Tiêu Sơn tráng sĩ 3
Hồi 34
Long Cơ
Xong việc tang ma của bạn đồng chí, Phạm Thái đã toan xin
phép Kiến Xuyên hầu để trở lại nhà, vì chàng đương sốt ruột về công việc đảng
Tiêu Sơn, mà bấy lâu chàng không nhận được tin tức.
Bỗng xảy ra một việc đau lòng.
Sáng sớm hôm ấy chàng ra viếng mộ bạn một lần cuối cùng.
Xa xa chàng đã trông thấy từ mồ bốc lên một làn khói biếc lẫn
trong sương buổi sáng thu. Chàng nghĩ thầm: "Mình tưởng vào giờ này thì
chưa ai ra viếng mộ, thế mà trước mình đã có người đến rồi".
Chàng định quay về, nhưng đăm đăm nhìn quanh mồ, chàng vẫn
không thấy bóng một ai: "Có lẽ ngưòi đến viếng đã đi rồi? Nhưng người ấy
là ai? Chẳng lẽ Long Cơ lại ra sớm thế?" Phạm Thái liền tiến đến gần.
Chàng thoáng nghe tiếng rên khừ khừ se sẽ.
Bỗng chàng giật mình. Cách mộ độ hai ngũ, dưới một cành dương
liễu, chàng thấy treo lủng lẳng, lắc lư cái xác một người đàn bà vận tang phục.
Dưới chân một đống gạch đổ ngổn ngang. Chàng hiểu ngay là người kia vừa tự ải.
Vội vàng chàng trèo thẳng lên cây cởi cái giây lưng người kia
cùng để thắt cổ.
Thân người đàn bà rơi phịch xuống đất. Phạm Thái nhìn lại thì
là Long Cơ. Chàng liền hô hoán gọi những người qua đường, và nhờ một người về bẩm
với Kiến Xuyên hầu cùng phu nhân.
Ai nấy đang xúm nhau lại gọi hồn Long Cơ lai tỉnh, thì gia
quyến Kiến Xuyên hầu vừa đến. Trương phu nhân khóc oà:
- Trời ơi! Mất con, lại mất luôn cả dâu. Gặp tình cảnh này
thì già sống sao được, trời hỡi trời!
Quỳnh Như đặt tay lên Long Cơ bảo mẹ:
- Bẩm mẫu thân, chưa thất vọng đâu, còn thoi thóp, mà chân
tay chưa lạnh.
Ngàng liền vừa lay mạnh vừa gọi. Quả một lát sau, Long Cơ thở
ra một hơi thật dài, rồi duỗi thẳng chân tay, một lúc nữa, cặp mắt nàng đã động
đậy, lim dim.
Kiến Xuyên hầu sung sướng bảo Phạm Thái:
- Sư ông đã đưa giúp linh cữu con lão từ Lạng Sơn về đây, nay
sư ông lại cứu sống được con dâu lão, ơn ấy không bao giờ lão quên.
Quỳnh Như đưa mắt nhìn Phạm Thái thấy chàng có vẽ lẫm liệt
oai phong của một bậc hiệp sĩ. Nàng tự nhủ thầm: "Ta quyết người này không
phải là sư!"
Phạm Thái cũng liếc trộm Quỳnh Như, ngẫm nghĩ "Sao một
tuyệt thế giai nhân như kia lại không ở trong đảng Tiêu Sơn?"
Giữa lúc ấy Long Cơ mắt trân trân nhìn thẳng, ngơ ngác không
biết mình dương ở cõi dương hay cõi âm. Rồi nàng lại nhắm nghiền mắt lại, miệng
ú Ớ nói mê, tâm thần thiêm thiếp.
Trương phu nhân hỏi thầm Phổ Chiêu:
- Bạch sư ông, liệu có việc gì không?
- Dám bẩm phu nhân, bần tăng chắc rằng không hề gì!
Sư ông xin phu nhân truyền bọn thị tỳ đem võng đưa Long Cơ về
nhà.
Hôm sau Long Cơ tỉnh hẳn, rồi nhờ về thuốc thang chữa chạy tẩm
bổ nên chỉ trong vòng ba bốn buổi lại lành mạnh như thường.
Nhưng suốt ngày ấy sang ngày khác nàng chỉ khóc không chịu ăn
thứ gì, khăng khăng đòi tuẫn tiết theo chồng. Kiến Xuyên hầu phải giảng giải
mãi nàng mới vâng lời, tạm nguôi phiền muộn và bỏ hẳn được cái chí quyên sinh.
Từ đó bất kỳ mưa nắng, ngày ngày nàng ra mộ chồng nằm phủ phục
kể lể tình xưa. Kiến Xuyên thấy vậy đem lòng thương xót và chuẩn lời nàng xin,
truyền gọi thợ đến làm ngay một ngôi nghĩa lư bên mả, để nàng một mình ra đó thủ
tiết cùng chồng.
Cách ít lâu, Quỳnh Như đến thăm chị dâu thấy trên vách trắng
có đề hai bài thơ, nét chữ tươi như hoa đào, già giặn như cành mai cỗi. Nàng đứng
đọc nhẩm:
Cuồn cuộn xe mây hp duổi dong,
Dễmà theo hỏi chốn hành tông,
Khêu sầu chín khúc chùng giây sắt,
Diễn thảm năm canh quạnh giọt đồng,
Niên đảo mơ màng hồi thú cổ
Sinh tiêu nghe lắng tiếng thiền chung,
Huyền thương ví chẳng thù hồng phấn,
Chi hếp trần hoàn trả chưa xong!
Gió thu hiu hắt, khóm phương tùng,
Thổi rụng hàng châu ngoẹn mà hồng,
Cỏ biếc chẳng treo hiền Sở trướng,
Trúc vàng thù điểom giọt Ngu cung,
Họa kề cổ trủng đeo tình nặng,
Trăng rạng cô lư sáng tiết trong.
Dệt gấm Thanh nê, câu nhất tiếu,
Thêu nền Thúy ái chữa tam tòng.
Đọc xong, Quỳnh Như nhìn giòng chữ lạc khoản hỏi:
- Này chị, Phổ Chiêu thiền sư là ai vậy?
Long Cơ đáp:
- Là nhà sư trẻ tuổi tiễn tống linh cữu tôn huynh về đây bữa
nọ.
Quỳnh Như mủm mỉm cười:
- Chị xin thơ người ta đấy à?
Long Cơ lo lắng nhìn em chồng:
- Không, thưa cô, hôm qua Phổ Chiêu đến quỳ bên mộ khấn khứa.
Thấy tôi ra, nhà sư đứng dậy nói lại từ biệt linh hồn bạn một lần cuối cùng để
mai đi Kinh Bắc.
Rồi Phổ Chiêu xin đề tặng một bài thơ kỷ niệm. Tôi bảo người
nhà lấy giấy bút, nhưng nhà sư không viết vào giấy, mà lại viết ngay bên vách
luôn một lúc hai bài thơ nôm ấy.
Quỳnh Như vẫn mủm mỉm cười đọc đi đọc lại mãi hai bài thơ.
Nàng lẩm bẩm nói một mình:
- Đã biết mà, có sai đâu. Người này không phải là sư.
Long Cơ kinh ngạc:
- Cô bảo gì?
- Tôi bảo Phổ Chiêu không phải là sư, hay ít ra cũng không phải
là một nhà chân tu. Là một nhà thi sĩ thì còn có lý.
Long Cơ chau mày ngẫm nghĩ - Sao cô ngờ vực oan cho kẻ tu
hành như thế? Trong đám thiền tăng cũng có người giỏi văn thi chứ.
Quỳnh Như cười:
- Giỏi văn thi đến đâu đi nữa, một nhà sư chân tu cũng không
có những lời tình tứ như hai câu: "Gió thu hiu hắt khóm phương tùng, thổi
rụng hàng châu ngoẹn má hồng". Sao mà chữ "ngoẹn" nó lẳng lơ thế,
chị có thấy không? Nhưng hay chữ thì hay thật!
Quỳnh Như vốn là con nuông của Kiến Xuyên hầu. H^u thương yêu
nàng hơn cả con trai và cho nàng còn thông minh hơn anh nàng nhiều, tuy anh
nàng đã đậu tới tiến sĩ. Hôm ấy nàng đem câu truyện bí mật thuật với cha: nào
khi gặp lần thứ nhất ở trên thuyền, nhà sư dùng cách bút đàmbảo cho nàng hay rằng
Thanh Xuyên bị kẻ thù đầu độc, nào cử chỉ ngôn ngữ của một nhà sư giống cử chỉ,
ngôn ngữ một võ sĩ. Nàng nói tiếp:
- Nhất là lúc nãy con ra nghĩa lư thăm chị trấn thủ con, được
đọc hai bài thơ của sư ông đề trên vách thì con không còn ngờ vực gì nữa. Chắc
chắn là nhà sư kia là một tay quốc sự phạm ẩn thân trong bộ áo cà sa.
Rồi nàng đọc lại hai bài thơ cho cha nghe. Kiến Xuyến hầu ngẫm
nghĩ nói:
- Ừ, hay chữ! Nhưng có điều gì tỏ ra rằng hai bài thơ kia của
một quốc sự phạm đâu?
Bỗng Hầu mỉm cười nhìn con gái yêu. Hầu vẫn khen thầm nhà sư
có vẻ mặt tuấn tú của bậc văn nhân và tấm thân tráng kiện của hàng dõng tướng.
Nay nghe lời, hầu lại biết nhà sư có tài ngâm vịnh siêu thế nữa. Tự nhiên hầu lại
nghĩ đến việc nhân duyên của con gái, nếu quả thật kẻ có văn tài kia chỉ đội lốt
nhà sư để lánh nạn.
Thấy cha nhìn mình một cách tò mò, Quỳnh Như đỏ bừng mặt khép
nép thưa:
- Dám bẩm phụ thân, con trình phụ thân điều ấy chỉ vì con sợ
rằng nếu không đề phòng trước, biết đâu người kia lại không gieo họa cho nhà
ta. Vâng, biết đâu người ta không có chân trong một đảng phản nghịch nào đó.
Con nghe phụ thân nói ở hạt Kinh Bắc có nhiều đảng Lê thần
đương ngấm ngầm phản đối triều đình. Thế mà nhà sư lại là người hạt Kinh Bắc,
nên con e ngại lắm.
Kiến Xuyên hầu gật gù suy nghĩ:
- Được, để cha xem.
Hồi 26
Thử tài
Ngày chiều hôm ấy, Khiến Xuyên hầu truyền làm một bữa tiệc thật
long trọng rồi cho mời Phạm Thái đến dự.
Thấy đầy một mâm lớn sơn hào, hải vị, lại thêm một chóc rượu
đặt trên cái giá sơn son thiếp vàng, Phạm Thái kính cẩn chắp tay từ tạ:
- Bẩm tướng công, bần tăng đã xuất gia tu hành đâu dám nghĩ đến
ăn mặn.
Kiến Xuyên cười khà:
- Bày vẽ! Vã ăn chay quanh năm, nếm thử một bữa cơm mặn chũng
chẳng tội gì.
- Dám bẩm tướng công, bần tăng giới tửu đã quen...
- Giới tửu thì thật đáng tiếc, nhất sư ông lại có tài ngâm vịnh
phi thường.
Phạm Thái nhún nhường:
- Bẩm tướng công, bần tăng chỉ học có kinh phật.
- Dù thế nào mặc lòng, sư ông cũng chẳng nên bỏ dỗi bữa tiệc
tiễn hành của lão gia. Nhân hôm nọ sư ông ngỏ lời muốn về Kinh Bắc, nên hôm nay
lão gia mới có chén rượu nhạt để trước là cảm tạ sư ông đã hộ tống linh cữu con
trai lão gia, lại cứu con dâu lão thoát chết, sau là để tiển biệt một người bạn
thiếu niên.
Phạm Thái kính cẩn:
- Bẩm tướng công, chúng tôi đâu dám.
Kiến Xuyên hầu bỗng cười phá lên hỏi:
- Sư ông hẳn thuộc sự tích Phật tổ?
Phạm Thái giật mình, vì tưởng Kiến Xuyên hầu đoán biết cái lực
lượng phật học của mình. Nhưng Kiến Xuyên nói tiếp luôn:
- Hẳn sư ông đã đọc truyện người tiều phu bắn được một con lợn
rừng, nhân có Phật tổ qua đường liền rước ngài về nhà khoản đãi. Ngài tuy đau yếu
phải kiêng thịt,- vì nếu không kiêng thì tất phải nguy đến tính mệnh - nhưng
ngài không nỡ làm đỗi bữa tiệc của người tiều phu, bèn nhận lời đến dự. Cũng vì
bữa tiệc lợn rừng ấy mà Phật tổ tịch Nát bàn. Vậy sao bữa tiệc của lão gia thết
sư ông lại ế được, phải không sư ông? Dù sư ông có vì ăn mặn mà chịu thiệt không
được lên Nát bàn đi nữa thiết tưởng sư ông cũng chẳng nên từ chối.
Phạm Thái mỉm cười xin nhận lời. Rồi chủ khách vào tiệc.
Lúc mới uống dăm chén rượu, Phạm Thái còn giữ được tự nhiên,
chuyện trò ôn tồn vui vẻ. Nhưng khi đã quá số vài chục chén rồi, thì chàng quên
hẳn rằng mình đương ngồi đối diện với một lão quan. Thấy chàng li bì chẳng nói
chẳng rằng mà nốc rượu như nốc nước vối, Kiến Xuyên hầu nói đùa:
- Trông sư ông như ông Di Lặc.
Di Lặc đương để ý đến cái rèm che cửa buồng gian bên và nghĩ
thầm: "Không gió mà chánh rèm động đậy thì hẳn có người đứng trong ghé mắt
nhòm ra. Người ấy là ai? Hà tất ta còn phải hỏi".
Vì thế Di Lặc tỉnh hẳn: Men rượu chỉ đủ làm cho chàng hết
"li" (cái đức tính của chàng khi quá chén, và trở nên một người nói
chuyện rất có duyện).
Thấy nhà sư đãng trí, luôn luôn đưa mắt về phía cửa buồng
bên, Kiến Xuyên hầu hỏi:
- Sư ông nhìn gì vậy?
Phạm Thái luống cuống. May sao ở ngay vách bức bàn gần đấy có
treo tờ tranh lớn vẽ một người tố nữ. Chàng liền vịn ngay vào đó để chữa thẹn:
- Dám bẩm tướng công, xin tướng công tha lỗi bần tăng mải ngắm
bức tranh; tinh thần nét bút, càng nhìn càng tươi. Dám bẩm tướng công ai là tác
giả bức danh họa này?
Trương công cười:
- Sư ông quá khen. Tôi coi nét vẽ còn non nớt lắm, mà còn non
nớt cũng phải, vì họa sĩ chỉ là một người con gái mười sáu tuổi.
Phạm Thái kinh ngạc hỏi lại:
- Bẩm tướng công, vậy ra...
Thấy chàng ngập ngừng, Kiến Xuyên đỡ lời:
- Phải, tranh ấy chính tay tiện nữ Quỳnh Như phát họa.
Phạm Thái khen, có lẽ cốt để Quỳnh Như đứng sau bức rèm nghe
rõ:
- Đại tài kỳ nữ!
Trương công lại cười:
- Sư ông quá tán tụng. Nhưng lão gia nghe đồn sư ông có tài
thất bộ thành thi, vậy sư ông đề một bài thơ Đường luật vịnh người mỹ nữ trong
tranh xem nào.
Phạm Thái chắp tay lễ phép:
- Bẩm tướng công, bần tăng đâu dám múa rìu qua mắt thợ. Nhưng
tướng công đã truyền bần tăng cũng xin đánh bạo vâng lời, có kém chỗ nào, xin
tướng công phủ chính cho. Vả bức tranh còn thừa nhiều khoảng trắng quá. Bài thơ
của bần tăng có dở đi nữa cũng được cái công dụng giúp cho bức tranh đỡ trống
trải.
- Thi sĩ nhúng nhường quá!
Hầu liền gọi người nhà lấy bút mực.
Phạm Thái ngồi ngắm kỹ bức tranh và ngẫm nghĩ một lát rồi quả
quyết đứng dậy viết một mạch xong tám câu thơ chữ Hán sau này:
Thanh xuân toả liễu lãnh tiêu phòng,
Cẩm trục đình châm ngại điểm trang.
Thanh rạng đỗ liên phi bất lục,
Đạm bi tạn cúc thái sơ hoàng.
Tình si dị tố liêm biên nguyệt,
Mộng xúc tằng liêu trưởng đỉnh sương.
Tranh Khúc cưỡng hêu sầu mỗi bận,
Oanh ca nhật vĩnh các tiêu hương.
Đề xong thơ, Phạm Thái lại ngồi vào tiệc rượu ngâm lại một lượt
rồi hỏi Kiến Xuyên hầu:
- Bẩm tướng công, bần tăng chữ nghĩa còn kém...
Nhưng Kiến Xuyên ngắt lời:
- Thiên tài! Thiên tài! thực là Lý B ạch tái thế.
Hầu lại gần bức tranh dương mục kính đọc đi đọc lại mãi. Bỗng
hầu kêu:
- Trời ơi! dễ thường sư ông... Phải rồi, Oanh, tranh, tình,
thanh, xuân... Giỏi thực, giỏi thực! Đại tài, đại tài!
Rồi đọc đảo ngược bài thơ chữ thành một bài thơ nôm, lời văn
chải chuốt và tự nhiên:
Hương tiêu gát vắng nhặt ca oanh,
Bận mối sầu khêu gượng khúc tranh,
Sương đỉnh tường gieo tường dục mộng, Nguyệt bên rèm tỏ sễsi tình,
Vàng thưa thớt, cúc tan hơi đạm,
Lụcphấtphơ, sen đọ rạnh thanh,
Trang điể hm ngại chăm dừng trục gấm,
Phòng tiêu lạnh lẽo khóa xuân xanh.
Hầu quay vào tiệc rót chén rượu đầu, mời Phạm Thái mà rằng:
- Xin tặng thi hào một chén rượu.
Phạm Thái giơ hai tay kính cẩn đỡ lấy, vái đáp:
- Tướng công ban thưởng, bần tăng xin bái lĩnh xin chúc tướng
công thiên tuế.
- Nhưng ngày tôi hỏi: sao sư ông không để ba chữ "hồi
văn cách" để người đọc hiểu ngay.
Phạm Thái khiêm nhượng:
- Dám bẩm tướng công, có lẽ ngẫu nhiên mà được thế. Nhưng bần
tăng cũng xin vâng theo tôn ý.
Rồi chàng đứng dậy cầm bút đề vào bên bài thơ ba chữ "hồi
văn cách" thực nhỏ Kiến Xuyên hầu bảo chàng đọc lại một lượt. Chàng vâng lời
cất giọng sang sảng bình văn. Đến câu "nguyệt bên rèm tỏ dễ si tình"
thì không biết ngẫu nhiên hay định ý, chàng đăm đăm nhìn cái rèm rung động che
cửa buồng bên.
Phạm Thái bình xong, Kiến Xuyên hầu lại rót một chén rượu đầy
nữa:
- Đây là mừng riêng nhà bình văn tốt giọng.
Thực ra Phạm Thái đã cố sửa sang cho giọng mình lên bổng xuống
trầm, có nhịp nhàng tình tứ. Không một lần nào sư ông đọc kệ hay bằng thế.
Phạm Thái vội đỡ chén nói:
- Chết! Tướng công quá yêu, làm bần tăng tự thẹn, vì tài mọn
của bần tăng không được xứng đáng với tấm lòng lân tài của tướng công.
Kiến Xuyên cười phá lên:
- Hay! Sư ông không nhắc đến chữ lân tài, thì suýt nữa lão
gia quên bẳng rằng sư ông là một bậc đãi tài.
Phạm Thái cho câu nói có ý riễu, lặng thinh cúi mặt, nhưng
Trương công nói tiếp ngay:
- Phải, tôi hỏi, sao thiền sư không ra tiến thân để trị dân
giúp nước?
Rồi muốn dò ý Phạm Thái, Trương công nhìn thẳng vào mắt
chàng, trù trừ nói:
- Hay là thế này... lão gia tiến cử... thiền sư lên triều
đình.
Phạm Thái lạnh lùng:
- Xin đa tạ tướng công, bần tăng đã xuất gia tu hành, đâu còn
dám mơ màng quan cao, chức trọng. Vả miếng đỉnh chung thời này...
Phạm Thái tuy say, nhưng còn đủ tỉnh để giữ gìn lời nói, nên
ngừng ngay được Kiến Xuyên hỏi dồn:
- Miếng đỉnh chung sao kia, thiền sư? Thiền sư nói miếng đỉnh
chung thời này là có ý gì?
Phạm Thái kính cẩn:
- Xin tướng công đại xá cho, chúng tôi say, có khi nói mà
không biết nói gì.
Kiến Xuyên lại cười to:
- Còn gì sướng bằng lúc say mềm nói chuyện mà không biết mình
nói gì. Vậy xin mời thiền sư cùng lão gia uống cho thật say mềm đã rồi hãy nói
chuyện.
Dút lời, hầu giốc cạn nậm rượu vào chén mình rồi mở chóe,
thân cầm gáo và phễu triết đầy nậm, dù Phạm Thái đứng lên xin để chàng làm
giúp, hầu cũng không nghe:
- Tráng sĩ cứ để mặc lão gia.
Phạm Thái giật mình nhìn Trương công:
- Thôi tướng công say rồi. Có tráng sĩ nào ngồi hầu rượu tướng
công đâu?
Kiến Xuyên đầu lắc lư, tay run lẩy bẩy đặt nậm xuống bàn.
- Ờ mà có lẽ lão gia say thực. Lão gia nhìn thiền sư ra hẳn một
tráng sĩ, nét mặt đầy dõng cảm, chí khí.
Men rượu mỗi lúc một làm cho truyện thêm hăng hái. Đến nhá
nhem tối, khi chóe rượu đã cạn quá nửa, thì không còn ai tưởng đến giữ gìn nữa,
bao lời tâm quyết về thời thế đem giốc hết ra mâm rượu.
Rồi ánh sáng mấy ngọn sáp le lói chiếu vào hai cái đầu gục
lên hai góc bàn, một cái bạc phơ và một cái tóc đen mới mọc lởm chởm.
Hồi 36
Rượu Tiễn Chưa Tàn
Nửa đêm Phạm Thái thức giấc, thấy mình nằm ngay ở sập rượu.
Mâm và các thức đã cất hết cả rồi, chỉ còn trơ cây sáp cháy trên cái đài làm
theo hình hoa sen và lá sen.
Phạm Thái ngồi vỗ trán nghĩ mãi mới nhớ ra rằng buổi chiều có
ngồi uống rượu với Kiến Xuyến hầu. Chàng cũng chỉ nhớ thế thôi, còn mọi sự xảy
ra trong bữa tiệc, chàng quên hết.
Bỗng chàng nhác trông thấy bức tranh treo trên vách cạnh bàn,
liền cầm đài sáp ghé gần lại xem. Đọc bại vịnh mỹ nữ, chàng vụt nhớ đến truyện
đề thi và hơn nữa, đến bức rèm rung động trước cửa buồng bên. Ngẫu nhiên, chàng
quay lại nhìn: Cánh cửa buồng đóng chặt, mà hai cành rèm the màu xanh đã mắc
lên đôi móc bạc.
Phạm Thái mỉm cười, chống tay vào cầm ngồi mơ màng tưởng tới
những truyện Liêu Trai đầy tiên cô và yêu quái. Chàng đăm đăm nhìn về phía buồng
ngâm lại bài thơ nôm, và ao ước hão huyền rằng đến câu "Nguyệt bên rèm tỏ
dễ si tình", thì tự nhiên cánh cửa buồng sẽ mở tung ra để đón mời chàng
vào.
Tiếng gà gáy nửa đêm làm chàng giật mình. Chàng sợ mướt mồ
hôi, đưa tay lên vẩn vơ xoa đầu. Lúc bấy giờ chàng mới kịp nhớ ra rằng mình là
sư, và hơn nữa là đảng viện, một đảng Lê thần.
Chàng lấy làm tự thẹn và tự giật mình: "Chẳng lẽ nào
mình lại thế được." Rồi dần dần, trí chàng trở nên sáng suốt. Chàng cố ôn
lại những lời bàn với Kiến Xuyên hầu trong bữa tiệc. Chàng nghĩ thầm: "Chẳng
biết mình có vô ý để tiết lộ những điêu bí mật của đảng không?"
Chàng lo lắng và hối hận vô cùng. Nhác thấy một tờ giấy hoa
tiên màu xanh lá mạ, gấp trong gối xếp và để thò ra một nửa, hình như cốt để
chàng lưu ý đến.
Chàng rút ra xem, thì đó là một bài thơ thất ngôn bát cú. Liền
ghé vào ánh sáng cây sáp, lẩm nhẩm đọc:
Véo von bên liễu liế cng hoàng oanh,
Khuyên khắc đừng quên chí chiếa n tranh.
Giữa lúc nước nhà đang hoạn nạn,
phải khi tráng sĩ vướng tơ tình?
Sông trơi đất Bắc in giòng đỏ,
Núi đứng trời Nam nhuộm vẻ thanh.
Khúc khải hoàn ca rồi mạnh mẽ,
Phòng tiêu đầm ấm rạng ngày xanh.
Phạm Thái sung sướng mỉm cười:
- Bài thơ họa không có lạc khoản, nhưng còn ai vào đây nữa?
Kín đáo và tình tứ, mà lẫm liệt biết bao, tuy viết vội, nên lời thơ không được
chuốt.
Chàng tưởng tượng ra một cảnh lặng lẽ, khi mâm rượn bưng đi rồi,
Trương Quỳnh Như từ khuê phòng rón rén bước ra.
Bức vẽ dần dần hoạt động. Phạm Thái mơ màng thấy một thiếu nữ
mặt trắng như ngà, giơ bàn tay xinh xắn vén cánh rèm the ngó nhìn quanh phòng một
lượt. Rồi hai bàn chân nhỏ nhắn trong đôi hài con phượng nhẹ nhàng khoan thai đặt
trên nền gạch Bát tràng to bản, một bước một ngừng vì sợ chàng nghe tiếng động
giật mình thức dậy.
Thiếu nữ lại gần sập ngắm chàng say mềm nằm gục đầu vào gối xếp,
rồi thong thả bước lên sập, đứng đọc bài thơ đề trên tranh, vừa mỉm cười, Phạm
Thái như còn ngửi thấy mùi hương phảng phất trong phòng và nghĩ thầm vơ vẩn:
"Biết đâu cô Quỳnh Như không lay mình dậy, như vì mình say quá, không
hay".
Chàng lắc đầu nghĩ tiếp: "Không, chắc không thể thế được!"
Giấc mơ tỉnh của Phạm Thái vẫn đi. Chàng thấy Quỳnh Như quay
về phòng khuê lấy bút mực để họa bài thơ của chàng, rồi lại như lần trước, rón
rén bước ra nhà ngoài khẽ đặt tờ giấy hoa tiên vào trong gối xếp.
Một tiếng gà gáy làm tan giấc mộng. Chàng cầm bài thơ đọc lại
một lượt: "Nàng khuyên ta nên đi Kinh Bắc để dấn thân vào nơi nguy hiểm:
Sông trôi đất Bắc in dòng đỏ. Sao nàng biết ta... biết chí lớn của ta? Thôi, chỉ
vì trong khi ta quá chén, ta thốt hết tâm sự ra với Kiến Xuyên hầu. Nàng đứng nấp
sau bức rèm đã nghe rõ câu chuyện."
Chàng sung sướng thì thầm:
- Thực ta đoán không sai, nàng quả là một bực cân quắc anh
hùng. Nàng khuyên ta làm việc lớn, rong ruổi bước đường gió bụi, chờ lúc hát
khúc khải hoàn trở về Nàng ước hẹn cùng ta. âu yếm biết bao ? . . . Phòng tiêu
đầm ấm rạng ngày xanh .
Một bức tranh khác kế tiếp hiện ra: Bức tranh náo động vẽ một
bãi chiến trường: Cả một thời kỳ theo Nguyễn Đoàn, thời kỳ đầy nguy hiểm, gian
lao.
Chàng cười con ngựa tía phi trong đám dáo, gươm, tên, đạn,
coi cái chết nhẹ như chiếc lông hồng. Cái chí nguyện bình sinh của chàng là được
da ngựa bọc thây chôn trên cồn cát trắng. Ngẫu nhiên, chàng ngâm khẽ mấy câu
thơ trong truyện Trinh phụ của bà Thị Điểm.
Chàng trẻ tuổi vố hn giòng hào hệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm thề quyết chẳng dong giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Giao Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Dã nhà đeo bức ch iếựn bào...
Phạm Thái cười chua chát, ngừng lại "mình làm gì có chiến
bào chỉ có tấm áo cà sa. Còn nhà thì chẳng còn nhà đâu mà dã, họa chăng dã cô
Quỳnh Như... Nhưng chẳng hay cô có... đưa chàng lòng dằng dặc buồn không?"
Chàng ngẫm nghĩ một lát rồi quả quyết đứng dậy, dáng bộ hùng
dũng. "Phải đi, phải đi ngay!"
Tiếng gà gáy ran nghe như tiếng giục quân.
Quên hẳn rằng mình đương ở đâu, Phạm Thái cất tiếng ca dõng dạc:
Bóng cờ tiế nng trống xa xa.
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
Nghiên mực và quản bút vẫn cón để trên một tủ trè. Chàng tìm
giấy không thấy, liền xé nửa mảnh hoa tiên không có chữ và viết mấyu câu sau
này:
"Xin kính chào tướng công cùng phu nhân.
Vì có việc khẩn cấp phải hấp tấp ra đi, nên không hp bái biệt,
xin tướng công cùng phu nhân tha tội.
Phổ Chiêu thiền sư bái bút."
Chàng đã toan thêm một câu chào cô Quỳnh Như và nàng Long Cơ,
nhưng nghĩ kỹ thấy không tiện, chàng lại thôi.
Ra sân chàng ngửa mặt nhìn trời: Trời đầy sao lấp lánh, nên
chàng trông cũng rõ lối đi Chàng sung sướng nghĩ đến anh em đồng chí nhất là Trần
Quang ngọc, Lê Báo, Nhị nương mà chàng xa cách đã bao lâu, không biết tin tức
ra sao. Chàng coi như vừa thoát được tai nạn gớm ghê hơn cả những tai nạn trong
rừng gươm dáo! "Trời ơi, mình mà chìm đắm vào bể tình, thì bao giờ báo đền
được ơn vua, trả thù cho nhà, cho đảng?"
Đến cổng, chàng đã tưởng cổng đóng, và phải trèo qua để vượt
ra ngoài.
Nhưng lạ thay, cánh cửa hé mởi. Chàng vừa ra khỏi, quay đầu
nhìn lại thì chẳng hiểu ai đã đóng sập lại rồi, hình như để bảo cho chàng hay rằng
đừng do dự nữa.
Chàng còn bỡ ngỡ chưa biết tiến về phương nào. Bỗng bên bờ
tre trong bóng tối có tiếng lạt sạt. Chàng định thần trố mắt nhìn kỹ, thấy một
con ngựa, thắng yên cương đứng ngoạm lá tre. Giữa lúc ấy, một người ở trong nếp
nhà tranh bên đường chạy ra hỏi:
- Có phải sư ông Phổ Chiêu đó không?
Phạm Thái kinh ngạc hỏi lại:
- Ai biết bần tăng thế?
- Chúng tôi chờ thiền sư ở đây từ giờ Hợi, để dâng thiền sư
con ngựa này, với cái roi này.
Người lạ mặt vừa nói vừa đưa cho Phạm Thái một cái tay nải
nâu:
- Xin mời thiền sư khoác khăn gói vào vai, lên ngựa đi ngay
cho, kẻo trời sắp sáng rồi. Thiền sư không cần sang đò, cứ rẻo bờ sông bên này
đi chừng tờ mờ sáng thì ra tới đại lộ.
Phạm Thái càng kinh ngạc:
- Nhưng tôn ông là ai?
- Thiền sư không cần hỏi điều ấy. Mời thiền sư lên ngựa ngay
đi cho.
Phạm Thái theo lời, khoác tay nải, nhảy phắt lên yên, nói:
- Đa tạ tôn ông, tôn ông đã muốn giữ bí mật không cho bần
tăng rõ tung tích thì bần tăng cũng chẳng biết làm thế nào, chỉ xin cầu Phật tổ
phù hộ cho tôn ông mà thôi.
Dứt lời, chàng ra roi, Vẳng theo sau lưng câu dặn với:
- Không cần phải trả lại ngựa. Các thứ nhu dụng đã có đủ cả
trong gói.
Phạm Thái rẽ ngựa qua cánh đồng khô vừa gặt hái xong, còn lởm
chởm những chân rạ, và theo ven bờ sông, trông phía Tây Nam thẳng tiến. Nắn tay
nải, thấy có nhiều vật rắn và nặng, chàng đoán chắc đó là những nén bạc.
Hồi 37
Cảnh Đêu Tàn
Hai trấn Sơn Nam Hạ, Sơn Nam Thượng, Phạm Thái đi qua đều yên
tĩnh. Ở đó tuy bọn Lê thần cũng bất phục và ngấm ngầm phản đối triều đình Tây
Sơn, nhưng không lập thành đảng, thành hội như ở hai trấn Hải Dương và Kinh Bắc.
Vì thế, sự canh phòng đỡ nghiêm ngặt và ở các bến đò, sự hỏi tín bài cũng không
đến nỗi ráo riết như trên miền Bắc: quý hồ những người qua sông đưa trình là đủ
rồi, viên tuần giang không mấy khi bắt cạp chỉ cùng là hỏi vặn lai lịch cặn kẽ.
Nhưng bắt đầu từ sông Hồng Hà thì sự qua lại đã khó khăn và Phạm Thái đã phải
phòng bị cẩn thận. Tuy kẻ xuất gia được miễn tín bài, Phạm Thái cũng cố tìm
lánh những đãi lộ và không qua Bấc Thành. Chàng đi ngược mãi lên bến đò Trèm mới
thuê thuyền sang ngang.
Dòng dã bốn hôm đường trường, Phạm Thái về tới hạt Từ Sơn. Chàng toan đi thẳng
đến chùa Tiêu Sơn, vì chàng nóng lòng muốn gặp mặt Quang Ngọc ngay.
Nhưng khi xuống ngựa vào một cái quán nhỏ bên đường uống bát nước trè nóng giải
khát, chàng được nghe bà hàng thuật câu truyện "ma hiện hồn tại chùa Tiêu
Sơn," nên sợ hãi không dám tiến nữa.
Chàng cố giữ nét mặt thản nhiên. Một người bộ hành nhai trầu bỏm bẻm vừa hỏi
người kể truyện:
- Thế bây giờ lính còn canh giữ chùa ấy không?
- Không... Nhưng ý chừng ông ở vùng Nam mới lên, hay ông...
Bà hàng toan nói đùa: "Hay ông là thám tử của triều đình" - thời ấy,
nhất ở hạt Kinh Bắc, bọn thám tử của nhà Tây Sơn đông nhan nhản - nhưng ngừng
ngay lại, lo lắng nhìn mọi người.
- Không, tôi ở Thăng Long mới tới.
Phạm Thái vờ phá lên cười, hỏi:
- Ngày nay làm gì còn Thăng Long?
Bấy giờ người hỏi chuyện mới kịp để ý đến nhà sư:
- Ấy tôi quen mồm rồi đấy, vả gọi là Bắc thành tôi cứ e lẫn với thành Kinh Bắc.
Sư ông người vùng này?
- Không, tôi người vùng Nam.
Người đàn bà bán hàng nhanh nhẩu và muốn nói hết những điều mình biết, tuy đã
đinh ninh rằng nhất định giữ gìn mồm miệng:
- Bạch sư ông, sư ông tu hành ở Nam thì sao không cứ ở Nam, lên đây làm gì? Ở
đây các nhà sư bị bắt bớ, đòi hỏi khổ sở lắm... Rõ đã xuất gia tu hành mà chẳng
được an thân - Đòi hỏi ở đâu? Mà đòi hỏi vê việc gì vậy, bà hàng?
- Ấy chỉ câu truyện ma chùa Tiêu Sơn mà lôi thôi thế đấy. Quan phủ ngài không
tin có ma, ngài nhất định cho rằng những con ma ấy chính là các nhà sư tu ở
chùa Tiêu Sơn. Nam vô a di đà Phật! Vì ngài thấy từ ngày có ma hiện hồn thì sư
cụ, sư ông chùa Tiêu Sơn biến mất...
Phạm Thái hoảng hốt:
- Biến mất?
- Vâng, bạch sư ông, biến mất. Mà nam vo a di đà Phật, chùa Tiêu Sơn làm gì nên
tội nên vạ.
Bà hàng ngừng lại, đưa mắt nhớn nhác nhìn quanh. Người Bắc thành mỉm cươl:
- Bà cứ kể, chúng tôi đây không phải thám tử, thám tiếc gì đâu.
Bà hàng còn ngần ngừ, nhưng cái tính bép xép hay nói những điều mình biết bao
giờ cũng thắng nổi lòng lo sợ.
- Bạch sư ông, chẳng hay chùa Tiêu Sơn đã làm nên tội vạ gì, mà bị quan quân
đem binh lính về triệt hạ. Lũy tre bị chặt nhẵn nhụi, tường thời bị phá, hào thời
bị lấp Đến những cây tháp đựng xương các sư tổ cũng bị phá đổ. Người ta đồn rằng
quan phủ làm thế để trừ tiệt giống ma quỷ, yêu quái. Nhưng trừ ma tà thì sao
không đón thầy bùa, thầy phù thủy, mà lại phá chùa như thế, phải không bạch sư
ông? CÓ nhẽ phép vua phép nước cũng linh thiêng lắm, sư ông ạ, từ hôm phá phách
như thế, giống yêu quái bỏ đi hẳn. Không dám bén mảng tới chùa nữa.
Bà hàng hạ giọng se sẽ nói tiếp:
- Mà người ta lại đồn rằng chùa Tiêu Sơn là sào huyệt của một đảng cướp ghê gớm
lắm.
Phạm Thái phá lên cười!
- Nam vô a di đà Phật!
- Vâng, tôi thấy bác cai Đán cũng nói thế. Hình nhưnhững cây Tháp trong chùa
toàn là tháp giả để chúa vàng bạc, châu báu cướp được trong dân gian.
Nhưng điều ấy tôi không tin. Kỳ dâng sao năm ngoái, tôi về Tiêu Sơn lễ Phật có
gặp sư cụ PHổ Tĩnh. Lạy trời lạy tổ, ngài phúc đức, hiền lành lắm. Khi nào ngài
lại Phạm Thái ngắt lời:
- Vậy bây giờ ngài ở đâu? Chắc ngài sợ hãi đi trốn tránh, đi lánh nạn.
Phạm Thái không giữ nổi một tiếng thở dài. Người Bắc thành quay lại hỏi chàng:
- Hẳn thiền sư có biết sư cụ chùa Tiêu Sơn?
Phạm Thái hơi luống cuống:
- Không... bần tăng... biết tiếng... mà thôi... Nhưng rồi ra sao, bà hàng?
- Bạch sư ông, tôi cũng chỉ biết có thể. Sư ông muốn biết rõ thêm thì xin lại
điếm xem giấy yết thị.
- Điếm ở đâu thế?
- Cách đây một thôi ngắn. Bắt đầu từ đấy cho tới sông Cầu, cứ một quãng lãi có
điếm canh.
Người Bắc thành nghe nói vội vàng trả tiền trầu nước, rồi đứng dậy rủ Phạm
Thái:
- Hay ta cùng đến xem đi?
Phạm Thái ngần ngại. Bà hàng cũng gạt:
- Sư ông chẳng nên lại làm gì. Tôi thấy nhiều nhà sư bị đưa đến phủ tra hỏi rầy
rà lắm.
Bà ta chép miệng nói tiếp:
- Vua với quan trên biết đấy là đâu, chẳng qua họ cứ bày vẽ ra để hạch sách...
chứ đời thủa nào lại đi bắt bớ kẻ tu hành như thế.
Người Bắc thành cũng bão Phạm Thái:
- Bà ta nói thế mà phải! Ngay, gian chưa biết đâu, hãy bị tra hỏi lôi thôi đã.
Mà tra hỏi với tra tấn thường hay đi liền nhau, sư ông nên giữ gìn thì vẫn hơn.
Chàng ta lấy làm tự phụ rằng tìm được một ý hay vuốt ria cười ha hả ra dáng
thích chí lắm:
- Vậy sư ông ngồi đây một lát nhé?
- Vâng, cũng được. Ngựa của bần tăng, tôn ông cứ lấy mà dùng.
- Ngựa của thiền sư đấy à? Ồ! Thế thì càng hay lắm.
Chàng nhẩy phắt lên yên, ra roi phóng nước đại. Bà hàng nhìn Phạm Thái hỏi:
- Sư ông quen biết ông ta?
- Không.
- Vậy sao ông lại cho người ta mượn ngựa? Nhỡ người ta không trở lại thì sao?
Thời loạn lạc trộm cướp như rươi, sao sư ông quá tin người thế?
- Kẻ tu hành không dám ngờ ai hết.
Thực ra Phạm Thái liếc mắt ngắm nghía người bộ hành, biết chàng ta là bực phong
lưu công tử, y phục chải chuốt và chững chạc, cái khăn nhiễu tam giang, cái áo
lương La-cả, cái quần vóc trắng ngà làm tôn hẳn vẻ mặt tuấn tú và giáng điệu
đài các của một văn nhân lanh lợi chốn cố đô.
Vả Phạm Thái cho rằng con ngựa kia chàng đã dùng được việc rồi thì dẫu người ta
có lấy mất cũng chẳng hề gì. Cưỡi nó có lẽ một thiền sư càng làm cho người ta
ngờ vực.
Cái ý nghĩ ngờ vực khiến chàng hơi chột dạ. Chàng thì thầm: "Ư, mà nhỡ nó
dùng ngựa của mình đi báo phủ..." Chàng toan rời hàng nước rẽ vào một làng
gần đó trốn tránh thì đã nghe tiếng ngựa phi. Chàng thò cổ ra nhìn, lo lắng.
Nhưng người Bắc thành đã kìm cương, cười nói:
- Con ngựa của thiền sư tốt quá. Ý chừng thiền sư cũng thích chơi ngựa.
- Nam vô a di đà Phật! Bần tăng có thích một thứ gì đâu. Con ngựa ấy nguyên một
ngưòi ở xẽ Thanh Nê đã bố thí cho kẻ tu hành.
Người kia vuốt ve con ngựa.
- Tốt lắm. Con ngựa này thiệt giống ngựa Lạng Sơn: chân nhỏ, bờm dầy, ức nở. Thực
là ngựa trận, một ngày chạy trăm dậm không biết mỏi.
Phạm Thái hỏi tới bản chỉ thị, thì người kia thò tay vào bọc rút ra một tờ giấy
rộng và cuộn tròn, đầy những dấu ấn kiềm đỏ chói:
- Đây, thiền sư đọc.
Phạm Thái đỡ lấy xem thì đó là một tờ yết thị bằng chữ nôm như sau này:
"Chùa Tiêu Sơn là một nơi sào huyệt của một đảng cướp lớn. Quan trên đã
khám phá ra đươc. Hiện nay tên đầu đảng cướp là Phạm Thái đội đạo hiệu Phổ T nh
thiền sư cùng tên tướng của nó là Lê Báo đội hiệu Phổ Mịch còn lẩn lút trốn
tránh. Hai tên ấy, dân vùng Tiêu Sơn nhiều người biết mặt. Vậy yết thị cho ai nấy
rõ. Kẻ nào tàng nặc hai tên ấy tức có đồng phạm. Kẻ nào biết hai tên ấy ở đâu
mà không báo quan ngay để chúng trốn thoát bị phạt ba mươi trượng. Còn kẻ nào bắt
đươc hai tên ấy đem nộp, dù sống dù chết, đươc triều đình thưởng tiền từ một
nghìn quan trở lên, mà triều đình lại còn ban phẩm hàm cho nữa.
Nay yết thị
Từ Sơn phủ phân tri
Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứsáu
Tháng mười ngày... "
Dưới có bản tranh phác họa diện mạo hai nhà sư. Nét bút vụng về và bức vẽ không
giống làm cho Phạm Thái phải bật cười.
Người Bắc thành cũng cười, hỏi:
- Thiền sư đọc xong rồi?
- Vâng, nhưng sao tiên sinh lại dám bóc tờ yết thị?
- Ấy, tôi thấy trong điếm chẳng có một ai, liền bóc lấy cho chóng việc, chứ
chép thì bao giờ xong, nhất tờ yết thị lại viết bằng chữ nôm.
Mắt người ấy vẫn không rời con ngựa.
- Đẹp thực!
- Ngài thích?
- Còn phải hỏi!
- Vậy bần tăng để lại hầu ngài đấy.
Người kia vui vẻ đáp:
- Thực nhé? Thôi thế này. Sáng hôm nay tôi cũng cười ngựa sang đây. Khi đến
quán Yên Viên, nó giở chứng không chị phi nữa, ra roi thế nào cũng làm thinh
Tôi tức mình để lại cho người lái buôn ngựa, lấy có bốn mươi quan. Vậy bốn mươi
quan ấy tôi xin nộp thiền sư.
Phạm Thái đáp:
- Bao nhiêu cũng được.
- Thế thì còn gì bằng. Vậy xin thiền sư cùng đi Yên viên chơi. Rồi sáng mai ta
cùng về Thăng Long... Ta cùng đi Bắc thành một thể thiền sư tính sao?
Phạm Thái vui mừng nhận lời ngay, vì chàng đương chưa biết đi đâu.
Hồi 38
Quán Bạch Phượng
Đã mấy hôm nay trong khắp các phố Bắc thành bày ra một cảnh rất
náo nhiệt.
Vì kỳ thi tuyển cống sinh sắp sửa bắt đầu nên hàng nghìn sĩ tử Bắc Hà vác lều
chiếu từ các trấn xa gần kéo nhau về, lăm le tên chiếm bảng vàng rồng mây gặp hội.
Ở các cửa ô, từng bọn thí sinh áo lương khăn nhiễu, đầu đội nón sơn, chân dận
dép da trâu, xúm xít đọc tờ chiếu chỉ dán trên thành tường. Tờ chiếu ấy viết bằng
chữ nôm như sau này:
Sự kén chọn nhân tài rất có quan hệ đến sự thịnh hưng của một nước.
Từ khi Trẫm lên nối ngôi trời trị dân, không một lúc nào Trẫm sao nhãng điều ấy
Trẫm mong mỏi tìm bậc hiền sĩgiúp nước như người làm ruộng mong mỏi trởi mưa giữa
thời hạn hán.
Vì thế theo gương Tiên đế, nay Trẫm mở kỳ thi cống sĩ để các sĩ tử trong nước
có dịp cùng nhau thi thố tài năng.
Trẫm lại nghĩ một nơi đế đô không đủ chỗ cho sĩ tử khắp nước đến hội họp. Vả những
kẻ ngoài Bắc hà phải lặn lội vào hnh đô, e đường xá xa xôi, nhất là đối với những
ngưòi nghèo khó, phải lo kiếm tiền lộ phí để đi thi.
Bởi những lẽ trên, Trâm đặt kỳ thi công sĩ ở ba nơi, một là hnh đô, một là Quy
Nhơn, một là Bắc thành. Như thế người hạt nào đươc thi ở hạt nấy, thực là giản
tiện. Rồi kẻ nào đậu cống sĩ sang năm vào Kinh đô dự kỳ thi bác sĩ.
Ở trường thi Bắc thành việc kén chọn nhân tài, Trẫm giao cho đại tự đồ Nguyễn
Văn Danh cùng với Thị Trung Ngự Sử Ngô Thì Nhậm đươc tuỳ nghi.
Khâm thử Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ sáu.
Bên cạnh tờ chiếu chỉ lại có một tờ yết thị cũng bằng chữ nôm của hội đồng chấm
thi như dưới:
Thừa lệnh Hoàng đé, quan chánh chủ khảo yết thị cho các thi sinh biết rằng:
Có ba kỳ thi:
Kỳ đệ nhất: một bài giải nghĩa cùng bàn luận một câu tục ngữ hay ca dao viết bằng
chữ nôm.
Kỳ đễ nhị: một bài luận Nam sử cũng bằng chữ nôm.
Kỳ đễ tam: một bài thơ chữ nôm, hoặc chữ Hán, một bàiphú chữ nôm hoặc chữ Hán.
Đúng giờ Dần, các thí sinh đã phải có mặt ở trường th i, ai nấy phải mang theo
lều chiếu cùng là bút mực giấy vở.
Kẻ nào gian trá sẽ bị tội nặng.
Nay yết thị
Quan chánh chủ khảo:
Ngô Thi Trung Nhự sử đại thần
Ở cửa ô Ưu nghĩa, khi đọc xong tờ chiếu chỉ và tờ yết thị, một bọn học trò đủ
các tuổi, từ mười tám đến ngoài năm mươi, đưa mắt nhìn nhau tỏ vẻ hoặc kinh ngạc,
hoặc chế riễu. Một người đã đứng tuổi nói:
- Năm xưa, đức Tiến đế mở khoa thi. Tôi phải lặn lội vào tận Phú Xuân, thế mà
tôi còn bỏ không thi, nữa là năm nay ở ngay Bắc thành.
Một thầy khoá đùa bỡn hỏi:
- Sao vậy?
- Tôi học đạo thánh hiền, dầy công đèn sách, nấu sử sôi kinh, lại thèm làm những
bài nôm na mách qué hay sao?
Dút lời dông đồ vút giấy bút xuống đất, giận dữ quay đi thẳng, khiến mọi người
phá lên cười.
Rồi họ xôn xao bàn tán. Kẻ phàn nàn chưa họ Nam Sử, kẻ lo ngại quên mặt chữ
Nôm. Lại có kẻ hỏi:
- Không biết làm phú nôm thì làm sao?
Một người đáp:
- Khó gì! lại hàng sách mua lấy một quyển phú nôm, văn sách nôm của cụ Le Quý
Đôn mà xem. Nhân tiện học lại chữ nôm một thể.
Một người nữa mỉa mai:
- Thi với cử! Chán ngắt! Văn nôm thì là phải nặng mùi, tờ yết thị dán ở cưa ô
Ưu Nghĩa, phố hàng Mắm thực là đắc nghi.
Một thí sinh có tuổi vừa nhìn trước nhìn sau, vừa bảo người kia:
- Liệu giữ mồm miệng!
Rồi, từng tốp kéo đi các ngả.
Một bọn năm người rủ nhau ra chơi đền Ngọc Sơn. Nhưng vừa qua cầu Sầm Công và rẽ
sang phố hàng Bạc, các thầy khoá gặp một thiếu nữ gương mặt sáng sủa đứng ở hè
phố dương mắt nhìn và mủm mỉm cười tình. Một người trong bọn bảo anh em:
- Nghe nói con gái, Bắc thành ghê gớm lắm kia đấy! Chớ có trêu vào. Nên lảng xa
ra là thượng sách.
Nhưng người thiếu nữ nào có để cho các thầy lảng xa! Nàng tiến đến gần hỏi:
- Thưa các thầy, em coi như các thầy đương đi tìm nhà trọ?
- Có thế. Chừng cô là chủ hàng cơm?
- Thưa các thầy không. Em người Kinh Bắc, nhân gặp kỳ thi, về đây bán hàng trầu
nước.
Một thí sinh trẻ tuổi đã bạo, phá lên cười ha hả:
- Chừng để kén chồng, để tuyển phu?
- Thưa không ạ, em chỉ bán hàng để kiếm ăn. Em nghèo lắm, thuê một gian xép ở ỉru
quán kia. Chủ tửu quán bảo hễ em đón được năm người khách trọ thì họ cho em ở
nhờ không lấy tiền thuê. Vì thế em gặp năm thầy em mừng quá. Vậy xin năm thầy
thương em nghèo mà đến đấy ở trọ giùm.
- Đấy là đâu?
- Thưa năm thầy, quán Bạch Phượng ở phố Cầu Gỗ.
Năm người đưa mắt nhìn nhau. Rồi người trẻ tuổi nói:
- Được, cô cứ về trước đi Lát nữa chúng tôi đến.
- Tiện đường, em xin đưa các thầy về một thể.
- Nhưng lều, chiếu, tráp, nải, chúng tôi gửi cả đàng kia.
- Các thầy không ngại, để ở đâu rồi em xin đến lấy sau.
Chẳng đừng được, năm thầy khoá phải theo cô kia rẽ sang phố hàng Đào rồi đến phố
Cầu Gỗ.
Tửu quán Bạch Phượng dựng ngay cạnh cái lạch nhỏ thông liền hồ Hoàn Kiếm với
cái hồ nhỏ hàng Bạc. Trên lạch cái cầu hỗ bắt ngang, (vì thế mà người ta đặt
tên là Cầu gỗ). Đó là một nếp nhà gạch khá rộng, có gác, tuy gác ấy thấp và
không có cửa sổ trông ra phía đường, chỉ giống như cái mái chồng của một kiểu
nhà hai mái, dốc sây thành bậc.
Tửu quán ấy nguyên trước là nhà một người buôn lợn, khá giàu. Một hôm vợ lẽ chủ
nhân đứng cửa ngắm phố. Bỗng hai viên vệ binh qua đó thấy nàng có chút nhan sắc,
bèn thả lời trêu ghẹo. Cô vợ lẽ vốn người quê trấn Hải Dương mới theo chồng đến
ở Bắc thành, nên chưa rõ oai oác các ông vệ binh xứ Nghệ. Nàng giở hết giọng
chua ngoa tục bẩn ra đáp lại lời ngọt ngào của hai thầy vệ. Người chồng nghe tiếng
ầm ĩ ở cửa chạy ra, thấy hai ông lính thì giật mình kinh hãi, nhưng đã quá muộn
rồi. Chiều hôm ấy, gần một trăm vệ binh kéo đến nhà người buôn lợn phá phách, bắt
hết lợn làm thịt. May mà vợ chồng con cái chủ nhà biết trước đã đi trốn tránh.
Rồi sau họ dọn luôn đi ở nơi khác.
Nhưng nào bọn vệ binh đã thôi đâu. Chiều chiều họ còn kéo nhau đi lượn qua cái
nhà bỏ hoang để thị uy. Kẻ cười khoái chí, kẻ thét bô bô:
- Đã biết tay chúng ông chưa?
Một người khác lại tiếp:
- Phải biết! Ai bảo trêu vào lính nà vua! Trêu vào lính quan tổng trấn!
Hôm đầu cũng có người láng giềng thương tình ra xin các thầy vệ cho gia đình
bác buôn lợn. Nhưng người khéo hứng việc ấy bị một quả đấm nên thân. Từ đó
không ai dám hé môi nói nữa lời, mặc cho nếp nhà kia bị khóa trái không người ở.
Vì ai dại mà đến thuê một cái nhà nguy hiểm như thế, nhất là khắp phố Cầu gỗ đều
đã nghe rõ lời dọa nạt của các ông mãnh, lính hầu quan tổng trấn:
"Đứa nào có giỏi cứ đến đây mà ở!"
Hai tháng ròng, nhà người buôn lợn vẫn đóng cửa im ỉm. Bỗng một hôm có người
khách lạ đến thuê. Hai bên hàng phố khúc khích cười khi nghe người ấy hỏi thăm
xem chủ nhà ở đâu. Họ thi nhau thuật lại những truyện chẳng lành đã xảy ra, rồi
khuyên người kia chớ nên trêu vào lính quan trấn thủ. Nhưng người khách lạ
không tỏ vẻ mặt cảm động mảy may, hỏi đi hỏi lại chổ ở của chủ nhà để đến thuê,
và nói nếu chủ nhà bán rẻ thì mua dứt.
Thấy vậy một người láng giềng nguyên có họ với bác buôn lợn mừng rỡ, đứng ra nhận
bán cho người khác lạ lấy nghìn quan tiền, rồi làm văn tự liền lấy chữ ký của
chủ nhà. Người khách chừng là một tay đại phú, vì trả ngay một lúc năm mươi nén
bạc, mà cũng chẳng cần phải có hộ trưởng ký nhận cùng áp triện.
Ngay mấy hôm sau nhà ngưòi buôn lợn đã trở nên một hàng cơm, ngoài cửa treo một
giải cờ dài nhuộm đỏ có viết bốn chữ lớn "Bạch Phượng tửu quán".
Từ hôm khánh thành tửu quán, suốt phố người nào cũng ngó tới cái hà ghê gớm
kia, mà bọn lính quan tổng trấn đã ra lệnh không cho ai được phép ở. Ngó tới để
xem cuộc xung đột dữ dội đến bậc nào.
Quả nhiên cách đó vài ngày, năm người vệ binh đi qua phố Cầu gỗ. Thấy cái nhà bị
cấm đã nghiễm nhiên trở nên một tửu quán, họ thì thầm bảo nhau:
- Thằng cha nào mà già gan thế?
- Ta thử vào xem sao.
Năm cậu vệ vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì chủ quán ở trong nhà đã bước vội ra
chắp tay lễ phép chào, rồi vồn vã hỏi:
- Thưa các thầy, có phải các thầy là vệ binh trong dinh quan tổng trấn không?
Một ngưòi lính xừng xộ đáp:
- Phải, anh muốn nói vệ binh của quan tổng trấn điều gì?
Chủ quán lại vái dài một cái nữa, rồi mừng rỡ cuống quít:
- Ồ, thế thì may cho chúng tôi quá, chúng tôi đương sắp sửa vào trong dinh mời
các thầy ra chứng kiến cho bữa tiệc khánh thành tửu quán, thì các thầy lại quá
bộ đến thăm. Thực là hân hạnh cho chúng tôi quá. Chúng tôi chẳng nói giấu gì
các thầy, trước kia chúng tôi là vệ binh trong hai năm ở dinh quan trấn thử Lạng
Sơn.
Chỗ đồng nghiệp...
Rồi trong khi mấy người lính còn ngơ ngác nhìn nhau chưa biết xử trí ra sao,
thì chủ quán đã cất tiếng gọi:
- Em Hai!
Có tiếng dạ trong trẻo, rồi một người con gái rất xinh xắn, nhanh nhẹn, y phục
gọn ghẽ, từ nhà trong chạy vội ra.
- Thưa anh, anh bảo gì em?
Mấy cậu vệ trố mắt nhìn, tấm tắc khen thầm.
- Có các thầy cai ở trong dinh quan tổng trấn ra chơi, vậy em sắp rượu mời các
thầy xơi. Dứt lời, chủ quán chạy xuống bếp bảo làm nhắm, để một mình cô em gái
đứng tiếp chuyện với các cậu vệ. Giữ thể diện với một cô thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp,
các cậu cảm tạ và nhất định từ chối không nhận lời dự tiệc một cách quá đường đột.
Nhưng các cậu làm thân ngay với chủ quán, người đã được diệm phúc có một cô em
gái rất dễ thương. Và chẳng bao lâu, hết thẩy bọn vệ binh trong dinh quan tổng
trấn, từ đội, cai cho đến lính, không còn ai thèm nhớ đến câu chuyện phá phách
và thù oán nữa.
Thế là Bạch Phượng tửu quán bắt đầu vào thời kỳ thịnh đạt ngay. Nay gặp kỳ thi
cống sĩ, khách trọ đến càng đông, đông như trong động Hương Tích gặp ngày chảy
hội vậy.
Hồi 39
Cô Hàng Trầu Nước
- Thưa năm thầy đến nơi rồi.
Một ông trẻ tuổi nhất và láu lỉnh nhất trong bọn, mỉm một nụ cười tình đáp lại:
- Thưa cô em, chúng tôi cũng biết là đến nơi rồi, vì chúng tôi đã trông thấy lá
cờ đỏ "Bạch Phượng tửu quán" đương phe phất đón chào chúng tôi kia.
Người thiếu nữ quay lại vẻ mặt rất ngây thơ?
- Ồ! Thầy cũng biết chữ?
Cả năm thầy khoá cùng cất tiếng cười ha hả:
- Cô em ngộ nghĩnh tệ? Đi thi cống sĩ mà lại không biết chữ!
- Ồ nhỉ! Nhưng em cứ tưởng là thi chữ nôm kia chứ?
- Cả chữ Hán nữa.
- Cả chữ Hán nữa? Thì ra Nôm Hán toàn tài!
Mọi người lại phá lên cười. Một thí sinh thì thầm bảo bạn:
- Con bé hay hay nhỉ?
Con bé hay hay đã đưa các thầy vào hàng và cất tiếng gọi:
- Ông quán ơi, có khác trọ.
Tức thì chạy ra một ngưòi cao lớn, lực lưỡng, vận quần áo nâu, chân đi giầy da
trâu, đầu mọc lởm chởm chít chéo cái khăn lụa màu hoa tiên. Người ấy hớn hở:
- Kính chào chư hiền. Xin mời chư hiền vào nghỉ trong nhà. Quán chúng tôi được
tiếp chư hiền thực là hân hạnh, hân hạnh cho quán chúng tôi lắm.
Thiếu nữ bảo chủ quán:
- Tôi đón hộ ông đủ số năm ngài khách trọ rồi đấy. Vậy tiền thuê cửa hàng trầu
nước, ông liệu châm chước cho.
Nhưng không để ý đến thiếu nữ, chủ quán cuống quít, săn sóc chung quanh năm người
khách quý vì cứ liếc trông diện mạo sáng sủa và y phục chững chạc, chủ quán
cũng đoán biết rằng bọn kia là con nhà thế phiệt:
- Thưa chư tôn ông, chư tôn ông chừng người Kinh Bắc?
Thật ra, chủ quán rất thông minh, thoạt nghe mấ mẩu truyện của năm thầy khóa đã
biết các thầy vùng bể, như vờ hỏi chệch đi, làm ra mình ngớ ngẩn thực thà không
lưu tâm đến một việc gì hết. ở thời loạn, ở thời vua tôi không thực bụng yêu
nhau, thì sự ngờ nghệch ngây thơ là một nết rất tốt, vì ít ra nó cũng tránh cho
mình được sự ngờ vực của bọn thám tử. Phải, biết đâu trong năm thầy lại không
có một thầy là thân nhân của quan tổng trấn Võ Văn Dũng. Khắp Bắc thành còn nao
núng về câu truyện xử tử một người học trò, vì người ấy trong lúc ngà ngà hơi
men đã đọc cho bạn nghe bài thơ cảm khoái, có giọng mỉa mai bọn tôi triều đình
Tây Sơn là một bầy con nít, năm cha, ba mẹ. Việc ấy chắc chủ quán chưa quên,
nên nay gặp mấy ông khóa trẻ tuổi kia, chàng giả vờ đóng vai đần độn. Nhưng một
người trong bọn nghe câu hỏi thẳng thắn trả lời ngay:
- Không, chúng tôi sinh trưởng ở vùng Sơn Nam hạ cả. Tôi người Xuân Trường.
- Thưa chư tôn, có ai người phủ Kiến Xương không?
- Có, tôi, Người vừa trả lời tức là thầy trẻ tuổi đã có chiều muốn lơi lả với
cô hàng trầu nước.
- Vậy chắc tôn ông có biết tiếng quan Thanh Xuyên hầu?
Chủ quán hơi cuống:
- À! Tôi biết tiếng... vì ngài là trấn thủ Lạng Sơn.
Rồi lảng sang chuyện khác, chàng cất tiếng gọi:
- Bớ tửu bảo?
Mấy thầy khóa khúc khích bấm nhau, thì thầm:
- Chà! Lão quán này có lẽ là một tay văn sĩ chăng? Gọi người hầu rượu là tửu bảo,
tửu biếc cẩn thận.
Nghe gọi, một người trẻ tuổi chạy ra. Gương mặt chàng sáng sủa, điệu bộ chàng
nhanh nhẹn, khiến ai thoạt trông cũng thấy chàng khác bọn hầu hạ trong các tửu
quán xưa nay:
- Dạ, bác truyền con làm việc gì?
- Anh đi sắp rượu ngay hầu năm ông cống xơi nhé.
Một người khách cười:
- Chúng tôi đã thi đâu mà ông đã vội tôn chúng tôi lên cống sĩ, bác sĩ?
- Thưa chư tôn, chư tôn đã thi thế nào cũng đậu. Trước sau có khác gì?
Co^ hàng trầu nước quay lại nhìn các thí sinh và mỉm cười rất có duyên:
- Xin mời chư vị hãy lại xơi chén nước chè nóng cho ấm bụng đã.
Một thầy khóa gật, cười tình đáp lại:
- Phải đấy, chư tôn huynh ạ. Chúng ta chẳng nên để cô hàng mong đợi. Phải
không, ông quán?
Chủ quán cười nịnh:
- Vâng. Nghe đâu cô hàng cũng là một nữ thi sĩ ở vùng Kinh Bắc mới tới kia đấy.
Có thể hầu chuyện văn thơ chư tôn được.
Cô hàng chau mày:
- Ông cứ chế riễu làm gì thế? Chúng tôi nữ nhi nan hóa dám đâu học thói múa dìu
qua mắt thợ.
Khách văn nhân đưa mắt nhìn nhau, có ý gờm gờm, thì cô hàng lại nói tiếp:
- Thưa chư quý vị, ban nãy chư quý vị nói gửi lều chiếu cùng hành lý ở đâu để
em xin đi lấy về.
- Thôi chả dám phiền cô.
Chủ quán đứng lên đỡ lời:
- Để tôi sai người đi ngay. Xin chư tôn cho vài chữ. Vậy ở đâu ạ?
Một thí sinh đáp:
- Ở nhà ông cử Lan, phố... à cửa ô Ưu Nghĩa.
Cô hàng thấy ông đồ tránh cái tên phố hàng Mắm thì quay đi mủm mỉm cười.
Còn chủ quán vô tình nói luôn:
- À, ông cử Lan ở phố hàng Mắm, tôi biết. Vậy xin tôn ông cho cánh thiếp, tôi bảo
người nhà đi ngay.
Trong khi các thầy khoá ngồi ở phản hàng nước viết thiếp, thì chủ quán mang đến
một quyển sổ lớn mà rằng:
- Chúng tôi có một điều muốn thưa cùng chư tôn. ít lâu nay vì có quân gian phi
lẩn quất trong thành làm điều phi pháp, nên đối với việc tuần phòng, quan tổng
trấn rất nghiêm nhặt. Ngài có ra lệnh rằng các tửu quán đều phải có một bạ nhật
ký để khách viễn phương đến trọ khai tên, tuổi, quê quán vào đấy... Chúng tôi
cũng biết làm như thế là phạm đến danh dự của chư tôn, nhưng chư tôn cũng lượng
xét cho, nếu chúng tôi không tuân thượng lệnh thì tất phải tội với triều
đình...
Thấy chủ quán nói năng lễ phép, một người vội ngắt lời:
- Có gì mà phạm tới danh dự chúng tôi được. Giữ trật từ ở một nơi đô hội rộng
rãi, đông đúc như Bắc thành thì cố nhiên phải cẩn mật.
Vừa nói vừa đỡ lấy quyển bạ để viết. Tên tuổi năm người là:
Nguyễn Thanh, hai mươi ba tuổi, Nguyễn Ban, hai mươi mốt tuổi, hai anh em, người
làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường; Đỗ đắc Thắng hai mươi hai tuổi, Đỗ đắc Tiến,
hai mươi tuổi, cũng hai anh em, người làng La Ngạn, phủ Nghĩa Hưng. Còn người
thứ năm là Trịnh Nhị, hai mươi mốt tuổi, người xã Thanh Nê, phủ Kiến Xương.
Xong việc sổ sách, chủ quán xin thiếp đi lấy hành lý, rồi kính cẩn vái chào, để
năm nhà văn ngồi lại mà lả lơi trêu gẹo cô hàng trầu nước. Trịnh Nhị con nhà
giàu sang, vốn đã thạo khoa tán gái, nhập cuộc ngay bằng một câu khoe khoang với
cô hàng:
- Cụ lớn tôi cứ bắt tôi phải đưa vài ba tên tiểu đồng đi cắp tráp, xách điếu
theo hầu, nhưng tôi ưa giản dị, nên chỉ đem có một đưá vác liều chiếu. Vả đi đến
đâu là nhà ở đấy, phải không cô hàng?
Cô hàng mỉm cười:
- Vâng tôn ông dạy rất phải.
Trịnh Nhị thích chí cười hé hé, nói tiếp:
- Lúc đã vừa ý thì lọ là phải có kẻ hầu, người hạ, thêm bận chân!
- Vậy anh người nhà của tôn ông ý chừng ở đằng cửa ô Ưu nghĩa?
- Phải, nó nhận được thiếp của tôi thế nào cũng theo bác chủ quán, mang hành lý
lại đây Đằng ấy là chỗ bà con. Nhưng tôi đã nói, đối với nam nhi, đối với thi
nhân mặc khách như anh em chúng tôi, thì mình ở đâu là nhà mình đó, phải khống
quý nương? Như gian hàng nhỏ của cô nương đây tuy hẹp, nhưng lúc chúng tôi
thích thì tức là lâu đài nguy nga của chúng tôi đó. Vì khách làng văn như chúng
tôi, sự nguy nga không ở cửa cao, nhà rộng, mà chỉ ở một chén rượn nồng, một
câu thơ hay, một lời nói có duyên, một bông hoa thơm hé nở.
Vừa nói chàng vừa liếc cô hàng một cách rất tình tứ, khiến bốn người bạn phải lấy
làm khó chịu, vì họ chỉ sợ sẽ mắc lỡm với cô hàng có cặp mắt long lanh, sắc sảo
và cái miệng luôn luôn nở một nụ cười bí mật.
Quả họ đoán không sai: cô hàng rót năm chén nước chè mạn sen thơm ngát đặt
trong cái khay khảm, rồi bưng lại sập mà nói rằng:
- Chả mấy khi tệ điếm lại được chu hiền chiếu minh, thực đại hạnh, đại hạnh.
Nay nhân hàng vừa mở, vậy tiện nữ xinh Trịnh công tử ra ân ban cho một đôi câu
đối treo cửa.
Trịnh Nhị vui sướng:
- Sao quý nương biết tên tôi, mà lại gọi tôi là công tử?
- Dạ, ban nãy tiện nữ có trộm nhìn cánh thiếp của công tử.
Nguyễn Thanh vốn biết sức học kém cỏi của Trịnh Nhị và sợ lỡ chàng giở hết cái
dốt của chàng ra, thì thực cả bọn bị xấy lây với cô hàng, nên đỡ lời ngay:
- Làm câu đối là một việc rất tầm thường quý nương chẳng cần phiền đến tài cao
của Trịnh đại huynh xin để tôi cáng đáng.
Ở hai cái cột có treo sẳn đôi liễn con phượng chưa viết chữ. Cô hàng bắc ghế lấy
xuống mà nói rằng:
- Thưa chư tôn, ban nãy Trịnh công tử đã làm xong một vế rồi, chỉ còn một vế nữa
thôi.
Trịnh Nhị hoảng hốt:
- Xong một vế? Tôi làm xong một vế rồi?
- Vâng, vế ấy tiến nữ đã ghi vào mảnh giấy, đây xin trình chư tôn.
ĐỖ đắc Thắng đỡ lấy tờ giấy hao tiên của cô hàng trong có hàng chữ thật tốt:
"Một chén rươu nồng, một câu thơ hay, một lời nói có duyên, một bông hoa
thơm hé nở ".
Nghe bạn đọc, Trịnh Nhị vỗ tay cười, tự phụ:
- Vế câu đối của tôi.
- Vâng, của công tử. Cho hay các văn nhân thi sĩ có đại tài vẫn thế, làm văn
làm thơ mà không biết rằng mình làm văn, làm thơ.
Năm người cùng lo lắng, ngẫm nghĩ Cô hàng lại nói tiếp:
- Thưa chư tôn, kể về câu đối ấy mà treo ở trà điếm của tiện nữ thì cũng xứng
đáng Nhưng tiện nữ xin phép Trịnh công tử đổi hai chữ cho được đúng hơn vì ban
nãy, chẳng qua công tử buột miệng mà nói thàng văn, chứ công tử có kịp suy nghĩ
tới tiến nữ đâu.
Nói đến đây, cô hàng đưa một cái liếc mắt rất kín đáo.
- Đổi hai chữ nào, quý nương?
- Thưa công tử, hai chữ "rượu nồng" ra hai chữ "trà đượm".
Rồi nàng lại đọc:
"Một chén trà đượm, một câu thơ hay, một lời nói có duyên, một bông hoa
thơm hé nở ".
Cả năm ông cống sĩ tương lai cùng tấm tắc khen:
- Hay! Hay lắm! "Một chén trà đượm, một câu thơ hay, một lời nói có duyên,
một bông hoa hé nở", câu ấy thực đáng treo ở cửa hàng trầu nước của một cô
nữ văn sĩ.
Cô hàng bẽn lẽn cuối đầu. Nhưng cô hiểu rằng không nên làm cho các thầy khóa thất
vọng. Cô bèn nói té tát để chữa thẹn cho các thầy:
- Thưa chư tôn, trong thơ, đối chọi là một sự tầm thường, những bậc tài lỗi lạc
không thèm để ý tới. Trịnh công tử cho một vế như thế cũng đủ nghĩa lắm rồi. Đủ
nghĩa thì thôi, còn tìm một vế nữa làm gì. Vậy xin Trịnh công tử hạ cố cho tiện
nữ được ngắm tài của Vương hi Chi tiên sinh đời nay.
Nghe cô hàng nói, các thầy mướt mồ hôi, Khóa Nguyễn Thanh lại phải đảm nhận việc
viết liễn, vì chàng biết rằng chữ Trịnh Nhị xấu như gà bới. Vả bốn ông khóa
nghe đâu đều ỷ vào lưng Trịnh Nhị mà chơi bời phung phí, nên phải luôn chống đỡ,
che chở cho chàng.
Viết xong vế câu đối với giòng lạc khoản "Trịnh Nhị, Thanh Nê mặc khác đề
, Nguyễn Thanh chừng biết cô hàng là gái chẳng vừa, liền bấm bạn bè cáo lui vào
trong quán nghỉ ngơi.
Cô hàng khúc khích cười, treo đôi liễn lên cột lẩm bẩm nói:
- Một bên đã có chữ. Còn một bên... hãy để đấy.
Hồi 40
Chủ Quán
Đêm hôm ấy, khi các khác trọ đều đã yên giấc, khi trống, mõ
và chiêng, kiểng ở trong thành đã điểm canh ba, chủ quán mới nghĩ đến đi ngủ.
Chàng ôm sổ sách lên gác, một từng thấp đến nỗi một người tầm thước có thể đứng
giơ tay lên với chạm mái được.
Vẫn tưỡng chàng đem sổ sách lên để tính toán các món chi tiêu trong một ngày.
Nhưng không, chàng vứt bề bộn hết cả giấy má trên mặt một cái rương lớn, bên cạnh
cây đèn dầu lạc, ngọn cháy lù mù, rồi cúi xuống một góc phòng khẽ lật ván lên
kéo ra một tờ giấy lớn bồi vải và cuộn tròn. Chẳng biết nghĩ sao chàng lại đậy
ván lại, rồi rón rén bước xuống nhà.
Trong các buồng, khách trọ đông ních, tiếng ngáy đủ giọng cao thấp.
Chủ quán soát lại một lượt, từ phòng khách đặc biết dành riêng cho các thí sinh
giàu có, sang trọng, trong số đó có bọn Trịnh Nhị, cho chí những phòng trống trải
ở nhà ngang, nơi trọ của các chú lái gồng gánh thúng mẹt. Chàng lẩm bẩm:
- Được lắm! Ngủ yên cả rồi.
Chàng liền trở lên gác ngoài, đóng cửa cài then cẩn mật, rồi lại lật ván lấy tờ
giấy lớn bồi vải ban nãy, mở rộng ra: đó là bức bản đồ Bắc thành, và các phố,
các cửa ô, các ao chuôm. Chàng di ngón tay trỏ xuống cửa tây, rồi đưa đi theo
con đường nhỏ qua mấy thửa ruộng tới đền thờ đức Tản Viên dựng trên gò Nùng
sơn.
Ngẫm nghĩ một lát, chàng lại lắc đầu, đưa ngón tay trỏ đi từ trại binh thẳng đường
qua Võ miếu xuống cửa Nam Văn miếu. Chàng mỉm cười dừng lại đó rồi đi ngang
sang phía đông tới trường thi. Cặp môi chàng mỉm một nụ cười đắc thắng:
- Chỉ năm trăm cũng đũ chán!
Có tiếng gõ cửa khe khẽ, kín đáo. Chủ quán vội cuộn bản đồ lại cất vào chỗ cũ,
rồi lên giường nằm im thin thít. Lại có tiếng gõ, hai tiếng đi liền nhau, kế tiếp
ba tiếng nữa. Chủ quán mỉm cười sung sướng dậy mở cửa gác hỏi sẽ:
- Ai?
- Ngu muội.
- Trời ơi! Hiền muội! thế nào, công việc?
Một thiếu nữ bước vội vào phòng. Đóng cửa cài then xong, nàng đáp:
- Hy vọng.
Thiếu nữa là cô hàng trầu nước buổi sáng, và chính là Nhị nương. Còn chủ quán tức
là Trần Quang Ngọc.
Trần Quang Ngọc và mấy người đồng đảng bị vây ở trong hầm chùa Tiêu Sơn.
Tuy viên phân phủ chưa tìm ra được cái hầm bí mật ấy, nhưng cũng đoán chắc rằng
bọn nghịch chỉ lẩn quất đâu đây mà thôi. Vì thế, y ra lệnh cho quân lính ngày
đêm phải vây bọc thực cẩn mật lấy các ngách, các lối quanh chùa.
Nhờ mưu Nhị nương giả làm ma, bọn quân khiếp sợ. Nhưng ngay đêm hôm nàng đem
lương thực vào hầm, nhân quân canh đướng náo động tâm hồn. Quang Ngọc cùng các
bạn đồng chí trốn thoát ra ngoài. Vì chàng cho rằng mưu kia tuy lừa được bọn
lính ngu dốt, mê tín, nhưng trái lại sẽ giúp cho sự dò xét của viên phân phủ
nhiều lắm.
Quả thực, sáng hôm sau phân phủ Nguyễn Túc được tin báo có ma hiện hồn ở sân
sau chùa Tiêu Sơn, bèn tức tốc cười ngựa đến nơi xem xét. Theo lời phác tả của
tên lính canh, Túc đi quanh hai, ba vòng ngôi mộ, mà tên kia cho rằng con ma biến
vào đó. Bọn nha lại theo phân phủ bàn nên tìm thầy phù thủy cao tay để lên đàn
trừ tà. Nhưng Túc chỉ mỉm cười đứng ngẫm nghĩ rồi thong thả bảo quân lính đi lấy
cuốc, thuổng đào ngôi mộ...
Vì thế mà sự bí mật bị khám phá vì viên phân phủ đoán chắc rằng Phổ Tĩnh thiền
sư, chủ cái hầm kia tức chỉ là Phạm Thái.
Nửa tháng sau, Quang Ngọc đã trở nên chủ nhân quán Bạch Phượng rồi chàng đem tiền
- vì thế lực kim tiền bao giờ cũng mạnh - chạy cho Lê Báo được trụ trì chùa
Liên Phái. Còn Trịnh Trực thì nhân chưa ai được tung tích, Quang Ngọc lưu lại
Kinh Bắc để tìm kiếm thêm đảng viên trong vùng ấy sau này có dịp tốt, chàng sẽ
quay về hạt Từ Sơn lập lại đảng.
Chính giữa lúc Quang Ngọc đương miên man đến các cách lập lại đảng, có lẽ to gấp
mấy lần trước, thì nghe có tiếng gõ cửa rồi thấy Nhị nương bước vào phòng báo
cho chàng biết rằng việc đảgn rất hy vọng, chàng hỏi lại:
- Hiền muội có hy vọng, là hy vọng về phương diện nào, về phương diện võ hay
văn?
Nhị nương mỉm cười:
- Về cả hai phương diện.
Vẻ mặt Quang Ngọc vẫn thản nhiên:
- Nói qua cho ngu huynh nghe nào.
- Mưu kế rất giản dị. Hôm bắt đầu kỳ để nhất, các thí sinh sẽ rấy loạn phá trường
thi.
- Chắc?
- Chắc. Không kể hơn trăm đảng viên ở các trấn về dự thí, ngu muội đã dụ được
vài trăm thầy khóa nữa rồi.
- Cả năm chú ban sáng?
- Chính. Hôm ra xem đầu bài chữ nôm, bọn họ sẽ la hét ầm lên rằng nhất định
không làm bài nôm na mách qué... Thế là hàng nghìn người a dua theo rồi ùa nhau
phá trường thi bắt giữ các khảo quan lại. Tất nhiên quan tổng trấn cho quân
lính ra đàn áp Bọn quân lính ấy đã là quân lính ta.
- Của ta?
- Vâng, của ta. Nghĩa là viên quân cơ đã phát thệ theo...
- Theo đảng ta?
- Không... theo ngu muội.
Quang Ngọc trân trân nhìn mm , rồi mỉm một nụ cười kính phục:
- Nhưng phải giữ bí mật lắm đấy! Hiền muội nên nhớ việc phá Từ Sơn.
- Việc này mà bại lộ thì chỉ một mình ngu muội chịu tội, vì những người làm việc
dưới lệnh ngu muội chỉ biết có ngu muội.
Quang Ngọc ngước mắt ngắm Nhị nương, thấy cặp mắt nàng long lanh sắc sảo lạ
lùng:
- Vẫn biết thế, vẫn biết rằng chúng ta đã đổi hẳn chiến lược, chia nhau ra ai
làm việc nấy, chỉ riêng chịu trách nhiệm đối với đảng. Nhưng mất một viên thượng
tướng như hiền muội, thì thực đảng cũng đến siêu.
- Hiền huynh cứ dạy quá lời làm gì thế.
- Lúc hiền muội vào ngu huynh đương xem lại bản đồ Bắc thành.
- Bản đồ của Vẽ Tăng họa?
- Phải, đây, hiền muội thử xem lại...
Quang Ngọc toan lấy bản đồ thì Nhị nương gạt đi mà rằng:
- Không cần ngu muội nhắm mắt cũng đi được khắp nội thành ngoại ô.
Dút lời, nàng đứng dậy nói:
- Thôi, mời hiền huynh đi nghỉ, chẳng khuya rồi.
Quang Ngọc giữ lại:
- Ã, một tin mừng. Quỹ tháng này tăng nhiều lắm. Riêng tửu quán đã thu được gần
nghìn quan.
- Thế à! Một tin mừng nữa.
- Tin gì?
Nhị nương ghé lại gần nói thầm:
- Phạm Thái hiện ở Bắc thành.
Quang Ngọc vui mừng:
- Ở đâu?
- Ngu muội chưa gặp. Nhưng mai xin đi tìm.
Hồi 41
Hành Hình
Chung quan pháp trường, người ta đứng xem rất đông. Họ đến
ngay từ đầu giờ Dần để nhận chỗ.
Vì xử tử mấy người phản quốc quan trọng - một viên quan và bốn viên đội - nên
pháp trường không lập ở trong thành, mà dựng ngay ở trước cửa chùa Liên Trì
trông ra hồ Hoàn Kiếm. Quang tổng trấn muốn nhân dân khắp Bắc thành đều được mục
kích mấy cái đầu phản quốc rơi dưới lưỡi gươm nặng của viên đao phủ.
Trong bọn đến xem, hai người nói chuyện:
- Sắc đẹp giết người!
- Thế con bé bán hàng nước hôm nay có bị hành hình không?
- Nó trốn thoát rồi còn đâu. Ngay khi chưa bại lộ câu chuyện làm phản, chủ quán
Bạch Phương đã làm đơn vào dinh quan phân tri sở tại kiện ả kia về tội lừa đảo
Nghe đâu cô ả ở trọ hơn một tháng, mà chẳng trả được một đồng một chữ.
Rồi một đêm bỏ trốn biệt.
- Thế quan không tróc nã ư?
- Chắc có chứ, nhưng vị tất nó còn lẩn lút trong Bắc thành.
Ở một chỗ khác, năm, sáu người học trò khúc khích cười, thì thầm bảo nhau:
- Sao ngày nay mà hãy còn những đứa cuồng xuẩn như thế nhỉ?
- Đại huynh bảo thế nào là cuồng xuẩn?
- Nghe theo một đứa con gái, một con hàng nước, để toan phục hưng nhà Lê, đại
huynh bảo chẳng gọi là cuồng xuẩn còn gọi là gì?
Một người thứ ba cười ha hả:
- Ý chừng chúng nó muốn bắt chước bọn Trịnh Kiểm đời xưa chứ gì?
- Nghe đâu con bé hàng nước ghê gớm lắm kia đấy. Đại huynh đã lại Quảng Minh đường
đọc tờ chiếu chỉ chưa?
- Chưa. Có gì lạ vậy?
- Trong chiếu chỉ có nhiều câu mạt sát bọn Lê thần. Chừng con bé hàng nước cũng
thuộc bọn ấy.
Một người thì thầm bàn chen:
- Dễ yêu tinh đấy, các bạn ạ. Các bạn có nhớ truyện con rắn hiện thành người đẹp
bán chiếu gon ở phường khán Xuân không? Nó xuống hoạ thơ với cụ Nguyễn Trãi, rồi
được cụ kén làm nàng hầu. Về sau nó lại hiện nguyên hình rắn, đương đêm cắn chết
hoàng thượng.
Một người từ nãy vẫn yên lặng, giữ vẽ mặt bực tức, bỗng thở dài phàn nàn:
- Một lũ khốn nạn! Chúng nó làm mình hụt cống sĩ khoa này. Mình bao công đèn
sách, những tưởng được chiếm bảng vàng. Ngờ đâu chúng nó làm phản để triều đình
bãi khoa thi. Chư đại huynh tính như thế thì có uổng không, như thế thì có tức
chết được không?
- Nhưng đại huynh đã chắc đâu chiếm bảng vàng?
Mọi người cười phá lên, khiến mấy chú lính mặc áo nâu, đội nón son vác dáo đứng
giữ trật tự ở hàng đầu phải quay lại quát:
- Khẽ mồm chứ! Quan sắp đến đấy!
Những mẫu chuyện riêng kia đủ tỏ rằng Bắc thành vừa suýt có biến. Cuộc biến loạn
ấy, hoàn toàn là công trình của Nhị nương.
Tối hôm từ biệt Quang Ngọc ở Bạch Phượng, nàng cải nam trang đi tìm Phạm Thái,
vì buổi sáng vào đền Ngọc Sơn, nàng đã để ý tới một bài thơ của một văn nhân đến
vãn cảnh. Bài thơ ấy chỉ là một bài thơ đề vịnh, nhưng đối với đảng viên đảng
Tiêu Sơn lại là một dấu hiếu để báo cho nhau biết mà đi tìm nhau. Tức thì Nhị
nương họa lại nguyên vận. Trong bài hoạ, nàng không cần lời thơ hay, nàng chỉ cốt
chen được câu: "Phượng trắng soi bên dịp mộc hều."
Câu thơ ấy ai chẳng cho là tả đền Ngọc sơn đứng bên cầu Thê Húc. "Nhưng Phạm
Thái tất hiểu. Phải, làm gì mà không hiểu, vì ta ký tên là nàng Hai".
Nhị nương vui sướng đọc lại câu thơ.
Nhưng suốt ngày vẫn không thấy Phạm Thái đến quán Bạch Phượng. Nhị nương dồ rằng
chàng chưa trở lại Ngọc Sơn. Vì thế, đêm ấy, chàng cải nam trang la cà trong
các tửu điếm để tìm Phạm Thái. Trước hết, nàng đến một hàng thịt cầy ở phố hàng
Hòm. Nàng chắc rằng anh chàng Lỗ Trí Thâm kia đã về Bắc thành thì khi nào lại
chịu kiêng khem cái thú nhắm rượn chả chó.
Ở đó không gặp Phạm Thái, nàng lại đến các hàng cơm chứa trọ phố Thợ Nhuộm gần
tràng thi, vì nàng chắc Phạm Thái chỉ quanh quẩn ở khu ấy. Vả biết đâu Phạm
Thái không đội tên để đi thi.
Mãi gần sáng, Nhị nương mới trở về quán Bạch Phượng nhủ, mà Phạm Thái, nàng vẫn
chưa biết tin tức ra sao. Cuối giờ Mão, nàng thức dậy. Dậy không phải để bán
hàng. Nàng vừa nghĩ ra một cách nữa đễ tìm kiếm Phạm Thái: là sắm sửa vàng
hương đi lễ các chùa. Vì nàng đoán chắc rằng nếu Phạm Thái không có trong các tửu
quán, thì chỉ ẩn núp ở chùa nào đó.
Quả không sai. Khi đến cổng chùa Trấn Quốc, và nhận được tính cách Phạm Thái
trong một bài thơ vịnh Tây Hồ, Nhị nương vui mừng tiến vào chùa và gặp chàng
đương ngồi nói chuyện với sư cụ. Nàng cố giữ mặt thản nhiên, đi qua hành lang
lên chùa trên.
Một lát sau, Phạm Thái theo lên thắp hương, vì ngày ấy là ngày thường, nên chú
tiểu xin phép đi chơi phố, và nhân tiện mua các thức ăn.
Hai người kể qua loa cho nhau biết tình thế và công việc của đảng. Rồi Nhị
nương hẹn Phạm Thái tối hôm ấy lại quán Bạch Phượng phố Cầu gỗ bàn việc lớn.
Công việc vây phá trường thi và xui giục quân lính dấy loạn tiến hành càng mau
khi đã có Phạm Thái giúp Nhị nương một tay.
Bỗng xảy ra một việc chẳng ngờ, đến nỗi vỡ lở: Một người trong bọn đứng đầu việc
gây ra bỏ thi đến lễ đền Ngọc Sơn xin quẻ thẻ. Chẳng may cho Nhị nương, quẻ thẻ
ấy rất xấu. Người kia sinh ra nghi ngại, lo lắng. Đọc đi đọc lại quẻ thẻ, người
ấy nhận thấy một câu thơ có nghĩa ẩn hiện rằng nếu đi phát giác việc làm phản với
quan trên, thì thế nào cũng được hưởng phú quý.
Thế là thầy khóa sinh lòng tráo trở. Vả tráo trở lại có lợi lắm cơ: Mười năm
đèn sách, mà ra thi vị tất đã ăn thua, đằng này chỉ nói một câu là nhảy một bước
tới cao quan.
Kể ra, thầy khóa cũng rất siêu lòng vì cô hàng trầu nước xinh đẹp, nhất lại được
cô ta tâng bốc luôn luôn, và luôn luôn hứa những lời đường mật.
Nhị nương cũng ngờ rằng nhan sắc, và đức hạnh mình có lẽ khó đánh dổ được lòng
ham muốn công danh của những anh đồ đã thề sống chết với cái chí xuất chinh.
Nhưng nàng cho rằng dẫu việc có thất bại thì nàng cũng chỉ đến đi trốn tránh một
nơi, mà nếu chẳng trốn thoát thì lấy cái chết đền ơn đảng là cùng. Vì việc làm
phản này, nàng riêng chịu trách nhiệm. Phạm Thái có giúp nàng cũng chỉ đứng
ngoài cuộc mà thôi.
Tối hôm ấy, anh khóa phản phúc kia lần mò vào dinh quan tổng trấn xin nói riêng
với ngài một câu truyện rất quan trọng. Tức thì ngay giờ sau, viên quản và bốn
viên dội định làm phản bị bỏ ngục một cách rất yên lặng, bí mật.
Nhưng dù bí mật đến đâu cũng có thám tử ra báo với Nhị nương.
Sáng sớm hôm sau, chủ quán Bạch Phượng làm đơn thân mang đến huyện sở tại kiện
cô hàng nước vô danh đã bỏ trốn đi mà chưa trả tiền trọ, tiền ăn. giữa lúc ấy,
viên phân tri Thọ Xương đương sắp binh lính để ra khám quán Bạch Phượng và bắt
bỏ ngục cô hàng nước.
Nhị nương phỏng đoán không sai. Quang Ngọc và Phạm Thái không bị ngờ vực, khi
nàng đã trốn thoát ra ngoại ô. Chỉ riêng các thầy khóa đang hí hửng lên ông cống
là bị thất vọng, vì ngay trưa hôm ấy, có yết thị bãi thi cống sĩ và truyền cho
các thí sinh nội nhật ai ở đâu phải về đó.
Năm hôm sau, viên quản và bốn viên đội làm phản bị điệu ra pháp trường xử tử.
Cho hay trò đời vẫn thế, con người chỉ thích có sự biến đổi để mà xem. Sự biến
đổi ấy, họ coi như một tấn tuồng làm cho họ vui mắt, vui tai trong chốc lát. Chẳng
rứa mà trong số người đứng chờ xem hành hình, mấy ông đồ bàn tán nói trên kia lại
vui sướng được? Ấy là họ thuộc phái phản đối lối thi cử của nhà Tây Sơn đấy.
Người Bắc thành ở gần vua chúa lâu đời đã hầu hoàn toàn có tính cách phục tòng,
nên khi bọn binh lính quát mắng thì họ im ngay.
Một lát sau, tiếng loa, tiếng trống lớn, trống con từ phía đền Ngọc Sơn tiến đến.
Rồi quan tổng trấn Võ Văn Dũng rời võng điều bước xuống. Đi dưới bốn cái lọng
xanh. Bốn vệ binh cầm bốn thanh kiếm trần đi dàn trước mặt.
Quan tổng trấn tính nóng như lửa và rất ưa sự mau chóng. Vì thế, ngài vừa ngồi
xuống xập là chiêng trống nổi lên ngay.
Trong khoảnh khắc, năm cái đầu rơi trên chiếu cạp điều. Máu chảy lai láng, chiếu
như nhuộm phẩm hồng. Rồi người ta bỏ năm cái đầu lâu vào năm cái giỏ tre và
treo lên cành cây ở bên tháp Báo Thiên. Người đi xem vui cười bàn tán trên đường
về.
Hồi 42
Thầy Tướng Số
Trong sân đền Trấn Võ, dưới góc cây muỗm già, một túp lều dựng
sơ sài, bằng bốn cái cọc chống một bức phên nứa có cài lá gồi. Đó là cửa hàng một
thầy tướng số.
Thầy tướng số ấy người còn trẻ măng, dù dôi mục kính gọng đồng cố làm tôn vẻ đạo
mạo của thầy lên. Mà hình như thầy đã được thụ giáo một Cốc tử tiên sinh người
Thiên quốc. Chẳng thế, bức vẽ trên khổ vải lớn treo ở thân cây muổm lại là tướng
mạo một người Tàu, với cặp mắt xếch ngược và cái bím thực dài vắt qua vai ra đằng
trước ngực. Cho đến cả cái ống bút, cái nghiên mực, cái tráp đen, cái đĩa để
gieo âm dương cũng toàn là đồ Tàu. Vì thế, người ta gọi thầy là ông thầy Tàu,
tuy thầy mang y phục đặc An Nam: cái khăn nhiễu Tam giang rộng bản, cái áo the
La cà dài lượt thượt, cái quần lụa Vạn Phúc ngả màu hồng và đôi giầy Gia Lộc da
dê chính hiệu.
Hôm nào, thầy cũng đến đó thực sớm, giở khăn gói lấy vuông vải có hình treo lên
cây, rồi mở tráp lấy ra đủ các thúu, nào thẻ hương, nào đĩa, nào tiền, nào chân
gà khô bày la liệt trên chõng. Rồi thầy ngồi bó gối chờ khách hàng. Buồn thì thầy
mở sách tướng số xem lại, hay đem Đường thi ra ngâm nga.
Ngày rằm, mồng một là những ngày thầy đắt hàng nhất, vì ngoài khách xem tướng,
xem số, còn rất nhiều ngưòi nhờ thầy giảng hộ những lá thẻ xin được ở trong đền.
Hàng này phần nhiều là đàn bà, con gái, được thầy tướng số đẹ trai khen và nịnh
- vì thầy ta mặt mũi rất khôi ngô, mỹ lệ - thì sướng phồng mũi lên, không bao
giờ tiếc tiền thưởng.
Nhưng đối với bọn đàn ông, đối với các thầy khóa trẻ tuổi, vãn cảnh đền, mơ
màng chờ đợi xem có cô nào ngắt cành mẫu đơn bị trói để cởi áo ra chuộc, đối với
những bậc văn nhân, thi sĩ sẵn sàng bầu rượu, túi thơ, tới đền để cảm đề ngâm vịnh,
dối với những người ấy, thì thầy tướng rất giữ gìn, rất hà tiện lời khen.
Mà có một điều lạ, là hình như thầy tướng cho rằng người Việt Nam thời bấy giờ
ai ai cũng phải phá ngang mới làm nên được. Thường thường thầy dạy:
"Tướng ngài rất quý, nhưng không thể làm nên như bọn tầm thường, nghĩa là
không theo đường thi cử tiến thân được". Nếu người xem hỏi vặn, thì thầy
tướng sẽ nói tiếp:
- Tôi nói câu này, ngài đừng giận, chứ ngài thì một là mất đầu, hai là công
danh phú quý.
Một buổi sáng, thầy tướng đương ngồi nhìn theo những người tấp nập đến lễ đền
vì hôm ấy là ngày rằm. bỗng thầy để ý đến một thiền sư đi qua rẽ xuống nhà tổ
Chờ lúc thiền sư trở ra, thầy hắn dặng rồi mỉm cười cất giọng trong trẻo mời một
câu rất có duyên:
- Nam vô a di đà phật! Bạch sư ông...
- Nam vô a di đà phật!...
- Sư ông có xem tướng không?
Nhà sư dừng lại, tò mò nhìn thầy tướng rồi buồn rầu đáp:
- Thầy tính, bần tăng xuất gia tu hành, còn mong ước một điều gì nữa mà cần biết
hậu vận tương lai?
Thầy tướng vẫn mỉm cười:
- Sư ông không cần xem biết sau này có lên tới Nát bàn không ư?
Nhà sư thản nhiên không đáp, toan đi thẳng.
- Bạch sư ông...
- Thầy bảo gì nữa?
- Tôi coi tướng sư ông như... như thế nào ấy.
Thiền sư quay lại đăm đăm nhìn thầy tướng vẻ mặt hơi cau có khó chịu:
- Như thế nào?
- Khó nói quá. Như... như tướng một nhà sư... mà lại như tướng một... một tráng
sĩ.
- A di đà phật!
Thầy tướng nói luôn:
- Hai cánh tay cứng cáp kia để mang đại đao ở nơi chiến trường đúng hơn là để cầm
dùi gõ mõ thỉnh chuông. Còn hai bàn chân kia mà đặt vào trong bàn đạp thì vững
trãi lắm. Nhưng trừ hai mắt sắc, thì vẻ mặt hiền từ ra vẻ một nhà tu hành... Tướng
sư ông lạ lắm, giá sư ông để tôi xem kỹ lưỡng hơn thì tôi còn tìm ra nhiều điều
mới nữa.
- Nhưng bần tăng làm gì có tiền?
- Được, sư ông muốn trả bao nhiêu, hay không trả đồng nào cũng được. Miễn là
sau này sư ông tụng niệm kêu cầu Phật tổ phù hộ ban phúc cho tôi là tôi đa tạ
sư ông lắm rồi.
Nhà sư tươi cười lại gần, tuy đã yên trí rằng anh chàng kia chỉ là một viên
thám tử của quan tổng trấn nên mới vờ hỏi tò mò như vậy.
- Nếu thế còn nói gì nữa. Nào thì xem tướng.
Thầy tướng ngắm nghía nhà sư một lát rồi nói:
- Cặp mắt phượng này... đáo để lắm... Lại cái miệng hùm với cái hàm én... Giá để
râu thì chẳng kém gì Trương Phi... Nhưng đẹp trai hơn Trương Phi nhiều.
Nhà sư rất lưu ý đến diện mạo và giọng nói của thầy tướng số, bỗng phá lên
cươl:
- Chịu thầy. Nhưng hình như tôi đã gặp thầy ở đâu thì phải.
- Bạch sư ông ở đâu ạ?
- Ở... ở... vùng...
Thầy tướng nói luôn:
- Hay ở hàng thịt... thịt cầy.
- Nam vô a di đà phật!
Mấy người trong đền đi ra bưng miệng khúc khích cười. Đợi bọn họ ra khỏi cổng,
Phạm Thái - vì nhà sư chính là Phạm Thái - ghé gần vào tận tai thầy tướng thì
thầm:
- Khá lắm!
- Đã gặp Trần huynh chưa?
- Đã - Nói với đại huynh rằng ngu tỷ vẫn còn sống nhé, không lo gì hết. Công việc
vẫn tiến hành như thường. Còn Phạm hiền đệ?
- Ngu đệ vẫn tạm trú tại chùa Trấn quốc. Sư cụ chùa Trấn quốc thế nào rồi cũng
vào đảng ta.
Nhị nương vui mừng:
- Thế thì hay lắm. Chùa ấy địa thế rất có lợi...
Lúc bấy giờ, một bọn đàn bà ở trên phố đến lễ. Nhị nương thoáng trông thấy, liền
cất tiếng vờ hỏi:
- Bạch sư ông, sư ông làm phúc bạch với sư cụ cho như thế.
- Xin vâng.
Rồi chừng để quảng cáo cho thầy tướng giả trai, Phạm Thái nói lớn cốt các bà ki
a nghe rõ:
- Về tiền vận bần tăng, thầy nói không sai một li một tý. Lắm việc xảy ra tôi
đã gần quên mà bây giờ nghe thầy nhắc đến tôi vụt nhớ lại.
Mấy người đàn bà thì thào nói chuyện với nhau coi bộ phục tài thầy tướng lắm.
Khi họ đã vào đền, Nhị nương bảo Phạm Thái:
- Hành động ở ngay Bắc thành khó thành công được.
- Vâng, ngu đệ cũng nghĩ thế. Người chốn cố đô này họ đã quen sống gần vua, gần
chúa, gần các quan to chức lớn, nên sinh ra kính cẩn lễ phép quá, cử chỉ thì
khúm núm, ngôn ngữ thì giữ gìn, hành vi thì nhút nhát. Nói với họ một câu hơi
táo bạo, họ đã run lên cầm cập, trông trước trông sau, tưởng như có thám tử
đang nấp đâu đó...
- Phải, họ coi mạng họ quý hơn danh dự họ nhiều lắm, Đem chí lớn ra bàn với họ
làm gì vô ích... Họ kém xa nhân dân trấn Đông, trấn Bắc.
Phạm Thái vốn người trấn Kinh Bắc, nghe Nhị nương tán dương người vùng Bắc, thì
tự phụ đứng thẳng lên đáp lại rằng:
- Người trấn Kinh Bắc thì còn phải nói!
Nhị nương cười hỏi lại:
- Còn người trấn Sơn Tây?
- Thôi tôi biết người vùng núi Tản sông Đà giỏi lắm rồi. Những một Nguyễn hiền
tỷ cũng làm lệch một bên gánh giang sơn!
- Ta nâng bốc lẫn nhau vô ích nhất là các công việc ta làm cứ liên tiếp nhau mà
thất bại mãi. Bây giờ hiền đệ định liệu ra sao?
Phạm Thái suy nghĩ:
- Phải, ở Bắc thành chẳng làm nổi việc gì, tuy trốn tránh có dễ hơn ở các nơi.
Bữa qua ngu đệ cũng có bàn với Trần đại huynh, thì đại huynh định để tình thế
êm êm đã, rồi phân phát bọn ta mỗi người đi hành động một nơi. Trần đại huynh một
mình ở lại Bắc thành, còn Trịnh Trực thì đại huynh cho sang trấn Đông, ngu đệ về
vùng Nam.
- Thế ngu tỷ?
- Hiền tỷ không thấy Trần đại huynh nói đến.
Nhị nương bực tức:
- Có lẽ nào thế được...
Nhưng nàng cũng nghĩ đến tấm tình của hai người một ngày thêm khăng khít, tuy bề
mặt thì vẫn là tình huynh đệ.
- Không, ngu muội phải đi Sơn Tây mới được. Ba phương: Bắc, Đông, Nam, đều có
người, sao phương Tây lại không có ai?
Rồi nàng cười hỏi Phạm Thái:
- Nhưng đảng trưởng cắt hiền đệ đi Sơn Nam hạ hay hiền đệ xin đi?
Phạm Thái lo lắng nhìn Nhị nương:
- Trần đại huynh sai đi đấy chứ... Sao hiền tỷ lại hỏi ngu đệ câu ấy?
- Chả sao cả. À, gửi hiền đệ thăm cô Quỳnh Như nhé?
Phạm Thái đỏ bừng mặt, toan nói cáu, thì mấy người đàn bà vừa vào đền đã đi ra.
Chàng yên lặng đứng nhìn vơ vẫn: Nhị nương lễ phép hỏi:
- Bạch sư ông, sư ông có chịu không đã?...
- Chịu thầy.
Khi thấy bọn kia đã đi khuất. Nhị nương cười bảo Phạm Thái:
- Hiền đệ chịu rồi đấy nhé?
Phạm Thái cũng cười:
- Biết thế chẳng nói cho hiền tỷ biết nữa xong, tưởng thuật với hiền tỷ một câu
truyện buồn cười, ai ngờ hiền tỷ để bụng.
- Nhưng giá Quỳnh Như vào đảng thì càng hay chứ sao?
- Hay thế này: Để ngu đệ đi Sơn Tây, hiền tỷ xin đi Sơn Nam hạ.
Nhị nương vẫn cười:
- Ai lại trái thượng lệnh như thế?
Phạm Thái tức tối cúi chào Nhị nương rồi quay đi.
Hồi 43
Tìm Bạn Đồng Chí
Đã ba tháng trời ròng rã, Phạm Thái đi quyên giáo trong hai
trấn Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ. Lúc đi bộ, chàng rong ruổi khắp vùng Chương Đức,
thăm núi Tử Trầm cùng động Long Tiên. Khi đi thủy chàng cùng tiểu đồng lênh
đênh con thuyền trên giòng sông Đáy, qua bao nhiêu danh lam thắng cảnh từ Thanh
Oai, Ưng Hoà cho tới Lý Nhân, Ý Yên, Phong Doanh. Không một ngọn núi đá nào ở
hai bên vệ sông mà chàng không trèo, không một cái động nào mà chàng không vào
xem. Khi hứng trí chàng đề thơ ngâm vịnh, khi gặp tri kỷ chàng lưu ở lại chơi
dăm ba ngày.
Là vì, ngoài mục đích quyên giáo, chàng còn có mục đích khác: đi ngoạn cảnh để
di dưỡng tính tình, chờ dịp lại tận tụy theo đuổi việc lớn, nhưng nhất là đi
chu du thiên hạ để tìm nhân tài, tìm bạn đồng chí mà gây dựng chi đảng Tiêu Sơn
ở hai trấn Sơn Nam.
Nghe nói ở chùa Thiên Trù, gần động Hương Tích có Bảo Giám thiền sư là một nhà
đại văn hào về thời Lê, Mạt, chàng liền đến thăm. Hai người bàn đạo lý, văn
chương lấy làm hơp ý nhau lắm. Nhân Phạm Thái thuật chuyện biến loạn suýt xảy
ra ở Bắc thành vào dịp kỳ thi cống sĩ, Bảo Giám thở dài nói:
- Tôi xem thiên văn biết vận nhà Lê đã hết. Mệnh trời đã định như thế, kéo sao
lại được nữa mà toan việc nọ kia? Cứ ngắm chòm sao Bắc đẩu mấy năm nay ánh sáng
lờ mờ, thì đủ biết nhân tài không ở miền Bắc. Còn sao Nam cực thì sáng rực lên,
có lẽ ở trong Nam sắp có sự lạ.
Phạm Thái nghe Bảo Giám khinh miệt người miền Bắc, thì không bằng lòng.
Nhưng chàng rất mừng thầm rằng thiền sư tỏ ý còn thương tiếc nhà Lê. Muốn biết
rõ tâm tính thiền sư đối với thời cục, Phạm Thái nói khích một câu:
- Cao tăng nghĩ cũng phải. Nhà Lê ngày nay đã như cái nhà đỗ nát, ai còn dại gì
mà chui đầu vào để mái nhà sụp cho chết uổng mạng. Còn nhà Nguyễn thì như toà
lâu đài nguy nga, đồ sộ, ai lại không muốn ở. Vả ngưòi xuẩn ngốc đứng đầu việc
toan khởi loạn ở Bắc thành chỉ là một người đàn bà, một cô hàng trầu nước tầm
thường chứ bậc chí sĩ trong nước phải lấy nhàn làm quý, bạo động có ích gì?
Bảo Giám kinh ngạc hỏi:
- Một cô hàng trầu nước?
- Vâng, một cô hàng nước ở phố Cầu gỗ.
- Thế bây giờ cô ta đâu?
- Bần tăng cũng không rõ cô ta trốn đi đâu, nhưng nghe đồn cô ta rất đẹp và rất
thông minh.
Bảo Giám lẩm bẩm:
- Thảo nào sao Chức nữ sáng trội lện, lại muốn thiên gần bộ phận Ngân hà. Một kỳ
nữ thực!
Phạm Thái biết rằng Bảo Giám tuy có tiếng làm một nhà chí sĩ ẩn dật nhưng kỳ thực
chỉ là một lão hủ nho, mê tín các khoa thiên văn địa lý không đâu. Chàng liền từ
biệt ra đi.
Qua miền Kim Bảng, thấy nước non hùng vỹ, chàng lên bộ dạo chơi ngắm cảnh Đến rẫy
núi tục truyền là núi Con Voi, chàng cảm hứng đề một bài thơ lên vách đá:
NÚI CON VOI
Tạo hóa khen thay khéo vẽ vời,
Dạm nên một rặng núi Con Voi.
Tới chầu diện thẳm quỳ khom gối,
Nằm ngắm doành thanh vắt vẻo vòi.
Cây biế mc dưới trên che tán rơp,
Mây vàng cao thấp thẳng bành ngồi.
Cưa mây búa tuyết đầu dầu vậy,
Xương đá lòng rêu vẫn hẳn hoi.
Vừa đề dứt bài, chàng nghe có tiếng cười khúc khích sau lưng. Chàng quay lại: Một
văn nhân mặt đỏ gay, đầu đội nón sơn, chân vận giầy vải chẽn, đứng sững, trân
trân nhìn chàng:
- Sư mô quỷ gì mà văn thơ tục tỉu!
Phạm Thái mặt tái đi, toan cho chàng kia một bài học võ, nhưng chợt nhận thấy hắn
say rượn bí tỉ, nên lại thôi. Chàng mỉm cười hỏi lại:
- Ý chừng tôn ông là văn sĩ?
Văn nhân vẫn cười:
- Sao thiền sư biết?
- Chả là văn sĩ mà ngôn ngữ cử chỉ lại quá nhã nhặn đến thế?
Người kia càng cười to, rồi ứng khẩu đọc:
Nhà văn này với sư ông,
Lỗ mãng nghe đâu cũng một tuồng,
Bá ngọ thằng nào mà nói dối:
Mồm ha hẳn chẳng nốc cà, tương.
Phạm Thái nghiêm nét mặt lại:
- Nam vô a di đà phật! Ông này say rượn lắm rồi.
- Say gì mà say. Mới uống hết non nửa bình. Hay thế này: mời sư ông lại xơi rượn
với bỉ nho cho vui. Bỉ nho đương chén bỗng thoáng thấy bóng cái nón sư, nên vội
vàng leo xuống, ngờ đâu gặp ngay một văn sĩ thiền sư... Bạch thiền sư, đạo hiệu
thiền sư là gì xin cho biết, để bỉ nho được xưng hô.
- Thưa tôn ông bần tăng đạo hiệu Mộng Vân.
- Cao tăng trụ trì chùa nào?
- Thưa tôn ông, tại chùa Trấn Quốc.
- Ở Tây hồ?
Chàng đọc luôn:
"Em ở Tây HỒ bán chiếu son.
"Chồng còn chưa có, hỏi chi con?"
Rồi nói tiếp:
- Ở miền ấy chừng nhiều gái đẹp?
- A di đà phật! Sao tôn ông biết?
- Vì cái tên Tây hồ đẹp lắm. Vả cứ một điều cao tăng tu ở đấy, đủ tỏ rằng lời
phỏng đoán của bỉ nho không sai.
- A di đà phật! Tôn ông nên giữ gìn lời nói hơn một chút.
Văn nhân cười phá lên:
- Xin lỗi cao tăng. Nhưng cao tăng có giữ gìn lời thơ đâu? Cao tăng thử đọc lại
bài thơ đề trên vách đá mà xem.
Thấy nhà su bẽ lẽn ngượng nghịu, chàng nói tiếp, chữa thẹn hộ:
- Thôi, bỉ nho cũng biết thiền sư chỉ là một nhà văn hào thời nay, vì chẳng ưng
nhà Tây Sơn, nên tạm mặc áo cà sa lánh cuộc đời phiền toái. Vậy thì thiền sư
còn ngần ngại gì mà chẳng nhận lời bỉ nho lên kia, đôi ta cùng nhau uống rượn,
ngâm thơ.
Dút lời, chàng cầm tay Phạm Thái dắt lên sườn non, và ngâm vang núi:
Đánh ba chén rươu, khoanh tay giấc,
Ngâm một câu thơ, vỡ bụng cười.
Cho quách người đời danh với lơi.
Núi sông ta giữ để ta chơi.
Phạm Thái không giữ nổi vẻ trang nghiêm nữa, cũng phá lên cười:
- Tôn ông văn chương mẫn tiệp lắm. Xuất khẩu là thành thi.
- Ấy cũng đọc lếu đọc láo cho có thơ. Chẳng lẽ có tửu lại không có thơ.
Hai người vừa leo giốc vừa nói chuyện. Một lát tới một nơi bằng phẳng rộng hơn
một gian nhà dựa vào bên sườn núi dưới bóng mát một cây tùng già cỗi.
Phạm Thái hỏi:
- Tôn ông có một mình?
- Với cao tăng nữa là hai. Vậy xin mời cao tăng chiếu cố.
Trên tảng đá, một bình rượn lớn và một cái chén vại đặt bên cạnh một tàu lá chuối
đầy thịt nướng. Thấy Phạm Thái trù trừ nhìn tiệc rượn, văn nhân cười nói tiếp:
- Xin mời thiền sư cứ chiếu cố cho. Đó là thịt lợn, chứ không phải thịt cầy đâu
mà thiền sư e sợ.
Phạm Thái cũng cười đáp:
- Thịt gì chả là thịt. Nhưng trước khi nhận lời tôn ông, xin tôn ông cho biết
quý tính cao danh.
- Thưa cao tăng, tên bỉ nho thì hà tất thiền sư phải biết. Gặp nhau, chén một bữa
rượn, rồi kẻ ở người đi nhớ nhau làm gì thêm bận lòng. Nhưng thiền sư đã yêu mà
hỏi, thì bỉ nho cũng xin thưa: bỉ nho họ Phạm tên Lư - Lư là cửa chứ không phải
Lư là lừa, xin thiền sư chớ lẩn biểu hiệu Thanh Sơn.
- Tôn ông họ Phạm thì ra cũng...
Phạm Thái bỗng ngừng bặt nói lảng:
- Vậy xin cất chén rượn chúc Phạm Thanh Sơn tiên sinh vạn phúc.
- Có mỗi một chiếc chén! Thôi ta uống chung.
Một lát sau Phạm Thái chán nản ra đi bỏ Phạm Lư say bứ nằm ngủ trên tảng đá.
Chàng cau có lẩm bẩm nói một mình:
- Hay vận nhà Lê đến lúc cùng rồi, nên ta chỉ gặp toàn hạng mê tín với hạng
điên cuồng. Hay trấn Sơn Nam không có nhân tài?
Nửa tháng sau chàng lại chán nản hơn, khi chàng đã dựa tiếng quyên giáo đến
thăm các làng nổi tiếng văn vật nhất vùng. Ở đó cũng toàn một loại hủ nho, toàn
một phường ham phú quý. Đem nhà Lê ra nói với họ, họ chẳng hề cảm động. Khi xưa
ông cha họ có ăn lộc nhà Lê bao giờ? Họ chỉ biết có chúa Trịnh. Khi chúa Trịnh
mất ngôi báu thì họ cũng có thương tiếc. Nhưng ngày nay vắng nhà Trịnh đã có
nhà Nguyễn. Còn vua Lê, cái ông bụt mục, cái ông tượng nát ấy, họ có kể chi?
Buồn rầu, chàng quay về Thanh Nê, chàng chợt nghĩ: ròng rã hơn ba tháng trời,
đi gần khắp hạt Sơn Nam, chàng chưa tìm được một bậc chí sĩ nào có thể khiến
chàng kính phục bằng Kiến Xuyên hầu và Trương Quỳnh Như.
Hồi 44
Sơ Kính Tân Trang
Thấy Phạm Thái lại trở về làng, Kiến Xuyên hầu rất vui mừng
và đặt tiệc khoản đãi Phạm Thái khẩn thiết tạ tội vì hôm rời Thanh Nê ra đi,
chàng vội vàng quá không kịp cáo biệt hầu, để xin phép về thăm quê.
Biết Phạm Thái là một nhà văn lỗi lạc, học thức uyên thâm, Kiến Xuyên hầu ngõ lời
lưu chàng ở lại dạy mấy đứa cháu, con trai và con gái Thanh Xuyên, Phạm Thái nhận
lời ngay. Chàng cũng muốn nghỉ cái đời hoạt động ít lâu để nghe ngóng thời cuộc
Chàng nghĩ thầm: "Bây giờ Tây Sơn đưong lúc vận hồng, thế mạnh, khó lòng
làm gì nổi. Ta đợi biết tin tức chúa Nguyễn Ánh trong Nam đã. Trong ấy mà thắng,
ngoài này ta mới bắt đầu hoạt động, cũng chẳng muộn."
Thực ra đó chỉ là một câu nói, một ý nghĩ của kẻ anh hùng đã bắt đầu thoái chí,
đã bắt đầu hơi chán nản thời thế. Thường họ tự an ủi như thế. Rồi dần dần họ
quên việc lớn, trong chén rượn nồng hay trong lòng một người thiếu nữ. Trời
ơi!Cái tuổi ngoài hai mươi, hăng hái thì hăng hái thực. Nhưng đến lúc đã nguội
lạnh thì ngội lạnh hơn tro tàn. Lúc Bấy giờ họ sẽ đem chử nghĩa yếm thế vẩn vơ
ra mà che đậy một tâm hồn hèn yếu.
Hiện bây giờ Phạm Thái cũng chỉ là một ông thầy đồ còn sôi nổi những ý tưởng
cao xa.
Một hôm Kiến Xuyên hầu xuống nhà họ củ Phạm Thái ra vườn xem hoa, rồi khẽ bảo
chàng:
- Lão gia nghe nói triều đình đã một dạo lùng bắt các thiền tăng. Sợ có kẻ lưu
ý tới công tử chăng? Chi bằng phá giớ quách.
Kiến Xuyên hầu cả cười. Phạm Thái lễ phép trả lời:
- Bẩm tướng công, văn sinh lại nhập thế cũng không khó khăn gì, chỉ việc bỏ bộ
thiền phục ra là xong. Vả văn sinh chưa bao giờ đã chính thức xuất thế, chẳng
qua chỉ mượn bộ áo cà sa để ẩn núp trốn tránh, điều ấy văn sinh đã nhiều lần
thưa cùng tướng công.
Trương công reo lên:
- Công tử nói rất hợp ý lão gia.
Mấy hôm sau, Phạm Thái đã trở nên một ông đồ nho thực hiệu, với tấm áo lương
dài, với chiếc khăn nhiễu tam giang chít rất khéo để che cái đầu trọc. Nhân anh
em thường đùa bỡn gọi chàng là chiêu lý, chàng liền lấy tên là Phạm Văn Lý.
Chàng nghĩ thầm: "Thôi thế này thì không còn ai có thể nhận ra được Phổ
Chiêu thiền sư chùa Nghiêm Xá mà cũng chẳng còn ai biết mình là Phạm Thái, một
thời để tìm cái chết với thanh kiếm, cây cung ở bãi sa trường."
Chàng lấy làm tự thẹn, nhưng còn tự an ủi gượng: "Nhưng nào ta đã thoái
chí! Chẳng qua chỉ nương náu đợi thời. Đợi thời như Trần đại huynh, Nguyễn đại
Tỷ."
Có một cớ khiến lòng chàng trở nên uỷ mị mà chàng không dám tự thú nhận. Cớ ấy
là nàng Quỳnh Như.
Thực vậy, ngay hôm chàng vừa về tới Thanh Nê, Quỳnh Như đã mật viết cho chàng một
bức thư hỏi thăm về công việc chàng đương theo đuổi. Trong phúc thư chàng thuật
qua tình thế của đảng và tỏ ý chán nản về việc lập chi đảng ở trấn Sơn Nam mà
Quang Ngọc đã phó thác cho chàng. Chàng như trông thấy rõ ràng sự thất bại chắc
chắn, vì tiền thì không sẵn, quỷ của đảng lại một ngày một cạn. Vả chàng khó
lòng mà tìm nổi một bọn đồng chí, như bọn đồng chí của Quang Ngọc khi đảng Tiêu
Sơn còn hoành hàh trong trấn Kinh Bắc. Vậy chàng đành lòng chờ đợi ít lâu...
Quỳnh Như tin ngay lời chàng. Mà chàng cũng tự tin lắm. Nhưng khốn thay cái
dáng điệu mị kiều thấp thoáng trong hoa và giọng nói du dương văng vẳng chốn
phòng khuê nhiều khi làm cho tráng sĩ hoá ra mơ mộng.
Mơ mộng đến nỗi viết nên những bài thơ đầy tình uỷ mị như bài thơ độc vận sau
này:
Chơi hoa nay đã biết danh hoa,
Nhưng nghĩ tình hoa, thẹn với hoa.
Réo rắt chiều xuân oanh hót liễu,
Càng thêm ngao ngán khách tìm hoa.
Ý tứ bài thơ trên thực không một chút tâm trạng gì gọi là tâm trạng một nhà sư
hay tâm trạng một danh sĩ có chí khí. Ðó chỉ hoàn toàn là tâm tình một anh
chàng mê gái.
Vả Quỳnh Như chẳng bao lâu cũng không còn là Quỳnh Như buồi đầu nữa, cô Quỳnh
Như biếu ngựa và giục tráng sĩ lên đường. Có lẽ xưa kia một là nàng quá lãng mạn,
hai là nàng cố làm cho Phạm Thái phải kính phục nàng, Phạm Thái mà nàng đã
thương thầm yêu trộm ngay từ hôm được đọc mấy bài thơ tuyệt bút của chàng.
Nhưng ngày nay chân tướng nàng lộ hẳn ra: nàng chỉ là một thiếu nữ con quan, dễ
cảm động về cắi đẹp, cắi hay, vì những lời thơ tình tứ.
PhạmThái đương chán nản, thất-vọng về việc đảng, nghe những câu tán tụng của
Trương tiểu thư như những lời an ủi ngọt ngào. Vì thế lại càng cẩm cúi gọt rủa
nên nhiều bài thơ khắc...
Và chẳng bao lâu, hai người yêu nhau, say mê nhau thư từ, văn thơ trao đổi xướng
họa với nhau.
Lúc ấy, còn đâu là chí phấn đấu, còn đâu là tình khuyến khích!
Một hôm được tin Trương công và Trương phu nhân ra chơi chùa, Phạm Thál lẽn xuống
phòng khuê thăm bạn gái. Thấyy Quỳnh như đang đọc truyện Phan Trần, liền hỏi ý
kiến nàng về tác phẩm ấy. Nàng cho rằng truyện Phan Trần văn chương tuyệt tác.
Tức thì, ngay từ hôm ấy Phạm Thái bắt đầu soạn truyện "Sơ kính tâm
trang." Thấm thoát có hơn một tháng thiên tiểu thuyết bằng thơ đã viết
xong. Phạm Thái dâng tặng khách má hồng.
Cho hay ái tình có sức mạnh đến thế. Xưa kia theo đuổi việc lớn, Phạm Thái chưa
làm nhổ một công trình gì có kết quả mỹ mãn như việc soạn sách này.
Truyện "Sơ kính tâm trang" đã làm cho tên Quỳnh Như bất hủ. Nhưng nó
sẽ mãi mãi răn bảo những bậc anh hùng ái quốc rằng chớ nên tạm bước vào vòng
tình ái để cố quên hay an ủi một sự thất bại; ái tình sẽ chiếm lấy cả tâm hồn
ta, không nhường cho việc lớn ta đang theo đuổi một chỗ cỏn con.
Xem truyện "Sơ kính tâm trang", Quỳnh như biết rằng đó chỉ là thiên
tình sử của hai người, nên càng cảm động và đọc đi đọc lại mãi đến thuộc lòng.
Vì nàng thấy nhân vật t trong truyện toàn là những người hai bên họ Phạm và họ
Trương cả: Trạch tung hầu thân phụ tác giả, chỉ mấy nét bút đủ vẽ rõ rệt:
Phạm công nặng sức cần vương,
Giang sơn một gánh, cương thường hai vai.
Khôn toan thay đổi cuộc đời,
Lòng trời là thế, để người cho xong.
Và đoạn dưới đây chẳng là hình ảnh người yêu còn là hình ảnh ai nữa?
Căn gan tóc dựng đứng lên,
Tuốt gươm chém án ngâm thiên ca rằng:
Làm trai cho thoả chí trai,
Trong trần ai chớ lụy ai tầm thường,
Bốn phương hồ chỉ dây vàng,
Nhảy từng đảo lãng, bắc thang vân cà,
Tu mi tỏ mặt trượngphu,
Đơn trung hiế ưu để trả thù non sông,
Anh hùng ấy mới anh hùng,
Thân nhàn há sá học đồng thiến u niên..
Còn nàng, tác giả quên sao được nàng. Quỳnh Như mỉm cười đọc đoạn văn tả nhan sắc
mình, mà tác giả đặt vào miệng tiểu đồng:
Trương công là đấng nghiên đường,
Vốn giòng ngọc điệp, tên nàng Quỳnh Thư,
Xuân hoa bực ấy đương vừa,
Tuổi vừa đôi tám, phong thư lạ lùng.
Thước tầm phong dạn bằng ông,
Lam pha mày liễu, mỗ đông da ngà,
Chiều cá nhảy, vẽ nhạn sa,
Mắt long lanh nguyệ, tóc rà rà mây,
Má hồng môi thắm hây hây,
Khổ mê thươc dươc, thức say hái đường,
Chiền xanh ngọc, vẻ so vàng,
Ôi hoa vì sắc, ủ hương vì màu.
Hồi 45
Quyển Phóng
Hai bên tìm đủ cách để trao đổi thư từ văn thơ với nhau mà
Trương công và Trương phu nhân vẫn chưa ngờ vực một tí gì.
Một đôi khi, nhưng hôm mưa gió lớn, sấm chớp đầy trời. Phạm Thái cũng mơ màng tới
sự nguy hiểm gian nan của thời oanh liệt, và nhớ tới bọn anh em đồng chí đương
mạnh bạo quả quyết theo đuổi việc lớn. Những khi ấy, cái thú ủy mị của tình yêu
vị tất đã thắng nổi cái thú xông xáo theo tìm cái chết. Nhưng than ôi, cái chế
thì xa mà tình yêu thì ở ngay bên cạnh, nó dỗ dành, nó an ủi, nó dẫn dụ mình
vào cõi mộng.
Phạm Thái sợ nhất những lúc nhớ đến Nhị nương vì tình yêu của nàng đối với trần
Quang Ngọc. Chàng mỉm cười, nghĩ thầm để chữa thẹn, tự tha thứ: "Người ta
làm đảng trưởng có khác! Ta ví sao được?"
Rồi chàng giật mình kinh hãi, nhầm ôn lại những điều lệ nghiêm khắc của đảng
Tiêu Sơn đối với các đảng viên, Phải, bị triều đình Tây Sơn truy nã thì còn có
thể trốn tránh được, chứ bị đảng Tiêu Sơn kết án thì chỉ có một việc chờ chết.
Hôm nay Phạm Thái càng lo sợ và toan bỏ đi ngay. Chết, chàng không quản. Nhưng
vì một người con gái, mà sao nhãng chí lớn, dù sao nhãng trong một thời kỳ ngắn
ngủi, chàng lấy thế làm xấu hổ với lương tâm. Song một ý nghĩ còn giữ chàng lại,
khác nào mảnh ván trôi sông giữ người đám thuyền lênh đênh trên mặt nước. Chàng
tự nhủ thầm: "Ừ, sao ta không dụ Quỳnh Như vào đảng Tiêu Sơn, như ta vẫn định
từ trước?"
Những hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ của Quỳnh Như tỏ ra rằng nàng là một thiếu nữ
tài năng phi thường, chẳng kém gì Nhị nương. Chàng còn nhớ tới lời bình phẩm của
Nhị nương khi chàng thuật truyện Quỳnh Như cho nghe. Nàng nói: "Đảng ta mà
được người ấy thì hay biết bao!" Rồi Nhị nương khuyên chàng nên cám dỗ Quỳnh
Như, đưa nàng vào đảng.
Phạm Thái mỉm cười: "Cám dỗ thì ta đã cám dỗ xong rồi. Chỉ còn việc đưa
nàng vào đảng. Việc ấy có lẽ khó hơn nhiều. Vì chính ta còn đương mê muội trong
vòng tình ái, ta phải làm một bài thơ trường thiên để gửi cho Quỳnh Như mà dụ
nàng."
Phạm Thái vui mừng, hăng hái, lấy giấy bút ra viết.
Bọn trò nhỏ kể nghĩa xong đã xuống cả dưới nhà ngang. Chàng rất được bình tĩnh
mà nghỉ thơ.
Nhưng chàng vừa mài xong mực, thì đứa thị tỳ lên nhà họ nói mượn cho Quỳnh Như
bộ Đường thi. Kỳ thực nó chỉ cốt lên để trao cho Phạm Thái một bức hoa tiên.
Phạm Thái vội vút cả nghiên, cả bút, vội quên cả lời khuyên răn, dỗ dành: chàng
chỉ còn trông thấy bức thư và nét bút của Quỳnh Như mà thôi. Chàng đọc đi đọc lại
bài thơ viết theo điệu Tây Giang nguyệt rồi tiện bút tiện mực, chàng phúc đáp
như sau này:
Ai lên tử các thanh vân,
Hỏi thăm ả Tố, chiều xuân thế nào?
Cầm âm một khúc gởi trao.
Cậy lòng vì gió đưa vào xuân cung,
Oanh yến véo von gọi khách,
Cỏ hoa hớn hở gọi ai,
Gió xuân hay hẩy giục đưa người,
Dễ khiến lòng thơ bối rối.
Thấp thoáng thời oanh dệt liễu,
Thung thăng phấn bướm dồi mài,
Vũ lăng xa diễn biết bao vời!
Khôn hỏi Đào Nguyên đâu cả?
Không hỏi Đào Nguyên đâu cả?
Giòng ngư câu đeo lá tình chi,
May thay một hội tương kỳ,
Đã bên tình phận lại bề phong lưu,
Câu hảo cầu đợi người thục nữ,
Năm mây phong đôi chữ đồng tâm.
Đón xuân nhắn với tri âm,
Tính tình xin tỏ tiếng cầm này cho,
Rắp hẹn hò, ngồi hoa đứng tuyết,
Lòng còn e khôn biết nói năng.
Bây giờ mượn gió cung Đằng,
Vì duyên đua mối xích thằng lại đây.
Thơ rằng:
Từ chốn thềm cung trộm dấu hương,
Dễ xui tao khách mối sầu vương.
Gió thông réo rắt trong đàn oán,
Trăng lạnh chênh vênh rạng bóng dương.
Nếu đã tình duyên vênh rạng bóng dương.
Nếu đã tình duyên dun dủi phận,
Thì xin ân ái vẹn nên đường,
Phong lưu đội lứa đà ai dễ,
Bụi tục chi cho bợn lóa gương?
Tục trần chi để lóa gương?
Tuyết, mai là tiết, liễu, dương, ấy tình,
Khôn hoa vừa mảnh phong thanh,
Nức gương kính các, nổi danh tao đàn,
Trong tình thú hồng nhan dễ mấy!
Chốn phòng trang trộm thấy phong quang.
Xui lòng du tử thêm càng,
Biết bao giờ vẹn lửa hương ước nguyền?
Tâm sự gửi hoa tiên một bức,
Từ chương khôn sánh bực hào hoa,
Những thi ân ái thế,
Tài nương xin hãy xét ta chữ tình,
Bóng quế mờ mờ trước nóc,
Hơi hương hây hẩy bên thềm.
Ngón cầm dìu dặt nhắn thâu đêm,
Văng vẳng khêu sầu dường điểm!
Cành tuyết ngoài rèm mới rớm,
Chồi mai bên cửa vừa cầm,
Vườn đào quạnh quễ mượn ai tầm,
Mấy bức gấm phong im ỉm!
Im ỉm gấm phong mấy bức,
Điểm một ngày dằng dặc dường niên,
Dễ ai đưa đón cung tiên,
Xếp nghề vũ lại, để bên trường tình,
Mâyphủ vóc hình thương cẩu.
Nguyệt mờ ám vẻ ngọc thiềm.
Bóng đèn xanh thắm lọt năm đêm,
Dì dõi khắp sầu khôn điểm.
Mấy tiếng khẽ thêm luống gẩy,
Vài phen ngấm mực còn cầm.
Tuyết lồng thôn hạnh biết đâu tầm?
Chín khúc sầu trường im ỉm.
Im ỉm sầu trường chín khúc,
Mượn tiêu cầm đỡ lúc tương tư,
Cầm sao thấy điệu ngẩn ngơ,
Sầu ai luống để khách thơ thêm càng!
Viết xong, Phạm Thái đọc lại một lượt lấy làm vừa ý lắm. Lúc ấy có lẽ chí lớn
đã hoàn toàn biến thành tình yêu.
Rồi chàng ngồi chờ thị tỳ lên để trao thư cho nó đưa xuống phòng thêu. Nhưng chờ
mãi đến trưa vẫn không thấy nó lên.
Chàng sốt ruột liền nghĩ ra một cách, tuy hơi nguy hiểm nhưng rất giản dị: là
viết phóng son cho hai đứa cháu Quỳnh Như tô. Chàng tự nhủ thầm: "Viết ra
hai đoạn như thế, dẫu Trương công có đọc qua cũng chẳng hiểu được." Chàng
sung sướng làm theo ý nghĩ rồi chiều hôm ấy, chàng bảo học trò đem phóng xuống
cho Quỳnh Như xem.
Quỳnh Như gnồi bên cửa sổ, thêu chiếc riềm màn với chỉ kim tuyến. Đã mấy hôm
nay, việc nữ công nàng biếng nhác. Sáng ngày, khung cửi im tiếng, xa không
quay, quặng để nhện trăng. Nàng lấy nê mải thêu bức riềm màn tặng cha, nhưng bức
riềm màn ấy mới xong được mươi mũi chỉ. Nàng những mải ngắm trời ngắm mây, ngắm
hoa, ngắm bướm mà hết thì giờ.
Có khi đương giở mủi kim, nàng ngừng lại, đứng dậy tìm bút mực và giấy hoa
tiên, đề một bài thơ. Vì một con chim khuyên ở đầu cành liểu thướt tha trước
gió, hay đôi bướm trắng đuổi nhau lượn vòng quanh bộ núi giả vừa gợi ra trong
trí nàng một bài thơ tứ tuyệt, nên nàng vội ghi lên giấy những cảm tưởng dịu
dàng với những vần êm ái, những điệu du dương.
Quỳnh Như đề xong thơ, mỉm cười lẩm bẩm: "Cũng khá đấy! Rồi ta nhờ Phạm
quân nhuận sắc cho".
Tưởng tới Phạm Thái, nàng không khỏi bối rối. Nàng vẫn tự phụ rằng nàng có con
mắt tinh đời, đã đoán biết Phạm Thái không phải là một thiền sư ngay từ khi
chàng còn mặc áo cà sa và đeo tràng hạt. Nàng sung sướng tự nhủ thầm: "Tài
ấy mà gặp buổi thái bình thì chẳng trạng nguyên cũng thám hoa, bảng nhỡn".
Một cảnh rực rỡ tưng bừng hiện ngay trước mắt tưởng tượng của nàng. Một trang
phong lưu công tử vừa lĩnh mũ áo trạng nguyên, cưởi ngựa vào cung dự yến. Áo
màu lam, ngựa sắc trắng, thấp thoáng dưới lầu hồng, trong đám người xung quanh
để xem mặt ông tân khoa. Ngồi trên lầu, nàng gieo xuống một quả cầu thêu chỉ
ngũ sắc...
Quỳnh Như giật mình tỉnh mộng, vì nàng vừa ném ra vườn cuộn chỉ thêu đương cầm
trong tay. Và nàng buông tiếng thở dài chán ngán, nhớ đến cái thân thế kỳ dị bí
mật của người nàng yêu: "Ừ, lạ lùng thật! làm quân sư cho một tướng giặc,
rồi đi tu, rồi lập đảng. Đời chàng sao mà nhiều gian nguy đến thế!"
Cái bóng ông trạng nguyên cưỡi ngựa bạch đã biến thành hình ảnh một tráng sĩ
múa gươm trên lưng con ngựa nhuốm máu hồng phi nước đại ở giữa dắm can qua, ở
giữa tiếng chiêng, tiếng trống rầm trời, bụi bay mù mịt.
Quỳnh Như lo lắng, sợ hãi, tưởng tượng mình đương cùng người yêu đứng trong
vòng tên đạn.
Nàng tự thẹn và nhớ lại hôm mới biết Phạm Thái, nàng chỉ mong ước chàng theo đuổi
chí lớn, giúp nhà Lê lấy lại giang sơn. Nhưng mấy tháng xa cách Phạm Thái đã
làm cho nguội lạnh chí cao xa mà làm bồng bột tình thương nhớ. Bây giờ, nàng chỉ
lo có một điều: là phải cùng Phạm Thái biệt ly.
Nàng đương ngồi buồn rầu suy nghĩ thì Trương Đăng Quế, cháu nàng, mang quyển
phóng vào khoe:
- Cô ơi! Cô coi chữ cháu tô có tốt không?
Quỳnh Như sung sướng cầm xem, vì nàng vẫn khao khát được ngắm nét bút tươi tắn,
mềm mại của Phạm Thái. Nhưng vừa đọc được mấy câu đầu, nàng đã phải mỉm cười:
- Cái anh chàng này mới ngỗ nghĩnh chứ! Dạy trẻ viết chữ nôm, mà còn làm thơ nữa.
Má nàng dần dần nóng bừng. Nàng cất tiếng ngâm nga. Giữa lúc ấy, Trương công ở
ngoài vường cảnh đi tới, đưa cho nàng quyển phóng của Ngọc Dung, cháu gái nàng:
- Con tính ông đồ Phạm Lý thế này có dở hơi không? Dễ ông đồ dạy chúng nó làm
thơ nôm!
Quỳnh Như mặt tái đi, nhưng ngàng trấn tĩnh ngay được và ôn tồn đáp lại cha:
- Dám bẩm phụ thân, có lẽ chữ nôm cũng cần lắm, Thân phụ không coi mấy khoá trước,
triều đình đều dùng chữ nôm để ra thi cống sĩ, bác sĩ. Muốn cháu Quế mai sau trở
nên ông Nghè thì phải dạy nó học chữ nôm ngay từ bây giờ.
Kiến Xuyên hầu cười:
- Đành rằng thế, nhưng dạy một thằng bé bảy tuổi tô những câu thơ nôm mà nó
không đọc được, thì cũng hơi quá.
Hầu vừa nói, vừa dương mục kính, rồi cầm quyển phóng đọc:
Trong tình thú hồng nhan dễ mấy!
Chốn phòng trong trộm thấy phong quan.
Xui lòng du tử thêm càng,
Biết bao giờ vẹn lửa hương ước nguyền?
Hầu nói tiếp:
- Đấy, con coi, ông đồ họ Phạm, nguyên thiền sư, một là cuồng chữ, hai là...
Quỳnh Như lo lắng đứng đợi thân phụ nói dút câu, nhưng Trương công lảng ngay ra
truyện khác và hỏi:
- Con thêu xong cho cha bức riềm màn chưa?
- Bẩm gần xong rồi ạ.
- Con thêu mau cho chóng xong đi, nhé?
Dút lời, Trương công thong thả lên nhà trên, vờ để quên quyển vở của Ngọc Dung
lại bên con gái yêu. Quỳnh Như mở vội ra xem thì ra hai đoạn, hai bài viết tập,
ăn khớp nhau mà chắp thành một bài thơ, một bức thơ tình.
Hồi 46
Kén Rễ
Trương công vừa khoan thai bước vừa ngẩm nghĩ đến việc biến sắp
xảy ra trong nhà mình.
Ông buồn rầu tự nhủ: "nhà ta là một nhà thế phiệt đời đời khoa giáp xuất
thân, không thể nào lại chịu để cho kẻ kia làm nhơ nhuốc được!... Thà giết chết
con gái đi còn hơn!"
Dần dần ông cũng nguôi cơn giận: "Ừ, chẳng lẽ nó theo học đạo thánh hiền,
mà lại bậy bạ được!... Ừ, cho dẫu thằng kia có định tâm gởi thư trêu ghẹo con
ta nữa, những con ta đã thuận đâu?... Phải để ta tra xét đã... Những hạng công
tử sính thơ, gặp nguồn cảm hứng thì họ viết ra những câu tình tứ đó thôi, vị tất
đã để tặng ai... Ta chẳng thấy có thầy khóa viết thơ gởi lên trời ve vãn con Ngọc
hoàng đấy Kiến Xuyên hầu bật cười lên tiếng?
- "Ồ! Tuổi trẻ!... Ngày xưa, chính ta đây thấy gái đẹp, ta chẳng ngâm vịnh
là gì! Chẳng những ngâm vịnh, ta lại còn trêu ghẹo nữa kìa..." Hầu vui vẻ
nghĩ tiếp:
- "Vả lại Phạm Thái cũng là một danh sĩ đời nay. Trí thức ấy, học vấn ấy,
thực xứng đáng với tài mạo con ta... Được, để ta xem... "
Hầu bước vào trong nhà thì vừa gặp Trương phu nhân tiễn chân một bà khách ra cổng.
Một lát sau, chờ phu nhân trở lại. Trương công cười hỏi:
- Có điều gì vui mừng mà bà hí hửng thế?
Phu nhân cười hỏi lại:
- Đố ông biết việc gì?
- Việc của bà thì tôi còn biết sao được?
Trương phu nhân ghé vào tai chồng thì thầm:
- Ông Phủ Trịnh nhờ mối đến hỏi con Quỳnh Như Cho Cậu TrỊnh Nhị.
Trương Công thở dài không nói gì.
- Sao! Ông không ưng chăng? ông phải biết ông phủ Trịnh giàu nhất phủ Kiến
Xương...
Trương công cười gằn, ngắt lời:
- Thì nhà ta đã nghèo đói đâu mà cần bám vào nhà giàu, mà phải thông gia với
nhà giàu?
- Vẫn biết thế, vẫn biết mình chẳng cần nương nhờ ai, nhưng con Quỳnh Như sau
này thế nào cũng yên thân đỡ phải vất vả làm lụng.
Trương công gắt:
- Làm gì bà vội vồ lấy người ta thế! Thì hãy để xem thằng Trịnh Nhị học hành ra
sao đã nào.
- Điều đó thì ông chả phải lo. Khoa mới rồi giá đừng xảy ra việc mưu phá trường
thi thì nay nó đã ông cống rồi...
- Sao bà biết? Ý chừng bà mối bảo thế.
- Sao tôi chả biết! Dễ ông tưởng gả con lại không kén chắc. Tôi cho ngưòi dò
la, chẳng những biết sức học của Trịnh Nhị, mà lại còn biết tính nết cậu ấy nữa
kia.
Trương công cắt đoạn câu truyện:
- Được, rồi biết.
Sáng hôm sau Trương công truyền làm một bữa tiệc thực long trọng rồi cho mời Trịnh
Nhị đến dự.
Nhận được thiệp mời Trịnh Nhị hí hửng, vào khoe mẹ (Trịnh phu nhân vừa ở phủ về
được mấy hôm để lo việc hỏi vợ cho con).
- Bẩm thân mẫu, việc xong rồi, Trương tướng công gửi thiệp mời con đến dự tiệc
Trịnh phu nhân vui mừng:
- Thế à? Nhưng con chắc đâu là xong?
- Sao lại không chắc. Con sang đấy sẽ giở hết tài ra, thì thế nào Trương tướng
công cũng phải phục mà bằng lòng gả Quỳnh Như cho con.
- Nhưng con cũng nên cẩn thận, mẹ nghe nói Kiến Xuyên hầu học rộng tài cao, mà
Quỳnh Như vào thơ lỗi lạc. Không khéo bị cha con họ lấn át thì nhục đấy.
Trịnh Nhị mỉm cười:
- Thân mẫu quá lo xa làm gì thế? Cứ một cái gia tài nhà ta cũng đủ xứng đáng với
cái tài mạc của Quỳnh Như rồi. Vả lại tài nàng là tài của một người con gái địch
sao nổi tài cao, trí rộng của bậc nam nhi như con.
Chàng chắp tay chào mẹ rồi sửa soạn trang sức cực kỳ lịch sự: Tấm khăn nhiễu
tam giang mới quấn rất khéo làm lộ hẳn cái trán cao, chiếc áo gấm lam thêu kim
tuyến thướt tha chấm gót, cái quần lụa ngả mày hồng phớt trùm gần kín đôi hài
thêu. Trước khi ra đi, Trịnh Nhị không quên đánh qua một lượt phấn gạo rồi đem
các bài thơ cổ đã học thuộc lòng ra đọc một lượt.
Xong rồi, chàng thong dong nhẹ bước tới biệt thự Kiến Xuyên hầu.
Đến cổng, chàng gặp một người y phục nhã nhặn vái chào và lễ phép nói:
- Tướng công tôi mời công tử vào chơi.
Trịnh Nhị trừng mắt nhìn rồi vái chào lại và hỏi:
- Thưa... Thưa ngài, dám xin ngài cho lãn sinh này được biết quý tính cao danh
để lãm sinh được hầu truyện.
Phạm Thái vẫn lễ phép đáp:
- Thưa công tử chúng tôi họ Phạm tên Văn Lý, được Trương tướng công tìm đến dạy
các cậu các cô con quan cố hiệp trấn Lạng Sơn.
Trịnh Nhị có vẻ kiêu hãnh:
- À! Thầy đồ. Vậy mời thầy đi, lãn sinh xin theo.
Phạm Thái cố nén lòng căm tức, ôn tồn nói:
- Thưa lãn tiên sinh, chúng tôi lấy làm...
Trịnh Nhị chau mày, ngắt lời:
- Thầy đồ mà không biết hai chữ lãn sinh ư? Tôi nhún mình mà tự xưng là lãn
sinh, chứ có phải tên hiệu tôi là Lãn sinh đâu.
Phạm Thái vờ giật mình, xin lỗi:
- Chết chửa, chúng tôi vô tình xúc phạm tới công tử, xin công tử đại xá cho.
Vốn chúng tôi có biết tiếng cụ Lãn ông Nguyễn Hữu Huân, nên tưởng công tử cũng
lấy mỹ tự Lãn sinh. Vậy xin công tử cho chúng tôi rõ quý hiệu, để chúng tôi được
hầu chuyện.
Trịnh Nhị tỏ vẻ khinh bỉ, vờ không nghe rỏ, rảo bước đi vào trong nhà, đến trước
mặt Trương công và Trương phu nhân, lễ phép chắp tay vái:
- Vãn sinh Trịnh Nhị xin cúi đầu lạy trình.
Trương phu nhân vội đứng dậy niềm nở mời chào:
- Mời công tử ngồi chơi.
Rồi phu nhân lảng vào buồng bên để mình Trương công tiếp hai chàng thiếu niên.
Quỳnh Như thấy mẹ vào, liền hỏi:
- Bẩm mẫu thân ai vừa đến chơi, con coi như người gặp ở chùa Non Nước ngày nào.
Trương phu nhân cười mắng yêu con:
- Mày nấp nhìn trộm người ta đấy à? Ngày nay chúng mày đáo để quá. Thời thầy
mày làm rể, tao nghe nói đến tên ấy đã đi trốn biệt.
Quỳnh Như tái mặt suýt ngất đi: "Thì ra cái người đọc thơ cũ nhận là thơ của
mình, cái cậu ấm dốc ấy, chính là vị hôn phu của ta đó!"
- Con sao thế?
- Bẩm thân mẫu, con hơi váng đầu. Nhưng không sao!
- Vậy con đi nằm nghỉ.
- Bẩm được, thân mẫu để mặc con.
Rồi nàng tìm vào ngồi trong xó tối bưng mặt khóc thút thít. Nàng vụt nghĩ đến mấy
câu thơ trong bài "Cầm tháo" của Phạm Thái:
Im ỉm sầu trưởng chín khúc,
Mượn tiêu cầm đỡ lúc tương tư,
Cầm sao thấy điệu ngẩn ngơ,
Sầu ai luống khách thơ thâm cùng.
Nàng lau nước mắt rồi lẩm bẩm nói một mình.
"Hay chàng biết rằng ta sắp về tay người khác... Không, không thể nào thế
được, thà ta tự tử cho hết kiếp, chứ bắt ta lấy con người dốt nát, đần độn ấy
thì ta nhất định không nghe".
Nàng lại nghĩ: "Can chi phải khóc lóc, buồn bã. Rõ ta cũng trẻ con! Với lại
đã có gì gọi là chắc chắn!"
Rồi nàng gượng đi trang điểm, vì nàng sợ nhỡ thân phu vào trông thấy dung nhan
tiều tuy mà hiểu thấu lòng nàng chăng. Đoạn nàng đứng bến cửa buồng nấp sau bức
rèm, ghé mắt nhòm ra nhà ngoài.
Lúc bấy giờ vừa bắt đầu vào tiệc. Trương công nâng chén nói:
- Ngày xuân không gì thú bằng uống rượn ngâm thơ. Lão gia nghĩ thế nên có buổi
chén xoàng này mời hai thiếu niên thi sĩ đến chơi cùng nhau xướng họa cho lão
được quên trong chốc lát cái tuổi già nua yếu đuối.
Trịnh Nhị nghĩ thầm: "Rõ Trương tướng công khéo bày vẽ giở giọng văn hoa.
Thì cứ nói phăng là thử tài chú rể này có xong không. Tài tướng công thì là một
mớ tài cổ, ta không lo lắm. Vã dầu ta có kém thì con rể kém bố vợ, lý ấy là thường.
Đến như cái anh đồ đạc kia, chẳng qua là một anh hủ nho, có hai chữ lãn sinh
còn không thủng nghĩa, nói gì làm thơ phú?"
Không thấy ai trả lời, Trương công nói tiếp:
- Thế nào! Hai công tử nghĩ sao?
Trịnh Nhị mỉm cười vì chàng không hiểu sao Trương công lại gọi thầy đồ kia là công
tử. Nhưng Phạm Thái đã đứng dậy chắp tay lễ phép nói:
- Bẩm tướng công, vãn sinh học vấn được mấy nả, mà dám múa dìu qua mắt thợ,
đánh trống qua cửa nhà sấm...
Trịnh Nhị tiếp:
- Sao mà ông đồ giỏi phương ngôn, tục ngữ thế?
Phạm Thái vờ không nghe rõ câu chế riễu, nói luông:
- Nhưng tướng công đã dạy đến, văn sinh đâu dám từ nan.
Tướng công cười:
- Phạm công tử nhún mình lắm?!Văn tài của công tử, lão gia còn lạ gì?
Trịnh Nhị giật mình: "Chết chưa, thằng này dễ thường đã xướng hoạ với
Trương công nhiều lần rồi chăng!"
- Trịnh công tử nghĩ sao?
Trịnh Nhị cũng đứng dậy trả lời:
- Dạ, xin tướng công cứ đề ra cho.
Trương công nâng rượn mời, rồi nói:
- Còn phải tìm đầu đề ở đâu nữa? Ta đương vui chén với nhau, chi bằng lấ ngay đề
"Ngày xuân uống rượn," mà vịnh một bài Đường luật thất ngôn bát cú.
Phạm Thái còn đương tìm vần thì Trịnh Nhị đã mỉm cười, nói:
- Dám bẩm tướng công, làm bằng hán tự có được không?
- Cũng được.
- Vậy, vãn sinh xin đọc:
Cẩm giang xuân sắc hội thi ngâm,
Ngọc lũy phù vân biến cổ câm...
Phạm Thái thản nhiên đọc luôn:
Bắc cực triều đình chung bất cải,
Tây sơn khấu đạo mai tương xâm.
Rồi nói tiếp:
- Bẩm tướng công, không ngờ, Đỗ, Trịnh lưỡng thi gia, lời văn lại giống nhau đến
thế! Mà lại hợp lắm! Nhất là hai câu dưới.
Trịnh Nhị cãi:
- Bẫm tướng công, anh đồ này dám hỗn xược trước mặt tướng công. Bắc chước cổ
nhân là một sự thường chứ! Không đọc Lý Bạch, Đỗ Phủ, một thi sĩ đời nay chỉ viết
nên những câu vô vị.
- Vâng, công tử dạy rất phải. Đã là văn nhân thì ai không đọc, không thuộc Đường
thi. Chẳng nói ai, chứ như bỉ nho đây, giá không thuộc Đường thi, nối điệu sao
được với công tử.
Trương công sợ hai người sinh ra to chuyện, liền nói chữa cho Trịnh Nhị:
- Lão gia coi ra hai công tử cùng đọc rộng, nhớ nhiều. Bài thơ ấy thực lão gia
chưa xem qua, thế mà hai công tử đều biết, đủ rõ học vấn hai công tử suýt soát
nhau. Thôi tranh biện làm gì vô ích, xin hai công tử cạn chén rồi mỗi người làm
một bài thơ nôm chơi.
Trịnh Nhị nhìn Phạm Thái cười nhạt:
- Vậy mời tiên sinh vịnh trước cho, lãn sinh xin hoạ theo.
Phạm Thái ngả đầu, ung dung đáp:
- Xin lĩnh ý.
Rồi quay lại Trương công, chàng chắp tay vái:
- Bẩm tướng công cho phép.
Trương công vui vẽ:
- Xin công tử cho nghe những lời châu ngọc.
Phạm Thái liền đọc:
NGÀY XUÂN UỐNG RƯỢU
Hơi xuân hây hẩy động rèm dương,
Thổi hợn lăn tăn nước rượu vàng.
Rạng rỡ tiên hoa khoe tử sắc,
Nồng nàn thánh tửu tỏa mê hương.
Đầu xanh trước gió lao đao chuyển,
Tóc bạc sau mây lỏa tỏa vương,
Có rượu có thơ xuân có mãi,
Một năm ba vạn sáu thiều quang.
Kiến Xuyên hầu vỗ đùi khen:
- Hay! Hay lắm1 Có rượu có thơ xuân có mãi. Một năm ba vạn sáu thiều quang!
Hay! Đúng lắm. Công tử làm lão gia trẻ hẳn lại.
Hầu cất tiếng cười vang, cặp mắt nheo, mặt hây hây đỏ. Rồi hầu thưởng Phạm Thái
một chén rượn đầy, Phạm Thái tạ ơn, uống một hơi cạn.
Trịnh Nhị tức uất người, nhưng cũng gượng mời Phạm Thái một chén rượn nữa, Phạm
Thái mỉm cười nói kháy:
- Thưa công tử, tài làm thơ ngu để chẳng bằng ai, nhưng tài uống rượu thì ít
người bì kịp. Công tử ban thưởng, một chén, chứ đến mười chén, ngu đệ cũng
không từ chối?
Chừng để kéo dài thời giờ ra, Trịnh Nhị vịn ngay lấy câu ấy, đứng dậy nói:
- Dám bẩm tướng công, Phậm công tử đã dạy thế, vãn sinh xin phép tướng công mừng
Phạm công tử đủ mười chén rượu nữa.
Trương công sợ Phạm Thái quá say, liền nói gạt:
- Rượu uống dần ít một mới ngon. Vả hai công tử phải tỉnh mà làm thơ, chứ say
li bì thì còn sao trông rõ cảnh mà ngâm với vịnh?
Phạm Thái đáp:
- Xin tướng công cứ cho phép vãn sinh nhận mười chén rượn mời của Trịnh công tử.
Rồi chàng quay ra bảo Trịnh Nhị:
- Bỉ nho xin uống thật thong thả, để công tử có đủ thời giờ gọt dũa bài thơ họa
cho được toàn bích.
Trương công nói:
- Phạm công tử cũng nên đọc lại bài tho một lượt để Trịnh công tử nhớ kỹ lấy vạn
Phạm Thái vâng lời cao giọng ngâm, vì chàng biết thế nào Quỳnh Như cũng nấp đâu
đó để nghe. Ngâm xong, chàng ngồi yên, nhấp chén đẻ Trịnh Nhị được bình tĩnh mà
nghĩ thơ.
Nhưng khi chén thứ mười đã cạn. Trịnh Nhị vẫn loay hoay chưa tìm được vần.
Chàng đánh trống lãng nói với Kiến Xuyên hầu:
- Bẩm tướng công, cổ nhân dạy: "Xuất đối dị đối đối nan", quả không
sai. Đối một câu đối, mà cổ nhân còn cho là khó hơn ra một câu đối, huống nữa lại
hoạ một bài thơ. Kể họa bậy, họa bạ, thế nào xong thôi thì cũng dễ, nhưng họa
được một bài nghiêm chỉnh cả từ lẫn ý, mà lại muốn có phần xuất sắc hơn bài xướng
đề thì thực là khó khăn quá.
Trương công muốn giữ thể diện cho chàng mốt chút, gật gù nói:
- Phải lắm, công tử nói phải lắm Vậy công tử bất tất phải họa, cứ làm ngay một
bài thơ khác, hoặc ngũ ngôn, thất ngôn, tứ tuyệt, hoặc cổ phong hay Đường luật
bát cú cũng được.
Giữa lúc ấy một đứa thị tỳ ra, dâng lên Trương công một tờ hoa tiên mà nói
răng:
- Dám bẩm tướng công, có người mạn phép tướng công họa giúp Trịnh công tử một
bài.
Trương công chau mày lẩm nhẩm đọc, rồi cười bảo hai người:
- Lời thơ còn non nớt quá!
Phạm Thái xin được ngâm. Kiến Xuyên hầu liền đưa cho chàng bài thơ hoạ mà hầu
thừa biết là tác phẩm của con gái yêu. Phạm Thái đọc thực to cốt để trêu tức Trịnh
Nhị.
NGÀY XUÂN UỐNG RƯỢU
(họa nguyên vận)
Rực rỡ trời xuân ánh thái dương,
Xuyên qua chén rươu nhuốm màu vàng.
Hoa xuân hn đáo thầm phong nhụy, Men rươu nồng nàn ngát tỏa hương.
Má phấn say xuân hây ửng đỏ,
Thơ tình thiế uu rươu rối vản vương,
Tìm vần trong rượu vần không thấy,
Chỉ thấy xuân đầy vẻ diệm quang.
- Trời ơi! Hay! Hay quá, hay lấn át hẳn bài xướng! Hay không tìm được lài mà
khen ngợi nữa.
Trương công chữa thẹn cho Trịnh Nhị:
- Công tử khéo chế riễu quá. Thực Trịnh công tử nói không sai, họa vẫn khó hơn
xướng. Đấy, hai công tử coi, trong bài họa vần nào cũng dùng ép cả: "Vấn
vương" nghe sao được? Còn hai chữ "diệm quang" thực chẳng thoát
tý nào.
Phạm Thái đã chếnh choáng hơi men, đứng dậy cải:
- Bẩm tướng công chê bài họa thì vãn sinh không phục. bài ấy hay, hay lắm. Câu
phá mạnh mẽ biết bao, câu thừa tự nhiên lạ lùng. Hai câu thục tuy không đặc sắc,
nhưng cũng chẳng dở. Hai câu luận thì âu yếm quá. Tuy hơi... chua chát chút đỉnh
Còn hai câu kết, trời ơi! Hai câu kết đến Lý Bạch cũng vị tất đã có hai câu kết
ấy. Mà xin tướng công nhận cho điều này: Trong mỗi vế, chữ "rượu" đều
đối với chữ "xuân", thực hợp với đầu đề "Ngày xuân uống rượu".
Trịnh Nhị tái mặt đi, xừng xộ mắng Phạm Thái:
- Thầy đồ vô lễ quá! Làm gì mà tướng công không nhận ra được, lại phải nhờ đến
thứ thầy. Còn như thầy khen bài thơ họa hay, thì điều ấy chẳng lạ. Nó cũng na
ná như bài thơ của thầy nghĩa là rất tầm thường.
Phạm Thái cười khinh bỉ không thèm đáp rồi thì thầm ngâm lại bài thơ. Đoạn
chàng rót đầy một chén rượu mà mời rằng:
- Vản sinh, xin phép tướng công, tự thưởng một chén rượu, vì đã có diểm phúc được
nghe một bài thơ hay.
Ngôn ngữ cử chỉ của Phạm Thái làm cho Kiến Xuyên hầu càng thấy rõ tình yêu của
chàng đối với Quỳnh Như và càng mong ước cho hai người nên vợ, nên chồng. Hầu lại
ngảnh nhìn Trịnh Nhị nghĩ thầm:
"Tài nữ mà sánh đôi với thằng ngu độn thì thực ngọc quý để ngâu vầy".
Nhưng Trịnh Nhị đã đứng dậy nói:
- Văn sinh xin đọc, có đoạn nào kém, nhờ tướng công phủ chính cho.
Rồi chàng cất tiếng ngâm ồm ồm:
NGÀY XUÂN UỐNG RƯỢU
Ngày xuân uống rượu ngâm thơ tiên,
Xuân thắm rượu nồng tỏa hơi men,
Liễu yếu trước thềm tha thước lá,
Đào thơ bên cửa thắm màu sen,
Đưa thoi chim én bay vùn vụt,
Xòe cánh bướm vàng lượn chập chờn,
Nhấp chén toan đề bài vịnh cảnh,
Nhưng còn mãi ngắm buổi xuân thiên.
Chàng vừa đọc dút bài, bỗng có tiếng cười thé ở buồng bên vọng lại. Trương công
cố thản nhiên, gật gù khen lớn để Trịnh Nhị không nghe thấy tiếng cười chế nhạo:
- Hay! Hay! Tuy vần không được chính lắm! Nhưng khuyết điểm nhỏ nhặt ấy kể chi?
Phạm Thái cũng khen mát:
- Bẩm vâng, hay thực mà không thất niêm một câu nào.
Trịnh Nhị tưởng hai người khen thành thực đã vội tự phụ:
- Dám bẩm tướng công, văn sinh quả không hay làm thơ nôm. Có thì giờ rãnh, văn
sinh chỉ tập làm thơ chữ Hán. Rồi vãn sinh xin đem trình Tướng công tập thơ của
văn sinh, để tướng công nhàn lãm.
- Phải đấy! Bây giờ thì mời hai công tử uống rượn đã, mà xin uống thực say cho.
Hồi 47
Nói Chuyện Văn Chương
Phạm Thái đang ngồi mở quyển Hán để ra câu đối cho học trò nhỏ
thì Kiến Xuyên hầu bước tới ôn tồn hỏi:
- Hôm qua công tử uống rượU say thế mà hôm nay cũng dạy sớm được?
Phạm Thái vội vàng đứng lên chắp tay vái dài:
- Bẩm tướng công, hôm qua vãn sinh quá chén, có lầm lỡ điều gì, xin tướng công
tha tội cho.
Kiến Xuyên hầu vuốt râu cười ha hả:
- Đã uống thì phải say, say thì phải bỏ sự giữ lễ đi, như thế mới thú chứ.
Hầu lại cười rồi đột ngột hỏi:
- Công tử đã đọc thơ Mộc Lan chưa, nhỉ?
Phạm Thái hơi chột dạ, đứng ngẫm nghĩ tìm hiểu. Thì Kiến Xuyên hầu đã nói tiếp:
- Giá thời nay, người mình cũng viết theo đẻ ấy thì tất đã đổi lại. Chẳng hạn
nói nàng Mộc Lan cải nam trang đi đánh giặc. Khi thắng trận về triều, gặp một
ông trạng nguyên trẻ tuổi, liền phải lòng, rồi bỏ cả chiến bào mà mặc áo xiêm,
rồi cùng trạng nguyên kết hôn. Viết như thế mới có hậu, phải không công tử?
- Dạ.
Phạm Thái sợ mướt mồ hôi, chân tay run lặp cập, chàng nghĩ thầm: "Thôi, chắc
Trương công đọc qua truyện "Sơ kính tân trang" của ta rồi. Ta đã dặn
Quỳnh Như giữ kín không cho ai xem qua, sao nàng vô ý đến thế để Trương công vớ
được Thế này thì còn gì là thể diện, còn gì là danh dự ta nữa?"
Nhưng chàng cũng đánh bạo đáp lại:
- Dám bẩm tướng công, tướng công dạy thế, thực là chu đáo. Nhưng kể bài thơ cổ
cũng có nhiều câu khảng khái.
- Thì vẫn khảng khái, hùng dũng. Nhưng thời nay làm gì có hạng người khảng
khái, hùng dũng, phải không, công tử? Một bài thơ đầy ý tưởng uỷ mị mới tả được
những tâm tình uỷ mị.
Rồi hầu cao giọng ngâm:
Vua ban vàng bạc Mộc Lan từ,
Liền cấtLan lên chức thượng thơ,
Nhưng Lan chẳng th ích làm quan thượng...
Thấy Kiến Xuyên hầu ngừng lại, Phạm Thái liền bạo dạn hỏi:
- Dám bẩm tướng công, tướng công dịch?
- Phải, lão gia cũng vừa ngẫu nhiên nghĩ mà dịch liều một đoạn ra quốc âm,
nhưng được có ba câu đã thấy cạn giòng... Kể nhà vua cũng nông nổi quá. Mới đem
vàng, bạc, cùng chức thượng thư ra thử bụng tráng sĩ thì đã biết đâu rằng tráng
sĩ chỉ thích được một con lạc đà để phi về quê thăm nhà? Sao không đem một công
chứa diểm lệ ra, xem tráng sĩ có coi công chúa quý hơn con lạc đà không.
Phạm Thái cố lấy giọng tự nhiên đáp lại:
- Bẩm tướng công, thử như thế cũng vô hiệu, vì tráng sĩ chỉ là một thiếu nữ cải
nam trang.
- Đành thế, nhưng nhà vua vẫn tưởng Mộc Lan là một nam nhi có dũng cảm.
Đến đây, Kiến Xuyên hầu phá lên cười, nói tiếp:
- Kể ra thời nay bọn nam nhi còn thua Mộc Lan nhiều!
Hầu vờ lỡ lời xin lỗi, rồi lại nói:
- Lão già này rõ lẩm cẩm quá. Đương câu truyện van chương lại nói liên miên đến
việc thì thế... À lâu nay công tử có làm được bài thơ nào hay đọc cho lão gia
nghe với.
Phạm Thái chưa kịp trả lời, hầu đã khéo nói lảng, hình như cốt để chàng quên
câu truyện Mộc Lan đi:
- Hay đại khái như bài thơ của Trịnh công tử hôm qua.
Cả hai cùng cười, Phạm Thái tưởng Kiến Xuyên hầu lên nhà trên đã mừng.
Nhưng hầu chỉ ra đứng ở hiên một lát, rồi lại quay vào hỏi Phạm Thái:
- Công tữ hẳn đã đọc truyện Thôi Oanh Oanh?
- Bẩm tướng công, vãn sinh mới được đọc bộ Tây Sương ký.
- Cũng được! Tuồng Tây Sương ký còn có phần đặc sắc hơn tiểu thuyết Thôi Oanh
Oanh. Vậy công tử cho biết ý kiến về áng văn ấy.
Lần thứ hai Phạm Thái kinh hãi, nhưng cố giữ nét mặt thản nhiên:
- Bẩm, văn chương rất hay.
Tướng công như không nghe rõ câu khên ngợi của Phạm Thái nói luôn:
- Bao giờ cũng vậy, loạn thường từ trong nhà loạn ra. Trương quân Thụy không phải
là Thôi phu nhân thì gặp sao được Thôi Oanh Oanh. Đã không gặp mặt Thôi Oanh
Oanh thi thơ từ xướng họa với nhau sao được? Giá Trương quân Thụy biết tự trọng
mà lẳng lặng bỏ ra đi, thì đâu đến nỗi xuác phạm tới danh tự nhà họ Thôi.
Thấy bọn trò nhỏ đã tề tựu lên học, Trương công mỉm cười gật chào Phạm Thái, rồi
thong thả bước xuống thềm nói tiếp:
- Bỏ ra đi, rồi tùy ý, muốn đi hẳn không quay về nữa cũng được, hay muốn nhờ mối
lái hỏi Thôi Oanh Oanh làm vợ cũng được.
Sáng sớm hôm sau, Phạm Thái cáo biết Kiến Xuyên hầu, xin phép về quê thăm nhà.
Hầu đã thừa biết chàng chẳng còn họ hàng thân thích nào nữa. Song hầu không đả
động gì đến điều ấy, cốt để chàng đi ngay.
Hầu vẫn yêu mến chàng và bằng lòng gả Quỳnh Như cho chàng, nhưng hầu muốn tránh
hẳn sự hiềm nghi.
Chàng vừa đi được một lát thì mụ mối nhà họ Trịnh đã sang nói chuyện về việc
hôn nhân của Trịnh Nhị.
Trương công và Trương phu nhân hỏi ý kiến nhau. Nghe chồng ngỏ lời muốn gả Quỳnh
Như cho Phạm Văn Lý. Trương phu nhân dẫy nẫy, nhất định không bằng lòng nhận một
anh sư phá giới làm rể.
Kiến Xuyên hầu biết Phạm Thái là con Trạch Trung hầu, nhưng không muốn tiết lộ
tung tích của chàng ra với một ai, vì hầu đã rõ chàng đương bị triều định truy
nã. Hầu chỉ mỉm cười bảo phu nhân:
- Bà không ưng Phạm Văn Lý làm rể thì thôi. Nhưng tôi xin bà đừng vội hấp tấp gả
hoài gả hủy cho một gã vô học.
Về các việc, mà nhất là việc hôn nhân trong một gia đình, bao giờ ý muốn của bà
cũng lấn át ý muốn của ông. Dẫu ngày xưa hay ngày nay cũng thế thôi.
Hồi 48
Khóc Trương Quỳnh Như
Những nếp nhà lợp cói lẵng lẽ dưới sự sầu thảm vừa xảy ra:
Cái chết của Trương Quỳnh Như.
Giữa hôm ăn hỏi linh đình, nàng đã nhờ chiếc giây lưng nhiễu đưa hồn về nơi cực
lạc Trên thửa vườn cao, song song hai ngôi mộ chưa xây. Đó là nơi yên giấc trăm
năm của Thanh Xuyên hầu và Trương Quỳnh Như vậy.
Trời đã gần tối mịt. Đường làng vắng ngắt kể vãng lai. Bỗng một ky sĩ phi ngựa
tới, ghi cương ở bên cây liễu cạnh mồ, rồi nhảy vội xuống, nằm vật ra đất khóc
thảm thiết.
Người ấy là Phạm Thái, cựu quân sư của Nguyễn Đoàn, phó đảng trưởng kiêm chức
quân sư của đảng Tiêu Sơn. Người ấy đã bao phen xông pha trong rừng gươm dáo,
nay chỉ còn là một kẻ tầm thường không còn một chút nghĩ lực để phấn đấu.
Vì người ấy yêu.
Nằm khóc một hồi lâu, Phạm Thái ngồi dậy lau nước mắt, mở đẫy lấy hương và sáp
ra thắp.
Rồi quỳ bên mồ đọc bài điếu văn sau này:
Nương tử ơi! Chướng căn ấy bởi vì đâu? Oan thác bởi vì đâu? Cho đến nỗi xuân
tàn hoa nụ, thu lầu trăng rằm!
Lại có điều đau đớn thế! Nhà huyền ví có năm có bảy, mà riêng một mình nàng đeo
phận bạc, thì lửa nguội, nước voi còn có lẽ. Thương hại thay! Hoa có một cành,
tuyết có một quãng, nguyệt có một vầng, mây có một đoá. Thân hiếm hoi chừng ấy,
nỡ nào lấy đôi mươi năm làm một hếp, mà ngơm ngớm chốn non Bồng nước Nhược,
đính gì không đoái đến cõi phù sinh.
Ví dù hếp mà tiên thù với tục, sao xưa ha vâng mệnh xuống trần chi? Nay đã nguyện
thân này cho vẹn hếp thì cũng trọn ba vạn sáu ngàn ngày cho đủ lệ: nọ xuân
huyên, kia phu tử góp với trần gian không chút bận, rồi sẽ rong chơi chín suối
cớ gì riêng bỗng vội vàng chi?
Ôi! Chữ mệnh hẹp hòi, chữ duyện suồng sẽ, những như thân gia ấy, tình cảnh ấy
ngược xuôi kia cũng ngậm ngùi cho. Huống ta cùng nương tử, tuy chẳng thân kia
thích nọ, những tình duyên là chừng ấy, cũng là một chút cương thường: dẫu rằng
kẻ đây người đấy, song ân ái bấy lâu nay, đã biết bao nhiêu tâm sự!
Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi tình cho nấn ná nhân duyên: mình long đong
thân gái liễu bồ, vì giận quá ngang tàng tính mệnh.
Cho đến nỗi hoa rơi lá rụng, ngọc nát châu chìm; chua xót cũng vì đâu?
Nay qua nắm cỏ xanh, tưởng người phận bạc, xùi xụt hai hàng tình lệ, giải bầy một
bức khốc vãn; đốt xuống tuyền đài, tỏ cùng nương tử.
Đọc xong, Phạm Thái vừa khóc, vừa châm lửa đốt bài điếu văn.
Rồi chàng lên ngựa đi.
Hồi 49
Trên Đường Thiên Lý
Hai năm sau.
Một hôm trời đông đã về chiều. Trên con đường thiên lý, một thiếu niên tráng sĩ
buông lỏng cương thong thả cho ngựa đi về phía Nam.
Vẻ mặt chàng buồn rầu, chán nản. Y phục chàng đầy bụi và bùn.
Đến phố phủ Lý Nhận, chàng dừng ngựa trước cửa một tửu quán, vào đó nghỉ trọ một
đêm để mai đi Nam Thành sớm.
Chàng đương ngồi nhắm rượu, đăm đăm suy nghĩ đến những sự biến cố của một đời
vô định thì ở ngoài đường có tiếng ngựa hí.
Rồi theo đêm tối, theo luồng gió lạnh và hạt mưa phùn, một trang thiếu niên tuấn
tú quăng mạnh mình vào trong quán:
- Sắp rượu mau, bớ chủ quán! Ta vừa đói vừa rét đây!
- Dạ!
Nghe giọng nói trong trẻo của khách mới đến người ngồi uống rượu phải ngửng đầu
trông lên, chàng sung sướng cười bảo tửu quán:
- Lấy chén, lấy đũa bát để công tử cùng ngồi uống rượu với ta cho vui.
Rồi chàng quay ra lể phép nói với người kia:
- Thưa công tử, công tử cho phép tôi được hầu công tử đêm nay.
Một cái mỉm cười đi theo liền với chữ "đệm" có biết bao nhiêu nghĩa,
khiến người mới đến hiểu ngay. Chàng lại gần thì thầm:
- Hiền huynh!
Người kia cũng thì thầm đáp lại:
- Hiền hữu.
Thì ra ngẫu nhiên Quang Ngọc và Nhị nương gặp nhau ở tửu quán bên đường.
Cơm rượu xong, chủ quán thấy hai người thân mật với nhau liền hỏi:
- Thưa hai công tử ngủ riêng giường hay cùng chung một giường?
Nhị nương phá lên cười, đưa mắt liếc Quang Ngọc, rồi đáp:
- Ta không quen ngủ chung với ai bao giờ. Nhưng bác quán cứ đi ngủ trước, để
chúng ta bàn luận văn chương, nghe?
- Dạ.
Đêm đã khuya, hai người còn thì thầm nói chuyện. Nhị nương thuật với Quang Ngọc
công việc điều tra của nàng về tung tích Phạm Thái: nào chàng mê man say đắm Quỳnh
Như, náo Quỳnh Như tự vận vì chàng. Quang Ngọc lộ vẽ căm tức trên nét mặt.
Chàng hỏi:
- Vậy bây giờ Phạm Thái ở đâu?
- Thưa hiền huynh, hai năm nay hắn đi biệt tích, chỉ lẻn về Thanh Nê có hai lần:
một lần đọc bài khốc vãn, một lần để nghêu ngao hát bài triệu linh bên mồ người
mệnh bạc.
Quang Ngọc cười chua chát:
- Không ngờ Phạm Thái mà trẻ con được đến thế nhỉ!
- Vâng, Phạm Thái cũng trẻ con như văn thơ của hắn.
Nhị nương mở khăn gói lấy đưa cho Quang Ngọc một tập giấy và nói tiếp:
- Đây, tác phẩm của anh chàng mê gái: mà ngu hữu đã sưu tầm được, tuy hãy còn
khiếm khuyết nhiều.
Quang Ngọc đọc sơ một lượt, rồi buồn rầu, giận dữ ném tập thơ xuống giường. Nhị
nương thở dài, hỏi:
- Hiền hữu định sao?
Quang Ngọc hỏi lại:
- Định cái gì?
- Việc đảng.
Quang Ngọc ngồi yên lặng giờ lâu, ngẫm nghĩ:
- Vận chưa gặp! Khó lòng quá!
Rồi chàng báo cho Nhị nương biết rằng Trịnh Trực đã bị hành hình ở Kinh Bắc,
Đình Phùng bị bắt giải về Phú Xuân. Tửu quán Bạch Phượng cũng đã đóng cửa, vì
các bạn đồng chí tan tác cả, để nơi hội họp kia phỏng có ích gì!
- Còn Lê Báo?
- Lê Báo vẫn nương náu ở chùa Yên Tử trấn Hải Dương. Bây giờ hắn thành thực mộ
đạo Phật như một nhà chân tu vậy.
- Thế chúng ta?
- Chúng ta chờ đợi dịp để hành động. Hành động là phận sự của chúng ta. Không
hành động, thì đời chúng ta không còn có nghĩa gì nữa phải không hiền hữu?
Nhị nương mỉm cười:
- Thưa hiền hữu phải lắm.
Quang Ngọc như mê man nói luôn:
- Hành động! Hành động!
Nhị nương nhìn chàng, buông một tiếng thở dài não nuột.
Sáng hôm sau hai người từ biệt nhau: Nhị nương ngược Bắc thành, Quang Ngọc xuôi
Nam thành hẹn một ngày kia sẽ hội ngộ.
Nhị nương kìm cương ngựa, hỏi với một câu:
- Nhỡ không hội ngộ?
- Cũng chẳng sao? Vì linh hồn chúng ta bao giờ cũng ở bên nhau. Một người trong
bọn ta làm một việc trái với bổn phận, đã tưởng nghe rõ tiếng thống trách của bạn
đã tưởng nhìn thấy cặp mắt nghiêm nghị của bạn. Mà khi ta có việc đáng thi hành
ngay, ta đã tưởng trông thấy cái gật biểu đồng tình của bạn rồi. Vậy thì chúng
ta có ở xa nhau đâu? Tình bằng hữu của chúng ta đã thành một sự thiêng liêng.
Nhị nương chắp tay vái.
- Vâng, tình bằng hữu của đôi ta!...
Rồi nàng rẽ cương quay đi.
Qua quãng đường gần một khuỷ sông Đáy, nàng văng vẳng nghe có ai hát nghêu
ngao. Kìm cương ngựa nhìn kỹ, nàng thấy ngồi dưới gốc đê bên bờ sông, một anh
chàng câu cá, đầu đội nón tre đan, vai khoác áo lá.
Cho ngựa thong thả bước tới gần, nàng dừng lại ngắm nghía: người câu cá đưa hồ
rượn lên miệng một hơi rồi ngâm:
Sống ở dương gian đánh chén nhà,
Chết về âm phủ cấp kè kè,
Diêm vương phán hỏi rằng: chi đó?
Be!
Nhị nương đoán chắc là Phạm Thái, nhưng vẫn yên lặng ngồi trên mình ngựa để chờ
xem anh chàng chán đời kia còn làm những trò gì nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét