết. Nay đối với ngài
tôi như con cá đối với người hỏa dầu, sống chết ở tay ngài. Vậy ngài muốn dùng
cách hình phạt nào mà kẻ vô tội này chẳng phải chịu.
- Bào quân nói có lý lắm....Lính đâu hãy mời Đào quân vào nghỉ
tạm trong ngục thất mấy bửa cho lại sức đã, rồi ta sẽ nói chuyện sau.
Hồi 11
Cái Võng Thịt
Đào Phùng bị giam đã được hơn một tháng. Trần Xá vì tuổi tác
không chịu nổi hình phạt quá dã man nên đã bỏ mạng trong ngục thất. Nguyễn Tiết
thì được tha ngay hôm bị bắt. Chàng hứa với phân phủ sẽ đi dọ thám bọn cựu thần
nhà Lê. Đó là câu nói thầm đã khiến phân phủ vui mừng truyền cởi trói cho
chàng.
Còn Đào Phùng, trong thời kỳ ấy, đã năm phen bị hành phạt roi
song và kìm cặp mà vẫn không chịu cung khai, một mực nói mình chỉ phạm có một tội:
tội làm con bậc trung thần nhà Lê.
Một buổi sáng, tiết xuân ấm áp, Đào Phùng hồi tưởng tới hồi tự
do đi chơi ngoạn cảnh, cùng anh em uống rượu làm thơ, mà trong lòng sinh ra mối
hoài xuân, mam mác. Mấy ngày tết nguyên đán, tiếng pháo nổ ran, chàng nghe như
lời trêu ghẹo, nhưng chàng chỉ căm tức mà không buồn rầu. Hôm nay, trong phòng
ngục chật hẹp, sự yên lặng đã khiến chàng buồn rầu mà quên hẳn lòng căm tức.
Qua hàng chấn song sắt cửa sổ, màn mưa bay lờ mờ mà tăng vẻ dịu
của cảnh trời muộn, Đào Phùng cúi xuống nhìn hai chân sỏ trong cùm rồi lắc đầu,
thốt ra một tiếng thở dài đau đớn.
Bỗng chàng nghe có tiếng lao xao ở phòng binh lính giáp vách
với ngục phòng. Chàng lắng tai nghe được câu chuyện lý trưởng sở tại với người
cai lệ. Lý trưởng đem biếu quan cái thủ lợn và chú cai vòi lễ mới chịu trình
quan.
Đào Phùng liền lên tiếng nói đổng:
- Lâu nay bị giam thèm rượu quá. Giá được chén một bữa thoả
thích thì cung khai hết mọi điều.
Người cai nghe rõ, hấp tấp chạy lên cung trình bày cùng phân
phủ. Tức thì có lệnh tháo cùm cho phạm nhân Đào Phùng và cho phép y được lên
nhà trè xơi rượu.
Phân phủ thân đến mời Đào Phùng một chén đầy mà nói rằng:
- Nếu Đào quân cung khai bốn điều ấy thì không những được uống
rượu mãi mãi, mà còn được cất nhắc lên làm quan nữa kia. Bốn điều ấy bản chức
ôn lại để Đào quân nhớ cho. Là: Ai giết Nguyễn Kha? Lê hoàng phi hiện trốn ở
đâu? Phạm Thái hiện ẩn ở đâu? Nơi sào huyệt của bọn Phạm Thái ở đâu?
- Dạ, đại nhân để tôi uống rượu đã.
- Được, xin mời Đào quân uống cho thỏa thích. Hết, xin lại gọi
thêm.
Hơn một giờ sau nghe tiếng ngâm thơ sang sảng ở nhà trè, phân
phủ liền đi xuống, vui vẻ hỏi:
- Đào quân sơi rượu rồi?
- Bẩm đã. Đa tạ đại nhân thết đãi một tên tù quá hậu..ước gì
bữa nào đại nhân cũng cho ăn uống no say như thế.
- Cái gì mà Đào quân cười dữ dội thế?
- Thưa đại nhân, tôi nghĩ đến bọn giết người lấy của mà vẩn
tưởng mình là lương thiện, thì tôi tức cười đến chết.
Chàng lại cười. Phân phủ cố nén giận, ngọt ngào bảo chàng:
- Đấy ngài coi, thằng tướng cướp này giết biết bao nhiêu
lương dân mà dám tự cho mình là lương thiện thì còn trời đất nào nữa!...Nhưng
tôi đã có cách trừng trị..nhân tiện hiến ngài một cuộc vui hiếm có.
Rồi bảo tên cướp:
- Mày không xưng, quả thực mày không xưng?
Phân phủ cười hả hả:
- Cái đó tùy ngài cả. Cung khai sự thực xong thì muốn gì mà bản
chức chẳng tâu lên thiên tử ban cho.
- Cung khai thì cố nhiên là tôi cung khai, nhưng thưa đại
nhân, tôi có một tính rất xấu: cơm rượu xong cứ phải tiêu khiển một ván cờ, hoặc
một hội tổ tôm. Giá đại nhân chuẩn cho sự nguyện vọng ấy thì tôi xin thú nhận hết
các tội.
Phân phủ ngẩm nghĩ: "Hay thằng này lại giở quẻ đây!...Được
ngươi cứ gan...Ta đến phải cho ngươi nếm mùi võng thịt mới xong!"
Đào Phùng cũng nghĩ thầm: "Thú nhận! Rồi mày biết tay
tao thử cung khai chính mày là thủ phạm, vợ mày là đồng đãng xem mày còn giở ra
thứ hình phạt gì có thể dã man hơn được nữa?"
- Đào quân nói gì tôi quên bẵng mất...Đào quân miễn chấp. Tôi
đãng trí lắm.
Dạ tôi đâu dám. Vừa rồi tôi xin đại nhân cho phép tôi hầu đại
nhân một ván cờ hay một hội tổ tôm.
Phân phủ mỉm một nụ cười ghê gớm:
- Bản chứ cờ còn thấp lắm, địch sao lại Đào quân lắm mưu nhiều
trí. Còn như tổ tôm thì không đủ quân. Vả, thiết tưởng hai cách tiêu khiển ấy
nhu nhược lắm, buồn tẻ lắm. Tôi xin hiến Đào quân một cách tiêu khiển khác hùng
tráng mà cảm động hơn nhiều...
Liền gọi viên đội trưởng mà bảo thầm mấy câu. Lát sau, mấy
tên lính dẫn đến trước mặt hai người một tội nhân cỗ mang gông nặng, tay bị
trói quặt về sau lưng. Phân phủ trỏ tên tù, nói với Đào Phùng:
- Đây là một thằng tướng cướp rất lợi hại ở vùng này quan
phân suất vừa bắt được tối hôm qua. Tôi sai nó làm trò để Đào quân coi cho đỡ
buồn nhé?
Rồi quay hỏi tên kia:
- Mày đã thú nhận chưa?
Tên cướp vờ khóc:
- Bẩm ông lớn, ông lớn thương con phận nào, con được nhờ phận
ấy. Quả thực con là người lương thiện.
Phân phủ quát tháo:
- Lương thiện à? Đốt nhà giết người, lấy của mà là lương thiện
thì thế nào mới là tàn ác hở tên...
Một dịp cười làm cho phân phủ ngừng bặt:
- Cái gì mà Đào quân cười dữ dội thế?
- Thưa đại nhân, tôi nghĩ đến bọn giết người lấy của mà vẫn
tưởng mình là lương thiện, thì tôi tức cười đến chết.
Chàng lại cười. Phân phủ cố nén giận, ngọt ngào bảo chàng:
- Đấy ngài coi, thằng tướng cướp này giết biết bao nhiêu
lương dân mà dám tự cho mình là lương thiện thì còn trời đất nào nữa!...Nhưng
tôi đã có cách trừng trị..nhân tiện hiến ngài một cuộc vui hiếm có.
Rồi bảo tên cướp:
- Mày không xưng, quả thực mày không xưng?
- Bẩm ông lớn, con biết điều gì mà xưng?
- Lính đâu?
Tiếng dạ ran. Mấy người lính chạy lại.
- Sắp sửa khí cụ hình phạt để làm võng thịt hầu Đào quân coi.
Tức thì kẻ đi lấy thừng, lấy giây đàn, bê gạch đến, rồi dùng
giây đàn buộc hai ngón tay cái hai ngón chân cái tên cướp lại với nhau. Trong
khi ấy, một người lính khác đã leo lên cây bàng mắc vào một cành hai đoạn giây
thừng lớn. Xong, họ buộc hai đầu thừng vào đầu ngón chân và ngón tay người bị
trừng phạt mà kéo lên cao, trông như cái võng vậy: " Võng thịt". Tên
tướng cướp đã gan, cố cắn răng không kêu khóc. Nhưng khi người ta lạnh lùng đặt
một phiến đá lên bụng hắn mà đưa người hắn như đưa võng thì hét lớn lên một tiếng:
"ối!"
Đào Phùng lại cất tiếng cười the thé.
- Ngài cười gì vậy?
- Tôi cười để khen ngợi đại nhân đó mà thôi, xin đại nhân đừng
vội giận. Cách xử án của đại nhân khiến tôi nhớ tới một người hiền đời xưa.
Phân phủ, trong lòng căm tức nhưng vờ vui tươi hỏi:
- Người hiền ấy là ai thế?
- Người ấy là Triệu Công. Ngày xưa Triệu Công xử án ở gốc cây
bàng. Lòng công bằng của ngài đã khiến người ta phổ vào bản đàn câu hát:
"Tế thế cam đường, vật tiễn vật phat.." Ngày nay đại nhân cũng xử án ở
một cành bàng. Cành bàng tuy có cao hơn gốc bàng nhưng cũng thế thôi.
"Được, lát nữa xin sẵn lòng treo anh lên một cành cao
hơn." Phân phủ nghĩ vậy rồi hầm hầm truyền lính lập sắp tên tướng cướp xuống
và đặt trên lưng hắn ta một phiến đá nặng hơn.
Giữa lúc ấy có tiếng hát ngoài cổng.
Phân phủ lắng tai nghe và bảo một tên lính:
- Đứa nào hát nghêu ngao thế? Mày ra xem...
Một lát, tên lính trở về nói:
- Bẩm ông lớn, đó là một bọn mãi võ, đi múa kiếm ăn. Chúng
xin vào hầu ông lớn.
- Đuổi cổ nó ra!
Đào Phùng vội can thiệp:
- Sao đại nhân không cho phép chúng nó vào múa gươm để tôi được
coi nhờ với. Thưa đại nhân trong bọn biết đâu không có kẻ đại tài mà đại nhân
có thể dùng làm thủ túc được!
Phân phủ gật gù:
- Cũng có lẽ.
Liền truyền lệnh gọi bọn kia vào. Tức thì bốn người nai nịt gọn
gàng, mạnh mẽ dõng dạc bước tới. Người đi đầu là một tráng sĩ vào trạc ba mươi
tuổi, hai người đi kèm hai bên ý chừng là em trai và em gái tráng sĩ, vì cùng một
nét mặt rắn rỏi, xương xương với cặp mắt xếch ngược và trong sáng. Theo sau, một
người gánh đôi hòm lớn, trông càng lực lưỡng hơn.
Cả bốn người kính cẩn dập đầu xuống sân làm lễ. Phân phủ hách
dịch hỏi:
- Chúng mày biết làm những trò gì?
Một tiếng "ái" rất lớn trả lời lại, đó là tiếng kêu
của tội nhân bị treo trên cành bàng. Phân phủ quát:
- Hãy cho phép nó nằm yên đấy: Đừng đặt đá lên lưng nó vội, để
ta coi mấy đứa này làm trò cùng múa võ đã.
Rồi quay về bọn mãi võ:
- Tao hỏi: chúng mày biết làm những trò gì?
Người trùm lễ phép thưa:
- Kính bẩm đại nhân chúng tôi biết đủ các món võ, biết làm,
biết hát những bài ca múa gươm...
- Vừa múa gươm vừa hát có được không?
- Bẩm được lắm chứ.
- Vậy múa hát ta coi thử nào?
Chàng liền vừa múa vừa ca rằng:
Ta, tráng sĩ hề, gặp thời loạn lạc,
Như cá gặp nước hề! ta vẫy vùng,
Bõ bút nghiêng hề! Toàn đồ vô dụng.
Một ngựa một gươm hề! một cây cung,
Với lòng dõng cảm hề! Với chí lớn,
Ta xông xáo hề! trong đám mông lung,
Chiếc chiến bào của ta hề! Đẫm máu,
Bên tai ta hề! Vào trong trận địa.
Như cá trong nước hề! Ta vẫy vùng!
Đào Phùng vỗ đùi khen ngợi:
- Hay! Hay lắm!
Lần lượt bốn người kế tiếp nhau múa gươm, múa dáo, múa đại
đao. Sau hết, người trùm xin chia ra làm hai cánh, giả đánh nhau để hiến phân
phủ một cuộc vui hiếm có. Đào Phùng lấy làm thích chí, cười nói:
- Ồ, thế thì đẹp lắm nhỉ. Giá đại nhân cũng cho phép tôi múa
may với họ thì vui biết chừng nào.
Phân phủ chưa kịp trả lời thì bốn người mại võ đã kẻ đao, kiếm,
kẻ dáo, kích đánh nhau loạn sạ. Bỗng huỵnh một tiếng, giây thừng treo tội nhân
đã đứt và nhanh như cắt, một người đã cởi trói cho va, trong khi ba người sấn
vào đâm chém phân phủ. Lính tráng hoảng hồn vớ lấy ghế giơ lên đỡ. Nhưng bọn
kia cũng chỉ đánh doạ để mở đường mà thôi. Vụt một cái cả năm người đã ra khỏi
cổng chạy miết.
Nhân lúc phân phủ và binh lính chạy hỗn loạn và kêu la ầm ĩ,
Đào Phùng lẻn được ra cổng, trốn thoát.
Hồi 12
Tờ Phả Khuyến
Trên con đường nhỏ chạy ven đê sông Cầu rẽ vào làng Vĩnh Thế,
người ta thấy một nhà sư trẻ tuổi, thân thẻ tráng kiện tay chống gậy trúc, vừa
đi vừa lâm râm niệm phật. Một chú tiểu vạm vỡ như nhà sư gánh một đôi thúng
theo sau. Một bên thúng có một cái tay nải nâu, vào ở bên kia có mấy quyển kinh
và nhiều giấy tờ gọi trong chiếc khăn nâu cũ. Nhà sư thông thuộc đường lối
trong làng lắm, đi thẳng vào một xóm tới một toà nhà ngói, đứng ở cổng nói:
- Nam vô a di đà phật! Nghe tin ông bà đây hằng tâm hằng sản,
sãi tôi đến xin ông bà mở lòng tu nhân tích đức, cúng vào việc sửa sang chùa
chiền. Nguyên chùa Nghiêm Xá...
Không để sư nói dứt câu, chủ nhà quát lớn:
- Sư với mô gì! đem cho họ một đồng kẽm, một đồi kẽm thôi, rồi
bảo họ đi ngay.
Nhà sư mỉm cười khinh bỉ và toan cất tiếng bá ngọ lấy mấy
câu. Nhưng giữa lúc ấy, ở trong nhà đi ra một thiếu nữ rất xinh tươi khiến nhà
sư ngây người đứng ngắm, không rứt ra đi được.
Thiếu nữ dịu dàng bỏ vào thúng nhà sư dăm đồng tiền kẽm mà
nói rằng:
- Mẹ tôi cúng xin sư ông nhận cho.
- Đa tạ thí chủ.
Rồi cất tiếng du dương trong trẻo nhịp nhàng vừa nhìn thiếu nữ
vừa đọc bài sau này:
Từng mảng rằng: Kẻ dựng phúc hẳn là gặp phúc, tên ghi muôn kiếp
đá không mòn; người tìm nhân âu lại được nhân, dấu đễ nghìn năm gương chẳng bụi.
Nếu cắm thẳng chiếc bóng theo vào lệch, cân nhắc hàng mây tóc
nhận không sai.
Đức Phật ta: chén nổi ân thiêng, tích hay phép nhiệm.
Lá vuồm gấm thổi gió từ bể giác, doành mê nhẹ chở kẻ trầm
luân, bóng đèn hoa lồng mây tuệ ngàn thiêng, bể khổ sáng đưa người ám muội...
Trong nhà lại thét ra:
- Liên! Cho tiền người ta rồi bảo người ta ra, hát với xướng
mãi.
Thiếu nữ có vẻ không bằng lòng đáp lại:
- Thưa mẹ, mẹ để sư ông đọc hết bài phả khuyến đã.
Nàng quay lại mỉm cười bảo nhà sư:
- Sư ông cứ đọc đi.
Sư ông cũng vui lòng chiều ý cô gái đẹp, lại cất tiếng ngâm
nga đọc tiếp:
Sãi tôi nay: gặp thuở mình thời, sinh lầm nam tử.
Võ dẹp loạn đã không hề thao lược, văn trị yên lại chẳng biết
kinh luân.
Tiến thì quan nghe đường ấy khó nhằm, trong thế giới ba nghìn
dư, kìa trời đất xanh xanh nào có phụ; đạt mà sư, xem đạo này cũng phải, đường
tu hành ba mươi sáu, với cõ hoa hơn hớn cũng là vui.
Làm chi tham dục để nên lòng, luống chịu kiên vưu cho lụy tiếng.
Một tên người nhà vội chạy ra:
- Thôi nhà sư đi.
Rồi hắn chắp tay lễ phép nói với thiếu nữ:
- Bà lớn truyền cô vào ngay.
Thiếu nữ phụng phịu:
- Vào thì vào!
Ra đường , chú tiểu nói với nhà sư:
- Bạch thầy, nhà đó giàu có thế mà bủn sỉn quá đi mất.
Nhà sư làu nhàu chửi:
- Bá ngọ nó chứ!
- Bá ngọ cả cái cô thiếu nữ đẹp ghê gớm!
- A di đà phật, chú chỉ nói bậy!...Nhưng bá ngọ nó, giá nó ở
vào vùng Nghiêm Xá, Phú Mẫn thì phải biết tay ta.
- Dạ bạch thầy, có thế. Nhưng biết đâu chẳng có ngày nó phải
qua đò Kim Lũ.
Giữa lúc ấy, một người to lớn ở phía sau tiến lên, lấy tay gạt
mạnh bên quang của chú tiểu ra mà đi khiến chú căm tức, đặt gánh xuống đường,
thò tay vào bọc toan rút dao đuổi theo. Nhưng nhà sư vội giữ lại thì thầm:
- Thôi, mặc kệ hắn, sinh sự với hắn làm gì?
Chú tiểu hằn học:
- Nhưng bá ngọ nó, nó khinh thần trò mình ra mặt thế này thì
chịu sao nổi. Mà thầy ạ, biết đâu nó không nghe lỏm được câu chuyện của ta.
- Ờ, cũng có lý, vả thằng cha trông dáng bộ khả nghi lắm.
Thực vậy, người ấy rất có vẻ bí mật: cái khắc nhiễu tam giang
quấn rối sụp đến đôi lông mi rậm. Và tuy sang xuân, tiết trời ấm áp, mà chàng
còn đội tùm hụp trên đầu chiếc khăn bịt lụa trắng che kín hẳn nửa mặt dưới, để
hở ra hai con mắt thao láo.
- Có lẽ nó ốm, thầy ạ.
- Ốm mà lại đi nhanh như thế được!
Hai thầy trò còn đường bàn bạch chưa biết xử trí ra sao thì
người kia đã đi khuất sau lũy tre thôn Vạn Đình. Nhà sư bảo chú tiểu:
- Cứ coi bộ hấp tấp vội vàng của hắn thì đổ rằng hắn đến Cổ Mễ
để sang đò?
- Bạch thầy, biết đâu hắn sang đò. Nhỡ hắn quay về Kinh Bắc
thì sao?
- Nhưng hắn quay về trấn lỵ thì đã làm sao?
Trò lo lắm thầy ạ, trò chỉ sợ nó đã nghe lỏm được câu chuyện
mình bàn tán.. Ở vùng này ít lâu nay nhan nhản những thám tử của quan trấn thủ,
chắc thầy chẳng lạ.
Phạm Thái - vì nhà sư chính là Phạm Thái - giật mình nhớn
nhác nhìn quanh. Rồi quay lại bảo chú tiểu:
- Chú Quế, chú cứ đi thong thả nhé.
Dứt lời chàng bước rất mau, hầu như chạy. Chú tiểu theo không
kịp, đành để thầy đi trước. Một lúc lâu, Phạm Thái trở lại nói:
- Không biết nó biến đằng nào mất. Chẳng thấy bóng nó đâu nữa.
- Bạch thầy, thật là một mối hoạn cho thầy trò ta.
Phạm Thái đương lo lắng ngẫm nghĩ, cũng phải bật cười bảo tiểu
Quế:
- Chứ nên cất kỹ cái kho "hán tự bá láp" của chú
đi. Mối gì là mối hoạn....Nhưng ta hãy vào hàng này ngồi nghỉ uống bát nước chè
tươi đã, rồi muốn ra sao thì ra.
Hai thầy trò liền bước vào một cái quán bên đường ở đầu làng
Ngọc Đôi. Ngày xưa đó là một bến đò sầm uất. Nhưng từ khi vua Quang Trung đắp lại
con đường Bắc Thành qua Kinh Bắc đi thẳng lên Lạng Thương, Yến Thế, Lạng Sơn,
thì bến đò Ngọc Đôi đã thiên đến Cổ Mễ. Dần dần, người ta rỡ hết hàng quán để
mang lại dựng ở bến dưới, và bến cũ chẳng bao lâu đã thành một nơi bỏ hoang,
còn trơ trọi mỗi một cái quán nước bán bánh. Một bà lão già ở đó với một đứa
cháu gái nhỏ lên chín lên mười!
- A di đà phật! Bạch sư ông vào sơi nước!
- A di đà phật!
- Trời đã xế chiều rồi, sư ông ý chừng đến chùa Cổ Mễ?
- Không đâu bà hàng ạ, sãi tôi đi khuyên giáo lấy tiền sửa
chùa Nghiêm Xá.
- A di đà phật! Vậy của ít, lòng nhiều, tôi xin cúng nhà
chùa.
Vừa nói, bà lão vừa moi bọc lấy hai đồng tiền kẽm bỏ vào
thúng, khiến Phạm Thái cảm động đưa mắt nhìn chú tiểu:
- Phúc đức quá! Tôi xin cầu trời phật độ trì cho bà.
Bỗng chú tiểu giật mình, vì chàng vừa nhác thấy người bí mật
ban nãy một mình trên chiếc thuyền nan lênh đênh giữa giòng sông, nước chảy xiết.
Chàng buông một tiếng thở dài như để trút hết lòng lo sợ băn khoăn.
- Thì ra, chú ạ, người ấy không về trấn lỵ.
Hai thầy trò vui mừng từ giả bà hàng ra đị Khi đến bến đò Cổ
Mễ gặp một bọn lính ở thành Bắc cũng vừa tới. Nhân dân thất kinh giãn cả ra khi
thấy một người trong bọn binh, chừng là cai đứng lên một mô đất bên sông và lớn
tiếng nói:
- Có lệnh quan truyền không cho một tên lái đò nào chở sang
ngang trong đêm hôm nay. Phải để mai quan quân khám tín bài hành khách đã.
Phạm Thái đến gần người ấy và lễ phép hỏi:
- A di đà phật! Thưa thầy có việc gì quan hệ mới xảy ra mà cấm
ngặt thế?
Người cai bép sép trả lời:
- Nghe như vừa có tin ở phủ Từ Sơn báo bọn Đào Phùng phá ngục
trốn thoát.
Phạm Thái sửng sốt ngả đầu chào quay đi. Viên cai tưởng nhà
sư sợ hãi, có biết đâu rằng chàng kinh ngạc vì vừa nhớ lại vừa nhận ra người bí
mật kìa là Đào Phùng mà chàng đã gặp trong rừng Đình Bảng; Chàng quay lại bảo
chú tiểu Quế:
- Tôi ta đi chẳng tối mất.
Phạm Thái hấp tấp như thế là vì trong bọc chàng có nhiều giấy
quan trọng và chàng sợ bọn lính đòi khám. Đi một quãng xa, chàng như không thể
nhịn được nữa, ôm bụng cười rũ rượi.
Chú tiểu hỏi:
- Bạch thầy, có chuyện chi mà thầy cười gớm giếc vậy?
- Còn gì đáng cười cho bằng cách đề phòng bọn bầy tôi Quang
Toản.
- Đề phòng như thế thì có gì là đáng tức cười, bạch thầy?
- Lại còn không tức cười à? Việc quan trọng thế mà để tiết lộ
sự bí mật! Đợi người ta sang sông rồi mới cấm thuyền. Làm hai điều vô lý ấy thì
chỉ có bọn bầy tôi Quang Toản.
- Nhưng có ai sang sông cơ?
- Ai? Đào Phùng chớ còn ai nữa? Cái người mà thầy trò ta ngờ
oan là thám tử chính là Đào Phùng đó.
- Sao thầy biết?
Phạm Thái ngần ngừ đáp:
- Đoán...Nhưng việc của ta, ta hãy nghĩ đến đã. Bây giờ phải
đi mau tới thành Kinh Bắc.
- Đến nơi chắc cổng thành đã đóng rồi.
- Thì ta vào chùa Yên Xá.
Quả thực khi đến Kinh Bắc cầu treo đã kéo, và cổng thành đã
đóng. Hai thầy trò Phạm Thái liền tìm vào chùa Yến Xá trú ngụ.
Nửa đêm chú tiểu chợt thức giấc, không thấy sư ông nằm ở giường
trên. Chú đoán chừng thầy ra sau, nên chú lại ngủ ngay.
Sáng hôm sau, chú mở choàng mắt nhìn lên giường: sư ông vẫn
còn ngũ, mà coi như ngủ say lắm. Yên lặng sắp sữa hành lý để chờ thầy dậy.
Bỗng chú kêu rú lên một tiếng, khiến Phạm Thái tỉnh giấc hỏi:
- Cái gì thế, chú!
- Bạch sư ông, đâu mất bọc giấy?
- Giấy gì?
- Bạch thầy, giấy gói trong cái khăn nâu, mà thầy bảo là những
bài phả khuyến...đem đi phát để quyên tiền.
Phạm Thái mỉm cười:
- Mất thì thôi.
Sau khi cùng sư ông chùa Yên Xá uống thiền trà, Phạm Thái cáo
từ ra đi...
Vừa vào trong thành, chàng đã nghe thấy lời đồn huyên náo:
"Tối hôm trước có người đến dán giấy ở các cổng thành xúi giục nhân dân nổi
loạn để đánh đổ nhà Tây Sơn và phò nhà Lê lên ngôi trời. Giấy ấy hiện đã bóc nộp
quan trấn thủ. Nhưng ở trong thành còn nhiều người nhặt được cũng tờ giấy như
thế mà không biết ai bắn từ đâu tới vì tờ nào cũng vào một cái tên. Phạm Thái hỏi
một người đàn bà:
- Có thể xem được không bà?
Người kia vênh mặt bỉu môi, nhiếc nhà sư:
- Xem? Có mà mất đầu! Ai dám chứa cái của nợ ấy ở trong nhà
mà xem được?
Hai thầy trò Phạm Thái ung dung đến một hàng cơm quen thuộc ở
phố Tiền Môn. Chủ quán đon đả ra cửa mời chào:
- A di đà phật! Đã lâu lắm mới thấy sư ông Phổ Chiêu đến
hàng. Mời sư ông vào nhà trong cho tĩnh.
Vốn biết sư ông thích rượu nhắm thịt nướng chả, chủ quán sợ để
ngài ngồi ngoài hàng, ngài ngượng không dám gọi những món "thiền giới",
nên có nhã ý mời ngài vào một phòng vắng để ngài được tự tiện dùng thứ gì thì
dùng, dầu "cẩu nhục" đi nữa không sao.
Phạm Thái vừa nhắp cạn chén trà mạn tống khẩu thì ở ngoài
hàng có tiếng nguyền rủa ôm xòm. Chàng tò mò ra xem: Một công tử cầm tờ giấy đầu
chữ in bảo chủ quán:
- Ta đến trước cửa hàng nhà ngươi bắt được mảnh giấy ghê gớm
này.
Phạm Thái đến gần thì vừa gặp chú tiểu tỏ vẻ kinh ngạc đưa mắt
nhìn chàng.
Chàng cũng quắc mắt nhìn lại, rồi ôn tồn hỏi người vừa vào:
- Tờ giấy gì thế? Công tử đọc cho tôi nghe với.
- Một tờ giấy chữ nôm, nhà sư ạ. Chẳng biết đứa nào hỗn xược
dám viết, dám in những câu phạm thượng thế này?
Rồi chàng lẩm nhẫm đọc:
"Từ khi đức Thái tổ nhà Lê ta khở nghĩa ở Lam Sơn đánh
đuổi quân Minh mà lấy lại giang sơn gấm vóc tới nay, trải có hai mươi bốn đời
vua, gần bốn trăm năm dựng nghiệp đế, thừa lệnh trời trị nhân dân trăm họ. Tuy
trong khoảng vài chục năm, cha con Mạc manh tâm phản phúc thoán đoạt ngôi rồng
nhưng lưới trời riết ráo kẻ thoán nghịch tránh sao cho khỏi sa vào.
"Nay anh em cha con Tây Sơn ngu độn, bạo ngược, chẳng hiểu
lẽ mệnh trời, chẳng nghĩ tới nghĩa vua tôi, dám dấy quân phản loạn để đến nỗi
hoàng đế phải phiêu lưu đất khách gần mười năm nay. Than ôi, vua bị nhục, bầy
tôi phải chết! Nay vua ta bị nhục mà ta nỡ sống an nhàn được ru?
"Hỡi anh em, ta phải tỏ cho quân Tây Sơn biết rằng đất Bắc
chẳng thiếu anh hùng, nghĩa sĩ. Anh em hẳn còn nhớ câu nói ngạo mạn, khinh thị
của Nguyễn Huệ khi hắn mới tới Thăng Long. Hắn nói rằng: Ngoài Bắc Hà chỉ có mỗi
một thằng Chỉnh, nay đã theo hầu tao rồi. Còn thì toàn một giống giẽ giun, cầy
sấy".
"Anh em đã nghe rõ chưa?
"Vậy, nào những ai là bầy tôi trung nhà Lê - mà ai lại không
là bầy tôi trung nhà Lê, vì ông cha chúng ta đều đời đời ăn lộc nhà Lê, - hãy
đêm ngày lo toan việc khởi nghĩa phục thù cho nhà Lê đi. Bọn chúng tôi hợp tập
được một đảng có mấy vạn người tản mát khắp các nơi, chỉ chờ anh em trong nước
tiếp ứng là khởi sự đó thôi.
Ký tên:
"Những tôi trung của nhà Đại Lê
Niên hiệu Chiêu Thống thứ mười hai"
Nghe đọc xong tờ hịch Phạm Thái nói:
- A dì đà phật! Lời lẽ mạnh quá!
- Nhưng ta phải mang tờ giấy này lên trình quan trấn thủ mới
được.
Dứt lời, chàng hấp tấp đứng dậy đi thẳng.
Chàng công tử vừa ra khỏi thì một bọn quan võ đến hàng thét bảo
chủ quán làm rượu.
Phạm Thái nghe một người nói:
- Đã biết mà! Nó chưa đi thoát vùng này mà!
- Ngài nói Đào Phùng?
- Chứ còn ai? Gớm thật! Vừa trốn ở ngục ra đã táo tợn dám đi
rải hịch xúi dân làm loạn được rồi.
Một người hỏi:
- Những tờ hịch chữ in. Vậy nó khắc, nó in sao chóng thế được?
Một người khác, giọng bí mật:
- Ồ phải biết, đảng nó to lắm!
Phạm Thái mỉm cười, quay vào nhà trong uống rượu.
Hồi 13
Quần Sư Tụ Hội
Luôn mấy hôm chùa Tiêu Sơn làm lễ dâng sao. Khách thập phương
kéo đến rất đông. Mà sư các nơi đến họp giảng kinh cũng nhiều lắm. Hai chữ
"dân sao" đem dùng vào chùa Tiêu Sơn thật đúng vì đêm, người ta đứng ở
các ruộng thấp chung quanh, ngước mắt nhìn lên chùa thấy quả đồi đã thành một
chòm sao "tua rua" lấp lánh bên những khóm lá đen um của mấy cây thị
cao ngất. Vì thế, ngoài khách đến lễ, lại còn khách đến ngắm cảnh chùa nữa, tối
nào cũng người lui người tới rầm rập quá nữa đêm chưa ngớt.
Nhưng lễ dâng sao chỉ là một cớ để các tráng sĩ đảng Tiêu Sơn
tụ hội đó mà thôi Tan đàn được một hôm thì chư tăng bắt đầu vào làm lễ thiền định.
Suốt một ngày một đêm, mấy trăm sư nhịn ăn và chỉ uống nước lã, để được tĩnh
tâm trí mà nghiền ngẫm đến chân lý của đạo nhiệm mầu. Trong khi ấy, các cổng chủa
đóng chặt, không để một người trần tục nào lui tới.
Hôm đó, ai đến Tiêu Sơn tất đã được mục kích một cảnh tượng rất
oai nghiêm và cảm động.
Trên chùa, một dẫy chiếu giải kín năm gian. Các nhà sư chia
ra hai hàng, ngồi xít vào nhau, mỗi người tay cầm một quyển sổ trong có chứa những
ý riêng của mình để đem ra bàn.
Một hồi chuông gióng giả trong không.
Đối với nhân dân quanh vùng thì đó là hồi chuông bắt đầu vào
lễ tĩnh tọa. Và những người thực mộ đạo nghe thấy tất chắp tay vào ngực mà thì
thầm tụng niệm bài kinh sám hối.
Nhưng kỳ thực, đó chỉ là một hồi chuông khai mạc hội đồng bí
mật. Mấy trăm thiền sư ngồi xếp bằng trên chiếu, lặng lẽ cúi đầi, trông rất có
vẻ trầm tư mặc tưởng.
Dút hồi chuông, Quang Ngọc ngồi giữa, giáp lưng vào tường, đứng
dậy nói:
- Nam vô a di đà phật!
Mọi người đáp lại:
- Nam vô a di đà phật!
Quang Ngọc chờ cho ai nấy im lặng, rồi nói tiếp, tiếng nghe
sang sảng:
- Đây là nơi tu hành. Anh em ta chỉ ẩn núp dưới bóng từ bi để
lam việc lớn. Vì thế Ngọc này đã cùng anh em đồng chí khai mạc hội đồng bằng một
câu niệm phật, tức là để dâng lời tạ tội chân thành lên đức Phật tổ Như Lai.
Chàng ngừng một phút đưa mắt nhìn mọi người:
- Bây giờ đến việc của chúng ta: việc lớn, việc nước, Những
người đến bàn việc trọng đại ấy họp ở đây không phải là cách thiền sư nữa. Ngững
người ấy chỉ là một bọn đồng chí đã thề với nhau tôn phò nhà Lê. Ngững người ấy
đã cử Trần Quang Ngọc này lên chức đảng trưởng, lên ngôi minh chủ, thì trong
lúc này Ngọc tôi không còn là Phổ Tĩnh thiền sư mà chỉ là Trần Quang Ngọc, tôi
trung của nhà lê.
Chàng chỉ một cái hộp đỏ bên trái:
- Đây là ấn tín anh em giao cho. Cái mệnh lệnh độc đoán của
nó, hẳn anh em đã rõ.
Rồi trỏ thanh kiếm đặt bên phải:
- Đây là thanh bảo kiếm anh em giao cho. Cái sức mạnh quả quyết
của nó, anh em chẳng còn lạ. Hôm nay anh em ta họp nhau ở đây vì một việc khẩn
cấp. Trước khi bàn đến việc ấy tôi xin trình bày với anh em tình hình của đảng.
Quang Ngọc tra xét các sổ sách rồi lại nói:
- Về binh khí, hiện nay ta có năm mươi cây hoả mai cướp được
của các huyện, các đồn, một trăm hòm đạn, thuốc đạn, mồi, hai nghìn thanh mã tấu,
hai nghìn ngọ dáo trường, hai nghìn tay cung, nỏ, một nghìn thanh kiếm. Ngựa
thì mới có ba chục con thôi. khí giới như thế kể cũng hơi ít đấy, nhưng thắng bại
là nhờ về lòng dũng cảm cửa quân đội hơn là nhờ về sự công hiệu của khí giới.
"Về quân đội, thì hiện nay trong hạt Kinh Bắc này, ta đã
có hơn một nghìn.
Hơn một nghìn quân ta phải chống nổi một vạn quân của Quang
Toản.
"Về dân tình đối với đảng ta thì anh em hãy nghe tờ
trình của Phạm quân đi quyên giáo các nơi về"
Quang Ngọc mở một tờ ra đọc:
"Nhân dân hạt Kinh Bắc rất mến tiếc nhà Lê. Họ bảo bọn
Tây Sơn là lũ thoán nghịch. Có người lại không nhận nhà Tây Sơn là giống Annam
nữa. Coi họ như một bọn giặc dị chũng ở phía Nam (để đối với bọn giặc tàu ở
phía Bắc về thờ đức Thái tổi khai quốc). Hễ nhà nào mà Thái biết là bậc trung
nghĩa, ngỏ lời quyên tiền, thì họ vui lòng giúp ngay. Vì thế trong có nửa
tháng, mà Thái thu được vào quỹ một món tiền lớn là năm mươi lạng bạc"
Quang Ngọc nói tiếp:
- Anh em coi, ta tuy mới có hơn một nghìn tinh binh nhưng lúc
ta khởi sự, số người theo ta không phải là ít. Còn như về vấn đề tài chính, thì
anh em không phải lo ngại điều gì. Hiện giờ trong quỹ có tới hơn vạn lạng bạc. ấy
là không kể số binh lương đã có nhân dân sẵn lòng cung đốn.
"Sau khi đã tỏ bày tình hình của đảng với anh em, minh
chủ tôi xin hỏi anh em một câu rất quan hệ. Mà mục đích cuộc tụ hội này cũng chỉ
có thế. Vậy xin anh em lưu ý đến câu hỏi ấy, suy nghĩ kỹ càng, rồi ai có ý kiến
gì hay, mà đem ra bàn với bạn đồng chí. Câu ấy là:
"Ta đã nên khởi sự chưa?"
Quang Ngọc ngồi xuống, một làn không khí bình tĩnh bao bọc lấy
mấy trăm vẻ mặt nghiêm túc, trầm hùng. Ai nấy đều cho câu hỏi kia có liên can tới
vận mệnh của nước, nên không dám trả lời hấp tấp.
Một lúc sau, một nhà sư mạnh bạo đứng dậy. Một người nhìn xem
ai thì chính là Lê Báo. Không để cho chàng kịp thốt ra được nửa lời, Quang Ngọc
giơ tay ra hiệu bảo im rồi ôn tồn nói:
- Hiền đệ nên nghe ngu huynh, hãy nhường cho anh em đồng chí
bàn trước đã.
Việc là việc nước, há phải việc riêng của anh em ta?
Lê Báo hằn học ngồi xuống nhưng không dám cãi.
Một người đứng lên, thân thể cao lớn, mặt đen trán rộng. Có
tiếng thì thầm:
"Nguyễn Đoàn Yên Thế!" Đoàn hắng dặng hai, ba lần rồi
nói:
- Minh chủ đã hỏi, tôi xin quả quyết thưa rằng: Nên... Xem
như đức Thái tổ ta khởi nghĩa ở Lam Sơn, binh sĩ khéo lắm được dăm trăm người
theo. Thế mà nhờ về tướng tài, nhờ về bền trí, đã lấy lại được giang san...
Một người cãi lại:
- Lam Sơn địa thế hiểm trở dễ giữ, chớ như đất Kinh bắc ta...
Đoàn ngắt lời ngay:
- Tôi xin hiến đất Yên Thế, Hữu Luông. Thực là một nơi rừng
sâu gò hiểm. Ta tiến có thể lấy Kinh Bắc dễ như chơi, ta lui có thể ẩn núp
trong mạn rừng núi Thái Nguyên, Bắc Cạn. ấy là chưa kể sau này ta có thể dụ được
bọn Thổ, bọn Thái ở vùng ấy theo ta. Mà tài đánh giặc của dân Thái thì tôi đã
được rõ. Vậy xin minh chủ cứ quả quyết cho. Nên khởi sự lắm. Ta mà bỏ mất cơ hội
này, sợ sau không thể có nữa.
Nguyễn Đoàn vừa ngồi xuống thì một người khác đứng dậy liền.
Người này trái ngược hẳn với Đoàn, thân thể nhỏ nhắn, da trắng, mắt phượng, cử
chỉ khoan thai, lời nói nhỏ nhẻ:
- Thưa minh chủ, tôi là Hoàng Cân, tiểu tự Song Văn, người
huyện Văn Giang, xin dâng lên minh chủ cùng anh em đồng chí mấy lời thô thiển
như sau: Tôi nghe quân Tôn Sĩ Nghị năm xưa đông hơn mười vạn, từ lưỡng Quảng
kéo sang như mây bay như gió cuốn, khiến bọn Văn Nhâm không dám đánh phải lui
ngay. Thế mà quân Tây Sơn ở Nghệ an vừa kéo ra là toàn thắng, như thế đủ biết
người ta mãnh liệt là nhường nào...
Lê Báo hung hăng đứng dậy quát mắng:
- Song Văn giỏi thực! Dám múa mép tưng bốc quân Tây Sơn!
Quang Ngọc vội gạt:
- Lê hiền đệ không được vô lễ? Đẻ Hoàng quân bàn việc.
Hoàng Cân mỉm một nụ cười, nhìn Lê Báo rồi nói tiếp:
- Vậy tôi thiết tưởng dẫu binh đội ta có nhiều gấp mười nữa,
cũng chưa chọi nổi quân Tây Sơn chứ đừng nói hơn một nghìn vội. Bây giờ chỉ nên
hết đảng cho một ngày một to thê, rồi sau này hãy liệu. . .
Một chuỗi cười khanh khách đáp lại lời Song Vân. Quang Ngọc
nhìn xem ai thì là Bùi Thành Giang tự Tiểu Kiếm Sinh, người đất Lục Nam. Người ấy
có tiếng nghịch ngợm, vì say rượu lỡ giết mất một viên phân trí, nên phải trốn
đến tu ở chùa MỘ Thổ. Quang Ngọc nghe tiếng Giang cười có vẻ mỉa mai, liền hỏi:
- Vậy Bùi Tiểu Kiếm cho biết ý kiến.
- Xin minh chủ cùng anh em đồng chí tha cho đệ cái tội hay cười.
Nhưng lời bàn của Song Văn làm cho đệ không nhịn cười được. Mỹ tự là Song Văn,
thì thực là xứng đáng với cái tính nhút nhát của con nhà văn ấy. Nhưng này bác
Song Văn, bác bảo quân Tây Sơn mãnh liệt, là quân Tây Sơn nào vậy? Nếu quân Tây
Sơn của Quang Huệ thì ngày nay còn đâu nữa mà đáng sợ? Mà nếu quân Tây Sơn của
Quang Toản, của Bùi Đắc Tuyên thì lại càng không đáng sợ lắ. Nhiều mà làm gì,
quân ô hợp thì nhiều mà làm gì?
Hoàng Cân cũng chẳng vừa, mỉm cười đáp luôn:
- Nhưng nào phải quân ô hợp. Ai bảo Bùi quân rằng đó là quân
ô hợp?
- Tôi bảo.
Lê Báo đứng dậy nói tiếp:
- Tôi cũng nói thế. Đứa nào có giỏi thì cãi đi.
Sợ mấy người kia lớn tiếng quá, hoá đánh lộn nhau, bất đắc dĩ
Quang Ngọc phải rút thanh bảo kiếm ra đứng lên nói:
- Ai làm mất trật tự cuộc đàm phán này hãy trông lưỡi kiếm
đây.
Phạm Thái cũng đứng lên phân giải:
- Cả hai phái chủ chiến, chủ hoà đều có lý. Vì ta nên cất
quân lắm chứ, chẳng thế, ta họp nhau để làm gì nửa? Nhưng trước khi cất quân,
ta hãy xem xét, so sánh tình thế bên ta với bên địch đã nào. Cứ kể nghe minh chủ,
nghe đảng trưởng của ta đọc bảng thống kê ban nãy thì ta ở vào cảnh trứng chọi
với đá, thực đấy. Nhưng tôi hỏi anh em, liệu quân Tây Sơn có đem toàn lực ra má
chống với ta được không?
Không thấy ai trả lời, Phạm Thái quay lại hỏi Hoàng Cân:
- Đại huynh đã biết tình thế quân Tây Sơn đấy chứ?
Hoàng Cân ngượng nghịu cúi đầu đáp khẽ:
- Chưa!
- Thế Bùi đại huynh?... Cũng chưa?... Vậy thì cãi lý với nhau
làm gì? Thiết tưởng muốn biết nên đánh hay chưa nên đánh, thì ít ra cũng biết
tình thế bên địch đã Vậy đệ xin giúp nhị vị đại huynh điều ấy, vì nhờ trời đệ
biết.
Mọi người đều nhìn Phạm Thái, tỏ ý kính phục. Chàng ung dung
nói tiếp:
- Kẻ cừu địch ghê gớm nhất của Tây Sơn cố nhiên không phải là
bọn ta (chàng mỉm cười) cùng là bọn Lê thần nghĩa dũng. Cũng không phải ở Bắc tới,
vì Tây Sơn xưng thần với nhà Thanh rồi. Nhưng cò phía Nam? Hẳn anh em đã biết
phía Nam có Nguyễn ánh là tay chẳng vừa, càng thua càng hăng.
"Mười năm trước đây khi còn Nguyễn Huệ, Nguyễn ánh thua
trận không còn mảnh giáp chạy trốn sang Xiêm. Thế mà chỉ hai năm sau, năm Đinh
Vị, đã có đủ sức về lấy thành Gia Định rồi. Ngày nay toàn đất Gia Định rộng bằng
mấy trấn Bắc Hà, đã lọt vào tay Nguyễn ánh. Không những thế, Nguyễn ánh lại còn
mộ binh lính rất kíp cùng là giao thông với một nước lớn nào đó ở phương tây,
luôn luôn đem chiến thuyền, đến đánh phá Qui Nhơn. Hiện giờ, hai bên giữ nhau
găng lắ, mà cũng chưa biết bên nào thắng bên nào bại. Vậy thì cái sức mạnh của
Tây Sơn ở ngoài Bắc này ta không lấy gì làm sợ.
Lê Báo vui mừng reo lớn:
- Vâng có thế.
- Anh em đã biết tình thế bên địch ra sao, vậy tôi bàn thế
này: Một mặt ta cứ sửa soạn binh khí mộ thêm đảng viên; một mặt ta ra công dò
la tin tức bên địch: hễ khi nào bị Nguyễn ánh đánh cho đại bại ở phía Nam, là
ta khởi sự. Hơn nữa, xin cho người vào Nam hẹn Nguyễn ánh họp sức cùng đánh,
thì thiết tưởng việc lớn làm gì chẳng xong.
Có tiến ai bẻ:
- Nhưng lúc bấy giờ trừ được cái nạn Nguyễn kia biết đâu lại
không bị cái nạn Nguyễn nọ?
Hồi 14
Cái Trống Lớn
Quang Ngọc quay ra nhìn rồi vui cười nói:
- Trời ơi, xuýt nữa tôi quên bẵng thân vương.
Ngưòi vừa bắt bẻ Phạm Thái là Trịnh Đán con thứ Trịnh Bồng.
Sau khi Trịnh Bồng rời bỏ chùa Long Tiên núi Chúc Sơn để về tranh nhau ngôi
chúa với Trịnh Lệ, giết các chi nhánh họ Trịnh trốn tránh trong hạt Chương Đức,
đán mới qua sông Nhị Hà lánh sang trấn Kinh Bắc đến tu ở một ngôi chùa nhỏ tại
làng Phú Cẩm. Sau nhờ có Phạm Thái giới thiệu. Trịnh đán xin nhập đảng Tiêu
Sơn.
- Xin thân vương cho biết tôn ý.
Trịnh Đán hắng dặn hai ba lần rồi nói:
- Nay không còn phải lúc bàn về lịch sử, việc gì đã qua là đã
qua, mà việc gì...
Lê Báo vốn không ưa họ Trịnh, riễu cợt nói tiếp:
- Mà việc gì chưa đến là chưa đến.
Quang Ngọc quắc mắt, mắng:
- Lê hiền đệ coi thường lệnh của ta thực. Đây không phải là
nơi để cho ai nói đùa hết.
Rồi ý chừng muốn tránh sự phá ngang của Lê Báo, Quang Ngọc bắt
chàng ra ngay sân chùa để ăn năn tột lỗi... Nhìn thanh bảo kiếm rung rung ở tay
ông đảng trưởng oai nghiêm, Lê Báo không dám trái lệnh, cúi đầu, thong thả đứng
dậy đi ra.
- Xin thân vương tha thứ cho cái tính lỗ mãng của xá đệ.
Trịnh Đán mỉm cười:
- Những bực anh hùng ái quốc thường có tính nóng nẩy như vậy.
Có hề gì điều ấy, quí hồ ai ai cũng một lòng yêu nước là được rồi. Tôi nói thế
là vì tôi nhớ tới những trang lịch sử của ta: Không có lòng yêu nước thương dân
mà chỉ nghĩ đến quyền lợi của một mình mình, của một đảng mình, thời dẫu có lên
làm vua chúa nữa cũng chẳng ra gì, huống chi nhiều khi còn phạm thêm cái tội rước
voi về giầy mo...
Ngừng một lát đưa mắt nhìn hai hàng tráng sĩ Trịnh Đán nói tiếp:
- Đấy anh em ngẫm mà xem. Họ Hồ thấy nhà Trần hèn yếu liền cướp
ngôi. Nếu nhà Trần biết mình không đủ sức trị dân nữa mà chịu đi, thì có xong
không. Lại không thế. Lại đi rước quân Minh về. Khốn nạn! Chỉ trông cậy vào người,
để chiếm đoạt giang san chẳng coi dân nước ra gì, để đến nỗi trong mười năm,
trăm họ bị giầy xéo. Khác giống thì ai người ta thương hại mình kia chứ!
"Gần đây, vì việc lập chúa, quận Huy bị giết. Giá vua
chúa cùng quần thần biết tìm mưu kế mà trừ bọn kiêu binh quá hống hách kia đi,
thì rồi cũng êm. Khốn nỗi họ lại chia ra đảng phái, họ chỉ nghĩ đến thù riêng của
họ. Rồi tên Chỉnh nham hiểm, phản nghịch kia vào Nam rước ngay được anh em Tây
Sơn ra để định trả thù cho thầy mình là quận Huy. Họ trả thù họ đấy? Họ chặt đầu
mình, rõ đáng kiếp, họ cướp lấy nước mình, đuổi vua chúa mình đi.
Đán hắng dặng rồi lại nói:
- Vậy anh em ta trông đó làm gương, chỉ nên tin ở sức mình là
hơn. Nếu mình chưa đủ sức thì hãy đợi. Mà liệu không bao giờ đủ sức thì thôi đi
đừng kháng cứ người ta nữa.
"Chứ đi rước kẻ thù nọ về đánh kẻ thù kia thì kẻ nào mạnh
hơn nó chiếm lấy nước, mà vua chúa mình vẫn hoàn không có chỗ nương thân.
"Không những thế, dân gian lại còn bị lầm than nữa là
khác. Tôi nói tóm: Ta chỉ nên trông cậy vào sức ta, chứ đừng tưởng mong nhờ ai
hết. Tôi đã nói mấy lời thô thiển, xin minh chủ cùng anh em lượng xét".
Phạm Thái đứng dậy quay về phía Quang Ngọc:
- Xin đảng trưởng cho phép ngu đệ đáp thân vương một câu:
Thưa vương, lời bàn của thân vương rất đích đáng. Nhưng ta có mong nhờ hẳn vào
ai đâu. Ta chỉ lợi dụng sự cạnh tranh của hai bên mà thôi.
Sau khi đã bàn bạc cùng nhau đủ các lẽ, sau khi anh em đã xin
đảng trưởng cho phép Lê Báo lại vào dự nghị, thì kế hoạch của đảng Tiêu Sơn định
đoạt như thế này:
Một là cử những nhà sư có tài biện luận giả danh đi khuyên
giáo khắp các trấn để truyền bá chủ nghĩa phò Lê và quyên tiền, rủ người vào đảng.
Hai là chọn một thuyết khách cho vào Gia Đinh hội nghị với
Nguyễn Vương, hứa sẽ chờ dịp tốt tiếp ứng khởi binh để cùng phá Tây Sơn mà tôn
phò nhà Lê.
Ba là hơp nhất với đảng "Lê thần nghĩa dũng", đảng
trưởng đảng ấy hình như Đào Phùng hiện đương trốn tránh và bị tróc nã.
Quang Ngọc vừa bàn được ba điều, bỗng ngừng bặt, ngoài sân
chùa có tiếng ngựa hí và tiếng người ồn ào:
- Biến rồi!
Lê Báo rút kiếm đứng dậy:
- Để tôi ra xem...
Phạm Thái cũng lạnh lùng đứng dậy đi theo rồi ghé mắt nhòm
qua khe cửa.
Bỗng chàng phì cười:
- Tưởng gì, chứ một anh ky binh vào kia thì để một mình tôi
ra cũng đủ rồi.
- Nhưng cứ nên phòng bị cẩn thận thì hơn, biết đâu nó không
có phục binh.
Giữa lúc ấy, người khách lạ đi lại gần yên lặng dụi tắt bó đuốc
cầm ở tay, (vì trời tối đã lâu) rồi gọi cửa:
- A di đà phật! Ngu muội đến dự lễ.
Phạm Thái vui mừng mở mạnh cánh cửa ra nói:
- Trời ơi! Hiền tỉ đến trễ quá!
- Nhị Nương xin chịu tội. Nhưng có việc khẩn bách, nguy kịch
lắm.
Mọi người đều nhớn nhác hỏi:
- Việc gì thế? Việc gì mà dữ dội thế?
- Hoàng Phi.
- Trời ơi! Sao? Lê hoàng phi sao?
- Bị bắt?
- Bị giết?
- Bây giờ đâu?
Nhị Nương để cho ai nấy hỏi xong, rồi thong thả nói:
- Cũng chưa rõ rồi ra sao. Chỉ biết trong lúc bí, ngu muội dấu
hoàng phi vào...
Nhị Nương đưa mắt nhìn mọi người, như sợ trong đám có lẫn một
vài thám tử của bên địch. Quang Ngọc vội đỡ lời:
- Hiền muội cứ nói, không lo ngại. Anh em trong đảng Tiêu Sơn
chúng ta toàn là bậc anh hùng hảo hán cả.
- Vậy ngu muội giấu hoàng phi ở trong đền Phú Mẫn.
- Đền thờ ông Nghè phải không?
- Vâng.
Phạm Thái bỗng phá lên nói:
- Khá đấy! Tôi biết hiền tỉ giấu hoàng phi ở đâu rồi.
Ai nấy đua nhau hỏi:
- Ở đâu? - Ở đâu?
Nhị Nương cũng hỏi:
- Vâng, ở đâu?
Phạm Thái vẫn cười:
- Trời ơi! Chị tôi giỏi quá... Ở trong cái trống chứ gì?
Tuy vậy vẫn chưa ai hiểu. Quang Ngọc liền bảo Nhị Nương thuật
lại đầu đuôi, thì câu chuyện như thế này:
Mấy hôm trước có một người thiếu nữ ở phố Từ Sơn đến chùa Ngô
Xá xin làm tiểu Người ấy trông vẻ mặt sáng sủa nhanh nhẹn và ăn nói lại dịu
dàng, nên sư trưởng yêu mến ngay. Hỏi sao đi tu, thì người ấy nói giận nhà, ép
gả vào nơi không xứng đáng, nên đành đến ăn mày cửa phật để quên hết nỗi trần
duyên.
Sư trưởng thương tình cho ở chùa, nhưng chưa nhận cho quy y.
Vả theo nhà chùa thì có khi sau mấy tháng, người xin tu hành mới được dự lễ thế
phát. Sư trưởng còn xem tính nết tín nữ có thực thành tâm mộ đạo và có chịu nổi
những sự khổ hạnh không đã.
Theo lệ thường, cách dăm hôm Nhị Nương lại quẩy gánh nồi đất
xuống chủa Ngô Xá thăm hoàng phi mà sư trưởng đặt cho cái đạo hiệu là Phổ Bác
thiền ni.
Vừa đến sân nhà chùa, nàng đã để ý ngay đến người thiếu nữ. Sống
cái đời giang hồ kiếm hiệp, lúc nào cũng như bị vây bọc ở giữa đám gian nguy, lừa
dối, Nhị Nương không thể không ngờ vực cử chỉ nhu mì và ngôn ngữ đo đắn của người
mới đến xin tu.
Nàng liền tìm cách làm quen với thiếu nữ, hỏi dò liên miên
chuyện nhà cửa, rồi mời mua cho vài cái nồi. Đoạn nàng gánh hàng ra ngay không
vào thăm hoàng phi nữa, vì như có tâm linh báo trước cho nàng biết sắp xảy ra
chuyện chẳng lành.
Nàng còn lang thang ở bờ ruộng thì đã thấy thiếu nữ ở chùa ra
đi. Đến gần, nàng vui cười chào hỏi:
- Sao cô lại về?
Người kia ấp úng đáp:
- Tôi xin phép sư trưởng về qua nhà... có tý việc cần...
Nhị Nương càng ngờ:
- Cô ở tận đâu?
- Tôi ở đàng kia.
Thiếu nữ vơ vẩn trỏ tay về phía trước mặt rồi hỏi:
- Còn cô, cô đi đâu?
- Ấy, tôi cũng đi lang thang, bán rong... Thế mà lắm hôm may
mắn gặp khách mua đông đáo để. Với lại tôi muốn cùng đi với cô cho vui.
Đến Từ Sơn, hai người chia tay nhau, Nhị Nương chỉ kịp vội
vàng quăng gánh nồi đất vào hàng Ngỗng, rồi lại chạy đi theo dò người thiếu nữ
bí mật kia ngay...
Thì thấy người ấy đi ngay vào phủ.
Thế là không do dự nữa, Nhị Nương quay về hàng Ngỗng cải nam
trang, nhảy phắt lên mình ngựa - con ngựa của một công tử thường ở trọ trong
hàng, mà công tử ấy cố nhiên là Nhị Nương.
Phóng nước đại một mạch về tới chùa Linh Quang làng Ngô Xá,
Nhị Nương quấn quýt hỏi:
- Hoàng phi đâu? Hoàng phi đâu?
Sư trưởng hỏi lại:
- Phổ Bác thiền ni ấy ư?
- Chứ còn ai nữa! Mau mau, nguy đến nơi rồi!
Vừa nói, nàng vừa chạy thẳng vào buồng hoàng phi xốc bà đặt
lên mình ngựa ra roi. Đến chợ Phú mẫn quay đầu trông lại thì ở gần lối rẽ vào
làng Ngô Xá, cát bụi bay mù mịt. Nàng lền xuống ngựa dẫn hoàng phi vào ẩn trong
đền ông Nghè bên cạnh chợ.
Phạm Thái nghe Nhị Nương thuật đến đấy, ngắt lời:
- Vậy hiền tỉ giấu hoàng phi vào trong lòng trống rồi chứ?
- Vâng, tôi chợt nhớ một lần trước mặt tôi, hiền đệ đã mở cái
cửa nách ở tang trống để chui vào trong giấu những giây má quan trọng.
Song Văn kinh ngạc hỏi:
- Giấu được người vào trong lòng trống, thì hẳn cái trống ấy
to lắm.
Quang Ngọc đáp:
- Phải, to lắm. Hoàng quân không nghe nói đến cái trống thờ
ông Nghè bao giờ?
- Thưa không.
- Cái trống ấy, trực kính bề mặt đo được đến hơn ba thước mà
bề cao đến một ngũ rười, nguyên là của hoàng đé ban thờ ông Nghè không biết từ
đời nào, vì chữ khắc ở tang lâu năm đã mòn, nhẵn thín, mà người làng Phú Mẫn
Sơn lại có tới bốn, năm lần rồi.. Nhưng hãy nói đến việc cứu bà hoàng phi đã.
Phạm Thái!
- Dạ.
- Việc này phải hiền đệ đi mới xong.
Lê Báo đứng lên nói:
- Thưa đảng trưởng, ngu đệ xin đi cho, cứ để Phạm đại huynh ở
lại mà bàn việc lớn Quang Ngọc biết tính Lê Báo hay nóng nẩy liền phỉnh một
câu:
- Kể Lê hiền đệ hay Phạm hiền đệ đi thì cũng thế thôi. Nhưng
Phỗ Chiêu đã thông thuộc miền ấy thì vẫn hơn. Vậy anh em hãy nghe: Chúng ta nên
thêm điều này vào ba điều ban nãy.
Nhị Nương hỏi:
- Ba điều gì thế?
- Hiền muội đến trễ nên không biết. Nhưng không sao. Hãy bàn
đến việc cần kíp hơn đã. Ba điều trên kia rồi sau thuật cho Nhị Nương nghe. Bây
giờ Nhị Nương cùng Phạm Thái hãy đến ngay Phú Mẫn cứu Lê hoàng phi. Còn điều thứ
tu ta nói đó là: Cứu được hoàng phi thoát nán, Phạm Thái phải đưa ngay ngài lên
Lạng Sơn. ở đó bọn trung thần nhà Lê rất đông, mà biên giới, có sao trốn sang Tầu
cũng dễ. Chứ ở vùng này, họ nhẵn mặt ngài rồi, thực khó lòng mà trốn tránh, ẩn
núp được lâu, thế nào cũng đến bị bắt mất thôi.
Phạm Thái cúi đầu lĩnh mệnh rồi yên lặng cùng Nhị Nương ra
đi. Chư tăng cũng giải tán, ai về chùa nấy, để sắp sửa theo đuổi công việc truyền
bá chủ nghĩa phò Lê.
Hồi 15
Ai Lên Xứ Lạng Cùng Anh
Một buổi sáng mùa xuân, trên con đường Kinh Bắc, Lạng Sơn.
Bấy giờ còn sớm lắm, nên đường rất vắng và hai bên ruộng dân
quê ra làm việc đồng áng cũng chưa đông.
Đạp cỏ sương, bốn người lữ khách rảo bước: Hai nhà sư, một
công tử và một chú tiểu quẩy hành lý theo sau. Trong hai nhà sư thì một người lực
lưỡng, vạm vỡ, một người bé nhỏ xinh xắn, mắt sáng, môi son, lông mày lá liễu.
Thực là một trang nam nhi tuấn tú. Tuy về dung nhan có kém nhà sư ấy đôi chút,
chàng công tử cũng là người rất đẹp trai, với cặp mắt phượng long lanh, đôi
lông mày bán nguyệt với hai má trắng hồng và cái miệng cười có duyên.
Sự đó chẳng có chi lạ vì nhà sư và công tử chỉ là hai thiếu
phụ cải nam trang:
Lê hoàng phi và Nhị Nương cùng với Phạm Thái lên trấn Lạng
Sơn.
Tối hôm trước, lúc Phạm Thái và Nhị Nương về tới Phú Mẫn thì
đêm đã khuya, các cửa đều đã đóng kín. Nhị Nương đằng hắng hai tiếng ra hiệu. Tức
thì một người núp trên gác tam bảo trèo xuống, thuật lại cho nàng biết rằng sau
khi lục lọi khắp các chùa, các đền quanh vùng và không thấy gì, quan quân đã
cùng Thị Lợi - tên người con gái đi báo - kéo nhau về Từ Sơn. Phạm Thái nghe
nói vui mừng, đến một khe cánh cửa lách tay vào khẽ nâng lên. Cánh cửa từ từ mở
ra.
Chàng liền cùng Nhị Nương bước vào đền, sau khi thám tử đã
leo lên gác tam quan đễ hễ thấy động thì ra hiệu báo.
Trong đền im vắng và tối om. Le lói trên bàn thờ một cây đèn
dầu nam, ngọn nhỏ bằng hạt thóc. Phạm Thái lại khêu cao bấc lên, rồi lần vào hậu
cung tìm một cây sáp mà chàng vẫn giấu ở đó để khi nào cần đến thì dùng.
Một làn ánh sáng chiếu rọi mấy gian đền. Không một tiếng động
nhỏ, không một tiếng mọt kêu. Lặng lẽ như chứa bao nhiêu bí mật của ban đêm.
Phạm Thái nhìn Nhị Nương:
- Quái! Hình như hoàng phi không có đây.
Nhị Nương không đáp, lo lắng đi lại gần cái trống khổng lổ đặt
trên sàn và chiếm vừa chật một gian đền rộng. Nàng gõ vào tang trống. Không
nghe thấy tiếng trả lời Hai người kinh hoảng nhìn nhau: Rồi Phạm Thái quả quyết
mở cái cửa nách bí mật ở tang trống và ghé vào gọi:
- Tâu hoàng phi, tâu lệnh bà!
Vẫn không có tiếng trả lời. Chàng liền đưa cây sáp vào phía
trong nhìn kỹ một lượt. Chỉ thấy ngỗn ngang những giấy tờ. Chàng quay bảo Nhị
Nương:
- Nguy rồi, hiền tỷ ạ, hoàng phi không có ở trong.
Hai người còn nhớn nhác nhìn quanh thì hoàng phi đã đến bên.
Phạm Thái và Nhị Nương phục xuống tạ tội. Hoàng phi đỡ dậy mà rằng:
- Từ nay hai em đừng lạy như vậy. Chị không muốn thế. Hai em
coi chị đã là quá lắm rồi, chị đã ơn lắm rồi. Sung sướng gì mà còn rở rói lễ
vua tôi, hai em làm chị tủi nhục lắm.
Nhị Nương sụt sịt đáp lại:
- Để lệnh bà vất vả, gian truân thực là tội ở lũ bất trung
này...
- Chị đã bảo không được nói đến vua tôi vội mà lại. Chờ khi
nào lấy lại được nước hãy hay, chứ bây giờ đang lúc trốn tránh mà các em cứ kêu
chị là hoàng phi với lệnh bà lỡ ra khổ đến chị mà lụy đến cả các em.
Nhị Nương hỏi hoàng phi sao không nằm ở trong lòng trống, thì
bà đáp lại rằng ra ngoài cho được khoan khoái, vì ở trong ấy khó thở lắm. Không
ngờ vừa ra được một lúc thì nghe có tiếng người mở cửa, bà vội núp ở sau một
cái cột giáp tường.
Rồi bà thuật lại cho hai người nghe việc khám xét lúc ban chiều:
- Ta nằm trong lòng trống, không dám thở mạnh. Nhị Nương đi
được một lát thì bọn họ đến, rầm rầm, rộ rộ, lục soát các nơi, bắt thủ từ mở cả
hậu cung ra coi.
Có hai người đứng tựa tang trống nói chuyện. Người nọ bảo người
kia: "Quái! rõ ràng có kẻ trông thấy chúng nó vào đây?" Người kia
đáp: "Thế này thì tức lắm nhỉ ? Vừa nói vừa đấm mạnh một cái vào mặt trống,
tiếng kêu inh tai, làm chị giật mình kinh hãi. Lúc quay ra người ấy nói: Hay
chúng nó ẩn trong này." Hắn lại đấm vào mặt trống một cái nữa mạnh hơn. Rồi
cả hai cùng cười phá lên. Đoạn, họ kéo nhau đi. Một lúc sau nghe thấy trong đền
yên tĩnh, chị mới hoàn hồn. Bây giờ thì ngủ được một giấc, người đã dễ chịu,
nhưng mà đói lắm, vì từ sáng đến giờ chưa có một hột cơm trong bụng.
- Tâu lệnh bà...
- Thưa chị!
- Thưa chị, em đã nghĩ đến điều ấy. Đây, oản chuối mời chị
xơi. Em lại đem theo cả một thứ này mà chị không ngờ.
Vừa nói, Nhị Nương vừa mở khăn gói nâu ra. Trong có mấy bộ quần
áo của sư ông, và đủ các đồ phụ thuộc. Còn oản chuối, bánh gai thì có rất nhiều.
Ba người cùng ngồi ăn. Đoạn, Nhị Nương mời hoàng phi đi nghỉ
một lát để lấy sức, vì sắp sửa phải dùng sức. Hoàng Phi hỏi tại sao, thì Phạm
Thái nói chàng lĩnh mệnh đảng trưởng đưa bà lên Lạng Sơn.
- Ồ! lên được Lạng Sơn thì dẫu chết chị cũng lấy làm sung sướng.
Ngày theo quân vương sang Tàu, đến đây chị lạc đường. Chị vẫn ao ước được sang
Trung Quốc với quân vương. Bây giờ hai em lại đưa chị lên Lạng thì sau này chị
có thể trốn sang Tàu được. Ơn ấy chị biết lấy gì đền lại hai em cho xứng đáng.
- Lạy chị, chị nói chi ân nghĩa cho em thêm tủi nhục. Nhưng
chỉ một mình Phạm xá đệ được lệnh hộ giá mà thôi.
Hoàng Phi tỏ vẻ kinh ngạc:
- Em không đi! Như thế sao tiện?
Chính Phạm Thái cũng nghĩ đến chỗ không tiện ấy, vì ngắm thấy
hoàng phi vừa trẻ vừa đẹp quá đỗi, mà mình chỉ là một nhà sư tạm thời, hơn nữa,
một tráng sĩ dội lốt thầy tu. Vẫn biết không khi nào mình phạm vào tội bất
chính được, nhưng không tiện thì vẫn là không tiện. Chàng liền nói:
- Tâu lệnh bà, lệnh bà dạy chí phải.
Rồi quay sang bảo Nhị Nương:
- Hiền tỷ nên đi theo hầu lệnh bà.
- Nhưng chưa có thượng lệnh.
- Được hiền tỷ cứ ở lại đây nghỉ một lát với lệnh bà cho đỡ mệt.
Ngu đệ đi Tiêu Sơn cho. Chỉ chốc nữa là ngu đệ trở về.
Giữa lúc Phạm Thái sắp nhảy ngựa để đi Tiêu Sơn một chú tiểu
tiến vào đền, vai quẩy một gánh hành lý.
Hỏi đến có việc gì thì chú nói Phổ Tỉnh thiền sư cho lại giục
Phổ Chiêu cùng Nhị Nương phải ngay đêm nay lên đường đưa hoàng phi tới Lạng
Sơn.
Phạm Thái cả mừng, đua chú tiểu vào trong đền bái yết hoàng
phi. Nhị Nương bảo Phạm Thái:
- Đảng trưởng nghĩ chu đáo đến hết mọi việc.
- Truyện! Chẳng thế mà lại là đảng trưởng!
Thế là ngay lúc ấy, hoàng phi và ba người khởi hành.
Đi được một lát thì gà ở các làng bắt đầu gáy sáng và khi đến
cầu Dọi thì mặt trời mới mọc, ánh sáng đỏ rực trên đỉnh dẫy núi Neo. Hoàng phi
kêu mỏi, vì bà không quwn đi xa. Nhị Nương đỡ ba vào nghĩ trong cầu và mỉm cười
nói:
- Sư ông cố gượng đi bộ đến sông Cầu, sang bên Đạo Ngạn đã có
ngựa.
Phạm Thái cũng khẽ nói:
- Sang đến bên kia sông thì không cần phòng bị lắm.
Ở trong cầu đã có hai người buôn vải ngồi nghỉ. Một người
chào hỏi:
- A di đà phật! Chư tăng ở đâu đến đây? Có phải ở mạn Yên Phụ
không?
Phạm Thái đáp:
- A di đà phật! Bần tăng ở nơi xa, qua vùng này khuyên giáo để
chữa chùa.
Người kia lại hỏi:
- Vậy nhà sư không biết hôm qua ở chợ Phù Mẫn có xẫy ra sự
gì?
- Không.
- Nghe đâu tối hôm qua quan quân đánh đuổi một toán cướp ở đấy.
Hôm nay có lẽ thế nào quan hiệp trấn cũng đem binh lính về tróc nã.
- Thế à? Ghê sợ nhỉ!
Ba người đưa mắt nhìn nhau, lo sợ.
Phạm Thái lại hỏi:
- Sao bác biết?
- Ấy, tối hôm qua chúng tôi ngủ ở nhà trọ nghe người ta nói
chuyện với nhau như thế, chả biết có đích xác không?
- Chào bác ngồi nghỉ, chúng tôi đi thôi.
Phạm Thái đứng dậy, hoàng phi và Nhị Nương cũng đứng dậy
theo. Rồi, tuy còn mỏi mệt, ai nấy đều cố dấn bước cho mau thoát khỏi nơi nguy
hiểm. Và họ rẽ đường tắt đến bến Cổ mễ, chứ không đi qua thành Kinh Bắc.
Đến nơi, Phạm Thái trông sang bờ sông bên kia thì thầm bảo
hoàng phi và Nhị Nương :
- Đã có ngựa chờ ở Đạo Ngạn. Mà từ đó trở lên Lạng Sơn, việc
canh phòng không ngặt quá đâu.
Nhị Nương đáp:
- Chắc người ta chả ngờ đâu hoàng phi đã rời hạt Từ Sơn, Đông
Ngàn.
Bỗng có tiếng gọi:
- Mấy nhà sư sang đò phải không?
Tưởng là lái thuyền, Phạm Thái trả lời liền:
- Phải, bác có thuyền cho chúng tôi thuê chăng?
Người kia gắt:
- Ai là lái đò? Muốn sang ngang hãy vào trình cậu tuần đã.
hoàng phi còn đương ngơ ngác nhìn Phạm Thái thì người ấy đã
nói tiếp:
- Đễ cậu khám hành lý. Lệnh trên truyền xuống ngặt lắm, các
người phải biết.
- Nhưng chúng tôi toàn là kẻ tu hành.
- Mặc! lôi thôi mãi. Lại mau!
Chẳng đừng được, bốn người phải theo chú lính tới một cái đồn
nhỏ, ngoài cổng treo một cái biển lớn đề ba chữ "Tuần Giang Nha." Thấy
hoàng phi có vẻ mặt sợ hãi, Phạm Thái khẻ bảo:
- Không lo. Lệ thường vẫn khám xét như thế.
Một người ở trong đồn đi ra. Tên lính lễ phép nói:
- Bẩm cậu, mấy người này qua sông vào xin phép cậu.
"Cậu là người đường trong, trước làm lính theo vua Tây
Sơn ra Bắc, nay được bổ chứx tuần giang đội trưởng để canh phòng thuyền bè gian
phi. Những nơi đồn lũy quan trọng cẩn mật như thế, nhà Tây Sơn thường giao cho
người Quảng Nam coi giữ, cũng như trước kia họ Trịnh kén ưu binh ở tỉnh Nghệ An
dùng làm quận túc vệ.
Sau khi đã khám xét khăn gói, tay nải, cậu tuần đã nhìn thấy
Nhị Nương:
- Thầy này cũng sang sông?
- Thưa vâng.
- Vậy tín bài đâu đưa xem?
Hoàng phi tái người. Nhưng Nhị Nương rất bình tỉnh thản
nhiên, thò tay vào bọc rút ra một cái thẻ đưa cho viên đội trưởng mà nói rằng:
- Thưa đây.
Viên kia đọc:
- Nguyễn Đức Minh, người làng Đông Phủ, huyện Đông Ngàn, phải
không?
- Thưa vâng ạ.
- Vậy cặp chỉ xem có đúng không?
Nhị Nương đưa bàn tay trắng trẻo, mềm mại cặp ngón trỏ và
ngón giữa và tờ giây.
- Thôi được rồi. Cho đi?
Ra đến ngoài hoàng phi hỏi Nhị Nương:
- Tín bài kiếm ở đâu thế?
- Phổ Bác nên cẩn thận hơn một chút. Sang bên kia sông đã hẵng
hay.
Rồi lẳng lặng bốn người cùng xuống thuyền sang ngang.
Hồi 16
Sông Nước
Thuyền ra tới giữa sông, Phạm Thái trợn mắt nhìn người lái
đò, trong lòng áy náy lo sợ. Vì giòng nước chảy xiết, đáng lẽ phải hết sức chèo
mau để vượt qua, thì người ấy chỉ giữ tay lái cho thuyền trôi xuôi.
- Ông lái!
- Dạ.
- Chúng tôi sang ngang kia mà.
- Phải, tôi biết. Nhưng quý hồ thuyền đậu vào bờ là được, chứ
gì?
Phạm Thái đoán chừng chú lái muốn sinh sự, giở thói bóc lột.
Chàng nghĩ thầm: "Nếu quả thế thì thằng cha này giỏi thực! Nhưng đến bọn
cướp ở bến đò Lũ, ta còn trị nổi, nữa là thứ mày! ..." Thuyền vẫn trôi
phăng phăng. Không những thế, thỉnh thoảng chú lái lại còn bẩy thêm một mái
chèo nữa...
- Ô kìa! Sao thế này?
Nghe hoàng phi nhớn nhác hỏi, người lái đò lễ phép đáp:
- Tâu lệnh bà, xin lệnh bà cứ yên lòng.
Ba người đưa mắt liếc nhau khiếp sợ, nguồi trơ như phỗng đá.
Bỗng Phạm Thái thò vào trong bọc rút thanh đoản đao. Thấy vậy, Nhị Nương cũng
tay trái cầm võ kiếm, tay phải nắm chuôi kiếm. Hoàng phi đăm đăm nhìn, không hiểu
sao kẻ kia lại dò biết được tung tích của mình... Nhưng người lái thuyền vẫn
bình tỉnh, thản nhiên.
- Nếu nhà ngươi không vẻ lái cho thuyền vào bờ, thì ta thề rằng
nhà ngươi không thể sống mà về được với vợ con tối nay.
Vừa nói, Phạm Thái vừa dữ tợn, quả quyết giơ đoản đao lên.
Người chở thuyền không đổi sắt mặt, buông mái chèo ra mà cười phá lên, khiến
thuyền không lái chồng chềnh ở giữa giòng sông:
- Phạm Thái giỏi đấy! Nhưng ta không có vợ, con hay chưa có vợ
con thì đúng hơn.
Nhị Nương và hoàng phi nhìn nhau kinh hãi Nhưng Phạm Thái yên
lặng tươi cười, tra đao vào vỏ giấu trong áo cà sa, rồi ôn tồn bảo người lái
đò:
- Không cần có thông minh gớm ghiếc mới đoán được rằng tôn
ông đây chẳng phải là một chú lái tầm thường. Vậy tôi xin hỏi: Tôn ông muốn gì?
Người lái đò vói vội lấy mái chèo giữ cho thuyền đi thẳng rồi
cười lớn mà đáp răng:
- Ta muốn biết Phạm Thái tức Phạm Phụng, tức Phổ Chiêu thiền
sư đã giết được bao nhiêu bạn đồng nghiệp của ta ở bến đò Kim Lũ?
Phạm Thái cũng cười:
- Nghĩa là tôn ông muốn trả thù cho bạn lục lâm chứ gì ? Bần
tăng đây xin sẵn lòng nghênh tiếp, nhưng...
- Nhưng sao?
- Nhưng bần tăng vẫn không tin như thế.
- Không tin cái gì kia chứ?
- Không tin rằng tôn ông theo nghề trộm cướp. Bần tăng đoán
già rằng, tôn ông phi là thám tử của triều đình, thì là một tay hảo hán, sống một
đời tự do ngang dọc. Nếu thực tôn ông là thám tử, thì bần tăng thương hại cho
cây đoản đao của bần tăng quá, vì thế nào cũng đâm trúng họng tôn ông, nhất tôn
ông lại biết lai lịch của bần tăng đây, mà xin thú thực cùng tôn ông, xưa nay
chưa có kẻ thù nào biết lai lịch của bần tăng mà thoát chết được. Còn như nếu
tôn ông là tay anh hùng hảo hán thì xin mau mau cho biết đại danh, để bần tăng
thờ là quý hữu.
Hoàng phi nói thầm bảo Nhị Nương:
- Quái! Chị trông người này không quen nhưng nghe tiếng nói,
thì hình như đã gặp nhiều lần.
Người lái đò vẫn cười, rồi hất hàm hỏi Phạm Thái:
- Biết bơi không?
- Ái chà! Khá nhỉ! Ý chừng chú lái có dã tâm muốn chọc thủng
thuyền chăng?
Ta can, vì nhà ngươi bị dìm chết ở đáy sông mất.
- Nhưng còn hoàng phi?
- Đã có công tử đây phò giá. Ngươi không cần phải lo hộ.
Lúc bấy giờ thuyền trôi đã được một quãng xa. Người lái đò liền
bắt mạnh cho mũi thuyền rạt vào vãi sậy bên vệ sông. Nhị Nương rút phắt kiếm ra
thét:
- Sao lại đưa chúng ta vào đây?
Người kia vẫn không đổi sắt mặt, ôn tồn nói:
- Tra kiếm vào vỏ!
Nhị Nương kinh ngạc, nhìn Phạm Thái, chàng bảo:
- Cứ tra kiếm vào vỏ xem hắn làm trò gì.
Người lái đò lẳng lặng cắm sào, rồi sụp xuống lạy hoàng phi:
- Đào Phùng xin khấu đầu làm lễ.
Hoàng Phi vui mừng không kịp giữ gìn:
- Trời ơi! em Đào Phùng! Thảo nào chị cứ ngờ ngợ. Nhưng mặt
mũi em gớm ghiếc thế kia?
Đào Phùng quay ra hỏi Phạm Thái:
- Đạo hiệu của hoàng phi là gì?
- Phổ Bác thiền sư.
- Bạch thiền sư, chẳng có gì lạ hết. Nhân được nếm mùi kìm
chín ở phủ Từ Sơn trong ít lâu Phùng này đã nhận thấy ích lợi của thứ hình phạt
ấy...
Phạm Thái vội kêu:
- Trời ơi! Dễ thường Đào quân dùng kìm đốt xém da mặt chăng?
- Thưa Phạm đại huynh, khi người ta làm một tôi trung thì người
ta không cần có bộ mặt đẹp cho lắm. Huống chi mặt kẻ ngu si này lại bị bên địch
biết nhẵn. Vậy thì có ngần ngại gì mà không vạc nó đi. Bây giờ Đào Phùng không
còn là Đào Phùng nữa, mà chỉ là Nguyễn Phác làm nghề chở thuyền.
Ba người lấy làm khiếp phục cái cách trá hình phi thường của
Đào Phùng, hoàng phi hỏi:
- Nhưng cớ sao, ban nãy em làm cho chúng ta lo sợ vì những
ngôn ngữ, cử chỉ khả nghi của em?
Đào Phùng cười:
- Em xin lỗi thiền sư... Đó là em thử xem Phạm Thái có thực
là đấng anh hùng như người ta đồn đại không? Nếu không thì...
- Nều không thì sao?
- Thì em bắt Phạm Thái ở lại, để em tự đảm nhận lấy cái trọng
trách phò giá hoàng phi lên trấn Lạng.
Phạm Thái kinh ngạc:
- Sao Đào quân biết ngu đệ phò giá hoàng phi lên trấn Lạng?
- Làm một đảng trưởng thì cái gì mà không phải biết? Ta còn
biết nhiều.
Chẳng hạn Quang Ngọc muốn đảng ta hợp nhất với đảng Tiêu Sơn.
Nhưng ta thiết tưởng cứ để hai đảng, mà cùng hành động thì vẫn lợi hơn.
Phạm Thái đăm đăm nhìn Đào Phùng.
- Có lẽ lắm. Nhưng ngu đệ xin khuyên hiền hữu hãy để việc ấy
vào một bên.
- Bây giờ thì ta yên tâm rồi. Phạm quân có thể đương nổi việc,
nhất lại có Nhị Nương trợ lực.
Nhị Nương cười ròn như nắc nẻ:
- Ông mà không phải là Đào Phùng thì tôi quyết tặng ông một
lưỡi kiếm cho ông lộn cổ xuống sông, hết kiếp. Nhưng bây giờ thì ông đưa chúng
tôi đến bến chứ?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét