Trong một dịp rất tình cờ tôi bắt gặp trang
mạng Thất Sơn Châu Đốc là địa phương tôi đang làm việc nên tò mò vào đọc. Và
cũng rất tình cờ, TSCĐ đang đăng bài Đôi dòng tâm sự cùng dòng kinh
Vĩnh An Hà của nhà văn Lương Thư Trung nên lại tò mò đọc ngay. Bởi vì
quê nội, quê ngoại của tôi đều nằm bên bờ kinh Vĩnh An Hà. Và bài viết này đã
xui khiến tôi tìm đọc toàn bộ các bài viết của nhà văn tự xưng–và biểu lộ-là
“người nhà quê” chính hiệu. Ông viết rất đa dạng, nhiều đề tài qua nhiều thể
loại: tản văn, bút ký, truyện ngắn, thơ, phê bình văn chương. Ngoài những bài
văn chương ký tên thật, ông còn một bút hiệu khác là Hai Trầu để viết những “Lá
Thư Từ Kinh Xáng”
Vốn cũng là người nhà quê,
tôi thích nhất những bài bút ký về làng quê ngày cũ của ông. Đọc văn ông tôi
cảm nhận đâu đó luôn thấp thoáng bóng dáng của một vùng quê hương sông nước Cửu
Long. Làng mạc, ruộng đồng quê hương như đã thấm sâu trong tâm hồn ông và đâu
đó luôn ẩn hiện trong những trang viết về “những mùa màng ngày cũ”, ruộng vườn,
về cuộc sống chân lấm tay bùn của người miền quê; nỗi hoài nhớ về những mùa
nước lên giăng câu, bắt cua, bắt ốc, hái bông súng, điên điển; về những lung
vũng bùn lầy, bàu đìa, xẻo vạt; về tre trúc, chuối, xoài… cùng cây trái trong
vườn; về những mùa cá lên đồng, cá ra sông và nhiều thứ khác ở cái vùng nhà quê
Tân Bình-Lấp Vò, rồi quê ngoại Mặc Cần Dưng, Kinh xáng Bốn Tổng.
Sinh ra và lớn lên ở làng
quê, đi học, đi làm rồi trở về gắn bó với làng quê trong những năm tháng mưu
sinh làm ruộng cày bừa, giăng lưới, giăng câu, ông đã tự bạch: “Là một người
sanh ra nơi làng quê, sống với làng quê qua những mùa binh biến, rồi chạy loạn
tản cư cũng chạy lên những cánh đồng lác hoang vu; đến khi lớn lên đi học, đi
làm năm ba năm rồi cũng trở về làng quê làm ruộng cày bừa, giăng lưới, giăng
câu sống cùng bà con chòm xóm quê mùa đằng đẵng mấy mươi năm, thì thử hỏi làm
sao tôi có thể xoá bỏ cái chất nhà quê bùn phèn trong tôi được.”
Để lý giải vì sao cái chất
nhà quê bùn phèn luôn lắng đọng trong tâm tưởng, ông bày tỏ: “Người ta sanh
ra ở đâu sẽ hấp thụ cái tinh chất ở vùng đất đó cho tới già đời; đừng ai mong
mình sẽ là tiên khi mình sinh ra nơi ruộng lúa bùn lầy, lung vũng. Cái chính là
mình biết lấy cái lung vũng, bùn lầy ấy làm cái chất tinh tuý ngọt ngào bao la
bát ngát của thiên nhiên nuôi sống mình lớn dậy. Đó chính là cái tinh chất làm
nên nét đặc thù của mỗi con người, mà ai không dám nhận, hoặc chối bỏ nó thì là
một lầm lẫn, một mất mát mà không cách gì tìm kiếm lại được ở kiếp này hay kiếp
khác sau này…”
Dù xa cách đã lâu, nhưng
ông vẫn kể tường tận về những cánh đồng của làng quê mà ông đã rời xa trong
quãng đời còn lại, trong nỗi nhớ quê hương:
“Giai
đoạn gần nhất của hôm nay, kể cũng đã khá dài với mười tám năm sống nơi chốn
này, tôi không mong mỏi gì hơn với đời sống như hiện tại. Mỗi ngày tôi có thể
ngồi kể cho bạn qua vài ba dòng chữ về những cánh đồng nhà quê nơi làng quê mà tôi
đã rời xa nó.”
Nói về làng quê xưa mới
thấy ông còn quá nhiều nặng nợ với “những mùa màng ngày cũ”, ông
vẫn luôn hoài nhớ về cánh đồng lúa quê mình cùng với những mùa bắt cá tháng
nước lên, tiếng gió rít nơi bờ tre, tiếng kêu của chim gõ kiến, niềm vui sau
những ngày mùa mệt nhọc… Đó là một thời đã nuôi ông lớn lên và làm nên cái
phong cách “nhà quê”, như ông đã từng tâm sự:
“Nếu
ai có hỏi giai đoạn nào tôi mê nhất trong đời tôi? Không phải suy nghĩ gì, tôi
sẽ nói rằng tôi mê mười năm chìm vào những cánh đồng lúa chín vàng sau thời kỳ
giã từ rừng tràm về lại ruộng vườn vùng mình. Thử hỏi, tôi làm sao quên được
những mùa bắt cá tháng nước lên! Làm sao tôi quên được những đêm trăng ngủ giữa
cánh đồng bên đống lúa vừa mới ra hột vào buổi chiều lòng vui vui sau một mùa
khổ cực ! Làm sao tôi quên được tiếng gió rít nơi bờ tre khi những con chim gõ
kiến cố gượng dậy qua một nhánh tre gai đong đưa theo tiếng gió ! Làm sao tôi
quên được những lúc mệt gần như ngất ngư với những vạt đất vừa mới bừa trục cho
nhừ để bắt đầu một mùa sạ lúa mới sau này !
Tôi
nhớ lắm những lúc cá lên đồng rồi cá lội ra sông như một chu kỳ của những mùa
nước lên rồi nước giựt! Nhiều và nhiều lắm những vui lo lẫn lộn của những năm
tháng trở về làng với mười năm an phận thủ thường ấy! Đây quả thật là tài sản
của đời tôi và chính những năm tháng lăn lóc giữa những mùa màng ấy làm nên cái
phong cách nhà quê nơi tôi mãi mãi cho tới hôm nay và cả trong những năm tháng
sau này của đời sống riêng tư của tôi nữa. Thế mới biết mỗi con người có một
thời để nuôi lớn mình là thế!”
Không phải là nhà nông học,
nhưng ông đã kể rành rẽ và làm một tổng kết về những mùa màng ở làng quê: đó là
những mùa cây trái trong vườn, mùa làm ruộng, làm rẫy, đánh bắt cá, cho đến mùa
của bông sen, bông súng. Và cả những mùa chim, ông viết: “Nhưng khi nhắc về
những mùa chim, có lẽ chúng tôi muốn nhớ về những loài chim của vùng quê tôi,
những mảnh đời giang hồ đã một thời cùng với người nhà quê tạo thành bức tranh
quê với nhiều nét màu gần gũi thân ái mà không nhà họa sĩ tài danh nào, bằng
bàn tay nghệ nhân đa tài, phục chế lại được khi nó đã không còn nữa... Nó là
của thiên nhiên, của tạo hóa, của chim muông mà loài người không làm sao nói
hết được bằng lời, bằng bút tích, bằng sáng tác.” Ông nói về chuyện sinh
sôi nẩy của chim chóc ở vùng quê ông cứ như là nhà “điểu học” thực thụ, dân nhà
quê “chuyên nghiệp” bây giờ chắc gì đã biết: “…chim trong vườn làm ổ vào
tháng hè có loài cưỡng, loài nhòng, chim se sẻ, chim dòng dọc, chim trao trảo,
chim chìa vôi cùng các loại cu cườm, cu đất, cu ngói... Còn chim rừng tràm làm
ổ vào tháng mười âm lịch. Qua tháng mười một, chim bắt đầu đẻ trứng nở con. Còn
chim trên các cánh đồng lúa mùa nước ngập dai dẳng 6 tháng ròng rã thì lại bắt
đầu làm ổ tháng bảy, tháng 8 khi lúa trên đồng tròn mình, mưa Ngâu tầm tã.
Những chỗ lung sâu lúa dày là những bến bờ lý tưởng cho các cặp vợ chồng chim
hủ hỉ những mùa trăng non. Tháng 9, tháng 10 chim nở rộ. Những bầy chim ra ràng
bắt đầu tập vỗ cánh chấp chới giữa gió đồng rì rào với những đợt sóng dâng cao
của biển lúa ngút ngàn, mà cũng là lúc những cánh chim già bắt đầu thay lông
thêm một lần trong dòng sông đời nhiều biến đổi...”
Không phải là nhà nghiên
cứu, nhưng khi nói về sản vật vùng quê sông nước, ông “rành sáu câu vọng cổ”,
ai đó nói trật ông liền có ý kiến kẻo người đọc nhầm lẫn, nhất là đám con cháu
ngày nay. Về bông điên điển và vài khía cạnh khác trong cuốn “Hương Vị Ngày
Xưa” của tác giả Trần Văn Chi, ông chân thành góp ý : “Thiệt
tình ra, tôi không biết tác giả kể đi vớt bông điên điển trôi tấp vào bờ sông ở
miệt nào để về làm dưa chua như vậy; nhưng riêng vùng Long Xuyên, Châu Đốc,
Định Mỹ. Núi Sập, Ba Thê, Vĩnh Chánh, Phú Hòa, Mặc Cần Dưng, Hang Tra, Trà
Kiết, Vĩnh Hanh, Lấp Vò, Kinh Xáng Bốn Tổng và nhiều nơi khác mà tôi biết cách
nay có tới hơn sáu bảy chục năm qua, tôi chưa từng thấy ai đi vớt bông điên
điển về làm dưa như vậy bao giờ. Nếu có muốn làm dưa hay đem ra chợ bán, bông
điên điển phải được hái một cách nhẹ nhàng, kẻo không thì bông điên điển sẽ bị
bầm giập, làm cho bông hết ngon.” Bông điên điển mà rụng xuống nước thì
nó nở tè le, bầm giập hết rồi còn gì là ngon nữa.
Bất kỳ ở đâu, khi thấy cái
gì gợi nhớ đến đồng ruộng quê nhà ông đều bồi hồi, xúc động và ghi chép lại.
Gặp nhà văn Lâm Chương trên bờ hồ Mystic, ông đã: “...sững sờ nhìn xuống mặt
hồ khi tình cờ bắt gặp một mảng lớn bông súng xanh lặt lìa chạy dài gần giáp
chu vi cái hồ rộng. Những chiếc lá bông súng hình tròn lớn bằng cái dĩa bàn,
nhỏ bằng cái miệng chén che khuất mặt nước bít chịt xen lẫn nhiều chiếc bông đã
nở màu trắng nhụy vàng rải rác khắp mặt hồ. Tôi mừng như chưa bao giờ được mừng
khi được đứng bên mé nước nhìn những bụi bông súng đang ngâm mình trong hồ nước
mát này.”
Để rồi liên tưởng đến những
“mảnh đời” bông súng của miền quê sông nước Cửu Long, một thời ông đã từng gắn
bó: “Hằng năm, vào những mùa nước nổi, nhà nghèo thường giạt về miệt Ba
Răng, Đốc Vàng, Đồng Tháp Mười, Cầu Số Năm, Tri Tôn hoặc qua An Phú, Hồng Ngự,
Lỳnh Quỳnh, Ba Thê để nhổ bông súng về bán. Bông súng mọc vượt theo nước. Nơi
nào nước sâu bông súng có cọng dài, nơi nào nước cạn bông súng ngắn; có nơi
bông súng dài đến bốn, năm thước là thường. Bông súng nở vào buổi sáng khi mặt
trời vừa mọc. Người ta nhổ bông súng là nhổ những cọng nào có bông, dù bông búp
hay bông nở. Do đó mà những xuồng ghe nhổ bông súng thường bắt đầu lên đồng vào
sáng sớm tinh sương để chiều về tìm nơi trú ngụ, phòng khi mưa bão vào ban đêm
và sáng hôm sau lại đi nhổ bông súng tiếp cho đến khi đầy ghe, đầy xuồng mới về
đem bán khắp các chợ. Cánh đồng bao la với nước là nước, khi có mưa chướng sóng
to là mối nguy cho những ghe xuồng bềnh bồng trên đồng trống... Tôi kể cho Lâm
Chương nghe thêm, ở trên đồng có hai loại bông súng. Đó là bông súng ta và bông
súng ma. Bông súng ta cọng lớn, đài hoa xanh, cánh hoa trắng, nhụy hoa vàng;
còn bông súng ma cọng nhỏ, rất mảnh mai, bông nở nhỏ. Vì phần đông từ các nơi
phải đi xa nhổ bông súng là để bán, nên người ta chỉ nhổ bông súng ta mà thôi.
Bông súng ma nhổ lâu đầy xuồng mà bán cũng chẳng được mấy đồng nên ít người nhổ
là vậy.”
Trong bài “Nghề hạ bạc,
vài ba chữ dùng trong giới bình dân”, ông viết về kế sinh nhai truyền
thống hoặc trong lúc nông nhàn của người quê mình với một kiến thức uyên bác về
cách bắt cá tôm; ngoài giăng câu, chài lưới còn có: “đăng mương, đăng mé,
đăng đó, bửng, đặt lọp, đặt trúm, đặt dớn, xây rọ,..” Nội cái chuyện dụng
cụ đánh bắt thôi cũng đủ thành kho tự điển về nghề hạ bạc: “từ các dụng cụ
ngoài câu lưới, đăng bửng, người sống bằng nghề hạ bạc còn chế biến ra nhiều
vật dụng để bắt cá tôm như bắt lươn có ống trúm, độn mô, đăm lươn bằng chỉa,
nhưng bắt lịch chỉ có cách duy nhất là móc lịch chứ không có đặt trúm hay câu
lịch. Bắt cá chạch ngoài lọp còn có bàn cào, xúc lùm; bắt cá kèo có bôn; bắt cá
rô biển có đặt rù, đặt bộng, đặt lu; bắt cá chốt ngoài câu còn có nhảy hùm, nhảy
xộn; bắt cá nhái ngoài kéo lưới còn dùng chỉa xà di; bắt cá lóc ngoài câu lọp
còn có ngồi tum đăm cá với chỉa xà búp ; bắt cá sặt thì chỉ đặt lờ vì cá này
không ăn câu nên không ai câu cá sặt; bắt cá linh ngoài lưới còn có vó cất ở
rạch nhỏ, vó gạt ở sông lớn, rồi chài vải, chài rê, đóng đáy...và còn nhiều tên
gọi khác nữa không kể xiết.”
Dù đang sinh sống tại một
thành phố lớn ở Hoa Kỳ, cách xa quê hương nửa vòng trái đất nhưng ông vẫn cứ
như một “người nhà quê”, ông vẫn luôn tưởng nhớ về những cây cầu khỉ, về món cá
lóc nướng trui và cả những câu thơ đã từng ngâm nga nơi làng quê cũ: “Làng
quê tôi ngày nay bị đô thị hoá hơi nhiều, đường làng bùn lầy ngày trước nay
thay bằng đường nhựa, cầu ván thay cầu khỉ bắc qua sông và người làm thơ cũ
không còn ai nhưng mỗi lần có một thầy giáo từ Sài Gòn, giáo sư Nguyễn Tấn
Hưng, ghé lại thăm chòm xóm, rồi vô vài ly rượu đế với cá lóc nướng trui chấm
nước mắm bằm xoài, ông cũng khoái đọc thơ cho mấy người nhà quê khá bộn tuổi cỡ
tôi nghe thơ của ông dịch từ nhũng bài thơ cổ. Điều đó cho thấy thơ không chỉ
thưởng thức nơi văn minh đô hội mà nó được ngâm nga nơi làng quê, dưới bụi tre
gai hay gốc xoài, gốc mận vườn tôi, một nơi chốn có một thời thơ đã ra đời và
được trân trọng lâu rồi qua nhiều thế hệ trải dài gần cả trăm năm…”
Trong bài Nhơn
câu hỏi “Thơ đến từ đâu?” nhớ về thơ ở làng quê mấy mươi năm trước,
ông viết:“Người dốt thì họ làm thơ qua câu hò câu hát “nghêu ngao mặt nước,
vui say giữa trời”. Họ ứng khẩu thành thơ khi trong lòng tràn ngập niềm vui
cùng trời nước bao la giữa cánh đồng nước nổi, hay giữa miếng ruộng vàng bông
trĩu hột đang theo gió rì rào làm thành những lượn sóng nhấp nhô trên biển lúa
mênh mông. Thơ của họ chạy nhảy theo tiếng dế dưới lớp đất vừa cày trở. Có khi
thơ của họ miên man trong trại ruộng, trong lùm cây trốn nắng đụt mưa hay trên
thềm đìa, bờ kinh, bờ đập.”
Nghĩ về những trang viết về
nhà quê của mình, trong một bức thơ gửi cho tôi, ông cho rằng: “...những gì
chú ghi chép lại nó không hay ho gì nhưng so với mấy ông nhà văn thứ thiệt viết
về nhà quê, thì những gì chú viết là từ sự thật, từ những hiểu biết trong việc
cấy cày, từ những năm tháng chú lăn lóc trên đồng sâu, đồng cạn chứ không bằng
tài tưởng tượng của nhà văn qua những nghệ thuật bay bướm trong nghề viết văn.” Nên
có lần, ông tự bày tỏ nỗi niềm:
“Tôi
viết như kể chuyện đời xưa cùng bạn về những mùa màng ngày cũ. Tôi viết vì tôi
nhớ cái thuở lúa mùa còn đang là những mùa màng chính yếu của vùng đất phương
Nam ngày xa xưa đó như không ai có thể dời đổi được. Tôi không có ý làm văn
chương học thuật gì và tôi cũng không có khả năng làm được những việc mang tính
cao sang ấy, nên bạn đừng hy vọng tìm ở những bài viết đó dáng vẻ của văn
chương học thuật. Viết với tôi như một nỗi niềm của một người nhà quê nhớ quê.
Chỉ có vậy và đơn giản chỉ có vậy”.
Theo tôi, văn
chương mỗi người mỗi vẻ, tùy theo cảm nhận người đọc, nhưng chắc chắn rằng,
tuổi sồn sồn từ hàng 5 trở lên trên, những người đã từng lớn lên trên mảnh đất
đầu nguồn châu thổ sông Cửu Long luôn rất thích đọc những gì ông viết, vì ông
đã viết bằng chất liệu thật từ cuộc sống, bằng ký ức của những năm tháng cực
khổ lên đồng, xuống ruộng, không phải bằng óc tưởng tượng. Không như cái ông
giáo sư nọ bên Huê Kỳ viết về bông điên điển, đặc sản mùa nước lên miệt quê
mình, ổng nói bông điên điển mọc hoang, khi rụng xuống nước mới vớt lên đem về
làm dưa chua, thiệt là trớt hướt.
Những ghi chép tỉ mỉ của
ông về cái không gian kênh rạch, ruộng vườn, làng mạc quê mình với thời gian
cách nay mấy chục năm, có cái bây giờ không tìm lại được, đó là những tư liệu
vô cùng quý giá, rất đáng “cho thế thệ trẻ hôm nay và mai sau đọc để biết
ngày xưa nơi các làng quê miền Tây Nam phần có một thời như
thế”.
Tôi rất thích lối dùng từ
rặt ri miền Nam của ông, nó mộc mạc, thân thương, gần gũi, không thi vị hóa vấn
đề và đúng với thực tế đời sống của người dân vùng “văn minh sông nước”, nhưng
không phải vì thế mà kém phần văn chương học thuật. Lời khuyên của ông thật chí
lý cho những người – như tôi- muốn viết về chuyện đồng quê suy gẫm. Làng mạc,
ruộng đồng quê hương như đã thấm sâu trong tâm hồn ông và đâu đó luôn ẩn hiện
trong những trang viết. “viết về nhà quê coi đơn giản vậy mà rất khó viết vì
nó đòi hỏi cái chất liệu thật nhiều hơn là hư cấu, nó cần cái vốn trải nghiệm
của chính tác giả hơn là óc giàu tưởng tượng, nó cần cái quan sát gần hơn là
đứng từ xa mà nhìn ngắm rồi hạ bút cho câu văn trôi chảy;…”
Chẳng hạn, đọc bài nói về
việc chăn trâu, chăn bò hồi nhỏ ở quê của ông đúng là “không đụng hàng”, nó
khác xa lơ xa lắc tất cả những bài văn mà tôi đã đọc. Những nhà văn chương bác
học mà đọc đoạn này chắn ăn sẽ... gác bút, không dám viết về đề tài này nữa: “Thường,
trong văn chương, sách vở hay ca tụng cảnh trẻ mục đồng ngồi trâu thổi sáo hoặc
nghêu ngao với đàn bò, một hình ảnh rất đẹp, rất thơ mộng. Rất tiếc, trong thực
tế không phải như vậy. Thành ra, cứ mỗi lần tôi đọc được ở đâu đó nói về điểm
này, hoặc nhìn những bức tranh, bức ảnh vẽ chú bé ngồi lưng trâu cầm ống sáo
đang thổi, tôi có cảm tưởng bị người ta gạt mình. Vì từ thuở nhỏ, tôi sống ở
đồng quê, tôi có theo mấy đứa trong xóm giữ bò. Sau, lớn lên, tôi cũng có đi
giữ bò, ngủ coi chừng bò trong đồng, trong bái và đã từng bị bò đạp lên mình,
giờ còn để lại đấu sẹo bên hông, nên tôi có thể nói chắc chắn rằng chăn giữ bò,
trâu cực lắm, không dám lơ đễnh, rảnh rang như người ta tưởng. Vì, chỉ cần ham
chơi một chút, quên để ý một chút là bò trâu vào rẫy, vào lúa rồi. Mỗi lần trâu
bò phá hại mùa màng là việc phiền toái lắm. Hơn nữa, mấy đứa trẻ làm gì mà biết
thổi ống sáo, ống tiêu. Có chăng, thường thường lấy đất sét nắn những con tu
hú, đem phơi nắng cho thật khô, rồi rỗi rãnh thổi chơi cho đỡ buồn.”
Được làm quen với ông, được
đọc về những “mùa màng ngày cũ”, về những “bến
bờ còn lại”, những cái mà tôi còn chưa biết hết về quê hương xứ sở, về cỏ
cây, hoa lá, ruộng vườn, làng mạc ngày nào khiến tôi vô cùng thích thú. Nhờ đọc
những bài của ông mà tôi tìm lại được cảm giác thú vị về những từ ngữ ngày xưa
người miền Nam thường dùng (ví dụ như ngày nay người ta viết là “miền Tây
Nam bộ”, ngày xưa viết là “miền Tây Nam phần”…), những từ ngữ
mà đám trẻ ngày nay ít biết và cũng hiếm người sử dụng, những từ ngữ mà tôi đã
từng đọc và viết qua những bài văn đã học ở thời niên thiếu, chúng vẫn còn đâu
đó trong ký ức nay lại ùa về. Những từ ngữ ấy còn gợi lại cho tôi những kỷ niệm
của ngày xưa thân ái, thời kỳ chưa có những cuộc chia ly khắc khoải và xa tít
tắp…Càng đọc tôi càng thấy bị “lây nhiễm” bởi lối hành văn và cái chất “người
nhà quê” trong ông. Dưới góc nhìn của người đọc thuộc thế hệ con cháu, sinh sau
đẻ muộn, trước những đổi thay của cuộc sống, đọc những bài viết của ông cũng là
cách để “ôn cố tri tân”, để biết thêm về một thời xa xưa của ruộng vườn, làng
mạc vùng sông nước quê hương và để thương, để nhớ, để trân trọng những cái mà
ngày nay và cả những ngày sau có thể sẽ không còn nữa.
Để kết thúc bài viết này,
xin trích mấy câu thơ của cố nhà văn Sơn Nam (bài thơ thay lời tựa cho tập
truyện Hương rừng Cà Mau xuất bản ở Sài Gòn năm 1961) kính
tặng chú Hai Trầu, như một lời cảm ơn chân thành về những tình cảm mà ông đã
dành cho tôi qua những bức thơ nhơn mùa World Cup vừa qua trên trang TSCĐ:
Năm tháng đã trôi qua
Ray rứt mãi đời ta
Nắng mưa miền cố thổ
Phong sương mấy độ qua đường phố
Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê.
Ray rứt mãi đời ta
Nắng mưa miền cố thổ
Phong sương mấy độ qua đường phố
Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê.
Thái Lý
An Phú (Châu Đốc) mùa nước lên, 20/8/2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét