1. Trên bìa sau của Tạp chí Tri Tân số xuân Quý Mùi
(số 81+82, tháng 1+2 năm 1943) có đăng một quảng cáo rất thú vị: “Đã có
bán Thi nhân Việt Nam (1932-1941) của Hoài Thanh và Hoài Chân, in lần
thứ 2” với lời chua của tờ Điện tín Saigon phía dưới: “Tết năm nay anh em
nào ưa thích văn chương nếu chẳng có quyển Thi nhân Việt Nam bên ấm
trà sen, đĩa mứt ngọt hay bên mâm đèn, Tết ấy mất phần hứng thú hết năm bảy phần”,
kèm thông tin giá cả tương ứng với ba loại giấy sách khác nhau: loại thường, loại
bouffant hảo hạng và loại versé baroque crème hoa mỹ cầu kỳ [[1]].
Gạt bỏ những mục đích thương mại mà sự chỉnh chu, chuyên nghiệp
của nhà in tư nhân Nguyễn Đức Phiên đã hiển thị rõ và xứng đáng đồng tiền bát gạo
trong lời chào hàng này thì, ai cũng thấy Thi nhân Việt Nam [TNVN]
đang là cuốn sách bán chạy, vừa in năm trước (1942) đã tái bản liền sau đó, khiến
một tạp chí chủ trương “ôn cố” là Tri Tân, giữa lúc nồng nhiệt mời mọc những
cuốn khảo cứu đậm chất quá vãng của cử nhân Dương Bá Trạc (Chữ Nho học lấy và Gia
lễ giản yếu) đã không thể thờ ơ với cuốn sách đầy tính kim thời như thế. Còn
lời chua phía dưới thì đã đặt TNVN - một vật phẩm văn chương đơn thuần,
bên cạnh hai thức phẩm quen thuộc mà trang nhã - trà sen, mứt ngọt và thú ăn chơi
dẫu ngày nay là trụy lạc nhưng phổ biến bấy giờ - hút thuốc phiện, như bộ ba chân
kiềng tạo nên giá trị cái Tết mẫu mực của con nhà chữ nghĩa. Vậy là, ngay từ lúc tuổi
thôi nôi, TNVN đã sớm xác lập tiếng nói của mình, bước vào đời sống với
tư cách quý tử trong thập niên mà cái mới, cái hiện đại đã xác lập được quyền
thế của mình trên cơ địa cái cũ, cái truyền thống đang dần hồi tỉnh lại. Nhưng
chừng mười năm sau (1951), người cha của cậu quý tử ấy, Hoài Thanh, với thái độ
không gì quyết liệt hơn, bắt đầu gạch tên nó bởi lý do “đồng minh của giặc”, còn
chính mình thì bắt đầu lộ trình Xây dựng văn hóa nhân dân, Nói chuyện
thơ kháng chiến… Rồi lại mười năm sau (1962), giữa lúc Hoài Thanh vừa ráo mực lời
phán quyết “cần phải bôi vôi” vào “những câu thơ rầu rĩ… bám vào đầu óc như đỉa”,
thì với không ít người, bản in roneo TNVN xuất hiện rụt rè có thể là điểm
tựa tinh thần cho những tuổi đôi mươi vào chiến trường. Bởi thế khi mọi nỗ lực “lèn
cho đau” không làm đứa con tuổi tứ tuần (1982) quỵ ngã, thì Hoài
Thanh mới dám trăng trối rằng, nhờ nó mình “mới thực sự là một nhà văn” [[2]], danh hiệu cả đời ông phụng sự, rồi đem theo tên TNVN gắn
lên mộ chí, một kết thúc có hậu để càng thấm thía hơn cái mệnh đề một lời
là vận vào thân lâu nay chưa mấy ai ngẫm nghĩ thấu đáo: của tin, gọi một
chút này làm ghi. Kể từ đó, TNVN chu du sang tận Paris, rực rỡ với đôi
cánh mạnh mẽ mà họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung đã khoác lên hôm nào, rồi được long trọng
kỷ niệm ngày lên lão (1992) và cho đến nay, dù ở tuổi thất thập,
đã ai dám tiên đoán rằng nó sẽ mất sức hấp dẫn, dẻo dai khi mà số lần tái bản lên
đến hàng chục, với sự chen chân liên tiếp của giới đầu nậu sách?
Đặc biệt hơn, TNVN còn được diễn giải không ngừng bởi các cây bút nghiên cứu phê bình thế hệ sau [3], một thế hệ đã/ đang tạo nên ít nhiều giá trị mới/ khác với Hoài Thanh, để càng củng cố vị trí và thế giá cổ lai hy xưa nay hiếm của nó. Những diễn biến phức tạp và có phần kỳ lạ bất thường ấy, thiển nghĩ, sẽ gây hứng thú bàn luận hơn khi đưa TNVN vượt khỏi phạm vi tác phẩm phê bình thi ca thuần túy, đặng đặt trong lòng diễn biến văn hóa Việt trong suốt hành trình mà nó được tạo tác, chung sống, trải nghiệm. Cũng bởi thế, bài viết này bắt đầu từ một thôi thúc cá nhân: có gì để viết về TNVN nữa khi im lặng chiêm bái nó cũng đã được xem là hành động thông minh, đáng phục?
Đặc biệt hơn, TNVN còn được diễn giải không ngừng bởi các cây bút nghiên cứu phê bình thế hệ sau [3], một thế hệ đã/ đang tạo nên ít nhiều giá trị mới/ khác với Hoài Thanh, để càng củng cố vị trí và thế giá cổ lai hy xưa nay hiếm của nó. Những diễn biến phức tạp và có phần kỳ lạ bất thường ấy, thiển nghĩ, sẽ gây hứng thú bàn luận hơn khi đưa TNVN vượt khỏi phạm vi tác phẩm phê bình thi ca thuần túy, đặng đặt trong lòng diễn biến văn hóa Việt trong suốt hành trình mà nó được tạo tác, chung sống, trải nghiệm. Cũng bởi thế, bài viết này bắt đầu từ một thôi thúc cá nhân: có gì để viết về TNVN nữa khi im lặng chiêm bái nó cũng đã được xem là hành động thông minh, đáng phục?
2. Sự đắt hàng của TNVN giai đoạn đầu có một nguyên
nhân rõ ràng: sự thắng lợi tất yếu của Thơ Mới. Nên khi cả báo chí và nói
chung, đa phần các sinh hoạt văn chương thời đó, kể cả của những đương sự tạo nên
thơ Mới, lẫn chứng nhân quan sát, đều đang thỏa mãn với thành quả mình tạo ra,
thì có một bản tổng kết với tinh thần chủ yếu là ca ngợi nó, sẽ đáp ứng sự đồng
cảm, chia sẻ của số đông. Hơn nữa, với bố cục rõ ràng, lối viết ngắn gọn, sự
tuyển lựa kỹ càng cùng dàn ghế đại biểu chính thức (45) và đại biểu danh dự
(1) khá cởi mở cả về giới tính, TNVN, hơn bất kỳ công trình nào lúc đó,
cho thấy gương mặt, bước đi giọng nói tổng quát của thơ Mới; những bài thơ hay
và tác giả tiêu biểu của trào lưu này. Sự khẳng định của Hoài Thanh vừa hợp thời
vừa vượt thời bởi, nếu có công trình nào đi ngược lại nhằm hạ bệ thơ Mới, thì nó
thường bị yểu mệnh. Đành rằng, không ai nghĩ Hoài Thanh “hôi danh” thơ Mới mà ông
đã nói rất thực lòng nhưng lẽ nào TNVN đứng ngoài những dư vang lẫn hệ
lụy của thơ Mới đương thời và ngày sau? Thăng trầm của TNVN, sẽ không mất
công chứng minh, gắn với thăng trầm thơ Mới và ngược lại. Cả hai, trong suốt thời
gian song hành, đã là nhị trùng tính cách lẫn số phận.

Nếu “có những tên chẳng gợi trong trí người ta chút ký ức nào cả” như Đinh Gia Trinh phát hiện [Thanh Nghị, 1942] [[5]] thì được Hoài Thanh nhỏ to rằng bản thân có “rộng rãi” với mình nên “bài hay vừa tôi cũng trích” cốt để nói lên “cái đời bây giờ”. Nhưng một khi thời đại không thấy đó là thơ hay thì mặc lòng, TNVN có rung động thành thực tiến cử bao nhiêu, trong con mắt văn đàn, chủ nhân những bài thơ ấy vẫn làm “mất điểm” các thi sĩ có tiếng khi bị/được đứng chung, khiến mấy chục năm sau [1970], Nguyễn Vỹ vẫn lắc đầu khó hiểu trước sự chênh lệch đẳng cấp này. Nguyễn Vỹ cũng như vài “kẻ xa lạ” khác đã không được TNVN chào đón nồng nhiệt [[6]]. Vì chính Hoài Thanh rất thành thực chấp nhận “đứng ngoài” những “tâm hồn không lối vào” - một thế ứng xử không quá ngạc nhiên, vì, với bối cảnh lúc đó, thấu hiểu được những hồn thơ “bưng bít” như cách ông diễn đạt, mới là đáng ngạc nhiên… TNVN hẳn đã dự sẵn trong nó bản hợp đồng ngầm với cảm nghĩ của đại đa số lúc đó.
Đương khi ấy, trong năm 1942, cuốn Việt Nam thi ca luận [[7]] của Lương Đức Thiệp do Khuê Văn xuất bản, cũng đã dành
nhiều dung lượng để bàn về “Thơ Việt Nam hiện đại” gắn với các thi sĩ thơ Mới vừa
xuất hiện. Lương Đức Thiệp mở đầu bằng nhận xét rất đồng thuận với TNVN:
“Muốn nhận rõ xu hướng thi sĩ Việt Nam hiện đại, ta tưởng cũng cần phải biết một
vài điều sơ lược về lịch trình tiến triển của thi ca Pháp mà lớp thi sĩ chúng
ta đã chịu ảnh hưởng gần hay xa, mờ hay tỏ, trực tiếp hay gián tiếp”. Kế đó, Lương
Đức Thiệp chủ trương trật tự của thơ “phải là trật tự của nguồn cảm xúc. Mà trí
tuệ là dải đê, dãy đồi hướng dẫn cảm xúc xuôi dòng”. Bởi thế, tuy không bỏ qua
Nguyễn Xuân Sanh như một trường hợp đặc biệt của lối thơ “cô đặc”, “thuần túy”
nhưng diễn giải của Lương Đức Thiệp vẫn coi thơ của đại diện Xuân thu nhã
tập là “tối tăm” “nguồn rung động chưa lan truyền” “giết chết một phần chân
cảm”. Lương Đức Thiệp cởi mở song chưa thể dự trù thấu đáo lối đi, khúc ngoặt của
thơ Mới đã chuyển sang tượng trưng, siêu thực. Lối viết thiên về luận đôi khi rườm
rà đã cản trở sức mạnh phát tán của các ý tưởng chính trong công trình. Rút cuộc,
tuy cùng năm sinh nhưng Việt Nam thi ca luận thật vắn số, không đủ sức
cạnh tranh với TNVN đã đành, lại bị đời sau quên lãng. “Luận” đã thất
thế trước “bình” là một thực tế văn hóa: tư duy lý tính, lý thuyết, dù ở mức độ
sơ khai, đều không phải là điểm mạnh và có khả năng chỉ đạo tâm lý tiếp nhận văn
học ở Việt Nam.



Chú thích:
[1] Xem thêm Tri Tân tạp chí, số xuân Quý Mùi [81+82] tháng
1+2 năm 1943.
[2] Những diễn biến về Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam sử
dụng trong đoạn này có thể xem thêm ở bài “Lời cuối sách” của Từ Sơn,
đăng lần đầu trong Thi nhân Việt Nam, bản in 1988. Nxb Văn học.
[3] Có thể kể, gần đây, những diễn giải của: Hoàng Ngọc Hiến
với bài ‘Phê bình văn học của Hoài Thanh và phê bình văn học hiện nay’ trong
tạp chí Hợp Lưu số 49. 1999; Đỗ Đức Hiểu trả lời phỏng vấn ‘Về phê bình hiện
nay ở Việt Nam’ trong cuốn Thi pháp hiện đại [2000]; Trần Đình
Sử với bài ‘Về phương pháp phê bình văn học của Hoài Thanh’ trong cuốn, Lý luận và phê bình văn học [2006]; Nguyễn Đăng Điệp với bài ‘Văn chương, cái
đẹp và một triết lý phê bình’ trong cuốn Vọng từ con chữ [2004]; Đỗ
Lai Thúy với bài ‘Hoài Thanh - tôi lấy hồn tôi để hiểu hồn người’ trong cuốn Phê
bình văn học, con vật lưỡng thê ấy [2011]
[4] Những trích dẫn bài viết của Lê Tràng Kiều lấy từ sách 10
thế kỷ bàn luận về văn chương; tập III. Nxb GD, H.2007, tr.393-444.
[5] Trong năm 1942, Đinh Gia Trinh đã có hai bài viết nhắc đến Thi
nhân Việt Nam. Bài thứ nhất, Những hoạt động văn chương Việt Nam trong năm
vừa qua [tức năm 1941 - M.A.T], đăng trên Thanh Nghị số 10, sau
khi nhận xét “các sách phê bình văn chương có thể coi là hiếm” đã lấy ‘cuốn sách
phê bình về thi sĩ Việt Nam hiện đại (Thi nhân Việt Nam)” làm bằng cớ “một
khuynh hướng mới trong sự khảo xét các hiện tượng ở văn chương và rất đáng để
ta chú ý”. Bài thứ hai, Nói chuyện thơ nhân quyển Thi nhân Việt Nam
1932-1941 đăng ở Thanh Nghị số 19, một cách kỹ càng và có đối
thoại, Đinh Gia Trinh đã phân tích thêm một số hiện tượng thơ, vấn đề thơ ca mà Thi
nhân Việt Nam chưa bàn luận thấu đáo. Nhìn chung, cả hai bài viết đều cho
thấy Đinh Gia Trinh có tinh thần phân tích nghiêm ngặt.
[7] Trích từ sách 10 thế kỷ bàn luận về văn chương; tập
II; tr 787 - 871; Trong sách này, tiểu sử của Lương Đức Thiệp chưa được đầy đủ.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, có thể bổ sung những nét cơ bản sau: Lương Đức Thiệp
(1904-1946), quê quán: thôn Vệ Dương, xã Tân Phúc, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Ông từng cộng tác với các báo Tri Tân, Tao Đàn, Thanh Nghị, Văn Mới…, đóng góp
nhiều chuyên đề về văn học Việt Nam, nhất là xã hội học Việt Nam từ cổ đại đến hiện
đại. Các tác phẩm chính: Việt Nam thi ca luận (1942); Việt Nam tiến hóa sử
(1943); Xã hội Việt Nam (1943); Văn chương và xã hội (1944); Nghệ thuật thi ca
(1945); Duy vật sử quan (1945)…
[8] Nguyễn Hưng Quốc cũng có nhiều bài viết nhắc đến Thi
nhân Việt Nam, tiêu biểu như các bài “Chức năng chính của phê bình trong
thời điểm hiện nay”; “Điển phạm: một trung tâm của lịch sử và phê bình văn
học”; “Phê bình phê bình”…[trên http://www.tienve.org]. Thiển
nghĩ, mục đích của Nguyễn Hưng Quốc không nằm ở việc đánh giá phương pháp phê bình
Hoài Thanh đúng hay không đúng mà ở việc, qua cách diễn giải một điển phạm, cho
độc giả cách đọc mới về đọc và viết. Mục đích ấy triển khai theo mấy hướng: thứ
nhất, thừa nhận tính chủ quan trong việc chọn đối tượng ở Thi nhân Việt
Nam và coi đó là quyền của nhà phê bình được tôn trọng, nên không thể phê
bình sự lựa chọn ấy. Nhưng độc giả hoàn toàn có quyền phê bình chúng như “một cách
thức thể hiện quan điểm mỹ học của nhà phê bình”, nghĩa là nên đặt câu hỏi: “sự
yêu thích ấy tiết lộ điều gì trong cái gu thẩm mỹ của nhà phê bình?” Chỉ như vậy,
độc giả mới có thể tiến hành so sánh tính chất mới/ cũ của từng quan điểm,
trong khi bất lực đánh giá sự yêu thích.
Hà Nội, ngày mưa ngày nắng tháng 7/2011
MAI ANH TUẤN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét