Thứ Năm, 28 tháng 2, 2019

Một cõi đi về - Thơ và tạp bút 2

Một cõi đi về - Thơ và tạp bút 2
Phần hai
Tạp bút
Cầu siêu trên biển
Lễ cầu siêu cúng thất cho những người đã mất, thì không có gì là lạ đối với người Phật tử. Vì đây là một tập tục cổ truyền của nền tín ngưỡng Phật giáo từ ngàn xưa. Thông thường, người chết được tụng kinh cầu siêu trong thời gian 49 ngày. Theo Kinh Địa Tạng nói, người chết sau 49 ngày, thì tùy nghiệp mà chiêu cảm thọ sanh. Nếu khi còn sống, mà người đó khéo biết tu nhân hành thiện, làm lành lánh dữ, thương cứu giúp người, nghĩa là tạo nhiều thiện nghiệp, thì khi chết, người đó sẽ tái sanh trong cảnh giới an lành hưởng nhiều phước báo. Đó là chúng ta khéo biết để chuẩn bị tạo cho mình một môi trường tái sanh tốt. Ngược lại, người nào tạo nhiều nghiệp ác, tùy theo nghiệp nhân đã gây tạo nặng nhẹ, mà phải chiêu cảm đọa lạc thọ khổ nhiều ít có khác nhau. Đó là theo luật tắc nhân quả. Ác nhân ác báo, thiện nhân thiện báo, không một mảy may sai chạy. Làm lành hay làm dữ cuối cùng rồi cũng phải trả, không thể cao bay xa chạy mà có thể trốn thoát được. Kinh nói: “Giả sử bá thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ”. Nghĩa là: Dù cho trải qua trăm ngàn kiếp, chỗ mình tạo nghiệp thiện, ác không bao giờ mất, một khi nhân duyên đã đến rồi, thì quả báo tự mình phải chịu lấy.
Ở xứ Úc này, phần nhiều người ta ít khi có thời gian rảnh rỗi trong tuần, vì ai nấy đều phải vất vả bận rộn lu bu với bao nhiêu công việc làm ăn. Cho nên nhà chùa cũng tùy theo đó mà thường cúng cầu siêu chung cho các hương linh thờ tại chùa vào những ngày chủ nhật. Những buổi lễ cúng thất cầu siêu, thường trong tang quyến của người đã mất tới chùa làm lễ. Vì để cho tiện lợi thời gian, nên chùa thường cúng cầu siêu vào những buổi sáng chủ nhật hằng tuần.
Riêng đối với chùa Quang Minh, thì ngày chủ nhật rất đông khách thập phương tới lui chiêm bái sinh hoạt. Đủ mọi thành phần viếng chùa. Ngoài những liên hữu trong đạo tràng ra, còn có các đoàn thể sinh hoạt khác. Như gia đình Phật tử Đại Hoan Hỷ và các đoàn sinh võ thuật Vô Vi Nam cũng như một vài nhóm Phật tử sinh hoạt linh tinh khác. Dù rằng, chùa trong thời gian đang xây cất, nhưng không vì thế mà kém đi lượng người đến sinh hoạt tu học, hoặc thăm viếng lễ bái đông đảo.
Muốn biết sự sinh hoạt của chùa Quang Minh như thế nào, thì bạn có thể đến chùa vào mỗi sáng ngày chủ nhật, thì bạn sẽ thấy rõ. Vì chùa là môi trường có tác dụng thực tiễn trong chiều hướng nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Sự sinh hoạt tuy đa dạng qua nhiều lĩnh vực hình thức khác nhau, nhưng tựu trung cũng đều có chung một ý nghĩa, là nhằm bảo tồn duy trì nền tín ngưỡng Phật giáo cũng như phát huy những sắc thái văn hóa Phật giáo và dân tộc trong chiều hướng phục vụ nhân sinh thắm sâu tình người. Cửa chùa rộng mở có khả năng ôm lấy tình người và thắt chặt tình đạo cao đẹp hơn. Đó là hướng tiến đích thực của truyền thống Phật giáo xưa nay.
Trở lại vấn đề nêu trên, hôm nay lần đầu tiên, tôi được tham dự một buổi lễ cầu siêu thật là đặc biệt. Nói đặc biệt, là vì buổi lễ cầu siêu này không diễn ra ở trên đất liền hay ở chốn Già lam thanh tịnh. Mà nó lại diễn ra ở giữa biển trời nước bao la. Đoàn người chúng tôi tham dự trên dưới khoảng 30 người.
Hôm nay là thứ bảy ngày 4 tháng 10 năm 2008, là ngày thọ bát thường lệ của một số quý liên hữu trong đạo tràng Quang Minh. Tôi đến rất sớm hơn mọi khi. Sau khi truyền giới xong, tất cả chúng tôi đều tập trung ra xe để đi làm lễ cầu siêu ở trên biển. Tôi rất ngạc nhiên, tại sao hôm nay, thầy trụ trì bảo chúng tôi chuẩn bị ra xe để đi dự lễ cầu siêu. Tôi cũng không biết cầu siêu cho ai, mà tại sao lại phải cầu siêu trên biển? Tôi đâm ra thắc mắc và tự hỏi như thế? Tôi cũng không được nghe thầy trụ trì nói qua về vấn đề này. Tôi thấy các liên hữu Phật tử đều mặc áo tràng lam, trong tư thế chuẫn bị sẵn sàng để ra biển hành lễ.
Bên chư Tôn Đức Tăng, ngoài tôi ra, còn có một số quý thầy: T. Phước Tấn, T. Phước Hựu, T. Minh Lực (từ VN qua) T. Phước Nguyên. T. Phước Nghĩa. Còn bên quý sư cô thì có: Sc Như Bửu, Sc Phước Chơn, Sc Phước Hồng. Tổng cộng gồm có 9 vị.
Buổi sáng hôm nay khí trời mát dịu. Có nắng ấm đủ để sưởi ấm làm êm dịu tươi mát lòng người thật dễ chịu. Đoàn người chúng tôi lên xe, và xe chạy thẳng ra vùng biển Willamtown. Tới nơi, nhìn đồng hồ tay, là đúng 9 giờ sáng. Thầy Phước Tấn bảo chúng tôi nhanh chân xuống tàu. Tất cả đều lần lượt bước chân xuống tàu. Chiếc tàu có hai tầng không lớn lắm. Nhưng cũng đủ cho đoàn người chúng tôi đứng ngồi thoải mái. Quý thầy và quý sư cô ngồi hai bên ghế dài. Chính giữa là cái bàn đã có sẵn. Cái bàn không lớn lắm, nhưng cũng không nhỏ lắm, vừa đủ để bày biện thức ăn. Nhưng trước khi bày thức ăn ra, thì cô Tâm Hải thiết trí hình tượng Phật, lư hương, nhang đèn… Đặc biệt còn có một cái hũ nhỏ đựng tro cốt.
Trước khi tiến hành lễ cầu siêu, T.T. Thích Phước Tấn trụ trì chùa Quang Minh tuyên bố lý do. Thầy trình bày rõ lý do tại sao có buổi lễ cầu siêu trên tàu ngày hôm nay. Thầy nói, ông Robert, (thường gọi tắt tên ông là Bob) ông đã quy y thọ giới theo Phật giáo từ lâu, có pháp danh là Minh Phúc. Trước kia, ông đã có một đời sống ở trong quân ngũ phục vụ trong ngành binh chủng hải quân và ông lại là một tay thủy thủ lái tàu rất tài giỏi.
Sau khi giải ngũ về hưu, nhất là ở tuổi xế chiều, ông thường đến chùa Quang Minh để làm công quả. Ông vui tính rất dễ thương mến. Gặp ai ông cũng said helo chào hỏi. Khi vào chùa, ông làm tất cả mọi việc, không từ nan bất cứ việc gì. Tùy theo sức khỏe và khả năng của ông. Người ta thường thấy ông hay lau chùi ở bên hong?? chánh điện. Từ đó, ông trở thành một người rất quen thuộc đối với quý Phật tử thường tới lui sinh hoạt ở chùa.
Được biết, ông không có con đông. Nghe đâu, ông chỉ có một người con gái hiện ở Sydney. Ông có một tâm nguyện là sau khi ông mất, thì số tiền của ông dành dụm được, một phần, ông sẽ hiến tặng cho những cơ quan từ thiện để cứu giúp người. Và số còn lại, theo sự di chúc của ông với luật sư, thì ông sẽ nhờ thầy thuê tàu và đem tro cốt của ông rải xuống biển. Vì nửa phần đời của ông, ông thường sống rày đây mai đó trên biển cả. Lúc sống thì ông là người bạn chí thân gắn liền với nước và sau khi chết ông cũng muốn gần gũi làm bạn thân với nước. Và đồng thời, ông cũng muốn có một buổi lễ cầu siêu cho ông và cúng dường trai tăng ở trên tàu. Đó là lý do đơn giản, mà có ra buổi lễ ngày hôm nay.
Sau lời tuyên bố ngắn gọn của T.T, Thích Phước Tấn, tiếp theo, là khóa lễ cầu siêu. Dù chiếc tàu đã ngừng lại hẳn để cho mọi người dễ hành lễ, nhưng nó không chịu đứng yên cứ mãi lắc lư chồng chềnh, làm cho mọi người ngã tới ngã lui như người đang say rượu. Thì ra, đến giờ phút này, tôi mới hiểu rõ tại sao có buổi lễ cầu siêu và trai tăng trên tàu. Tuy có chút cảm động, nhưng rất tràn đầy thú vị của một buổi lễ giữa trời nước bao la. Và đây, cũng là cơ hội tốt để mọi người hưởng một không khí rất trong lành mát mẻ, do thiên nhiên ban cho.
Sau khóa lễ cầu siêu ngắn gọn là đến phần cúng vong. Cúng vong xong là đến phần trai tăng. Cô Tâm Hải thay mặt tang quyến đứng ra làm lễ tác bạch cúng dường. Dù không phải làm lễ tại chùa như những buổi trai tăng thường lệ, nhưng buổi lễ trai tăng ở trong tàu hôm nay, thức ăn để cúng dường trai phạn cho Tăng Ni, thật cũng không kém gì ở chùa. Cũng có nhiều món ăn, do ban trù đường Quang Minh chuẩn bị khá chu đáo. Thật là một khung cảnh và không khí rất là kỳ đặc tuyệt vời. Nhìn thấy khung cảnh đặc biệt này, tôi ngẫu hứng làm bài thơ ghi lại để kỷ niệm:
Trời trong nắng ấm biển bao la
Buổi lễ cầu siêu đã diễn ra
Trên tàu Tăng chúng Kinh cầu nguyện
Nguyện cầu Minh Phúc thượng liên hoa.
Phật tử tâm thành rất thiết tha
Hiệp lòng cung kính niệm Di Đà
Cúng dường trai phạn trên tàu lắc
Ngồi đứng chồng chềnh vẫn thiết tha.
Nguyện cầu Minh Phúc chóng thoát qua
Sinh tử từ đây vượt ái hà
Về miền Cực lạc vui tròn nguyện
Kính chúc ông mau thượng liên tòa
Tro cốt nằm yên biển bao la
Đời ông với biển nặng thiết tha
Biển tình thôi dứt xong an phận
Dục thoát Ta bà nỗi khổ đa!
Thọ trai xong, tàu trở về bến cũ. Đoàn người lặng lẽ bước lên bờ. Nhìn ngắm cảnh trời nước bao la, lòng tôi như trải rộng chan hòa cùng nhịp thở với không gian. Đời người rốt lại cũng chỉ là một đống tro tàn lạnh tanh. Giờ này, tro cốt của Phật tử Minh Phúc (Bob) đã hòa tan chìm sâu vào lòng đáy biển. Dù tro cốt của ông đã trả về cho tứ đại, nhưng dòng sống của ông vẫn tiếp diễn muôn đời. Đưa tiển linh cốt của ông ra biển, tôi cảm nghe lòng mình như chùn xuống và tự hỏi, mình và biển có khác gì nhau không? Biển là mình hay mình là biển?
Thân xác hình hài mà mình đang mang đây, cũng từ tứ đại, tức bốn yếu tố: đất, nước, gió, lửa tạo thành. Đủ duyên thì hội tụ, có mặt với đời một thời gian, hết duyên thì tan rã. Thân này, có khác gì là bọt nước, tụ tán bất thường. Đã là bọt nước, thì có ai tài gì mà gìn giữ cho nó khỏi tan. Tan hợp là chuyện của bọt biển. Tại sao mình khờ dại nhận bọt cho là mình mà mình lại quên mất cái biển nước bao la kia. Có phải mình ngu ngơ khờ dại lắm không? Cứ nhận thân này là mình, phải trái hơn thua tranh chấp nhau quyết liệt, cuối cùng, mình là cái gì? Và những cái tranh chấp hơn thua phải trái kia bây giờ nó ở đâu? Nó có tồn tại với mình không? Mình là cái gì? Quả chúng ta từ lâu đã quên mất đi cái thể tánh chân thật mà lại cứ nhận thân này cho là mình. Có khác nào nhận bọt biển có một chút xíu mà quên đi cái biển nước bao la.
Biết rõ 4 chất đó không phải là mình, như thân của ông Bob làm công quả cho chùa, giờ đây có ai nhìn thấy cái thân đó nữa hay không? Nhưng ông Bob có thực sự mất hẳn không? Với cái nhìn bằng tuệ giác của đạo Phật, thì ông Bob thật sự không mất. Không mất vậy thì ông Bob đi đâu và đang ở đâu? Ông Bob không đi đâu cả. Ông Bob tùy duyên mà tiếp nối biến dạng biểu hiện với một hình thức khác. Vì ông Bob là một dòng sống luân lưu bất tận, không đến cũng không đi, không sinh cũng không diệt. Bóng đèn sài lâu bị đứt, nhưng dòng điện nào có mất đi đâu. Nhưng có ai khờ dại lại hỏi, điện ơi! giờ này mầy đang ở đâu? Mầy trốn ở nơi nào hãy ra trình diện cho tao biết.
Thật là một câu hỏi quá ngớ ngẩn. Ngớ ngẩn đến độ không còn gì để nói. Tại sao ta phải cứ kẹt cái nhìn ở nơi hữu tướng mà không thấy được cái lẽ thật vô tướng. Cứ dính mắc vào đám mây, khi mây tan thì ta cho rằng là mây mất dạng, mà ta không thấy được những hạt mưa biến dạng của mây. Hạt mưa là sự tiếp nối của mây. Vậy thì mây có mất đi đâu. Hạt mưa tiếp nối để đủ duyên sinh thành những thứ khác. Hiểu thế, là ta đã có một tuệ giác và trực diện với sự sống chết. Hiểu thế để chi?
Xin hãy để cho tâm hồn mình trải rộng và phẳng lì êm ả như mặt biển kia đi. Đừng tạo thêm sóng gió cho mình và cho mọi người phải chìm ngập trong biển đời đầy tang thương hệ lụy này nữa. Vì cuộc đời vốn dĩ đã có quá nhiều đau khổ. Ta không nên tạo thêm và mãi gây đau khổ cho nhau.
Vâng! bạn cứ hãy nhìn ông Minh Phúc đã thật sự trải rộng lòng như mặt biển và ông đã khéo sống khoảng đời còn lại của ông cũng êm ả cũng tươi mát cũng thắm đượm tình người trong dòng máu cùng đỏ và trong biển nước cùng mặn. Chúng ta không mất đi đâu hết ông Bob của tôi ơi! Tôi biết rằng, ông đang ôm lấy chúng tôi trong vòng tay yêu thương của ông và rồi ông sẽ nở một nụ cười tươi vui trong khung trời chánh pháp bất diệt có ông và tôi.
Chung quanh vấn đề giáo dục con cái
Ngày nay, nhìn chung mối quan tâm lớn nhứt được đặt lên hàng đầu của các bậc phụ huynh, đó là vấn đề giáo dục con cái. Hiện trạng nầy, đã và đang được các nhà giáo dục Việt Nam khắp nơi trên thế giới nói chung, Úc Châu nói riêng, tất cả đều có cùng một nhịp độ ưu tư như nhau và họ không ngừng cố gắng tìm mọi phương cách hướng dẫn các bậc làm cha mẹ biết cách dạy dỗ con cái của mình qua sự hướng dẫn trực tiếp hay bằng phương tiện truyền thông gián tiếp sách báo v.v… Riêng tại Úc, trong những năm qua, Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục tại Victoria có tổ chức những buổi hội thảo thuyết trình, nhằm tạo mối thông cảm giữa các nhà có trách nhiệm giáo dục cùng với các bậc cha mẹ hầu tìm ra một giải pháp thỏa đáng thích nghi trong việc điều hướng giáo dưỡng con cái.
Điều mà làm cho các bậc cha mẹ phải chịu nhiều đau khổ lo sợ trăn trở nhứt, là có nhiều con em của họ bỏ nhà đi hoang, sống lang thang bụi đời, gây ra nhiều tội phạm. Hằng ngày đã xảy ra nhiều vụ phạm pháp gây ra tình trạng bất an cho gia đình và xã hội. Đây là một vấn nạn to lớn thật vô cùng nan giải khắp nơi trên thế giới. Hằng ngày, báo chí đã đăng tải nhiều tin tức liên quan đến giới trẻ nổi loạn gây ra nhiều vụ phạm pháp như: băng đảng, hút chích xì ke ma túy, buôn lậu á phiện, trộm cắp, cướp của, hiếp dâm, giết người v.v…Thật không thể nào thống kê hết được. Nguyên nhân do đâu? Đây là một câu hỏi, thật khó mà trả lời cho chính xác. Nhưng theo các nhà chuyên nghiên cứu về giáo dục giới trẻ, tuy họ có nêu ra nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính yếu vẫn là phát sinh từ căn bản mấu chốt của gia đình. Điều nầy, thiết nghĩ, các bậc làm cha mẹ chúng ta cũng nên tự tra vấn kỹ lại qua những ý nghĩ, ngôn ngữ và hành động của chính mình.
Dựa trên ý hướng căn bản xây dựng tình người, mà trước hết là tình thân thuộc trong gia đình, chúng tôi xin được nêu ra một vài ý kiến thô thiển, hầu để chia sẻ tâm tình cùng với các bậc phụ huynh trong vấn đề giáo dục con cái. Chúng tôi vẫn biết, đây là một vấn đề rất quan yếu và thật hết sức khó khăn, mà chúng tôi không phải là một nhà giáo dục chuyên môn có kiến thức thực dụng nhiều kinh nghiệm trong vấn đề nầy. Thế mà, hôm nay chúng tôi lại nêu ra vấn đề nầy để lạm bàn, thì quả thật, tôi là kẻ chẳng biết tự lượng sức mình, dám đem trống đánh trước cửa nhà sấm, hay múa rìu qua mắt thợ. Tuy nhiên, vì muốn trang trải biểu lộ chút tấm lòng thành xây dựng, qua những gì mắt thấy tai nghe trong phạm vi hiểu biết cạn cợt hạn hẹp của mình, mong được đóng góp một chút gì đó để chia sẻ tâm tình cùng với các bậc làm cha mẹ hơn là mang tâm trạng của kẻ có cái cao vọng lên mặt dạy đời. Chúng tôi xin được lặp lại, bài viết nầy mang tính cách tâm tình chia sẻ xây dựng, hơn là một bài có tính cách phân tích nghiên cứu. Kính mong quý độc giả, nhất là các bậc phụ huynh xin lượng tình thứ lỗi, nếu có điều gì sai trái mà không được vừa lòng quý vị. Mong tất cả hãy niệm tình thứ lỗi bỏ qua cho. Xin chân thành cám ơn quý vị trước.
I. Thử đặt lại vấn đề bổn phận làm cha mẹ.
Thật tình mà nói, có khi nào chúng ta tự hỏi và tự kiểm điểm lại mình, rằng mình đã thiết thực sống trọn vẹn cho con và đã thật sự hết lòng vì con chưa? Và cách nhìn cũng như sự điều hướng giáo dưỡng con cái của chúng ta có thực sự phù hợp thích nghi với hoàn cảnh xã hội của nước Úc đa văn hóa nầy không? Theo thiển nghĩ của chúng tôi, thì đó là hai vấn đề then chốt của những bậc làm cha mẹ mà chúng ta cần phải suy nghiệm minh định đặt lại.
1. Vấn đề thứ nhứt là tất cả cho con và vì con.
Thực ra, tâm trạng của bất cứ người làm cha mẹ nào, ngay từ buổi đầu, cũng đều có chung một tâm trạng đó. Bởi vì hơn ai hết, tận bản chất của người Việt Nam chúng ta, vốn đã hấp thụ bởi những chất liệu giáo dưỡng hun đúc của một nền văn hóa lấy đạo đức nhân bản làm nền, đặt tình người lên trên mọi thứ tình khác. Do đó, nên trong dòng máu của người mẹ là đã có dòng máu của đứa con, hay ngược lại cũng thế. Bởi vậy, nên tình mẹ con là một thứ tình yêu thương thiêng liêng cao cả bất khả phân ly.
Theo truyền thống văn hóa đạo đức của dân tộc ta, hẳn không ai có thể phủ nhận được điều đó. Tuy nhiên, khi sang định cư ở Úc, phần vì lo việc mưu sinh cho gia đình ở đây, cũng như sự lo lắng cấp dưỡng cho những thân nhân ruột thịt ở quê nhà; phần vì phải lo thích nghi với cuộc sống mới có những khó khăn, do đó, ai cũng phải nỗ lực chịu khó cần cù làm việc để kiếm sống, mong tạo dựng lại cuộc sống hạnh phúc cho gia đình. Chính vì muốn làm việc kiếm nhiều tiền để trang trải mọi chi phí đó, cho nên trách nhiệm bổn phận làm cha mẹ của chúng ta có phần nào xao lãng hay thờ ơ với con cái.
Có nhiều phụ huynh, suốt tuần, ít khi gặp mặt con. Tất cả thời giờ dồn hết cho việc mưu sinh, thời giờ còn lại, khi buông công việc ra, là tìm chỗ nghỉ ngơi tịnh dưỡng cho khỏe, để lấy sức chuẩn bị đi “cày” tiếp. Có người cày ngày không đủ, tranh thủ cày đêm. Thế thì, thử hỏi, còn thời giờ đâu mà gần gũi lân la chuyện trò thân thiết với con. Từ đó, tạo thành một khoảng cách giữa cha mẹ và con cái. Do đó, mà dường như chúng ta đã quên bẳng đi cái trọng trách chính yếu của chúng ta. Rồi cũng từ đó, tình yêu thương gắn bó trong gia đình, đã đâm ra lỏng lẻo. Chúng ta ít quan tâm theo dõi con cái, mà nếu có, thì cũng chiếu cho có lệ mà thôi. Khi buông thả chúng như vậy, chúng cảm thấy như mất đi cái tình yêu thương nồng nàn ấm áp của cha mẹ dành cho chúng. Chúng mặc cảm tự nghĩ, tuy còn cha mẹ song toàn, nhưng chúng không được cái diễm phúc được sự quan tâm yêu thương lo lắng của cha mẹ. Từ đó, chúng có mặc cảm là mình đã bị cha mẹ bỏ rơi!
Song song với vấn đề đó, lại có những gia đình mà cha mẹ lại hay bất hòa thường xuyên cãi vã với nhau. Bầu không khí trong gia đình càng lúc càng trở nên căng thẳng nặng trĩu nghẹt thở. Vì thiếu sự hòa kính yêu thương, tìm hiểu, cảm thông nhau, nên rồi đưa đến tình trạng ly thân, ly dị với nhau. Theo kiểu: “đường anh, anh đi, đường em, em đi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi”! Đành rằng, tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi, nhưng hậu quả là những đứa con ngây thơ khờ dại kia, chúng phải gánh chịu những chuỗi ngày dài đau khổ bất hạnh sau nầy. Đó là chưa nói đến cái cảnh nhậu nhẹt say sưa, bài bạc trong gia đình. Có nhiều phụ huynh ghiền bài bạc, thường hay vào casino để vui chơi. Họ bỏ phế không quan tâm gì đến con cái, phó mặc chúng làm chi thì làm. Theo quan niệm của họ cho rằng, mỗi người có cuộc sống riêng và cần phải thụ hưởng. Thậm chí, việc học hành của các con như thế nào, họ cũng không cần quan tâm để ý đến. Đời sống phóng thể buông trôi của cha mẹ như thế, thử hỏi làm sao mà họ có thể giáo dục con cái của họ cho được?
Thế thì, chúng ta hãy tự tra vấn lại lương tâm của chúng ta, rằng, chúng ta có thực sự hy sinh sống trọn vẹn cho con và vì con chưa? Hay là chúng ta vẫn còn sống ích kỷ cho cái tư ngã, tư dục, tư cầu, tư lợi cho riêng mình? Nếu chưa được như vậy, thì chúng ta cũng đừng vội trách và đổ trút hết mọi tội lỗi lên đầu con cái của chúng ta. Người xưa thường nói: “Tiên trách kỷ, hậu trách bỉ”. Nghĩa là, trước hết, chúng ta hãy mạnh dạn thành thật nhìn lại với chính mình, xem mình có thực sự quan tâm lo lắng, yêu thương hết dạ đối với con mình chưa? Và mình đã thực sự làm tròn cái trọng trách làm cha làm mẹ của mình chưa? Đó là những vấn đề mà thiết nghĩ, chúng ta cần nên quán chiếu lại thật kỹ ở nơi chính mình.
Vì thiếu sự tìm hiểu thiết lập truyền thông cảm thông nhau, nên đưa đến tình trạng giữa cha mẹ và con cái có sự xung đột mâu thuẫn bất hòa với nhau một cách rất trầm trọng. Thậm chí sống chung trong một nhà mà không ai nói chuyện với ai. Mỗi người là một ốc đảo khép kín. Bao nhiêu uất ức dồn chứa vào trong tâm thức nặng trĩu, lâu ngày tạo thành một khối nội kết ung nhọt thật khủng khiếp đáng sợ. Một sự mâu thuẫn đến đổi thật khó mà hòa giải hàn gắn lại với nhau. Phần cha mẹ, thì lấy trách nhiệm quyền hạn của mình ra, mà la rầy trách phạt chửi mắng chúng. Tức nước phải vỡ bờ, chúng không còn chịu đựng được nữa, nên đành phải bỏ nhà ra đi. Đây cũng là một thói quen của các bậc làm cha mẹ khi còn ở Việt Nam. Theo kiểu:
Thương con cho roi cho vọt
Ghét con cho ngọt cho bùi.
Phần chúng, một phần, vì ảnh hưởng lối giáo dục đề cao chủ nghĩa cá nhân ở đây quá mức; một phần, vì chúng bị nhiều áp lực bên ngoài xã hội, nhà trường, bạn bè v.v…đè nặng lên tâm hồn ngây thơ non dại của chúng. Từ đó, tạo thành một áp lực rất nặng nề giữa cha mẹ và con cái gây nên mối xung đột căng thẳng với nhau. Có nhiều em, vì quá buồn chán cảnh gia đình xào xáo mất hạnh phúc, muốn ra ngoài tìm nơi giải trí cho khuây khỏa. Trong lúc buồn chán đi lang thang như kẻ bụi đời, không may lại gặp những bạn bè xấu xa đê tiện cám dỗ rũ rê. Từ đó, các em bắt đầu bước chân vào con đường trụy lạc sa đọa, phạm pháp.
Có nhiều em tìm đủ mọi cách lường gạt qua mặt cha mẹ. Cha mẹ cứ tưởng là các con của mình đến trường chăm chỉ học hành đàng hoàng. Vì không quan tâm đến sự học hành của chúng, nên cha mẹ không thường xuyên hợp tác với nhà trường. Những buổi họp mặt phụ huynh do nhà trường gởi thơ mời, cha mẹ cũng không đến dự. Cứ đinh ninh con mình chăm chỉ ngoan ngoãn lo học hành. Nhưng họ đâu có ngờ rằng, chúng chỉ đến trường cho có lệ, rồi bỏ học trốn đi chơi. Đến khi vỡ lẽ biết được, thì ôi thôi đã quá muộn màng rồi! Chúng nó đã thực sự lặm vào con đường nghiện ngập hút xách, mà không còn phương cách nào cứu vãn được nữa. Chừng đó, cha mẹ chỉ còn có nước ngước mặt lên trời mà dặm cẳng khóc than kêu trời. Nhưng trời thì cao quá làm sao cứu được các con của họ đây?! Đó là hậu quả tai hại rất lớn mà hiện nay trong cộng đồng Việt Nam chúng ta đã và đang phải gánh chịu.
Chúng tôi được biết, một gia đình người Việt có hai đứa con trai đang học trung học. Ông chồng thì thích nhậu nhẹt say sưa bài bạc. Cuối tuần, gia đình hay tổ chức tiệc tùng mời bạn bè về nhà ăn uống và đánh bài. Khi uống say quá chén thì không sao tránh khỏi cái cảnh lớn tiếng cãi vã với nhau. Họ thốt ra toàn là những lời lẽ dao búa khó nghe. Dĩ nhiên, giữa ông chồng và bà vợ đã có sự bất hòa với nhau. Nhưng người vợ thì nhẫn nhịn chịu đựng, vì bà quá thương hai đứa con, nên cố nhịn chồng cho qua chuyện. Nhưng việc gì cũng phải có giới hạn. Cho đến một hôm, bà không còn nhịn nhục chịu đựng được nữa, thế là hai vợ chồng xảy ra chuyện cãi vã ấu đả với nhau. Và rồi đưa đến tình trạng ly thân, ly dị. Phần hai đứa con, nhìn thấy cảnh gia đình như thế, nên chúng không còn thiết tha trong việc học hành nữa. Và từ đó, chúng bỏ học theo bạn bè đi chơi lêu lỏng và cuối cùng, cũng bỏ nhà đi luôn.
Lại một trường hợp khác, hai vợ chồng người Việt cũng có hai đứa con trai đang học trung học. Hai vợ chồng lãnh đồ về nhà may. Hai người cứ lo cặm cụi ngày đêm làm kiếm tiền, ít khi quan tâm đến sự học hành của con cái. Chúng học hành như thế nào họ cũng không cần tìm hiểu biết đến. Họ giao khoáng hết cho nhà trường lo. Hai vợ chồng cứ đinh ninh tưởng rằng con mình siêng năng lo chăm chỉ học hành. Nào ngờ, khi nhận giấy báo của nhà trường là chúng luôn trốn học đi chơi. Cứ sáng chúng mang cặp đi, chiều chúng mang cặp về. Nhưng mang cặp để qua mắt phỉnh lừa cha mẹ, chớ chúng nào có học hành chi đâu!
Bấy giờ, khi vỡ lẽ ra, hai vợ chồng mới biết là con mình đã nghiện ngập xì ke ma túy và rồi chúng đi bán để kiếm tiền hút xách. Không phải chỉ một đứa mà cả hai anh em đều vướng hết. Lúc đó, người mẹ như điên cuồng và không bao lâu phải đưa bà ta vào bệnh viện tâm thần để điều trị. Còn người chồng thì lớp lo cho con, rồi còn phải lo cho bà vợ, thét rồi anh ta như người không hồn, gầy ốm xanh xao, vì mất ăn mất ngủ. Thật là một tâm trạng, một hoàn cảnh quá bi thương đau khổ ngút ngàn. Bởi do lúc đầu cha mẹ không quan tâm đến, cứ mải miết lo làm kiếm tiền, cuối cùng phải lãnh lấy một hậu quả rất là bi đát thê thảm như thế.
2. Vấn đề thứ hai, cách nhìn cũng như sự điều hướng giáo dưỡng con cái của chúng ta có thực sự phù hợp thích nghi với hoàn cảnh xã hội của nước Úc đa văn hóa nầy không?
Trả lời xong câu hỏi nầy, tất nhiên là chúng ta đã san bằng được một phần của cái hố sâu dị biệt khó khăn trong việc điều hướng dạy dỗ con cái. Thường chúng ta hay mắc phải chứng bệnh: “cố chấp, bảo thủ”. Từ đó, nó sanh ra cái tệ nạn độc đoán, áp đảo con cái. Cho chúng nó là sản phẩm của chúng ta, nên chúng ta có quyền bắt cái sản phẩm đó phải chìều theo cái ý muốn của ta. Nếu ngược lại, thì chúng ta lên án kết tội chúng nó gắt gao. Bắt buộc chúng nó cái gì cũng phải giống mình, nếu khác đi, thì cho chúng nó là đồ mất dạy, hư thân, mất nết, vô dụng, hết xài v.v… Từ đó, việc xung đột bất hòa giữa cha mẹ và con cái trở thành một hố sâu ngăn cách rất lớn.
Cái lối giáo dục đó, đối với xã hội hiện tại, thật không còn phù hợp nữa. Bởi vì cách nghĩ và lối sống của chúng ta nó thuộc về quá khứ xa xưa rồi. Chúng ta đừng quên rằng, trào lưu tư tưởng của nhơn loại luôn luôn tiến bộ phát triển không ngừng. Nếu chúng ta bắt buộc con cái của chúng ta sống theo cách sống nếp nghĩ của mình, thì vô tình chúng ta lại kéo chúng trở về hằng mấy chục năm về trước. Đó là lạc hậu, là lỗi thời. Lẽ ra, chúng ta cần phải khuyến khích chúng học hỏi những điều hay mới lạ, theo kịp đà văn minh tiến bộ của nhơn loại. Nếu không được như thế, thì chúng ta cũng đừng ngăn chận bước tiến của chúng.
Do đó, theo chúng tôi, thì trong việc điều hướng giáo dục con cái, chúng ta phải luôn luôn mở rộng tâm thức. Phải khéo biết uyển chuyển linh động tùy thời, tùy cảnh, đừng bắt buộc chúng phải làm theo ý mình. Nhưng sự tùy thời nầy, không có nghĩa là chúng ta buông trôi phó mặc. Sự buông thả phó mặc, đó là thái độ thiếu trách nhiệm bổn phận của chúng ta. Chúng ta lúc nào cũng phải quan tâm theo dõi chúng. Nhưng quan tâm theo dõi như thế nào? Có phải là chúng ta luôn tìm cách bám sát theo dõi chúng nó không? Điều nầy, hẳn nhiên là không phải như thế. Bám sát theo dõi chúng nó như thế, coi chừng việc làm nầy chẳng những không có kết quả như ý mình muốn, mà trái lại nó còn phản tác dụng và không khéo sẽ mất luôn đứa con. Vì chúng nó sẽ không thể nào chịu nổi cái hành động của cha mẹ làm như thế. Chúng nó có lòng tự trọng tự ái của chúng. Đừng bao giờ hành động như mật vụ công an theo dõi.
Như trên, chúng tôi đã nói, chúng ta phải khéo biết uyển chuyển linh động thích nghi từng lứa tuổi, đồng thời cũng phải thích nghi từng hoàn cảnh môi trường mà chúng ta đang sinh sống. Nếu chúng ta cố chấp theo định kiến một chiều, thì rất khó có sự cảm thông với nhau. Hai thái độ: nuông chìu hay kềm kẹp thái quá, hoặc là phó mặc thờ ơ, cả hai đều đưa đến hậu quả không tốt đẹp.
Vì kềm kẹp thái quá, nên chúng ta luôn luôn để tâm kiểm soát gắt gao. Vì sợ con hư hỏng, nên chúng ta luôn theo dõi sát cánh. Thậm chí, chúng xin đi đâu chúng ta cũng không cho. Chúng ta lấy quyền làm cha làm mẹ, la rầy cấm đoán chúng đủ điều. Chúng cảm thấy, sống trong một xã hội tự do, mà riêng chúng như bị nhốt giam hãm trong ngục tù. Đây là vì quá thương con, sợ con hư hỏng, mà vô tình chúng ta đã làm cho chúng trở lại ôm lòng oán hận thù ghét chúng ta. Đó là điều mà ta cần nên tránh. Nếu không khéo ta sẽ phạm phải một lỗi lầm là thương con mà trở lại hại con.
Ngược lại, nếu như chúng ta quá thờ ơ hay phó mặc, chúng làm chi thì làm, ta không cần quan tâm đếm xỉa tới, thì đây cũng là một tai hại. Thái độ nầy, chúng ta thiếu trách nhiệm và giao khoáng con cái chúng ta cho nhà trường. Chúng làm gì chúng ta không cần biết đến, nên hư do chúng quyết định lấy. Với cái tuổi còn ngây thơ khờ dại, thử hỏi làm sao chúng có thể quyết định được cuộc đời của chúng? Chúng rất cần được sự hướng dẫn chỉ dạy của cha mẹ. Trong khi đó, thì cha mẹ lại không ngó ngàng để ý gì đến chúng. Chúng ta nên biết rằng, khi đi học hoặc giao tiếp bạn bè, có đôi khi chúng nó chịu nhiều áp lực của nhà trường, của những bạn bè xấu ác gây nên. Do đó, chúng ta cần phải thường xuyên quan tâm theo dõi. Theo dõi để chia sẻ, để cảm thông để tìm phương cách an ủi xoa dịu chúng. Nếu không, thì chúng sẽ có nhiều nỗi lo âu sợ hãi mà chúng ta không hề hay biết.
Tóm lại, người xưa nói, muốn giáo dục người, trước hết phải tự giáo dục mình. Cha mẹ phải làm gương mẫu cho con cái. Nếu bạn khuyên con bạn không nên hút xách, bài bạc, rượu chè say sưa v.v… thì trước hết, chính bạn phải thực hiện những điều nầy. Bởi cha mẹ là tấm gương phản chiếu trực tiếp vào tâm thức của con cái. Nếu mình khuyên bảo chúng nó nên làm thế nầy, thế kia, trong khi đó mình lại làm hoàn toàn ngược lại. Như thế, thì thử hỏi làm sao chúng nó có thể kính phục nghe theo lời mình dạy. Vì đó là một nghịch lý tương phản không thể nào chúng chấp nhận được.
Muốn xây dựng hạnh phúc gia đình, thì đó là trách nhiệm lớn lao của cha mẹ. Nếu cha mẹ có hòa kính thương yêu nhau, khéo biết cư xử nhường nhịn tốt đẹp hạnh phúc với nhau, thì thiết nghĩ, bạn không cần phải dùng lời lẽ răn dạy chúng nó nhiều, mà chính hành động việc làm của bạn đã nhắc nhở răn dạy chúng nó rồi. Do đó, nếu bạn là người Phật tử, thì Đức Phật dạy mỗi người nên áp dụng năm nguyên tắc đạo đức căn bản của người Phật tử (tức 5 giới cấm của người Phật tử tại gia) để xây dựng hạnh phúc gia đình.
Năm nguyên tắc đạo đức nầy còn gọi là năm Nguyên Tắc Thực Hành Tỉnh Thức. Đây là kim chỉ nam để bạn thiết lập mối quan hệ gia đình trong sự hòa hợp, thương yêu, truyền thông tương kính lẫn nhau. Ngoài năm nguyên tắc căn bản đạo đức nầy ra, không còn cách nào khác mà bạn có thể mang lại nguồn hạnh phúc yêu thương chân, thiện, mỹ cho bản thân và gia đình của bạn. Nếu mỗi cá nhân trong gia đình, ai ai cũng thật hành giữ gìn năm nguyên tắc đạo đức căn bản Phật dạy nầy, thì chắc chắn đảm bảo gia đình của bạn sẽ là một gia đình lý tưởng cao đẹp êm ấm hạnh phúc nhứt trong cuộc đời nầy. Và từ đó, sẽ làm nền tảng xây dựng hạnh phúc chung cho xã hội và rộng ra là cho cả thế giới nhơn loại đều chung sống trong cảnh thái bình an lạc vậy.
Độc Tố
Sống giữa một thế giới đầy biến loạn, hận thù, tranh chấp. Con người mãi sống trong sự phập phồng lo sợ từng giây phút. Ngoài việc lo mưu sinh vật lộn với đời, giành giựt hơn thua nhau từng miếng ăn lời nói. Con người còn biết bao nhiêu nỗi ưu tư khác. Động cơ gây ra những biến loạn và cuộc sống đảo lộn rối bời hiện nay, tất cả cũng chỉ vì tham, sân, si mà ra. Đây là ba thứ độc tố mà con người đã bị thâm nhiễm từ lâu. Vì tham lam quá độ, muốn chiếm hữu cả thế giới về mình. Tham không được như ý muốn, không thỏa mãn lòng dục vọng, thì nổi sân. Khi đã nổi sân hận, thì con người bất chấp mọi thủ đoạn, chế tạo nhiều loại vũ khí tinh vi ác độc để tàn hại lẫn nhau. Lớn thì như thế, nhỏ thì cá nhân với cá nhân, đoàn thể với đoàn thể, tranh chấp, ấu đả, chém giết nhau. Hiện trạng nầy đã và đang xảy ra hằng ngày, không nơi nào là không có. Ngày nào ba thứ độc tố nầy, còn hung hãn, tác oai, tác quái, thì ngày ấy con người vẫn mãi sống trong nỗi lo âu sợ hãi và đau khổ ngút ngàn.
Nhìn theo lý duyên sinh Phật nói, thì không một ai thoát khỏi cọng nghiệp. Cái cọng nghiệp của nhơn loại ngày nay, đã và đang bị nhiễm độc đủ mọi thứ. Từ những thực phẩm cho đến môi sinh. Không một thứ nào không ngầm chứa độc tố. Những thứ độc tố nầy từ đâu mà có? Phải chăng cũng do xuất phát từ cái nhân chính là: ba thứ độc tố căn bản: tham, sân, si, trong mỗi con người mà ra. Xin đơn cử một thí dụ điển hình. Như nước mưa ngày xưa là một loại tương đối tinh khiết. Người ta dùng nó rất nhiều. Nhưng bây giờ nó không còn tinh khiết nữa rồi. Bởi con người tạo ra quá nhiều thứ hóa chất, thảy ra biết bao nhiêu lượng khí dơ bẩn, độc hại, tưởng đâu không liên hệ đến sự sống con người. Sự sống con người, đâu phải chỉ có ăn, mặc ở không thôi, mà điều quan trọng nhứt là hít thở không khí. Nếu không khí trong lành tươi mát, thì con người hít thở cảm thấy khỏe khoắn. Ngược lại, không khí bị ô nhiễm, thì sẽ gây ra nhiều thứ bệnh tật. Cuộc sống của con người là một sự liên hệ chằng chịt. Một người gây ra nhân xấu, có thể gây ảnh hưởng không tốt cho biết bao nhiêu người chung quanh.
Rồi đến những thứ ẩm thực hằng ngày, những nhà chế tạo sản xuất thức ăn, thức uống, vì lòng tham vọng muốn làm giàu, ai chết mặc ai, tạo ra nhiều thứ hóa chất độc hại. Người tiêu thụ, đâu cần biết đến sự tai hại của nó, nhưng dẫu có biết, thì vì nhu cầu của sự sống, cứ mua lấy mà dùng, tới đâu hay đó. Sự tích lũy ngấm ngầm của những thứ độc tố nầy rất là tai hại. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều căn bệnh nan y. Các nhà y học, hay các khoa học gia đôi khi phải bó tay trước những căn bệnh hiểm nghèo, không tìm ra được nguyên nhân chữa trị. Đó là một hậu quả lắm tang thương mà ngày nay nhơn loại đang hứng chịu.
Từ đó suy ra, ngày nay con người luôn sống trong sự đe dọa của tử thần. Nguyên nhân đó do đâu? Chính do con người tạo ra những độc tố tàn hại lại con người. Giống như sắt sanh ra sét và chính chất sét ấy trở lại tiêu hình của sắt. Cho nên, khoa học dù nhìn dưới dạng thức nào, nó cũng là con dao hai lưỡi. Lợi và hại luôn luôn tương phản tác dụng ảnh hưởng nhau. Suy gẫm kỹ, kiếp sống của con người có bao nhiêu năm. Nói năm tháng là nói thời gian hơi kéo dài một chút. Bởi vốn dĩ con người quá sợ chết. Một mặt thì sợ chết, ham sống, mặt khác lại tạo ra toàn là những thứ giết người. Như thế có phải là mâu thuẫn lắm không? Nếu ai cũng nghĩ đến cái chết, thời gian sống quá ngắn ngủi, chỉ trong nháy mắt thôi, thì đừng gây thêm khổ đau cho nhau. Bởi khi chúng ta sinh ra đời không ai mang gì ra, đến khi nhắm nghiền khép kín đôi mắt lại cũng trả lại hết cho đời, không có ai mang gì theo. Của cải, tiền tài, danh vọng, địa vị bây giờ nó ở đâu? Hay nó chỉ là vang bóng một thời. Nó có trung thành theo mình không? Hay là nó đã qua tay người khác? Bấy giờ còn lại hai kẻ trung thành của mình nhứt, đó là nghiệp lành và nghiệp dữ mà thôi. Chính hai chú nầy mới là kẻ trung thành theo mình không rời một bước. Vì vậy, khi còn một hơi thở, ta phải cố gắng tạo nghiệp lành. Chuẩn bị cho khi nhắm mắt, ta còn có quả lành để hưởng.
Việc đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng làm chi?! Quả đúng với câu: "Nhắm mắt rồi cũng nắm tay không". Nói nắm tay, chẳng qua là một cách nói. Thật ra khi chết có mấy ai nắm tay lại bao giờ? Khi mới mở mắt chào đời, thì hai tay nắm chặt lại. Đó là biểu hiện cho lòng tham, muốn nắm cả vũ trụ vào trong tay của mình. Nhưng tiếc thay! Thử hỏi con người nắm được bao lâu? Bạn có muốn nắm thật chặt đi chăng nữa, nhưng chắc gì nó ở mãi trong tay của bạn hoài. Bởi vốn dĩ nó là những thứ vô thường, sinh diệt, giả trá, tạm bợ. Hơn nữa, nó thuộc của 5 nhà: Hỏa gia, thủy gia, sung công gia, tặc gia và tử gia. Bạn cứ bình tâm chiêm nghiệm lại thật kỹ, có phải tất cả tài sản của mình tạo ra, nó có ở bền bỉ với mình hay không? Hay là nó luôn phản bội mình? Trong đời, có biết bao người, ăn không dám ăn, mặc không dám mặc, cắt ca cắt cõm chắt mót dành dụm từng đồng từng cắt. Muốn cho mình có tiền thật nhiều, nhưng một mai "bà hỏa" đến viếng thăm, thì ôi thôi! Bộ đồ còn không có mặc, nói chi đến những thứ khác. Cho nên, trong Kinh Đức Phật thường khuyên nhắc con người nói chung, Phật tử nói riêng, nên hằng nhớ đến tài sản thuộc về năm nhà. Tránh nhà nầy, cũng bị nhà kia cướp đoạt. Có lắm người đau khổ, vì nạn cướp của, có khi đến mất mạng cũng chỉ vì do có nhiều của cải. Người khác, thì lại bị chính đứa con ngỗ nghịch của mình nó phá tiêu tan gia sản. Như vậy, xét cho cùng, con người sống vì của cải, rồi cũng đau khổ hay chết cũng vì tiền tài của cải. Bởi thế, trong Kinh Phật nói chứa vàng bạc trong nhà như chứa rắn độc. Đã là rắn độc, nên nó cắn mình bất cứ lúc nào. Có người lo cất chứa tiền của cho nhiều, không nghĩ đến tu tạo phước đức, bạn bè khuyên bảo nên bố thí cúng dường, thì họ lại ngoảnh mặt làm ngơ. Vì tâm bỏn sẻn, keo kiết, đến khi bị nhơn tai hay thiên tai gây ra tiêu tan hết tài sản, bấy giờ họ mới ăn năn hối tiếc. Khi hối tiếc, họ thốt lên hai tiếng: "Phải dè". Phải dè hồi đó mình lo tu tạo phước đức, thì bây giờ dẩu có tiêu hao hết đi, mình cũng còn có chút phòng thân để sau nầy mình hưởng. Hối tiếc, ân hận, đã muộn màng quá rồi! Khổng Tử nói: "Nhơn vô viễn lự, tắc hữu cận ưu". Nghĩa là, người không biết lo xa, ắt có buồn gần. Phải chăng, đó cũng do độc tố tham, nên mới có hối tiếc. Nên Phật dạy người Phật tử cố gắng phá trừ bớt đi ba thứ độc tố nầy. Dù mình có đi chùa, làm phước nhiều, mà mình không đá động gì đến ba thứ nầy, cũng chưa xứng danh là người tu. Bởi tu là sửa. Đi chùa, bố thí, cúng dường, tuy được phước, nhưng chưa phải là người thật tu. Người thật tu, là hằng ngày phải cố gắng nhìn lại thật kỹ ở nơi mình để lo tảo thanh ba thứ độc tố căn bản nầy. Có lắm Phật tử đi chùa thật lâu năm, nhưng nhìn lại ba thứ nầy vẫn còn nguyên vẹn. Tệ hơn nữa, có người đi chùa lại tính theo thời gian lâu, mau. Đi càng lâu năm, thì mình lại tự hào cho rằng mình tu nhiều. Chưa phải thế đâu. Đi chùa, dù lâu năm, mà ba thứ nầy chưa đụng tới, thì Phật không có khen ngợi hay thương lắm đâu! Chẳng những không thương mà Phật Tổ còn quở trách, rằng, mình chưa biết tu hành gì cả. Người thật sự tu hành là phải lo dũa gọt bào mòn ba thứ nầy, cho đến ngày nào mà chúng nó không còn quậy phá nữa, thì chừng ấy mình mới được an nhàn giải thoát. Như thế, thì đời mình mới thật sự hết khổ.
Mong sao mỗi người tự ý thức nhớ lời Phật dạy, cố gắng nhìn lại mình từng giây phút để dẹp trừ ba thứ độc tố nầy.
Họa hay phúc
Đọc truyện cổ, cách nay khá lâu, tôi còn nhớ mang máng câu chuyện nói về “Tái Ông Thất Mã” nghĩa là ông già mất ngựa. Chuyện kể rằng: Trong làng nọ, có một cụ già, ông có một đứa con trai và nuôi một con ngựa. Con ngựa sắc lông rất đẹp. Con trai ông rất thích cỡi con ngựa đó.
Một hôm, con ngựa của ông sổng chuồng chạy mất. Con trai của ông rất buồn. Vì mất con ngựa để cỡi. Được tin ấy, người hàng xóm đến chia buồn cùng ông. Ông nói: “Sao mấy người biết tôi mất ngựa là họa mà đến chia buồn cùng tôi”. Thời gian không lâu, con ngựa của ông nó dẫn về thêm một con ngựa nữa. Con ngựa nầy vừa đẹp lại vừa hay. Được tin nầy, người hàng xóm cùng đến chia vui với ông. Ông nói: “Sao mấy người biết tôi có thêm con ngựa là phước mà đến chia vui cùng tôi”.
Được ngựa hay và đẹp, đứa con trai của ông rất thích cỡi. Ngày nào nó cũng thích cỡi ngựa cho chạy nhảy khắp nơi.
Một hôm, vì bất cẩn, nên nó bị té gãy hết một chân. Được tin, mọi người đến chia buồn cùng ông. Ông nói: “Sao mấy người biết con trai tôi bị gãy chân là họa mà đến chia buồn cùng tôi.
Chẳng bao lâu, trong nước có loạn, giặc giã nổi lên, lệnh truyền của vua là mọi thanh niên trong lứa tuổi con trai của ông đều phải nhập ngũ tùng quân giết giặc. Tất cả những thanh niên cùng trang tuổi con trai ông đều phải đi lính hết, chỉ có con trai của ông bị gãy một chân, nên được miễn dịch. Thế là, mọi người đến chia vui cùng ông…
Thú thật, khi xưa, đọc qua câu chuyện nầy, tôi không để tâm nghiền ngẫm. Vì thấy cũng chỉ là câu chuyện thường thôi. Có lẽ, lúc đó, trình độ hiểu biết của tôi chưa đủ để nhận xét tìm hiểu cái hay của cốt chuyện. Cho nên, tôi không mấy quan tâm đến. Nhưng càng lớn tuổi có thêm chút ít kinh nghiệm sống với đời và học hiểu lõm bõm chút ít giáo lý nhà Phật nói về họa phước, nên tôi nghiền ngẫm lại câu chuyện trên thấy hay hay. Do đó, nên hôm nay, tôi muốn kể lại để chia sẻ cùng với các bạn đọc. Nói hay mà hay ở điểm nào? Dĩ nhiên, mỗi người sẽ có cái nhìn khác nhau. Ở đây, tôi chỉ xin được trình bày theo chỗ nhận xét hiểu biết cạn cợt vụng về của tôi mà thôi. Nếu có gì không đúng, xin các bạn thương tình mà bỏ qua cho.
Thói thường, người ta nhìn sự vật theo một chiều. Phước là phước mà họa là họa. Ít ai nhìn thấy, trong phước có họa, trong họa có phước. Nói theo người đời là trong cái rủi, nó có cái may và ngược lại trong cái may, thì lại theo sau, nó có cái rủi. Nhìn vào một sự vật, nếu ta chỉ nhìn theo một chiều, đó là cái nhìn định kiến cục bộ. Đó là cái nhìn theo lăng kính đóng khung chủ quan của mình. Chính cái nhìn nầy, mà tự mình có nhiều nỗi khổ niềm đau. Ở đây, ta thấy, ông già có một cái nhìn rất sâu sắc. Cái nhìn của ông không hạn cuộc một chiều. Mà ông nhìn thấu suốt được hai mặt của một sự vật. Do có cái nhìn tương đối đó, nên ông rất bình tĩnh sáng suốt mà thốt lên những câu nói trên, khi mọi người đến chia sẻ buồn vui với ông.
Khi mất ngựa, ông không hốt hoảng lo sợ. Trong khi đó, thì những người khác thiếu cái nhìn bình tĩnh sáng suốt như ông, nên họ kéo nhau đến chia buồn cùng ông. Ở đời, tất cả mọi việc xảy đến, người ta ít khi chịu khó suy tư chín chắn. Gặp việc buồn bất như ý thì người ta đâm ra lo lắng sầu muộn. Người ta không biết rằng, mọi việc xảy đến với mình đều có nguyên nhân cả. Chẳng qua cái nguyên nhân xảy ra, vì nó quá xa mà ta không biết đó thôi.
Trên đời nầy, không có việc gì ngẫu nhiên mà có ra cả. Mà tất cả đều phải theo luật nhân quả. Hiểu được lý nhân quả, thì khi chuyện buồn vui họa phước xảy đến, ta không đến đỗi phải cuống cuồng lên tỏ ra mừng lo sợ hãi. Họa hay phước đều do mình tạo ra. Thử nghiệm lại cho kỹ, nội trong đời nầy thôi, khoan nói đến nhiều đời trước, từ lúc sanh ra cho đến khi nhắm mắt, có khi nào chúng ta một bề nghĩ lành, nói lành và làm lành hết không? Hay là có lúc vầy lúc khác. Khi thì nghĩ điều lành như Bồ tát, lúc thì nghĩ dữ như quỷ Dạ Xoa. Do đó, khi mình gặp điều phước xảy đến là do mình tạo điều lành ở nơi ba nghiệp. Ngược lại, khi mình gặp hoạn họa đến, đó là lúc mình gây tạo nghiệp ác ở nơi ba nghiệp. Không phải gây tạo trong đời nầy, mà chúng ta đã gây tạo trong nhiều đời về trước.
Tỷ như đời trước, vì tham lam nên mình trộm cắp tài vật quý giá của người, thì đời nầy mình phải bị quả báo là mất của. Đó là họa. Ngược lại, như đời trước hoặc đời nầy, khi mình phát khởi tâm lành, bố thí cứu giúp cho những người bất hạnh như nghèo khổ, đói khát, đau yếu tật nguyền v.v… Nay, mình làm ăn, làm đâu được đó, phát tài lộc, tiền vô như nước. Hoặc giả lúc mình gặp vận không may, làm ăn thất thoát, cụt vốn, hết tiền, đâm ra nghèo khổ, bấy giờ có quới nhơn giúp đỡ cho mình tài vật để làm lại cuộc đời. Đó là Phước. Như vậy, họa hay phước tất cả đều do mình tạo lấy. Nó diễn biến theo từng giai đoạn theo chiều thời gian trong đời sống của mình. Đó là nhân và quả, chính do mình đã gây tạo. Nhân và quả như bóng với hình. Bóng luôn bám sát theo hình, không hề sai chạy một mảy may nào cả.
Nhân và quả trong cuộc đời mình, khi mình gây tạo nhân tốt, thì sẽ có quả báo tốt. Ngược lại cũng thế. Giống như trên con đường xe chạy, có khi thì bằng phẳng trơn láng, có lúc thì lại lỗ hang, khúc khuỷu quanh co. Lúc gặp bằng phẳng xe chạy nhanh, người ngồi trong xe cảm thấy thoải mái, dụ như lúc đó phước đến với mình. Còn gặp lúc gồ ghề lỗ hang, xe khó chạy, người ngồi trong xe bị dằn đau nhức nhối, la ó ỏm tỏi, dụ như bị tai họa xảy đến. Trên đường đời cũng thế. Cuộc sống của mỗi người chúng ta, ít nhiều gì cũng có những họa phước xảy đến. Nặng hay nhẹ, lành hay dữ, đều tùy thuộc vào cái nhân chúng ta đã gây tạo. Hiểu thế, thì khi gặp tai họa đến, ta hãy bình tâm để trả. Vì mình biết rõ, đây là nghiệp quả chính do mình tạo ra, chớ không ai gây ra cho mình.
Đọc qua mẩu chuyện ngắn trên, ta khen cho ông già đó quá! Ta khen ông, vì ông quá hiểu rõ lý nhân quả và ông đã thể hiện ngay trong đời sống. Chuyện xảy ra, giữa họa và phước luôn đắp đổi nhau. Nhưng thường thì họa đến với ta nhiều hơn là phước. Nên có câu nói: “Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Nghĩa là, Phước thì không đến dồn dập hai lần, còn họa thì không đến một cách riêng rẽ. Tức là thường đến chồng chập, dồn dập. Điều nầy, nghiệm kỹ cũng dễ hiểu.
Thử xét lại đời mình. Trong suốt cuộc đời từ nhỏ tới già mình tạo nghiệp dữ nhiều hay tạo nghiệp lành nhiều? Chắc ai cũng nói là mình tạo nghiệp dữ nhiều. Nhưng có điều ta nên nhớ, phước hay họa đến với chúng ta không phải do ta gây tạo trong đời nầy không, mà ta đã gây tạo trải qua không biết bao nhiêu đời trước. Những đời trước, chúng ta đã gây tạo làm sao chúng ta biết được? Đã thế, thì trách ai đây? Vậy thì, ta nên bắt chước thái độ của ông già trong câu chuyện mất ngựa nói trên, để mà bình tĩnh nhận lãnh khi nghiệp quả họa hay phước xảy đến. Chúng ta phải tập cho mình có một cái nhìn, một nhận xét sáng suốt trước sự việc xảy ra.
Phước đến không mừng, họa đến không lo. Cứ tùy phận mà vui sống. Như khi ta gặp hoạn nạn, như bệnh hoạn đau yếu, đang sống cảnh cô độc, hoặc giả đang mang chứng bệnh nan y v.v… chẳng hạn, thì ta biết đó là do nghiệp quả của ta đã gây tạo, nên giờ đây ta phải trả. Nhưng khi trả quả, ta lại khởi niệm, biết đâu nhờ bệnh mà nó cảnh tỉnh ta, dừng chân bay nhảy bon chen với đời để an phận trả quả tu hành. Đây là thời gian tốt để cho ta dốc hết lòng thành niệm Phật. Ta buông bỏ tất cả. Nhứt quyết không để tâm vướng bận lưu luyến bất cứ thứ gì. Ta biết trước sự ra đi của ta. Ta không sợ hãi, vì ta biết rằng ai cũng phải bước vào cửa tử. Đây là con đường mòn mà tất cả mọi người già trẻ bé lớn gì cũng phải đi qua. Biết thế, ta không còn nghĩ ngợi lắm chuyện lăng nhăng khó khăn, như khi ta còn mạnh khỏe.
Đây là thời gian quý báu để ta quyết tâm tìm cái sống trong cái chết. Tìm Niết bàn trong sanh tử. Như thế, không phải là ta đã chuyển họa thành phước đó sao? Ngược lại, khi ta đang sống trong cảnh giàu sang, mọi thứ đều đầy đủ ấm no, gia đình hạnh phúc, mạnh khỏe yên vui, ta mãi lo đắm mê thụ hưởng mà quên đi làm phước tu hành. Đó là trong phước có họa. Bấy giờ ta nên khởi nghĩ, sở dĩ hôm nay ta được như thế nầy, bởi do đời trước ta tu tạo nhiều căn lành, như bố thí cứu người hành thiện không biết mỏi mệt. Nghĩ thế, thì tại sao hôm nay ta không cố gắng tu tạo thêm nhiều phước đức, để mai sau ta tiếp tục hưởng quả báo tốt đẹp như thế nầy? Do nghĩ thế, ta liền thức tỉnh, gắng chí gia công tu hành tài bồi phước đức. Như vậy, đó không phải là chuyển họa thành phước đó sao? 
Tóm lại, dù sống trong hoàn cảnh nào, giàu sang hay nghèo hèn, mạnh khỏe hay đau yếu, đẹp đẽ hay xấu xa… tất cả đều phải theo luật nhân quả an phận mà vui sống. Không than van, không oán trách một ai! Vì tất cả do ta tạo lấy. Mọi việc xảy đến lành hay dữ, ta đều dùng trí huệ để quán chiếu thấu đáo tận tường vào lý nhân quả, như ông già nói trên. Ta tin sâu vững chắc vào lý nhân quả. Nhờ tin sâu như thế, ta không còn chán nản, lo sợ, buồn rầu. Ta quyết tâm an phận tùy duyên mà vui sống. Đó là ta khéo biết tạo cho ta có một cuộc sống an lành, tùy duyên trả nghiệp. Có thế, thì ta mới có cuộc sống an bình trong mọi nghịch và thuận cảnh xảy đến cho ta.
Đó là nói họa hay phước do nhân quả con người tạo ra. Đến như họa, phước của thiên nhiên gây ra thì sao? Thiên tai là một họa hại mà con người luôn lo sợ và tìm mọi phương cách để đối phó. Nhưng liệu có đối phó được không, đó lại là một chuyện khác.
Hẳn ai cũng còn nhớ, trong năm qua, thiên tai đã dồn dập xảy đến ập lên đầu nhơn loại. Thật là quá sức tưởng tượng và cũng quá sức chịu đựng của con người. Những trận thiên tai xảy ra dữ dội. Có thể nói hằng mấy trăm ngàn người chết và hằng triệu triệu người sống trong cảnh màn trời chiếu đất, đói khát lầm than.
Ta có thể điểm sơ qua một vài thiên tai kinh hoàng đã xảy ra trong năm qua: sóng thần Tsunami ở vùng biển Sumatra, lấy đi hơn 225.000 sinh mạng con người. Rồi đến trận bão khủng khiếp Katrina ở Mỹ, lũ lụt ở Trung Quốc, trận động đất 7,6 độ richter ở Nam Á chôn vùi hàng chục nghìn người. Cơn bão số 7, một cơn bão lớn nhứt ở Việt Nam xảy ra vào khoảng đầu tháng mười năm qua, đã gây ra một sự tổn thất rất lớn lao về sinh mạng và tài vật. Đó là những thảm họa lớn nhứt mà do thiên tai giáng xuống cho nhơn loại hứng chịu. Thiên tai gây ra, dù đây là thiên nhiên, nhưng không phải vô cớ mà xảy ra như thế. Tất cả đều phải có nguyên nhân dù gần hay xa.
Nguyên nhân gần, các nhà bảo vệ môi sinh cho rằng, phần lớn là do con người vì mưu sinh mà phá rừng. Vì cái lợi trước mắt mà người ta quên đi cái họa hại lớn lao về sau. Đó là con người tự hủy diệt chính mình. Bởi do con người can thiệp một cách vô ý thức vào môi trường thiên nhiên.
Ai cũng nhìn nhận, thiên tai là một họa hại cho con người. Nhưng xét mặt khác, thì cũng nhờ thiên tai xảy ra mà nhơn loại toàn cầu biết đoàn kết và càng ngày càng ngồi gần lại nhau hơn. Vì lương tâm, vì nhơn đạo, mà người ta vượt qua những hàng rào ranh giới chánh trị. Trước mắt là phải cùng nhau hiệp lực cứu mạng sống con người. Toàn thế giới không thể an nhiên ngồi nhìn những thảm họa vô cùng đau khổ đã và đang đè nặng trên đầu nhơn loại.
Những lời kêu gọi, những nỗ lực cứu trợ, tiếp tế cho những nạn nhân xấu số, ngần ấy, chứng minh con người vẫn còn lương tâm, vẫn còn biết yêu thương đồng loại. Đó không phải là sự đe dọa cảnh cáo của thiên nhiên sao? Thiên nhiên cần cho con người bài học tình người. Và hơn thế nữa cảnh cáo lòng tham lam quá độ không đáy của con người. Muốn được sống yên thân, thì mọi người mau mau dẹp bớt lòng tham, đừng bao giờ động đến thiên nhiên. Thiên nhiên cho ta quá nhiều năng lượng để tạo thêm nhiều sức sống. Thế thì tại sao ta không biết ơn để mà ra tay cùng nhau đoàn kết bảo vệ. Chẳng những không bảo vệ mà còn phá hoại thiên nhiên. Đó phải chăng con người vì quá tham lam ích kỷ mà chọc giận đến thiên nhiên?! Khi thiên nhiên phẫn nộ lên, thì mọi hậu quả khổ đau chính do con người nhận lấy.
Phải chăng qua sự trừng phạt nặng nề của thiên nhiên, mà con người bắt đầu thức tỉnh và chạy lo tìm mọi phương cách để bảo vệ thiên nhiên. Cương quyết trừng trị những ai manh tâm phá hoại thiên nhiên. Tạo cho môi sinh càng ngày càng trở nên trong lành và tốt đẹp hơn. Đó không phải là cái phước của nhơn loại sao? Nếu không có thiên nhiên ra tay trừng phạt, thì biết đến bao giờ con người mới chịu ngồi lại với nhau để tìm phương cứu trợ bảo vệ mạng sống chung cho cả nhơn loại. Như vậy, không phải trong cái họa tìm ra cái phước sao? Mong sao cái phước nầy mãi mãi được mọi người quan hoài chiếu cố để cùng nhau đồng tâm bảo vệ. Bảo vệ thiên nhiên chính là trực tiếp bảo vệ mạng sống con người.
Một vài cảm nghĩ về Hạnh Nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm
Bồ Tát Quan Thế Âm, tiếng Phạn gọi là Bodhisattva Avalokitesvara là vị Bồ tát có nhân duyên rất lớn với chúng sanh ở cõi Ta bà nầy. Đối với các nước theo Phật giáo Phát Triển, người ta thường kính ngưỡng tôn thờ và rất tin tưởng đức Bồ tát Quan Thế Âm. Đại biểu như các nước Trung Hoa, Nhật Bổn, Đại Hàn, Việt Nam v.v… Những quốc gia nầy, hầu hết trong các ngôi Già lam, nơi nào cũng có tôn thờ Thánh tượng Bồ tát Quan Thế Âm. Chẳng những thờ trong chùa không thôi, mà người ta còn tạo tượng tôn trí thờ Ngài ở bên ngoài chùa nữa. Thông thường, người ta hay gọi hình tượng nầy là Quan Âm lộ thiên. Về tôn tượng của Ngài, có nhiều hình tượng khác nhau. Đại khái có những hình tượng rất thông dụng và đã được phổ biến rộng khắp như: Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, Thánh Quan Âm, Mã đầu Quán Âm, Thập Nhất Diện Quán Âm, Chuẩn Đề Quán Âm, Bạch Y Quán Âm, Quán Âm Ngư Lam, Quán Âm Diệu Thiện, Quán Âm và Long Nữ, Quán Âm Nam Hải
Về hạnh nguyện thị hiện những hóa thân cứu khổ của Bồ tát Quan Thế Âm, chúng ta thấy rất rõ trong Kinh Pháp Hoa ở phẩm Phổ Môn. Kinh diễn tả Bồ tát hiện 32 ứng thân đủ loại tùy hình và 19 lối thuyết pháp để phổ độ chúng sanh. Ngài còn có 14 năng lực vô úy. Hình ảnh đức Chuẩn Đề vương là hóa thân của Ngài có ngàn tay ngàn mắt. Mắt và tay là biểu thị cho lòng từ bi và trí tuệ. Có đầy đủ Bi Trí song hành và đức tánh vô úy, thì việc hoằng hóa độ sanh của Bồ tát mới có thể đạt được hiệu quả cao.
Hạnh nguyện của Bồ Tát Quan Thế Âm là hạnh nguyện lắng nghe từ bi cứu khổ. Vì ngay danh hiệu của Ngài cũng đã nói lên cái ý nghĩa đó. Quán Thế Âm có nghĩa là quan sát tiếng tăm kêu than thống khổ của người đời mà Ngài hiện thân đến để cứu độ cho họ vượt qua mọi khổ nạn. Đó là hạnh nguyện vị tha lớn lao trùm khắp pháp giới của Ngài. Bồ tát thì lúc nào cũng sẵn sàng cứu khổ chúng sanh, nhưng chúng sanh khi nào gặp khổ nạn thì mới tưởng nhớ đến Bồ tát. Còn khi ách nạn qua đi, thì họ ít khi nào nghĩ đến. Đó là căn bệnh nghiệp chướng ích kỷ sâu dày của chúng sanh. Lý do họ niệm là vì sợ chết mà niệm. Niệm để được thoát chết hoặc để được toại nguyện theo một nhu cầu thiết yếu mong muốn nào đó của họ. Kỳ thật, không phải họ niệm vì muốn tu hành để được giác ngộ và giải thoát. Thử hỏi niệm danh hiệu của Ngài như thế, thì có đúng theo tinh thần bản nguyện mà Ngài đã chỉ dạy không? 
Chúng ta nên nhớ rằng, Bồ tát Quán Thế Âm xưa kia trong lúc tu nhân, Ngài cũng phải khổ công hành trì theo lời dạy của đức Phật Quán Thế Âm mới được thành tựu. Như Ngài đã trình bày rõ về pháp tu của Ngài trong kinh Lăng Nghiêm. Pháp tu của Ngài chỉ dón gọn trong năm chữ: “phản văn văn tự tánh”. Nghĩa là phải hằng nghe lại tánh nghe của mình. Nhưng khởi đầu vẫn phải bước qua cửa ngõ “Văn, Tư, Tu”. Văn, Tư, Tu là ba môn huệ học có khả năng đưa người ta đạt đến chánh định. Đây là cửa ngõ mà chúng tôi thiết nghĩ, bất cứ người tu hành nào muốn đạt đến quả vị cao tột, cũng phải bước qua. Đây là một pháp tu mà Ngài đã học được từ nơi đức Phật Quán Thế Âm chỉ dạy. Văn là nghe, nghe rồi tư duy, phải luôn nghĩ nhớ chín chắn, xong rồi, nên ứng dụng thật hành những gì mà mình đã suy nghĩ chín chắn kỹ càng đúng theo chân lý.
Điều quan yếu hơn nữa trong pháp tu nầy, là khi nghe tiếng không chạy theo phân biệt ở nơi thinh trần. Vì còn phân biệt là còn dính mắc. Phải nghe lại tánh nghe thường hằng của chính mình. Nghe như thế, gọi là “nhập lưu vong sở”. Cho đến khi bặt dứt chủ thể và khách thể, nói rõ là không còn chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Có vượt ngoài đối đãi nhị nguyên, thì mới chứng nhập được bản thể. Đến đó, thì không còn lời gì để diễn tả luận bàn. Nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm. Chỉ có một tâm thể thanh tịnh sáng suốt hằng liễu tri. Nghĩa là thường biết một cách rõ ràng, không gì có thể dối gạt được. Tuy dứt hết muôn duyên, nhưng vẫn còn cái tâm thể sáng ngời hằng biết.
Như thế, thì ta thấy sự dụng công tu hành của Bồ tát Quan Thế Âm trong lúc tu nhân, thật không phải là chuyện tầm thường dễ dàng. Chính nhờ áp dụng đúng mức pháp tu đó, nên kết quả, Ngài mới trở thành một vị Bồ tát. Vị Bồ tát có đầy đủ năng lực hằng sa diệu dụng, tầm thinh cứu khổ độ sanh phi thường. Ngược lại, nếu chúng ta chỉ niệm danh hiệu Ngài một cách cho có lệ hời hợt không chí thành, hay chỉ niệm cầu mong được Ngài cứu độ cho qua cơn khổ nạn, rồi thì đâu cũng vào đấy. Nếu chỉ biết niệm như thế, thì quả thật không đúng với bản nguyện tu hành giáo hóa của Ngài. Vì bản nguyện của Ngài là muốn cho tất cả chúng sanh phải lo tu niệm hằng tỉnh giác để được thoát khổ. Vì nỗi khổ lớn nhứt của chúng sanh là nỗi thống khổ trôi lăn trong vòng sanh tử. Còn sanh tử là còn mãi mãi bị chìm đắm trong biển đời đầy hệ lụy khổ đau.
Điều cần nhấn mạnh ở đây là, chúng ta không thể phủ nhận sự linh ứng mầu nhiệm của Phật hay Bồ tát. Nhưng sự linh ứng đó cũng tùy tâm ta mà hiện ra. Nếu khi tâm ta có sự tha thiết thành tâm chánh niệm, thì ngay đó, tất nhiên, là có cảm ứng không sai. Nên nói hữu cầu tất ứng là vậy. Nhưng sự linh nghiệm ứng hiện nầy, cũng bởi do chính ta tha thiết chí thành mà có. Nếu chỉ một bề tin tưởng suông ở nơi Bồ tát không thôi, mà không lo tu hành làm lành lánh dữ, để đến khi mắc nạn mới kêu gọi đến Ngài, thì e rằng, chúng ta khó có thể được như ý muốn! Nếu là Phật tử chúng ta không thể một bề phó thác thân mạng mình giao cho Bồ tát. Vì ai ăn nấy no, ai tu nấy thành, ai hành nấy chứng. Không ai có thể tu thế cho ai hay lãnh cái khổ của người khác được. Chúng ta cần phải quan tâm ý thức rõ vấn đề then chốt nầy. Nếu mong cầu cái gì cũng được chư Phật, Bồ tát gia hộ toại ý hết, thì còn gì là luật nhân quả? Người tin chắc vào lý nhân quả thì không thể có tâm ỷ lại mong cầu ỷ lại vào tha nhân.
Điều quan trọng muốn thoát khổ là tự mỗi người phải nỗ lực tự cứu lấy mình. Còn ỷ lại mong chờ Bồ tát, thì không thể nào hết khổ được. Chư Phật và Bồ tát chỉ cho chúng ta một lối thoát, đó là những lời chỉ dạy trong kinh điển, rồi chúng ta y cứ theo đó mà ứng dụng hành trì. Có thế, thì chúng ta mới mong hết khổ. Cũng như chúng ta nương vào bản đồ chỉ dẫn mà chúng ta nỗ lực đi theo đúng phương hướng của bản chỉ dẫn đó thì mới mong đến đích. Vô lý, muốn đến đích mà chúng ta không chịu đi, chỉ biết ngồi lỳ một chỗ, thì thử hỏi làm sao chúng ta có thể tới nơi cho được?
Không tới nơi được thì chúng ta trách ai đây? Trách người chỉ đường hay trách bản đồ hướng dẫn? Chắc là chúng ta chỉ nên trách lấy sự ngu dại của chúng ta mà thôi. Hiểu thế, thì chúng ta không thể nào hoàn toàn ỷ lại vào thần lực cứu độ của các Ngài. Khi chúng ta gặp khổ nạn, sở dĩ chúng ta được sự cảm ứng linh nghiệm cứu khổ của các Ngài là vì lúc đó do chúng ta hết lòng thành tâm tha thiết cầu nguyện niệm danh hiệu Ngài. Bởi do lòng chí thành tha thiết đó mà chúng ta mới có được sự cảm ứng không sai. Nhưng đó chỉ là giai đoạn nhứt thời, mà Bồ tát tạo cho chúng ta có được một niềm tin vững chắc. Do có niềm tin vững chắc nên chúng ta mới phát tín tâm mạnh mẽ tu hành. Bằng ngược lại, thì không thể nào chấm dứt khổ đau được.
Đạo Phật dạy chúng ta phải có cái nhìn thực tế. Đừng bao giờ tin tưởng viển vông một điều gì mà không qua sự chứng nghiệm trí năng cụ thể của chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào sự linh ứng mầu nhiệm của Phật Pháp, đó là sự linh ứng hướng dẫn chúng ta đi đúng theo đường lối tu hành giác ngộ giải thoát. Được thế, thì mới không hổ thẹn là người Phật tử và mới thật xứng danh là người Phật tử chân chánh tu học Phật vậy.
Một vài cảm nghĩ về ngày Phật Đản
Kỷ niệm ngày Đản Sinh của đức Phật, đối với nhơn loại ngày nay không ai còn xa lạ nữa. Đó là ngày trọng đại thiêng liêng đánh dấu một bậc vĩ nhân xuất thế mang lại niềm an vui hạnh phúc đến cho muôn loài. Hôm nay, chúng ta thiết lễ kỷ niệm mừng Ngài có mặt đến với cõi đời nầy, không phải chỉ có tôn xưng tán tụng, hay bày biện mọi thứ hình thức lễ nghi không thôi là đủ, mà thiết nghĩ, chúng ta cần phải quán chiếu sâu vào đời sống cao thượng siêu thoát của Ngài. Vì đời Ngài, nhứt cử nhứt động đều là tấm gương trong sáng để chúng ta noi theo.
Trong lúc còn là một Thái tử, sống trong nhung lụa quyền uy vương giả, kẻ hầu người hạ, tiền hô hậu ủng, vợ đẹp con xinh, mọi thú vui trên đời, thứ gì Ngài cũng đều có đủ. Nhưng không vì thế, mà Ngài lại say mê đắm nhiễm. Ngài cho những thú vui đó chỉ là những thứ hào nhoáng trá hình giả dối. Thú vui chỉ mở đường cho đau khổ, thực chất là tràn đầy hệ lụy đau thương mà thôi. Bên cạnh đó, Ngài còn chứng kiến, những nỗi thống khổ của con người qua bốn trạng thái sanh, già, bệnh, chết, càng làm nung nấu tâm nguyện xuất trần mạnh mẽ của Ngài. Chỉ một lần chứng kiến tận mắt, Ngài đã cảm thấy xót xa cho thân phận của kiếp nhơn sinh. Ngài nhứt quyết phải tìm ra một con đường giải thoát mọi ràng buộc khổ đau cho con người và muôn loài. Đó là con đường giải quyết một lần tận gốc rễ của sanh tử khổ đau.
Từ sự ý thức trong sáng đầy tình thương mãnh liệt đó, Ngài đã cương quyết phải từ bỏ đời sống xa hoa vương vị, quyết chí rời khỏi hoàng cung sống đời sống của một vị Sa môn.
Trải qua quá trình phấn đấu gian khổ trong việc tu học, và đại phá ma quân, cuối cùng, Ngài đã chiến thắng và đạt thành sở nguyện, tức thành Phật gọi là đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Sau ngày thành đạo cho đến khi nhập diệt, trải qua thời gian 49 năm, Ngài đã không ngừng giáo hóa độ sinh. Kết quả, Ngài đã để lại cho nhơn loại một kho tàng kinh điển đồ sộ, do chư Tổ Sư kết tập lại thành Tam tạng giáo điển. Có thể nói, trên thế gian nầy, chưa có một vị giáo chủ nào mà cống hiến cho nhơn loại cả một kho tàng kinh điển quy mô lớn lao như thế. Đó là một diễm phúc thật lớn lao hy hữu cho tất cả chúng ta. Cả đời thuyết giáo của Ngài, tuy có phân chia thành nhiều hệ thống tư tưởng sâu cạn khác nhau, nhưng tựu trung không ngoài hai chữ “giải thoát”. Vì đó là trọng tâm của Ngài hướng đến. Dù chúng ta tu bất cứ pháp môn nào, mục tiêu tối hậu cũng nhằm hướng đến giải thoát khỏi vòng trầm luân sanh tử.
Ngày nay, chúng ta biết được đường lối tu hành, thoát khỏi mọi ràng buộc khổ đau, cũng chính do đức Phật đã chỉ bày vạch sẵn. Quả ân đức của Ngài thật lớn lao không sao nói hết. Muốn tri ân tưởng niệm đời Ngài cho có ý nghĩa thiết thực, thiết nghĩ, mỗi người Phật tử chúng ta nên tự quán chiếu lại mình. Có quán chiếu sâu vào nội tại, ta mới nhận diện được lẽ chánh tà, chân vọng. Nói rõ hơn là ta mới thấy được những thứ giả dối trong ta. Điều mà lâu nay, ta cứ bảo thủ chấp chặt cho tất cả là thật. Từ thân tâm cho đến mọi cảnh vật chung quanh, cái gì đối với chúng ta cũng là thật hết. Nhưng khi quán chiếu nhìn sâu suy nghiệm thật kỹ, ta mới nhận ra rằng, mọi thứ chỉ là ảo ảnh giả dối tạm bợ, như bóng trong gương hay bóng trăng dưới nước. Mọi vật chỉ là do nhân duyên giả hợp tạo thành. Quả đúng như lời Phật dạy trong Kinh Viên Giác: “ Chúng sanh vọng nhận tứ đại làm tướng tự thân, duyên ảnh sáu trần làm tướng tự tâm”. Thấu đạt được lý duyên sinh, ta mới nhận ra được giáo lý vô ngã Phật dạy. Khổ, không, vô thường, vô ngã, đó là những giáo lý căn bản thuộc Tứ pháp ấn mà ta cần phải học hỏi và thực nghiệm.
Thấu hiểu được lý vô ngã, tất nhiên là ta không còn những định kiến chấp trước sai lầm ở nơi vạn pháp. Từ đó, ta mới có được cái nhìn rộng mở, sâu sắc, phá tan những thành kiến bảo thủ, kính màu kỳ thị, tranh chấp hận thù, và ta sẽ có một đời sống bao dung tha thứ thắm đượm tình người trong dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn. Từ đó, ta mới có tình thương bao la chan hòa rộng khắp. Đó là con đường chấm dứt gây ra những nỗi khổ đau cho mình và người. Được vậy, ta mới thật sự nhận được thông điệp: “Từ bi, vị tha và bình đẳng” từ nơi đức Phật truyền đạt. Và có như thế, ta mới thấy được tình huynh đệ cao quý thiêng liêng hơn. Đó là bức thông điệp sống chung hòa bình, tứ hải giai huynh đệ, mà đức Phật đã khai thông gởi đến cho nhơn loại.
Hôm nay, chúng ta đang kính cẩn nghiêm trang cung đón mừng ngày đản sinh của đức Phật, chúng ta hãy cùng nhau thành tâm cầu nguyện cho chính mình và cho mọi người hãy biết thương yêu nhau, đừng bao giờ gây thêm rắc rối làm khổ đau cho nhau. Thế giới ngày nay vốn đã có quá nhiều đau khổ hỗn loạn, xin mọi người đừng tiếp tục gây thêm sự bất an hỗn loạn nữa. Những vấn đề rối loạn họa hoạn cụ thể hiện đã và đang xảy ra như nạn: khủng hoảng kinh tế suy thoái toàn cầu, chiến tranh vẫn còn ầm ĩ khắp nơi, khí hậu ngày càng nóng bức, môi sinh ngày càng bị ô nhiễm, thiên tai gây tổn hại thật nặng nề khắp nơi, cấu trúc xã hội bị phá vỡ trầm trọng, tội phạm ngày càng gia tăng, gia đình đổ vỡ tan nát mất hạnh phúc vân vân và vân vân. Tất cả những ách nạn đó phải chăng, phần lớn cũng đều do con người gây ra và rồi con người phải hứng chịu lãnh lấy những hậu quả tang thương bi đát đầy khổ lụy.
Phật đản là dịp để chúng ta hãy tương kính nắm lấy tay nhau, xóa bỏ mọi hận thù tranh chấp, khủng bố, mọi vị kỷ thấp hèn, mọi đam mê đắm nhiễm… Chúng ta phải có lòng tri ân đối với tất cả muôn loài. Vì sự sống của chúng ta có liên quan mật thiết với tất cả vạn vật. Từ miếng ăn, thức uống cho đến đất đai, sông núi, rừng cây, hoa lá, biển cả, sinh vật, khí hậu, môi sinh v.v… tất cả đều là những vật loại có ân trực tiếp hoặc gián tiếp đối với chúng ta.
Tâm niệm rằng, ta là kẻ thọ ân sâu đối với vạn loại, trong đó, dĩ nhiên, có thâm ân tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thầy tổ, của chúng ta thật quá sâu nặng. Làm sao ta có thể tách biệt những tế bào, dòng máu của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, ra khỏi da thịt huyết quản của ta? Như thế, thì tại sao ta lại phản bội những thứ đem lại cho ta sự sống? Nghĩ thế, thì ta mới có thể trải rộng tấm lòng thương yêu vị tha bao dung rộng lớn. Là Phật tử, Phật dạy, mỗi người cần nên trang bị cho mình có đủ Tam đức. Tam đức gồm có: “Trí đức, Đoạn đức và Ân đức”. Trí đức là thứ trí tuệ sắc bén mà ta cần phải gia tâm học hỏi trau dồi. Có trí tuệ ta mới biện biệt được lẽ chánh tà chân ngụy. Cái gì đáng làm và không đáng làm. Nhờ có trí tuệ sáng suốt mà ta mới có thể chiếu soi phá tan vô minh phiền não. Chặt đứt mọi thứ giây mơ rễ má phiền não, tất nhiên, là ta phải nhờ đến cái búa bén trí tuệ. Đó là đoạn đức. Một khi phiền não đã được đoạn trừ, thì bấy giờ ta mới có những hành động, lời nói và việc làm luôn làm lợi ích cho tha nhân. Làm với tâm hỷ xả không dính mắc vào sự vật. Luôn có tâm hồn bao dung tha thứ, dù ai đó gây ra cho ta đau khổ. Sự bao dung rộng lượng tha thứ, đó là ân đức. Như vậy, người Phật tử luôn áp dụng Ba Đức nầy vào đời sống, tất nhiên, chắc chắn là ta sẽ có được an lạc và hạnh phúc tràn đầy. Có thế, thì ta mới bắt gặp được hình ảnh của đức Phật và chính đó ta mới thực sự đền ơn giáo huấn của Ngài.
Một vài cảm nghĩ về ngày Đại Lễ Vu Lan
Khi nói đến Vu Lan người ta nghĩ ngay đến báo hiếu. Khi nói đến báo hiếu, người ta nghĩ ngay đến hình ảnh Tôn giả Mục kiền liên và bà Thanh Đề. Đây là hai nhân vật chính và cũng là nguyên nhân mà Phật nói Kinh Vu Lan. Vì thế cho nên hàng Phật tử chúng ta mới có Kinh Vu Lan để trì tụng trong mùa báo hiếu.
Xưa nay, ai cũng ca tụng ngài Mục kiền liên là người con chí hiếu. Vì ngài là người cứu thoát mẹ ngài thoát khỏi chốn ngục hình đau khổ. Vì vậy, nên chúng ta noi theo tấm gương hiếu hạnh của ngài mà lo phụng dưỡng ông bà cha mẹ. Ngoài ra, chúng ta còn noi theo hạnh nguyện cao cả của ngài về việc thiết lễ cúng dường trai tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ, song thân phụ mẫu, mong tất cả đều được lợi lạc. Vì những bậc đó là những người có công ơn rất lớn lao, trong việc sanh thành dưỡng dục chúng ta. Người đã giáo dưỡng đào tạo chúng ta trở nên những con người hữu dụng tốt đẹp trong xã hội. Vì vậy mà đạo làm con chúng ta phải luôn ghi nhớ công ơn và phải lo báo đáp. Đó là một truyền thống hiếu đạo tuyệt vời cao cả mà người Phật tử cần phải noi theo. Buổi lễ cúng dường trai tăng nầy, khởi nguyên từ thời đức Phật còn tại thế. Buổi lễ được tổ chức trang nghiêm trọng thể vào ngày rằm tháng bảy âm lịch, là ngày lễ mãn hạ tự tứ của chư Tăng.
Khi đạo Phật du nhập vào đất nước Việt Nam ta, không biết dân tộc ta đã lấy ngày nầy để tổ chức thành ngày đại lễ Vu Lan Thắng Hội trọng thể vào lúc nào? Thú thật là chúng tôi không được rõ lắm. Song có điều, chúng ta thấy, ngày lễ truyền thống nầy nó rất phù hợp với tinh thần hiếu đạo sẵn có của dân tộc ta. Có lẽ vì vậy, mà tổ tiên ta đã lấy ngày rằm tháng bảy (còn gọi là ngày xá tội vong nhân) âm lịch hằng năm, làm ngày đại lễ Vu Lan báo hiếu. Mục đích là để nhắc nhở cho con cháu phải luôn nhớ đến cội nguồn tổ tiên ông bà cha mẹ. Nói rộng ra là phải nhớ đến bốn ân thâm trọng: ân cha mẹ, ân thầy tổ, ân quốc vương thủy thổ, và ân đàn na thí chủ hay nói rộng ra là ân chúng sanh.
Ơn chúng sanh hằng tâm ghi nhớ
Ơn nước nhà cũng chớ có quên
Ơn Thầy ơn Tổ đáp đền
Ơn cha, ơn mẹ, trọn nên thân người.
Nhân ngày đại lễ Vu Lan, chúng ta thử tìm hiểu khái quát qua đôi nét về hai nhân vật chính trong Kinh Vu Lan, mà người Phật tử chúng ta thường trì tụng trong mùa Vu Lan báo hiếu. Đó là Tôn giả đại hiếu Mục kiền liên và thân mẫu của ngài. Đồng thời, chúng ta cũng sẽ tìm hiểu lý do tại sao mà bà Mục liên thanh đề được thoát khỏi tội khổ? Và tác dụng ảnh hưởng của sự cầu nguyện đó như thế nào? Đó là chủ đích nhắm tới của bài viết nầy.
Với thâm ý của chúng tôi là để cho người Phật tử chúng ta lấy đó làm một bài học, để chúng ta có thể áp dụng ngay trong đời sống thực tế hằng ngày. Thiết nghĩ, như thế, thì mới thực sự có lợi lạc hữu ích. Thật ra, khi tụng kinh hay dự lễ Vu Lan, đại đa số Phật tử chúng ta chỉ biết có mỗi một việc duy nhất, là chúng ta thành tâm cầu nguyện cho ông bà cha mẹ của chúng ta, kẻ còn người mất đều được thoát khổ, lợi lạc. Việc làm đó, theo thiển nghĩ của chúng tôi, cũng chưa đủ để chúng ta gọi là báo hiếu. Báo hiếu theo tinh thần của người Phật tử, tất nhiên nó phải vượt xa hơn người đời. Không phải chỉ tri ân và báo ân trong phạm vi thân bằng quyến thuộc của chúng ta không thôi, mà còn phải trải rộng lòng tri ân thương tưởng cứu giúp đến muôn loài vạn vật. Đó là chúng ta thật hành theo con đường báo hiếu của Bồ tát đạo.
Bây giờ, trước hết, chúng ta thử tìm hiểu đại khái vài nét về nhân vật chính là bà Mục liên thanh đề. Ở đây, chúng tôi xin miễn nêu ra dong dài về tích truyện huyền thoại của bà. Mà chúng tôi chỉ xin đề cập đến nguyên nhân nào đưa đến cho bà phải chịu cái quả báo cực hình đau khổ như trong Kinh Vu Lan đã diễn tả. Cái quả báo mà bà đã thọ lãnh, nguyên nhân chính yếu là phát xuất từ tâm độc ác của bà. Theo truyện tích đã kể, là bà đã có ác tâm hại chúng Tăng, bằng cách là làm bánh bao bằng nhân thịt chó. Chuyện có hay không, điều đó chúng ta không cần biết đến, mà chúng ta chỉ biết là bà đã phải chịu cái quả báo khổ đau rất thê thảm nơi chốn ngục hình. Trong Kinh Vu Lan nói, là bà bị đọa vào loài ngạ quỷ đói khát.
Khi tụng đọc Kinh Vu Lan, nghe Phật diễn tả về nỗi đau khổ cùng cực của bà, chúng ta rất cảm thông chua xót cho bà, chỉ vì si mê tăm tối mà bà đã tạo ra cái nhân độc ác nên phải chịu lãnh lấy cái quả báo khổ đau như thế. Khi cảm thông cho bà, ta cũng phải nghĩ lại thân phận của ta. Đây là một bài học nhân quả rát bỏng, mà chúng ta phải học từ Kinh Vu Lan. Nếu không gây nhân ác làm gì có quả báo ác?
Thử nhìn vào thế giới hiện tại mà chúng ta đang sống, chúng ta thấy có biết bao nhiêu người đã và đang chịu cái nỗi đau khổ cực hình giống như bà Mục liên thanh đề. Họ cũng đang bị hành hạ khổ sở ngày đêm trong chốn ngục tù, chỉ vì một phút giây vô minh nổi lên, mà họ không tự kềm chế được, rồi hành động gây tạo nghiệp ác, nên phải chịu cái quả báo khổ đau thê thảm không khác gì bà Thanh Đề. Một ác niệm vừa dấy lên trong tâm thức, mà chúng ta không sáng suốt nhận diện chuyển hóa nó, để rồi theo nó mà hành động ở nơi thân hoặc ở nơi miệng, thì chúng ta sẽ lãnh lấy một hậu quả rất là tai hại.
Phật dạy, muốn tránh quả khổ thì đừng có gây nhân khổ. Không giết người, không trộm cướp, không buôn lậu nha phiến, không hiếp dâm làm điều bất chánh v.v… thì làm gì có quả báo khổ đau. Nêu ra hình ảnh bà Thanh Đề để chúng ta coi đó là một tấm gương đau khổ mà chúng ta cần phải tránh. Chúng ta thương bà và chúng ta rất cảm thông nỗi khổ niềm đau của bà, vì bà đã nghe theo tiếng gọi của bọn giặc độc ác vô minh “Tham, Sân, Si”, mà gây ra phải chịu quả khổ như thế. Đó là chúng ta thấy rõ hình ảnh của một con người đã bị sa đọa.
Một nỗi đau thương thống thiết hơn nữa, là bà tuy đói khát thèm thuồng đủ mọi thứ, nhưng tiếc thay nào bà có ăn được thứ gì! Cơm đưa chưa đến miệng bà, thì cơm kia đã hóa thành than lửa. Bà không thể nào ăn được. Lửa đó là lửa tham lam, lửa sân hận, lửa si mê, lửa bỏn xẻn, keo kiết v.v… nó bốc cháy dữ dội thiêu đốt cả tâm can của bà. Ngày nay, cũng có không biết bao nhiêu kẻ lâm vào tình trạng đói khát kêu la giống như bà Thanh đề. Họ là những con người bất hạnh thật tội nghiệp đáng thương! họ đi lang thang thất thểu rày đây mai đó như con ma đói. Chẳng những họ đói khát về vật chất không thôi, mà họ còn đói khát rất nhiều về tình thương. Cái đói khát nầy mới thật là dày vò đau khổ, xé nát tâm can của họ. Quả đúng như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã nói:
Đòi những kẻ thiên ma bách chiết
Hình thì còn, bụng chết đòi nau?
Thảo nào khi mới chôn nhau
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra…
Hình hài thân xác của họ thì còn đó, nhưng tâm hồn của họ thì đã chết từ lâu rồi! Họ chỉ kéo lê cái thân xác héo mòn tàn tạ rạc rài đi trong bóng tối si mê của cuộc đời mong tìm kiếm van xin một chút tình thương. Chỉ cần một chút tình thương của những con người giàu lòng nhân ái, nhỏ cho họ một giọt nước cam lồ từ bi tươi mát. Họ rất cần sự cứu giúp của mọi người. Được thế, quả họ cảm thấy rất ấm lòng. Vì họ là những người đang bị vướng vào cái “móc khổ bị treo ngược”. Họ rất cần những người có đôi mắt “từ nhãn thị chúng sanh” của hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm để an ủi xoa dịu những nỗi khổ đau thống thiết rát bỏng của họ. Giúp đỡ thi ân cho những con người bất hạnh nầy, đó là người Phật tử đã làm một nghĩa cử rất cao đẹp. Hiện nhơn loại rất cần những bàn tay từ bi và đôi mắt tuệ nhãn nầy. Người Phật tử luôn tâm niệm rằng: “Dẫu xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người”. Mang sức sống đem lại nguồn vui yêu thương đến cho mọi loài, đó là ta đã thể hiện tấm lòng hiếu đạo vị tha cao cả rộng lượng của Bồ tát rồi vậy.
Bên cạnh đó, lại có một hình ảnh của một con người giải thoát. Đó là Tôn giả Mục kiền liên. Điều nầy cho chúng ta thấy, bên cái ác lại có cái thiện. Nếu ác không thì làm sao con người sống nổi? Mà nếu thiện không thì thế giới nầy đã trở thành Cực lạc huỳnh kim rồi. Vì cõi đời là tương đối, chúng ta chưa vượt thoát khỏi vòng đối đãi nhị nguyên, nên chúng ta mới có khổ. Nói rõ hơn, trong tâm thức của chúng ta có hai loại hạt giống: thiện và ác. Nhưng ác thì bao giờ cũng nhiều hơn thiện. Thực tế, nhìn vào trong xã hội loài người, ta thấy rất rõ điều đó.
Điều mà chúng ta cũng nên suy gẫm, bà Thanh Đề khi bà thọ khổ, còn có ngài Mục kiền liên tìm cách cứu thoát cho bà. Còn nếu như chúng ta tạo nghiệp ác, khi rơi vào địa ngục, thì thử hỏi ai là người cứu chúng ta đây?! Thường người ta có thói quen hay nhìn phiến diện cục bộ. Nói đến ngài Mục kiền liên, người ta chỉ biết ngài là người con chí hiếu, nhưng ít ai nghĩ đến khía cạnh tu hành giải thoát của ngài. Ngài là người có thần thông đệ nhất. Tại sao ngài được như thế? Có phải là do ngài nỗ lực công phu tu hành gạn lọc hết phiền não mà được như thế không? Như vậy, khi nói đến ngài, ta phải noi theo tấm gương sáng của ngài qua hai phương diện: “lòng hiếu thảo và sự tu hành dứt hết phiền não”. Nói gọn là noi theo tấm gương giải thoát của ngài. Như vậy, mới đúng là người Phật tử khi nghĩ đến ngài.
Nhưng mặc dù ngài là người con chí hiếu, có đủ thần thông lực dụng, nhưng tại sao ngài không thể cứu thoát mẹ ngài khỏi chốn ngục hình, mà ngài phải khẩn cầu đức Phật chỉ dạy? Đó là điều mà thiết nghĩ, chúng ta cũng cần nên suy gẫm. Ở đây, cho ta thấy luật nhân quả rất công bằng. Ai làm người đó chịu, ai ăn người nấy no. Không ai có thể ăn thế cho ai, hay chịu tội thế cho ai được cả. Và cũng không có một bàn tay thần thánh nào có thể cứu được. Nếu như ngài dùng thần thông cứu mẹ ngài được, thì thử hỏi luật nhân quả còn có tác dụng gì nữa không? Nhân quả còn có công bằng nữa hay không? Và có còn ai tin vào luật nhân quả nữa không? Nếu thế, thì không thành luật nhân quả và chính ngài mắc phải cái tội là phá luật nhân quả mất rồi.
Do đó, nên ngài phải cần cầu đến tha lực. Tha lực đó là nhờ thần lực chú nguyện của Phật và Thánh chúng. Đó là một tăng thân (sangha body) tu hành thanh tịnh. Chúng ta nên biết rằng, đây chỉ là trợ duyên tốt thôi, chớ không phải là do sự chú nguyện đó, mà bà Mục liên thanh đề thoát khổ. Nếu hiểu như thế, thì ta hoàn toàn ỷ lại vào tha lực, đó là điều trái với tinh thần giác ngộ của đạo Phật. Ta cần lưu ý điểm nầy. Chẳng qua sự chú nguyện đó, nó chỉ có tác động ảnh hưởng làm cho bà Thanh Đề thức tỉnh tự hối cải và phát tâm hướng thiện, mà chính bà phải tự cởi trói cho bà. Vì bà tự cột thì chính bà phải tự tháo gỡ. Ngoài ra, tất cả đều là những trợ duyên phụ thuộc tốt mà thôi.
Hiểu thế, thì mới không trái với luật nhân quả. Nếu không, thì con người tha hồ tạo ác, rồi sau khi chết nhờ Tăng Ni tụng kinh chú nguyện cho liền được siêu thoát. Nghĩ thế, thì chúng ta tự chuốc quả khổ hệ lụy cho mình. Không ai có thần lực làm cho mình hết khổ được cả. Khi mình gây tạo nghiệp ác, thì chính cái nghiệp ác đó nó có một năng lực trói chặt mình lại. Nếu như mình muốn tháo gỡ nó ra, thì cũng chính mình phải tự tháo gỡ lấy. Tốt hơn hết, là chúng ta không nên gây tạo nghiệp ác để rồi phải chiêu cảm quả báo thọ khổ. Chừng đó, chúng ta có than khóc thống trách thì cũng đã quá muộn màng lắm rồi! Chi bằng tránh nhân thì không có quả. Chúng ta nên nhớ câu: “Phàm làm việc gì, trước phải nghĩ đến cái hậu quả của nó”. Được vậy, thì không còn gì phải lo sợ cái quả báo xấu xa nữa.
Tóm lại, cả hai hình ảnh mà chúng ta thấy, đều là tấm gương sáng để chúng ta lấy đó làm bài học hành xử trong cuộc đời. Khổ hay vui, giải thoát hay buộc ràng, tất cả đều do chúng ta tự tạo lấy. Nói theo Kinh Hoa Nghiêm thì, “tất cả đều do tâm tạo”. Địa ngục hay Niết bàn cũng đều do mình tạo ra. Nhân nào quả nấy là vậy. Chúng ta nên tin chắc vào luật nhân quả để hành hoạt trong đời sống. Tránh nhân ác thì sẽ không bao giờ gặt hái quả ác.
Qua Kinh Vu Lan, chúng ta thấy Phật chỉ cho chúng ta một hướng sống giải thoát thực tế. Chính mình phải chọn cho mình một con đường thoát khổ. Đồng thời cũng nói lên phẩm hạnh đạo đức qua cung cách hành xử trong gia đình và ngoài xã hội. Đó là đức Phật nhằm khuyến nhắc mọi người, nhất là người Phật tử phải nên lấy đạo đức làm căn bản trong đạo xử thế. Vì hiếu đạo là cội nguồn, là mạch sống của sự sống. Nhờ có lòng tri ân và báo ân, mà đời sống của con người mới thăng hoa tươi đẹp và nó sẽ mang lại ý nghĩa thắm đượm tình người nhiều hơn. Và cũng nhờ đó mà nhơn loại sẽ biết yêu thương nhau hơn và tránh gây đau khổ cho nhau. Vì máu chảy thì ruột phải mềm! Không gây khổ đau cho nhau, thì đời sống của con người mới thực sự có ý nghĩa và mới có được an lạc hạnh phúc. Chiến tranh hay hòa bình đều phát xuất từ tâm thức của con người mà ra.
Nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu, chúng tôi xin thành tâm kính chúc mọi người cùng nhau hướng về mục đích chung: xây dựng tình người, làm thăng hoa cuộc sống và mang lại nhiều lợi lạc đến cho mình và tha nhân. Kính chúc toàn thể trọn hưởng một mùa Vu Lan an bình và hạnh phúc.
Muốn trở thành người Phật Tử
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Đạo Phật đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Muốn có được niềm vui, tất nhiên, mỗi người cần phải có ý hướng quyết định lấy. Ý hướng không chưa đủ, mà đòi hỏi con người cần phải có quyết tâm. Khi đã có ý hướng tự vạch cho mình một lối đi, thì ta cần phải tập làm quen dần với môi trường mới lạ. Bất cứ ai và bất cứ ở vào lứa tuổi nào, lần đầu tiên đến chùa ai cũng cảm thấy lạ lùng bỡ ngỡ. Vì mọi thứ mình chưa hiểu biết. Từ cách xưng hô đến những cách thức lễ nghi trong chùa v.v… tất cả đối với họ đều ngỡ ngàng áy náy. Việc gì cũng vậy, trước lạ sau quen. Cứ tập đi chùa rồi dần dần ta không còn thấy xa lạ nữa. Có người từ nhỏ tới lớn chưa một lần bước chân đến chùa, nay bỗng dưng tới chùa làm lễ quy y. Do bởi một động cơ nào đó thúc đẩy mà từ trước tới giờ, họ chưa bao giờ nghĩ đến. Khi quỳ trước Tam bảo quy y, thật họ cảm thấy vô cùng bỡ ngỡ, không hiểu mô tê gì cả. Người có chút cẩn thận, khi muốn làm việc gì, họ đều cân nhắc kỹ lưỡng thận trọng. Việc làm thường còn như thế, hà tất gì việc quy y trở thành người Phật tử thật là hệ trong suốt cả cuộc đời. Thế nên, trước khi muốn quy y Tam Bảo để trở thành người Phật tử chánh thức, thì chúng ta cần phải tìm hiểu về cái đạo giáo mà mình muốn theo tôn thờ. Có tìm hiểu rồi, chúng ta mới có niềm tin đúng đắn vững vàng. Như thế, thì việc làm của ta mới có ý nghĩa và sự chọn lựa của ta mới thật sự có ý thức thích hợp và mới thật sự có lợi ích thiết thực.
I. Nhận thức sự khổ đau cuộc đời qua kinh nghiệm bản thân
Ai cũng công nhận, khổ là sự thực của cuộc đời. Vì nó là một chơn lý. Khổ (dukkha) là Đế đầu tiên trong Tứ Diệu Đế. Tứ diệu đế là : Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Một thi sĩ đã diễn tả về nỗi thống khổ của cuộc đời qua 4 câu thơ như sau:
Biển khổ mênh mông sóng ngập trời,
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi
Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió
Nhìn lại cùng trong bể khổ thôi.

Mỗi người thử nghiệm lại chính mình thì biết rõ. Bao nhiêu nỗi khổ niềm đau đều luôn luôn có mặt với chính mình. Khổ về tự thân như đau ốm bệnh tật, già nua. Khổ vì người thân trong gia đình mới mất. Khổ vì vợ chồng bất hòa ly dị. Khổ vì con cái bụi đời nghiện ngập hút xách bê tha hư hỏng. Khổ vì lo sanh kế trong gia đình như : lo ăn, lo mặc, lo nghèo giàu đủ thứ… Khổ vì hoàn cảnh như chiến tranh, thiên tai ách nạn. Khổ vì thi rớt, vì thất tình, vì của cải bị phá sản, vì thua bài bạc bán hết gia tài, vì bị giựt hụi mất hết một số tiền lớn vân vân và vân vân. Luận về những nỗi khổ ở đời, thì không luận hạng người nào, phái tính nào, ở lứa tuổi nào, ai ai cũng có những nỗi khổ niềm đau riêng, thực khó mà kể ra cho hết được.
Kinh Pháp Hoa nói:
Ba cõi không an
Dường như nhà lửa
Đau khổ dẫy đầy
Thật đáng sợ hãi.
Nhà thơ Xuân Diệu từng cảm xúc trước sự thực nầy, nên đã nói lên:
“Trái đất ba phần tư nước mắt
Đi như giọt lệ giữa không trung”

(Lệ - Xuân Diệu)
Kinh A Hàm Phật cũng nói:
“Các ông luân hồi sinh tử trong đêm dài vô minh, nước mắt tuôn chảy (vì đau khổ) rất nhiều, còn nhiều hơn nước của sông Hằng và bốn biển.”
Thử nghiệm lại qua những lời Phật dạy và những lời thơ diễn tả trên, thì chúng ta thấy rõ nỗi khổ đau của cuộc đời như thế nào và hơn ai hết thử nghiệm lại chính bản thân mình thì lại càng hiểu rõ hơn.
II. Ý chí kiên quyết là chìa khóa bước đầu
Biết khổ để làm gì? Biết khổ không có nghĩa là để chúng ta bi quan chán đời. Đó là quan niệm sai lầm cần phải tránh. Đạo Phật chỉ bày nỗi khổ cho ta, để chúng ta nhận ra sự thực cuộc đời. Nhận ra, để chúng ta vươn lên tìm cách thoát ly. Thoát ly, không có nghĩa là trốn chạy đầu hàng hay quyên sinh tự tử. Thoát ly là ta phải tìm cho ra lẽ sống chơn thật và cao thượng hơn. Khi gặp khó khăn bất như ý, ta phải bình tĩnh sáng suốt để tìm nguyên nhân gây ra của sự khó khăn đau khổ đó. Khi làm ăn thất bại hay thi cử không đỗ đạt, hay bất cứ ta gặp sự thất bại nào trên trường tình, Phật dạy, ta phải sáng suốt bình tĩnh để truy tìm nguyên nhân. Không có gì xảy ra mà không có nguyên nhân. Tìm ra nguyên nhân, thì ta mới có thể tìm phương cách để đối phó chữa trị. Sự kiện nầy, đòi hỏi chúng ta cần phải có ý chí kiên quyết. Khi dự tính điều gì mang tính quan trọng, ta cần phải tỉnh táo sáng suốt quyết định. Như ta muốn trở thành một người Phật tử chơn chánh, thì ta cần phải có ý chí cương quyết. Thiếu ý chí nầy, thì tất cả những gì ta muốn sẽ không bao giờ thực hiện thành tựu được. Vì vậy, ý chí là bước đầu để quyết định đời mình đến với đạo Phật bằng một sự cân nhắc kỹ lưỡng thích đáng.
III. Tìm thầy hiền bạn tốt hướng dẫn học hỏi
Sau khi đã có sự quyết định rồi, chúng ta cũng không nên vội vã phải quy y liền. Trước tiên, chúng ta nên tìm thầy bạn để học hỏi những gì mà chúng ta chưa hiểu. Sự tu học là cả cuộc đời ta, chớ không phải chỉ một ngày một bữa. Có nhiều Phật tử, vì thiếu sự tìm hiểu, nên có quyết định vội vàng không như ý muốn, rồi sau đó có những bất mãn xa thầy, xa chùa, bỏ bạn. Điều đó không tốt, ta cần nên tránh. Thầy bạn là người hướng dẫn ta trong việc tu học, nên ta cần phải cân nhắc kỹ càng. Không nên nghe đâu chúc đó mà sau nầy ân hận. Từ ân hận ta trở nên oán trách và xa lánh. Chẳng những thế, ta còn trở lại chê bai nói xấu, thì thật là mang tội rất lớn. Thế nên, trước khi quyết định quy y Tam Bảo, hướng đời mình về với chánh pháp, thì ta nên tìm hiểu học hỏi trước. Khi hiểu rồi, thì sau đó chúng ta quyết định cũng không muộn. Có nhiều Phật tử, sau khi làm lễ quy y Tam Bảo rồi, cả đời không hiểu Phật pháp là gì. Thậm chí hai chữ Tam Bảo và năm cấm giới mà mình đã phát nguyện quy y lãnh thọ trước Tam bảo, cũng không hiểu gì cả. Không hiểu thì làm sao thật hành cho đúng pháp được. Không thật hành đúng, thì làm sao có lợi ích. Chẳng những thế, mà đôi khi làm sai lệch trái ngược lại những điều mà mình đã phát nguyện, thì thật là tội lỗi. Như vậy, làm sao mình xứng danh là người Phật tử? Chả lẽ Phật tử chỉ có mang danh suông thôi sao? Và quy y cũng chỉ là quy y suông cho có lệ! Như vậy, thì còn gì là ý nghĩa quy y và như thế thì sự quy y của mình cũng đâu có được lợi ích gì!
IV. Xây dựng niềm tin vững chắc trên cơ sở giác ngộ
Niềm tin rất quan trọng đối với một người mới bước chân và đạo. Nếu niềm tin của chúng ta đặt sai chỗ, không phù hợp với đạo lý giác ngộ, thì đó là một điều tai hại rất lớn. Vẫn biết niềm tin là mẹ đẻ của các công đức lành. Người không có niềm tin, tất nhiên, họ không thể nào làm điều gì có lợi ích cho minh và người. Đạo Phật rất chú trọng đến việc xây dựng niềm tin đúng với chơn lý nhân quả. Khi tìm hiểu về đạo Phật, trước tiên, ta nên đặt định niềm tin của ta trên nền tảng: Tam Bảo, và nhân quả. Nếu chúng ta đặt niềm tin lệch hướng quỹ đạo nầy, tất nhiên, là ta sẽ rơi vào con đường mê tín, tà ngoại. Thế nên, ta cần phải hết sức thận trọng. Đạo Phật lúc nào cũng nêu cao chánh tín, vì có chánh tín thì việc tu niệm của chúng ta mới đúng hướng giác ngộ và như thế mới thật sự có lợi ích trong việc tu hành của chúng ta ở hiện tại và mai sau.
V. Nghiên cứu học hỏi qua Kinh điển sách vở
Người có chút đầu óc khoa học, thì khi họ muốn làm điều gì có tác động ảnh hưởng đến cuộc đời họ, thì họ đều nghiên cứu tìm hiểu thật kỹ càng, trước khi thật hành. Cũng thế, khi ta muốn quy y Tam Bảo để trở thành một người Phật tử chơn chánh, thì trước hết, ta nên tìm hiểu Phật pháp qua Kinh điển sách vở. Khi tìm hiểu, có điều gì ta không hiểu rõ, thì ta nên tìm những vị thiện hữu tri thức có trình độ thông hiểu Phật pháp khá vững chắc, để ta gần gũi học hỏi. Có thế, thì mới khai thông được niềm tin và kiến thức của ta. Bởi Phật giáo có cả một kho tàng Kinh điển, chúng ta học hỏi không biết bao giờ cùng. Vì thế, ta nên dành chút ít thời giờ để tâm nghiên cứu học hỏi Phật pháp. Học hỏi Phật pháp bổ ích cho trí năng của ta rất lớn. Đó là một món ăn tinh thần vô giá. Vì đời sống của ta không phải chỉ có nhu cầu vật chất không thôi, mà cần phải cung ứng cho nhu cầu tinh thần, vì nhu cầu tinh thần cũng rất là quan trọng. Tinh thần là cột trụ, khi nào tinh thần ta được an vui sảng khoái, nhẹ nhàng, thì ta mới cảm thấy hạnh phúc và đời sống của ta mới thật sự có ý nghĩa. Thế nên, ta cần phải giữ quân bình giữa đời sống tinh thần và vật chất. Muốn được thế, thì ta nên trau giồi học hỏi nghiên tầm Phật pháp vậy.
VI. Quyết định cho sự chọn lựa
Sau khi chúng ta hội đủ những điều kiện nói trên, thì bấy giờ ta mới có một quyết định chọn lựa thích hợp. Giữa đôi nam nữ khi họ yêu thương nhau, muốn cho tình yêu sau nầy được bền vững lâu dài, xây dựng gia đình có hạnh phúc, tất nhiên, họ cũng phải có thời gian tìm hiểu chọn lựa thích hợp chính chắn. Nếu không, chỉ vì tình yêu bồng bột bốc đồng nhứt thời, mà thiếu sự tìm hiểu cân nhắc kỹ càng, thì cuộc hôn nhân đó, sau khi sống chung dễ xảy ra những ý kiến xung đột bất hòa và rồi gia đình sẽ dễ đi đến tan rã đổ vỡ. Người có ý thức cẩn trọng trước khi quyết định là phải như thế. Cũng vậy, khi chọn lựa quyết định theo một tôn giáo nào, ta cũng cần có thời gian tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi quyết định. Người biết thận trọng là như thế. Không nên có thái độ xưa bày nay theo. Theo như thế, chỉ là một việc làm thiếu ý thức. Và như thế, ta tự hạ thấp cái lý tưởng mà ta đang theo tôn thờ. Đạo Phật rất tôn trọng quyền tự do chọn lựa của mỗi người.
Từ xưa tới nay, đạo Phật không bao giờ bắt buộc hay khuyến dụ một ai. Vì đạo Phật là một chơn lý sống cao thượng. Người theo đạo Phật phải có sự tìm hiểu thích đáng. Như thế, thì mới phù hợp với sự chọn lựa. Đó là một sự chọn lựa có ý thức và hướng đi trong sáng rõ ràng. Không còn là một quyết định mù mờ, bốc đồng nghe theo ai cả. Mà chính ta đã dùng trí năng sáng suốt tìm hiểu kỹ càng. Như vậy, ta không còn lo nghĩ ngỡ ngàng gì hết. Đó là một sự quyết định được phối hợp hòa quyện bởi hai yếu tố: khối óc và con tim. Nghĩa là ta đã có đủ tình cảm và lý trí. Tình cảm là thể hiện bởi niềm tin của ta. Ta đã chuẩn bị cho ta có một niềm tin vững chắc đúng theo chánh pháp. Ta không còn hoang mang lo sợ khi ta đứng trước điện Phật để thọ lãnh Tam Quy và 5 giới cấm. Vì tất cả đối với ta không còn xa lạ nữa. Ta đã có sự chọn lựa đúng hướng và rất phù hợp với niềm tin của ta. Ta đang hướng đời ta về ánh sáng huy hoàng của chánh pháp. Ta biết chắc rằng, đời ta sẽ có nhiều hoa trái hạnh phúc an lạc, khi ta đã trở thành con của một đấng Giác Ngộ. Đời ta khác nào như từ trong bóng tối bước ra ánh sáng . Ta thật vui tươi và hãnh diện cho căn lành của ta hôm nay gặp được Phật pháp. Chỉ có Phật pháp mới thật sự là chiếc phao nổi cứu thoát đời ta ra khỏi sông mê bể khổ. Ôi! Còn niềm vui sướng hạnh phúc nào hơn!
Tóm lại, khi đã quyết định hướng đời mình về với đạo Phật để sớm trở thành một đứa con ngoan của đấng Giác Ngộ, thì ta phải có thời gian chuẩn bị chu đáo thật thận trọng kỹ càng. Một khi đã hạ quyết tâm rồi, ta không còn gì phải ái ngại ngỡ ngàng. Vì ta ý thức rằng, đời ta sống phải có lý tưởng. Vì lý tưởng là chỉ hướng cho thuyền đời và làm nảy hoa trong cuộc sống. Khi ta chọn lý tưởng thích hợp đúng hướng rồi, bấy giờ ta chỉ có một con đường quyết chí tiến lên. Ta quyết định chọn cho ta một con đường sáng suốt, nương nhờ Tam Bảo để học hỏi, để tịnh hóa thân tâm đời ta. Ta sẽ noi theo tấm gương sáng chói của đức Phật để ta bắt chước tu tâm sửa tánh làm theo những công hạnh mà Ngài đã làm để được lợi mình, lợi người trong chiều hướng thánh thiện để hoàn thành tâm nguyện bổn phận của một người Phật tử tại gia: hộ trì chánh pháp. Ta quyết định thực hiện Bi, Trí, Dũng vào đời sống hiện thực. Có thế, thì đời sống của ta mới thật sự có ý nghĩa trong ý hướng xây dựng hạnh phúc cá nhân, gia đình và xã hội vậy. 
Nghệ thuật tả trăng trong truyện Kiều
Trăng là đề tài muôn thuở, là nguồn cảm hứng của biết bao văn nhân thi sĩ. Trăng đã cho ta nhiều bản nhạc tình ca bất hủ. Trăng đã có mặt khắp nơi, khắp chốn. “Không gian dày đặc toàn trăng cả, tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng“ (Hàn Mặc Tử) Trăng không những có mặt trong thi ca, trong văn chương, mà nó còn góp mặt trong các môn nghệ thuật hội họa, tạo nên những bức tranh thủy mạc tuyệt tác. Đồng thời nó cũng còn có mặt rải rác khắp trong các Kinh điển của Phật giáo. Trăng là một hình ảnh thiết thân với đời sống con người. Trăng đã giúp cho con người có nhiều cuộc sống thơ mộng. Trong đời người, không ai lại không có đôi lần ngắm trăng và thưởng thức trăng. Tuy nhiên, sự ngắm nhìn thưởng thức đó, nó còn tùy theo tâm cảnh, trình độ nghệ thuật cao thấp, sâu cạn và sự rung động theo nhịp đập của con tim mà mỗi người nhìn ngắm trăng có sai khác. Nhìn trăng dưới con mắt của các vị thiền sư đạt đạo, thì trăng là trăng. Cái nhìn đó, tuyệt đối không có một khái niệm phân biệt. Cái nhìn của các Ngài đã đạt đến chổ siêu nghệ thuật. Nghĩa là: ”Tâm cảnh nhứt như.” Ngược lại, đối với các thi nhân thì lại khác. Vốn đã mang sẵn một tâm hồn nhạy cảm, đa tình, yêu nghệ thuật, nên khi ngắm trăng, thì hình ảnh trăng sẽ linh hoạt theo lăng kính của thi nhân. 
Đọc truyện Kiều từ đầu tới cuối, ta thấy cụ Nguyễn Du đã diễn tả đến trăng rất nhiều rải rác trong suốt câu chuyện. Tính ra, có tất cả là 63 câu thơ nói về trăng. Tùy người, tùy cảnh, tùy vật, tùy nơi v.v... mỗi mỗi đều được tác giả diễn tả sao cho thích hợp. Vì vậy, mà ánh trăng cũng theo đó lung linh huyền ảo biến dạng dưới mọi hình thức. Dưới ngòi bút điêu luyện tài tình của tác giả, ta thấy, bất cứ hình ảnh nào tác giả cũng đều diễn tả rất nên thơ duyên dáng và gợi cho người đọc có một cảm nhận rất đẹp về hình ảnh của vầng trăng, cũng như những biến trạng của hoàn cảnh,và sự vật đã diễn ra một cách rất linh hoạt. Sau đây, xin mời bạn đọc cùng chúng tôi, chúng ta sẽ tuần tự tìm hiểu sơ qua một vài nét về nghệ thuật diễn tả đó của tác giả.
Khi diễn tả gương mặt xinh đẹp của Thúy Vân, để thấy nét đẹp đó có đôi nét khác biệt với Thúy Kiều, thay vì tác giả nói thẳng, nhưng không, ở đây tác giả lại mượn hình ảnh nên thơ duyên dáng của mặt trăng để diễn tả gương mặt của Thúy Vân: 
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.

Như thế, ta có thể hình dung được gương mặt và cung cách nghiêm trang của Thúy Vân rồi. Tất nhiên là một gương mặt tuyệt đẹp tròn trịa như trăng rằm. Hai chữ “Đầy đặn” vừa nói lên ý nghĩa tròn trịa của một người con gái đầy phúc hậu, mà cũng vừa diễn tả cái gương mặt cân đối với mày ngài. (Mày ngài dịch từ chữ Nga Mi của Tàu. Con Ngài (tức thứ bướm cắn kén tằm ra) ở đầu có 2 cái râu nhỏ, dài và cong; người ta ví cái lông mày dài, thanh, cong cong bán nguyệt của người con gái đẹp với râu con ngài nên gọi là Nga Mi hay mày ngài. Nét ngài nở nang, ý nói lông mày của Thúy Vân cong cong, dài như mày ngài nhưng nở nang, tức là lông mày hơi thô, to bản. Mặt dày dặn phúc hậu thì phải có lông mày như thế mới xứng. (Chú giải của Vân Hạc) Chỉ dùng hai chữ” khuôn trăng” là đủ gợi cho người đọc hình dung ra được cái gương mặt sáng láng tuyệt đẹp của Thúy Vân. 
Khi diễn tả dung mạo của một chàng thư sinh, thì:
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau lưng theo một vài thằng con con.
Bốn chữ: ”lưng túi gió trăng”, dịch từ chữ Tàu Bán nang phong nguyệt, phong nguyệt hay gió trăng đây là chỉ cho thi văn, vì các văn nhân thi sĩ thường hay ngâm thơ vịnh nguyệt. Túi gió trăng là có ý nói túi thơ, để ngầm ám chỉ cho anh chàng thư sinh Kim Trọng. Đọc câu thơ trên, tác giả không dùng chữ thư sinh, mà chỉ dùng 4 chữ lưng túi gió trăng, để cho người đọc có thể tìm hiểu và hình dung ra được cái dáng dấp của anh chàng thư sinh đó như thế nào. Thật là một nghệ thuật diễn tả tài tình.
Nói về thời gian và không gian của sự việc xảy ra, tác giả viết:
Gương nga chênh chếch nhòm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
Gương Nga tức là mặt trăng sáng như gương. Nga tức là thường Nga hay Hằng Nga là tên vợ Hậu Nghệ xưa ăn vụng thuốc trường sinh của chồng trốn lên mặt trăng. Do điển tích nầy mà về sau người ta dùng trong văn chương để chỉ cho mặt trăng. Ở đây, tác giả cho chúng ta thấy một hình ảnh tuyệt đẹp. Hai chữ chênh chếch là diễn tả bóng mặt trăng chiếu soi xuyên qua cửa sổ vào trong nhà. Bấy giờ là đầu tháng ba. Mặt trăng đầu tháng là mặt trăng lưỡi liềm, giống như là con mắt của con người. Mặt trăng lưỡi liềm soi vào lỗ cửa sổ, như con mắt người ta dòm vào nhà.
Tả cảnh như thế thật là vừa sát nghĩa mà lại vừa linh động, cũng vừa nói lên khoảng thời gian rõ rệt. “ Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân”. Câu nầy, tác giả cho chúng ta một hình ảnh thơ mộng tuyệt đẹp của đêm trăng. Vàng là chỉ cho ánh trăng gieo xuống nước giống như thoi vàng, vì ánh trăng màu vàng. Hai chữ ngấn nước là diễn tả mặt nước có hơi gợn sóng lăn tăn chớ không phải phẳng lặng như tờ. Vì gợn sóng lăn tăn, nên mặt nước tạo thành như có ngấn. Cả câu có nghĩa là: ánh trăng gieo xuống dưới nước giống như thoi vàng và bóng cây thì in đậm nét trên sân. Hai câu nầy, tác giả vừa tả cảnh mà cũng vừa tả tình. Nói lên tâm sự của nàng Kiều. Tâm sự đó như thế nào? Tâm sự đó đã được tác giả diễn tả qua 2 câu như sau: 
Một mình lặng ngắm bóng Nga
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời.
Hai chữ “Một mình“, nói lên sự đơn độc, không những đơn độc về thể xác mà đơn độc cả tinh thần. Vì sau khi Kiều đi dạo chơi gặp Kim Trọng, một chàng trai tuấn tú, không những đẹp trai mà còn có học thức nữa, thật xứng với Kiều. Cho nên lần đầu gặp gỡ đó, không phải gặp gỡ đơn thuần như khách qua đường mà là: “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Hay “khách đà lên ngựa, người còn nghé theo”. Mới lần đầu gặp nhau mà lòng Kiều đã thấy xao xuyến luyến lưu rồi. Hoa tình yêu đã bắt đầu chớm nở trong lòng. Kể ra người con gái kín cổng cao tường nầy cũng khá lãng mạn đó chứ!
Chính vì thế, mà giờ đây Kiều ngồi một mình trong một căn phòng vắng lặng, nhớ lại hình ảnh tuyệt đẹp đầy mộng mơ vừa mới xảy ra hồi ban chiều, nên Kiều bắt đầu có chút tư lự về hình bóng của chàng trai hào hoa thư sinh đó.
Cả câu: “Một mình lặng ngắm bóng nga“. tác giả vừa cho chúng ta biết thời gian mà cũng vừa nói lên một khía cạnh tâm lý thật là độc đáo. Thông thường, người ta có một tâm sự gì buồn phiền mà không biết phải bày tỏ cùng ai, và ai là người để cho mình bày tỏ, tức nỗi lòng biết ngỏ cùng ai, nhứt là người mang tâm sự đó lại là một cô gái, đang ở vào cái tuổi thanh xuân mộng mơ, cho nên những lúc có tâm sự như thế nầy, thì chỉ biết ngồi một mình than thở nhìn ngắm ánh trăng, như để thổ lộ tâm sự giải bày nỗi lòng cùng với chị Hằng. Và để cho chị Hằng chia sẻ phần nào cái nỗi lòng trắc ẩn bi thương tâm sự đó của mình. Nhưng niềm tâm sự đó, không phải chỉ đơn thuần là nhớ người khách thư sinh đó thôi; mà còn nhớ đến thân phận của nàng con gái hồng nhan bạc phận: không cha không mẹ, không cửa không nhà, không một người thân thuộc, đem thân làm ca nữ mua vui cho khách đa tình, cuối cùng rồi chỉ còn trơ lại một nấm mồ hoang lạnh vô chủ không người săn sóc. Người con gái bạc phận vô phúc đó, chính là Đạm Tiên.
Thấy người nằm đó, chạnh lòng mà nghĩ đến ta. Vì vậy cho nên, bao nhiêu những ý nghĩ gần xa ngổn ngang rộn lên trong lòng Kiều. Cảnh thương nhớ cũng có, cảnh buồn tủi cũng có, tất cả như quyện vào nhau tạo thành một tâm sự bất an. Thế là, chỉ có một buổi chiều ra ngoài ngoạn cảnh mà Kiều đã trở thành người con gái mất hẳn đi tính chất hồn nhiên ngây thơ. Kiều đã bắt đầu có nội kết. Một nội kết khởi điểm mà cũng là một nội kết kéo dài suốt cuộc đời sau nầy. 
Rồi cũng nói về thời gian, nhưng lại ở một thời điểm khác, tác giả viết:
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu.
Câu thơ trên, tác giả cho chúng ta biết thời gian đã khuya. Do đâu biết thế? Do vì những chữ chênh chênh và xế mành. Nhưng chữ xế mành mới là quan trọng. Vì xế mành có nghĩa là bóng trăng chiếu vào tấm mành mành treo ở cửa. Hai câu nầy, tác giả cũng cho chúng ta biết về thời gian thì đã khuya, về nhơn vật Thúy Kiều thì vẫn còn ngồi một mình bên can (triện) dần dần ngủ đi lúc nào không hay biết.
Ở một đoạn khác, cũng nói về thời gian, nhưng sự tình thì có khác:
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
Tuần trăng khuyết, ý nói là một tháng qua. Vì trăng hết tròn rồi lại khuyết. Trăng tròn là vào giữa tháng (rằm) càng về sau trăng càng khuyết dần, khuyết cho đến khi nào hết thấy trăng là biết đã vào cuối tháng (30). Còn đĩa dầu hao là ý nói: Kim Trọng sau khi gặp Kiều trao đổi tâm tình, từ đó bị tiếng sét ái tình đánh trúng tim đen, làm cho chàng Kim ta ngày đêm mong nhớ, cho nên đêm đêm không ngủ được, vì chông đèn ngồi đó thức rất khuya mà không có học hành gì nổi, chỉ làm phí đi nhiên liệu dầu đốt một cách vô ích mà thôi.
Ngày nay, chắc cũng có nhiều chàng Kim thời đại, cũng mơ mộng ngồi đó tưởng nhớ đến nàng, sách vở thì xếp lại để trên bàn, chỉ có điều khác là Kim Trọng bị tốn hao dầu, còn bây giờ đèn điện, nên chỉ tốn tiền điện, mà tiền điện thì có cha mẹ trả lo gì. Mặt mơ tưởng mặt, ý tác giả dùng hai chữ mặt trùng điệp như thế, mục đích là để nhấn mạnh Kim Trọng luôn luôn mơ tưởng đến gương mặt tuyệt đẹp của Thúy Kiều. Đã nhớ như thế, thì còn tâm trí đâu mà học với hành.
Ngày xưa, nếu đã lỡ thương nhau mà không điều kiện cơ hội để gặp mặt nhau, thì đành phải ôm ấp cái hình ảnh của người đẹp để tương tư mơ tưởng, chớ đâu phải như bây giờ thời đại tân tiến nguyên tử có mobile phone nằm trên giường nói chuyện với em cho thỏa lòng mong nhớ. Nếu không dùng mobile thì chỉ cần mở máy computer, tức tốc nói chuyện với người yêu bằng email thôi. Do vậy, nghĩ lại cũng thật thương và tội nghiệp cho anh chàng họ Kim sanh ra không đúng thời, để rồi phải ôm ấp một khối yêu ngồi đó mơ tưởng đến người đẹp, để phải hao tốn dầu một cách vô ích. Thật là tội nghiệp!
Để diễn tả thời gian yêu thương kéo dài, cụ viết:
Nhẫn từ quán khách lân la,
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thêm hai.
Hai câu nầy, ý nói: Kể từ khi Kim Trọng thuê nhà của một ông thương gia để tạm trú học hành, ngôi nhà trọ nầy lại ở gần của nhà Kiều, tính từ lúc mới đến ở trọ đến nay, thời gian khoảng hai tháng, tức hai tuần trăng.
Theo dòng thời gian chảy trôi, ngày lại tháng qua, hết xuân tới hạ, để diễn tả về thời tiết, cụ viết:
Lần lần ngày gió đêm trăng,
Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua.
Ngày gió đêm trăng là chỉ cho thời gian cứ thầm lặng đắp đổi thay nhau hết đêm tới ngày, hết ngày tới đêm... Câu dưới là tác giả lấy ý từ trong câu: Lục ám hồng hy xuân khứ dã. Câu nầy ở trong sách Tây Sương Ký, có nghĩa là: màu xanh um lên, mầu đỏ ít đi, xuân đi vậy. Thưa hồng (hồng hy) nghĩa là hoa đỏ ít đi, rậm lục (lục ám) nghĩa là lá xanh mọc rậm lên, ý nói mùa xuân sắp hết, mùa hạ sắp sang. Đã chừng là đã đến lúc, đến kỳ, đến độ.
(Chú thích của cụ Vân hạc)
Thử tìm hiểu vài nét về việc hành xử qua ngôn ngữ của Kiều
Truyện Kiều, từ xưa tới nay đã có rất nhiều học giả, nhà văn, nhà thơ tranh luận bàn cãi phân tích viết về tác phẩm nầy. Mỗi người nhìn mỗi khía cạnh khác nhau. Có thể nói, thật là muôn màu muôn sắc, làm cho truyện Kiều càng thêm nổi bật qua đủ mọi gốc độ của mỗi cách nhìn. Từ văn chương đến luân lý, từ tôn giáo đến triết lý, từ nhân vật đến xã hội v.v… Người ta đã bỏ ra rất nhiều tâm huyết công sức để nghiên cứu phê bình. Vì đó là một tác phẩm rất có giá trị nổi tiếng vô tiền khoáng hậu. Có thể nói, trước và sau, chưa có một tác phẩm nào sánh vai ngang hàng với truyện Kiều của nhà thơ kiệt tác Đại Thi Hào Nguyễn Du. Nhiều nhà văn, họ có thể dành hết cuộc đời để chuyên nghiên cứu tra khảo viết ra nhiều tác phẩm, tìm hiểu đánh giá truyện Kiều qua nhiều lãnh vực khác nhau. Như trường hợp nhà văn Phạm Đan Quế chẳng hạn. Ông đã viết có khoảng trên 10 tác phẩm nói về truyện Kiều. Ngần ấy, đủ cho chúng ta thấy, giá trị của truyện Kiều quả thật là siêu việt. Nói theo Thiền Sư Nhất Hạnh, tác phẩm truyện Kiều được xem như là một quyển Kinh, hơn là một loại sách Dâm Thư như đã có những nhà Nho kỳ thị cực đoan phê bình, lên án.
Là kẻ hậu học, xét mình chữ nghĩa chưa đầy lá mít, làm sao tôi dám có cái cao vọng viết gì về truyện Kiều. Tuy nhiên, vì từ lâu vốn đã quá hâm mộ văn chương và hơn nữa lại đam mê đọc truyện Kiều, có lẽ vì quá thương nàng Kiều chăng, hay là đồng cảm xót thương phần nào với cụ Tiên Điền Nguyễn Du, mà cụ đã gởi gắm cái tâm tư thầm kín thân phận của mình cho nhân vật chính của cốt chuyện là Thúy Kiều. Có thể là tôi đồng cảm thương kính hết cả hai không chừng. Tuy nói là hai, nhưng ngẫm xét kỹ cũng chỉ là một mà thôi.
Nhìn qua hình ảnh Kiều, tôi vô cùng cảm thương cho một cô gái đã lận đận trải qua nhiều sóng gió dồn dập thương đau. Tuổi xuân sanh, tài sắc vẹn toàn, tình yêu đầu đời chưa trọn hưởng, rồi phút chốc gia đình lâm nạn đành phải hy sinh chịu cảnh bán mình chuộc cha. Tất cả cũng chỉ vì muốn cho gia đình được yên ổn. Thà để một mình, mình gánh chịu hết mọi khổ nhục đắng cay miễn sao cứu được cha già khỏi chết là đủ rồi! Thử hỏi đời nay, có cô gái nào dám hy sinh cuộc đời nhan sắc tài hoa trinh tiết của mình mà cứu lấy cha già và gia đình như thế không? Điều đó, xin để mỗi người tự xét và trả lời lấy.
Ở đây, chúng tôi không dám luận bàn đi sâu vào cuộc đời của Kiều nhiều. Dù Kiều đã trải qua 15 năm luân lạc, 6 đời chồng, 5 lần đám cưới vào ra thanh lâu 2 lần, gặp bao nhiêu cảnh ngộ gian truân éo le long đong chìm nổi, nhưng trước sau Kiều vẫn giữ ngôn từ hòa ái với mọi người, dù người đó là kẻ thù nhứt của Kiều. Người đó đã từng lường gạt, hành hạ, mạt xát Kiều thậm tệ. Trường hợp như Hoạn Thư, Tú Bà, Mã Giám Sinh hay tay Sở Khanh chẳng hạn. Thậm chí khi Kiều được người anh hùng Từ Hải chuộc ra khỏi thanh lâu làm đám cưới vẻ vang tiền hô hậu ủng linh đình, cờ xí tung bay rợp trời, đón rước cô dâu, từ một người hèn hạ bán mình vào thanh lâu mà nay lại đường đường là một mệnh phụ phu nhân. Thử hỏi ở vào địa vị quyền cao trọng vọng như thế, thì ngôn ngữ người ta sẽ đối xử thốt ra lời nói đối với những kẻ thù oán của mình như thế nào?
Ở đây ta thấy, Kiều đã ứng xử dùng lời ái ngữ theo tinh thần hòa nhã yêu thương từ bi của đạo Phật. Mặc dù trước kia Kiều có đi tu, chẳng những một lần mà tới 3 lần. Lần ở Quan Âm Các của Hoạn Thư, rồi đến ở tu với Sư Bà Giác Duyên, cuối cùng ở thảo am do Sư Bà giác Duyên cứu sống ở sông Tiền Đường rước về. Tất cả những lần tu đó, hoàn toàn không phải do ý Kiều muốn đi tu, mà tất cả do định mệnh trớ trêu đưa đẩy, thế thôi. Như thế, thì sự ảnh hưởng theo tinh thần từ bi, vị tha, bình đẳng, hỷ xả… của đạo Phật cũng chưa đủ tác động ảnh hưởng sâu đậm vào tâm tưởng của Kiều. Phải chăng đây cũng là phần lớn là do tự bản chất của Kiều, một cô gái dù đã trải qua nhiều hoàn cảnh sóng gió đẩy đưa, nhưng trước sau vẫn giữ được tính chất thuần hòa hiền hậu của mình. Cụ thể là Kiều đã hành xử với mọi người ân cũng như oán bằng những ngôn từ hòa ái từ tốn dịu ngọt, dễ nghe.
Bây giờ, chúng ta thử lần lượt xét qua một số trường hợp về cách ứng xử ngôn từ của Kiều đối với mọi người qua từng hoàn cảnh một. Thật ra, một phần năm truyện Kiều với 652 câu thơ, cụ Nguyễn Du đã dành cho Kiều phát biểu. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu ra một số đoạn để thấy rằng lời nói của Kiều như thế nào. Có phải là: “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” hay không?
Trước hết, Kiều nói năng với những người thân trong gia đình. Người mà nàng có thể gởi gắm tâm sự, tất nhiên phải là Vương Bà. Người con gái trong gia đình, khi gặp cảnh ngộ buồn vui đều đem ra thỏ thẻ tâm sự với mẹ. Đó là tâm lý thường tình của người con gái từ xưa tới nay là như thế. Kiều sau khi dạo chơi trong một buổi chiều vào tiết thanh minh, gặp mã Đạm Tiên, lòng nàng bắt đầu có gợi lên một thoáng buồn và đêm lại nằm mộng thấy Đạm Tiên hiện về báo mộng.
Sau khi tỉnh giấc, Kiều liền đem nỗi buồn đó thỏ thẻ bằng lời nói dịu dàng cho mẹ nghe. Để mẹ có thể phân giải chia sẻ phần nào cái nỗi niềm tâm sự đó. Khi nghĩ đến người ca kỷ không may lại phải chịu cảnh hồng nhan bạc mệnh như thế, không biết rồi đây tương lai đời mình sẽ ra sao?! Nhứt là khi nghĩ đến cái công ơn sanh thành giáo dưỡng của cha mẹ, thật quá lớn lao sâu nặng, mà phận làm gái nữ nhi thường tình còn ngây thơ không biết mai đây sẽ thế nào, có được gần gũi sớm hôm để lo đền đáp báo hiếu cho cha mẹ được không? Đó là nỗi lòng lo lắng xót xa cho thân phận của mình qua hình ảnh của Đạm Tiên mà Kiều đã tư lự về thân phận bạc mệnh của nàng con gái bất hạnh đó. Thế là, Kiều trút hết nổi lòng tâm sự đó với mẹ, bằng những lời lẽ thật đượm buồn, thầm kín, ưu tư, xót xa.
Thưa rằng chút phận ngây thơ
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.
Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên.
Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.
Đoạn trường là số thế nào
Bài ca thế ấy vịnh vào thế kia
Cứ trong mộng triệu mà suy
Phận con thôi có ra gì mai sau!
Điều mà chúng ta thật vô cùng cảm động khi Kiều đã thật sự bán mình cho họ Mã. Nàng đã thốt ra những lời lẽ chứa chan bao nỗi ân tình, vừa tủi hổ cho phận mình; vừa nghĩ đến công cha nghĩa mẹ tình nghĩa nặng mang cao thâm như núi biển, rồi biết đến bao giờ nàng mới có dịp trả ơn cho cha mẹ đây! Nàng than thân, rằng, mẹ ơi! rồi đây bao nỗi đắng cay hệ lụy, muôn dặm xa khơi, nghìn trùng xa cách, phân ngã đôi đường, trôi nổi nơi xứ lạ quê người, không biết thân phận của con sẽ đục trong ra sao?! Mỗi bước chân con đi là mỗi bước nghe cõi lòng nặng trĩu dường như tan nát. Con cảm thấy thật đau lòng khi phải chia ly rời xa cha mẹ, các em và mái nhà êm ấm đầy kỷ niệm ấp yêu nầy. Mẹ ơi! rồi mai đây, không biết bao nhiêu phong ba bão táp của cuộc đời đầy nghiệt ngã đau thương phủ lên đầu con trẻ. Càng nghĩ đến, con càng cảm thấy chua xót chạnh lòng quá mẹ ơi! Thôi thì, trăm năm con xin từ tạ để lại cho mẹ cha bằng tất cả tấm lòng thương nhớ của con xin được gởi gắm lại đây.
Hổ sinh ra phận thơ đào,
Công cha nghĩa mẹ, kiếp nào trả xong?
Lỡ làng nước đục bụi trong,
Trăm năm để một tấm lòng từ đây.
Lời lẽ tâm sự trưóc giờ phút chia ly của kẻ ở người đi thật vô cùng áo não xót xa tội nghiệp. Không biết các cô gái Việt Nam ngày nay, khi bán mình ra đi ngoài muôn dặm trường ở các nước khác như Đài Loan, Hàn quốc… không biết có dùng lời nói dịu dàng nhỏ nhẹ bi lụy khóc than cho số phận của mình như nàng Kiều hay không? Kiều vì hoàn cảnh gia đình bất khả kháng đành phải chấp nhận hy sinh trọn vẹn vì chữ hiếu mà phải đem thân bán mình để chuộc cha. Có lẽ, ngày nay, cũng có lắm cô gái VN cũng có cùng một tâm cảnh như Kiều. Nhưng không đến đổi phải bị bức xúc giải quyết tình cảnh thật bi đát khổ đau nhức nhối thương tâm như Kiều. Nhưng tựu trung, phần lớn cũng chỉ vì gia đình hơn là vì tình yêu. Tình yêu sao được, kẻ ở tận trời Nam người ở xa phương Bắc, chưa một lần thấy mặt nhau, chưa một lần hẹn hò trao đổi tâm sự gì với nhau, bỗng phút chốc thành hôn vợ chồng, như thế thì thử hỏi làm gì có tình yêu? Tất cả cũng chỉ vì tiền hơn là tình.
Vì giải quyết đời sống cá nhân cũng như gia đình mà phải chịu gởi phận mình lấy chồng nơi xứ lạ. Đó cũng là một thảm cảnh mà các cô gái VN hiện nay đã và đang gánh chịu. Có nhiều cô lâm vào hoàn cảnh nghiệt ngã trớ trêu đau thương ngút ngàn, không biết phải thổ lộ tâm tình cùng ai? Có bao giờ dám nói lên sự thật với cha mẹ và người thân đâu? Nếu Kiều xưa kia, vì hoàn cảnh gia đình bán mình vào ra thanh lâu, thì ngày nay, cũng có biết bao cô gái đã bán mình rồi cũng chịu cảnh đọa đày bị ép buộc bán mình vào làng chơi. Nghĩ đến tình cảnh chia ly xa quê hương xứ sở, cha mẹ, anh em, thân thuộc bà con láng giềng của Kiều, mà chúng ta thấy thật xót xa tội nghiệp! Càng thương tội nghiệp cho Kiều, chúng ta lại càng thương cảm xót xa cho những cô gái VN bất hạnh ngày nay phải xa quê hương trong tình cảnh thật là não nùng đau thương chịu nhiều khổ lụy đắng cay…
Sau khi trải qua một đêm mưa gió nặng nề, ngẫm lại, thật là ê chề ngao ngán cho cuộc đời. Kiều đã có ý quyên sinh, cầm dao toan tự sát, kết liễu cuộc đời. Trong khi đó, bỗng dưng những hình ảnh cha mẹ, những người thân yêu thương ruột thịt bất chợt lại hiện lên tràn ngập trong ký ức của nàng. Thế là, Kiều liền nghĩ đến cha mẹ, nên bỏ ý định quyên sinh và giấu con dao mang theo bên mình khi cần đến. Kiều thốt ra những lời lẽ thật bi thương, rằng, từ nay nàng sẽ để lại cho cha mẹ bằng tất cả tấm lòng nhớ thương cha mẹ. Thật là lời lẽ của một người con gái chí tình chí hiếu. Vì nghĩ đến cha mẹ, mà mình không nỡ ra tay tự sát.
Đây cũng là tấm gương trong sáng, cho các thanh thiếu niên nam nữ hiện nay. Khi gặp cảnh ngộ khổ đau tràn ngập xảy ra đến bước đường cùng, người trẻ lại thiếu bình tĩnh sáng suốt, chỉ nghĩ đến cho riêng phần mình, mà không đoái hoài đến những người thân thương như cha mẹ, rồi ra tay tự kết liễu cuộc đời. Đó là một trong muôn ngàn thảm họa mà các thanh thiếu niên nam nữ ngày nay đang trên đà tự hành hạ hủy diệt bản thân mình. Làm cho cha mẹ ngày đêm phải đau lòng thương nhớ buồn tuổi khóc than! Thật là đau khổ tội nghiệp cho cha mẹ quá! Ở đây, ta thấy Kiều tuy ở vào trang tuổi mười sáu, với lứa tuổi xuân xanh vẫn còn hồn nhiên ngây thơ trong trắng, nhưng nàng vẫn có đủ trí khôn sáng suốt để giữ lại mạng sống của mình, không tự vẫn một cách vô ý thức như thế được.
Nàng đã thổ lộ phơi bày tâm sự của mình, bằng những lời lẽ thật chân tình và tràn đầy hiếu hạnh:
Xót thay huyên cỗi xuân già,
Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi.
Kiều biết rằng, mình đã mắc mưu rơi vào tay của kẻ bất lương chuyên môn đi lừa gạt, cho nên trước kia nàng đã có ý định là toan tự tử, nhưng nàng đã kịp thời thức tỉnh, nếu nàng làm như thế e sẽ gây ra họa lụy cho song thân của nàng. Nhưng bây giờ thì quả thật nàng đã mắc tay bợm già. Một thứ hạng người chuyên lường gạt lừa đảo thiên hạ, nhứt là đối với những cô gái còn ngây thơ trong trắng nhẹ dạ dễ tin người, mới bước chân chập chững vào đời. Đây là thứ hạng người mà ta thấy họ đang hành nghề móc nối lừa gạt buôn người như ở Việt Nam hiện nay.
Họ là thứ “lái người” chuyên đi bắt mối làm trung gian môi giới mua bán người. Họ chỉ nghĩ đến túi tiền ai khổ sở sống chết mặc ai. Người mà họ đứng ra làm mai mối không cần biết người đó thuộc hạng người gì, tốt hay xấu ra sao không cần quan tâm để ý tới. Miễn sao sự giao kèo hợp đồng giữa kẻ bán người mua sòng phẳng trao chác tiền bạc với nhau là được. Thật là tội nghiệp cho các cô gái bị bán mình mà không hề hay biết. Rồi cha mẹ cũng không cần biết đến thân phận của con mình ngày mai sẽ ra sao? Vì nghèo khổ, vì đói khát bệnh tật, vì cần tiền phải giải quyết bao thứ nợ nần chồng chất, hay vì mọi thứ nhu cầu nào khác, mà đành phải âm thầm gạt lệ bán đi con mình. Khi bán đi (trá hình bằng một đám cưới lấy lệ cho hợp pháp) cha mẹ cũng không biết lai lịch người mà họ mang con mình đi đó ra sao? Họ sẽ hành hạ bạc đãi con mình thế nào? Giờ đây, trước mắt, chỉ cần tiền để giải quyết trong cuộc sống, còn những việc khác sướng hay khổ của con mình ra sao, cũng không cần quan tâm biết đến. Đó là một hệ quả của nghiệp duyên, duyên nghiệp nhiều đời trong tương quan hệ lụy thật là vô cùng đau xót! Họ cứ bỏ tiền ra là được tất cả. Quả thật đúng như lời cổ nhân đã nói: “Có tiền mua Tiên cũng được”.
Kiều đã thật sự rơi vào tay họ Mã. Mắc phải tay bợm già quái gở thật đáng ghê sợ! Đây ta hãy nghe lời lẽ của Kiều thốt ra bằng tất cả tâm can trong niềm đau tuyệt vọng:
Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già.
Khi về bỏ vắng trong nhà,
Khi vào dùng dắng, khi ra vội vàng.
Khi ăn khi nói lỡ làng,
Khi thầy khi tớ, xem thường xem khinh.
Kiều đã khóc than kể lại sự tình rất tỉ mỉ hành động bất hảo của gã họ Mã. Một con người không có lương tâm nhân phẩm của một con người. Hành xử thật thô bỉ sỗ sàng, từ hành động cho đến lời ăn tiếng nói nhứt nhứt đều không giống một con người chút nào. Đến đây, nàng đã quá rõ sự tình âm mưu của họ, nhưng còn biết cách nào hơn, khi con cá đã nằm trên tấm thớt. Họ muốn hành hạ như thế nào cũng phải đành cam chịu mà thôi. Tâm cảnh nầy, phải nói đa số các cô gái VN hiện nay khi đã lọt vào nằm trong vòng tay của những anh chàng họ Mã Đài Loan và Hàn Quốc rồi, thì còn biết than van với ai nữa đây! Thân phận cá chậu chim lồng, vùng vẫy cách nào thoát ra được. Khi đã lâm vào tình cảnh éo le ngang trái nầy, Kiều chỉ còn biết than thân trách phận với chính mình và rồi tâm sự phơi bày khúc nôi tận đáy lòng với mẹ, bằng những lời lẽ thật thiết tha trong cảnh tình tràn đầy đau khổ. Thật đáng thương xót lắm thay!
Khác màu kẻ quý người thanh,
Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn.
Thôi con còn nói chi con,
Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người!

“Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người”. Một câu nói thật quá đau lòng của nàng. Bây giờ, biết nói sao hơn, chỉ còn có cách đó thôi. Sống nhờ đất khách, nếu là đất khách tốt biết bảo bọc đối xử trong tình người, thì nên lạy đất khách đó để mà gởi thân sinh sống. Ngược lại, gặp đất khách chẳng ra chi, không có chút tình người, họ đối xử với mình quá ư tệ bạc, hành hạ thua một con súc vật, thì thử nghĩ đất khách đó sao đây? Dĩ nhiên, là thác phải chôn quê người rồi. Nhưng khổ nỗi, ở đây, chưa thác mà đã bị coi như là đã chôn sống rồi. Kéo dài một ngày là đau khổ ngút ngàn một ngày. Nếu thác được thì đỡ, đằng nầy dở sống dở chết, thứ đó mới thật là đau khổ tận cùng. Ai hiểu được tâm cảnh thân phận của Kiều khi xưa và các cô gái VN giống như Kiều ngày nay?!
Đó là những lời lẽ bi thiết đầy chân tình của Kiều khi bộc bạch thổ lộ tâm sự với mẹ là Vương Bà. Đến đây, ta thử xét xem lời nói của nàng đối với Vương ông như thế nào. Vương ông, một người cha già thật vô cùng đau khổ, trước cảnh gia biến xảy ra thật quá đột ngột bất ngờ. Trong hoàn cảnh không may xảy ra trớ trêu bị bọn bất lương vu oan giáng họa như thế, Vương ông vì quá phẫn uất không thể cam tâm nhẫn nại chịu nổi cảnh nầy, nên toan định liều mình tự tử. Thấy thế, Kiều không thể để cho cha chết một cách thảm thương oan ức vô lý như thế được, nên nàng đã phải dùng hết lời lẽ thâm tình dịu ngọt thiết tha để an ủi cha già trong cảnh hoạn nạn nầy.
Đứng trước hoàn cảnh tang thương bi đát đó, nàng là phận gái lại là người chị cả đầu đời, tất nhiên, nàng phải có phần nào lãnh lấy trách nhiệm để khuyên can cha. Lời khuyên của nàng thật là từ tốn đậm đà tình nghĩa của một người con gái còn thơ ngây. Kiều đã bày tỏ tận đáy lòng của nàng, nàng thưa với cha rằng, phận con là gái chẳng có sá gì, xin cha hãy để cho con bán mình thay cha, vì con chưa đáp đền công ơn sanh thành của cha mẹ. Hơn nữa, con cảm thấy rất hổ thẹn không bằng nàng Oanh xưa kia đã dâng thư lên vua xin tha tội cho cha nàng. Cũng như người con gái Lý Ký vì gia cảnh cha mẹ nghèo nàn, nên tự nguyện bán mình để đem tiền về nuôi cha mẹ. Hôm nay đây, cha mẹ cứ xem con như nàng Lý Ký xưa kia là được rồi. Đây ta hãy nghe lời nàng thổ lộ phân trần khuyên cha:
Vẻ chi một mảnh hồng nhan,
Tóc tơ chưa chút đền ơn sanh thành.
 Dâng thư đã thẹn nàng Oanh,
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?
Nói thế, nàng sợ rằng những lời khuyên can đó, cũng không làm cho cha nàng dẹp bỏ ý định. Dù tuổi đời của nàng chưa lần nào va chạm trải nghiệm thử thách với cạm bẫy của cuộc đời, nhưng ở đây, ta thấy nàng dùng những lời lẽ thật khôn ngoan lễ độ như là một người đã sành sõi trải nghiệm già dặn. Nàng lập luận rất hữu lý để thuyết phục người cha phải nghe theo nàng mà bỏ đi ý định tự tử. Lời nói của nàng bày tỏ với cha như là một người đã trưởng thành có đầy kinh nghiệm từng trải với đời. Nàng lý luận rằng: tuổi cha càng ngày càng cao, mà hiện tại nếu trong nhà thiếu vắng cha, thì mọi người làm sao có thể chống đỡ mọi nghịch cảnh phong ba đau thương có thể xảy đến. Cha là trụ cột của gia đình, khác nào một cây gánh vác bao nhiêu cành. Còn con dù sao cũng là phận gái, nữ sanh ngoại tộc, đã thế, thì trước sau gì con cũng phải rời xa mái ấm gia đình. Vậy, con tha thiết hết lời khuyên cha hãy để cho con bán mình, nếu không thì cửa nhà nầy sẽ tan nát hết. Đây ta hãy nghe nàng dùng lời lẽ để thưa với cha:
Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
Lòng tơ dù chẳng dứt tình,
Gió mưa âu hẳn tan tành nước non.
Lời khuyên của nàng cũng chưa dứt khoát ngừng hẳn ở đó. Vì nàng thừa biết tánh tình của cha nàng rất cứng rắn, thật khó mà bỏ ý định. Nên nàng đã suy nghĩ dùng lời để khuyên tiếp. Nàng nói rằng, thà hãy để một mình con chịu, như hoa kia có tàn đi, nhưng lá vẫn còn xanh. Ý nói, con ra đi rồi, coi như cuộc đời đã tàn héo như hoa, nhưng bù lại cả gia đình mẹ cha và các em con đều được an ổn vẹn toàn, giống như hoa tàn mà lá vẫn còn xanh tươi. Cha cứ coi con như đã chết từ lúc còn nhỏ, khác nào như cây ra hoa thành nụ mà không đậu để kết thành quả, tức sinh ra mà nuôi không được. Đây ta hãy nghe nàng thổ lộ tâm tình để thuyết phục cha:
Thà rằng liều một thân con,
Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây.
Phận sao đành vậy cũng vầy,
Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh.
Nếu như cha còn mãi nghĩ quẩn tính quanh, chỉ càng thêm rắc rối vô ích mà thôi. Vả lại, không thể nào cứu vãn được tình thế cấp bách hiện giờ một khi mà người ta đã cố tình gây ra tai họa cho nhà mình. Nếu như cha không để cho con bán mình, thì cả nhà sẽ mang họa chuốc lụy vào thân, tất cả đều tan nát hết mà cha cũng không thể nào giữ toàn tánh mạng được.
Cũng đừng tính quẩn lo quanh,
Tan nhà là một, thiệt mình là hai.
Qua bao nhiêu lời lẽ khuyên lơn an ủi phân trần, xuất phát từ tấm lòng chân thật của một người con gái tuổi độ xuân thì, kết quả là nàng đã thuyết phục được cha nàng. Vì tất cả những lời thốt ra của nàng đã làm cho ông cha phải xiêu lòng đổi ý. Ông nghĩ rằng, đó là những lời nói thật là chí tình hữu lý nên ông nghe theo. Thật không còn những lời lẽ nào hơn bằng những lời lẽ tràn đầy tình nghĩa trưóc cảnh gia đình đang cơn hoạn nạn. Trong lúc gia cảnh tai biến như thế, mà Kiều còn có đủ bình tĩnh sáng suốt để phân giải lẽ thiệt hơn khuyên cha, thì quả thật Kiều không phải là một cô gái nữ nhi tầm thường.
Qua đó, cho chúng ta thấy rằng, dù bất cứ thời đại nào, việc con cái tham dự góp ý vào việc xây dựng gia đình, nên hư, thành bại, nhục vinh… đó là điều mà làm cha mẹ cũng phải quan tâm lắng nghe con cái giải bày. Nhưng sự góp ý xây dựng đó, mỗi người cần phải sử dụng ái ngữ và học hỏi phương pháp lắng nghe. Đó là hai yếu tố thật vô cùng quan thiết trong việc hành xử bảo tồn hạnh phúc gia đình. Xưa nay, lời nói có khi làm hưng nhà lợi nước, cũng có khi làm nước mất nhà tan. Nếu người sử dụng lời nói, thay vì ái ngữ mà nó trở thành thứ quái ác ngữ hay tà ngữ, thì đó quả là điều rất tai hại. Kiều đã thuyết phục được cha, tất cả đều do sự khôn khéo, nàng biết dùng lời lẽ vừa ứng dụng ái ngữ đúng thời lại vừa lý luận dẫn chứng hợp lý, nên người cha nghe êm tai không còn gì phải giữ ý định liều lĩnh đó nữa. Vương ông, tuy là cha nhưng ông không cố chấp bảo thủ định kiến mà chịu khó lắng nghe con mình giải bày khúc nôi lý lẽ tường tận. Cả hai đều ứng dụng qua hai phương pháp ái ngữ và lắng nghe của đạo Phật một cách thật xuất sắc tuyệt vời. Đó là điều mà ta cần phải lưu tâm học hỏi trong việc sử dụng ngôn từ khôn khéo của Kiều và cũng như sự chịu khó lắng nghe của Vương ông.
Bây giờ ta thử xét qua lời nói của Kiều đối với hai em ra sao. Trước hết, nàng nói với Vương Quan. Vương Quan là đứa em trai thứ ba cũng là em trai út trong gia đình. Trong lúc ba chị em cùng nhau dạo cảnh du xuân, thì Vương Quan là người kể lại rành rẽ ngọn nguồn câu chuyện của Đạm Tiên. Sau khi nghe em kể về một người con gái hành nghề ca kỷ, Kiều cảm thấy chạnh lòng chua xót tiếc thương cho người con gái xấu số bạc mệnh đó. Và cũng từ đó, Kiều đã khóc than khấn vái. Thúy Vân và Vương Quan thấy thế liền có ý trách chị, rằng sao chị khéo dư nước mắt khóc cho người ta. Chị đừng quên rằng, hiện chúng ta đang ở chốn tha ma u ám, chị không nên than khóc kể lể như thế được mà có ảnh hưởng không hay tác hại cho mình. Đó là lời khuyên và trách móc của Vương Quan.
Quan rằng: chị nói hay sao!
Một lời là một vận vào khó nghe.
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngả, dặm về còn xa.
Nghe em nói thế, Kiều liền trả lời, đây là lần đối thoại đầu tiên và cũng là lần cuối của Kiều đối với Vương Quan:
Kiều rằng: những đấng tài hoa
Thác là thể phách, còn là tinh anh.
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ.
Rõ ràng Kiều tin ở nơi số phận của mình đồng cảm như cùng chung số phận của Đạm Tiên. Vì cả hai người đều là giống hữu tình. Tình lại gặp tình, như thế là Kiều đã xác quyết rằng: “Hữu tình ta lại gặp ta” và sau đó phút chốc Đạm Tiên đã hiển hiện để xác minh lời nói của Kiều là một sự thật.
Thúy Vân nhìn cảnh tượng Kiều tỏ ra bi lụy khóc than trước mộ Đạm Tiên, nàng ta không thể cầm lòng chịu đựng được, nên thốt lời có ý trách nhẹ chị:
Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!
Kiều đã trả lời với em và đồng thời cũng cho Thúy Vân biết rằng, cái phận hồng nhan từ xưa tới nay thường hay bị bạc mệnh. Đó là lẽ thường tình mà những người con gái tài hoa, sắc nước hương trời đều có chung số phận lận đận lao đao trên bước đường đời. Thấy người nằm đó chạnh nghĩ lại mình, không biết tương lai đời mình sẽ ra sao? Có phải cũng có chung một số phận đoạn trường chăng? Đó là những lời mà Kiều như tâm sự khúc nôi cùng người em gái của mình. Vì đồng là phận gái, nên dễ cảm thông nhau:
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu!
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sao thế nào?
Đại khái đó là những cuộc đối thoại ngắn của ba chị em Thúy Kiều. Sau nầy, Kiều và Thúy Vân còn có cơ hội gặp lại và hai chị em trao đổi tâm tình với nhau rất nhiều, nhưng qua những cuộc trao đổi tâm tình đó, chúng ta thấy chưa bao giờ họ gây ra cảnh tượng bất hòa cãi vả tranh chấp hơn thua với nhau. Lời nói của hai người lúc nào cũng hòa nhã êm dịu trong sự phân giải bày tỏ nỗi lòng cho nhau nghe. Đó là điều mà chúng ta thấy rất đẹp trong việc cư xử trong tình nghĩa chị em.
Ngày nay, có nhiều gia đình, cha mẹ, con cái, anh em, thường hay bất hòa tranh chấp cãi vả với nhau. Họ cố chấp tranh hơn thua bắt bẻ với nhau từng lời nói. Không ai chịu nhường nhịn ai. Gia đình khi họp mặt, thay vì đó là những giây phút trân quý sự có mặt của nhau, nên trao đổi nhau bằng những lời nhu hòa, thân mật, dịu ngọt dễ nghe. Ngược lại, vì một hai lời nói thiếu nhã nhặn mất hòa khí của cha mẹ, con cái, hay anh em, rồi từ đó, họ lại tranh cãi ăn thua đủ với nhau quyết liệt. Thậm chí, có khi họ phải dùng đến võ lực để đánh đập sát hại lẫn nhau. Đó là điều mà ta đã thấy xảy ra hằng ngày. Như thế, thì tình người chưa có, nói chi đến tình máu mủ ruột thịt. Nếu như mọi người khéo áp dụng hai phương pháp: “Ái ngữ và Lắng nghe” theo tinh thần của Phật dạy, thì chắc chắn chúng ta sẽ có được một mái ấm hạnh phúc gia đình. Đó là cách hành xử hay nhứt để bảo vệ hạnh phúc gia đình và người thân cũng như đem lại sự an vui lợi lạc đến cho mọi người trong xã hội vậy.
Ngược Dòng
Đọc lịch sử về cuộc đời đức Phật, hẳn chúng ta còn nhớ có một đoạn sử diễn tả, trước khi đến cội cây Tất bát la để ngồi tư duy thiền quán, đức phật đã thả cái bát xuống dòng sông Ni liên thiền và nói rằng: “nếu cái bát trôi ngược dòng, thì Ngài sẽ đắc đạo”. Lạ thay! Quả thật cái bát đã trôi ngược dòng.
Đọc qua đoạn sử nầy, thú thật, chúng tôi không dám quả quyết khẳng định rằng, có hay không có. Đôi khi nhà viết sử họ muốn tô đậm nét thêm về những điều huyền diệu mầu nhiệm qua cuộc đời của đức Phật. Chuyện có hay không xin để mỗi người tự nhận xét quyết định lấy. Việc nầy, chúng tôi xin được gác qua một bên. Vì đó còn là một biểu tượng đặt định trên niềm tin của mỗi người. Ở đây, chúng tôi không dám có cái cao vọng luận bàn có hay không. Tuy nhiên, đối với tôi, điều đó nó mang một ý nghĩa tiêu biểu thật thâm trầm kỳ thú mang tính chất siêu thoát rất cao quý.
Thử ngẫm kỹ lại, đời sống của con người phần lớn (nếu không muốn nói là gần như hầu hết) đều trôi theo dòng đời ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy hay sắc, thinh, hương, vị, xúc. Ai cũng ham thích có một đời sống giàu sang, quyền cao, chức lớn, danh vọng, địa vị hơn người. Danh và lợi là hai miếng mồi ngon béo bổ, mà ai ai cũng thèm khát muốn chiếm hữu tranh giành. Được thì làm Vua mà thua thì làm giặc. Nói rộng ra có ai trong chúng ta mà không đam mê chạy theo ngũ dục lục trần?
Vào một buổi đẹp trời nào đó, trong cảnh vắng lặng êm đềm, bạn thử ngồi một mình trong cách thế thư thả, có thể uống trà độc ẩm, trầm tư tỉnh lặng, rồi bạn thong thả kiểm kỹ lại từng món trong ngũ dục: “tài, (tiền bạc của cải) sắc, (sắc đẹp của nam nữ và các thứ vật chất) danh, (tên tuổi địa vị cao trong xã hội) thực, (thích ăn những món ngon vật lạ cao lương mỹ vị) thùy (ham mê ngủ nhiều không kể đến giờ giấc)”, tế? hơn là lục trần: “sắc, thanh, hương, vị, xúc”. Thử hỏi có thứ nào mà bạn không vướng mắc không? Trong những thứ đó, không chỉ riêng gì bạn mà tất cả nhơn loại trên hành tinh nầy không ai lại không vướng mắc, mê say, đắm nhiễm. Chẳng qua cường độ đắm nhiễm của mỗi thứ có nặng nhẹ khác nhau mà thôi.
Thiên hạ tranh đua nhau chạy theo danh lợi. Nô lệ cho lòng dục vọng tham, sân, si sai khiến. Có thể nói, từ khi mở mắt chào đời cho đến khi nhắm nghiền đôi mắt lại, tất cả phàm phu chúng ta đều làm nô lệ cho “thất tình lục dục”. Vì sống trong vòng vô minh vọng chấp, coi trọng bản ngã, nên con người luôn luôn nếm mùi đau khổ. Nếu muốn vượt thoát cái vòng lẩn quẩn trần ai hệ lụy nầy, chỉ có một con đường, đó là con đường hành thiện tránh xa điều ác. Cao hơn một bậc, là con đường vượt ngoài đối đãi nhị nguyên. Đó là con đường mòn mà chư Phật Tổ đã đi. Con đường hành xử lợi mình lợi người. Một con đường khai phóng viên dung vô ngại. Muốn đi con đường nầy, thật không phải dễ dàng. Hành giả phải trải qua muôn ngàn khó khăn gian lao thử thách. Thật là thiên nan vạn nan. Phải vận dụng mọi năng lực ý chí phấn đấu cương quyết vượt qua. Như Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác đã nói trong Chứng Đạo Ca:
Thường độc hành, thường độc bộ
Đạt giả đồng du Niết bàn lộ
Điệu cổ thần thanh phong tự cao
Mạo tụy cốt cang nhân bất cố.

Dịch nghĩa:
Tôi chấp nhận cô đơn trên đường đạo
Vui một mình, vui theo nhịp bước chân đi
Tôi những mong có pháp lữ chung lòng
Cùng tiến bước vào Niết bàn thường lạc
Không như ý, tôi nguyền làm người cổ lỗ
Sống theo mình, sống với gió mát trăng thanh
Dù xương trơ, thân đét, thịt teo gầy
Không ân hận, tôi vui với lập trường kiên định ấy.

(Bản dịch của HT Thích Từ Thông)
Đó là con đường ngược dòng nhân thế. Con đường nầy với những kẻ yếu đuối như chúng ta làm sao dám sấn bước. Con đường vượt lên trên tất cả, vượt ngoài không và thời gian. Bởi nó quá khó khăn, nên ít có người dám đi. Vì tất cả ngược lại hết những gì thế nhân say mê đắm nhiễm. Còn đắm nhiễm là còn vướng mắc trong vòng triền phược hệ lụy khổ đau. Cho nên hình ảnh cái bát trôi ngược dòng là biểu trưng nói lên tính chất siêu thoát đó. Người tu dù xuất gia hay tại gia, nhứt là đối với người xuất gia, muốn được giải thoát, tất nhiên, là phải đi ngược dòng đời.
Người đời bon chen trong trường danh lợi cấu xé tranh giành với nhau chí tử, họ tranh nhau hơn thua quyết liệt một mất một còn. Ngược lại, người tu hành chơn chánh thì phải xa lánh. Xa lánh là ngược dòng. Cái bát tuy trôi ngược dòng nhưng vẫn không rời mặt nước. Người tu tuy có ngược dòng (xuất thế) nhưng vẫn không rời bỏ thế gian (nhập thế). Đó là con đường cái quan thênh thang rộng lớn nhập thế hành đạo, mà Bồ tát đã, đang và sẽ đi và còn đi mãi mãi. Đi để cứu độ chúng sanh thoát khổ. Đó là một cuộc hành trình lý tưởng mà Bồ tát đã dấn thân phổ độ chúng sinh khắp mọi thời gian và nơi chốn.
Người muốn thật hành Bồ tát đạo, trước hết, phải trang bị cho mình có sự trôi ngược dòng đời nầy. Phải hằng sống cho được với cái “tánh không nhiễm ô”. Làm tất cả mọi việc lợi ích cho chúng sinh, nhưng vẫn không dính kẹt vào bất cứ việc lớn nhỏ gì. Muốn thế, tất nhiên người tu phải trải qua một giai đoạn thử thách chuẩn bị. Chuẩn bị rèn luyện nội tâm cho thật chín chắn vững vàng. Phải có một đời sống nội tâm phong phú. Như đức Phật đã phải trải nghiệm tư duy quán sát gạn lọc hết vô minh phiền não. Ngài đã quán chiếu sâu vào bản thể thật tướng của vũ trụ. Ngài đã sống trọn vẹn với chân lý, bản nguyên của sự vật mà Ngài vừa mới tìm ra. Đó là một nguồn sống cao đẹp tươi mát hòa nhập cùng vạn thể muôn loài. Nhờ thời gian 49 ngày tư duy thiền định mà Ngài đã đạt được quả vị cao tột. Đó là quả vị Phật chánh đẳng chánh giác. Đến đây, Ngài mới thật sự hoàn toàn giác ngộ giải thoát và từ đó Ngài mới bắt đầu hành trình hoằng pháp lợi sanh.
Ngài đã thật sự lột xác đi ngược dòng đời. Người xuất gia phải noi theo con đường ngược dòng nầy. Phải thật sự là người phát túc siêu phương tâm hình dị tục. Phải đứng trên và ngoài vòng những tranh chấp hơn thua của thế quyền. Phải trải rộng không gian tâm thức, thật hành Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả của Bồ tát. Bằng không, thì vẫn chết chìm trong dòng nước cuốn trôi trong dòng sông ngũ dục, lục trần như bao nhiêu con người trần tục khác.
Hình ảnh của cái bát còn nói lên một yếu lý của sự giải thoát. Suốt cuộc đời của đức Phật từ khi bắt đầu lên đường hành hóa cho đến khi nhập diệt, không lúc nào Ngài không ôm bát đi xin ăn. Một đời sống không hệ thuộc bất cứ thứ gì. Đêm không ngủ hai lần ở một gốc cây. Đời Ngài quả lấy đất làm chiếu, lấy sương làm mền. Đầu trần, chân đất rày đây mai đó, không an trụ một nơi nào cố định.
Như thế, thử hỏi còn gì mà không đi ngược dòng. Tất cả Ngài đã để lại cho đời. Kể cả những thứ mà người đời luôn ao ước thèm khát, như ngai vàng điện ngọc vợ đẹp con ngoan. Những thứ nầy, đối với Ngài xem đó như là ngục tù giam hãm. Hình ảnh thân giáo của Ngài quả là mô phạm luôn đánh động thức nhắc mọi người. Là đệ tử của Phật chúng ta không thể không nghiên cứu tìm hiểu về đời sống của Ngài. Một đời sống đích thực giải thoát có một không hai trong lịch sử loài người.
Người Phật tử với việc đi chùa
Người Phật tử tới chùa ngoài việc lễ Phật, hộ niệm, cầu an và cầu siêu, còn phải học hỏi giáo lý và trao đổi những kinh nghiệm để áp dụng lời Phật dạy vào đời sống. Cố nhiên phải học hỏi những gì có tánh cách thực dụng hơn là lý thuyết huyền đàm. Học như thế không được lợi ích lắm. Chùa là nơi trang nghiêm là môi trường tốt để Phật tử trưởng dưỡng thiện tâm cho đời sống tâm linh ngày càng phong phú hơn.
Người Phật tử nếu chỉ biết đi chùa với hình thức lễ bái khấn vái cầu tài khấn lộc cho mình và gia đình của mình không thôi, đi chùa với quan niệm như thế, thì quả thật chưa phải là người Phật tử biết đi chùa. Đi chùa là cốt để tài bồi thêm phước trí. Muốn có được phước đức và trí huệ, Phật tử cần phải cố gắng tìm hiểu học hỏi với chư Tăng Ni. Tăng Ni là những người lãnh đạo hướng dẫn chỉ bảo cho người Phật tử tu học đúng theo chánh pháp. Khi tu học có điều gì không rõ, còn hoài nghi, thì ta nên thưa hỏi. Một việc làm mà ta không hiểu rõ, thì dễ bị sai lầm và gây ra lắm nhiều tai hại.
Ngoài việc tu học ra, người Phật tử còn phát tâm phụ lực đóng góp công sức vào việc xây dựng và bảo vệ ngôi chùa. Đó là thể hiện tinh thần tự lợi, lợi tha của người Phật tử. Đi chùa với tất cả tâm thành học hỏi, đó là động cơ tỉnh ngộ thúc đẩy. Ngược lại, đi chùa với một ý đồ bất chánh, thì đó là chuốc thêm tội lỗi chớ không có lợi ích gì. Thế nên, người Phật tử đi chùa nên tránh những quan niệm sai lầm có hại cho mình và người. Đi chùa với ý niệm sai lầm là hoàn toàn trái ngược với tinh thần của đạo giác ngộ. Vì vậy, người Phật tử cần phải học hỏi tìm hiểu rõ về việc đi chùa.
I. Tìm hiểu khái quát về phát nguyên của ngôi chùa
Chùa là dịch nghĩa từ chữ “Tự” của chữ Hán mà ra. Chùa có nhiều tên gọi khác nhau: Tăng tự, Tinh xá, Phạm sát, Lan nhã, Tùng Lâm, Già lam v.v… Mỗi tên gọi đều mang một ý nghĩa khác nhau, nhưng tựu trung, cũng đều chỉ cho nơi để tôn thờ tượng Phật, Bồ tát, Thánh chúng, hoặc Tăng Ni an trú để tu hành.
Chùa hoặc Tự viện hay Tinh xá (Vihara) đã có từ thời Phật còn tại thế. Hai ngôi Tinh xá nổi tiếng mãi cho đến ngày nay, người ta vẫn còn biết đến, đó là: Tinh xá Kỳ Hoàn hay Kỳ Viên ở thành Xá Vệ, và Tinh xá Trúc Lâm ở thành Vương Xá. Hai Tinh xá nầy là hai nơi mà đức Phật thường lui tới trú ngụ để hành hóa. Nhứt là vào những mùa mưa. Ngôi Tinh xá Kỳ Hoàn là do trưởng giả Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà hợp tác xây dựng để cúng dường cho Phật và Thánh chúng. Còn Tinh xá Trúc Lâm là do vua Tần Bà Sa La hiến cúng. Đó là hai ngôi tinh xá lịch sử tiêu biểu thời Phật ở Ấn Độ.
Ở Trung Hoa, theo sử liệu ghi lại, ngôi chùa đầu tiên được xây dựng vào thời vua Hán Minh Đế niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (TL 67) là chùa Bạch Mã để cho hai vị pháp sư: Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan từ Ấn Độ sang ở đó dịch kinh. Việc nầy, cho đến nay, vẫn chưa có luận cứ chắc chắn xác quyết rằng, đó có phải là ngôi chùa đầu tiên ở Trung Quốc hay không?
Riêng ở Việt Nam, theo sử gia Lê Mạnh Thát trong quyển Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam tập 1 trang 26, có trích dẫn lời của thiền sư Chân Nguyên (1647- 1728), thì ngôi chùa Trúc Viên đã có từ thời Lữ Gia, tức khoảng năm 110 trước tây lịch tại núi Thầy (Sài Sơn), ở Sơn Tây. Theo luận cứ nầy, thì Phật giáo có mặt ở nước ta vào thế kỷ thứ II trước tây lịch. Đây là điểm khá lôi cuốn. Như vậy, chùa đã được xây dựng ở Việt Nam rất sớm.
Chùa là nơi hội tụ kết tinh của văn hóa Việt tộc, của nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình. Và cũng là cái nôi hun đúc nuôi lớn tinh thần từ bi và trí tuệ bình đẳng hiền hòa, nhưng bất khuất của một dân tộc anh hùng.
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ Tông”.
Trải qua bao thăng trầm vinh nhục, bao triều đại hưng vong, nhưng mái chùa trước sau vẫn hiên ngang vươn mình che chở cho những đứa con tin yêu của dân tộc. Đó là hình ảnh ngôi chùa in đậm nét trong tâm tưởng của mỗi người con dân đất Việt. Như thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã nói:
Dân tộc ta không thể nào thua
Đạo Phật ta đời đời sáng lạn
Dầu trải qua mấy phân ly tán
Nhưng vẫn còn núi còn sông
Còn chót vót mãi ngôi chùa.
II. Những quan niệm sai lầm về việc đi chùa.
Có người đi chùa không có ý mong cầu học hỏi chánh pháp. Họ đi chùa với dụng ý chỉ biết một bề cúng bái cầu khẩn van xin mà thôi. Bình thường ít khi đến chùa, nhưng khi gặp nạn, thì họ chạy vô chùa cầu khẩn van xin. Van lạy cầu xin Phật ban cho đủ thứ. Họ coi ông Phật ngồi trên bàn, như một vị thần linh. Ông có quyền ban phước giáng họa. Nếu họ lạy lục van xin cầu khẩn mà được toại nguyện như ý, thì họ cho ông Phật, Bồ tát đó rất linh thiêng. Bằng ngược lại, thì họ chê và chạy đi tìm cầu ông Phật, Bồ tát khác.
Tệ hơn nữa, là họ xem ông Phật như là người chuyên ăn hối lộ, mà họ là người đến lo lót. Họ chỉ mang đến một vài óp nhang hay một vài nải chuối, rồi họ lạy hì hục khấn vái van xin, mong Phật, Bồ tát giúp cho họ và cho gia đình họ được bình an, mua may bán đắt, kinh doanh giàu có, con cháu học hành thi cử đỗ đạt, có danh vọng địa vị cao, quyền uy thế lực, ai nấy đều kính nể vân vân và vân vân. Đi chùa với tâm niệm như thế, thì thật là quá ích kỷ chỉ nghĩ cho quyền lợi cá nhân và riêng cho gia đình mình thôi. Ngoài ra, không cần nghĩ gì đến ai cả. Người Phật tử đi chùa với tâm niệm như thế, thì thật chưa đúng với ý nghĩa của việc đi chùa và dĩ nhiên là không có được lợi ích gì! Chẳng những thế, đôi khi còn mang thêm tội lỗi nữa không chừng.
Có người đến chùa không có ý tu học, mà họ chỉ đến để dò xét những hành vi cử chỉ hay thái độ của Tăng Ni và Phật tử trong chùa. Nếu như Tăng Ni hay Phật tử, bất cẩn thốt ra những lời nói, hoặc cử chỉ, hay hành động hơi thiếu đạo đức một chút, thì họ ra ngoài nói xấu rêu rao chê bai đủ thứ. Bản thân họ chẳng biết tu hành gì cả. Họ là hạng người chuyên đi vạch lá tìm sâu hay bới lông tìm vết.
Có người đi chùa với ý đồ bất chánh, họ lân la trà trộn vào hàng ngũ Phật tử, tìm cách tâng bốc lời ngon tiếng ngọt nịnh hót thầy trụ trì để họ có được chức vụ. Lúc đầu, họ tỏ ra cho mọi người biết, họ là Phật tử thứ thiệt, nhưng sau khi họ có chức vụ rồi, thì họ lập vây cánh bè phái để triệt hạ tẩy chay thầy trụ trì. Họ lạm dụng quyền hành lên mặt hách dịch mạt sát mọi người. Họ tìm đủ mọi cách hại thầy cho bằng được. Đó là hạng người đi chùa vì ham danh, háo lợi, thích được quyền hành sai khiến người khác, kỳ thật, họ không có chút lương tâm đạo đức và tình người.
Có người đi chùa chỉ biết tán hưu nói dóc, họ nói toàn những chuyện thế gian, thời sự, hết phê bình ông nầy, đến chỉ trích người kia, cứ thế đặng ăn cơm chùa. Họ không một chút hổ thẹn, sợ tội lỗi. Họ còn huênh hoang lên giọng kẻ cả dạy đời. Họ thích ra lệnh sai bảo những người khác. Họ chưa bao giờ lạy một lạy Phật hay tụng một thời kinh. Có ai hỏi họ lý do tại sao? thì họ đem ông Phật ra để chứng minh. Rằng, ông Phật xưa kia không có lạy ai và cũng không có tụng thời kinh nào, mà Ngài cũng vẫn thành Phật như thường. Thế là, người kia không còn gì phải nói. Thật đây là hạng người mượn hơi nhà chùa để lòe thiên hạ. Mà chính họ không biết rằng, mình có nhiều tội lỗi do lòng chấp ngã cống cao ngã mạn của mình.
Đại khái, nêu ra một vài hạng người tiêu biểu, mà họ có những quan niệm hết sức sai lầm và rất là tai hại. Đi chùa với quan niệm và tâm ý như thế, thì càng đi, càng gây thêm tội lỗi mà thôi. Thật sự không có lợi lạc gì! Thật là đáng thương xót lắm thay!
III. Đi chùa với nguyện vọng trở nên người Phật tử chơn chánh
Mục đích của người Phật tử đi chùa là cốt để tu học theo chánh pháp Phật dạy. Mỗi khi đến chùa, ta cần phải để tâm tìm hiểu thưa hỏi với chư Tăng, Ni, những gì mà ta chưa thực sự hiểu rõ. Chư Tăng, Ni trong chùa có bổn phận hướng dẫn chỉ dạy giáo lý cho ta. Vì Phật tử ở ngoài đời lo sinh kế nuôi sống gia đình, nên ít có thời giờ rảnh rỗi để học hỏi nghiên tầm giáo lý. Cho nên, khi đến chùa, Phật tử nên lợi dụng thời gian quý báu để tìm hiểu tu tập. Nếu đi chùa chỉ biết một bề cúng bái không thôi, thì chưa đúng với ý nghĩa đi chùa. Vì đi chùa như thế, cả đời cũng không hiểu được chánh pháp. Không hiểu biết, tất nhiên, khi ứng dụng thật hành dễ bị sai lạc. Đó là một tai hại rất lớn và cũng là một thiệt thòi rất nhiều cho người Phật tử. Đi chùa có học hỏi thì mới có tiến bộ trên bước đường tu hành.
Ngoài việc tu học chánh pháp ra, người Phật tử còn giúp công quả cho chùa. Việc giúp ích cho chùa đó cũng là điều tốt. Nhưng, ta nên biết rằng, đó chỉ là phần phụ. Công quả cho chùa thì tất nhiên được phước. Nhưng phải làm với tâm ý hoan hỷ, không nên có ý niệm giận hờn hay ganh ghét một ai. Nhứt là không nên chỉ trích nói xấu người cùng làm hay bất cứ ai khác. Chúng ta làm với tinh thần hỷ xả lợi tha, không nên chấp ngã quá nặng. Nếu chúng ta làm với tâm ý thấy mình quan trọng, rồi sanh tâm ngã mạn cống cao tự đắc, khinh khi chê bai người khác, thì việc làm đó chẳng những không được lợi ích, mà còn mang thêm trọng tội. Vì đó là trái với bản tâm và ngược lại với tinh thần từ bi giác ngộ của đạo Phật.
Chúng ta phải ý thức rằng, việc công quả cho chùa chỉ là tu phước, còn tu tập học hỏi chánh pháp mới là tu huệ, mà tu huệ mới là phần chánh. Vì trong khi tu học mà thiếu trí huệ chỉ đạo, thì sự tu học của chúng ta dễ bị sai lầm. Có đôi khi việc làm ta tưởng là có phước, nhưng kỳ thật lại là có tội. Vì làm mà thiếu trí huệ biện biệt chánh tà phải trái. Làm với tâm niệm thấy mình như là trời cao, xem người khác chẳng ra gì.
Thế nên, người Phật tử đi chùa phải biết lấy việc tu học làm gốc và mọi việc làm đóng góp cho chùa đều là phần phụ. Phải ý thức đúng hướng như thế, người Phật tử đi chùa mới thực sự được lợi ích lớn và mới mong trở thành người Phật tử chơn chánh đi chùa vậy.
IV. Chùa là nơi đáp ứng những nhu cầu tín ngưỡng
Ngôi chùa ngoài việc để mọi người đến chiêm bái tu học ra, nó còn là nơi đáp ứng những nhu cầu tín ngưỡng khác. Đại biểu như một số các trường hợp sau đây:
- Tụng niệm, bái sám, cầu an, cầu siêu vào những ngày thường, hoặc cuối tuần, hay những ngày rằm, ba mươi và các ngày lễ Vía đặc biệt.
- Xin xăm bói quẻ, cúng sao giải hạn, coi ngày giờ tốt xấu cho những vấn đề quan hôn tang tế. Hoặc coi ngày giờ tốt để khai trương cửa tiệm buôn bán làm ăn, hay sửa nhà, hoặc dọn vào nhà mới v.v…
- Các buổi lễ đặc biệt như lễ hằng thuận, tức lễ cưới tác hợp cho cô dâu chú rể thành vợ chồng dưới sự chứng minh của Tam Bảo và Chư Tăng, Ni.
- Những buổi lễ: giảng pháp, Bố tát, truyền Tam Quy ngũ giới, Bát quan trai giới, cúng dường trai tăng…
- Thờ phụng các hương linh nam nữ Phật tử đã gởi hình ảnh hoặc xương cốt, gọi là hương linh ký tự.
Ngoài ra, còn đáp ứng một số những nhu cầu khác về các mặt: giáo dục, văn hóa, xã hội, mỹ thuật, hội họa v.v…
Sở dĩ có những nhu cầu như thế, là vì căn cơ trình độ của mỗi chúng sanh khác nhau. Kinh nói: “chúng sanh đa bệnh, Phật pháp đa môn, hay đa dược”. Mục đích đều là trị bệnh cho chúng sanh cả. Nhưng, tất cả chỉ là quyền chước phương tiện độ sanh mà thôi. Nhờ bày ra với tánh cách đa dạng phong phú như thế, mà từ xưa tới nay, Phật giáo luôn luôn đáp ứng thích hợp với mọi căn cơ trình độ. Và cũng nhờ đó mà Phật giáo luôn có mặt trên thế gian để hoằng hóa độ sanh. Tuy nhiên, chủ trương của Phật giáo trước sau vẫn như một, là đưa chúng sanh đến chỗ cứu cánh giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Chớ không phải để chúng sanh chết chìm trong biển phương tiện. Đó là bản hoài và cũng là mục tiêu tối hậu của Phật giáo nhắm tới.
V. Người Phật tử phải có nhận định đúng đắn về việc đi chùa.
Như trên đã nói, đó chẳng qua là những phương tiện bày ra để cho phù hợp với mọi trình độ căn cơ của mỗi người mà thôi. Nhưng chủ đích của Phật giáo không phải là như thế. Người Phật tử cần phải có sự nhận định đúng đắn về việc đi chùa của mình. Mục đích của Phật giáo không phải chỉ có trên hình thức lễ nghi cúng bái không thôi. Mọi hình thức lễ nghi, nó chỉ có tác dụng như bản đồ chỉ đường, hay ngón tay chỉ mặt trăng. Đó là nói những phương tiện mang tính tốt đẹp thiện xảo. Chớ không phải là những phương tiện bất thiện, mang tính ru ngủ mê tín làm lung lạc mất niềm tin chánh tín ở nơi lòng người.
Phương tiện là điều tốt giúp ta rất nhiều trong việc tu học và truyền bá đạo lý. Vì nếu không có những hình thức lễ nghi nầy, thì người ta cũng khó mà hiểu được Phật giáo. Phương tiện là bước đầu, là cửa ngõ dẫn người ta vào đạo. Cho nên, mọi hình thức lễ nghi đều là phương tiện tốt. Tuy nhiên, có những phương tiện mà ta cần phải tiếp tục duy trì. Như những lễ nghi tụng niệm, bái sám, cầu an, cầu siêu v.v… Ngược lại, có một số phương tiện khác, ta thấy thực chất của nó là dẫn người ta vào con đường mê tín. Như những trường hợp: xin xăm bói quẻ, cúng sao hạn, coi ngày giờ tốt xấu v.v… Đây là những điều mà người Phật tử tu học căn bản nghiêm chỉnh, cần phải mạnh dạn quyết tâm loại trừ. Người Phật tử phải có chánh kiến, chánh tư duy và chánh tín. Không thể tin tưởng một cách mơ hồ, theo kiểu xưa bày nay bắt chước. Người Phật tử khi tin tưởng một điều gì, ta cần phải hiểu lý lẽ rõ ràng. Không thể nghe đâu tin đó. Tin càng, tin bậy, tin vạy, tin đùa, tin theo kiểu a dua, tin như thế chỉ có tác hại thêm cho ta mà thôi.
Người Phật tử chỉ tin tưởng vào Tam bảo và nhứt là tin theo lý nhân quả một cách chắc chắn. Ta không nên tin theo bất cứ điều gì ngoài nhân quả. Vì nhân quả là chiếc thuyền đưa ta đến bến giác ngộ, giải thoát. Nên nhớ, nếu ta tin xằng, mơ hồ, thiếu trí huệ chỉ đạo, thì trước hết, bản thân ta chỉ thiệt thòi, không được lợi ích, mà còn trái với lời Phật dạy nữa. Tin như thế, thì quả thật chúng ta chưa xứng danh là người Phật tử chơn chánh tu học Phật. Và cũng chưa phải là người Phật tử chơn chánh đi chùa.
VI. Lợi ích của việc đi chùa
Người xưa nói: “Làm việc có nghĩa là do tâm tỉnh ngộ, làm việc vô nghĩa là do tâm mê mờ”. Lời nói nầy thật quan trọng. Người Phật tử đi chùa do động cơ tỉnh ngộ mà đi. Nếu đi chùa mà không có ý học hỏi chánh pháp Phật dạy, thì dù cho có đi chùa lâu cũng không được lợi lạc. Tệ hơn nữa, là đi chùa với tâm do động cơ mê tín sai sử, đến chùa chỉ biết một bề lạy lục van xin không thôi, thì thật là tai hại. Vì thế, cũng một việc làm, nếu chúng ta học hỏi hiểu biết, thì việc làm đó mới có giá trị lợi ích thiết thiệt. Khi đến chùa ta xem nhau như con một cha, như người một nhà, không nên có thái độ chê bai chỉ trích nói xấu nhau. Như thế vừa tổn phước mình và cũng vừa gây ra tác hại cho người. Thái độ đó ta cần nên tránh.
Khi gặp nhau, ta nên tỏ thái độ vui vẻ và trân kính quý nhau. Nhứt là khi cùng nhau tu học trong một đạo tràng. Nếu có nói, thì ta nên nói những lời lẽ ôn hòa, từ tốn nhã nhặn. Tuyệt đối, ta không nên tranh cãi hơn thua với nhau. Vì mọi sự tranh cãi, chỉ là trò hý luận mà thôi. Lý lẽ không đi tới đâu, chỉ gây thêm buồn khổ cho nhau. Đến chùa, chúng ta chỉ nên quý tiếc thời giờ tu học, không nên quý tiếc thời giờ tranh cãi. Đó là thái độ khôn ngoan của người Phật tử khéo biết lợi dụng thời gian tu học. Có thế, thì việc đi chùa của chúng ta mới thực sự được lợi ích vậy.
Tóm lại, bất cứ việc làm nào, cũng cần phải có sự chọn lựa thích đáng. Chọn một việc làm có ý nghĩa trong sáng tốt đẹp, đó là con người có ý thức tỉnh ngộ. Khi đã có nhận định kỹ hành động của mình rồi, thì dù cho có gặp khó khăn gian lao thử thách, ta cũng quyết chí kiên tâm vượt qua. Có thế, thì đời ta mới được thăng hoa lợi ích. Ngược lại, khi gặp trở ngại khó khăn, ta chùn bước khiếp sợ, thì muôn đời ta vẫn không tiến bộ được. Là Phật tử khi đi đến chùa tu học, hoặc tụng niệm lễ bái, thì dù cho có ai khen chê, phê bình chỉ trích, ta cũng vẫn an nhiên. Ta cố gắng học theo gương hạnh hỷ xả của đức Bồ Tát Di Lặc:
Đức Di Lặc ngồi trơ bụng đá
Bao bụi trần bám đã rồi rơi
Mặc cho thế cuộc đầy vơi
Dửng dưng như một nụ cười an nhiên.
Hoặc:
Mắt trông thấy sắc thì thôi
Tai nghe thấy tiếng, nghe rồi thì không
Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
Nhẹ nhàng ta bước trong vòng trần ai.
Đi chùa với tấm lòng hỷ xả bao dung như thế, thì còn gì lợi ích so sánh cho bằng. Mong sao mỗi Phật tử khi đến chùa, phải có được tấm lòng bao dung rộng lượng hỷ xả như thế. Đó là người Phật tử đã đặt định đời mình đi đúng hướng chánh pháp rồi vậy.

Một Cõi Đi Về - Hồng Nhung - NhacCuaTui

Phước Thái
Theo https://quangduc.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách Ngoài kia xuân đang qua rồi sao!/ Thềm hoa hanh hao - trên trời cao/ Chim non ca vang như ngày nào/ Bên em anh...