Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2019

10 nhạc khúc nổi tiếng Trung Hoa cổ đại - Cao sơn lưu thủy

10 nhạc khúc nổi tiếng Trung Hoa cổ đại
I. Cao sơn lưu thủy
Cổ nhạc Trung Hoa bao gồm những nhạc khúc cổ, tiêu biểu của nền văn hóa truyền thống, gắn liền với những điển tích, điển cố khác nhau. Đằng sau mỗi nhạc khúc đều là các giai thoại thú vị. Nghe nhạc khúc mà không biết câu chuyện đằng sau, thì tất yếu không thể đi đến tận cùng cái đẹp của khúc ý, cũng không thể thưởng thức được trọn vẹn cái hay của khúc nhạc.
Ngày nay, những bài cổ nhạc Trung Hoa đã dần dần biến mất trong cuộc sống hiện đại. Điều đó một phần là do sự phát triển của âm nhạc hiện đại, với trào lưu nhạc nhẹ, nhạc trẻ, và một phần quan trọng hơn là do những bài cổ nhạc rất khó cảm thụ, rất kén người nghe. Những giá trị văn hóa truyền thống cũng không còn được lưu truyền lại một cách đầy đủ, khiến cho việc thưởng thức các nhạc khúc này càng ngày càng trở nên khó khăn hơn.
Trung Hoa cổ đại có lưu truyền “Thập đại danh khúc“, chính là 10 khúc nhạc nổi tiếng nhất thời bấy giờ, bao gồm:
 1. Cao sơn lưu thủy
 2. Thập diện mai phục
 3. Bình sa lạc nhạn
 4. Mai hoa tam lộng
 5. Quảng lăng tán
 6. Tịch dương tiêu cổ
 7. Ngư tiều vấn đáp
 8. Hồ già thập bát phách
 9. Hán cung thu nguyệt
10. Dương xuân bạch tuyết.
Trong kỳ này, hãy cùng tìm hiểu về “Cao sơn lưu thủy” cùng hai điển cố đằng sau khúc nhạc này. Điển cố thứ nhất là về tình tri âm của Bá Nha và Tử Kỳ, còn điển cố thứ hai là sự tích về cây đàn Dao cầm.
Tình tri âm của Bá Nha và Tử Kỳ
Câu chuyện Bá Nha gặp Tử Kỳ bắt đầu khi ông đang trên thuyền ở cửa sông Hán Dương, sau khi phụng chỉ vua Tấn đi sứ nước Sở trở về. Nhân lúc đêm Trung Thu trăng sáng, phong cảnh hữu tình, Bá Nha đặt hết tâm hồn đàn một khúc nhạc trầm bổng réo rắt. Tuy nhiên, khúc nhạc chưa dứt thì bỗng đàn đứt dây. Bá Nha giật mình tự nghĩ, hẳn là có người nào đang nghe lén tiếng đàn, bèn chuẩn bị cho quân lính lên bờ tìm hiểu.
Lúc này, trên bờ mới vọng lên tiếng nói của một gã tiều phu trấn an và ngợi ca tiếng đàn của người trên thuyền. Đó chính là Tử Kỳ. Đôi bên đối đáp không lâu thì Bá Nha nhận ra, Tử Kỳ tuy thân phận thấp hèn, nhưng lại có thể hiểu thấu tiếng đàn của ông. Bá Nha sinh lòng kính phục, mời Tử Kỳ lên thuyền đàm đạo.
Ngồi đàm đạo không lâu, Bá Nha lại thử tài Tử Kỳ một lần nữa. Ông nối lại dây đàn, tập trung đến chốn non cao, đánh lên một khúc, Tử Kỳ khen rằng: “Thiện tại hồ cổ cầm, nguy nguy hồ nhược Thái Sơn” (Nghĩa là: Đánh đàn hay thay, vời vợi tựa Thái Sơn). Bá Nha ngưng thần, ý tại lưu thủy, khảy lên một khúc nữa, Tử Kỳ lại khen rằng “Đăng đăng hồ nhược lưu thủy” (Nghĩa là: Cuồn cuộn như nước chảy). Sung sướng vì tìm được tri âm, Bá Nha sai người bày tiệc đối ẩm, rồi sau đó lại kết nghĩa anh em với Tử Kỳ. Cả hai hẹn ước vào ngày Trung thu năm sau sẽ lại gặp nhau ở ghềnh đá chân núi Mã Yên…
Tuy nhiên, trời không chiều lòng người, Tử Kỳ qua đời trước dịp hẹn ước. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ quên lời hứa với người anh em kết nghĩa của mình. Tử Kỳ di ngôn lại rằng xin được mai táng ở chân núi Mã Yên để hoàn thành lời hẹn ước với Bá Nha.
Ngày hẹn ước, Bá Nha tìm đến nơi thì nghe được tin dữ. Ông đau lòng đến viếng Tử Kỳ, và sau đó sai người mang cây Dao cầm tới, dốc hết tâm lực đàn khúc “Thiên thu trường hận“. Tấu xong khúc nhạc, Bá Nha vái cây Dao cầm một vái, đoạn tay nâng đàn lên cao, đập mạnh vào phiến đá trước mộ Tử Kỳ. Dao cầm vỡ tan, trục ngọc phím đồng rơi lả tả.
Sau đó Bá Nha ngâm bốn câu thơ nói rằng:
Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Ðàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai?
Gió Xuân khắp mặt bao bè bạn,
Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay!
Thời Tiên Tần là giai đoạn bách gia tranh minh, nhân tài rất nhiều. Rất nhiều kẻ sĩ thời đó quan niệm rất đơn giản, hoàn toàn không nhất thiết phải trung thành với nước chư hầu mình sinh sống. Việc lưu động kẻ sĩ giữa các nước nhiều không kể xiết, họ luôn mong ngóng tìm được sự tri ngộ, tri âm. Đó cũng chính là mơ ước chung suốt mấy ngàn năm của người đọc sách. Nhưng mà có thế đạt được mục tiêu ấy có mấy người? Khúc “Cao sơn lưu thủy” được người đời sau coi trọng như vậy, là vì đằng sau nó còn ẩn chứa cả một câu chuyện về cuộc gặp gỡ kỳ diệu và cảm động giữa hai con người tri kỷ, Bá Nha và Tử Kỳ.
Sự tích về cây Dao cầm
Nói về khúc “Cao sơn lưu thủy” thì không thể không nhắc tới cây Dao cầm. Tương truyền khi xưa, vua Phục Hy thấy tinh hoa của năm vì sao rơi xuống cây ngô đồng, chim phượng hoàng liền đến đậu. Vua Phục Hy biết ngô đồng là gỗ quí, hấp thụ tinh hoa Trời Ðất, có thể làm đồ nhã nhạc, liền sai người đốn cây ngô đồng xuống, cắt làm ba đoạn để phân Thiên, Ðịa, Nhân. Ðoạn ngọn thì tiếng quá trong mà nhẹ, đoạn gốc thì tiếng quá đục mà nặng, duy đoạn giữa thì tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được, liền đem ra giữa dòng sông nước chảy ngâm 72 ngày đêm, rồi lấy lên phơi khô, chọn ngày tốt, thợ khéo Lưu Tử Kỳ chế làm nhạc khí, bắt chước nhạc Cung Dao Trì, đặt tên là Dao cầm.
Dao cầm nầy dài 3 thước 6 tấc, án theo 360 độ chu Thiên, phía trước rộng 8 tấc án theo Bát tiết, sau rộng 4 tấc án theo Tứ Tượng, dầy 2 tấc án theo Lưỡng Nghi, đầu như Kim đồng, lưng như Ngọc Nữ, trên chạm Long Phụng, gắn phím vàng trục ngọc. Ðàn ấy có 12 phím tượng trưng 12 tháng, lại thêm một phím giữa tượng trưng tháng nhuận, trên mắc 5 dây, ngoài tượng Ngũ Hành, trong tượng Ngũ Âm: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ.
Vua Thuấn khảy Dao cầm, ca bài Nam phong, thiên hạ đại trị. Vua Văn vương bị Trụ vương giam cầm nơi Dũ Lý, con trưởng Bá Ấp Khảo thương nhớ không nguôi, nên thêm một dây nữa gọi là dây Văn (Văn huyền), đàn nghe thêm ai oán.
Võ vương đem quân phạt Trụ, thêm vào Dao cầm một dây phấn khích gọi là dây Võ (Võ huyền).
Như thế, Dao cầm lúc đầu có 5 dây, sau thêm 2 dây Văn và Võ nữa thành 7 dây, gọi là Thất huyền cầm.
Ðàn ấy có Sáu kỵ, Bảy không, Tám tuyệt:
Sáu Kỵ là: Rét lớn, nắng lớn, gió lớn, mưa lớn, sét lớn, tuyết rơi nhiều.
Bảy Không là: Nghe tiếng bi ai và đám tang thì không đàn, lòng nhiễu loạn thì không đàn, việc bận rộn thì không đàn, thân thể không sạch thì không đàn, y quan không tề chỉnh thì không đàn, không đốt lò hương thì không đàn, không gặp tri âm thì không đàn.
Tám Tuyệt là: Thanh cao, kỳ diệu, u uất, nhàn nhã, bi đát, hùng tráng, xa vời, dằng dặc.
Ðàn ấy đạt đến tận thiện tận mỹ, hổ nghe không kêu, vượn nghe không hú, một thứ nhã nhạc tuyệt vời. Chính vì vậy, cây Dao cầm là một báu vật của trời đất. Bá Nha vì Tử Kỳ có thể không tiếc cây Dao Cầm, cũng là tận tình tri kỷ. Giống như Nhạc Phi từng nói trong Tiểu trùng san: “Người tri âm thực ít, đàn không đứt thì biết lấy ai nghe“…
Nhạc khúc “Cao sơn lưu thủy“
Bản “Cao sơn lưu thủy” lưu truyền ngày nay chủ yếu là bản do Xuyên Phái đời Thanh gia công và phát triển, được Đường Di Minh đời nhà Thanh ghi lại trong “Thiên văn các cầm phổ” (năm 1876). Ông đã hết sức phát huy các thủ pháp cổn, phất, xước, chú, khiến hình tượng núi cao, nước chảy thêm rạng rỡ, nên mới có danh xưng “Thất thập nhị cổn phất lưu thủy“.
Khúc nhạc này được phân thành 9 đoạn và một vĩ thanh, cụ thể là 4 bộ phận lớn: khởi, thừa, chuyển và hợp (gần giống như bố cục một bài thơ Đường Luật). Qua tìm hiểu, tính chất và ý nghĩa các đoạn được nhiều người nhận định như sau:
Phần khởi (đoạn 1 đến đoạn 3), thông qua giai điệu thâm trầm, hồn hậu, uyển chuyển và âm bội sáng rõ, đã biểu hiện được những cảnh tượng kì diệu của núi cao trùng điệp, suối chảy khe sâu một cách rõ ràng, tươi sáng.
Phần thừa (4 và 5), dàn trải không dứt, giai điệu đậm màu sắc ca hát, giống như những giọt nước chảy trong khe suối tập hợp thành dòng nước mạnh.
Phần chuyển (6 và 7), nhờ vào khúc điệu có thứ tự bội âm đi xuống và âm giới của 5 thanh đi lên, âm hóa với xung động mạnh, kết hợp với các thủ pháp cổn, phất, như một dòng thác chảy ào ạt xuống, dồn vào sông biển cuộn trào sóng lớn.
Phần hợp (đoạn 8 và vĩ thanh), vận dụng một phần âm điệu của phần thừa và phần chuyển tạo thành hiệu quả hô ứng, tạo nên dư âm như sóng trào trên sông biển, khiến người nghe có thể cảm nhận dư vị hết sức ngỡ ngàng, thú vị.
Thời nhà Đường, “Cao sơn lưu thủy” phân ra thành hai khúc, không phân đoạn. Đến thời Tống lại phân cao sơn thành 4 đoạn, lưu thủy thành 8 đoạn, thiên về lưu thủy, khiến cho người nghe có cảm giác biển lớn đang vỗ sóng bên tai, âm vang mãi không thôi.
Quang Minh
Mời các bạn thưởng thức khúc “Cao sơn lưu thủy”:
II. Thập diện mai phục
Nghe nhạc khúc mà không biết câu chuyện đằng sau, thì tất yếu không thể đi đến tận cùng cái đẹp của khúc ý, cũng không thể thưởng thức được trọn vẹn cái hay của khúc nhạc, nhất là đối với “Trung Hoa thập đại danh khúc” - 10 khúc nhạc nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa.
Ảnh: Theo saimonthidan.com, soha.vn
Như đã giới thiệu ở kỳ trước, kỳ này chúng ta cùng tìm hiều nhạc khúc thứ hai trong “Trung Hoa thập đại danh khúc” là “Thập diện mai phục”. Ra đời vào năm 202 TCN, “Thập diện mai phục” được biết đến như là một bản hùng ca miêu tả về cuộc chiến Hán Sở giao tranh. Mang theo âm hưởng gấp gáp, mãnh liệt, dữ dội và bi thương của chiến trận, nhạc khúc được lưu truyền cho đến tận ngày nay mà không ai biết được về nguồn gốc tác giả của nó.
“Thập diện mai phục” còn có tên là  “Hoài Âm bình Sở”, lấy trận chiến ở Cai Hạ của Lưu Bang, Hạng Vũ làm chủ đề, vận dụng kỹ xảo riêng của đàn tỳ bà để miêu tả cảnh binh lính giao tranh khiến tâm linh của người nghe chấn động. Vậy trận Cai Hạ bi tráng đã diễn ra như thế nào?
Trận Cai Hạ, Ngu Cơ tự vẫn, Hạng Vũ phá vây cùng 28 kỵ binh
Năm 202 TCN, Lưu Bang cùng quân của chư hầu đánh quân Sở thắng Hạng Vũ một trận quyết liệt ở Cai Hạ. Riêng cánh quân Tề của Hàn Tín đã có 30 vạn người, ngoài ra Khổng tướng quân ở cánh trái, Phí tướng quân ở cánh phải, Lưu Bang ở phía sau, Chu Bột, Sài Vũ ở sau lưng Lưu Bang. Toàn thể quân Hán có đến năm sáu chục vạn. Quân của Hạng Vũ chỉ vào khoảng 10 vạn, lực lượng rất chênh lệch. Tuy nhiên Hàn Tín cầm quân Tề đánh đầu tiên cũng không thắng nổi, phải rút lui. Khổng tướng quân và Phí Tướng quân đem quân đến giúp. Quân Hán quá đông nên quân Sở không thắng được. Hàn Tín nhân lúc ấy lại tiến lên đánh quân Sở đại bại ở Cai Hạ phải rút vào thành.
Hạng vương đóng quân ở trong thành Cai Hạ, binh ít, lương hết. Quân Hán và quân chư hầu bổ vây mấy vòng. Đang đêm, Hạng vương thức dậy nghe quân Hán ở bốn mặt đều hát giọng Sở, Hạng vương kinh hoàng, nói: “Hán đã lấy được Sở rồi sao? Sao mà người Sở lại đông như thế?”
Hạng Vũ và Ngu Cơ 
Ảnh minh họa: Theo saimonthidan.com
Đêm đó Hạng vương uống rượu trong trướng cùng mỹ nhân Ngu Cơ. Hạng vương đau đớn cảm khái làm bài thơ, được đời sau gọi là bài “Cai Hạ ca”:
Lực bạt sơn hề, khí cái thế,
Thời bất lợi hề, Truy bất thệ
Truy bất thệ hề khả nại hà,
Ngu hề, Ngu hề nại nhược hà.
Dịch:
Sức dời núi, khí trùm trời,
Ô Truy chùn bước bởi thời không may!
Ngựa sao chùn bước thế này?
Ngu Cơ, biết tính sao đây hỡi nàng?
Hạng vương ca mấy lần, Ngu Cơ múa kiếm, hát hòa theo, lời ca rằng:
Hán binh dĩ lược địa,
Tứ diện Sở ca thanh.
Trượng phu ý khí tận,
Tiện thiếp hà liêu sinh.
Dịch:
Quân Hán lấy hết đất,
Khúc Sở vang bốn bề.
Trượng phu chí lớn cạn,
Tiện thiếp sống làm chi.
Rồi Ngu Cơ tự vẫn. Tương truyền nơi máu bà đổ xuống mọc lên một thứ cỏ hễ có rót rượu gần bên thì cỏ múa lả lướt như Ngu Cơ trong tiệc rượu của Hạng Vũ. Người ta gọi cỏ ấy là “Ngu mỹ nhân thảo”.
Hạng vương lên ngựa, tráng sĩ cưỡi ngựa ở dưới cờ chỉ còn hơn 800 người, đang đêm phá vỡ vòng vây xông ra phía nam, phi ngựa chạy. Đến tảng sáng, quân Hán mới biết, sai kỵ tướng là Quán Anh mang năm ngàn kỵ binh đuổi theo.
Hạng Vương vượt qua sông Hoài, quân kỵ theo kịp chỉ còn hơn trăm người. Hạng Vương đến Âm Lăng lạc đường, hỏi một cụ già làm ruộng. Cụ già nói dối, bảo ông đi qua bên trái. Hạng Vương rẽ qua bên trái, sa vào trong đồng lầy, cho nên quân Hán đuổi kịp. Hạng Vương lại đem quân đi về phương đông, đến Đông Thành, bấy giờ chỉ còn 28 kỵ binh. Kỵ binh Hán đuổi theo mấy ngàn.
Hạng Vương tự liệu chẳng thoát được, bèn trổ tài oai dũng, phá vòng vây, chém tướng, chặt cờ. Hạng Vương phi ngựa xuống, quân Hán đều giạt ra một bên, ông mặc sức tung hoành trong quân địch, đi lại như chốn không người, giết một viên tướng Hán, một viên đô úy cùng vài trăm binh lính. 28 kỵ binh thấy vậy đều vô cùng khâm phục.
Hạng Vương đi sang phía đông. Người ngựa chạy đến bờ sông Ô Giang thì cùng đường. Có người đình trưởng Ô Giang cắm thuyền đợi, bảo Hạng Vương: “Giang Đông tuy nhỏ, nhưng đất hàng ngàn dặm, dân vài mươi vạn, cũng đủ làm vương. Xin đại vương mau mau vượt sông. Nay chỉ một mình thần có thuyền, quân Hán đến không có cách gì vượt qua.”
Hạng Vương cười nói: “Trời hại ta, ta vượt qua sông làm gì! Vả chăng Tịch này cùng tám ngàn con em Giang Đông vượt Trường Giang đi về hướng tây, nay không còn lấy một người trở về! Dù cho các bậc cha anh ở Giang Đông thương ta, cho ta làm vương, ta cũng còn mặt mũi nào mà thấy họ nữa. Dù họ không nói, Tịch này há chẳng thẹn trong lòng sao?”
Ảnh: Theo soha.vn
Rồi ông bảo người đình trưởng: “Ta biết ông là bậc trưởng giả, ta cưỡi con ngựa này, năm năm nay đi đến đâu cũng vô địch, thường một ngày đi ngàn dặm, ta không nỡ giết, xin biếu ông.”
Quân Hán đến, Hạng Vương sai kỵ binh đều xuống ngựa đi bộ, cầm khí giới ngắn để tiếp chiến. Một mình Hạng Vũ giết mấy trăm quân, thân bị hơn 10 vết thương. Ông quay lại thấy kỵ binh tư mã của Hán là Lã Mã Đồng vốn là tướng cũ của mình, bèn bảo Đồng: “Ta nghe vua Hán mua đầu ta ngàn vàng, phong ấp vạn hộ. Ta làm ơn cho nhà ngươi đây.”
Nói rồi, Hạng Vương tự đâm cổ chết. Năm đó ông 31 tuổi, ở ngôi Tây Sở Bá vương được 5 năm (206 - 202 TCN).
Khúc “Thập diện mai phục”
Có gi chép bằng văn tự liên quan đến khúc “Thập diện mai phục” trong “Tứ chiếu Đường tập Thang tỳ bà truyện” của Vương Du Định đời Minh rằng, Thang Ưng Tăng (khoảng 1585-1652) được người đời gọi là “Thang tỳ bà đàn khúc tỳ bà Hán Sở”, họ Thang đàn hơn 110 bản mà hay nhất là khúc “Hoài Âm bình Sở” này.
“Giữa lúc đôi bên quyết chiến, tiếng sát long trời lở đất, ngói trên mái nhà dường như rung rinh; lại có tiếng vang, tiếng trống, tiếng cung kiếm, tiếng người ngựa gào thét; lâu lâu có nỗi oan khó tỏ bày là tiếng Sở ca thê lương mà hùng tráng, là tiếng Hạng Vương từ biệt Ngu Cơ; ở đầm lớn có tiếng quân kỵ đuổi theo; đến Ô Giang có tiếng Hạng Vương tự vẫn, tiếng gió ngựa giày đạp của quân kỵ tranh xác Hạng Vương, khiến người nghe hưng phấn rồi kinh hoàng, cuối cùng bật khóc mà bàng hoàng, sự cảm động lòng người của nó đến độ như vậy”.
Hạng Vũ tự vẫn bên bờ Ô Giang 
Ảnh: cultural-china.com
Có người đem giai điệu của đoạn đầu “Thập diện mai phục” so với khúc thứ năm lớp thứ bảy “Ca khúc cổ điển” ở biên giới phía Bắc của sắc tộc Duy Ngô Nhĩ, phát hiện âm điệu cốt lõi, dấu lặng và khí vị của hai cái hết sức giống nhau, nhân đó mà cho rằng “Thập diện mai phục” hấp thu được tinh hoa âm nhạc của sắc tộc thiểu số Tây Bắc. Thang Ưng Tăng đúng là đã từng đến chiến trường Tây Bắc như Gia cốc quan, Trương dịch, Tửu tuyền v.v… có đủ điều kiện để sáng lập “Thập diện mai phục”. Nhưng, Vương Du Định, người giao du thân mật và kết làm tri kỷ với Thang Ưng Tăng, trong “Thang tỳ bà truyện” lại không nói việc Thang sáng tác “Thập diện mai phục”, mà đem nó liệt vào loại “cổ khúc”.
Nhiều người cho rằng các cổ khúc tỳ bà đều phát sinh từ dân gian, rồi trải qua diễn xuất luyện tập của mấy đời nghệ nhân nên ngày càng chín chắn, hoặc đến cao độ thuần phục, là kết tinh của trí tuệ tập thể. “Thập diện mai phục” có thể cũng lại như vậy chăng?
Đại thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện Kiều cũng nhắc đến danh khúc này Khi Kiều đàn cho Kim Trọng nghe.
Khúc đâu Hán Sở chiến trường
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.

Thanh Phong
Mời các bạn hãy cùng thưởng thức danh khúc nổi tiếng này:
III. Bình sa lạc nhạn
“Bình sa lạc nhạn” là một khúc nhạc du dương trầm bổng, ẩn hiện như cánh nhạn lưng trời. Nó bao hàm trong mình cái phóng khoáng của trời đất, cũng phảng phất tiếng nhạn đập cánh trên không trung. Tuy vậy, khi được đàn lên thì khúc nhạc này còn ẩn chứa một nỗi buồn tiếc nuối, bởi vì nói đến “Bình sa lạc nhạn” thì không thể không nói đến câu chuyện của Vương Chiêu Quân.

Lạc nhạn Vương Chiêu Quân
Vương Chiêu Quân là một trong tứ đại mỹ nhân nổi tiếng của lịch sử Trung Hoa, được tuyển vào cung thời Hán Nguyên Đế. Lúc bấy giờ, hậu cung của vua rất đông, nên vua thường sai người họa hình là Mao Diên Thọ vẽ lại chân dung các cung tần mỹ nữ rồi xem hình để chọn người. Ai cũng lo đút lót cho Mao Diên Thọ để được vẽ đẹp hơn, riêng Vương Chiêu Quân là không có tiền nên y chỉ vẽ cho nàng một bức chân dung xấu xí. Chính vì thế dù có tài sắc nhưng Vương Chiêu Quân lại không được nhà vua đoái hoài.
Khoảng thời gian này cũng là lúc nội bộ Hung Nô chia rẽ nên đã bị nhà Hán liên minh với người Ô Hoàn đánh bại. Năm 51 TCN, Hô Hàn Tà đầu hàng và chịu triều cống nhà Hán. Trong một lần đích thân đưa cống phẩm đến Trường An, thiền vu Hô Hàn Tà cầu thân Hán Nguyên Đế, xin được gả công chúa. Hán Đế ngỏ ý tới các cung nữ rằng ai đồng ý lấy thiền vu thì sẽ được đối xử như công chúa. Tuy nhiên ai cũng lấy làm lo sợ khi phải sống ở nơi đất khách quê người, chỉ duy có mình Vương Chiêu Quân tình nguyện.

Khi thấy dung mạo của Vương Chiêu Quân, Hán Đế mới ngẩn người tiếc nuối hiểu ra rằng mình đã bị Mao Diên Thọ lừa dối và lợi dụng để kiếm tiền. Phẫn nộ, Hán Đế ra lệnh xử trảm Mao Diên Thọ. Tuy nhiên, vì đã lỡ nhận lời với thiền vu Hô Hàn Tà, nên Hán Đế cũng không còn cách nào khác là để Vương Chiêu Quân đi cùng thiền vu về Hung Nô.
Mặc dù nhận lời đi cùng thiền vu, nhưng thực chất Vương Chiêu Quân vẫn rất đau lòng khi phải đi tới tận vùng đất khách quê người, sống trong một dân tộc với nền văn hóa khác biệt. Trên đường ra Nhạn Môn Quan, đi tới một hoang mạc, Vương Chiêu Quân đã dừng chân để gảy một khúc đàn bi thiết. Tiếng đàn bi ai động lòng người khiến cho các thành viên trong đoàn không cầm được nước mắt. Tương truyền là, một con nhạn lạc bầy đã bị tiếng đàn u uất tác động mà rơi xuống mặt đất. Đó cũng chính là lý do vì sao khúc “Bình sa lạc nhạn” ngày nay lại có cái man mác nhớ nhung, da diết không muốn rời.
Vương Chiêu Quân ở với Hô Hàn Tà sinh được hai trai một gái thì thiền vu qua đời. Theo tục lệ của người Hung Nô, nàng phải sống với thiền vu tiếp theo là con trai lớn của Hô Hàn Tà, sinh thêm được hai người con gái nữa.
Khúc “Bình sa lạc nhạn”
“Bình sa lạc nhạn” có giai điệu du dương, trầm bổng, ẩn hiện như cánh nhạn lưng trời. Bản nhạc bắt đầu với những thanh âm ngắt quãng, không liền mạch, nốt trầm nốt bổng, tựa như nỗi sầu cố nhân năm nào đang nuốt thầm những giọt nước mắt thương nhớ quê hương. Tiếng đàn nghe như ai oán, xót thương rồi đều dần đều dần lên, tựa hồ xuất hiện một hơi thở, một cánh nhạn bay giữa lưng chừng không gian, chao liệng đầy tâm trạng.

Ảnh: Tinhhoa.net
Trong điệu khúc dập dìu, ta nghe thấy cả tiếng nhạn đập cánh, khi thì ngập ngừng, khi lại tĩnh lặng đến tuyệt đối, như một nét chấm phá tĩnh trong bức tranh với vạn vật đang chuyển động không ngừng. Bất chợt, sau cái chao nghiêng ngập ngừng, cánh nhạn quay đầu lại, ngắm cảnh, ngắm vật, và ngắm cố nhân trong nỗi tiếc nhớ khôn nguôi. Như thể sau cái ngoái đầu này, mọi vật sẽ xa rời tầm mắt vĩnh viễn, như cố nhân ngày nào suốt bao năm chẳng được một lần thăm lại quê cũ.
Ấy là cái đẹp luôn đi song hành với cái bi. Giây phút này còn ở đây, còn lưu luyến cảnh sắc này, biết ngày mai sẽ đi đâu về đâu giữa dòng đời phiêu bạt gian truân? Khúc nhạc có cái phóng khoáng rộng lớn của đất trời, có cái bao trùm của một tâm tư buồn nhớ. Bức tranh Vương Chiêu Quân xuất hiện rõ lên trước mắt…
Những cánh nhạn cứ bay liệng trên không trung, ngập ngừng, tần ngần, muốn dừng lại như chính tâm trạng của con người trong cái thời khắc ấy. Ưu tư, hoài cổ, xót xa và tiếc nuối - những mạch tâm trạng đan xen vào từng nốt nhạc, điệu phách. Và phải chăng, điều này đã làm nên một bản đàn bất hủ?
Mời bạn cùng thưởng thức nhạc khúc có nhắn gủi nỗi niềm của nàng Vương Chiêu Quân ngày nào với những thăng trầm của cuộc đời qua danh khúc Bình sa lạc nhạn:
Thanh Phong

IV. Mai hoa tam lộng
Nhạc khúc “Mai hoa tam lộng” thuộc loại “tá vật vịnh hoài”, mượn hình ảnh tinh khiết, sự thơm ngát và sức kiên cường chống chọi với cái lạnh của hoa mai để tán tụng những người có tiết tháo cao thượng. Chính vì vậy, “Mai hoa tam lộng” gắn liền với điển cố về sự khoáng đạt của người xưa.

Địch thượng tam lộng
Theo sử sách ghi lại thì tác giả của khúc “Mai hoa tam lộng” là Hoàn Y, tự Thúc Hạ, tên lúc nhỏ là Tử Dã. Ông sinh ra vào thời Đông Tấn, là một nhà quân sự, một danh sỹ, một nhà âm nhạc tài hoa. Tương truyền rằng khi Hoàn Y đi ngang qua bến Thanh Khê thì có một vị khách trên thuyền nhận ra ông, bèn trầm trồ rằng: “Đây là Hoàn Dã Vương”. Tình cờ, trong thuyền có danh sĩ Vương Huy Chi (con của Vương Hi Chi), vốn là một thư pháp gia thời bấy giờ, đang trên đường về kinh. Vương Huy Chi bèn truyền lời rằng: “Nghe danh ngài giỏi thổi địch, xin vì ta mà tấu một bản”.

Khi ấy Hoàn Y là quý tộc, vốn đã vinh hiển, nhưng không hề phật ý, mà đứng trên bờ thổi một bản địch khúc ba điệu. Tiếng thổi địch du dương vô cùng, tương truyền chính là khúc “Mai hoa tam lộng”. Thổi xong, Hoàn Y lập tức lên xe mà đi. Song phương chủ khách không nói với nhau một lời. Đúng là khoáng đạt rộng rãi, quang minh không bộ dạng, cũng tỏ rõ cái phong thái của hoa mai ngạo nghễ trong sương tuyết. Đây chính là điển cố “Địch thượng tam lộng”.
Liên quan tới điển cố này, còn một câu chuyện khác về Nhân Hồng Hạo vào thời Nam Tống. Ông vốn là một người được sai đi sứ nước Kim nhưng rốt cuộc bị bắt lại mất hơn mười năm. Trong thời gian đó mặc dù liên tục bị kẻ địch uy hiếp dụ dỗ, nhưng Nhân Hồng Hạo vẫn bảo trì phong thái cao thượng. Rốt cục, khi nhận được tin mình được thả về Nam Tống, ông đã không kìm được tâm tình mà diễn tấu một khúc “Mai hoa tam lộng”, đem lòng kiên trinh bất khuất của mình đến sánh với hoa mai ngạo nghễ sương tuyết, cũng là lấy bản nhạc này để thể hiện tâm tình hoài niệm của mình với triều đình Nam Tống.
Khúc “Mai hoa tam lộng”
Trong “Thần kì bí phổ” của Chu Quyền đời nhà Minh, có chép bản đàn (cầm khúc) “Mai hoa tam lộng”. Ông ta cho rằng đây vốn là bản địch do Hoàn Y sáng tác, người đời sau đã cải biên, rồi thay bằng đàn. Nhạc khúc có lúc du dương, thanh khiết gợi lên sự cao quý và trạng thái tĩnh tại, an tường của hoa mai; cũng có lúc gấp gáp biểu hiện sự kiên cường và ngạo nghễ của hoa mai trước sương tuyết.

Hoa mai là biểu tượng quan trọng của văn hóa truyền thống Trung Hoa. Là một “người bạn của mùa đông”, hoa mai biểu thị sinh động nhất giá trị của sự phóng khoáng ngạo nghễ xem thường khó khăn. Trên suốt quãng đường đời, khó khăn rồi cũng qua đi theo thời gian, cũng như hoa mai vẫn nở trong sương tuyết.
Hương thơm của hoa mai “sinh ra từ sự khắc nghiệt của cái lạnh”. Chính vì thế, hoa mai gợi lên một cái nhìn sâu sắc về nhân sinh: tâm hồn được tôi luyện trong khó khăn của cuộc sống, từ đó đạt được sức mạnh nội tâm và lòng dũng cảm kiên cường.
Thanh Phong
Mời các bạn thưởng thức khúc “Mai hoa tam lộng”:
V. Quảng Lăng tán

“Quảng Lăng tán” là một cầm khúc nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa. Ghi chép về “Quảng Lăng tán” trong tư liệu lịch sử không ít, nhưng lại mâu thuẫn với nhau, khiến cho khúc nhạc này càng thêm phần bí ẩn. Trong các điển cố về “Quảng Lăng tán” thì câu chuyện tiếng đàn gắn liền với khí tiết của Kê Khang thường được người đời sau ngưỡng mộ đem lòng nhắc tới.

Thời Ngụy Tấn, có một nhạc gia nổi tiếng trong nhóm “Trúc Lâm thất hiền” là Kê Khang. Trong Cầm phú của ông có những câu như: “Chúng khí chi trung, cầm đức tối ưu” (Trong các loại nhạc khí, thì đức của đàn cầm là nhất), “Hàm thiên địa chi thuần hòa hề, hấp nhật nguyệt chi hưu quang” (Ngậm khí thuần hòa của trời đất, hấp thụ vẻ đẹp của mặt trăng mặt trời), v.v... Điều đó hàm ý rằng Kê Khang rất yêu cầm nghệ.
Lúc bấy giờ, họ Tư Mã đang tiếm quyền Tào Ngụy, Kê Khang tài giỏi nhưng tính tình cương quyết. Ông luôn đứng về phía nhà Ngụy, một mực tỏ thái độ không hợp tác với họ Tư Mã.
Năm 262 sau Công Nguyên, vì không chịu hợp tác với chính quyền họ Tư Mã, Kê Khang bị Tư Mã Chiêu mượn cớ sát hại. Theo Tấn thư ghi, lúc Kê Khang ở trong ngục, có 3.000 thái học sinh yêu cầu miễn xá cho ông và nguyện ý bái ông làm thầy, nhưng không được chấp nhận.
Khi Kê Khang lâm hình, thấy còn chút ít thời gian bèn xin cho mang đến một cây cổ cầm, rồi ông ung dung diễn tấu lần cuối khúc nhạc tâm huyết nhất đời mình là “Quảng Lăng tán”. Ðàn xong ông nói: “Có kẻ xin học bài này, ta không dạy, thế là từ đây không ai còn đàn bài Quảng Lăng này nữa”.
Đại thi hào Nguyễn Du cũng có nhắc đến khúc “Quảng Lăng tán” trong “Truyện Kiều” như sau:
Kê Khang, này khúc Quảng Lăng
Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân
Nguyễn Du cũng than rằng sau này, không có ai còn đàn được khúc “Quảng Lăng tán” trọn vẹn như Kê Khang nữa:
Thán tức Quảng Lăng huyền tuyệt hậu
Tỳ bà tân phổ bán Hồ Khương
Tạm dịch là:
Than thở cho tiếng đàn Quảng Lăng nay đã thất truyền
Bài nhạc mới cho đàn tỳ bà, một nửa là theo điệu Hồ Khương
Sau Kê Khang, có thể khúc Quảng Lăng này vẫn lưu truyền nhiều dị bản nhưng không còn là khúc nhạc hoàn chỉnh. Vì thế người đời sau phải tự bổ túc nó, khiến nó không còn toàn vẹn nữa.
Ghi chép sớm nhất về “Quảng Lăng tán” có lẽ là từ thời Đông Hán. Lúc bấy giờ, Thái Ung, cha của nàng Thái Văn Cơ, là người giỏi về âm luật, đã viết cuốn “Cầm tháo”. Cuốn sách này miêu tả việc thích khách Nhiếp Chính khổ công tập đàn 10 năm để có cơ hội đâm chết Hàn vương báo thù cho cha. Trong đó, “Quảng Lăng tán” chính là khúc nhạc mà Nhiếp Chính đàn trước khi hành thích Hàn Ai hầu.

Trong “Sử ký” của Tư Mã Thiên, Nhiếp Chính đóng một vai trò khác, là một trong năm thích khách được Tư Mã Thiên đưa vào chính sử, đặt ngang Tào Mạt, Kinh Kha. Theo đó, sau khi chịu tang mẹ ba năm, Nhiếp Chính một mình một kiếm xông vào hành thích tướng quốc nước Hàn là Hiệp Lũy ngay giữa đám tùy tùng, cận vệ. Nhiếp Chính làm vậy để báo đáp lại sự tôn kính mà Nghiêm Trọng Tử dành cho ông và mẹ, khi ông sa cơ, phải làm nghề hàng thịt tại nước Tề.
Trong các tác phẩm kiếm hiệp cũng tương truyền rất nhiều câu chuyện về nhạc khúc này. Phim Tiếu Ngạo Giang Hồ có đoạn Lệnh Hồ Xung đi cùng Hướng Vấn Thiên đến cứu Nhậm Ngã Hành và đánh bại Giang Nam tứ hữu. Quyển nhạc phổ cầm trong tay chính là “Quảng Lăng tán” mà khi đó được gọi là đệ nhất nhạc phổ. Còn hai cao nhân sáng tác ra khúc Tiếu Ngạo Giang Hồ nói rằng, nhạc khúc hay hơn cả “Quảng Lăng tán” thì họ chưa tìm được…
Thanh Phong
Mời độc giả cùng thưởng thức khúc nhạc nổi tiếng này:
VI. Tịch Dương Tiêu Cổ


 Ảnh: Theo Guilin, Encyclopedia
“Tịch Dương Tiêu Cổ” là một nhạc khúc rất nổi tiếng miêu tả cảnh đẹp lúc hoàng hôn trên dòng sông. Khúc nhạc này luôn nhận được sự yêu thích của người ta, vì nó mang đậm cả tình thơ lẫn ý họa. Vốn là khúc được tấu bằng cổ cầm hoặc tỳ bà, “Tịch Dương Tiêu Cổ” sau này được cải biên thành những bản hợp tấu, giao hưởng của nhiều loại nhạc cụ dân gian. Nó thậm chí còn được thêm lời để đưa vào phim ảnh. Có thể nói, “Tịch Dương Tiêu Cổ” là khúc nhạc được nhiều người biết đến nhất trong “Trung Hoa thập đại danh khúc”.
Một điều khá đặc biệt là, khúc “Tịch Dương Tiêu Cổ” vốn miêu tả cảnh đẹp lúc hoàng hôn lại khởi nguồn từ thi phẩm “Xuân giang hoa nguyệt dạ” (Đêm hoa trăng trên sông xuân) của Trương Nhược Hư, chính vì thế, khúc “Tịch Dương Tiêu Cổ” cũng còn có tên khác là “Xuân giang hoa nguyệt dạ”, mặc dù đứng về hàm nghĩa thì hai ý cảnh có đôi nét khác nhau. Theo Đường Thi tuyển dịch (tập 2), thì “Xuân giang hoa nguyệt dạ” là một bài thơ tuyệt diệu với ngôn ngữ giản dị mà tươi tắn, thanh tao; âm điệu bàng hoàng, triền miên; hình ảnh sinh động, cảm xúc chứa chan.

Ảnh: Theo Pinterest
Nói về tác giả của “Xuân giang hoa nguyệt dạ”, Trương Nhược Hư (sinh khoảng 660 - mất khoảng 720) là người ở Dương Châu, nay là huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô. Ông là một thi nhân thời nhà Đường. Bản tính ông vốn không thích danh lợi, thường ngao du khắp thiên hạ để tìm bạn thơ. Ông cùng với Hạ Tri Chương, Trương Húc, Bao Dung được người đương thời gọi là “Ngô trung tứ sĩ” (Bốn danh sĩ đất Ngô). Sách “Từ điển văn học” (bộ mới) nhận xét về ông rằng: “Phong cách thơ Trương Nhược Hư trong sáng hoa lệ, giàu chất trữ tình, có vị trí quan trọng trong sự chuyển biến thơ ca từ thời sơ Đường đến thịnh Đường”. Tuy nhiên, sáng tác của Trương Nhược Hư thất lạc gần hết, trong “Toàn Đường thi” chỉ ghi lại được có hai bài thơ của ông là “Đại đáp khuê mộng hoàn” (Đáp thay Khuê Mộng Hoàn) và “Xuân giang hoa nguyệt dạ”. Tuy nhiên, chỉ bấy nhiêu thôi cũng đã đủ để khiến người ta say mê.
Bài “Xuân giang hoa nguyệt dạ” có ngôn ngữ trong trẻo lưu loát, âm điệu uyển chuyển trở đi trở lại. Cảnh thơ rộng lớn, sâu thẳm, mà tình nồng đượm, ý xa xôi, dễ đưa con người vào thế giới vắng lặng, xa xăm; và dễ gợi lên nỗi buồn về cuộc đời mong manh cùng thế sự vô thường.
Bài thơ “Xuân giang hoa nguyệt dạ”
Tác giả:
Trương Nhược Hư
Hán Việt:
Xuân giang triều thủy liên hải bình,
Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.
Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý,
Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh.
Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện,
Nguyệt chiếu hoa lâm giai như tiển.
Không lý lưu sương bất giác phi,
Đính thượng bạch sa khan bất kiến.
Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,
Hạo hạo không trung cô nguyệt luân.
Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?
Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân?
Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,
Giang nguyệt niên niên vọng tương tư.
Bất tri giang nguyệt chiếu hà nhân,
Đãn kiến trường giang tống lưu thủy.
Bạch vân nhất phiến khứ du du,
Thanh phong giang thượng bất thăng sầu.
Thùy gia kim dạ biên chu tử,
Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu?
Khả liên lâu thượng nguyệt bồi hồi,
Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.
Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ,
Đảo y châm thượng phất hoàn lai.
Thử thời tương vọng bất tương văn,
Nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.
Hồng nhạn trường phi quang bất độ,
Ngư long tiềm dược thủy thành văn.
Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa,
Khả liên xuân bán bất hoàn gia.
Giang thủy lưu xuân khứ dục tận,
Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.
Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,
Kiệt Thạch, Tiêu Tương vô hạn lộ.
Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy,
Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.
Diễn nghĩa:
Thủy triều lên, mặt sông xuân ngang mặt bể,
Trên bể, trăng sáng cùng lên với thủy triều.
Lấp loáng theo sóng trôi muôn ngàn dặm,
Có nơi nào trên sông xuân là không sáng trăng?
Dòng sông lượn vòng khu cồn hương thơm,
Trăng chiếu rừng hoa ngời như hạt tuyết.
Trên sông sương trôi tưởng như không bay
Bãi sông cát trắng, nhìn chẳng nhận ra
Sông và trời, một màu không mảy bụi,
Ngời sáng trong không, vầng trăng trơ trọi
Người bên sông, ai kẻ đầu tiên thấy trăng?
Trăng trên sông, năm nào đầu tiên rọi xuống người?
Người sinh đời đời không bao giờ ngừng
Trăng trên sông năm năm ngắm vẵn y nguyên
Chẳng biết trăng trên sông chiếu sáng những ai
Chỉ thấy sông dài đưa dòng nước chảy
Mây trắng một dải, vẩn vơ bay
Cây phong biếc xanh trên bờ buồn khôn xiết
Người nhà ai đêm nay dong con thuyền nhỏ
Người nơi nao trên lầu trăng sáng đương tương tư?
Đáng thương cho trên lầu vầng trăng bồi hồi
Phải chiếu sáng đài gương người biệt ly
Rèm nhà ngọc cuốn lên rồi, trăng vẫn không đi
Phiến đá đập áo lau đi rồi, trăng vẫn cứ lại
Giờ đây cùng ngắm trăng mà không cùng nghe tiếng nhau
Nguyện theo ánh đẹp vầng trăng trôi tới chiếu sáng bên người
Chim hồng nhạn bay dài không thể mang trăng đi
Cá rồng lặn nhảy, chỉ khiến làn nước gợn sóng
Đêm qua thanh vắng, mơ thấy hoa rơi,
Đáng thương cho người đã nửa mùa xuân chưa về nhà
Nước sông trôi xuôi, xuân đi sắp hết
Trăng lặn trên bãi sông, trăng xế về tây
Trăng xế chìm dần lẩn trong sương mù mặt bể
Núi Kiệt Thạch, sông Tiêu Tương đường thẳm không cùng
Chẳng biết nhân ánh trăng đã mấy người về
Trăng lặn, rung rinh mối tình, những cây đầy sông.
Dịch thơ (Bản dịch của Trần Trọng Kim)
Sông liền biển, nước xuân đầy dẫy
Trăng mọc cùng triều dậy trên khơi
Trăng theo muôn dặm nước trôi
Chỗ nào có nước mà trời không trăng?
Dòng sông lượn quanh rừng thơm ngát
Trăng soi hoa trắng toát một màu
Trên không nào thấy sương đâu
Trắng phau bãi cát ngó hầu như không
Không mảy bụi trời sông một sắc
Một vầng trăng vằng vặc giữa trời
Trăng sông thấy trước là ai
Đầu tiên trăng mới soi người năm nao
Người sinh hoá kiếp nào cùng tận
Năm lại năm trăng vẫn thế hoài
Trăng sông nào biết soi ai
Dưới sông chỉ thấy nước trôi giữa dòng
Mảnh mây bạc mông lông đi mãi
Rừng phong xanh trên bãi gợi sầu
Thuyền ai lơ lững đêm thâu
Trong lầu minh nguyệt chỗ nào tương tư
Trên lầu nọ trăng như có ý
Vào đài trang trêu kẻ sinh ly
Trong rèm cuốn cũng không di
Trên chày đập áo phủi thì vẫn nguyên
Mong nhau mãi mà tin bặt mãi
Muốn theo trăng đi tới cạnh người
Nhạn bay trăng cứ đứng hoài
Cá rồng nổi lặng nước trôi thấy nào
Đêm trước thấy chiêm bao hoa rụng
Thương quê người chiếc bóng nửa xuân
Nước sông trôi hết xuân dần
Trăng sông cũng lặn xế lần sang tây
Trăng xế thấp chìm ngay xuống bể
Cách núi sông xa kể dường bao
Cõi trăng về ấy người nào
Cây sông trăng lặn nao nao mối tình
Quay lại với “Tịch Dương Tiêu Cổ”, khúc nhạc này gồm có 10 đoạn theo thứ tự và tạm diễn nghĩa là:
1. Tịch dương tiêu cổ (Tiếng tiêu trống trong buổi chiều tà)
2. Hoa nhị tán hồi phong (Nhụy hoa đung đưa trong gió)
3. Quan sơn lâm khước nguyệt (Mặt trăng đằng sau dãy núi cao)
4. Lâm thủy tà dương (Mặt trời lặn dần xuống nước)
5. Phong địch thu thanh (Âm thanh của mùa thu, cùng hai loài cây phong và địch)
6. Vu hạp thiên tầm (Nơi sông núi giao nhau hiếm có)
7. Tiêu thanh hồng thụ lý (Tiếng tiêu sáo vang lên giữa những làn cây)
8. Lâm giang vãn thiếu (Nhìn ra dòng sông buổi hoàng hôn)
9. Ngư chu xướng vãn (Tiếng hát vọng ra từ thuyền đánh cá vào buổi chiều tà)
10. Tịch dương ảnh lý nhất quy chu (Bóng tịch dương trở về trên thuyền)
Với giai điệu mang đạm những đặc điểm của đàn dây khu vực Giang Nam, uyển chuyển đẹp đẻ, tiết tấu đa dạng nhịp nhàng, “Tịch Dương Tiêu Cổ” đã miêu tả một cách hình tượng vẻ đẹp mê hồn của cảnh sông nước lúc hoàng hôn, ca ngợi phong cảnh Giang Nam tuyệt đẹp. Toàn bộ khúc nhạc tựa như một bức tranh thủy mặc với những đường nét tinh xảo, màu sắc hài hòa, khiến người xem không thể rời mắt.
Nguồn thơ lấy từ Thivien.net
Quang Minh
Dưới đây, xin mời độc giả thưởng thức khúc “Tịch Dương 
Tiêu Cổ” hay còn gọi là “Xuân giang hoa nguyệt dạ”:
VII. Ngư tiều vấn đáp

Ảnh qua citstour.net
“Ngư tiều vấn đáp” là một danh khúc cổ cầm nổi tiếng của Trung Hoa. Tra cứu di phổ từ xưa thì có chỉ quyết (phương pháp ngón đàn) mà không có âm văn (lời ca), khảo cứu cầm sử thì có văn âm mà không có chỉ quyết. Người đời sau phối văn âm vào phổ để cho người đàn, người nghe biết được cái phong vị, vận điệu thanh cao ở trong khúc. Thích ngư tiều, vui với giang sơn, làm bạn với cá, tôm, hươu nai, đối với trăng thanh gió mát, cả ta và người cùng quên. Sự vi diệu ấy những kẻ tầm thường chết vì lợi lộc sao có thể biết được?
Trong “Cầm học sơ luật” có bàn về “Ngư tiều vấn đáp” như sau: “Ý nhạc thâm trường, tinh thần tiêu sái, mà lại có sự hùng vĩ của núi non, mênh mông của sông nước, tiếng chan chát của búa, tiếng sóng chèo thuyền, ẩn hiện dưới ngón tay.” Do sự chuẩn xác, sinh động của hình tượng âm nhạc, nên gần mấy trăm năm qua “Ngư tiều vấn đáp” vẫn được lưu truyền rộng rãi trong giới nghệ sĩ cổ cầm. Sau này Dương Biểu Chính đã hiệu đính nhạc phổ, phối thêm ca từ. Vào thời nhà Thanh các cầm gia lại lược bớt đi ca từ, đem giai điệu thay đổi đi một chút, trở thành khúc nhạc khí độc lập. Nhạc khúc này ưu mỹ thanh thoát, dựa vào giai điệu theo hình thức đối đáp, miêu tả cuộc đối thoại giữa ngư phu và tiều phu.

Ngư tiều vấn đáp 
Ảnh qua sohu.com
Nhạc khúc này khi lưu truyền qua các thời đại khác nhau có tới hơn 30 phiên bản, có bản còn có thêm cả ca từ. Bản nhạc tồn tại hiện nay được biết đến nhiều nhất từ cuốn “Hạnh Trang Thái Âm tục phổ” thời nhà Minh do Tiêu Loan biên soạn, còn bản phổ thì có nhiều loại.
Ngư tiều
Đại biểu cho “ngư” nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Hoa là Nghiêm Tử Lăng thời Đông Hán. Vào thời còn trẻ ông là bạn học của Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú. Lưu Tú sau khi lên làm hoàng đế thì Nghiêm Tử Lăng đổi tên họ giấu mình ở ẩn. Quang Vũ Đế nhớ bạn là người hiền tài, nên cho người tìm khắp nơi. Sau một người nước Tề dâng thư báo rằng, có người bận áo lông dê câu cá, đoán chắc là Nghiêm Quang. Quang Vũ Đế cho xe đến đón, Nghiêm Tử Lăng ba lần từ chối, lần thứ tư Nghiêm Tử Lăng mới chịu về yết kiến. Hai người thân thiết nằm cùng giường nói chuyện, nhưng khi Quang Vũ Đế mời ra làm quan thì Nghiêm Tử Lăng vẫn không chịu mà từ tạ trở về cày ruộng ở núi Phú Xuân.

Ảnh qua kknews.cc
Đại biểu cho “tiều” lại là đại thần Chu Mãi Thần thời Hán Vũ Đế. Thuở hàn vi, ông vừa gánh củi vừa học. Vợ gánh củi theo sau lấy làm xấu hổ, xin bỏ đi lấy chồng khác. Ông cười bảo: “Ta đến 50 tuổi mới giàu sang được, nay đã hơn 40 tuổi rồi. Nàng chịu khổ đã lâu, nay hãy gắng đợi ta giàu sang, ta sẽ báo đáp công lao cho.” Vợ giận dữ nói: “Như cung cách của ông thì chỉ có chết đói ở cống rãnh mà thôi, sao lại dám mong giàu sang được.” Mãi Thần phải để vợ đi lấy chồng khác. Từ đó, ông một thân một mình đi gánh củi, vừa đi vừa học như trước. Về sau, thời Hán Vũ Đế, ông được người làng là Nghiêm Trợ tiến cử, nhà vua cho vào yết kiến, nói chuyện nghĩa lý về kinh Xuân Thu và Sở Từ. Vua rất hài lòng, mời ông giữ chức Trung Đại Phu, rồi sau giữ chức Thái thú đất Cối Kê. Khi đến Cối Kê nhậm chức, xe ngựa hơn trăm cỗ. Vào đất Ngô, ông thấy người vợ cũ cùng chồng đang gánh đất giữa đường liền cho dừng xe, bảo mời hai người lên xe sau đưa về dinh Thái Thú, cho ở một nơi và cấp lương ăn tử tế.
Dù là Nghiêm Tử Lăng có thể nằm cùng giường tâm tình với Hoàng Đế mà vẫn ẩn dật không ra làm quan; hay Chu Mãi Thần vừa gánh củi vừa học tập bền bỉ hàng chục năm ròng; họ đều cho thấy một bản sắc của bậc quân tử không vướng bận, không tham lam, vô tâm mà tự bao dung lấy cả trời đất.
Giai điệu
Giai điệu khởi đầu của “Ngư tiều vấn đáp” nhẹ nhàng khoan thai, biểu hiện ra một loại phong cách phiêu dật thanh thoát, sự hô ứng giữa câu trên câu dưới tạo thành niềm vui thú đối đáp giữa ngư tiều. Sự biến hóa phát triển của chủ đề âm điệu, lại không ngừng thêm vào những âm điệu mới, thêm vào đó là việc sử dụng kỹ thuật vê, cho đến đoạn thứ 7 thì hình thành cao trào. Đã khắc họa nên ẩn sĩ hào phóng không ràng buộc, tâm trạng tiêu sái. Trong đó vận dụng kỹ thuật vẩy và tam đàn tạo nên âm hưởng mạnh mẽ, đối ứng với tiết tấu cắt đoạn, khiến người ta cảm nhận được sự hùng vĩ của cao sơn, tiếng búa bổ thùng thùng của tiều phu. Chủ đề âm điệu được thể hiện ở cuối đoạn 1 thông qua sự dịch chuyển biến hóa lặp đi lặp lại xuyên suốt toàn khúc nhạc, đã lưu lại cho người nghe một ấn tượng sâu sắc…

Ảnh qua 7sart.com
“Ngư tiều vấn đáp” có một sắc thái ẩn dật nhất định, có thể dẫn khởi sự hướng vọng của người ta đối với cuộc sống ngư tiều, nhưng ẩn ý ở sâu bên trong khúc nhạc này, hẳn chính là “xưa nay bao nhiêu việc phó mặc nói cười suông” và “những được mất thị phi trong nghìn năm, cũng chỉ phó vào trong một lời của ngư tiều mà thôi”. Chủ đề lớn về hưng vong được mất trong nghìn năm, đã bị một đoạn đối thoại của lão ngư, lão tiều mổ xẻ đến không còn tung tích, đó mới là ý nghĩa chính của khúc nhạc.
Chiếu theo khúc ấy, những tưởng là tác phẩm của người quân tử ẩn cư như tiềm long vậy. Bởi thấy non xanh nước biếc, muôn đời luôn tươi mới, những bậc biết được cái thú của sơn thủy ở trong ấy, duy chỉ có ngư với tiều. Coi thường mũ miện quyền chức, công danh, vạch dấu vết nơi thâm sơn cùng cốc, vùi thanh âm nơi sóng lớn cuồn cuộn. Thiên tử không thể xuống làm thần, chư hầu không thể làm bạn, mà dựa vào kết nghĩa kim lan, bầu bạn nói chuyện, đoán xét thịnh trị loạn lạc, bàn luận hưng vong, được mất thị phi hàng nghìn năm.
Ca từ
Ca từ của “Ngư tiều vấn đáp” được Dương Biểu Chính phối thêm, ứng với 12 đoạn:
Đoạn thứ nhất
Bao tranh đua nhọc nhằn. Cõi đời chỉ toàn là hôi tanh của bụi bùn. Ai là hào kiệt, ai kẻ hiu hiu, ai là đồng thanh, hay là đồng bào, chỉ là tiều và ngư. Ngư và tiều. Ngộ nhập tiên giới, xuất khỏi cõi phàm.
Đoạn thứ hai
Ngư ngư ngư. Dựa mạn thuyền. Chỉnh lại dây câu. Trú nơi núi xanh. Lại ở bên dòng suối. Cưỡi chiếc thuyền con lui tới giang hồ. Nhạc tiếu ngạo mà cao quý. Tiều tiều tiều. Tay cầm chiếc búa cứng, lưng đeo dải tơ trắng. Ở dưới cây tùng với mây trắng. Thích nhất mây trắng với cây tùng. Đối lại lời của ngư ông. Thật là danh lợi đều không vướng bận.
Đoạn thứ ba
Ngư nói rằng. Trường Giang hạo đãng. Cỏ trắng cỏ hồng. Chỉ thấy hai bờ sắc thu. Đan xen hoa rơi rụng. Bằng hữu như cò vịt. Bạn bè như cá tôm. Hồng trần không nhiễm. Sinh nhai nơi giang nam hồ bắc. Tiếng chèo bập bẹ. Chìm nổi trong ráng khói.
Đoạn thứ tư
Tiều đáp rằng. Uống nước suối nghỉ trên đá ở trong núi. Giang sơn này không đổi với tam công. Chỉ thấy đường núi gập ghềnh cong quêu có đường thông. Dã khách cũng là người trong núi. Ngõ trúc cũng có dáng vẻ cây tùng. Hát lên khúc ca thái bình. Không biết Nam Bắc với Tây Đông. Ở trong núi không nhớ ngày tháng. Rét đến thì biết là đông.

Ảnh qua Pinterest
Đoạn thứ năm
Ngư nói rằng. Lúc bắt được cá thì mua rượu. Cuối ngày thì cũng sướng vui. Dòng nước nông. Xướng lên khúc không lời. Cứ mặc ta nói lời buột miệng. Thổi khúc nhạc sáo không lời. Âm vận thong dong tự tại. Lui về nhàn nhã. Thị phi không quản. Không thẹn cũng không lo.
Đoạn thứ sáu
Tiều đáp rằng. Xa xa mây vờn đỉnh núi. Nhàn ngắm ván cờ kết thúc cành cây mục núi cao chót vót. Thật là khoái lạc. Tự mở tấm lòng hoài bão.
Đoạn thứ bảy
Ngư ngư ngư. Dựa mạn thuyền chỉnh lại dây câu. Trú nơi núi xanh. Lại ở bên dòng suối. Cưỡi chiếc thuyền con lui tới giang hồ. Nhạc tiếu ngạo mà cao quý. Tiều tiều tiều. Tay cầm chiếc búa cứng, lưng đeo dải tơ trắng. Ở dưới cây tùng với mây trắng. Thích nhất mây trắng với cây tùng. Đối lại lời của ngư ông. Thật là danh lợi đều không vướng bận.
Đoạn thứ tám
Ngư nói rằng, ngày này năm ngoái ở Giang Đầu, hôm nay cửa sông Tương hay Ba Khâu. Nón trúc áo tơi. Cạnh bãi cát xanh chỗ nước nông bãi sông Đinh. Bãi sông Đinh. Dây câu thả nhanh lâu thu về. Cầu được bình ổn. Báo táp chưa khởi. Đã sốt sắng mau chóng nghỉ ngơi.

Ảnh qua kknews.cc
Đoạn thứ chín
Tiều đáp rằng. Một vành mũ đôi vai gánh. Nhanh chóng thu gom. Bất kể nó là lá non hay còn cành nhỏ. Đổi gạo hay đổi rượu. Về sum họp với vợ con. Sống vậy là sướng. Qua mùa xuân mùa thu. Cảm thán đời người. Đời người. Thời gian có thể có được bao nhiêu. Tuế nguyệt như nước chảy. Tuế nguyệt như nước chảy. Ống sáo gài nơi tóc mai. Dù vàng kim đầy phòng vẫn khó lưu lại.
Đoạn thứ mười
Ngư nói rằng. Không cầu phú quý vinh hoa. Mặc nó treo ở dây thao tím. Mang tấm điêu vàng. Đông đúc náo nhiệt chẳng lọt tai. Chốn nổi tiếng trong tâm nào có. Mặc y phục đơn sơ. Bằng lòng với bữa cơm đạm bạc. Mặt trời vắt ngang mãi cho tới chiều tà. Cầm cần câu, mọi lúc nắm trong tay.
Đoạn thứ mười một
Tiều nói rằng. Nhà tranh cỏ bồng, còn hơn nhà cao cửa rộng của phú ông. Tùng trúc tứ thời xanh. Hoa nở đỏ thắm cũng nhiều loại. Núi sâu thường hay thấy hươu. Chùa xa mà không nghe tiếng chuông. Ngắm thác suối treo ở vách núi. Leo núi cao chót vót. Nhìn về đông nước biển mênh mông. Cười một tiếng trời đất bên ngoài. Thân lại ở trong mây ngũ sắc.
Đoạn thứ mười hai
Hôm nay nói chuyện ngư tiều. Ngày mai còn mong cầu chi. Trà thơm rượu ngon, trăng thanh gió mát. Muôn vạn đời sau. Bầu trời thăm thẳm. Nước xa núi cao. Chỉ có thiên địa trường cửu.
Cao Sơn
Xin mời độc giả cùng thưởng thức khúc “Ngư tiều vấn đáp”:
VIII. Hồ Già thập bát phách

Thái Văn Cơ. 
Tranh qua baike.baidu.com
Hồ Già thập bát phách (胡笳十八拍 - Mười tám điệu phách của kèn Hồ Già) là một thiên trong kiệt tác Bi phẫn thi (悲憤詩) của nữ sĩ Thái Văn Cơ thời Kiến An. Bi phẫn thi bao gồm một bài theo thể ngũ ngôn cổ phong, một bài theo thể “Tao”, và thiên Hồ già thập bát phách. Đây là tác phẩm nổi tiếng với tâm trạng bi thảm triền miên, khiến người xem không khỏi rơi lệ. Nguyên nhân Thái Văn Cơ sáng tác Hồ Già thập bát phách cũng giống như nguyên nhân Vương Chiêu Quân gảy nên khúc Bình sa lạc nhạn vậy, cả hai người phụ nữ tài sắc này đều trải qua số phận bi thảm, phải sống nơi đất khách quê người. 
Thái Văn Cơ hay Thái Diễm (蔡琰) là con của Thái Ung, một nhà văn, nhà sử học làm quan cuối thời Đông Hán. Bên cạnh đó, Thái Ung còn là người thông thạo âm luật. Tương truyền ông đã nói với một người chụm củi, rằng: “Tôi nghe tiếng củi nổ, biết là củi tốt, chớ nên chụm”. Ngay sau đó, ông xin khúc củi cháy dở đem về, làm thành một cây đàn, tiếng rất trong.
Nhờ có người cha như vậy, nên từ khi tám tuổi, Thái Văn Cơ đã giỏi đàn. Năm mười sáu tuổi, Thái Văn Cơ lấy chồng là Vệ Trọng Đạo (衛仲道), một danh sĩ khá nổi danh, thuộc một gia tộc lớn ở Hà Đông. Nhưng chẳng bao lâu thì chồng bị bệnh chết. Nhà chồng cho là nàng khắc mệnh, lại chưa có con, nên cho về nhà mẹ đẻ. Sau đó trong loạn lạc thời Hán mạt, nàng bị quân Đổng Trác bắt đi rồi đi lưu đày ở đất Hung Nô (sử Trung Quốc thường gọi là rợ Hồ), kết hôn với Tả Hiền Vương, sống ở đó mười hai năm và sinh được hai con. Sau nhờ Tào Tháo, vốn là bạn thân của Thái Ung, thương xót nàng nên cho sứ giả đem vàng ngọc tới chuộc về. Nhưng hai con nàng là cốt nhục người Hồ nên bị giữ lại.

Cảnh Thái Văn Cơ bị quân Đổng Trác bắt. 
Tranh qua metmuseum.org
Hồ Già thập bát phách kể lại toàn bộ quá trình Thái Văn Cơ nhục nhã khi bị bắt, bị đi đày, cho đến nỗi cô đơn nơi đất khách, rồi niềm vui hồi hương xen lẫn với nỗi đau chia lìa cốt nhục. Hồ Già chính là cây kèn của người Hồ, về Hán rồi lại dùng kèn Hồ, ấy là bởi vì nàng Văn Cơ thương nhớ con khôn nguôi. Khúc Hồ Già thập bát phách tuy vậy thường được biểu diễn bằng cổ cầm.
Tao ô nhục hề đương cáo thùy?
Già nhất hội hề cầm nhất phách
Tâm phẫn oán hề vô nhân tri!
Dưới đây là diễn nghĩa (và một số là dịch thơ) nội dung 18 phách của Hồ Già thập bát phách:
1. Nỗi nhục lúc bị bắt
Tôi sinh ra không làm gì nên tội
Tôi bước vào đời nhà Hán suy vong
Trời không có lòng nhân, giáng xuống tao loạn chia cách
Đất cũng độc ác, sinh tôi ra gặp thời loạn
Ngàn giáo mác gặp hàng ngày, đường sá nguy hiểm
Dân chúng lưu vong, cùng chung nỗi buồn sợ
Khói bụi che lấp, người Hồ Lỗ thịnh
Ý chí dư thừa, tình nghĩa không có
Tục lạ xứ người, tôi không thích hợp
Gặp điều ô nhục, than thở cùng ai
Sáo nổi một hồi, đàn một phách
Nỗi lòng buồn oán, không ai biết cho!
2. Nỗi lòng khi bị bức hôn
Nhung Yết buộc tôi thành gia thất
Dẫn dắt tôi đi về phía trời xa
Mây núi trùng trùng đường về mờ mịt
Gió dữ ngàn dặm thổi tung bụi bay
Người quá hung bạo như rắn rít
Giương cung mặc giáp thật kiêu kỳ
Đàn bài thứ hai dây căng muốn đứt
Chí tàn tâm gãy tự sầu bi.
Thái Văn Cơ rời Hán vào Hồ. 
Tranh qua pinterest.com
3. Cảnh rời Hán vào Hồ
Vượt đất Hán nhập thành Hồ
Nhà tan thân mất như không sinh ra
Vải lều làm áo da thịt đau đớn
Mùi Yết làm thơm ngăn cấm ý mình
Trống trận vang rền suốt đêm đến sáng
Gió Hồ khắp nơi mịt mờ doanh trại
Thương nay nhớ xưa thành bài ba
Ngậm sầu nuôi hận lúc nào yên bình?
4. Nhớ quê hương và than thở cảnh đời bạc mệnh
Không ngày không nhà nhớ nơi hương thổ
Ngậm hơi mà sống đừng làm tôi quá khổ
Nạn trời ách nước không chủ không người
Riêng tôi bạc mệnh đất Hồ trôi nổi
Tục lạ tâm khác xứ lạ khó khăn
Tâm ý bất đồng cùng ai tâm sự?
Nhớ nhung đã trải gian truân lắm nỗi
Phách bốn đờn lên càng thêm buồn khổ
5. Thấy chim nhạn bay mà nhớ nghĩ xa xôi
Nhạn bay về nam muốn gửi tiếng nói biên cương
Nhạn trở về bắc chờ nghe giọng quê hương
Nhạn bay cao xa xôi khó tìm
Càng thêm đứt ruột âm thầm nỗi nhớ
Ngước mắt nhìn trăng đàn cầm ve vuốt
Phách năm êm êm đầy ắp ý tình.
Thái Văn Cơ và chồng người Hồ 
cùng hai người con - Tranh qua ipfs.io
6. Chịu đựng cảnh rét lạnh ở đất Hồ, đói mà không thể ăn được
Băng sương lạnh giá tấm thân khổ vì rét,
Đói mà thịt đông không thể ăn.
Đêm nghe tiếng nước chảy như thút thít,
Hướng về trường thành thấy đường xa tít tắp.
Hồi tưởng những ngày đã qua mà khó cất hành lý,
Lục phách bi ai muốn buông đàn.
7. Cảnh tượng ở Hồ
Ngày tàn gió đau buồn âm thanh bốn bề nổi lên,
Không hay tâm sầu biết nói cùng ai.
Cánh đồng tiêu điều, lửa xe vạn dặm,
Thế tục coi khinh kẻ già yếu,
Thiếu niên trai tráng đắc ý.
Đi tìm cỏ nước dựng nhà đắp luỹ,
Bò dê ngoài cánh đồng, tụ hợp như kiến ong,
Cỏ hết nước cạn bò dê đều dời đi.
Thất phách lưu hận, chất chứa hổ hẹn ở đây.
8. Trách Trời giận người sao tạo chi một mối tình
Làm Trời có mắt sao không thấy chỉ có mình tôi trôi nổi lưu lạc,
Làm thần hiển linh cớ gì đẩy tôi đến đầu Trời Nam cuối biển Bắc.
Tôi không chống Trời tại sao để tôi thành hôn phối với người khác chủng tộc,
Tôi không phụ thần sao thần bắt tôi phải vượt hoang mạc gian truân.
Làm thành phách 8 cố gượng vui,
Nhưng khi phách đã thành lòng cũng sầu muộn theo.
9. Mối sầu vô biên, hỏi Trời cao mà không thấy trả lời
Trời vô tận đất vô biên,
Tâm ta sầu mà sao cứ thế.
Nhân sinh bất chợt như tuấn mã vút qua khe hở,
Vậy mà không được vui vẻ khi ta còn thịnh niên.
Oán trách muốn hỏi Trời,
Trời xanh xanh mà chẳng duyên cớ gì,
Ngẩng đầu ngưỡng vọng mây khói bay.
Cửu phách mang tấm lòng không biết kể cùng ai.
Sự cô đơn của Thái Văn Cơ. 
Tranh qua asiasociety.org
10. Chiến tranh không dừng, nỗi oán hận chiến tranh
Đầu thành khói lửa không thôi
Biên cương tranh chiến đời đời chưa ngưng
Sát khí chiều sáng ùn lên
Đêm đêm gió bấc thổi rung trăng mờ
Cố hương xa cách bến bờ
Khóc không thành tiếng cổ khô nghẹn ngào
Một đời cay đắng biết bao
Phách mười sầu thảm lệ trào máu trôi.
11. Không tham sống sợ chết mà chỉ hy vọng ngày nào đó sẽ hồi hương cùng hai con.
Tôi không ham sống nhưng ghét chết,
Không thể quyên sinh được
Sống, rất muốn trở về cố hương;
Chết, vùi thây ở đây cũng tốt thôi
Ngày đêm sống tại đồn lũy xứ Nhung,
Người chồng Hồ luyến ái tôi có hai con
Cực khổ nuôi nấng không sợ xấu hổ,
Thương nhiều tuy sống nơi biên cương hẻo lánh
Nên phách đàn thứ mười một nảy sinh,
Nỗi buồn triền miên vọng lại thấu tâm can.
12. Nỗi mâu thuẫn trong lòng khi sứ giả nhà Hán chuộc người mà phải ly biệt hai con còn thơ dại.
Gió Đông ứng luật, hơi ấm nhiều,
Biết là Bố Dương Hoà của thiên tử nhà Hán.
Vũ đạo Khương Hồ, cùng hát ca,
Hai nước giao hảo thu binh về.
Gặp sứ giả nhà Hán xưng là Cận Chiếu,
Đem nghìn vàng chuộc lấy người thiếp,
Mừng còn sống trở về gặp thánh quân,
Ôi đứa bé kia có biết nguyên nhân.
Thập nhị phách buồn vui cân bằng,
Hai tâm trạng đi ở khó tả cho đầy đủ.
Thái Văn Cơ từ biệt chồng con về Hán. 
Tranh qua thivien.net
13. Lúc xa biệt con để rời khỏi nước Hồ, lòng đau xót thương khốc thê thảm
Không thiếu khuyết mà lại trở về toàn vẹn,
Ôm ấp vỗ về Hồ nhi mà lệ rơi ướt áo.
Sứ giả nhà Hán nghênh đón ta, với bốn con ngựa,
Tiếng kèn đau buồn thất thanh ai có biết,
Sinh tử cùng ta gặp đúng lúc này.
Buồn cho đứa bé không có ngày tươi sáng,
Cánh chim ở đâu mang ngươi về.
Mỗi bước một xa chân khó nhấc,
Hồn tiêu tan ân ái mất.
Thập tam phách dây gảy gấp điệu nhạc đau buồn,
Ruột gan rối bời không ai hiểu được ta.
14. Về Hán mà hồn trong mộng dẫn dắt nàng về hai con ở đất Hồ.
Ta về nước con chớ đi theo,
Lòng nao nao ruột như đói thắt.
Tứ thời vạn vật có thịnh suy,
Chỉ có ta sầu khổ hãy đừng đi.
Núi cao đất rộng gặp con không biết khi nào,
Canh thâu mộng lúc con đến.
Trong mộng nắm tay vừa buồn vừa vui,
Tỉnh lại tim ta đau mãi không thôi.
Thập tứ phách nước mắt tuôn rơi,
Nước sông chảy về Đông tâm tự tư.
15. Giấc mộng hai con cứ trở về không thôi.
Thập ngũ phách tiết điệu gấp,
Khí lấp đầy lồng ngực ai biết ẩn tình.
Căn nhà đơn sơ nơi hẻo lánh đôi lứa cắt đứt thế tục,
Trở về Hán quốc lòng vui vẻ đầy đủ.
Lòng ôm giữ mối sầu trở nên sâu nặng,
Nhật nguyệt vô tư chẳng soi xét.
Mẫu tử phân ly ý khó nhẫn,
Cùng Trời mà cách biệt như sao Thương sao Sâm,
Sinh tử chẳng biết nhau, biết tìm nơi đâu.
Thái Văn Cơ. 
Tranh qua baike.baidu.com
16. Tưởng nhớ hai con mà muốn trở lại nước Hồ
Thập lục phách tâm tư mang mang,
Ta với con mỗi người một phương.
Nhật Đông nguyệt Tây ngước nhìn nhau,
Không được theo nhau trống rỗng như đứt ruột.
Cỏ huyên ở kia mà không quên được ưu sầu,
Gảy đàn mà tâm tình sao mà đau thương.
Nay xa cách con trở về quê cũ,
Ân oán cũ nặng mà ân oán mới thì dài.
Rớt nước mắt ngẩng đầu kể với Trời xanh,
Sao sống mà một mình gặp phải tai hoạ này.
17. Lúc đi nhớ quê hương, lúc về phải biệt ly con dại
Thập thất phách tâm chua xót,
Quan san dài ngăn trở đường khó đi.
Lúc đi nhớ quê cũ, tâm trống rỗng,
Lúc về xa cách con tâm tư miên man.
Cỏ hoàng hao lấp kín, cành lá khô héo,
Bãi cát xương trắng, vết sẹo bởi tên đao.
Sương gió lạnh lẽo, xuân hạ hàn,
Người ngựa đói mệt sức yếu.
Há biết lần nữa vào Trường An,
Than thở chán chường dòng lệ khô.
18. Chịu đựng cảnh mẹ con cách biệt đông tây, nhớ thương da diết
Kèn hồ già vốn xuất từ nơi người Hồ,
Duyên cầm cho ra âm luật đồng.
Thập bát phách dù khúc đã hết,
Nhưng âm hưởng còn dư, tâm tư vô cùng.
Biết rằng tơ trúc đều là sản phẩm của tạo hoá,
Ai lạc tuỳ theo nhân tâm, có biến mà lại thông.
Hồ và Hán đất nước bất đồng,
Cách biệt Trời đất, con ở Tây mẹ ở Đông.
Những thanh âm cuối là nỗi khổ oán khí ngút trường không,
Bốn phương trên dưới tuy lớn nhưng không dung chứa được.
Cao Sơn
Hồ Già thập bát phách:
IX. Hán cung thu nguyệt
‘Hán cung thu nguyệt’, tiếng khóc đêm trường của người cung nữ chốn thâm cung.
Hán cung thu nguyệt bản nhạc khúc với nỗi buồn và lời tự tình của những nàng cung nữ chôn vùi tuổi thanh xuân, vĩnh biệt tự do mà giam cầm mình nơi bức tường thành kiên cố, thế giới chốn thâm cung với những ganh đua, tranh đấu, với những cạm bẫy khiến tâm hồn hoa nữ như ánh trăng thu lạnh lẽo cô độc, đơn lẻ mà khao khát được tự do.
Phận cung nữ chốn thâm cung héo mòn…
Ảnh minh họa: pinterest.com
Ở xã hội xưa, những cô gái tới tuổi trăng tròn, dung mạo xinh đẹp phải tiến cử nhập cung. Rời xa những tháng ngày êm đềm bên mẹ cha gia đình, đón nhận một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ.
Mang theo một giấc mộng mình sẽ được nhà vua sủng ái, được lập phi tần mà hưởng vinh hoa phú quý.
Nhưng hỡi ơi đó là giấc mộng mãi xa vời, bởi cung vua có trăm nghìn mĩ nữ, chốn thâm cung là một chiến trường khốc liệt, nơi triệu triệu bông hoa đua nhau tranh giành, nơi đó mà thấy lòng người lạnh lẽo, như ánh trăng tròn trong đêm thu cô độc, chẳng biết trao gửi nơi đâu nỗi tâm tình, ngắm trăng in hình nơi bóng nước, mà ngỡ như cuộc đời người đang kiếm tìm ảo ảnh nơi đáy hồ.
Phận cung nữ chốn thâm cung gian truân
Ngắm trăng in hình nơi bóng nước, mà ngỡ như cuộc đời 
người đang kiếm tìm ảo ảnh nơi đáy hồ - Ảnh: pinterest.com
Cung nữ tiến cung thường được chia làm 2 nhóm: một là trong dân thường, nhóm này được đa phần làm công việc nặng nhọc, chịu sự hà khắc nhất đa phần cung nữ đều là những người thân phận thấp hèn, không có quyền lực hay ảnh hưởng gì.
Họ làm công việc tay chân vô cùng vất vả, rất ít có cơ hội tiếp xúc với những phi tần, hoàng hậu, thậm chí đến khi chết cũng không có duyên gặp được hoàng đế, ông chủ của cung cấm mà họ phục vụ cả đời.
Cung nữ được phân làm nhiều bậc cấp khác nhau nhưng thực chất đó chỉ là hình thức, tất cả họ đều chỉ làm một công việc là hầu hạ và phục vụ, làm vật trang trí và thỏa mãn những vui thú của bậc quân vương.
Nhóm thứ hai là từ các ti, huyện, phủ tiến cử, hoặc các nước chư hầu nhỏ cung tiến. Những cung nữ này thường là có tài nghệ hơn người, dung mạo cũng xinh đẹp vượt trội, do đó mà dễ được nhà vua để mắt tới.
Các cung nữ với những thân phận khác nhau cả 
tuổi thanh xuân bị giam cầm trong cung cấm. 
Ảnh: Pinterest.com
Mặc dù chẳng phải lo cơm ăn áo mặc, nhưng thân phận của họ chốn thâm cung con người sống mà hồn đã chết, cô độc, khổ sở.
Mới bước vào cung là những tháng ngày thực sự gian khổ nhất, lúc đó giọt lệ như đêm trường rơi xuống, họ phải học phép tắc trong cung, rèn giũa từ tư thế đi đứng, trang điểm, chải đầu, đến cả việc ăn ngủ, một chút sơ xẩy cũng có thể bị đánh thừa sống thiếu chết.
Nỗi niềm đó chẳng bao giờ tỏ được với ai, ngậm ngùi thân phận mà than thân khóc. Nỗi nhớ nhà nhớ mẹ cha vò võ canh thâu. Khoảnh khắc tự do có lẽ chỉ là ngẩng mặt lên trời ngắm trăng mà rơi lệ, cuộc sống vây chọn trong bức tường. Khát khao được tự do bay nhảy chốn quê nhà.
Để miêu tả cuộc sống vất vả của cung nữ chốn thâm cung, nhà thơ Vương Kiến trong tập Cung từ nhất bách thủ từng viết:
“Vũ lai hãn thấp la y triệt
Lâu thượng nhân phù hạ ngọc thê.”
Câu thơ trên miêu tả lại cảnh người cung nữ múa đến mức y phục thấm đẫm mồ hôi, trong khi đó chủ nhân ngồi xem ở lầu trên ngay cả bước xuống thang cũng cần người đỡ.
Người cung nữ múa đến mức y phục 
thấm đẫm mồ hôi - Ảnh: pinterest.com
Chốn thâm cung chôn vùi tuổi thanh xuân mà dang dở danh phận cả một đời
Đã nhập cung thì chẳng bao giờ có ngày trở lại với cuộc sống bình thường, ngày tiến cung sắc xuân 16 trăng tròn, dung nhan phơi phới, nay trong cung không được bước chân ra ngoài nữa bước. Chốn cung son giam nhốt tâm hồn tới héo mòn.
Tuổi xuân của họ ngày ngày trôi qua sau bức tường thành, lúc cuối đời chỉ có thể ở am ni cô mà đèn sách tụng kinh, hoặc về lăng tẩm thờ phụng tiên vương cho tới khi chết.
Tiếng đàn nghe như giọt lệ nhỏ giọt sầu thương, xót xa cho thân phận cung nữ chốn cung son. Con chim kia nay bị nhốt vào lồng, dõi mắt nhìn theo áng mây trời trôi như thèm khát được sải cánh tung bay. Tiếng đàn tự tình đầy rẫy những khổ cực, sau lớp trang điểm là khuôn mặt buồn bã, người còn đó mà hồn như đã chết, cút côi mà nhắm mắt nhìn tháng năm trôi.
Thoáng chút thôi mái tóc đã có sợi bạc, phận nữ nhi đã sang tuổi già, ai trả lại tuổi thanh xuân thời son trẻ, ai trả lại nụ cười thơ ngây thủa ban đầu.
Chốn cung son giam nhốt tâm hồn tới hèo mòn. 
Ảnh: Pinterest.com
Tiếng cổ tranh thánh thót như khiến người nghe thấm đẫm được lời than vãn ai oán, những năm tháng còn lại cuộc đời là cô quạnh, sống cùng với ánh đèn lẻ bóng, thấy xót thương mà người nghe như rơi lệ.
Nếu may mắn được sủng ái cũng chính là bước vào cuộc chiến chốn thâm cung mà có ngày mất mạng
Phía sau phù hoa kia là những cạm bẫy chết người, 
là đầy rẫy oan trái đau khổ - Ảnh: pinterest.com
Bước vào cung có những cô ôm mộng được nhà vua sủng ái. Đối với thân phận cung nữ mà nói, không chiếm được sủng hạnh của hoàng đế là điều đáng buồn, vậy nhưng được nhà vua để mắt lại chưa hẳn đáng mừng.
Sử sách ghi chép rất nhiều những câu chuyện thâm cung bí sử, có quá nhiều thân phận cung nữ vì được sủng hạnh mà mất đi sinh mạng của mình.
Lịch sử từng ghi lại: Tùy Văn Đế Dương Kiên có 5 Hoàng tử, 2 công chúa. Tất cả đều là con của vợ cả - tức Hoàng hậu Độc Cô thị. Đây là một điều xưa nay hiếm, nhưng cũng là việc dễ hiểu, bởi Độc Cô Hoàng hậu là một nữ nhân tàn độc.
Vị Hoàng hậu này chưa bao giờ để cho Dương Kiên có cơ hội để mắt nữ nhân khác. Có lần, nàng phát hiện ra Hoàng đế vừa mắt một cung nữ, liền ngay lập tức đem cô gái này bức tử bằng cực hình.
Một Hoàng hậu khác có “máu ghen” không kém chính là Lý Phượng Nương - vợ của Quang Tông Hoàng đế triều Nam Tống. Khi xưa, vua Quang Tông từng vô tình khen đôi tay của cung nữ hầu hạ mình tắm rửa.
Lời khen này nhanh chóng đến tai Lý Hoàng hậu. Ngay sau đó, Phượng Nương đã sai người chặt tay cung nữ nọ, bỏ vào hộp đồ ăn, đưa tới cho Quang Tông. Hoàng đế sau khi mở ra đã hoảng hồn đến nỗi suýt nữa bất tỉnh.
Đường ngữ lâm có viết: Đường Tuyên Tông từng vô cùng sủng ái một cung nữ, nhưng nhớ tới vua Huyền Tông trước kia chung tình với Dương Quý phi, bản thân vô cùng bứt dứt.
Hạ thần khuyên ông thả cung nữ kia, Tuyên Tông lại nói: “Thả nàng về ta sẽ nhớ nhung, chi bằng ban cho nàng một chén rượu độc.” Sau đó, vị cung nữ xấu số bị ép phải tự vẫn.
Cuộc sống chốn thâm cung là nơi mà ranh giới của sự sống và cái chết cận kề, đó tưởng chừng là chốn bình yên hưởng lạc, cơm ăn áo mặc chẳng bận tâm, nhưng phía sau phù hoa kia là những cạm bẫy chết người.
Bản nhạc càng nghe càng thấu hiểu những cung bậc 
cảm xúc của những cô gái chốn thâm cung 
Ảnh: pinterest.com
Nên một lần nữa người đời thêm cám cảnh cho phận cung nữ.
Xót thương thôi chưa đủ, mà còn canh cánh cho họ bởi những hiểm nguy rình rập, được ân sủng chưa hẳn là hạnh phúc, chính trong guồng quay độc địa mà thân kia chẳng được sống trên đời. Nên hôm nay trong đêm thu lạnh lẽo, tiếng đàn kia thổn thức như tiếng khóc nỉ non. Ánh trăng nơi đáy hồ như giấc mộng khát khao tự do mà chẳng bao giờ với tới được.
Bản nhạc càng nghe càng thấu hiểu những cung bậc cảm xúc của họ, những cô gái chốn thâm cung, tiếng đàn khiến người đời đồng cảm, tâm tình này chỉ mượn tiếng đàn mà bày tỏ, bởi niềm tin và tri kỉ chốn cung son là điều xa xỉ nhất trên đời. Nên họ phải học cách nén lại những cảm xúc, biết kìm chặt nỗi đau ngay cả khi muốn gào thét lên nỗi oan nghiệt.
Có người nghe tiếng đàn này đã nói rằng, đó chính là tiếng khóc đêm trường của thân phận cung nữ. Đau đớn thân xác thôi chưa đủ, mà tâm hồn kia đã chết đi rồi.
Mời độc giả lắng nghe nhạc khúc Hán cung thu nguyệt được chơi trên tiếng đàn cổ tranh, một kiệt tác nghệ thuật khiến người nghe rơi lệ. Xứng tầm lọt vào sự bình chọn của người đời qua các thế hệ, một trong 10 đại danh khúc nổi tiếng nhất qua từng thời đại.
Hán Cung Thu Nguyệt Cổ tranh:
X. Dương xuân bạch tuyết
Thập đại danh khúc để đời: Tiếng cổ cầm của ‘Dương xuân bạch tuyết’ - Niềm vui hiếm hoi của sự hồi sinh.
Đất trời sắp chuyển mình sang xuân, thay chiếc áo nhuốm màu ảm đạm giá lạnh, khoác lên mình vẻ tươi tắn của ánh nắng xuân. Ta thả hồn lắng nghe từng giọt đàn rơi như những giọt sương tuyết tan trên cành lá. Đó chính là âm hưởng của giai điệu Dương Xuân Bạch Tuyết - Khúc nhạc trác tuyệt được thể hiện bằng tiếng cổ cầm thánh thót.
Trong thập đại danh khúc bất hủ của nghệ thuật âm nhạc Trung Hoa cổ xưa, có một nhạc khúc mang trong mình sự vui tươi, mang hơi thở mới đầy sức sống, khiến tâm ta nhưng được thư thả. Nhắm mắt lắng nghe sự chuyển mình của trời đất, rồi ngẫm tưởng tới sự chuyển dời của thế sự.
Nhắm mắt lắng nghe sự chuyển mình của trời đất, rồi ngẫm tưởng tới sự chuyển dời của thế sự. (Ảnh: pixabay.com)
Cổ cầm là thứ nhạc cụ rất kén chọn người chơi và kén chọn cả người nghe. Sự quyền quý tới bí hiểm của mỗi cung dây cất lên như một thứ âm thanh đầy mê hoặc. Người chơi nhạc cụ này khó thể hiện cho thấu suốt thần thái của bản nhạc, người nghe lại càng không dám vội vàng khẳng định mình hiểu hết ý tứ của từng nốt nhạc, tiết tấu - nhất là khi cổ cầm chỉ được chơi khi lòng người tĩnh lặng và có kẻ tri âm hiểu thấu lòng mình.
Đại Kỷ Nguyên xin được gửi tới độc giả bản nhạc huyền thoại bằng tiếng cổ cầm để ru hồn ta về với một cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, tận hưởng trọn vẹn hương sắc đất trời vào xuân qua từng nốt nhạc tinh tế.
Sau tất cả những ồn áo náo nhiệt, ta muốn tìm một chốn bình yên, khi đông tàn được xua đi là ánh xuân ngập tràn từng ngọn cỏ
Sau những ngày ngủ đông vùi mình trong giá lạnh, cây cối vạn vật như hoang tàn xơ xác, cành cây khẳng khiu trút bỏ hết chiếc lá xanh, một mình chống chọi với giá lạnh. Không thấy hơi thở nào ấm cúng cho tới ngày giọt nắng đầu tiên lấp ló sau đám mây, từng chút lạnh giá dần dần ấm áp trở lại, vạn vật như bừng tỉnh sau giấc ngủ vùi.
Tiếng tí tách bên giọt thềm, tiếng chim hót thánh thót như một bản nhạc du dương khiến ta như say mê mà khép hờ đôi mắt.
Tiếng cổ cầm vang lên từng nhịp nhẹ nhàng, cách ngắt nhịp như tiếng giọt sương tan trên cành cây, nhỏ giọt, nhỏ giọt.
Tiếng cổ cầm vang lên từng nhịp nhẹ nhàng, cách ngắt nhịp n như tiếng giọt sương tan trên cành cây, nhỏ giọt, nhỏ giọt. (Ảnh: pinterest.com)
Bắt đầu là những nốt nhạc réo rắt trầm bổng với những nhịp ngắt đầy mê hoặc. Như có tiếng suối chảy, như có tiếng thác đổ - vừa mạnh mẽ dứt khoát lại vừa có gì đó lưu luyến, vấn vương.
Dương Xuân Bạch Tuyết, ấn tượng ban đầu không phải một sự bí ẩn, một khúc bi ca với cung âm buồn bã, mà là một bản nhạc vui tươi mà chẳng kém phần du dương.
Dương Xuân Bạch Tuyết, ấn tượng ban đầu không phải một sự bí ẩn, một khúc bi ca với cung âm buồn bã, mà là một bản nhạc vui tươi mà chẳng kém phần du dương. (Ảnh: japanair.com)
Âm nhạc lấy căn bản là dây Giốc trên cung dây của cổ cầm, chính là lời chào đón mùa xuân, đánh thức vạn vật tỉnh giấc ngủ vùi. Sự sáng khoái tới thanh tịnh, hòa mình với nhịp sống của đất trời, con người như thu nhỏ lại nằm trọn trong vòng tay của đất trời vào xuân.
Mùa xuân đến mang theo sắc hoa tươi thắm làm rợp lên cả một vùng trời đầy sức sống. Một khu vườn, một cánh rừng, một dòng suối nhỏ rồi đến cả một con sông lớn cũng tràn đầy sinh khí của một mùa mới.
Dương xuân bạch tuyết mang âm hưởng của mùa xuân, mùa của sự sống, của hi vọng. Mùa của vạn vật đâm chồi nảy lộc, khát khao tươi mới sau những tháng ngày ảm đạm u sầu.
Nếu như ai đã từng nghe Cao Sơn Lưu Thủy - bản đàn của tình tri kỷ Bá Nha - Tử Kỳ thì hẳn sẽ  không thể quên bức tranh hữu tình được dệt lên bằng tiếng đàn, tình trong cảnh, cảnh phô tình.
Có những nỗi lòng bình yên như đứng trước một ngọn núi cao mây trôi lững lờ, khi tâm tư lại ngổn ngang cồn cào như một dòng nước chảy xiết về một nơi nào đó xa khuất nẻo đường mây, vô phương vãn hồi hay truy tầm… thì khi lắng nghe Dương xuân bạch tuyết, cũng có cẩm nhận về bức tranh thiên nhiên đất trời như sự khởi sắc đầy tươi vui, nhưng cũng âm thầm gói ghém những tâm sự suy tư của một bậc quân tử.
Tiếng cổ cầm như lời của một đấng trung quân hiên ngang trước bão tố thi phi, tinh khiết như nhành mai mà chẳng một nỗi run sợ
Tiếng cổ cầm như lời của một đấng trung quân hiên ngang trước bão tố thi phi, tinh khiết như nhành mai mà chẳng một nỗi run sợ. (Ảnh: pinterest.com)
Tích xưa kể lại rằng: Dương Xuân Bạch Tuyết là bản đàn gắn liền với lời giãi bày của Tống Ngọc với vua nước Sở. Khi còn làm quan, Tống Ngọc thường bị gian thần ghen ghét, đưa chuyện. Ông chẳng được kẻ sĩ khen ngợi bao giờ. Sở vương thấy làm lạ mới thắc mắc thì nhận được câu trả lời đầy chính trực của Tống Ngọc:
“Khách có kẻ ca hát nơi kinh đô, thoạt đầu hát khúc Lý Hạ Ba Nhân, trong nước khen hay và họa kể lại mấy ngàn người. Rồi hát bản Dương A Dạ Lộ, người khen và họa, rút xuống còn có vài trăm. Đến bài Dương Xuân Bạch Tuyết, khen và họa, còn lại chỉ có vài mươi người… Là vì khúc hát ý càng cao, thì người họa lại càng ít.
Bậc thánh nhân hành vi trác việt, siêu nhiên và xử sự theo mình, người trong thế tục hiểu sao được hành vi của thần!”
Qua đó mà thấy rằng, bản Dương xuân bạch tuyết hoàn toàn không phải là một bản nhạc tầm thường, có gì đó siêu phàm, bứt phá khỏi sự ràng buộc hay những định kiến của con người. Nó mang tầm ý nghĩa thâm sâu mà không phải ai cũng hiểu được.
Từ ý tứ, giai điệu đến cách thể hiện đều của Dương xuân bạch tuyết đạt đến mức xuất chúng tựa như một bậc thánh nhân. Nó có cái thần thái riêng, cái khí khái riêng khiến cho người ta có thể đem ra so sánh với phẩm chất của một đấng trung quân.
Lắng nghe từng nốt nhạc thánh thót nối tiếp nhau, người ta không chỉ thấy được một bức tranh thiên nhiên xinh đẹp trong thời điểm chuyển giao đất trời vào xuân, mà ở đây ta thấy sự gắng gượng yếu đuối của chút hơi lạnh mùa đông như lời nói thị phi của kẻ tiểu nhân bị khuất phục trước khí chất của một bậc quân tử ngạo nghễ ở đời.
Ánh nắng của mùa xuân như lời của một đấng nam nhi tiết tháo, đủ xua tan đi mọi gièm pha, ganh ghét ở đời. Đủ làm tan chảy từng bông tuyết, thay cho đất trời chiếc áo màu trắng ảm đạm, lạnh lẽo ngự trị suốt những tháng ngày đông giá.
Trong tiếng đàn trầm bổng như thái độ ung dung, khoan thai, hòa ái, coi danh tiếng ở đời nhẹ nhàng như nước chảy bên tai, làm lòng người yên ả, sảng khoái, mơ màng.
Khẽ nhắm đôi mắt, nghe tiếng cổ cầm Dương xuân bạch tuyết, mà ta mường tượng tới một nhành mai gầy cô độc nhưng mang đầy đủ khí tiết của một bậc quân tử, coi nhẹ lời khen chê thế gian, lấy sự thanh tao chính trực của bản thân mà đo lòng của chính mình. Lời thị phi chẳng làm cho tâm kia ô uế. Ganh ghét hơn thua chẳng đo được lòng quân tử.
Nhành mai gầy cô độc nhưng mang đầy đủ khí tiết của một bậc quân tử, coi nhẹ lời khen chê thế gian, lấy sự thanh tao chính trực của bản thân mà đo lòng của chính mình. (Ảnh: cpc.vn)
Những trò chơi của định mệnh như hạt nắng nghịch ngợm trên ngọn nhành mai, chẳng đủ làm cho nhành mai gãy rụng, mà càng làm cho bông mai khoe sắc đua hương.
Dương xuân bạch tuyết quả thật là một bản nhạc kiệt tác mà khiến người đời qua nhiều thế hệ không thể giải đáp được hết những ẩn khúc bên trong. Chỉ biết rằng, âm thanh reo rắt ấy không khiến người ta bi lụy, không phải là những phút trầm tư tĩnh mặc, mà đó là một bức tranh đầy sức sống, sinh động và cuốn hút.
Mặc dù người nghe vẫn cảm nhận được một chút hồi hướng như vẻ bức bối, nỗi lòng giãi bày tâm sự của một bậc trung quân, nhưng còn rất nhiều những ẩn khúc phía sau mà chưa được sáng tỏ.
Bản nhạc được nghe đi nghe lại rất nhiều lần, nhưng nó vẫn còn chứa đựng những bí ẩn phía sau mà cho tới tận hôm nay, chính những bí ẩn đó đã tạo lên giá trị của Dương xuân bạch tuyết. Nó vẫn là một phần không thể thiếu của Thập đại kiệt tác cổ cầm - và tuồng như là khúc nhạc duy nhất có những niềm vui của một mùa mới khởi đầu cho sự sống hồi sinh.
Tịnh Tâm
Dương xuân bạch tuyết
 Quang Minh tổng hợp
Theo https://trithucvn.net/





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách Ngoài kia xuân đang qua rồi sao!/ Thềm hoa hanh hao - trên trời cao/ Chim non ca vang như ngày nào/ Bên em anh...