Tiêu Sơn tráng sĩ 2
Hồi 17
Một Nhà Ẩn Sĩ
Hoàng phi, Phạm Thái và Nhị Nương ở lại nhà Đào Phùng hai
hôm. Trong hai hôm ấy, mấy người luôn luôn nói chuyện với nhau về binh thư và
chiến lược. Có khi lại rủ nhau lại ngọn núi Yên Xá để đấu võ. Đào Phùng lấy làm
phục võ nghệ của Phạm Thái và Nhị Nương lắm.
Hôm thứ ba, bốn người từ biệt lên đường. Đào Phùng nói nên đi
tắt đến Hoàng Mai, rồi từ Hoàng Mai đi tắt lên Lạng Thượng. Nhưng bốn con ngựa
lại đã để chờ sẵn ở Đạo Ngạn. Đào Phùng liền cùng Phạm Thái và chú tiểu chở
thuyền ngược lên đó, để đem ngựa về, một mình Nhị Nương ở nhà hộ vệ hoàng phi.
Vào buổi trưa ba người trở về, mỗi người cười một con ngựa,
Phạm Thái kèm thêm một con.
Nhưng khi đi đến sân, thì một cảnh tưởng ghê gớm bày ra trước
mắt: bốn cái thây lực lưỡng nằm sóng sượt ở bên mấy gốc thông. Phạm Thái hốt
hoãng:
- Hoàng phi đâu? Thôi chết rồi!
- Hoàng phi ở đây!
Nghe tiếng Nhị Nương đáp lại Phạm Thái mới hết lo, chạy vội
vào trong nhà, nói với hoàng phi:
- Để lệnh bà khiếp sợ, thực tội hạ thần to lắm.
Hoàng phi cau mày:
- Chỉ vì các em không nghe lời chị, cứ luôn miệng lệnh bà, với
tâu, với hạ thần nên mới xảy ra cái hoạ tày trời này. May mà có Nhị Nương dấy,
chứ không thì cũng chưa biết chừng chị còn sống mà ngồi đây. Chỉ thương Đào
quân có bốn tên người nhà bị Nhị Nương giết mất cả... Rõ thật Đào quân làm ơn
nên oán...
Đào Phùng lại phục xuống đất khóc xin chịu tội. Xong chàng
quay ra hỏi Nhị Nương :
- Đầu đuôi câu chuyện ra sao, thưa quý nương?
Nhị Nương liền thuật lại cho hai người nghe:
- Mấy tên kia biết rằng trong bọn khách của chủ chúng nó có
bà hoàng phi.
Nhân thấy Đào Phùng, Phạm Thái ra đi, ở nhà chỉ còn hoàng phi
với một chàng công tử nhỏ, xinh xắn như con gái, chúng liền bàn cùng nhau ra
tay bắt nộp quan lĩnh thưởng. Chẳng ngờ chàng công tử bé nhỏ lại có võ nghệ cao
cường, chỉ đưa bốn mũi kiếm là bốn đứa hoá bốn cái thây ma.
Đào Phùng cười ha hả, nhưng tiếng cười có giấu nỗi buồn vô hạn:
- Thực đáng kiếp cho bốn thằng phản chủ? Chúng là bốn tên
thuyền chài, ngu đệ tuy dùng, nhưng mà cũng nơm nớp lo sợ, vì thế trong câu
truyện, khi có chúng đứng hầu, ngu đệ vẫn phải giữ gìn. Nhưng không biết sao
chúng nó lại hay rằng Phổ Bác thiền sư là hoàng phi?
Đào Phùng ngẫm nghĩ một lát, rồi như chợt hiểu, chạy lại soát
quần áo bốn đứa vừa bị giết thì trong hầu bao một thằng có một tờ giấy chữ đầy
những dấu son đỏ chói. Đào Phùng kêu:
- Đã biết ngay mà! Một tên thám tử.
Vừa nói, chàng vừa đạp mạnh vào cái xác, rồi gập tờ giấy bỏ
vào bọc.
Cả năm người cùng có vẻ lo lắng, suy nghĩ Hoàng phi nhìn xuống
chân đồi:
Con sông cầu lượn khác chảy về phía đông, giòng nườc lấp lánh
dưới ánh trời trưa. Bổng bà buông một tiếng thở dài, chán ngán.
Đào Phùng cúi đầu tạ tội:
- Để lệnh bà sợ hãi, kẻ hạ thần thực đáng chết.
Hoàng phi như không nghe thấy gì hết, cặp mắt tuôn hai giòng
lệ. Rồi bà thổn thức bảo Nhị Nương và Phạm Thái:
- Hay thôi, ta đừng đi Lạng Sơn nữa hai em ạ.
Nhị Nương an ủi:
- Tâu lệnh bà, không bao giờ ta nên nản lòng. Ta phải...
Không để cho Nhị Nương dứt câu, hoàng phi tiếp luôn:
- Vì, các em ạ, chị còn sống đến ngày nay là chị mong ước mai
sau được gặp hoàng đế... Nhưng hoàng đế thăng hà rồi các em ơi, thì chị còn sống
làm gì nữa, thà chị thác đi để dưới suối vàng được cùng hoàng đế tương kiến...
Bà bưng mặt nức nở khóc. Phạm Thái nói:
- Nhưng hoàng đế hiện còn sống, sao lệnh bà lại nói gở thế?
- Không, đích thực hoàng đế thăng hà rồi. Đêm hôm qua chị nằm
mộng thấy hoàng đế khóc mà bải chị rằng "ái khanh ơi, đôi ta ngày nay đã
âm dương cách biệt. Ta không hề oán giận điều gì, ví dù có ở dương thế ta cũng
chẳng hy vọng được cùng ái không hội ngộ." Rồi hoàng đế tả những cảnh khổ
sở, những nỗi gian nan, các em để chị chết cho được gặp mặt hoàng đế ở dưới cửu
tuyền, chứ chị sống thêm một ngày là thêm một ngày đầy đoạ ở dương gian...
Đào Phùng, Phạm Thái và Nhị Nương xúm lại khuyên giải, lâu dần
hoàng phi cũng ngôi nguôi.
Nhị Nương nói:
- Vì lệnh bà tưởng nhớ hoàng thượng quá nên hoá mộng đó thôi.
chứ vừa có người ở bên Trung quốc về nước nói hoàng thượng hiện đóng ở Tràng An
chờ binh cứu viện của nhà Thanh.
Nhị Nương bịa đặt ra tin ấy, để yên lòng hoàng phi mà thôi. Kỳ
thực, các yếu nhân trong đảng Tiêu Sơn thừa biết rằng vua Chiêu Thống không chịu
nỗi những sự nhục nhã, những sự khinh mạnh của người Tàu đã chết rồi, chết theo
hoàng tử đã ba năm trước. Nếu trong các tờ hịch, các mật thư gửi cho nhau họ vẫn
còn dùng niên hiệu Chiêu Thống là chỉ cốt để khỏi náo động lòng các đảng viên
và nhân dân các nước đang mến tiếc nhà Lê. Vả họ cho rằng nước không thể một
ngày không vua được, mà vua Quang Toản nhà Tây Sơn thì họ nhất định không công
nhận là ông vua chính thức của nước Việt Nam. Vì vậy trong khi chưa tìm được một
người trong hoàng tộc để tôn lên ngôi hoàng đế, đảng Tiêu Sơn tạm phải coi như
vua Chiêu Thống hãy còn sống, để làm trụ thạch cho công cuộc khởi nghĩa của đảng
Phạm Thái bỗng dục:
- Tâu lệnh bà, bây giờ sang giờ Mùi rồi, ta phải đi kíp, thì
tối nay mới có thể tới Lạng Giang được.
Đào Phùng bàn:
- Lệnh bà nên nghỉ lại Hoàng Mai, sớm mai hãy lên Lạng Giang
thì hơn. Như thế lệnh bà đỡ nhọc mệt mà ngựa lại được nghỉ ngơi dưỡng sức.
Ai nấy còn đương suy nghĩ thì Đào Phùng lại nói luôn:
- Tôi xin có thư giới thiệu của Phạm hiền hữu, một nhà ẩn sĩ ở
Hoàng Mai tên là Phạm Quảng Văn. Người ấy đậu tiến sĩ về cuối đời Cảnh Hưng,
văn chương lỗi lạc, chỉ vì tính cương trực nên không được chúa Sâm trọng dụng.
Vả ông ta cũng không thích ra làm quan, bỏ về làng dạy học, lấy sự chơi núi
cao, sông rộng, uống rượn, ngâm thơ làm thú. Ngày bà hoàng phi họ Đặng mưu việc
phế lập muốn tìm vậy cánh cho Trịnh cán để chống nhau với Trịnh Khải, cũng đã
nghĩ đến ông Nghè trẻ tuổi ấy, mà đòi ông ta về triều, vì có ông Ngô thì Nhậm đậu
cùng khoa với ông ta tiến cử. Nhưng ông ta không ưa những sự âm mưu ám muội,
nên cáo ốm ở lỳ nhà Hiền hữu nên đến chơi ông ta, vì ông ta không những có văn
tài, mà về binh lược, ông ta cũng khá lắm. Khi xưa quận Nhưỡng đóng binh ở Hải
Dương cũng có mời ông ta đến tham nghị. Ông ta tấy Nhưỡng có tính phản trắc, biết
không làm nổi việc lớn nên vừa đến ông ta đã về ngay. Từ đó tới nay, ông ta
không nghĩ đến việc nước nữa, cho rằng vận nhà Lê đến thì mạt, dẫu có tài
Trương Lương, Gia Cát cũng không thễ cứu vãn nổi, nên đành chịu khoanh tay phục
tòng thiên mệnh mà thôi.
Phạm Thái thở dài bảo Đào Phùng:
- Người anh hùng cứu quốc khi nào lại chịu phục tòng số mệnh?
Chỉ biết một ciệc là hành động, hành động cho tới giờ cuối cùng... Tránh sự
gian nguy mà mình biết chắc chắn đương đợi mình, để được an nhàn ở một nơi dật
lạc, không bận trí đến việc đời, việc nước, hạng ấy người ta cho là bậc ẩn sĩ,
nhưng tôi, tôi chỉ cho là phường ích kỷ, ham sống, có đáng kể chi. Thưa hiền hữu,
tôi không phục Phạm Quảng Văn một chút nào.
- Nhưng, thưa hiền hữu Quảng Văn rất tự phụ thông phép tuoán
Thái ất. Ông ta bảo ông ta biết chắc chắn rằng vận nhà Lê hết rồi.
Phạm Thái cả cười đáp:
- Bây giờ giá Triệu Nghiêu Phụ tái sinh bảo tôi như thế, tôi
cũng không tin kia mà. Tài lực của đấng anh hùng phải cố đoạt nổi số mệnh. Bằng
không thì chết. Mà cái chết như thế còn có nghĩa lý hơn cái chết dần mòn của kẻ
ẩn sĩ trong xó tối.
- Những kẻ ẩn sĩ có đợi cái chết già ở nơi nhàn dật đâu? Họ
chỉ đợi thời mà thôi Nhị Nương yên lặng đứng nghe từ nãy tới giờ. Bỗng nàng mỉm
cười bảo Đào Phùng :
- Bậc hảo hán không bao giờ chịu đợi thời thế.
Phạm Thái và Đào Phùng cất tiếng cười vang:
- Khảng khái thay lời nói của quý nương!
Nhưng ai nấy ngừng bặt, vì vừa thoáng nhìn thấy hai má hoàng
phi đẫm lệ.
Chưa kịp khỏi duyên cớ thì bà đã lau nước mắt, buồn rầu nói:
- Nếu quả thực vận nhà Lê hết rồi, thì các em nên thôi đi, đừng
hành nữa mà mất công vô ích.
Phạm Thái cúi đầu đáp:
- Tâu lệnh bà đời kẻ tráng sĩ chỉ có một nghĩa là hành động.
Còn sự thành, bại cùng sự sống, chết, không nên để trí nghĩ quá.
Nhị Nương cũng nói:
- Vả lại, tâu lệnh bà, phép toán Thái ất đã lấy gì làm đúng.
Xin lệnh bà cứ vững lòng tin cậy cho.
Hoàng phi cười gượng:
- Chị thực kém em nhiều lắm. Vậy bây giờ ta lên đường thôi chứ?
Phạm Thái ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Tâu lệnh bà, đi Lạng Giang thì không kịp. Mà đến nhà cái
ông ẩn sĩ Hoàng Mai thì thực không nên. Vậy Đào hiền hữu ơi, hiền hữu mau sắp
cơm nước hầu lệnh bà xơi, mai chúng tôi hãy hộ giá đi sớm.
Đào Phùng vui mừng toan gọi người nhà, nhưng trông ra sân,
chàng bỗng giật mình nhớ đến bốn cái xác, Nhị Nương cũng nhìn theo và hiểu ý
chàng?
- Không hề gì. Việc bếp nước đã có ngu muội.
Nàng mỉm cười nói tiếp:
- Giết nhà bếp của đại huynh thì cố nhiên phải làm bếp thay
chứ. Được cái việc bếp nước em cũng khá thạo. Hỏa đầu quân Nhị Nương đây.
Mọi người cười rộ lên, quên hẳn câu chuyện buồn rầu.
- Nhưng trong khi Nhị Nương này làm cơm thì xin đại huynh
cùng hiền đệ chôn cất cho mấy người chết.
Phạm Thái lẩm bẩm:
- Rõ khéo! Một người giết, hai người khác phải chôn!
Hôm ấy mãi sang giờ Thân mới có cơm trưa. ăn xong, mọi người
ngồi bàn về hành trình. Đào Phùng đã nhiều lần đi Lạng Sơn nên rất thông thuộc
đường lối, vẽ phác ra một bức bản đồ, ghi những nơi có thể nghĩ lại được. Đoạn
chàng hỏi Phạm Thái:
- Hiền hữu lên Lạng Sơn phen này đã có chủ định gì chưa?
Phạm Thái đáp:
- Kể thì tôi vâng lời đảng trưởng, hộ giá Hoàng phi đến trấn
Lạng Sơn, rồi lại trở về ngay. Nhưng nếu gặp việc quan trọng mà cần ở lại thì
tôi cũng ở lại.
Phạm Thái nói thế là vì chưa tin hẳn bụng Đào Phùng, không muốn
lộ sự bí mật trong đảng. Kỳ thực chàng lên Lạng Sơn còn có một mục đích khác,
khẩn yếu hơn.
Nguyên Phổ Tĩnh thiền sư có một người đồng chí trẻ tuổi, hiện
lĩnh chức trấn thủ trấn Lạng Sơn, là Thanh Xuyên hầu Trương Đăng Thu, người
làng Thanh Nê, trấn Sơn Nam. Đã nhiều lần Thanh Xuyên hầu cho mang thư về mật
xin Phổ Tĩnh cử lên Lạng một người có đại tài để lập một chi đảng ở đó. Phổ
Tĩnh ngỏ lời với Phổ Chiêu muốn cắt Chiêu đương việc ấy. Vậy nay nhân dịp hộ
gia hoàng phi lên Lạng, Phạm Thái sẽ ở luôn đó, nói là để giúp việc sư trưởng
chùa Tam Thanh, nhưng kỳ thực để giúp Trương Đăng Thu về việc phục hưng nhà Lê.
Trương làm trấn thủ ở một trấn nơi biên thuỳ khẩn yếu, dưới quyền có tới năm,
sáu nghìn binh lính tinh nhuệ Khi lâm đến đại sự sẽ dụ theo để chiếm cứ ngay lấy
trấn làm nơi sào huyệt của đảng, việc ấy thật dễ như trở bàn tay.
Quang Ngọc cũng thấy rõ sự lợi ích ấy, nên hôm đảng viên đảng
Tiêu Sơn tụ họp, chàng không đem việc lập chi đảng ở Lạng Sơn ra bàn, sợ nhỡ việc
ấy tiết lộ ra ngoài đảng thì Trương Đăng Thu sẽ bị hại, hay ít ra cũng bị cách,
và như thế, đảng Tiêu Sơn đến có ngàn cũng chẵng làm nên trò trống gì, vì sức mạnh
của đảng sau này sẽ trông vào một quân đội lớn như quân đội Lạng Sơn.
Hồi 18
Sấm
Sáng sớm hôm sau, bốn người lên đường, Phạm Thái nhường hoàng
phi cưỡi con ngựa trắng giống ngựa thổ Bắc Kạn, thân nhỏ thấp và bốn chân tuy
hơi thô, nhưng rất thẳng và vững. Còn ba con kia sắc tía, bờm dài, đuôi dài,
trong khi chạy, cổ cất thẳng và những lúc người cưỡi kìm cương đứng lại, thì bốn
vó nhỏ thon của nó luôn luôn cuốc xuống đất và mũi nó hục hặc thở phì hơi. Đó
là hạng chiến mã, giống Lạng Sơn ky sĩ phải có vẽ tốt, cương cứng mới trị nổi,
tay non sẽ bị vật ngã liền.
Song song đi hàng đôi và buớc một trên con đường đất đầy cỏ
xanh ướt, bốn con ngựa thỉnh thoảng gặp vũng nước động ngầm dưới cỏ sau trận mưa
tối hôm trước, làm cho nước vọt tung toé lên. Mưa bay đã tạnh hẳn. Nhưng tiết
trời mỗi lúc một thêm giá, nhất là gió bấc thổi lại càng mạnh khiến ai nấy chân
tay lạnh buốt. Nhị Nương bèn dừng lại ở một cái quán bên đường để uống bát nước
chè tươi nóng và mở khăn gói lấy chiếc áo cà sa nâu dầy đưa hoàng phi mặc trùm
ra ngoài cho đỡ rét.
- Nam mô a di đà Phật! Hẳn nhà chùa đi đường xa.
- Sao cô hàng biết?
- Vì thấy nhà chùa cưỡi ngựa. ở vùng này ít khi có các sư ông
cưỡi ngựa đi qua.
Hoàng phi lo lắng nhìn Nhị Nương. Phạm Thái thản nhiên đáp lại
cô hàng:
- Phải, bần tăng nay đi ngựa cũng là một sự bất thường.
Nguyên Phổ bác thiền sư - vừa nói vừa trỏ hoàng phi - khi tới Kinh Bắc thì mỏi
mệt quá, không đi được nữa, may gặp công tử đây - chỉ Nhị Nương - là chỗ bạn
tâm giao, công tử liền bỏ tiền ra mua mấy con ngựa để cùng đi cho vui.
- Nam mô a di đà phật! Thật công tử có lòng quý hóa! Nhưng
chư tăng đi tận đâu?
Nghe cô hàng hỏi tỉ mỉ, Phạm Thái đưa mắt liếc Nhị Nương có ý
bảo thầm phải coi chừng, vì biết đâu cô hàng ta không là một tay thám tử. Chàng
cho rằng nếu đảng Tiêu Sơn biết dùng những hàng cơm, hàng nước làm nơi dọ thám,
thì triều đình cũng chẳng dại gì mà không biết dùng. Chàng tin sự phỏng đoán của
chàng là đúng, khi thoáng nghe có tiếng bẻ nứa ở trong buồng bên đưa ra. Chàng
nghĩ thầm: "Thế nào cũng có thằng ghé mắt nhìn qua bức phên liếp
kia?" Tức thì chàng đứng dậy giục giã mọi người lên ngựa, và bảo ai nấy
cùng ra roi phóng nước đại, phi về phía Lạng Giang. Mãi khi vượt qua làng Bái một
quãng xa và sợ hoàng phi mệt nhọc, chàng mới kìm cương ngựa lại. Nhị Nương hỏi:
- Cớ sao hiền đệ vội vàng như thế?
Phạm Thái vẫn còn ngó lại phía sau:
- Hiền tỉ không ngờ vực điều gì?
- Ngờ vực thì có ngờ vực, nhưng cần gì phải quá hấp tấp đến
thế?
Câu nói bình tĩnh của một người thiếu phụ khiến Phạm Thái lấy
làm tự hổ thẹn về cử chỉ của mình. Chàng nói chữa:
- Nhưng mà tế ngựa một lúc trong người cũng thêm ấm được một
chút, có phải thế không, tâu lệnh bà?
Hoàng phi mỉm cười an ủi:
- Phải đấy. Nhưng chị đã dặn các em chỉ nên gọi theo đạo hiệu
của chị mà thôi Các em nên biết tai vách, mạch rừng, ta phải phòng bị luôn mới
được. Vậy từ giờ trở đi bất cứ chỗ đông người, hay ở chỗ vắng, chị là Phổ Bác
thiền sư còn công tử thưa công tử tên họ gì tôi quên bẵng mất rồi.
Nhị Nương cười lớn, cố làm bộ dạng đàn ông thò tay vào bọc lấy
tín bài mà nó i răng :
- Bạch thiền sư tôi cũng quên bẵng mất, để còn phải tra cứu lại
mới được.
Rồi nàng cầm tín bài đọc:
- Nguyễn Đức Minh, hăm nhăm tuổi, người làng Đông Phú, huyện
Đông Ngàn... Có thế mà mãi không thuộc.
Mọi người cười rộ.
Có tiếng đâu đó cười theo. Ai nấy kinh ngạc nhìn nhau. Một
người tuy đầu râu đã bạc, nhưng còn vẽ tráng kiện, da dẻ hồng hào, cười lừa từ
bên sườn đồi đi xuống, gọi:
- Có phải Chiêu đấy không?
Phạm Thái nhìn Nhị Nương, mà trong lòng lo sợ, bất giác thò
tay vào bọc rút dao. Người kia nói tiếp luôn?
- Có phải Chiêu Trung... Con quan Bạch Hạc Hầu... đó không?
Phạm Thái nghe giọng lè nhè thì đoán biết rằng ông già say rượu
và lầm Nhị Nương với ông Chiêu nào đó... Tức khắc chàng tra kiếm vào vỏ, vui mừng
đáp lại:
- Dám xin lão trượng cho biết quý tính đại danh để lũ bần
tăng được hầu chuyện.
Ông lão như không nghe rõ lời Phạm Thái, cho lừa bước lại gần
bên Nhị Nương mà nói rằng:
- Công tử đi chơi đâu với chư tăng thế?... lại rủ nhau lên Lạng
giăng nhắm rượn với thịt cầy chứ gì ! Cho lão phu đánh chén với nhé?
- A di đà phật!
Câu niệm phật của hoàng phi khiến ông già quay lại ngắm
nghía, rồi nói:
- Chẳng hạn như sư ông đây vừa trẻ tuổi vừa đẹp trai... đẹp
hơn con gái đấy, mà bảo giới được tửu, giới được sắc thì lão phu... xin cam
đoan chừa rượn... chừa làm thơ... chừa tuốt... Chư tăng cùng công tử chắc cho
lão già lắm rồi... Kỳ thực lão mới năm mươi nhăm tuổi... Đầu lão bạc, râu lão bạc...
là vì lão lo buồn nhiều quá lo buồn về việc... việc nước...
Hoàng phi mỉm cười đáp:
- Lão trượng lo buồn việc nước mà rượu cứ chén tì tì được!
- Ấy uống để quên. Nhưng về nhà lão chơi đã. Lão ra đón công
tử từ sáng, vì chắc thế nào công tử cũng qua đây.
Nhị Nương lễ phép xuống ngựa đáp:
- Thưa lão trượng, lão trượng nhầm rồi. Tôi có là ông chiêu
ông ấm nào đâu.
Tôi là... là Nguyễn Đức Minh người huyện Đông Ngàn đây mà?
- Thế à? Thế ra công tử không phải ông Chiêu Trung, con quan
Bạch Hạc Hầu là bạn đồng khoa với lão phu. Nhưng không sao cứ về chơi đánh chén
đã! Lâu nay lão phu không có tri kỷ... uống rượu một mình buồn lắm!
Phạm Thái có vẻ ngẫm nghĩ. Bỗng chàng hỏi ông lão:
- Dám hỏi tôn ông, tôn ông có phải là Phạm tiên sinh đâu tiến
sĩ về đời Cảnh Hưng không?
Ông lão dương mắt đăm đăm nhìn Phạm Thái:
- Không, tôi họ Trần, chứ không phải họ Phạm, tuy tôi có đậu
tiến sĩ, nhưng thưa chư tăng cùng công tử, cái tiến sĩ ngày nay không quý bằng
một bình rượu ngon, hay một cái đùi chó thui vừa chín tới.
Dút lời, ông lão cất tiếng cười oang oang tỏ cho mọi người biết
rằng mình còn khỏe mạnh chẳng kém gì trai trẻ. Rồi ông ta nói tiếp:
- Ý chừng các ngài muốn hỏi thăm ông thầy số tướng thiên văn,
địa lý Phạm Quảng Văn người làng Hoàng Mai?
- Vâng.
- Còn tôi đây chỉ là Trần Lý người trấn Sơn Nam.
Ông ta giơ tay trỏ lên một trái đồi:
- Nhưng không sao, xin mời chư tăng cùng công tử cứ đến chơi,
nhà lão phu kia rồi.
- Vậy xin vâng.
Năm người cho ngựa và lừa đi buớc một leo lên đồi. Bỗng một đứa
trẻ nằm ngửa phơi nắng trên lưng trâu vỗ bụng mà hát rằng:
Mặt trời sắp lặn sau đèo
Hỡi người hếlm củi hãy theo vào rừng.
Đem dao, cùng búa, cùng thừng.
Chặt cây cao nhỏ, xin đừng cây to.
Nhị Nương hỏi Trần Lý:
- Thế nghĩa là gì, dám thưa lão tiên sinh?
Phạm Thái nói:
- Trẻ chăn trâu nó hát nghêu ngao còn tìm hiểu nghĩa làm gì
cho mệt trí.
Trần Lý suy nghĩ đọc nhẩm lại bốn câu ca vừa lắng tai nghe được:
Mặt trời sắp lặn sau đèo
Hỡi người hếlm củi hãy theo vào rừng.
Đem dao, cùng búa, cùng thừng.
Chặt cây cao nhỏ, xin đừng cây to.
Bỗng ông ta cười phá lên, bảo mọi người:
- Sấm rồi! câu sấm rồi! Thôi lại anh nào trong đám trung thần
nhà Lê đặt ra đó thôi Mà biết đâu lại không chính anh Phạm Quảng Văn là tác giả
câu hát ấy.
Bấy giờ bốn con ngựa và lừa của chủ nhân đã leo đến một nếp
nhà tranh làm ở một nơi đất bằng, rộng độ hai sào, chung quanh trông thông cùng
dương liễu, Trần Lý xuống lừa mời:
- Rước chư tăng với công tử vào chơi...
Rồi quay sang tiểu đồng:
- Chú Thiện! pha nước uống nhé?
Một câu bé đầu đội trái đào, chừng mười bốn, mười lăm tuổi chạy
ra, chắp tay nói:
- Thưa thầy, có ông tú Mỹ Cầu đánh cá ở đầm Phan Trì được hai
con chép lớn, đem đến biếu thầy.
Trần Lý cất tiếng cười ha hả:
- Hay! Hay lắm! Quý khách đến chơi, nhà lại có người cho cá
ngon...
Ông quay ra nói với Phạm Thái:
- Cá chép đầm Phan Trì có tiếng là ngon lắm đấy bạch hai sư
ông.
Nghiễm nhiên Phạm Thái hỏi lại:
- Nhưng lão tiên sinh có rượu ngon không?
- Rượu ngon thì không thiếu, chỉ lo chư tăng cùng công tử
không có sức uống.
Vậy chú Thiện, chú đi tìm cho thầy anh trò nào khéo làm gỏi đến
giúp thầy một tay nhé. Chả mấy khi có gỏi tươi như thế này để thết các vị thiền
sư. Nhưng đun nước pha trà ngay đã, các quý khách chắc hẳn rét lắm đấy.
Người nào người ấy tìm gốc thông buộc ngựa rồi đi vào trong
nhà ngồi nghĩ
- Chú đừng quên lấy thóc cho ngựa các quý khách ăn nhé?
Một lát sau, thiểu đồng bưng nước lên. Bà hoàng phi uống luôn
hai chén chè tươi nóng và thơm, thấy trong người ấm áp dễ chịu, mỉm cười nhìn
Nhị Nương.
Nhưng Nhị Nương giữ vẻ mặt tư lự, hỏi Trần Lý:
- Thưa lão tiên sinh, tôi vẫn không nghĩ ra được nghĩa huyền
bí của câu sấm lúc nãy?
Trần Lý cười lớn:
- Thì làm gì có sấm, sét kia chứ. Tôi đã bảo họ đặt ra đẻ xui
giục lòng dân mà thôi Họ cố làm cho câu hát lờ mờ, huyền bí, khiến ai đọc đến
cũng phải đoán ra một nghĩa riêng. Thí dụ câu hát này chúng ta thử cùng nhau
tán lấy một nghĩa mà xem. Câu đầu:
"Mặt trời sắp lặn sau đèo "
Thì ta có thể cho là phương tây. Mặt trời sắp lặn chả là
phương tây thì còn là gì.
Còn như đèo thì ta có thể cho là núi. Vậy câu đầu tức trỏ
"Tây Sơn ". Hơn nữa, hai chữ "sắp lặn " lại là sắp mất. Tóm
lại sáu chữ ấy chỉ nghĩa "nhà Tây Sơn sắp mất ". Kế đến hai câu sau:
"Hỡi người hếam củi hãy theo vào rừng
Đem dao cùng búa cùng thừng"
Thì có lẽ chẳng có nghĩa gì, mà chỉ là hai câu đưa đẩy. Nhưng
ta có thể tán rằng "người hếhm củi " đây là trung thần nghĩa sĩ, và
"theo vào rừng " là theo nhà Lê.
Và trong chữ Lê cũng có chữ dao. Câu sau rốt:
"Chặt cây cao nhỏ, xin đừng cây to."
Thì hẳng có nghĩa là diệt Tây Sơn. Vì "cao nhỏ " là
tiểu, ngột: hai chữ tiểu, ngột chắp lại thành chữ Quang, Quang đây không là
Quang Trung, Quang Toản thì các ngài còn bảo Quang gì? Đó là tôi giảng theo ý
riêng của tôi. Công tử cùng chư tăng giảng theo một nghĩa khác. Cũng không ai cấm.
Dút lời, ông ta cười ha hả. Phạm Thái và Nhị Nương phục Trần
Lý lắm. Chủ nhân lại nói tiếp:
- Câu sấm ấy kể cũng tầm thường. Mà sấm như thế, một lúc tôi
có thể đọc vài chục câu, chẳng hạn:
"Ra đầm đánh cá về xơi,
Béo thời là gỏi, gầy tới kho tương ".
Cả năm người cùng cất tiếng cười vang. Trần Lý nói:
- Biết đâu tán rộng ra, câu ấy lại không có nghĩa thế. Nhưng
kìa ai đến chơi!
Một người chống gậy từ trên đồi đi lên.
Ai nấy nhìn xuống; Phạm Thái hỏi Trần Lý:
- Có phải Phạm Quảng Văn đấy không, thưa lão trượng?
- Không phải.
Vừa nói, ông lão vừa đứng dậy chạy vội ra sân:
- Xin kính chào quan Bạch Hạc Hầu! May mắn cho đệ biết bao,
hâm nay lại được đại nhân chiếu cố đến chơi.
Người mới tới tuổi đã cao lắm, vào khoảng gần bảy mươi, đứng
lại thở rồi mỉm cười bảo Trần Lý:
- Tôi đến đây xin hiền hữu tha lỗi cho cháu Trung. Sáng nay
tôi có chút việc cần phải nhờ đến cháu đi giúp, nên cháu không lại hầu hiền hữu
được... Xin để khi khác cháu đến tạ tội.
Bạch Hạc Hầu vái chào nói tiếp:
- Thôi, lại xin cáo từ hiền hữu tôi về.
Trần Lý giữ thế nào cũng không được, đành phải tiễn khách xuống
chân đồi, rồi trở lên lắc đầu phàn nàn:
- Ông lã thật thà quá! Đi năm sáu dặm đường, trèo hai, ba quả
đồi chỉ cốt báo cho mình biết rằng ông Chiêu Trung không đến chơi được.
Hoàng Phi khen:
- Người thủ tín đến thế.
Nhị Nương nói:
- Nhưng bạch sư ông sao không sai người nhà đi?
Trần Lý cười:
- Ấy, Bạch Hạc Hầu vẫn có tính quá cẩn tín như thế đấy. Một lần,
chúng tôim ấy anh em hẹn hôm sau lên họp nhau uống rượu làm thơ ở trên ngọn đồi
Phúc Long. Chẳng may đêm hôm ấy, mưa như tầm tã, rồi sáng hôm sau vẫn chưa tạnh.
Tưởng chẳng còn ai đến họp nữa, mà tôi cũng không đến. Có ngờ
đâu Bạch Hạc Hầu sắn quần chống gậy mà tới nơi.hẹn. Sau về, cụ ốm mất gần nửa
tháng, chúng tôi phải cắt nhau đến phục dịch thuống thang cho cụ.
Phạm Thái phàn nàn:
- Thế thì câu nệ quá nhỉ!
Người nhà bưng mâm gỏi lên. Chủ bèn mời khách vào dự tiệc.
Riên chú tiểu giữ lễ không dám ngồi. Trần Lý cười nói:
- Bày vẽ, đời này không nên kể tôn ti trật tự gì nữa! Chỉ có
hai hạng người:
Người anh hùng với người... không anh hùng. Vậy thì xin lỗi
hai sư ông cứ gì là tiểu mà không phải bực anh hùng.
Phạm Thái quên hẳn mình đương mặc bộ áo cà sa cả tiếng cười
vang, nói lớn:
- Khảng khái thay lời của lão anh hùng Trần tiên sinh. Vậy
chú Thận, sư ông xá lỗi cho phép chú được hầu rượu lão tiên sinh cùng quý công
cử đây.
Rồi năm người cùng ngồi lên giường uống rượu trò chuyện vui vẻ.
Nhưng Nhị Nương vẫn không quên đưa mắt ra bảo Phạm Thái phải giữ gìn, chớ nên
quá chén.
Hồi 19
Đả Lôi Đài
Xong tiệc rượu Trần Lý say mềm, nằm vật ra ngủ.
Nguyễn Đức Minh liền viết mấy chữ cảm tạ để lại rồi cùng hai
sư ông và chú tiểu lên ngựa ra đi, trông về phía Lạng Giang thẳng tiến.
Đến bến Lạng lại phải vào đồn trình viên tuần giang xin phép
sang sông. Lần này hàng lý bị khám xét kỹ hơn, và mỗi người phải cung khai lý lịch
rành rọt hơn.
Viên tuần giang hỏi vặn mãi về mấy con ngựa; nào những mua ở
đâu, mua của ai, giá bao nhiêu tiền, vì sao đi tu mà cũng có tiền mua ngựa, mà
cũng biết cưỡi ngựa. Nhị Nương phải hết tài ngôn luận, đem hết giọng phong lưu
công tử ra ứng đối mới thoát được. Nàng không quên lòe viên tuần bằng những lời
khoác lác, khoe khoang, nói quen thân với quan đại đô hộ nọ, quan đại đổng lý
kia, thường uống rượu làm thơ với quan thị lang này, quan tư vụ khác, khiến
viên tuần giang hơi chột dạ, mà cái ý tưởng muốn đánh thuế của nhà chuà một con
ngựa tốt cũng dần dần biến mất trong khối óc làm tiền của ngài.
Vì thế nên chùng chình mãi, bốn người mới sang sông được, và
khi đến Lạng Giang thì mặt trời đã xế bóng.
Lạng Giang tuy chỉ là một phủ ly, song vì ở giáp giới miền
trung du và thượng du - nhất ở hạt ấy, hai nòi giống lại bắt đầu gặp nhau, -
nên xưa nay vẫn là nơi rất trọng yếu, về mặt tuần phòng cũng như về mặt thương
mại. Về mật tuần phòng không những binh lính nhiều gấp đôi những phủ lỵ khác,
mà ngoài số bộ binh và ky binh ra, lại có một đội chiến thuyền đóng ở sông
Thương nữa.
Còn thương mại thì rất phồn thịnh, vì đó là nơi giao dịch sản
vật, hàng hóa của các dân Thổ, Mán vá dân Annam.
Vừa bước tới đầu phố Nam môn, bọn Phạm Thái nhận thấy ngay điều
đó. Tuy lúc bấy giờ đã về chiều mà người qua lại vẫn còn tấp nập. Những bộ y phục
màu chàm luôn luôn xen lẫn với những bộ y phục màu nâu. Chỗ này mấy chục người
Thổ ở chợ về đi theo sau một đàn bò bán còn thừa lại. Chỗ kia, những người
Annam, từng tốp một, gánh muối ở thuyền lên nơi nhà trọ để sáng hôm sau đem ra
chợ bán.
Tiếng cười đùa vui thú, tiếng gọi nhau vào hàng cơm, tiếng
cãi cọ om sòm, thực là huyên náo.
Trước một tửu quán, bốn người dừng ngựa. Tò mò đứng ngắm một
đám đông.
Ở giữa đám ấy có tiếng thanh la inh ỏi. Bỗng tiếng thanh la
ngừng lại, rồi bọn người đứng xem dãn ra một chỗ. Bốn người ngồi trên mình ngựa
thấy tiến đến gần một người Thỗ, thân thể vạm vỡ, cao lớn. Người ấy chắp tay,
cúi đầu chào, lễ phép nói bằng tiếng kinh rất sõi:
- Bạch chư tăng, thưa công tử, chúng tôi xin ra đón các ngài
vào xem.
Đáp lại câu mời, Nhị Nương thò tay vào bọc, bốc một nắm tiền
đồng đưa cho người kia mà truyền rằng:
- Làm trò đi. Hay, ta thưởng thêm sau.
Bọn Thổ có tất cả ba người: hai người đàn ông và một thiếu nữ
rất đẹp, luôn luôn ngước mắt ngắm phía nhà sư và mỉm cười một cách rất có ý
nghĩa. Thoạt tiên chúng cho con chó làm trò. Con vật theo tiếng hát ê a chui
qua những cái vòng tròn bằng mây. Rồi đến lượt con khỉ và con cừu: con khỉ lộn
múa trên lưng cửu rất giẻo và nhanh nhẹn. Phạm Thái ý chừng quên bẵng rằng mình
là sư, trở người con gái hỏi:
- Còn cô kia không biết làm trò gì?
Cô Thổ nhoẻn một nụ cười kháu khỉnh, đáp lại:
- Em chỉ biết yêu nhà sư thôi.
Khán giả đứng quây tròn chung quanh, cười vang lên, khiến cặp
má Phổ Bác thiền sư dần dần ửng đỏ. Thấy vậy bọn làm trò cũng cười theo, và nói
tiếng Thổ với nhau điều gì.
Bốn người cười ngựa toan quay đi thì bọn kia khẩn khoản mời ở
lại xem diễn võ. Họ múa rất đẹp và rất khỏe, khiến Phạm Thái và Nhị Nương phải
tấm tắc khen hoài. Đoạn, họ thách khán giả có ai giỏi vào đấu võ với họ. Nếu
đánh được họ, họ sẽ hiến hết số tiền thu được. Nhưng trước khi tỉ thí họ hãy
xin đi thu tiền đã. Muốn coi đấu võ, công chúng chẳng hà tiện, ném tiền soang
soảng vào cái thau mà cô gái Thổ giơ ra. Chẳng bao lâu đã thu được già nửa chậu
tiền đồng.
Song vẫn không ai dám vào đọ sức với bọn họ. Có lẽ vì ngắm
thân thể hai người đàn ông Thổ lực lưỡng to lớn mà ai nấy sợ hãi chăng? Một người
làm trò nói ý chừng để nuốt trôi số tiền vừa thu được:
- Không có ai vào đấu với chúng tôi thì chúng tôi đấu với
nhau để các ngài coi vậy Hai người cùng nhau đi một bài quyền. Đoạn, người thiếu
nữ đứng chống tay vào hai bên sườn, ngạo nghễ nhìn công chúng, nói:
- Không ai dám đấu võ với hai anh em, nhưng em đây hẳn có tay
địch thủ!
Không ai trả lời. Nàng liền đưa mắt nháy Phạm Thái mà hỏi rằng:
- Thế nào, bạch sư ông! Nều sư ông mà hạ nổi em thì em xin
thình nguyện nhận sư ông làm chồng.
Khán giã cười vang. Nhưng họ kinh ngạc xiết bao khi họ thấy
nhà sư thong thả xuống ngựa, và khoan thai bước lại gần người con gái. Ai nấy
im lặng, chờ xem.
Phạm Thái đưa mắt nhìn chung quanh mình rồi dằn từ tiếng bảo
người thiếu nữ:
- Bần tăng tiếc rằng sự tu hành bắt buộc các nhà sư không được
có vợ. Vậy nếu cô nương bằng lòng nhận điều này thì bần tăng xin thí võ với cô
nương ngay. . .
Mọi người thì thào:
- Ồ! bí mật nhỉ! nhà sư mới ngộ nghĩnh làm sao chứ!
Cô gái Thổ không khỏi chột dạ, se sẽ đáp:
- Vâng, điều gì xin sư ông dạy cho biết.
- Là nếu tôi đánh ngã cô nương thì tôi có quyền muốn gả cô
cho ai mặc ý.
Cô kia còn do dự thì người anh đã giục: "Cứ nhận lời đi,
không thua đâu mà sợ".
Hai người cùng nhau đấy quyền. Nhưng thiếu nữ địch sao nổi Phạm
Thái, chưa đưọc ba hợp đã ngã chổng quèo vì một cái đá móc của bên địch.
Những người đứng xem, reo mừng ầm ĩ:
- A... a! Nhà sư đắc thắng!... Nhà sư được rồi!... Bạch sư
ông gả cô ấy cho tôi nhé?
Cô Thổ xấu hổ lóp ngóp bò dậy ra đứng phía sau con chiên, thở
hổn hển.
Nhưng một người trong hai người đàn ông bước lại gần bên nhà
sư mà rằng:
- Võ nghệ nhà sư cũng khá đấy!
Phạm Thái mỉm cười:
- Muốn biết khá hay không, nhà ngươi chỉ việc tỉ thí. Bần
tăng vẫn còn đử sức để đấu với nhà ngươi.
Khán giả hò la:
- Ồ phải đấy! đấy vỏ đi!... Hai người đấy võ đi!...
Một cái kiệu khiêng qua. Vị công tử ngồi trong vén màn bảo
phu kiệu đứng lại, rồi khi hỏi biết đầu đuội câu truyện liền truyền rằng:
- Ta treo giải một nén bạc đấy... Vậy đấu võ đi.
Phạm Thái liếc mắt nhìn gã kia, trong lòng căm tức. Người làm
trò cung kính đáp lại:
- Thưa công tử, tối lấy làm tiếc rằng trời tối mất rồi. Kể đấu
võ với một người tầm thường thì chỉ trong nháy mắt là xong. Nhưng đối với sư
ông đây thì tất phải lâu, ít ra cũng mươi, mười lăm hiệp mới phân thắng phụ, mà
trời lại tối rồi. Chẳng lẽ đốt đuốc lên mà đánh nhau. Vậy xin công tử đến sáng
mai.
Thực ra trời đã nhá nhem tối. Vả Phạm Thái cũng không muốn
lĩnh thưởng của gã kia, liền nhận lời đợi đến hôm sau sẽ cùng người làm trò thử
sức. Nhị Nương nói đùa:
- Nhưng còn tiểu thư chưa thấy sư ông định phận ra sao. Nào
ai có diễm phúc được cùng cô kết duyên?
Cô làm trò ngước mắt nhìn chàng niên thiếu ngồi trên mình ngựa
mỉm cười một nụ cười rất có duyên. Nàng ao ước và đinh ninh rằng thế nào nhà sư
cũng gán mình cho chàng công tử, bạn của nhà sư. Vì thế, nàng tấp tểnh mừng thầm
đứng đợi Nhưng Phạm Thái ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:
- Hãy chờ đến mai. Bần tăng đấu võ với võ sĩ đây xong đã rồi
hãy hay.
Dút lời chàng mời hoàng phi cùng Nhị Nương vào trong quán nghỉ
trọ. Chủ quán ban nãy cũng đứng xem nhà sư đấu võ, nên tỏ vẻ kính phục lắm vội
vàng đi sắp mậm rượu. Trong khi ấy, người đầy tớ và chú tiểu giắt ngựa đi tàu.
Sáng hôm sau vừa thức giấc, Phạm Thái đã vội vã giục hoàng
phi và Nhị Nương lên đường. Nhị Nương nhắc truyện đấu võ thì chàng gạt ngay:
- Chúng ta há gì một sự tỉ thí hão huyền mà nhãng bỏ việc lớn
đương theo đuổi được chăng?
Không thấy Nhị Nương đáp lại, chàng nói tiếp luôn:
- Không phải ngu đệ sợ thua mấy thằng bán võ ấy đâu, - mà có
thua phỏng đã sao? - nhưng ngu đệ chỉ e mất thời giờ vô ích, trong khi ở Tiêu
Sơn đại huynh đang lo lắng về hành trình của chúng ta.
Hoàng phi vẫn muốn mau tới Lạng Sơn để được nghe ngóng tin tức
vưa Lê ở bên Tàu ra sao, liền phỉnh luôn Phạm Thái một câu:
- Sư ông bàn rất phải. Người anh hùng không hề tức khí sằng,
nhất lại không bao giờ để lòng hiếu thắng chiếm đoạt tâm hồn mình đến đổi làm
lơ cả việc lớn.
Vậy mục đích của ta là đi Lạng Sơn. ĐỌ tài đọ sức với bọn thất
phu kia làm gì?
Tha hồ cho chúng nó ở lại mà khoe khoang, khoác lác với quần
chúng, chúng nó làm giảm giá trị sao được một bậc nhân tài, một vị anh hùng như
Phổ Chiêu thiền sư?
Được hoàng phi ca tụng, Phạm Thái sung sướng đỏ cả mặt, và
suýt nữa toan phục xuống tạ ơn, nếu không nhớ đến thân thế bọn mình là một bọn
tòng vong đương ở trong một hàng cơm đông người lui tới.
Bốn người liền gọi chủ quán tính toán tiền ăn tiền trọ rồi ra
đi, mặc cho hắn đứng khúc khích cười chế nhạo.
Hồi 20
Vua Chiêu Thống
Năm hôm sau, bốn người đến Lạng Sơn và theo Phạm Thái đi thẳng
đến Kỳ Lừa thăm sư cự chùa Tam Thanh. Sư cụ đạo hiệu Phổ Mịch thiền sư là bạn đồng
chí của Phạm Thái và là một đảng viên trong đảng Tiêu Sơn.
Hàn huyên dăm câu rồi hai người hỏi nhau đến việc đảng. Vô
tình không biết có hoàng phi đứng trước mặt Phổ Mịch buột miệng nói:
- Về vùng trấn Bắc như thế cũng có thể hy vọng lắm. Còn ở
đây, từ khi cái tin Hoàng đế thăng hà đưa về nươc các bật sĩ phu xem chừng đều
có ý chán nản...
Thiền sư bỗng ngừng bặt vì thấy Phổ Chiêu ra hiệu bảo im
ngay. Nhưng đã quá chậm rồi. Hoàng phi nấc lên một tiếng rồi ngã vật xuống đất.
Nhị Nương vội nâng dậy đật lên giường và gọi mãi mới tỉnh. Thấy bà khóc thảm
thiết và luôn miệng kêu "Bệ hạ", Phạm Thái lại gần khẽ nói:
- Tâu lệnh bà nên bình tĩnh.
- Ta cần gì. Ta cố sống đến ngày nay là chỉ vì hy vọng mai
sau được gặp mặt Hoàng thượng. Nhưng nay Hoàng thượng thăng hà rồi, thì ta chỉ
còn một thác mà thôi - Tâu lệnh bà, lệnh bà dạy thế sao được! Vì nào chỉ có một
mình Thánh thượng? Còn thái hậu, vâng còn Quốc mẫu, sau này ai người phụng dưỡng
ngài?
Và xin lệnh bà tha tội cho, Hoàng thượng mất tuy là một sự
đau đớn. Vì Hoàng thượng mất còn tìm được người trong hoàng tộc kế vị, chứ
giang sơn mất vào tay người khác, mới là mất hẳn. Vậy xin lệnh bà tĩnh tâm cho,
đừng làm náo động lòng thần dân. Nhất lại ở chốn biên thành này, binh lính cùng
thám tử của ngụy triều đông như kiến cỏ, nay lệnh bà khóc lóc ầm ỹ, nhỡ đến tai
bọn họ, thì không những một mình lệnh bà bị khổ nhục, mà đảng trung thần phục
quốc cũng đều vì lệnh bà mà phải ly tán mất. Xin lệnh bà nghĩ kỹ mà lượng xét
cho.
Hoàng phi lau nước mắt ôn tồn đáp lại:
- Đạ tạ thiền sư, không có lời dạy bảo của thiền sư thì suýt
nữa tôi đã làm lỡ cả việc lớn.
Bà liền cố gượng khuây nói chuyện với Phổ Mịch, cốt để hỏi về
mọi sự đã xảy ra ở bên Tàu. Phổ Mịch sợ hải khép nép:
- Tâu lệnh bà, vì lệnh bà cải trang, bần tăng không biết, đã
xúc phạm tới lệnh bà.
- Điều ấy không hề gì. Vả từ nay tôi thực đã trở nên một người
tu hành, một nhà chân tu. Vậy xin sư cụ cứ gọi tôi là Phổ Bác cho tiện.
Dùng thiền trà xong, hoàng phi cố nài Phổ Mịch thuật lại cho
biết tình cảnh bọn bầy tôi tòng vong ở nước người sau khi Hoàng thượng thăng
hà. Phổ Mịch nói:
- Điều ấy, bần tăng không được tường. Nghe đâu vua Càn Long
đày mỗi người ở một nơi . . .
Hoàng phi thương hại phàn nàn:
- Trời ơi! Sao lại còn bị đày nữa! Tội tình gì mà bị đày như
thế?
- Họ bị đày ngay khi còn sinh thời Tiên đế, vì vua Càn Long
không muốn bọn họ được gần đấng Tiên đế, sợ họ thúc giục Tiên đế xin quân đem về
nước lo sự phục hưng.
Hoàng phi thốt ra một câu mắng nhiếc:
- Quân khốn nạn!... Vậy thế thì ta không còn mong gì nhà
Thanh giúp binh nữa đấy.
Phạm Thái đáp:
- Tâu lệnh bà, ta cũng chăng nên mong cậy gì ở họ. Trước kia
họ cho Tôn Sĩ Nghị mang quân sang ta, tuy miệng nói là cứu giúp, nhưng kỳ thực
chỉ cốt chiếm cứ nước Nam mà thôi. Nhà Minh xưa giúp nhà Trần, cái gương xâm lược
ấy ta đã quên rồi sao?... Chỉ nên trông vào sức mình là hơn cả...
Phổ Mịch nói tiếp:
- Tâu lệnh bà, Phổ Chiêu thiền sư nói rất phải. Họ chẳng nhân
nghĩa gì đâu. Cứ xem cách tàn nhẫn họ xử với một ông vua mất nước với đám bầy
tôi tòng vong cũng đủ rõ tâm địa họ không ra gì. Ai đời thủa một ông vua láng
giềng gặp bước loạn ly lánh sang nhờ vả mình, mà coi người ta không bằng một
viên thượng thư! Bần tăng nghe Trần Thiện mo hắn phong cho Tiên đế chức tả
lĩnh, ban cho áo mũ quan tam phẩm. Cái tin ấy làm bần tăng thâm ruột tím gan.
Vua mình nó còn khinh thường như thế không trách các quan đi hộ giá, nó đày mỗi
người một nơi... Việc này chỉ tại thằng Kim Giản xui nên cả. Tâu lệnh bà, chẳng
ai ngu như bọn Lê Quỳnh, Phạm Như Hùng, Hoàng Tịch Hiếu không biết cư xử cho phải
đường. Thấy nó lãnh đạm với mình thì mình phải hiểu chứ, ai lại để Thánh thượng
đi lại cầu cạnh mãi rồi ra quỳ bên đường dâng biểu lên vua Thanh xin binh, nhất
lại nhờ tên đô thống Kim Giản đưa vào hầu. Thầy trò chúng nó đã bàn định cùng
nhau rồi. Chúng nó sợ bọn Tây Sơn như sợ cọp, còn dám ho he gì nữa mà mong
ngóng chúng nó cứu giúp? Vua Thanh có cho thằng Kim Giản ra dỗ ngon dỗ ngọt,
đánh lừa tam tứ phen, nào là chỉ cho đất Thâm Châu, nào là sắp phong làm quốc
vương ở đất Tuyên Quang. Chỉ thương hại Nguyễn Văn Quyên vì lòng trung quân mà
bị bọn chó má nó ném chết ở trong vườn Viên Minh.
Hoàng phi rơm rớm nước mắt hỏi lại:
- Chắc cao tăng biết nhiều về mọi việc ở bên nước láng giềng.
Vậy dám xin cao tăng làm ơn thuật lại cho nghe.
- Tâu lệnh bà, bần tăng quả mắt không trông thấy, nhưng tai
được nghe Trần Thiện kể lại. Câu truyện đau lòng lắm, thiết tưởng lệnh bà chẳng
nên biết làm gì thêm khó chịu. Chẳng qua nhà Lê ta đến vận suy, nên tình cảnh
vua tôi sinh ra như thế Hoàng phi cố giữ nét mặt thản nhiên:
- Xin cao tăng cứ cho biết.
Nhị nương cũng nói:
- Việc đã xảy ra thì có can hệ gì. Đối với người đeo đuổi việc
lớn, chỉ có việc hiện tại với tương lai là đáng kể. Vậy xin cao tăng cứ thuật lại
hầu lệnh bà nghe rõ đầu đuôi Phổ Mịch ngồi ngẫm nghĩ một lát, như để sưu tầm mọi
điều trong trí nhớ, rồi kể rằng :
- Hồi cuối năm ngoái, một hôm bần tăng đi tới cửa động Tam
Thanh, bỗng gặp một người hành khất, quần áo rách rưới, dườing như đứng chờ ai.
Người ấy vái chào bần tăng, thì thầm xưng tên là Trần Thiện. Bần tăng giất
mình, vì hôm tiễn thánh giá vượt biên giới sang Tàu, chính mắt bần tăng trông
thấy trong bầy tôi có ông Trần Thiện. Ngày nay ông ta về nước, chắc có sự biến
cố chi đây. Bần tăng liền thắp đuốc mời Trần quân vào chơi trong động nói chuyện.
Thì ra Trần quân trá hình kẻ hành khất trèo non, vượt suối về nước chỉ để báo
tin cho thần dân biết rằng Hoàng thượng đã thăng hà, và đã lập Duy Khang kế
nghiệp.
Hoàng Phi ngơ ngác hỏi:
- Duy Khang là ai vậy?
- Tâu lệnh bà, là Lê duy Vượng, con nuôi của đấng Tiên đế.
Hoàng phi có vẻ lo sợ:
- Thế hoàng tử?
- Hoàng tử...
Phổ Mịch ngần ngại đưa mắt nhìn Phạm Thái, Nhị Nương trù trừ
đáp:
- Tâu lệnh bà, Hoàng tử lên đậu đã qua đời.
Nhị Nương kinh hãi nhìn hoàng phi, chắc thế ngào nghe tin
thái tử mất, bà cũng chết ngất đi. Nhưng không, bà vẫn giữ thản nhiên.
Có lẽ sự thống khổ đã đến cực điểm làm cho bà nghẹn ngào
không khóc được lên tiếng. Hay lòng căm tức vua tôi nước Tàu lấn át cả sự thống
khổ ? Cặp mắt mơ mộng xa xăm, bà ngây người, nhắc đi nhắc lại:
- Lên đậu! ... Hoàng tử lên đậu! Lên đậu! Mất rồi!
- Tâu lệnh bà, có lẽ phần bực tức bị người Tàu khinh mạn, phần
buồn phiền vì hoàng tử qua đời. Nên Hoàng thượng mắc bệnh nặng ngay, rồi qua
năm sau, năm Quí sửu, Ngài thăng hà.
Cặp mắt Hoàng phi vẫn mơ mộng xa xăm:
- Ngài thăng hà! Ngài thăng hà!
- Vâng, Ngài thăng hà đã được hơn bốn năm nay.
Hoàng phi rùng mình như có cơn gió lạnh thổi qua tâm hồn.
Nhưng bà cố định thần mà hỏi rằng:
- Trần Quân có thuật cho cao tăng nghe cái giờ lâm chung của
bệ hạ không?
- Tâu lệnh bà, Trần quân thuật rất tường tận.
"Hôm ấy, Thánh thượng biết rằng sắp qua đời, liền gọi bảo
Như Tùng. Lê duy Vượng đi nấu nước thơm để Ngài tắm. Khi đã lau mình mẩy sạch sẽ,
Ngài truyền lấy triều phục mặc vào cho Ngài rồi ngài nằm thẳng trên giường,
quay mặt về phía Nam, miệng lẩm bẩm khấn khứa rất lâu. Hai người tôi - Trần Thiện
với Như Tùng - quỳ ở một bên giường, trong lòng lo sợ, đau đớn..."
Nhị nương hỏi:
- Bạch cụ, còn ai nữa không, hay chỉ có hai người ấy?
- Chỉ có hai người ấy, Những người khác đã bị đày cả đi các
nơi. Hoàng ích Hiểu bị đày ra Y lệ, Lê Hân ra Phụng Thiên, Quốc Đống ra Cát
Lâm, Việt Triệu, Văn Chương ra Nhiệt Hà.
Hoàng phi thở dài nguyền rủa:
- Cha đời quân Mãn Thanh! Thế rồi sao nữa, bạch cụ?
- Tâu lệnh bà. Thánh thượng vẫn tỉnh lắm. Ngài bảo Trần Thiện
lấy giấy bút thảo tờ di chiếu, lập Duy Khang, tức Như Tùng Lê duy Vượng lên kế
nghiệp, giữ hương hoả hoàng phả, phụng thờ đức hoàng thái hậu.
Đọc xong, Thánh thượng cười chua chát nói tiếp: "Hương
hoả của trẫm chắc cũng chẳng còn mấy?"
Trong phòng yên lặng, lạnh lẽo. Hai người tôi vẫn quỳ bên giường.
Bỗng Thánh thượng nắm lấy tay Trần Thiện mà rằng:
"Các người theo trẫm trên con đường khốn quẫn, cùng trẫm
nằm gai, nếm mật mong có ngày lấy lại giang san... Ngờ đâu trẫm gặp phải vẫn nước,
vận nhà chẳng ra gì, đến nỗi không giữ nổi được xã tắc, phiêu bạt quê người...
Nay trẫm chết là linh hồn trẫm được yên... Trẫm thương các ngươi không biết còn
đeo cái khổ, cái nhục đến đời thủa nào."
Trần Thiện khóc mà tâu rằng:
"Muôn tâu Thánh thượng, vua tôi có ngờ đâu gặp phải bọn
quyền gian đánh lừa như thế này để đến nỗi Thánh thượng âu sầu căm tức là long
thể mang đau, Hạ thần xin thề rằng, nếu Bệ hạ có mệnh hệ nào, thì kẻ hạ thần
xin tận tâm báo được thù này..."
Hoàng thượng cười và an ủi:
"Thôi, không nên trách người ta làm gì, chỉ nên trách
mình mà thôi. Vả ngày nay, vận mệnh nhà Lê ta đã hết, các ngươi dẫu có chống chọi
đi nữa có lẽ cũng không ăn thua gì. Ta chỉ ước mong có một điều sau này các người
được về nước."
Bấy giờ các ngươi mang hài cốt ta về, phụ táng vào sơn lăng
liệt thánh, để tỏ bụng ta; các ngươi nên nhớ kỹ điều ấy, cùng là truyền báo cho
các quan ở xa được biết.
Trần Thiện, Như Tùng khóc nức nở vâng mệnh.
Thánh thượng nằm nghỉ một lát, rồi lại nói:
"Khi trẫm bị quân Tây sơn đuổi, kịp bỏ chạy sang đây, đến
cửa Nam quan thì thấy lạc mất hoàng phi. Trong mấy năm nay trẫm hằng lo lắng chẳng
biết hoàng phi trốn tránh nơi đâu hay đã bị quân giặc hại mất rồi. Nếu sau này
về nước, các ngươi còn có gặp Hoàng phi, thì xin vì trẫm trông coi cho tử tế.
Trẫm nhờ Trần Thiện trao cho hoàng phi cái nhẫn này, Hoàng phi đeo ở tay chắc lại
nhớ đến trẫm, mà biết rằng ở nơi đất khách quê người trẫm không bao giờ quên kẻ
chung tình."
Phổ Mịch ngừng kể, xin phép đứng dậy mở hòm lấy ra cái nhẫn
vàng trổ lưỡng long chầu nguyệt đưa nộp Hoàng phi.
- Tâu lệnh bà, cái nhẫn này, Trần Thiện sợ thất lạc đã gửi bần
tăng giữ giúp, nay bần tăng xin dâng lên lệnh bà.
Hoàng phi ứa nước mắt đỡ lấy vẫt kỷ niệm của người xưa, đeo
vào ngón tay mà lẩm bẩm:
- Bệ hạ! Bệ hạ!
Nhị nương ghé vào tai Hoàng phi nói thầm:
- Tâu lệnh bà, cái nhẫn ấy, xin lệnh bà gói lại cất đi, đeo
vào tay như thế, sợ có nguy hiểm.
Hoàng phi khóc nức nở:
- Từ nay ta còn sợ gì nguy hiểm tới thân ta nữa. Ta sống đến
nay chỉ mong mỏi có ngày được gặp long nhan, nhưng nay... ta chỉ còn lấy cái
thác đền lại ơn tri ngộ của Hoàng thượng.
- Thiết tưởng lệnh bà càng nên giữ gìn quý thể để mai sau,
khi rước hài cốt Hoàng thượng về nước, còn được nhìn thấy cùng là trông nom việc
mai táng trong sơn lăng liệt thánh.
Hoàng phi vụt tỉnh ngộ:
- Em nói rất phải. Chị đợi đến ngày ấy hãy xuống cửu tuyền hầu
Thánh hoàng cũng không muộn.
Rồi quay lại hỏi Phổ Mịch:
- Hoàng thượng thăng hà vào năm nào, ngày nào, giờ nào, bạch
cao tăng?
- Tâu lệnh bà, bần tăng đã biên chép cẩn thận. Thánh thượng
thăng hà giữa giờ Dần, ngày mười sáu, tháng mười, năm Quý sửu. Ngài thọ hai
mươi tám tuổi.
Hoàng phi lấy bút chép lại ngày tháng vào một mảnh giấy, gập
lại bỏ vào bọc và phàn nàn:
- Chẳng biết mấy năm nay, có ai nhớ ngày húy ky Hoàng thượng
mà cúng giỗ không?
Phổ Mịch đáp:
- Tâu lệnh bà, thế nào ở bên Bắc Quốc, Duy Khang chẳng đèn
nhang thờ phụng Tiên đế. Còn như ở bản sơn môn đây, thì năm năm vẫn nhớ ngày
húy, lập đàn cầu nguyện lên vong linh Tiên đế.
- Đa tạ cao tăng, cao tăng đừng quên hoàng tử nhé!
- Xin vâng... Nhưng bây giờ thì rước lệnh bà xơi lưng cơm
chay cho đỡ đói.
Liền bảo các chú tiểu sắp cơm, trong khi hoàng phi và Nhị
nương ngồi sụt sịt thì thầm nói chuyện.
Hồi 21
Thanh Xuyên Hầu
Thanh Xuyên hầu, Trương Đăng Thụ là một trang thiếu niên tuấn
tú, con quan Kiến Xuyên hầu, người làng Thanh Nê, trấn Sơn Nam.
Kiến Xuyên hầu làm thượng thư bộ lễ thời chúa Trịnh Sâm. Khi
Sâm mất, Khải và Cán chia ra hai phe đánh cướp nhau ngôi chúa, thì hầu chán nản
cáo quan về làng, Trương Đăng Thụ hồi đó đang làm hiệp trấn Lạng Sơn.
Kịp khi Tây Sơn dứt nhà Lê, vua Chiêu Thống qua trấn Lạng
sang Tàu, Thụ xin hộ giá tòng vong, nhưng vua truyền ở lại xem xét tình hình
trong nước và để sau này làm nội ứng cho quân cứu quốc ở ngoài đưa vào. Thụ ép
lòng nhậm chức cũ, đợi xem Tây Sơn xử trí ra sao. Chàng nghĩ thầm: "Dù có
vì thế mà bị hại, thì cũng là một cách báo đền ơn vua".
Triều đình Tây Sơn có rõ điều ấy chăng? Chỉ biết rằng vua
Quang Trung săn sóc đến bọn bầy tôi nhà Lê một cách tha thiết, chu đáo. Ai đi
trốn thì tìm về cho làm quan, ai ở chức cũ thì cất nhắc lên chức trên, còn những
người nào nhất quyết từ chối không chịu nhận quan tước thì đẽ mặc ý về quê an
cư lạc nghiệp, không phiền nhiễu tới. ĐÓ chỉ là một chính sách thu phục nhân
tâm, có chi lạ.
Cũng vì thế mà Trương Đăng Thụ đương ở chức hiệp trấn được nhắc
lên chức trấn thủ. Nhưng ta đừng vội tưởng đó là sự khoan hồng của nhà Tây Sơn.
Trong chính giới, không có cai gì người ta làm vì tình cảm hết, ở đời nay hay ở
đời Tây sơn cũng vậy. Trước kia, Trương Đăng Thụ còn ở chức hiệp trấn thì tuy
dưới quyền quan trấn thủ nhưng bao binh lực chốn biên thuỳ đều ở trong tay
mình. Nay được thăng chức trấn thủ tức là bị tước hết binh lực. Vả viên hiệp trấn
mới lại là một tướng thân tín của vua Tây Sơn từ Quảng Nam theo vua ra Bắc, và
một số đông binh lính mới lại là người đường trong, trung thành với nhà vua, với
triều đình Vậy thì quan trấn thủ Trương Đăng Thụ thực chẳng khác một tên tù
giam lỏng, tuy vẫn được quan hiệp trấn và các viên liêu thuộc rất tôn trọng.
Trương Đăng Thụ cũng thừa hiểu, nhưng phải vờ trung thành với
triều đình mới, dù ngày đêm vẫn lo mưu khởi nghĩa để phục hưng nhà Lê.
Một hôm lòng buồn bực, trí chán nản, Thụ đến vãn cảnh chùa
Tam thanh, và nhận thấy sư cụ Phổ Mịch là một bậc cựu thần nhà Lê. Hai người liền
đem tâm sự ra kể lể. Lúc bấy giờ sư cụ mới bỏ lòng khinh bỉ Thanh Xuyên hầu, vì
trước kia vẫn tưởng lầm rằng hầu ham công danh, phú quý, bỏ vua theo giặc.
Nghe sư cụ thành thực tạ lỗi, Thanh Xuyên thở dài mà rằng:
- Sư cụ, - xin cứ xưng hô như thế cho tiện - sư cụ ngờ oan
cho Thụ này, thật chẳng có gì là quá đáng. Thời này, ai đã dễ mà tin hẵn được
ai? Bậc trung thần nghĩa sĩ, anh hùng khảng khái thì ít, mà đồ siểm nịnh ham
danh vụ lợi thì nhiều.
Những hạng siểm nịnh ấy, tôi có trách đâu. Cái chí bình sinh
của họ ở chổ vinh thân phì gia, thì họ cứ việc mà theo cái chí lớn ấy cho kỳ tới
mục đích, nào ai cấm đoán, mà nào ai bảo sao... Tôi chỉ trách riên bọn bầy tôi
nhà Lê ngoài miệng leo lẻo những chữ trung quân, ái quốc, phò Lê diệt tặc, mà
trong lòng chứa đầy sự ham muốn cho mình, cho vợ con mình. Tôi chẳng cần kể tên
bọn họ ra đây, vì chính tôi cũng đương ở một điạ vị vừa khả nghi vừa khó xử...
Nhưng sư cụ thử nghĩ xem, lúc phò thánh giá, bọn kia nói những gì khảng khái biết
bao? Thế mà bây giờ tôi chỉ biết mấy thằng trong đám nghĩa binh xưa đang dự vào
những chức trọng yếu trong triều... Sư cụ đừng ví họ với tôi. Tôi chỉ là một
tên tù giam lỏng mà thôi, không có quyền binh gì trong tay. Chứ bọn họ - bọn đồng
chí xưa của ta - thì trái hẳn, nay họ chỉ hô một tiếng là đầu chúng ta rụng, họ
chỉ vẫy tay một cái là cả một hạt bị tàn phá. Công to của họ đối với triều đình
Tây Sơn là đã hoặc dụ hàng, hoặc chém giết hàng trăm hàng nghìn bậc cựu thần
nhà Lê. Tôi đây hẳn là cái gai trước mắt bọn họ, họ chỉ chờ dịp bứt đi mà thôi.
Phổ Mịch hết lời an ủi Thụ, rồi đem công việc đảng Tiêu Sơn
ra bàn. Thanh Xuyên hầu cả mừng mà rằng:
- Tôi vẫn nghe đất Kinh Bắc có nhiều bậc anh hùng. Bây giờ mới
biết rằng một đảng lớn mới thành lập ở đấy. Thực là đại phúc cho nhà Lê ta!...
Nhưng có phải dư đảng của Nguyễn Đoàn không?
- Không, đảng trưởng đảng Tiêu Sơn là Phổ Tĩnh thiền sư.
Nhưng mới có cựu quân sư của Nguyễn Đoàn nhập đảng.
- Phạm Thái phải không, bạch sư cụ?
- Chính Phạm Thái, thế ra ngài biết cũng tường tận lắm nhỉ.
Từ hôm đó thỉnh thoảng Trương Đăng Thụ lại đến vãn cảnh động
- chàng không ra luôn, sợ gợi lòng nghi ky của viên hiệp trấn. Nhưng sau chàng
nghĩ được một diệu kế là vờ ham mê đạo Phật, mua đủ cách thứ kinh về xem, rồi
đoạn sách nào không hiểu, lại thân ra chùa Tam Thanh hỏi sư cụ.
Viên hiệp trấn thấy vậy chỉ cười, cho trấn thủ là người mê
tín đạo Phật và không đáng đề phòng cẩn mật lắm như triều đình đã có lệnh:
"Phải, còn có việc gì, chẳng xem kinh Phật thì làm cái gì?" Viên hiệp
trấn lấy làm đắc chí, tâu luôn mấy điệp sớ về triều, kể tình trạng sự thay đổi
tâm tính của Thanh xuyên hầu.
Nhưng trong khi ấy Phổ Mịch và Trương Đăng Thụ vẫn được bình
tĩnh cùng nhau bàn quốc sự. Rồi nhờ Phổ Mịch giới thiệu, Thụ xin vào đảng Tiêu
Sơn và biên thư xin Phổ Tĩnh phái Phạm Thái lên trấn Lạng để cùng hai người lo
toan việc lớn.
Hồi 22
Tâm Sự
Bấy giờ vào quá giờ Tý. Dẫy nhà thấp lụp xụp mái lơp ngói kiểu
tàu nằm ngủ dưới ánh sáng yên lặng của trăng tà. Gần đấy, về phía tây bắc, mấy
quả núi đá Kỳ Lừa lù mù lấp lánh trong sương. Đứng bên bờ sông Kỳ Cùng trông
sang, cảnh ấy hiện thành một bức tranh thủy mạc Tàu chấm phá trên nền lụa màu
vàng ám khói.
Cách xa hẳn dẫy phố, bên con đường nhỏ rẽ vào động Tam Thanh,
một toà nhà cao rộng hơn, nhưng cùng làm theo một kiểu kiến trúc. Một bức tường
xây bằng đá ong, trên ngọn có cắm mảnh sành vỡ, bao bọc nơi dinh cơ ấy, trông
như một cái thành quách nhỏ vậy, tuy xung quanh không có hào. Trong vườn nhô
lên những đám lá cây thưa nhặt, thấp thoáng trong trăng, khiến cảnh thâm u lặng
lẽ kia bớt vẻ buồn tẻ, lạnh lùng.
Đêm đã khuya, thế mà một nhà sư trẻ tuổi còn lần mò đến gõ cổng
nơi biệt thự. Sau một hồi chó sủa inh ỏi, có tiếng hỏi ở phía trong:
- Ai! Ai đến khuya thế?
- Tôi.
- Tôi là ai mới được chứ?
- Tôi đây mà! Bần tăng đây mà!
Tiếng mắng đuổi chó, tiếng lách cách mở then rồi cánh cổng từ
từ hé. Người bên trong cất tiếng run run, se sẽ hỏi:
- Có phải Phổ Bác thiền sư đấy không?
Người đứng ngoài cũng se sẽ trả lời:
- Phải.
- Trời ơi! Sao đêm hôm khuya khoắc mà lệnh bà lặn lội...
Hoàng phi sợ hãi vừa quay đầu nhìn phía sau lưng vừa thì thầm:
- Im!
- Sao thế, tâu... bạch sư ông?
Hoàng phi bước vội vào:
- Đóng cổng lại đã. Hình như có bóng người theo sau.
Rồi hai người cùng đi vào trong nhà.
Độc giả hẳn đoán biết người vừa ra đón tiếp Hoàng Phi là Nhị
nương. Nhưng sao Nhị Nương lại đến ở đây?
Nguyên biệt thự này, quan trấn thủ Thanh Xuyên hầu dựng lên
đã dăm năm nay, dùng làm nơi nghỉ mát để thỉnh thoảng đến đọc sách, ngâm thơ,
di dưỡng tinh thần những khi nhàn hạ, rảnh việc quan. Nhất từ ngày ngài ham khảo
cứu đạo Phật, thì ngài càng năng lui tới nơi đó để được cùng sư cụ Tam Thanh
thuyết minh nghĩa mầu nhiệm của kinh Phật.
Kỳ thực, lập ra lớp riêng, Trương Đăng Thụ chỉ có một mục
đích hưng Lê, hội họp anh em đồng chí để bàn việc lớn chống chọi với Tây Sơn.
Hai tháng trước Hầu có ngỏ lời nhờ Phổ Mịch thiền sư tìm cho
một người tin cẩn thông chữ nghĩa để vừa trông nom nhà, vừa biên chép kinh Phật,
cùng văn thơ.
Nhân gặp giữa lúc Phạm Thái và Nhị nương phò giá Hoàng phi
lên Lạng, sư cụ liền đem Nhị nương ra giới thiệu là một người cháu họ tên gọi Nguyễn
Đức Minh.
Thế là đương đóng vai phong lưu công tữ, Nhị nương đã đổi ra
đóng vai quản gia tại biệt thự quan trấn thủ. Trong khi ấy Phạm Thái ở lại tạm
trụ trì một ngôi chùa gần Tam Thanh và Hoàng phi đến trú ở chùa Tiên, có đầy tớ
tinh cẩn chủa Thanh Xuyên ăn mặc giả làm tiểu ở trông nam hầu hạ luôn bên mình.
Ham nay chừng có điều khẩn thiết hay nguy kịch muốn ngỏ cùng
Nhị nương, Hoàng phi bỏ chùa lần tới đây chăng? Chính Nhị nương cũng đoán thế
nên vừa vào trong phòng, nàng đã lo sợ thì thầm hỏi:
- Tâu lệnh bà, có việc gì quan trọng thế?
- Không, chả có việc gì quan trọng cả, nhưng hôm nay không biết
sao, chị nóng ruột quá.
Nhị nương thở dài:
- Lệnh bà làm tôi giật mình kinh hoảng, tưởng đã xảy biến. Mà
tôi cũng vậy, tâu lệnh bà, lòng tôi cứ xót như bào, đêm nay không sao nhắm mắt
ngủ yên được.
Tôi đương một mình tản bộ ngoài vười thì nghe có tiếng lệnh
bà gọi cổng.
Hoàng phi buồn rầu nói:
- Em ạ, từ hôm nghe tin hoàng đế thăng hà, hoàng tử qua đời đến
nay, chị sinh ra mê sảng luôn. Động nhắm mắt là lại thấy haòng thượng về đứng
bên giường.
Có khi muốn tránh những giấc mơ đau lòng, chị đã thức suốt
đêm tụng kinh niệm Phật, cầu cho vong linh thánh thượng cùng hoàng tử.
Nhị nương nghe Hoàng phi nói, chỉ ngậm ngùi thở dài. Rồi nàng
hỏi:
- Mấy chén thuốc tôi lấy hầu lệnh bà, lệnh bà đã xơi chưa?
- Cám ơn em, chị uống cũng thấy dễ chịu, nhưng sốt ruột thì vẫn
còn sốt ruột.
Hôm nay vì chị đứng ngồi không yên về nỗi sốt ruột, nên chị
phải vội đến thăm em để nói chuyện cho khuây khỏa.
Nhị nương chợt nghĩ đến con sông Kỳ Cùng:
- Nhưng ai chở thuyền hầu lệnh bà sang ngang?
- Vẫn có anh lái đò của sư Phổ Mịch đỗ thuyền ở bến. Chị nói
sư cụ cho tìm, nên người ấy vội vàng chở ngay. Nhưng còn em, vì cớ gì mà em
cũng băn khoăn không ngũ?
- Tâu lệnh bà, tôi cũng không hiểu vì cớ gì mà đêm nay tôi lại
nóng ruột quá thế Tôi lo đã xảy ra sự gì bất trắc ở Tiêu sơn, nên có tâm linh
báo cho biết như vậy Tôi muốn một hai hôm nữa về thăm đảng trưởng cùng anh em đồng
chí, nhưng lại e lệnh bà ở đây một mình...
Hoàng phi vội đỡ lời:
- Nếu em về thì chị cũng về. Chị ở đây gần Trung quốc là nơi
hoàng đế thăng hà, lòng chị đau thương không rứt. Vì thế chị cũng muốn về Bắc để
được nhất tâm niệm Phật mà quên đau khổ.
Ngừng một lát không thấy Nhị nương đáp lại. Hoàng phi nói tiếp:
- Nhưng chị thấy em cũng khổ sở thì chị lại muốn quên nỗi thống
thiết của chị đe để an ủi em. Hình như em có điều gì dấu chị?
Nhị nương vẫn ngồi im. Bỗng Hoàng phi nghe thấy nàng nức lên
một tiếng.
Bà vội cầm lấy tay nàng, ôn tồn khuyên bảo:
- Chị em ta cùng gặp một cảnh ngỗ, tưởng em chẳng nên giấu chị
một điều gì.
Đấy em coi, xưa nay có một ý nghĩ gì mà chị không ngõ cho em
biết?
Nhị nương lặng lẽ để bàn tay trong tay Hoàng phi rồi thong thả
nói:
- Thưa chị - vì lệnh bà đã cho phép tôi được kêu lệnh bà là
chị...
Hoàng phi vui vẻ ngắt lời:
- Phải, chị muốn em gọi chị là chị, như thế vừa thân vừa kín
đáo.
- Thưa chị, tâm sự của em, em chưa ngỏ cùng ai. Nhiều khi đêm
khuya thanh vắng, gồi một mình em lấy làm tự thẹn về những ý nghĩ bất chính của
em. Vì, thưa chị những ý nghĩ ấy thật là bất chính. Em xin cứ thực tình dể hầu
chị nghe:
"Từ ngày em rời bỏ tỉnh Nghệ, mang tấm thân phiêu bạt đi
khắp đó đây, em đã tự thề với em rằng em còn sống một ngày nào, thì đời em, em
hoàn toàn hiến cho sự báo thù cha, cho sự trả ơn chúa. Cũng vì thế mà em dấn
mình vào nơi nguy hiểm, đi tìm thầy học võ, tìm bạn đồng chí để gây thế lực.
"Thế rồi một đêm em gặp Trần Quang Ngọc, cùng nhau lập đảng
Tiêu Sơn".
Hoàng phi kinh ngạc:
- Vậy ra chính em đã cùng Quang Ngọc, sáng lập đảng Tiêu Sơn?
- Vâng, sau khi em cùng chàng giết được tên ác tăng tu hành ở
chùa Tiêu Sơn.
Rồi một ngày, đảng một thêm đông, một ngày em một thêm mến phục
Quang Ngọc, mến vì nết, phục vì tài. Nhưng xin thú thực với chị rằng ngoài sự mến
phục ra, không có gì nữa. Quang Ngọc coi em như một đảng viên khác bên nam giới
mà thôi, còn em thì mải mê man trong cuộc hành động... em không bao giờ để lòng
em . . .
Nhị nương im bặt như lấy làm hổ thẹn về lời thú tội của mình.
Hoàng phi thở dài đáp :
- Thế thì em đáng thương lắm. Chị hiểu em rồi. Em ạ, chị em
mình muốn khảng khái, muốn hiến thân cho việc lớn đến bực nào mặc lòng, cũng chẳng
bao giờ thoát khỏi được ra ngoài vòng thường tình nhi nữ. Nhưng em ơi, nặng chữ
tình thì có phạm tội gì đâu. Mà theo đuổi việc lớn thì sao lại không được có
tình?
Nhị nương ngập ngừng:
- Nhưng... thưa chị, Quang Ngọc đã mặc áo cà sa.
- Không em ạ, Quang Ngọc tuy mình mặc áo cà sa, mà vẫn giữ một
linh hồn một trang hiệp sĩ. Sống tạm trong tấm áo kẻ tu hành để làm việc lớn
không phải hoàn toàn là kẻ tu hành. Đã không phải là kẻ tu hành, thì em có thể
mong được mai sau...
Nhị nương bỗng ngồi ngay lại, nói dắn dỏi:
- Tạ ơn chị. Không, thưa chị, không bao giờ ta được nhu nhược.
Em xin tự xử làm sao cho xứng đáng lòng tin cậy, lòng quý mến của Quang Ngọc, của
đảng trưởng. Thưa chị, em nhất định không bao giờ chịu để ngữ "nhi nữ tình
trường, anh hùng khí đoản" lại không đúng nghĩa đối với cả những hạng người
theo đuổi việc lớn như Quang Ngọc?
Hoàng phi cảm động khen một câu:
- Em nghĩ rất phải.
Hồi 23
Cái Cũi Người
Nhị nương nóng ruột, thực không phải vô cớ nếu ta tin có sự
viễn truyền tư tưởng.
Mà sao lại không có?
Thực vậy, ở Tiêu Sơn, anh em đồng chí rất mong mỏi Nhị nương,
vì gặp nhiều sự nguy biến, và cần phải có tài do thám của Nhị nương để phá sự
do thám khốc liệt của triều đình.
Trong mấy tháng trời, nhà ngục thất phủ Từ Sơn không đủ chỗ
giam tội nhân, đến nỗi đã phải dựng thêm một nhà nữa. Mà sự bắt bớ và tra tấn vẫn
tiến hành, sự canh phòng thì rất cẩn mật. Viên phủ tri đã xin thêm lính trấn về
và lại mộ thêm lính dõng nữa. Hình như sau khi quân giặc luôn hai lần náo động
phủ đường, viên phủ tri lấy làm căm tức lắm, thề răng thế nào cũng báo thù lại
một cách đích đáng.
"Muốn báo thù phỏng có khó gì? Viên phủ tri vẫn ngẫm
nghĩ thầm, rồi lập tức kén những tay tài giỏi, tài về ngôn ngữ giảo quyệt, và
giỏi đủ cả các môn võ hiểm để phòng thân. Một mặt cho bọn ấy đi khắp các làng,
các xóm trong dân quê do thám, một mặt dùng tiền để dụ những học trò nghèo hay
chữ mà họ đóan chừng thuộc đảng Lê thần.
Cố nhiên có nhiều kẻ túng đói giả danh là thuộc đảng nọ đảng
kia ra tâng công khai man hết điều này điều khác, mục đích chỉ cốt được lĩnh tiền
thưởng. Rồi vì thù riêng cũng có, vì người ta xui dục cũng có chúng nó cung
khai ra toàn những người hoặc có chút danh vị, hoặc có chút tư bản. Nào người
này đã nhiều lần oa trữ Phạm Thái, nào ở nhà kia họ thấy cái áo lụa của bà
Hoàng phi. Trí tưởng tượng của họ đem đến cho họ chẳng thiếu gì tang chứng. Nếu
xét ra tang chứng ấy không có, thì hắn là kẻ tàng nặc đã tiêu hủy đi rồi, tội
càng nặng. Nhưng tội nặng ấy cũng sẽ được tiêu hủy, nếu tội nhân có đủ trí
thông minh trong khi nói chuyện riêng với viên phủ tri hay viên phân suất ở nơi
nhà tư.
Thôi thì tiếng kêu khóc của bọn bị tra tấn chẳng ngày nào là
không làm rung động lòng dân đối với hai viên quan đã lên đến cực điểm. Đi đâu
cũng nghe thấy lời ta thán, thì thầm với nhau, trong khi cặp mắt nhớn nhác nhìn
trước nhìn xem có ai nấp đâu đó nghe trộm. Phòng bị như thế mà co lkhi cũng
không thoát đấy. Một lần một người bị bắt lên phủ, vì một câu khí khái hão nói
riêng với vợ ở trong phòng kín. Người ấy kinh ngạc thú nhận, nhưng nhờ về một
thứ mà ai cũng có thể đoán ra, người ấy được tha ngay. Sự thám thính có hiệu quả
ghê gớm như thế làm cho nhân dân hạt Từ Sơn sinh ra nao núng, ngờ vực. Cha con,
anh em, vợ chồng cũng không dám tin nhau nữa.
Kể ra, tuy sự do thám có kết quả mà viên phủ tri cũng chỉ biết
bắt giam những người ra mặt hay ngấm ngầm phản đối triều đình Tây Sơn. Còn những
người ấy thuộc đảng nào vẫn chẳng sao dò ra được. Cách lập đảng bí mật, tính kín
đáo và chí gan liều của các đảng viên làm cho sự tra khảo mất hẳn hiệu nghiệm.
Chẳng thế mà chưa một lần nghe đọc đến tên đảng Tiêu Sơn, tuy trong đám tội
nhân bị giam có rất nhiều đảng viên: Ba nhà sư bị bắt đương đi phát hịch và đến
hơn chục người ở ngoài tăng già.
Giữa thời bắt bớ nhộn nhịp ấy, một buổi chiều bốn người lực
lưỡng, y phục nai nịt gọn gàng khiêng đến phủ Từ sơn một cái củi lớn nhốt một
thiếu niên dõng sĩ vẻ mặt tuấn tú, thân thể vạm vỡ. Người ấy mặc có một cái quần
vải thô; cái khăn nhiễu tam giang đội vụng che không kín hết cái đầu chơm chởm
tóc mọc cứng như cỏ ruộng mới cắt. Mình mẩy cởi trần và mang đầy những vết
thương còn rớm mau.
Thấy bốn người khiên cái cũi xồng xộc đi vào cầu treo, lính
canh cổng giữ lại hỏi:
- Đi đâu?
Bốn người đặt cái cũi xuống đất, nói vào hầu quan có việc rất
khẩn cấp.
- Nhưng việc khẩn cấp là việc gì mới được chứ? Mà các chú nhốt
con gì ở trong cũi thế?
Thật ra mắt chú lính cũng hơi kèm nhèm, nên đứng đằng xa nhìn
thấy vật đen lục đục trong cũi, chú ta đoán già ngay rằng bọn kia đi săn bắn được
con hươn nai khiêng đến biếu quan. Không nghe thấy trả lời, người lính lại hỏi:
- Ừ, các chú biếu quan con gì thế?
- Người!
Chú lính kinh hãi:
- Người! Biếu người!
Bấy giờ chú mới lại gần ngắm nghía kẻ bị nhốt trong cũi:
- Ấy này! ăn cắp, ăn trộm gì mà các chú đánh người ta máu me
thế kia?
- Nhờ cậu vào trình quan cho, rằng chúng tôi khiêng đến nộp
quan một tội nhân rất quan trọng.
Chú lính gắt:
- Nhưng người ấy là ai mới được chứ?
- Phạm Thái!
Tức thì mặt người lính tái hẳn đi. Rồi người ấy ấp úng:
- Phạm... Thái. Người bị nhốt trong cũi là Phạm Thái?
Người nọ bảo người kia, nhắc đi nhắc lại hai chữ Phạm Thái.
Chỉ trong chốc lát, cái tên ghê gớm ấy truyền ở cửa miệng khắp mọi người trong
phủ. Đến nỗi người lính canh cổng chưa kịp vào trình báo, hai viên phân phủ và
phân suất đương nguồi nói chuyện ở công đường đã tất tả chạy ra cổng:
- Đâu? Phạm Thái đâu?
Ai nấy đứng giãn ra. Người lính lại gần giơ tay trỏ bọn
khiêng cũi mà nói răng:
- Bẩm ông lớn bốn tên này vừa đem nộp.
Cặp mắt ngờ vực của viên phân phủ đăm đăm nhín thẳng vào mặt
bốn người:
- Chúng mày bắt được Phạm Thái? Bộ chúng mày bắt nổi Phạm
Thái?
Một người trong bọn lễ phép lại gần, vái dài, trả lời:
- Bẩm hai ông lớn, Nguyễn công tử chúng tôi sắp đến hầu hai
ông lớn. Công tử chúng tôi cho chúng tôi khiêng tội nhân đến nộp trước, rồi xin
lại sau.
Đoạn, người ấy thuật rất rành mạch cuộc chiến đấu của Nguyễn
công tử với Phạm Thái; Nguyễn công tử ở Sơn Nam, lên ngoạn du trấn Bắc vì nghe
tiếng miền Bắc có nhiều thắng cảnh, mà số anh hùng hào kiệt lại rất đôgn. Công
tử là người võ nghệ cao cường, văn chương lỗi lạc, nhưng không hề khinh xuất sự
thủ thân bao giờ. Vì thế đi đâu cũng có một bọn bốn kẻ dõng sĩ theo liền bên hộ
vệ đề phòng sự công kích bất thần.
Buổi trưa hôm nay vừa sang qua bến đò Kim lũ thì gặp một người
tự xưng là Phạm Thái đêm theo dăm tên bộ hạ ra cản đường đòi tiền mãi lộ. Nghe
hai chữ Phạm Thái, Nguyễn công tử chẳng nói chẳng rằng, xuống ngựa rút kiếm
xông vào đánh liền. Phạm Thái cũng rút dao ra nghênh địch.
Nghe người khiêng mình kể chuyện, Phạm Thái ở trong cũi luôn
mồm lớn tiếng chửi rủa. Đến nỗi viện phân suất cáu tiết phải đạp mạnh vào cũi
mà mắng răng:
- Im ngay! Tên giặc cỏ!
Rồi quay lại bảo người kia kể nốt câu truyện.
- Bẩm hai ông lớn, võ nghễ Phạm Thái, người ta ca tụng quả
không ngoa.
Công tử chúng tôi phải dùng mưu mới đánh ngã được hắn. Mưu ấy
là giả thua để Phạm Thái đuổi theo, rồi bất thình lình quay lại đánh miếng đà
đao.
Một tiếng chửi lớn ở trong cũi bay ra:
- Đồ khốn nán! Đồ cắn trộm! Còn khoe mẽ gì!
Viên phân phủ lại bên cũi ghé mắt nhìn qua khe chấn song.
Phân suất vội vàng kêu:
- Ngài đứng xa ra một tý.
Người kể chuyện lễ phép thưa:
- Ông lớn không ngại. Chúng tôi đã trói cẩn thận chân tay hắn
rồi.
Quả thật chân tay người bị nhốt đều nặng trĩu những giây thừng.
Phân suất ngắm nghía, mỉm cười hỏi:
- Khốn nạn! Mình mảy bị đầy những vết thương như thế kia có
đau không?
Phân phủ trù trừ:
- Có lẽ hãy để đến mai. Bây giờ gần tối rồi trông không rõ,
ta hãy cứ tống cái cũi vào ngục thất đã, như thế chắc chắn hơn.
Quả thực, câu truyện chiến đấu kể dềnh dàng mất đến quá nửa
giờ, nên lúc đó trời đã sặp tối Phân phủ liền cho khiêng cũi Phạm Thái vào ngực.
Bốn người nhà Nguyễn công tử cùng xin theo xuống trại ngồi chờ chủ sắp đến.
Hồi 24
Nguyễn Công Tử
Phân phủ xuống lệnh mở tiệc ăn khao. Một tiếng dạ ran. Tức
thì nào cai, nào lính đem trát quan đến làng sở tại bắt lý trưởng đi mua trâu,
bò, dê, lợn. Rồi một lát, sau khói rơm thui súc vật bốc lên um cả một góc
thành. Tiếng cười reo vang đông tưởng như quan quân vừa thắng trận về.
Mà kể bắt sống Phạm Thái cũng là đại thắng rồi tuy không phải
chính tay mình bắt giặc. Một người quấy nước chọc trời bấy lâu nay, xuất quỷ nhập
thần chẳng còn ai dò ra tung tích, thế mà bỗng có người bỏ cũi đem nộp, thì phỏng
còn tin gì khiến hai tên viên quan và binh lính phủ Từ Sơn mừng hơn nữa! Thôi từ
nay tha hồ ngủ kỹ, đương đêm không còn nghe thấy phi báo: Phạm Thái quấy rối
vùng nọ, tống tiền vùng kia.
Vào khoảng cuối giờ Tuất, có tiếng trống báo, rồi tên lính
canh cổng vào trình rằng một viên tướng trẻ tuổi cười ngựa đến trước cổng thành
tự xưng là Nguyễn Thiêm, người bắt giải Phạm Thái, và xin ra mắt hai quan. Phân
phủ mừng rỡ, truyền lập tức đón công tử vào dự tiệc.
Ngài cùng phân suất thân ra tận cổng nghinh tiếp. Nguyễn
Thiêm xuống ngựa vái chào :
- Kính lạy nhị vị đại nhân, Nguyễn Thiêm xin ra mắt nhị vị đại
nhân.
Phân phủ và phân suất đáp lễ rồi khẩn khoản mời khách vào
công đường dự tiệc Nhưng khách cung kính vội gạt:
- Xin nhị vị đại nhân tha lỗi. Thiêm này chỉ xin đến chào nhị
vị đại nhân rồi lại phải đi ngay có việc cần.
Phân suất hấp tấp trả lời:
- Không được, thế nào cũng phải mời công tử dự tiệc. Vâng, ăn
mừng hôm nay cho bỏ những buổi lo lắng.
Nguyễn Thiêm nửa giọng mỉa mai, nửa giọng thật thà:
- Có làm gì cái thằng giặc cỏ ấy mà lo lắng.
Rồi làm như mình nói hớ, chữa liền:
- Với lại cũng vì nó khéo lẩn lút, chứ nếu không thì thoát thế
nào được với hai ngài? Hôm nay vì tôi may nắn cũng có mà vì nó khinh địch cũng có,
nên mới tóm được nó đem nộp hai ngài.
Phân suất cười khoái lạc, giọng tự phụ:
- Phải, nó rất tài lẩn lút, nếu không thì thoát sao khỏi tay
tôi?
Phân phủ lại ân cần mời mọc hai lần nữa. Nguyễn Thiêm mới chịu
nhận lời theo hai người vào trong phủ. Tức thì phân suất ra lệnh cho lính đi bắt
phường chèo về hát mừng.
Tiếng dạ ran. Rồi chỉ một lát sau đã thấy hai tên lính dẫn về
một gánh hát đông tới hơn hai chục người vừa kép vừa đào.
Thiêm khen:
- Giỏi nhỉ! Sao chóng thế?
Một tên lính chắp tay lễ phép thưa:
- Bẩm ba ông lớn, chúng con vừa đi được một quãng thì gặp bòn
này đương tiến đến phố phủ, định ngủ trọ một đêm để mai đi Kinh Bắc sớm. Chúng
con lập tức giải nộp.
Thiêm quay ra hỏi:
- Hát có khá không, anh trùm?
Một người thưa:
- Bẩm ông lớn, chúng con thường hát hầu cụ lớn trấn thủ nghe.
Thiêm mỉm cười:
- Thế thì hẳn là khá. Các chú người ở đâu?
- Bẩm, chúng con toàn người tứ chiến họp nhau lại thành phường.
Riêng con, người làng Phù Lưu nhưng đi phiêu bạt kiếm ăn đã có hơn mười năm
nay.
- Phù Lưu, người làng Phù Lưu thì hẳn hát khá.
Phân phủ nói:
- Thôi, anh em bảo nhau xuống trại ăn uống, rồi còn đóng trò
chứ. Ái chà! Làm gì mà lắm hòm thế? Những sáu cái.
Nguyễn Thiêm đỡ lời:
- Thưa ngài, bọn này chừng hát được, mà dễ thường nhiều xiêm
áo lắm đấy.
Bấy giờ tiệc rượn đã bày ra linh đình ở công đường. Ngoài sân
trước, hai hàng chiếu giải dọc, cỗ bàn có gần trăm mâm. Phân phủ mời Nguyễn
Thiêm vào ngồi bàn giữa. Khách, chủ nhường mãi nhau chỗ chính toạ. Về sau phân
suất phải đứng lên vì phân phủ mời hộ:
- Có bữa tiệc hôm nay là nhờ ở tài của công tử. Công tử chẳng
nên từ chối để làm phiền lòng quan lớn tôi.
Nguyễn Thiêm nể lời hai người mới chịu ngồi xuống mà nói nhún
rằng:
- Tôi tài hèn, trí thiển. lại còn ít tuổi mà được hai ngài
quá hậu đãi, chẳng biết sau này có đền được cái ơn tri ngộ cho xứng đáng không.
Vậy xin nâng chén rượn nồng chúc hai ngài trường thọ.
Phân phủ và phân suất cũng nâng chén rượn chúc oang oang,
hình như ai nấy đều vui mừng rằng trừ được Phạm Thái tức là trừ được mối lo cho
tất cả mọi người, cho nhân dân cũng như cho quan quân, nhất là cho quan quân.
Rượn uống được dăm tuần, Nguyễn Thiêm đầu hơi lão đảo say, đứng
dậy nói trong khi yến ẩm nên có cuộc vui. Phân phủ tưởng chàng nhắc đến hát
chèo liền gạt:
- Xin tan tiệc hãy hát chứ?
Nguyễn Thiêm cười ha hả:
- Không, thưa nhị vị đại nhân, không, không phải hát chèo.
Ngày xưa các bậc đế vương, công khanh khi dự yến đều có âm nhạc. Nhưng thiết tưởng
âm nhạc không phải thứ để bậc anh hùng tiêu khiển. Tôi xin hiến cái trò chơi
này thú hơn, vui hơn, mà mạnh mẽ hơn.
Nguyễn Thiêm ngừng lại đễ cười một dịp nữa, rồi nói tiếp:
- Thứ trò chơi ấy đại khái như thế này: đóng một cái cọc ở giữa
sân, rói một người vào cọc, rồi mỗi lần uống cạn chén rượn lại đánh một tiếng
trống cái, lại cầm dao sắc sẻo một miếng thịt... người.
- Sẻo thịt người bị trói?
- Chứ còn thịt ai? Bây giờ chỉ còn việc kiếm một người để
trói vào cọc. Người ấy tôi xin hiến...
Ai nấy lắng tai nghe. Nguyễn Thiêm đưa mắt nhìn một vòng rồi
dõng dạc tiếp luôn:
- Người ấy là Phạm Thái.
Mọi người vỗ tay hò reo:
- Bắt Phạm Thái trói vào cọc. Bắt Phạm Thái sẻo thịt!
Phân phủ vội đứng dậy bảo quân lính im ngay rồi lớn tiếng nói
rằng:
- Thưa công tử, kể tù nhân của công tử thì công tử có quyền
xin điều ấy thực.
Song tội nhân lại là tội nhân của triều đình, nên ta phải nộp
triều đình đã, sau này hết hắn vào hình phạt tùng sẻo hay hình phạt gì nữa,
cũng là tùy ở triều đình, bọn ta có phải là nhà pháp luật đâu, mà sân công đường
bản nha có phải là nơi pháp đình đâu?
ông khách lặng thinh, có ý ngồi suy nghĩ và không được hài
lòng.
Phân suất tính tình nông nổi, hấp tấp nói:
- Đại nhân nói rất hơp ý tôi. Vả lại ta còn phải nộp tội nhân
về triều để lĩnh thưởng chứ. Việc này đâu phải là một việc tầm thường. Bắt được
Phạm Thái há phải một việc dễ dàng mà phần thưởng há lại không xứng đáng sao?
ít ra là đại nhân thăng đến chức trấn thủ mà tôi đây nhẩy đến chức hiệp trấn. ấy
là chưa kể vàng bạc, vóc nhiễu hoàng đế ban cho đấy. Vậy thì ta khờ dại gì mà
giết Phạm Thái đi để mua vui trong chốc lát, cái vui vô ích thay!
Phân suất nói trúng ngay vào ý nghĩ của phân phủ. Nhưng kẻ võ
biền vô học kia không biết sửa sang lời nói cho có văn vẻ, khiến phân phủ lấy
làm ngượng về nỗi ông bạn đồng thành quá lỗ mãng và thật thà.
Liền chữa thẹn cho ông ta và cả cho mình nữa:
- Thưa công tử, công tử chưa biết tính quan phân suất đấy. Chỉ
được cái hay nói đùa... Ý nghĩ một đàng lại nói đi một nẻo để pha trò cho vui.
Chứ công tử còn lạ gì anh em chúng tôi, làm việc chỉ biết hết bổn phận, trên vì
vua, dưới vì dân, còn ngoài ra có cần một thứ gì nữa đâu?
Nguyễn Thiêm cười cười nói nói:
- Vâng, vâng đại nhân dạy rất phải. Vậy xin theo ý nhị vị đại
nhân hãy để cho Phạm Thái sống thêm ít ngày, tuy tôi vẫn thích cái hình phạt
tùng sẻo.
Phân phủ rùng mình nhìn ông khách lạ, yên trí rằng ông ta hẳn
là một tay tử thù của Phạm Thái.
Tiệc kéo dài đến mãi giờ Hợi. Lúc đó từ quan đến lính, ai ai
cũng say mềm.
Chỉ trừ bọn phường chèo sợ có giọng rượu, hát không được, nên
xin ăn cơm riêng ở dưới trại.
Chờ khi các mâm bàn dọn dẹp xong xuôi, anh trùm phường lên
xin hát. Quan truyền lấy liếp quây buồng trò ngay ở sân công đường. Một lát sau
tiếng trống chầu, tiếng trống hát nổi lên. Nhưng trong bọn lính có nhiều kẻ đã
say quá đã tìm một xó kín nằm vật ra ngáy như bò. Còn anh nào cố đứng lại xem
thì cũng ngủ gà ngủ vịt, đầu gật như mấy cái máy chầy giã gạo.
Rồi đến lượt phân phủ. Nhờ phân suất ngồi lại tiếp khách hộ,
ngài xin đi nằm một lát. ông khách vui vẻ mời ngài tự tiện. Mà sao chàng vẫn khỏe
khoắn và tỉnh táo như thế! Phân suất cố mở to cặp mắt lim dim ra để nhìn chàng
giơ thẳng tay vụt trống chầu, lòng tự nhủ thầm: "không trách nó bắt nổi Phạm
Thái! Càng uống, càng thức, nó càng tỉnh!"
Trong lúc ai nấy đương mơ mơ màng màng, bổng một tiếng pháo nổ.
Tức thì chàng công tử cầm chầu vất dùi trống, lanh lẹ rút kiếm thí cho phân suất
một nhát.
Tiếng hét ầm ĩ vang thành. Nhưng đó không phải tiếng của các
tướng chèo nữa. Những tướng giả ấy đã trở nên thực cả: cũng thực những binh khí
họ cầm trong tay khi ra múa may dưới sân khấu.
Họ vừa chém giết bọn binh lính đương mê ngủ, vừa tiến về phía
chổng phủ mà bốn chàng khiêng cũi cùng chủ tướng của họ, tức người bị nhốt
trong cũi, đã mở toang từ bao giờ.
Hồi 25
Tướng Ấy Là Ai?
Lần này là lần thứ hai, phủ Từ Sơn trở nên một bãi chiến trường.
Mà hai lần, quan quân đều mắc mưu bên nghịch và bị thiệt hại. Lần trước Đào
Phùng lừa cho phân suất kéo binh đi xa, rồi đến phủ cướp lại bà hoàng phi họ
Nguyễn, mưu ấy kể cũng đã cao. Nhưng lần này, viên tướng trẻ tuổi kia táo tợn
hơn nhiều, dám tự rạch mình mẩy, tự nhốt vào cũi sai quân khiêng nộp phủ, rồi
đang đêm phá ngục thất cứu hết thảy tù nhân ra, cả người trong đảng lẫn người
không thuộc đảng mình.
Viên tướng ấy là ai?
Phạm Thái thật đó chăng? Nhưng Phạm Thái là người biết thận
trọng, làm việc gì cũng cân nhắc phần thắng, phần bại từng ly từng tí. Dẫu lúc
phải quyết liệt thì chẳng ai quyết liệt bằng chàng, nhưng không khi nào không cần
làm liều mà chàng lại làm liều.
Tự nhốt vào cũi cho người khiêng nộp quan hẳn là một sự làm
liều, tuy đó là một thủ đoạn phi thường mà Nguyễn Nhạc đã dùng để cướp thành
Qui Nhơn.
Mà liều thực. Nếu lúc giải đến cổng phủ, viên phân suất nghe
nói đó là Phạm Thái, liền nổi cơn giận nóng nảy lên, cầm kiếm sỉa cho một ngọn
qua then cũi thì còn gì là đời kẻ bị nhốt ở trong? Rồi lại đến khi viên tướng tự
xưng là Nguyễn Thiêm, chừng muốn tỏ bụng trung thành của mình đối với triều
đình và lòng thù oán của mình đối với Phạm Thái đứng dậy bàn đem sẻo tù nhân để
làm cuộc vui trong yến tiệc. Nếu lúc bấy giờ phân phủ hay phân suất uống quá
vài chén rượn đến nỗi mất hết lương tri mà nghe theo lời bàn ghê gớm ấy, thì
cái thân thể anh chàng can đảm chẳng đã tan tành thịt nát, máu rơi rồi ư?
Lại nữa, trong phủ có rất nhiều binh lính, khí giới, và sự
canh phòng rất là nghiêm mật, biết khi ra tay, vài chục người của hai viên tướng
trẻ tuổi có chống nổi với mấy trăm quân của viên phân suất chăng? Tin ở lòng tự
phụ của viên phân suất, tin ở tính thích uống rượn của binh lính? Nhưng một ông
tướng cầm quân không được tinh phỏng như thế bao giờ.
Ấy là còn chưa kể điều này: Là nếu viên phân phủ có tính đa
nghi, khi thấy bắt được bọn phường chèo ở giữa đường một cách không được tự
nhiên, liền lừa vào tròng rồi giết sạch đi...
Những sự có thể xảy ra được đã không xảy ra nên cái mưu kế mạo
hiểm kia đã thành công. Nhưng một người như Phạm Thái hay Trần Quang Ngọc vẫn
không bao giờ dám dùng vì nếu mưu bại lộ thì chẳng những mình bị thiệt mạng mà
đảng mình cũng đến tan.
Nhưng tướng trẻ tuổi kia đã dám dùng vì tướng ấy là Lê Báo.
Duyên do có thế này:
Trong đảng Tiêu sơn xưa nay có việc dự định gì to tát muốn
đem ra trình bày cùng các đảng viên, thì bao giờ đảng trưởng Trần Quan Ngọc
cũng bàn trước với Phạm Thái, vì Phạm Thái là người mưu cơ, chiến lược. Không
những thế, những khi phải đi xa, Quang Ngọc còn thường giao công việc ở nhà cho
Phạm Thái trông coi nữa.
Đến như Lê Báo thì đảng trưởng chẳng dám phó thách cho những
việc quan trọng bao giờ, vì biết chàng có tính nóng nảy và hay cậy sức, cậy
tài, ưa phỉnh ưa nịnh.
Lần này Phạm Thái đã cùng Nhị nương đi Lạng Sơn hộ giá Hoàng
phi. ở nhà, trong bọn các tướng lãnh, Lê Báo và Trịnh Trực là những người mà đảng
trưởng có thể tín nhiệm hơn hết. Lê Báo thì tuy nóng nảy, nhưng rất trung
thành, còn Trịnh Trực thì thẳng thắn, can đảm, lại có nhiều mưu lược.
Vì thế, trong khi đảng gặp nhiều nỗi khó khăn, Quang Ngọc cần
phải giả danh đi quyên giáo để mộ thêm nhân tài các trấn lân cận, chàng liền
giao cho hai người kia tạm thay mình làm giám đốc đảng Tiêu Sơn. Chàng muốn phó
thác việc nặng nề ấy cho một mình Trịnh Trực thôi, nhưng sợ mếch lòng Lê Báo,
nên chàng để hờ Lê Báo vào địa vị đó mà ân cần dặn rằng:
- Nếu hiền đệ có thực bụng yêu đảng, thương ngu huynh thì phải
ghi chép ba điều này. Một là chừa hẳn uống rượn trong khi ngu huynh đi vắng.
Hai là không việc gì được tự tiện, một ly một tý cũng phải bàn với Trịnh Trực.
Ba là bất cứ việc lớn, nhở gì định làm cũng phải chờ huynh về đã, còn những việc
bất thần xảy ra đã có Trịnh Trực định liệu.
Lê Báo vui vẻ vâng lời. Nhưng trong lòng căm tức Phổ T nh đã
đặt mình vào một địa vị quan trọng mà không giao trong tay mình một tí quyền lực
gì.
Tuy thế, chàng vẫn cố theo được những lời dặn của đảng trưởng
trong gần nửa tháng Một hôm, tiết xuân đầm ấm, chàng rủ Trịnh Trực đi chơi rừng
Sặt. Đến đấy, hai chàng gặp một người bạn đồng chí ra khẩn khoản mời về chơi
nhà. Thì ra, - đó là mưu Lê Báo - họ đã sắp định sẵn từ trước: Một mâm nhắm và
mấy nậm rượn đương đợi hai người đến chiếu cố.
Tất nhiên là Lê Báo vờ từ chối, nói không những tu hành phải
giới tửu mà lại đã có lời dạn của đảng trưởng khi ra đi. Nhưng về sau nể lời mời
mọc ân cần của chủ nhân, chàng thầm bảo Trịnh Trực:
- Thôi, nhận lời cho ông ấy bằng lòng. Chúng ta uống ít vậy.
Uống ít nghĩa là chẳng bao lâu ba nậm rượn cúc đã cạn ráo. Bấy
giờ Lê Báo mới dùng hết lời khảng khái nói chọc tức Trịnh Trực:
- Chỉ có ba anh em mình đây, tôi nói vụng đảng trưởng, chứ đảng
trưởng thực không tin một tí nào. Như tôi thì bản tính nóng nảy đã đành, đến
như Trịnh đại huynh thì văn võ khiêm toàn, mưu kế sâu sắc, thế mà lúc ra đi, đảng
trưởng lại không kể vào đâu, bắt bất cứ việc gì đều phải chờ đảng trưởng về mới
được làm.
Như thế phỏng còn coi Trịnh đại huynh ra sao nữa.
Trước Trịnh Trực còn hết sức binh vực Quang Ngọc. Nhưng sau bị
hai người cùng ùa nhau nói khích mình và công kích đảng trưởng nên chàng cũng
hơi thấy siêu lòng tự phụ. Chàng phàn nàn:
- Kể đảng trưởng thì giỏi thực, nhưng anh em mình há phải bọn
võ phu vô mưu cả đâu!
Được thể, Lê Báo càng nói hùn vào:
- Vâng, nhất là đại huynh.
Rồi chẳng bao lâu, khi chủ nhân đã rót ở hũ ra đến nậm rượn
thứ mười, ba người đồng ý thi thố một việc phi thường. Trịnh Trực nói:
- Tức thật. HỌ bắt bớ nhiều quá. Nhà ngục phủ Từ đã chật hết
chỗ giam tù nhân Vẫn biết trong số ấy chỉ có hơn một chục người đảng ta, mà những
người ấy cũng không bao giờ chịu cung khai ra kẻ khác, nhưng giá có mưu kế gì
phá được ngục thì một là cứu thoát các đảng viên hai là thêm thanh thế cho đảng
bí mật của ta ở vùng này, ba nữa là làm cho bên địch nao núng kinh hãi chúng
ta.
Ai nấy khen phải. Rồi người nọ bàn thế này, người kia bàn thế
khác, rút cuộc chưa có cách nào ổn thỏa. Lê Báo nguyên đã có mưu riêng của
mình, nhưng mãi sau cùng mới chịu đem ra bàn. Là cái mưu tự nhốt mình vào cũi,
rồi cho khiêng đến nộp phân phủ. Trịnh Trực như trông ;thấy sự nguy hiểm, song
một phần bị men rượn làm cho chóng mặt, một phần bị những lời tâng bốc của Lê
Báo làm cho quá hởi lòng, nên chàng chẳng chịu suy xét kỹ càng nữa. Vả Lê Báo lại
khảng khái hai ba lần bảo chàng:
- Dù tôi có chết nữa, âu cũng là một cái chết xứng đáng: chết
vì đảng, vì vua.
Khi Trịnh Trực đã thuận theo mưu kế, Lê Báo chỉ việc hô lên một
tiếng, tức thì bốn người khiêng một cái cũi ở buồng bên đi ra.
Lê Báo chẳng nói chẳng rằng, đứng dậy cởi phăng áo ra, rồi
chưa ai kịp ngăn cản, chàng cầm dao tự chém vào lưng, vào vai mấy nhát. Máu chảy
đỏ cả người.
Đoạn, chàng đừa tay cho bọn quân dùng thừng trói lại bỏ cũi.
Chàng lại dạn dò cặn kẽ mọi điều để bọn khiêng cũi trình với
phân phủ. Điều cần nhất là nhớ kỹ rằng kẻ bị nhốt không phải là Lê Báo mà là Phạm
Thái. Chàng thích chí cười ha hả, ngồi trong cũi nói ra một câu khôi hài:
"Lê Báo thì chúng nó sợ quái gì, vì chúng nó biết Lê Báo
là thằng nào. Còn cái tên Phạm Thái thì khắp vùng này từ quan đến dân chẳng ai
lạ, mà chẳng có ai là không kinh hãi".
Khiêng Báo đi được một lúc lâu. Trịnh Trực mới tỉnh hẳn rượn
và hiểu thấu hết mọi nỗi nguy hiểm của một hành vi quá ngỗ nghịch. Nhưng đã quá
tiến rồi, lùi sao kịp nữa! Bấy giờ chàng vội đi tìm mấy chục dõng sĩ trong đảng
để đóng những vai kép và đào mà ta đã thấy trong hồi trên. Vì Nguyễn công tử
hay Nguyễn Thiêm chính là Trịnh Trực.
Hồi 26
Mưu Mô
Trong lầu Tiêu Lĩnh, Lê Báo và Trịnh Trực còn ngồi uống rượn,
tuy lúc bấy giờ đã vào khoảng gần nửa đêm. Hai người nghe chừng đề đã say lắm,
say chán nản, buồn tẻ, ủ rũ chứ không phải say vui vẻ ầm ĩ như mọi khi.
Bỗng Trịnh Trực như thức giấc, tỉnh cơn mê, thở dài hỏi bạn:
- Đại huynh nghĩ sao?
Lê báo cũng thở dài, hỏi lại:
- Không biết hôm nào đảng trưởng mới chịu về cho?
- Hừ! Có gặp những lúc nguy biến như thế này mới biết bọn
mình còn kém đảng trưởng xa. Mình không thể nào còn bình tĩnh, sáng suốt mà
nghĩ tìm mưu kế được Lê Báo đáp lại bằng một tiếng khà, sau một tơp rượn suông.
Vậy một sự nguy biến đã xảy ra?
Đó là sự lùng bắt các thiền sư bị tình nghi trong hạt và giam
chật ngục thất phủ Từ Sơn.
Trước kia, tuy cách tổ chức của đảng Tiêu Sơn rất bí mật và
viên phân phủ cũng đã hơi ngờ vực bọn thầy tu, thường vẫn cho thám tử đến do
thám các chùa chiền. Từ hôm xảy ra truyện cướp nhà sư ở tửu quán ngoài phố,
phân phủ lại càng ngờ lắm, bởi về sau chẳng biết tung tích nhà sư bị cướp mang
đi ra sao mà cũng chẵng thấy chùa chiền nào làm đơn kêu ca về việc ấy hết.
Nhưng sau hôm ngục thất bị phá, phân phủ không còn nghi hoặc
nữa, quả quyết rằng có nhiều tăng già nhúng tay vào việc nước. Những cớ khiến
phân phủ tin chắc như thế, phân phủ còn giữ bí mật, sợ hơi tiết lộ ra bên địch
biết mà phòng bị, làm cản trở sự tra cứu đương tiến hành.
Vì vậy, ngay sáng hôm sau, trong khi binh lính mai táng những
gnười chết, và chữa chạy những người bị thương, thì phân phủ một mặt làm tờ bẩm
lên quan trấn thủ chịu nhận tội về sự thất thố đã xảy ra và xin khoan thứ cho y
đái tội lập công. Y cam đoan rằng chỉ trong vòng nửa tháng là y sẽ tìm ra được
manh mối việc cướp phá và hơn nữa, sẽ bắt hết được đảng viên của mấy đảng bí mật
trong hạt.
Một mặt y cho các đội cơ dẫn quân đến các chùa khám xét, và
ra lệnh dù có hay không có vết tích hay tang chứng gì khả nghi cũng bắt các nhà
sư về phủ giam tạm để tiện sự tra vấn.
Cho đó là một việc rất quan trọng, nên khi nhận được tờ
trình, hai quan trấn thủ và hiệp trấn Kinh Bắc tức tốc tới phủ Từ Sơn xem tình
thế ra sao. Hiệp trấn nhất định xinh huyền chức phân phủ, một phần vì đã làm
cho phân suất, người nhà mình, bị hại, một phần vì bấy nay ngài vẫn dành chức
phân phủ Từ Sơn cho một viên phân tri đã khấn trước với ngài. Nhưng trấn thủ
sau khi nghe mấy lời mật bẩm của phân phủ, liền bằng lòng tạm để y ở lại trị nhậm
trong thời hạn một tháng, hết hạn ấy, nếu không lập được công, quan trên sẽ định
liệu. Còn chức phân suất thì trước khi triều đình bổ người đến nhậm, trấn thủ tạm
cho một viên chánh quản có giá trị ở trấn lị về quyền.
Những tin tức ấy Lê Báo và Trịnh Trực biết được là nhờ sự
thám thính của một đảng viên đảng Tiêu Sơn hiện làm đội hầu trà trong phủ.
- Vậy đại huynh định xử trí ra sao?
Nghe câu hỏi của Lê Báo, Trịnh Trực giật mình.
- Xử trí ra sao à? Chỉ có một cách là ám sát phân phủ Nguyễn
Túc.
Lê Báo vui mừng:
- Phải, ngoài sự ám sát ra, dễ không còn cách nào.
- Người khác về thay chắc không theo đuổi công cuộc đương tiến
hành của Nguyễn Túc nữa.
Lê Báo chau mày như suy nghĩ lung lắm:
- Nhưng vẫn không hiễu tại sao hắn biết có tăng già dúng tay
vào việc này.
Giữa lúc ấy có tiếng chó sủa. Kế tiếp tiếng gọi cổng. Trịnh
Trực lo sợ bảo Lê Báo:
- Có lẽ họ đến bắt chúng mình chăng?
Chàng vội tắt phụt ngọn sáp. Lê Báo mạnh bạo rút kiếm nhăm
nhăm cầm ở tay. quả quyết kháng cự không chịu để ai bắt trói.
Lát sau, một người tay cầm cây sáp ở trong chùa đi lên lầu
Tiêu Lĩnh. Té ra người ấy là Quang Ngọc. Lê Báo và Trịnh Trực vui sướng cùng
kêu:
- Kìa Phổ Tĩnh thiền sư!
Quang Ngọc ôn tồn hỏi:
- Thế nào, Nguyễn Thiêm với Phạm Thái vẫn chưa bị bắt?
Lê Báo cười:
- Sao hiền huynh biết?
Quang Ngọc không trả lời, quay ra trách Trịnh Trực:
- Lê hiền đệ tính nóng nẩy hấp tấp đã đành, nhưng Trịnh quân
sao nỡ để xảy ra sự tai hại như thế?
Lê Báo vội cãi:
- Phá ngục thất không tổn một mạng đảng viên mà cứu nổi hết
tù nhân ra thoát, sao gọi là một sự tai hại được?
Quang Ngọc cười gằn:
- Cứu được hơn mười đảng viên thì hàng chục, có lẽ rồi hằng
trăm đảng viên khác kế tiếp nhau vào ngục, như thế không phải là một sự tai hại
hay sao? Nhưng thôi, việc đã xảy ra, phàn nàn cũng vô ích. Tôi chỉ trách tôi
quá tin hai ông, tưởng hai ông biết vâng theo thượng lệnh.
Lê Báo thấy Quang Ngọc giận dữ, thì lo lắng sợ hãi đứng im.
Quang Ngọc đi đi lại lại trong lầu, có vẽ cau có khó chịu:
- Các ông phải biết, nếu việc ấy nên làm thì tôi đã làm rồi,
có chờ đêu đến các ông? Mà các ông khờ khạo đến thế là cùng, bày mưu kế trẻ con
đến thê là cùng.
Các ông tưởng các ông khôn ngoan, nhưng các ông phải suy xét
kỹ càng đã chứ.
Nhốt một người đầu trọc vận quần áo nảu vào cũi, thì ai còn
không biết người ấy là một nhà sư, dù là một nhà sư say rượn bú bự đi nữa. Bây
giờ người ta đi lùng các chùa chiền để bắt bớ chư tăng về giam, các ông đã hiểu
vì sao chưa?
Lê Báo và Trịnh Trực vẫn đứng im thin thít, vừa kinh hãi, vừa
kính phục tài xét đoán của Quang Ngọc.
- Các ông đã hiểu vì sao chưa? Cũng may mà người ta còn nể
tôi, chưa đến chùa Tiêu Sơn đấy, nhưng rồi thế nào người ta cũng đến. Lúc bấy
giờ ông Phạm Thái giả hiệu kia giấu sao được cái lưng đầy nhát dao chém? Mục địch
người ta lùng các chùa chiền là chỉ để tìm ra nhà sư bị thương ấy mà thôi, các
ông đã rõ chưa? Tang chứng rành rành, lúc ấy còn cãi làm sao được, thế là... cả
lũ vào ngục, thế tan đảng .
Lê Báo mướt mồ hôi xụp xuống lạy, xin chịu tội. Quang Ngọc vội
đỡ dậy:
- Ông đứng lên nghe tôi nói nốt. Vì đã hết đâu... Trong bọn
phường chèo nhiều kép hát có cái đầu trọc, điều ấy đã dĩ nhiên rồi, tôi khôgn cần
nói tôi chỉ nói ngay cái giọng hát ê a như đọc kinh, đọc kệ của họ... Trời ơi! giấu
sao nổi cái tai thành thạo của Nguyễn Túc. Cũng may mà hắn say rượn đấy, chứ
không thì chưa biết đâu... Nhưng bao nhiêu sự lầm lỡ cuối cùng... Ừ, tôi xin hỏi
ông Trịnh, ông giết phân suất làm gì? ông có cần giết hắn không? Để hắn, thì hắn
chỉ bàn ngang, chẳng giúp ích gì cho phân phủ. Nhưng giết hắn thì thế nào không
có người giỏi hơn về thay. Người đáng giết, các ông không giết, lại đi giết kẻ
không nên giết.
Trịnh Trục phục xuống khóc, xin chịu tội rồi hỏi mưu kế để đối
phó lại.
Quang Ngọc cười chua chát:
- Mời ông đứng lên cho, ông nên để dành nước mắt mà khóc đảng...
Chàng vẫn đi đi lại lại và như nói một mình:
- Hừ! Mưu kế!... Mưu kế!...Mưu kế gì?
Lê Báo bàn - Hay mai hiền huynh họp đảng viên...
Quang Ngọc ngắt lời:
- Họp tập? Lê hiền đệ phải biết cho rằng, đêm hôm nay ngu
huynh về chùa khuya, vị tất đã không có thám tử báo Nguyễn Túc rồi, chứ đừng
nói họp tập vội.
Chỉ còn cách này, ta hãy thử xem...
Chàng liền bảo Trịnh Trục đi lấy bút, rồi viết một thư như dưới:
Kính bẩm quan trấn thủ trấn Kinh Bắc
Bấy lâu nay trong hạt Từ Sơn, giặc giã quấy nhiễu giết hại
nhân dân là chỉ vì viên phân phủ quá tham tàn, một mặt ăn lễ, dung túng quân
gian, một mặt bắt bớ tra khảo những người lương th iện có chút tài sản. Viên
phân phủ ấy còn ở lại trị nhậm phủ Từ Sơn ngày nào th ì mối loạn còn khó lòng dẹp
yên đươc. Quang lớn không tin lời tố giác của chúng tôi, xin về tra xét, sẽ rõ
thực hư.
Kính bẩm
Một bọn dân lương thiện ký,
Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứsáu
Tháng ba ngày...
Trịnh Trực đọc nhẩm lại bức thư:
- Thưa đảng trưởng làm cách nào mà đệ lá thư này lên trấn thủ
được?
- Đã có đội Thiều. Vậy bây giờ cho người mang thư giao cho đội
Thiều ngay lập tức Dặn hắn nói với trấn thủ rằng buổi sớm lúc trấn thủ còn
đương giấc có một bọn dân đến xin hầu nhưng hắn đã đuổi ra, chỉ giữ lấy đơn để
nộp ngài.
Quang Ngọc cười nói tiếp:
- Trấn thủ đa nghi lắm, thế nào cũng về xét. Lúc ấy làm gì
không có bọn thù ghét phân phủ ra khiếu oan về lulung tội bị tra tấn, hạch sách
trước kia. Bằng không ai dám ra thì đảng viên đảng ta cáng đáng lấy...
Lê Báo và Trịnh Trục lấy làm phục Quang Ngọc lắm, chắc chắn rằng
thế nào mưu kế của đảng trưởng củng có công hiệu...
Đêm đã sang canh Dần. Quang Ngọc còn cắt đặt mọi việc. Mà việc
quan trọng nhất là bắt Lê Báo và Trịnh Trực phải ẩn núp trong một cái hầm kín ở
chùa.
Hồi 28
Đường Hầm
Đường hầm ấy nguyên xưa kia là nơi chứa các mộc bản để in
kinh phật, Tiêu Sơn là chùa chính ở vùng Từ Sơn Đông Ngàn, và bậc thiền sư trụ
trì ở đó nhiều khi là sư tổ, nên vẫn phải in kinh sách phát đi những chùa ở các
nơi khác cho chư tăng, ni, môn sinh của sư tổ. Vì thế các đồ đạc dùng về việc ấn
loát rất bề bộn, cần phải có một nơi kín để chứa cho khỏi mất mát, và được có
thứ tự.
Đến thời Phổ Tĩnh thiền sư thứ nhất, - vì Phổ Tĩnh thứ hai hiện
trụ trì ở chùa Tiêu Sơn chỉ là Trần Quang Ngọc, mạo nhận đạo hiệu thiền sư bị
giết- thì cái hầm chứa ấy bỗng không có nữa. Những mộc bản khuân để ngổn ngang
đầy một gian nhà tổ. Còn cái hầm kia, người ta đồn rằng nhà sư đã lấp đi rồi,
hoặc còn thì cũng chẳng ai biết cửa vào hầm ở chổ nào...
Đã một dạo các thiện nam tín nữ quanh vùng kháo nhau rằng
trong chùa Tiêu Sơn có con yêu tinh cao tay và dữ tợn ghê gớm lắm. Họ nói thường
những đêm trăng suông nó hiện lên đi vơ vẩn trong sân chùa, lượn vòng mấy cây
tháp rồi biến mất. Người ta nói thêm rằng con yêu tinh ấy có phép biến hoá thần
thông, muốn đổi hình gì tự khắc thành hình ấy. Có khi người ta thấy nó khoác áo
cà sa như một vị chân tu vừa đi vừa lần tràn hạt. Có khi nó hoá ra một người
con gái hoặc khóc hoặc cười, hoặc đùa bỡn nhảy múa quanh hàng tháp rồi tan vào
trong sương mù.
Lại có khi nó hoá làm một cặp vợ chồng âu yếm nhau dưới ánh
trăng nữa.
Lời đồn đến tai sư cụ Phổ Tĩ nh (người trụ trì chùa Tiêu Sơn
trước thời Quang Ngọc). Chẳng đừng được, sư cụ phải bầy đặt lập đàn bắt ma, vì
cụ vừa là một thiền sư đắc đạo lại vừa là một pháp sư cao tay.
Quả thực, bẵng đi một dạo con yêu tinh thôi không dám đến
chùa quấy nhiễu.
Nhưng nó không đến chùa chứ nhà dân gian thì nó vẫn qua lại
như xưa. Hễ đâu có gái đẹp là tất có bóng nó. Cô nào nó thích vừa thì nó hãm hiếp
rồi cho tiền. Một điều lạ, tiền của nó chẳng phải tiền giấy, mà chính là tiền đồng
đúc ở kho nhà vua.
Nhưng cô nào chẳng may bị nó yêu mến thực tình, thì thế nào
cũng bị nó mang đi biết tăm mất tích.
Vậy nó mang đi đâu?
Nó mang vào cái hầm nói trên kia. Vì cái hầm ấy không những
chưa lấp mà Phổ Tĩ nh (Vẫn không phải Quang Ngọc), còn phá sâu vào đồi, dùng
làm nơi bí mật chứa gái của ngài. Với mục đích phóng dật và tích cách kiêu xa
như thế, cái hầm sơ sài chật hẹp đã sửa chữa thành rộng rãi, mát mẻ về mùa hè, ấm
áp về mùa đông.
Hầm có hai cửa. Một cửa mở ngay giữa bệ thờ phật. Mà chính
cái bệ ấy cũng là một cái buồng. Đứng ngoài trông - dẫu mắt tinh đến đâu đi nữa
- thì đó chỉ là một cái bệ gạch xây đặc. Nhưng khi đã lách qua, một cái khe hẹp
ở giữa maột cái cột gạch và cái bệ kia, khi đã lấy chìa khóa riêng lùa vào một
kẽ vôi thì tự khắc mở được cái cánh cửa nhỏ, làm lẫn trong cột bệ.
Vào trong buồng chỉ việc nhấc lên mấy viên gạch lát bát tràng
là trôgn thấy lối xuống hầm.
Một cửa nữa là chính cửa một cây tháp. Cây tháp ấy chỉ là một
cây tháp giả, nhưng ở trong chùa và ở khắp vùng, người ta đều cho rằng đó là
tháp một vị sư tổ tu hành đắc đạo, đã thăng Nát bàn bằng cách thiêu hóa. Hai
cánh cửa gỗ lim có khóa sắt lớn, giữ gìn hài cốt sư tổ để khỏi bị ai xúc phạm tới
cái nội cung bí mật của ngài.
Chắc có người tưởng rằng cái phòng hầm ấy hẳn tối và bí hơi.
Trái lại, nó có rất nhiều cửa sổ, vì trong sân sau chùa theo mặt đồi thoai thoải
chạy ngược lên có rất nhiều tháp. Mà đến một phần ba số tháp ấy chỉ là những cửa
sổ dẫn không khí và ánh sáng vào hầm.
Quang Ngọc kế tiếp vị ác tăng kia đến trụ trì chù Tiêu Sơn, kế
tiếp một cách quá võ đoán như ta đã biết.
Nhưng mãi mấy tháng sau, nhờ về một sư tình cờ chàng mới tìm
ra được cái hầm bí mật. Hôm ấy Quang Ngọc mới mua được hai con chó tốt để giữ chùa.
Một con vừa ra sân sau là chạy đến ghé mũi ngửi một cây tháp, rồi chõ mõm vào
đó mà sủa om xòm. Trước Quang Ngọc còn sua đổi đi, vì tuy chàng không phải là một
bậc chân tu, nhưng chàng không thể đứng nhìn co chó láo xược xúc phạm tới linh
hồn một vị sư tổ.
Về sau thấy con vật sủa mãi không thôi, chàng sinh nghi và tò
mò đến ấn cánh cửa tháp, ghé mắt nhìn qua khe hở. Nhưng trong tối quá... Bỗng
phảng phất có mùi hôi tanh đánh và mũi chàng.
Quang Ngọc càng ngờ lắm, lấy dao nhựa phá cửa tháp ra xem.
Thò đầu nhìn vào nền tháp, chàng thấy có mấy viên gạch lát bị ai bẩy đặt chồng
lên nhau, ở bên một cái 1641 sâu thẳm, như cái giếng khơi.
Đó là lối xuống hầm. Hôm lão ác tăng ở hầm chui ra, đương
loay hoay lát lại gạch thì chợt nghe thấy tiếng ngựa của Quang Ngọc ở tam quan.
Lão ta vội vàng ra ngoài khoá cánh cửa tháp lại, định khi trở về sẽ xếp nốt.
Nhưng vừa cùng Nhị nương tới chùa thì lão bị ngay Quang Ngọc giết. Vì thế mà
nay tình cờ Quang Ngọc nhìn thấy lối xuống hầm.
Sau khi đã nhấc hết gạch lát lên, Quang Ngọc thấy một con đường
thoai thoải thành bực. Nhưng vừa chui vào đi được hai, ba bước, chàng giật mình
kinh hãi lùi lại Mùi hôi thối ở dưới xông lên ghê tởm quá.
Chàng liền quay về chùa lấy một bó hương lớn, và một cây sáp.
rồi đốt hương, thắp sáp đi bừa xuống. Nhiều lần cái hơi chết xô đuổi chàng lên,
nhưng chàng đã quả quyết khám phá sự bí mật nên dẫu sao cũng tiến bước.
May thay đi hết con đường hẹp, chàng vào trong buồng rộng, và
ở đó nhờ được có nhiều cây tháp giả ở trên mật đất thông hơi và chiếu sáng, nên
chàng thấy dễ thở hơn một chút.
Rồi Quang Ngọc dong sáp soi khắp nơi. Đến một cái giường tre,
chàng kinh hoảng trừng mắt nhìn. Chàng nhận thấy mùi hôi thối chính ở đó bốc
ra.
Ánh sáng cây tháp lờ mờ lung lay chiếu vào đống vải nâu rách
tươm, và nhão như bùng. Thấy động, một đàn chuột ở trong đống vải chạy ra.
Chàng cố bịt mũi đứng nhận kỹ thì đống vải mủm đó là một thây người bị trói, chết
đã lâu ngày và bị chuột cùng các côn trùng ăn ruỗng hết thịt.
Hoàng hồn, Quang Ngọc trở lên ngay. Rồi suốt ngày hôm ấy,
chàng cùng Nhị nương chôn cho người chết và tẩy uế gian hầm. Hai người giữ rất
kín những điều vừa thấy, và đã định tâm dùng cái hầm ấy, không phải để chứa gái
như vị ác tăng kia, nhưng để làm những việc bí mật trong đảng.
Nhị nương bảo Quang Ngọc:
- Thưa hiền huynh, rõ tội nghiệp cho người con gái bị chết
oan. Có ngờ đâu chỉ vì hiền huynh giết chết lão ác tăng mà người ấy bị chôn sống
trong hầm.
Quang Ngọc cười đáp:
- Hiền muội nghĩ lẫn thẩn quá. Nó đã đưa vào hầm bí mật của
nó thì đời nào nó còn cho ra để làm lộ tội ác của nó. Đấy, hiền muội coi, lúc
nó ở hầm ra, nó đã cẩn thận trói kỹ tình nhân của nó lại. Vậy người con gái đó
khi nào nó không ưng nữa, thì nó chỉ có một cách đối phó là giết đi. Biết đâu
những cây tháp kia lại không chứa bằng gio xương phụ nữ, bọn tình nhân một thời
gian ngắn ngủi của nó.
Nhị nương rùng mình ghê sợ.
Ngay từ hôm ấy, Quang Ngọc, Nhị nương và những đảng viên quan
trọng xuất lực sửa sang cái hầm cho kiên cố và bí mật hơn nữa.
Hồi 29
Ma Hiện Hồn
Chẳng cần phải nói, độc giả cũng biết Quang Ngọc, Lê Báo và
Trịnh Trực trốn vào trong hầm ấy.
Vì hấp tấp quá, không ai nghĩ đến mang theo lương thực, nên
suốt một ngày không có gì vào bụng, ba người đói meo nằm ngủ một giấc dài.
Mở mắt ra không thấy Lê Báo đâu, Quang Ngọc lo lắng bổ đi
tìm. Có lẽ lúc đó đã sang giờ Tuất, vì trong sân yên lặng tiếng dế kêu ran, và
xa xa tiếng chó sủa đêm...
Đến chổ cửa vào chùa, Quang Ngọc thấy Lê Báo đang đứng áp tai
vào tường nghe ngóng.
Chàng quay ra thầm bảo Quang Ngọc:
- Không ra được, chúng nó còn thức. Đương tụ họp nhau đánh bạc
ở ngay chùa trên.
Quang Ngọc cũng lắng tai nghe, thì rõ ràng có tiếng tiền
trinh đụng thành đĩa bát.
- Hay ngu để ra phía cửa tha ma vào làng mua các thức ăn mang
về đây.
- Đước, để khuya hơn tí nữa, chúng ta cùng đi. Phải cẩn thận,
quanh chùa đều có lính canh giữ cả đấy.
Lê Báo chau mày tở vẻ căm tức, nắm tay giơ về phía trong
chùa, đe dọa bọn lính, mồm làu nhàu mấy câu nguyền rửa.
Khai hai người quay về chỗ cũ, thấy Trịnh Trực đương ngồi bó
gối, khóc rưng rức Lê Báo chau mày lặng thinh đứng ngắm, và Quang Ngọc mỉm một
nụ cười chua chát hỏi mỉm:
- Công tử còn khóc được ư?
Rồi chàng phàn nàn như nói một mình:
- Bây giờ ta cànt thấy lỗi ta quá nặng. Ta tưởng giao phó
công việc, khi ta đi vắng nhà, cho một viên tướng có đủ trí dũng, ai ngờ ta chỉ
đem việc lớn đưa trẻ.
Một bậc thượng tướng, trong khi hành sự, có thể sa vào chỗ lầm
lỡ bị thất bại, rồi ngồi khóc thì chỉ là một đứa trẻ con... phải một đứa trẻ
con.
Quang Ngọc nhắc lại hai, ba lần câu "một đứa trẻ
con". Trông chàng vẫn bình tĩnh, nhưng khi chàng đã có giọng mỉa mai như
thế, là chàng tức giận lắm đấy.
Lúc bấy giờ, vô phúc có kẻ nào gặp chàng, không may cho một đảng
viên nào cãi lý với chàng: chàng sẽ trở nên một con sư tử dữ tợn hay một con rắn
đầy nọc độc, tàn nhẫn, ác nghiệt.
Ý chừng Lê Báo biết vậy nên chỉ đứng im thin thít, không dám
chêm một câu.
Và Trịnh Trực sợ hãi thôi khóc, quỳ xuống đất, rút thanh kiếm
đeo bên sườn, ha tt nâng lên dâng đảng trưởng, rồi vươn cổ ra mà nói rằng:
- Kính lạy đại huynh, - ngu đệ không dám dùng những chử đảng
trưởng đảng viên nữa - ngu đệ chỉ còn có cái chết để báo đến ơn sâu.
Quang Ngọc đỡ lấy thanh kiếm, ném mạnh lên giường, rồi cười
nhạt, đi đi lại lại, vừa nói dằn từng tiếng:
- Chết! Hừ! Chết! Ngày xưa đời Trần, Trần Bình Trọng chết vì
nước. Đó là một cái chết. Trần Bình Trọng thua trận Đà Mặc bị Thoát Hoan bắt được.
Bị bắt thì tìm chách tháo thân để đánh nữa, đánh mãi cho đến khi được, hay chết.
Mà không có cách gì tháo thân thì chết ngay. Đời làm tướng chỉ có ba kết quả:
được trận, thua trận, chết trận. Nào có gì lạ lùng mà nói những câu to tát:
"Tao thà làm quỷ nước Nam, chứ không theom làm vương đất Bắc." Rõ
cũng lôi thôi! Cái chết đó, tôi liệt vào hạng chết rất thường của ông tướng biết
tự trọng, cái chết của kẻ thua không chịu khuất phục kẻ được mình. Nhưng cái chết
mà Trịnh công tử xin tôi ban cho có giống cái chết ấy không?
"Hơn một trăm năm sau, Bình Định Vương, tức đấng Thái tổ
nhà Lê khởi nghĩa ở Lam Sơn để đánh đuổi quân Minh đương chiếm đất nước ta. Một
lần, vua bị khốn ở Chí Linh, khó lòng phá vòng vây mà trốn thoát được. Bấy giờ
có ông Lê Lai theo gương Kỷ Tín chịu chết thay vua Hán Cao, liều thân vì nước,
xin nhà vua cởi áo ngự bào ra cho mình mặc, rồi cưỡi ngựa ra trận đánh nhau với
quân giặc. Quân Minh tưởng đó là Bình Định vương thật, xúm nhau vây đánh giết đi,
rồi yên tâm rằng trừ xong vương, rút cả quân về Tây Đô. Đó là một cái chết anh
hùng, mãnh liệt, có xuy xét, có lui tới, không có ý nghĩa kiêu sức, khoa
trương, tự phụ, vì nó là cái chết không có không xong. Vĩ đãi thay những hành
vi kín đáo, nhún nhường, xả kỷ, dù hành vi ấy là sự bại trận, sự thắng trận,
hay chỉ là cái chết. Nhưng cái chết mà Trịnh công tử xin tôi ban cho có giống
cái chết của Kỷ Tín, của Lê Lai không?"
Quang Ngọc ngừng lại cười, cười to đến nỗi Trịnh Trực phải sợ
hãi, lo rằng người ở trên mặt đất có thể nghe rõ. Trịnh Trực buồn rầu lóp ngóp
đứng dậy. Thì Quang Ngọc lại nói luôn:
- Hay Trịnh công tử muốn theo gương Hưng Đạo đại vương. À!
Công tử muốn chết như đức Trần Quốc Tuấn. Trời ơi! To tát thay cái chết vì nước,
vì vua! Vua Nhân Tôn nhà Trần nghe tin Hưng Đạo Vương bại trận chạy về Vạn Kiếp,
liền ngự truyền xuống Hải Đông, rồi vời vương đến bàn rằng: "Thế giặc to,
mà mình chống với nó thì dân bị tàn hại, hay là trẫm chịu ra hàng để cứu muôn
dân?" Hưng Đạo quỳ xuống rút kiếm dâng vua Nhân Tôn rồi vươn cổ ra mà nói
rằng: "Bệ hạ nói câu ấy thật nhân đức, nhưng còn đất nước thì sao? Nếu bệ
hạ muốn hàng, xin trước hết chém đầu tôi đã, rồi hãy hàng."
Quang Ngọc cười gằn:
- Cử chỉ của Trịnh công tử đối với đảng trưởng thực giống cử
chỉ của Hưng Đạo Vương đối với đức Nhân Tôn, chỉ khác một chút là người xưa
dùng cái chết để khuyến khích can gián vua, còn Trịnh công tử thì dùng nói vì
nhu nhược, vì nhút nhát, vì sợ chết. Cái chết hèn nhát đến đâu! Cái chết ấy
khác gì tự tử?
Nghĩ một lát, Quang Ngọc lại nói:
- Ừ, thì tôi nhận công tử chết đấy. Nhưng trước khi chết,
công tử hãy thi thố một việc phi thường gì đã nào! Chẳng hạn bây giờ công tử thử
nghĩ cách cứu đảng xem. Làm thế nào cho đảng không những không bị tan nát, mà
còn đương suy háo thịnh được?
Quang Ngọc ngưng bặt vì nghe có tiếng chân chạy nện thình thịch
ở sau lưng.
Quay lại, thấy Lê Báo mặt nhợt nhạt, hai mắt tròn xoe nhớn
nhác. Quang Ngọc hỏi:
- Cái gì thế?
Trịnh Trực run lập cập, nói không ra hơi:
- Họ phá đường hầm?
Lê Báo cố định thần, thuật lại việc vừa xảy ra. Chàng đến lối
cửa tha ma nghe ngóng để chờ tin lẻn ra ngoài, đi tìm kiếm thức ăn...
Nguyên cửa ấy Quang Ngọc xây ẩn vào trong một cái mộ giả,
dùng để đảng viên trốn thoát ra ngoài chùa khi nào bị vây (cái cửa tháp của Phổ
Tĩnh chỉ đưa từ hầm ra đến vường chùa mà thôi.)
Lê Báo vừa nâng cái nắp mộ lên ghé mắt nhìn ra thì nghe thấy
mấy người lính canh ở gần đấy chạy tán loạn và kêu la inh ỏi: "Ma! Ma hiện
hồn!".
Quang Ngọc đứng ngẫm nghĩ tìm hiểu.
Bỗng một người đầu trùm cái mấn vải trắng dài chấm gót chân
tiến đến gần, Trịnh Trực chạy lại giường với thanh kiếm. Lê Báo rút dao đứng chặn
trước mặt đảng trưởng. Ai nấy yên lặng.
Quang Ngọc đăm đăm ngắm nghía, phì cười, giang tay cản hai
người lại:
- Ta không tin có ma. Mà nếu ma biết đường vào hầm thì cũng
là ma quen, can chi phải sợ.
Rồi chàng trợn mắt nhìn thẳng vào người lạ mặt và ôn tồn hỏi:
- Ngươi là ai? Vào đây làm gì?
Người mới đến, vẫn giữ vải che kín mặt, yên lặng đật xuống
giường một gói lớn, rồi thong thả mở ra: Trong có đến năm sáu nắm cơm cùng là
giò chả, gà luộc, muối vừng. Ba người vẫn kinh ngạc đứng nhìn. Nhưng Lê Báo bụng
đương đói như cào ngửi thấy mùi chả rán và mùi muối vừng rang thơm phúc, liền
thì thầm bảo hai bạn:
- Thì ta cứ ăn đã. ăn xong hãy hay.
Trịnh Trực vội gạt:
- Chết, không nên hấp tấp thế ? Nhỡ quân thù bỏ thuốc độc vào
món ăn đem xuống hầm để hại bọn mình.
Một tiếng cười ở trong mấn đưa ra đáp lại câu ngờ vực.
Quang Ngọc vẫn chăm chú ngắm nhìn người vừa tới. Chàng tiến
lên một bước, người ấy lùi một bước, chàng lùi thì người ấy lại tiến lên. ánh
sáp lờ mờ lung lay chiếu loang loáng vào cái mấn dài, mầu trắng càng làm tăng vẻ
bí mật của người lạ lùng kia.
Hai người yên lặng đứng nhìn nhau: Bỗng một tiếng cười thé. Rồi
cái mấn trắng tung ra. Quang Ngọc và Lê Báo vui mừng cùng kêu:
- Nhị nương!
Nhị nương ung dung rút con dao lớn đeo ở sườn ra thái giò, chả
và nói:
- Xin mời ba hiền hữu chiếu cố.
Quang Ngọc không giấu nổi sự sung sướng, âu yếm đứng mỉm cười
nhìn Nhị nương. Từ ngày hai người hộ giá Hoàng phi lên Lạng đến nay đã hơn hai
tháng, ngày ngày chàng vẫn áy náy mong đợi tin tức, nhất là tin Nhị nương. Khi ở
gần nhau chàng không cảm thấy chàng yêu, nhưng khi xa nhau chàng mới rõ hết nỗi
hổ tâm của kẻ thương nhớ, dù có công việc đảng luôn luôn chiếm đoạt ý nghĩ của
chàng. Nhị nương lại là một viên tướng rất có giá trị, giúp chàng được nhiều việc
trong những lúc khó khăn nên sự lầm lỡ của Trịnh Trực và Lê Báo lại làm cho
chàng hiểu rõ rằng thiếu Nhị nương thực như thiếu mất cánh tay phải.
- Thưa hiền tỷ, còn Phạm huynh đâu?
Câu hỏi của Lê Báo vụt nhắt Quang Ngọc nhớ tới Phạm Thái, mà
mải vui được gập mặt Nhị nương chàng quên bẳng. Bấy giờ chàng mới kịp hỏi thăm.
Nhị nương nói cho mọi người biết rằng Phạm Thái còn tạm lưu lại trên Lạng để
giúp việc Thanh Xuyên hầu cùng Phổ Mịch thiền sư chỉ một mình nàng đã đưa Hoàng
phi về, vì Lạng sơn không phải là nơi ẩn thân: ở chốn biên thuỳ, sự canh phòng
khám xét cẩn mật lắm, nếu lưu lại lâu ngày, thế nào tung tích Hoàng phi cũng bị
bại lộ.
- Nhưng sao hiền muội lại biết ngu huynh cùng Trịnh công tử,
Lê hiền đệ bị nhốt trong hầm này mà đem thực phẩm vào?
Nhị nương kể:
- Ngu muội vừa đưa Hoàng phi đến chùa Liên đài thì được tin ở
vùng này các chùa đương bị sưu sách dữ lắm, mà chùa Liên đài lại chưa bị khám
xét vì có tờ lý trưởng bẩm lên phủ rằng Phổ Chiêu đi vắng đã mấy tháng nay. Ngu
muội sợ nếu để Hoàng phi ở đó trụ trì thay Phổ Chiêu như lời Phạm Thái dặn, người
ta lại tưởng Phổ Chiêu đã về mà tới dò xét chăng, nên đã đưa Hoàng phi đến ẩn ở
nhà một bậc Lê thần rất có thể tin cậy được.
Lê Báo nghe Nhị nương kể dền dàng mà bụng thì đói đến cực điểm
rồi, liền cáu kỉnh gắt:
- Trưởng huynh hỏi hiền tỷ làm thế nào mà vào được đây, sao
hiền tỷ nói dài dòng văn tự thế?
Nhị nương chẳng lạ gì tính nết Lê Báo, nên mỉm cười dấu dịu:
- Nhưng hãy mời công tử cùng hiền huynh, hiền đệ xơi cơm đã.
Quang Ngọc nóng ruột muốn nghe nốt truyện liền dục:
- Thì hiền muội cứ kể đi, chúng tôi chưa đói đâu mà.
- Không, mấy nắm cơm cùng các thức ăn mà chưa hết, thì ngu muội
không kể nữa.
Dút lời, Nhị nương chắp tay đứng im, dù ai hỏi cũng mặc. Lê
Báo đưa mắt nhìn nàng, tỏ lòng cảm ơn.
- Ử thì ăn, nào mời Trịnh, Lê nhị vị.
Lê Báo sung sướng đáp:
- Vâng, ăn là phải lắm rồi!
Chỉ một thoáng, những nắm cơm và các món ăn biến hết vào
trong bụng ba người, rồi ai nấy ra chum uống nước mưa vì Quang Ngọc biết khoản
nước là cần, nên bao giờ cũng trữ sẵn ở trong hầm.
Đoạn, Lê Báo thở ra khoan khoái bảo Nhị nương:
- Bây giờ thì xin hiền tỷ cứ việc kể, kể suốt đêm cũng được.
Quang Ngọc cười:
- Ăn qua loa thế mà Lê hiền đệ no được ư? Vậy hiền muội cũng
nên thuật hết câu truyện vào hầm cho chúng tôi nghe tiêu cơm.
- Xin vâng. Ban nãy ngu muội nói đã tạm gửi Hoàng phi ở nhà một
người cẩn tín. Thế rồi ngu muội tức tốc về đây. Lúc bấy giờ đã gần sáng. Thấy lửa
đuốc rực trởi, ngu muội kinh hoảng dừng lại không dám tiến vào chùa nữa, vì biết
rằng đảng ta đương gặp biến. Vừa nghe tin các chùa bị khám xét, mà lại thấy
trong chùa Tiêu Sơn có binh mã rộn ràng thì còn ngờ sao được nữa.
Lê Báo hỏi:
- Hiền tỷ ngờ gì thế?
- Nghĩa là chắc rằng đảng đương gặp biến. Tức thì ngu muội đến
nhà các đảng viên ở quanh vùng báo tin cho biết, rồi chờ sáng rõ thay mặc một bộ
quần áo giái quê, - vì lúc ấy ngu muội vẫn còn đóng vai công tử như khi rời trấn
Kinh Bắc để dẫn Hoàng phi lên Lạng Sơn. BỘ quần áo ấy hiện ngu muội đương mặc
đây.
Ba người ngắm nghía Nhị nương. Quang Ngọc khen:
- Rõ ràng một cô gái Lim.
- Chứ sao! Phải không ông hiền huynh? Khi mình cần làm hạng
người nào, khi mình cần theo nghề gì, thì ngôn ngữ cử chỉ cho chí y phục của
mình phải hệt là hạng người theo nghề ấy. Vậy hiền huynh thử trông xem ngu muội
có hệt một cô gái quê xinh xắn, láu lỉnh bán hàng trầu nước cho các cậu cai cơ,
cai lệ không?
Quang Ngọc mỉm cười gật gù:
- Hệt lắm!
Rồi chàng quay lại bảo Trịnh Trực:
- Công tử đã thấy chưa? Chứ khi người ta nhốt tù hờ vào cũi,
người ta chọn anh đầu trọc, thì người ta phải bảo ngay rằng người ấy là sư, chứ
người ta không để mập mờ... Tôi chỉ tiếc rằng hồi ấy không có Nhị nương hay Phạm
Thái ở nhà.
Lê Báo lấy làm xấu hổ với Nhị nương, hằn học đáp lại:
- Lỗi ở ngu đệ. Đại huynh muốn mắng thì mắng vào mặt ngu đệ
có hơn không, sao lại cứ nói bóng nói gió.
Quang Ngọc yên lặng, cái yên lặng tức giận, khinh bỉ. Thấy Nhị
nương cũng đứng im, chàng ôn tồn hỏi:
- Thế rồi sao nữa, thưa hiền muội?
- Thế rồi ngu muội quẩy gánh trầu nước, quà bánh qua cổng
chùa Tiêu Sơn lên giọng uốn éo rao lớn: "Có ai ăn trầu ngon, uống nước
nóng, xơi quà, xơi bánh không?" Chẳng đợi ngu mội rao đến hai lần, một cậu
lính ra gọi: "Vào đây!" Thôi tha hồ các cậu liếc, cùng buông những
câu bỡn cợt lả lơi. Ngu muội tuy đáp chuyện họ nhưng vẫn để mắt tìm thầy đội.
Làm quen thân được với một thầy đội còn bằng mấy mươi cậu cai, cậu lính. Nhưng
may cho ngu muội thầy đội đi chơi vắng, giao cho bác cai nhất ở lại trông coi,
mà bác cai nhất lại là người có tuổi, rất đứng đắn
"Ngu muội nghe chừng cái kế mỹ nhân chẳng có công hiệu
gì lại quẩy gánh đi Vả có làm quen với thầy cai cũng chẳng ăn thua, vì các cửa
chùa trên họ đều khóa bằng khóa sắt nặng, cùng là gián niêm phong cẩn mật lắm,
khó lòng lọt vào được.
"Ngu muội quay ra đằng sau nhà chùa, thì ở hai góc trông
ra bãi tha ma họ đã dựng xong hai cái lều tre, trong ấy đều có lính giữ.
"Suốt một ngày ngu muội ngồi tìm kế để đem thực phẩm vào
hầm, vì ngu muội đoán rằng hiền huynh cùng hiền đệ chỉ ẩn ở trong hầm mà vội
vàng hấp tấp thì ai nghĩ đến đem thức ăn..."
Quang Ngọc ngắt lới:
- Có, ngu huynh có nghĩ đến nên ngu huynh đã đem theo một gói
oản chuối đây Lê Báo chau mày hỏi:
- Thực à?
- Lại chẳng thực. Nhưng tôi muốn để hai ngài làm quen với cái
đói thêm một đêm nữa. ĐÓ cũng là một cách trừng phạt.
Nhị nương cười rồi kể tiếp:
- Mãi tối, bóng trăng suông lờ mờ mới nhắc ngu muội đến làm
ma.
Lê Báo trợn mắt tròn xoe:
- Ồ, giỏi nhỉ! thế ra lúc binh lính chạy tán loạn kêu
"ma hiện hồn", là lúc hiền tỷ đội cái mấn trắng này vào đầu làm ma nạt
họ...
- Chính thế! Rồi nhân lúc họ kinh hoảng, quanh ra sau cái bia
lớn, lần đến cửa bí mật chui vào hầm. CÓ thế thôi. Bây giờ thì họ đương đốt đuốc
tìm ma. Nhưng đã là ma thì còn ai tìm thấy?
Quang Ngọc buồn rầu thở dài:
- Chỉ sợ chẳng bao lâu, anh em ta hoá ma thực cả thôi.
Hồi 26
Chùa Non Nước
Trong dòng sông Phong Doanh, chiếc thuyền bồng xuôi rất mau,
nhẹ nhàng như bay trên mặt nước. trời vừa rạng đông. Một buổi sớm thu mát mẻ,
êm đềm, dễ gỡi cảm hứng.
Trương Quỳnh Như ngồi ngắm ánh vàng nhảy lộn ở mũi thuyền, rồi
mỉm cười bảo thân mẫu đương nằm nghỉ trong khoang:
- Dám bẩm mẫu thân, xin mời mẫu thân ra xem cảnh nên thơ lắm.
Kiến Xuyên phu nhân cau mày mắng con:
- Mẹ không muốn bạ lúc nào con cũng ngâm nga đề vịnh như thế.
Trai cung kiếm văn chương, gái khuê phòng thêu dệt, trời đã chia hẳn công việc
hai bên ra rồi, sao cứ muốn trái luật trời?
- Dạ bẩm mẫu thân, con có dám lười biếng công việc tầm tang,
phùng xuyến bao giờ đâu? Nhưng ngoài công việc làm ăn, cũng xin phép mẹ cho con
được học tập văn thơ ngắm cảnh vịnh đề một vài câu.
Kiến Xuyên phu nhân là một bậc mệnh phụ nghiêm khắc. Chồng bà
một nhà đại văn hào đậu tiến sĩ về đời Lê mạt, chỉ thích có ba thứ: đánh cờ, uống
rượn, làm thơ Phú quý công danh hầu coi như mây bay, như gió thoảng, như bóng
ngựa trắng qua cửa sổ. Nhất từ ngày hầu cáo lão quy điền, thì hầu lại càng rửng
rưng với đời lắm, công việc sinh nhai hầu phó mặc vợ con săn sóc.
Khi nhà Lê bị Nguyễn Huệ diệt, hầu chỉ cười, cái cười tuy đau
đớn nhưng ngụ rất nhiều ý nghĩa khinh đời. Hầu cho sự mất nước là một sự d~
nhiên, thế nào cũng xảy ra, chẳng chóng thì chầy: vì hầu thấy vua Lê hèn yếu,
chúa Sâm kiêu căng. Đã hai ba lần, vì lòng yêu vua, thương nước, hầu đem kế hoạch
hưng bang ra bàn với Sâm, song không những Sâm không nghe theo, mà còn quở mắng
hầu và doạ giáng chức hầu. Hầu liền dâng sớ xin cáo lão hồi hưu, tuy hầu mới
ngoài năm mươi tuổi. Lúc đó, Thanh Xuyên hầu đã thi đậu tiến sĩ và thụ chức hàn
lâm biên tu ở bộ Lại.
Về quê, hầu đi ngao du sơn thủy. Bao nhiêu ngọn núi ở vùng
Sơn Nam theo dọc con sông Đáy đều có in vết bàn chân của hầu.
Nàng Quỳnh Như, con gái yêu của hầu, hầu bắt theo nghiên bút,
cầm thi.
Nàng bẩm tính thông minh lại được hầu ra công dạy dỗ, nên năm
nay mới mười sáu tuổi mà đã có tài nhả ngọc phun châu, cầm ca đủ điệu.
Nhân gặp tiết thu trong sáng, hầu khuyên phu nhân đưa con gái
đi ngoạn cảnh chùa Non Nước.
Hầu thường nói: "Làm một trăm bài thơ, không bằng ngắm một
cảnh non xinh, nước đẹp".
Phu nhân chỉ thích việc làm ăn, đã toan từ chối, nhưng nể lời
hầu, nên cũng sắm sửa vàng hương lễ vật thuê tuyền cùng con gái đi cho hầu bằng
lòng. Vả nghe tiếng chùa Non Nước linh thiêng, phu nhân cũng muốn thừa dịp tới
đó cầu sức khoẻ cho gia đình. Quỳnh Như thì chỉ nghĩ đến ngắm cảnh làm thơ. Vì
thế, kèm với lễ phẩm, nàng đã đem theo bút mực và một tập giấy hoa tiên.
Thuyền nhổ sào vào giờ Dần, cuối giờ Thìn đã tới chùa.
Từ dưới mặt sông ngước nhìn lên, quả núi Dục Thuý tròn trĩnh,
xinh xắn như hòn non bộ lớn đặt trong cái bể cạn dài. Tức cảnh, Quỳnh Như xầm
bút thảo phóng một bài thơ Đường luật:
Non nước xinh xinh cảnh nước non,
Bên dòng bích thủy đá chon von.
Như cô thiế cu nữ nghiêng soi bóng,
Mỉm miệng tươi cười nét thắm son.
Thấy con húy hoái viết, Kiến Xuyên phu nhân gắt:
- Đến nơi rồi. Sắp sửa vàng hương lên lễ, còn thơ thẩn mãi à?
Quỳnh Như vâng lời, cùng mẹ theo bậc đá bước lên chùa. Khi
làm lễ xong, nàng đưa mẹ đi xem di tích của cổ nhân: Nào chỗ cụ Trương Hán Siêu
ngồi câu, nào chổ cụ ngồi uống rượn, đánh cờ, nhất nhất nàng giảng nghĩa rành rọt
cho mẹ nghe, vì đã được thân phụ dẫn giải.
Thấy có nhiều bài thơ hoặc viết hoặc khắc trên đá, Quỳnh Như
cũng gọi thị tỳ đưa bút mực đề một bài:
VÃN CHÙA NON NƯỚC
(Điện Tân giang nguyệt)
Trèo lên Dục Thủy thăm chiền:
Non xanh nước biếtc cảnh tiên dưới trần.
Thướt tha mây trắng một làn,
Như buông bốn phía cánh màu bạch sa.
Chim hót véo von chào khách.
CỎ thơm hớn hở mừng ai,
Gió thu rung động mấy cành mai.
Khêu gọi hồn thơ lai láng,
Cầm bút lạm đề trên thạch tảng,
Một bài cổ tích cảm hoài,
Nào người chiếcn sĩ, kẻ văn tài.
Khôn hỏi Nước Non đâu tá?
Thanh Nê thôn nữ
Trương Quỳnh Như lạm đề
Đề xong thơ, Quỳnh Như buồn rầu man mác, tưởng nhớ người xưa.
Những bài văn non nớt của bọn văn sĩ có ý khinh mạn bậc ẩn sĩ đời Trần càng
thêm gợi lòng căm tức. Nàng toan thảo luôn một bài nữa để vì cổ nhân mắng bọn hậu
sinh vỗ lễ, thì Kiến Xuyên phu nhân giục nàng xuống thuyền để trở lại nhà. Nàng
bùi ngùi rời cảnh đẹp đi theo phu nhân.
Đến chân núi, gặp một trong phong lưu công tử chắp tay vái
chào, phu nhân đáp lễ vấn an:
- Phu nhân với công tử vẫn được mạnh?
- Dám bẩm phu nhân chúng tôi xin đa tạ phu nhân ban lời hỏi
thăm, mẫu thân chúng tôi với chúng tôi nhờ ơn trời vẫn được bình yên.
Người đó là Trịnh Nhị, con một của một vien phân tri đã qua đời,
nhà giàu có nhất vùng Kiến Xương, Ý Yên mà ai ai cũng gọi là "Thạch Sùng đời
naỷ'.
Chàng ta dục dịch từ lâu muốn hỏi Trương Quỳnh Như, nên tuy
đã ngoài hai mươi tuổi, mà chàng vẫn chưa có vợ. Biết rằng Kiến Xuyên hầu không
ưng mình, chàng hết sức lấy lòng Kiến Xuyên phu nhân, biếu hết thức này, thức
khác.
Hôm nay được tin phu nhân và Quỳnh Như đến ngoạn cảnh Dục
Thúy, chàng thuê ngay một chiếc thuyền lớn và bốn tay thuyền thủ lực lưỡng ra sức
chèo cho kịp gặp mặt người chàng nhớ thầm yêu trộm.
Chàng phục sức cực kỳ sang trọng: Dăm vòng khăn nhiễu tam
giang mới nâng cái búi tóc cao cài lược đồi mồi; tấm áo gấm lam phủ ngoài mớ áo
nhiễu kỳ cầu và chiếc quần lụa màu ngà buông chấm mũi đôi hài Phú Xuân thêu kim
tuyến. Theo sau bọn đầy tớ xách điếu cắp tráp theo hầu rộn rã. Chàng biết sự
phong lưu đài các dễ cảm động lòng các bà mẹ có con gái kén chồng. Chàng lại
không quên sai hai tên tiểu đồng mang nghiên bút và một tập giấy hoa tiên đi liền
bên, vì chàng chắc rằng muốn được Quỳnh Như lưu ý tới, chàng phải đóng vai thi
hào ngoạn cảnh, ngắm núi, vịnh sông.
Gặp Trịnh Nhị, Quỳnh Như lạnh lùng quay đi, ngước mắt trông
ngọn Dục Thủy. Kiến Xuyên phu nhân vồn vã nói:
- Mời công tử lên nhà lễ Phật.
- Dám bẩm phu nhân, nay gặp tiết thu mát mẻ chúng con đến đây
chỉ cốt viếng nơi ẩn dật của Trương, một nhà chí sĩ đồi xưa.
Chàng đưa mắt liếc trộm Quỳnh Như, trong lòng lấy làm tự phụ.
Nhưng Quỳnh Như vẫn thản nhiên như không biết chàng đứng đó.
Muốn Trương phu nhân và Trương tiểu thư phải để ý tới mình,
Trương Nhị cầm một tờ hoa tiên lẩm nhẩm đọc. Quả nhiên Trương phu nhân hỏi:
- Công tử làm thơ?
- Bẩm phu nhân, vâng.
- Công tử đọc cho tôi nghe với nào.
Chẳng để nài đến hai lần, Trịnh Nhị đáp liền:
- Xin vâng. Đây là bài thơ đề núi Dục Thúy theo điệu liên
hoàn. Kẻ thơ sinh này làm khi thuyền vừa đáo chân núi.
Chàng hắng dặng để lấy giọng ngâm nga:
Khen ai khéo tạc đúc nên cồn
Đứng vữngphô bày cảnh nước nơn
Cây cỏ xanh rì in dấu đá
Nước non lóng lánh dáng chưa mòn.
Nước non lóng lánh dáng chưa mòn,
Thế giới riêng bầu cỏn còn con
Vang động gió khua cầm thú vắng,
Thiên nhiên tắm vẻ đẹp xinh ròn.
Quỳnh Như quay đi, mủm mỉm cười. Trương phu nhân khen lấy
khen để. Phu nhân vẫn có ý muốn kén chọn Trịnh Nhị làm rể, nên trước mặt con
gái, phu nhân mới tâng bốc chàng lên như thế:
- Công tử tả rõ hệt núi Dục Thúy, phải không con?
- Bẩm hệt lắm. Nhưng giá Vịnh một hòn nơn bộ thì càng hệt
hơn.
Trịnh Nhị đỏ bừng mặt, vái chào toan bước lên núi, Trương phu
nhân còn giữ lại khẩn khoản xin chàng bài thơ. Chẳng đừng được, chàng trao cho
phu nhân tờ giấy hoa tiên, chào một lần nữa rồi im ỉm quay đi.
Quỳnh Như cùng mẹ xuống thuyền, Trương phu nhân mắng con:
- Sao thơ Trịnh công cử vịnh núi Dục Thúy mày lại hỗn xược
dám bảo thơ vịnh hòn non bộ?
- Dám bẩm mẫu thân, quả là thơ đề non bộ. Mẫu thân thử đọc lại
mà xem.
Như câu: "Thế giới riên bầu cỏn còn con," thì còn
có thể vịnh vừa non bộ, vừa chùa Non Nước được. Đến câu "Vang động gió
khua cầm thú vắng", thì rõ ràng vịnh hòn non bộ, hòn núi giả chứ không thể
vịnh một quả núi thực được. Vậy dám bẩm mẫu thân, chắc Trịnh công tử học thuộc
lòng hay chép sẵn từ nhà bài thơ cũ của ông đồ, ông cống nào đó rồi nhận bừa là
tác phẩm của mình. Vả bài thơ cũng chẳng hay hớm gì.
Trương phu nhân chau mày lườm con:
- Mày thì chỉ được mỗi một cái nết kkliêu căng, tụ phụ là hơn
người. Trịnh công tử là một bậc văn nhân lỗi bậc thời nay, mày bì sao kịp. Mày
có giỏi thử vịnh một bài xem nào?
- Thưa mẫu thân con phận gái đâu dám sánh tài trai. Nhưng mẫu
thân đã truyền, con cũng xin lĩnh ý.
Nàng ngồi trong khoang thuyền nghĩ một lát, rồi vừa viết vừa
đọc:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét