Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2019

Thuyết “hư cấu lịch sử”, đôi điều bàn giải thêm

Thuyết “hư cấu lịch sử”, 
đôi điều bàn giải thêm
Gần đây xung quanh vấn đề gọi là “hư cấu lịch sử” (HCLS), có nhiều ý kiến chưa thống nhất, về nội hàm HCLS có người xem chỉ là việc bôi nhọ danh nhân “lấy những nhân vật lịch sử có thật, nổi tiếng dựa vào đó bịa đặt hư cấu (thật ra là nói xấu) để gây chú ý cho người đọc...” (*), về ngoại diên HCLS lại có cách hiều quá rộng, nâng lên thành “thuyết”, “luận thuyết”, thực ra HCLS theo cách dùng bấy nay chỉ là một thủ pháp nghệ thuật mà nhiều chủ thuyết nghệ thuật từ Chủ nghĩa hiện thực phê phán, Chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo, Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đến Chủ nghĩa hậu hiện đại... đều có sử dụng. Với những xuất phát điểm như vậy việc lý giải và rút ra kết luận về học thuật, đạo lý, pháp lý, nhiều khi chưa thật thuyết phục. Sau đây chúng tôi xin biện giải một vài ý kiến về vấn đề HCLS trọng giới hạn quen thuộc - hư cấu nghệ thuật trong các tác phẩm văn chương viết về đề tài lịch sử, vấn đề quan hệ giữa cái có thật và cái sáng tạo thêm, liều lượng và tác dụng của chúng!
I- Hư cấu lịch sử (HCLS) - nhu cầu thẩm mỹ tất yếu trong các tác phẩm văn chương viết về đế tài lịch sử.
Nhân vật lịch sử (đặc biệt là danh nhân) là con người có thật trong một thời kỳ lịch sử, có tiểu sử, có hành trạng rõ ràng được ghi chép trong sử sách cũng như trong trí nhớ của cộng đồng. Nhân vật lịch sử được thể hiện trong kho tàng văn hóa dân tộc thường gặp là loại truyện danh nhân. Truyện danh nhân là loại tự sự ghi lại cuộc đời và công trạng của các danh nhân lịch sử. Ở thể tài này người viết  sắp xếp các tình tiết, xâu chuổi các nhân vật trong mối quan hệ xác thực, hình tượng hóa nó lên để tăng cường sự hấp dẫn, tăng cường giá trị thẩm mỹ, người viết không thêm bớt những tình tiết, đưa vào những sự kiện không có thực. Truyện danh nhân chính là thể “ký” trong bình diện đề tài lịch sử (Truyện danh nhân đất Việt- Nhiều tác giả). Còn tác phẩm văn chương (Kịch, Truyện ngắn và Tiểu thuyết lịch sử) thuộc  thể loại cho phép người viết thêm bớt, sáng tạo xung quanh cái sườn lịch sử. Tính chất văn chương tạo một khoảng rộng cho sự hư cấu. Người viết tác phẩm văn chương - lịch sử không chỉ chọn lọc, sắp xếp các sự kiện mà có thể thêm bớt, sáng tạo kể cả việc xử dụng các yếu tố ảo, vô thức,các thế lực siêu nhiên. Giới hạn của việc tạo tác này là  không đi ngược lại bản chất của lịch sử, bản chất của nhân vật. Truyện danh nhân là “cái  đã có”, còn văn chương viết về lịch sử  là “cái có thể có”.
Các tác phẩm văn chương viết về quá khứ, về  lịch sử là tái tạo lịch sử, đánh giá lịch sử trong con mắt thời đại mới. Lịch sử chỉ một nhưng đánh giá có nhiều cách.
Tuy nhiên sự đánh giá nào xuyên tạc, đi ngược lại quan điểm của nhân dân ngược lại  sự thật đều không bền vững. Ở đây có một vấn đề tế nhị. Sự đánh giá của cộng đồng đối với các nhân vật lịch sử cũng không phải nhất thành bất biến mà thay đổi theo thời gian. Thời đại mới cung cấp cho cộng đồng nhiều dữ kiện mà trước đây chưa có hoặc chưa được dung nạp, tạo điều kiện xuất hiện cách đánh giá mới về lịch sử có thể rất khác trước. (Thí dụ cách đánh giá về vai trò Nhà Nguyễn, cách đánh giá các nhân vật lich sử như Phan Thanh Giản...). Đây cũng là một quy luật của nhận thức trên chặng đường tiếp cận chân lý. Trong các tác phẩm kiểu này, hiện thực không phải là mục đích chính của nhà văn khi miêu tả, mà đó chỉ là phương tiện, là cái cớ để thể hiện tư tưởng của nhà văn. Các thông điệp mà tác giả gửi gắm thông qua đề tài lịch sử là những kiến giải đã lọc qua cái kính tam lăng tư tưởng của con người hiện đại. Bức tranh lịch sử trong các tác phẩm văn chương không chỉ được chuyển dịch mà còn được cải biến theo tâm lý thời đại. Các tác giả không chỉ phản ánh một thời kỳ đã qua mà còn muốn lấy xưa nói nay! Chính bởi yêu cầu này mà có những hư cấu, thêm bớt tô đậm hay làm nhạt một số sự kiện, tính cách nhân vật nhằm bộc lộ rõ  chủ đề tác phẩm). Điều này rất gần gũi  khi ta đối chiếu với các nhân vật anh hùng trong quá khứ được thể hiện trong văn học thế giới như Napôlêông (Napôlêông tiểu đế - V.Huygô), Cutudôp (Chiến tranh và Hòa bình - L. Tônstôi), Piôt đại đế (tác phẩm cùng tên của A.Tônstôi), Tào Tháo (Tam Quốc Chí - La Quán Trung). Những nhân vật này trong lịch sử và trong tác phẩm văn chương đều có những khoảng cách, những hư cấu trong tác phẩm văn chương đã làm sống động “tính người” của các danh nhân, tăng cường những hiệu ứng thẩm mỹ trong lòng độc giả ...
II- Các phương diện hư cấu nghệ thuật quen thuộc được thể hiện trong các tác phẩm văn chương viết về lịch sử:
1- Xây dựng nhân vật không theo một sơ đồ giản lược định sẵn mà thể hiện tâm lý trong mối tổng hòa đa dạng có chiều sâu, với cả những góc khuất thầm kín, có sự phát triển tính cách khá sinh động, tinh tế. Ngay từ những năm giữa thế kỷ trước Nguyễn Huy Tưởng đã có những  bước đi táo bạo đặt nền móng cho kịch và tiểu thuyết lịch sử hiện đại Việt Nam. Trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng cảm hứng lịch sử đã trở thành chủ đề bao trùm hầu hết: Đêm hội long trì, An Tư công chúa (Tiểu thuyết), Vũ Như Tô, Cột đồng Mã Viện, Thái bình diên yến (kịch)…
Tuy nhiên lịch sử trong tác phẩm chỉ là cái cớ để ông thể hiện những băn khoăn về thân phận con người, cũng như vận mệnh đất nước trong cái thời cuộc đầy tao loạn. Bằng “cái nhìn văn chương”, Nguyễn Huy Tưởng thể hiện các nhân vật như Trịnh Sâm (Đêm hội long trì) Vũ Như Tô, Đan Thiềm (Vũ Như Tô), An Tư cho đến  Toa Đô, Thoát Hoan của phiá bên kia (Thái bình diên yến), với tính cách phức tạp, là những con người thực sinh động với hỷ, nộ, ái, ố… Các nhân vật không rập khuôn khô cứng theo một ý định có sẵn  mà  sống động với  thế giới nội tâm  tự nhiên, sâu sắc.
Mở rộng sang lĩnh vực Truyện ngắn thời đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp với những trang viết về danh nhân trong quá khứ tuy có gây nhiều bàn cãi nhưng cũng định hình được một thủ pháp: văn chương là tái tạo lịch sử hay nói một cách khác là viết lại lịch sử  theo minh triết và óc tưởng tượng của nhà văn. Hình ảnh Quang Trung và Gia Long trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp dẫu là những “khối nguyên liệu vô giá” nhưng khi làm vua, cái quy trình cung đình hóa mà thời đại dung dưỡng không thể không để lại những vết bùn dục vọng trên những bước chân của các vị! Cảm quan dân chủ khiến Nguyễn Huy Thiệp thể hiện các anh hùng lịch sử gần gũi với đời thường, cái gì “thuộc về con người đều không xa lạ” (K.Marx) với họ.
Trong các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, nhân vật  được phóng tác trên hai bình diện tâm lý và hành động. Nhân vật không minh họa cho một khái niệm có sẵn mà là một con người sống đích thực. Tâm lý phát triển biện chứng kéo theo những hành động, mà có thể chỉ là “khả năng” trong lịch sử. Nguyễn Mộng Giác trong “Sông Côn mùa lũ” đã khá thành công với nhân vật  Nguyễn Huệ. Một Nguyễn Huệ bình dị trong đời thường, nhưng cũng rất  anh hùng, không phải anh hùng một cách khô cứng, đơn giản mà là con người có những suy tưởng, trăn trở đầy trí tuệ. Vũ Ngọc Tiến với bộ ba tiểu thuyết lịch sử “Ba nhà cải cách” gây được ấn tượng với độc giả  nhờ ông viết về lịch sử với một cảm quan mới mẻ, ông đã mạnh dạn đưa những mưu mô giả trá, sự gian hùng lồng vào trong tính cách của Trần Thủ Độ, Khúc Hạo và cả Đào Duy Từ, minh chứng cho sự thật muôn thuở nghiệt ngã trên chính trường các triều đại. Bên cạnh là những trang viết sinh động diễn tả nội tâm của những người  phụ nữ Việt như Trần Thị Dung, Khúc Huyền, Thục Nga... Hồ Quý Ly trong tác phẩm cùng tên của Nguyễn Xuân Khánh cũng là một tính cách đa dạng: một tài nặng, một nghị lực, một tham vọng, một hoài bão, nhưng cũng là một cá tính  độc đoán có  khi hơi tàn nhẫn. Từ Đạo Hạnh, nguyên phi Ỷ Lan, cung nữ Ngạn La (Giàn thiêu) là những sáng tạo sinh động của Võ Thị Hảo, tác giả nhìn lịch sử từ nhiều phía nên miêu tả nhân vật thực sự trần thế, có những nét riêng của tính cách con người thực, hoặc hằn học, mù lòa, hoặc yêu thương thánh thiện, hoặc từ  bi đức độ…
2- Cùng với việc khắc họa sâu săc tâm lý các nhân vật chính diện cũng như phản diện, các tác giả đưa thêm vào nhiều sự kiện rất sống động giàu ý nghĩa, tạo dựng nhiều nhân vật không có trong lích sử: Nguyễn Huy Tưởng sáng tạo cảnh vua Thiếu Bảo ăn cơm nắm với dân, cảnh An Tư bế cháu Huyền Trân nức nở trong buổi chia tay, ông cũng mạnh dạn đưa vào nhiều nhân vật như Hùng Chi, Khúc Việt (Cột đồng Mã Viện) Nguyễn Mai, Bảo Kim (Đêm hội long trì) những nhân vật không có trong lịch sử làm tăng sức hấp dẫn. Nếu Nguyễn Huệ là một nhân vật thoát thai từ lịch sử thì An là sản phẩm thuần túy con đẻ trí tưởng tượng tác giả. Nhân vật An - người yêu Nguyễn Huệ - một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Mộng Giác (Sông Côn mùa lũ) mà GS Mai Quốc Liên đã phẩm bình một cách sâu sắc “là người phụ nữ Việt Nam của mọi thời biến động, nhẫn nại, yêu thương, đi hết số phận mình và phong phú, đẹp đẽ biết bao trong nội tâm,… người gánh lịch sử, đất nước, chồng con... trên đôi vai bé nhỏ, yếu đuối của mình”. Vũ Ngọc Tiến  cũng thêm vào những nhân vật không có trong lịch sử như đại  sư Duy Giác - thầy dạy Đào Duy Từ, đại sư Minh Luân - nhà sư thông tuệ, bí ẩn hiện thân của Phật học VN. Những nhân vật được bổ sung thêm vào này đã làm rõ thêm tính cách của nhân vật chính, với phục vụ tốt cho chủ đề tác phẩm. Nó nằm trong từ trường của “cái có thể” mà thể loại cho phép.
3- Với tiểu thuyết lịch sử, các tác giả có điều kiện mở rộng biên độ tưởng tượng, hư cấu. Các chiêu thức biến hóa luân hồi, các  huyền thoại, huyền sử đều được sử dụng để tô đậm bối cảnh góp phần thể hiện tư tưởng tác giả. Các yếu tố huyền ảo như giấc mơ, sự biến đổi truyền kiếp, luân hồi, các thế lực siêu nhiên mây gió, bão tố... được sử dụng hợp lý khiến độc giả thích thú (Giàn thiêu, Con gái nữ thủy thần).
Không thể không nhắc đến cái sự gợi ý ban đầu cho thể loại văn xuôi lịch sử, đó là truyện ngắn Lời than vãn của Bà Trưng Trắc - Nguyễn Ái Quốc, viết từ những năm hai mươi thế kỷ trước. Tác giả không câu nệ những nền luật cũ đã vẽ nên hình ảnh Khải Định một ông  vua nhu nhược, hài hước  làm xấu quốc thể, rồi để cho bà Trưng Trắc đã hiện về trong giấc mơ quở trách. Tính hai mặt của nhân vật là một sáng tạo, chất huyền hoặc của giấc mơ lại là một sáng tạo độc đáo thứ hai. Chúng đóng vai trò mở đầu cho việc cách tân các  thể loại nghệ thuật - lịch sử mà sau này trở thành một vệt dài,đậm trong văn học Việt Nam hiện đại.
Tìm hiểu về sự sáng tạo của các tác giả trong văn chương Việt Nam về đề tài lịch sử, dẫu có muộn những vẫn có một bề dày truyền thống kể từ Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái) cho đến nay, vấn đề hư cấu nghệ thuật quả thật đã được lý giải phần nào, đã có một buớc tiến dài trong nhận thức lý luận cũng như thực tiễn sáng tạo. Có thể lý thuyết chưa theo kịp thực tiễn, nhưng trong không khí cách tân các tác giả với những học hỏi giao lưu văn chương thế giới, và tầm tư duy mới mà xã hội mang lại đã khiến các tác giả khi thực hiện nhu cầu gửi gắm những thông điệp mang  tinh thần mới của thời đại qua các đề tài lịch sử đã kéo theo những cách tân trong thủ pháp xây dựng hình tượng, cũng như việc sử dụng một ngôn ngữ theo những quy chuẩn mới. Ở đây chúng tôi loại trừ các tác phẩm viết về danh nhân lịch sử với một động cơ ngoài văn chương.
(*) Trần Thanh Giao - “Thuyết hư cấu lịch sử” - Báo Văn nghệ số 32-2009.
Yến Nhi
Theo http://vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Văn chương Việt Nam 2022 – Một góc nhìn 2 Tháng Một, 2023 Tôi có thói quen ghi lại những sự việc, những hiện tượng văn học trong năm...