Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2022

Ghi chép một chuyến điXXXX

Ghi chép một chuyến đi

Là nhà khoa học người Việt sống ở nước ngoài, tác giả Nguyễn Văn thường về nước giảng bài và có nhiều công trình nghiên cứu đóng góp cho đất nước. Trong một chuyến trở về xã Bàn Tân Định huyện Giồng Riềng tỉnh Kiên Giang quê hương, anh viết ghi chép này và gửi cho chúng tôi.
Nhận thấy tấm lòng của tác giả với quê hương và sự bổ ích của bài viết, chúng tôi trân trọng nhờ vannghesongcuulong chuyển đến bạn đọc.
 
Hà Văn Thùy.
 
 
 
Chương trình tivi: đầy phim truyện Hàn quốc
 
            Chương trình ti-vi ở Việt Nam có thể mô tả bằng một cụm từ : Số lượng thì nhiều mà chất lượng thì nghèo.  Truyền hình qui mô toàn quốc thì có hệ thống kênh VTV, và ở mỗi cấp thành phố và tỉnh cũng có một đài truyền hình riêng.  Tuy con số đài truyền hình ở nước ta nhiều và đó là một tín hiệu tích cực, đáng mừng, nhưng thời lượng phát sóng còn quá hạn chế.  Không có đài nào có chương trình phát sóng 24 giờ mỗi ngày.  Các đài địa phương cấp tỉnh và thành phố thì còn hạn chế hơn, đó là chưa tính đến những chồng chéo, lặp đi lặp lại về mặt nội dung.
 
            Nội dung chương trình tivi không mấy phong phú.  Xin đơn cử phần tin tức trước.  Theo tôi thấy, cách thức trình bày và nội dung tin tức trên các đài truyền hình Việt Nam vẫn chưa có gì thay đổi đáng kể so với thời bao cấp.  Có lẽ không dưới 25% các bản tin là những thông tin xoay quanh các lãnh đạo đi thăm vùng này, ghé địa phương kia, nhà máy nọ, v.v… Các vị lãnh đạo vẫn phát biểu những câu nói chung chung, khẩu hiệu tính, vô thưởng vô phạt, trừu tượng, xa rời mối quan tâm của quần chúng; vẫn tươi cười một cách gượng gạo cho ống kính.  Phần còn lại là những tin tức về thành tích sản xuất của các nhà máy, lượng xuất khẩu, nói chung là các thông tin liên quan đến hoạt động kinh tế của quốc gia hay của địa phương.  Xem qua những cách đưa tin này, tôi có cảm giác nhiều (không phải tất cả -- xin nhấn mạnh) kí giả Việt Nam đã trở thành những công chức thống kê.  Họ đọc vanh vách những con số về sản lượng công nông nghiệp chính xác đến 0,0001, những con số phần trăm chính xác đến hai con số thập phân !  Tất nhiên, đối với một người thường dân như người viết bài này thì những con số đó hoàn toàn vô nghĩa, nó chỉ là những con số trang trí làm mất thì giờ người nghe.
 
Ngược lại với những chính xác về con số, rất ít, nếu không muốn nói là chẳng có, những tin tức liên quan đến các vấn đề tiêu cực mà xã hội đang bức xúc như tham nhũng, tình trạng lạm quyền thế của vài cán bộ địa phương, tai nạn giao thông, tình hình y tế, v.v… Có thể nói các bản tin tức chỉ tô vẽ một mặt tích cực mà lờ đi những khía cạnh tiêu cực của tình hình chính trị - kinh tế.  Nếu hiểu truyền thông có chức năng phản ánh quan tâm của quần chúng thì có thể nói rằng các đài truyền hình ở Việt Nam chưa làm tròn chức năng của mình. 
 
Những ai từng theo dõi những chương trình phóng sự điều tra thời sự của giới kí giả Tây phương sẽ rất thất vọng với tình trạng nghèo nàn về thể loại thông tin này.  Nói “nghèo nàn” có lẽ còn quá “tích cực”, phải nói là không có những chương trình phóng sự điều tra thật sự trên các kênh truyền hình Việt Nam.  Những tình tiết và câu chuyện chung quanh vụ bán độ bóng đá mà báo chí khai thác hàng ngày đáng lẽ phải là một phóng sự điều tra hấp dẫn, nhưng không, các kênh truyền hình chỉ đưa tin sơ sài mà chẳng có gì đào sâu. 
 
Thực ra thì những tin tiêu cực này vẫn xuất hiện hàng ngày trên hầu như bất cứ tờ báo nào.  Các báo hấp dẫn (có nghĩa là phản ánh được một phần những quan tâm của người dân) vẫn là Tuổi trẻ, Thanh niên, Người lao động, Lao động, và mới đây là Phụ nữ.  Tôi có cảm giác rằng những bản tin tiêu cực, nếu có lưu hành, chỉ được lưu hành trong số những người biết chữ (có điều kiện mua và đọc báo) mà thôi, chứ không được lưu hành rộng rãi hơn qua các kênh truyền hình.
 
Thỉnh thoảng cũng có vài bài phóng sự ngắn, nhưng nội dung rất nghèo nàn, không có đầu mà cũng chẳng có đuôi, rất ngộ nghĩnh.  Nó y như là người kể chuyện dở, kể không hết câu chuyện, ngắt ngang vấn đề, thiếu tình tiết và bối cảnh.  Hệ quả là người xem chẳng hiểu câu chuyện ra sao và được giải quyết như thế nào.
 
            Tin tức thế giới ở Việt Nam phần lớn được chuyển qua bởi hệ thống CNN, mà người đọc tin nói là “hệ thống vệ tinh”.  Tuy nhiên, mỗi bản tin đều có logo của hãng CNN, nên nguồn gốc của nó không thể nảo chối cãi được.  Tôi để ý thấy tivi chỉ loan toàn những tin có liên quan đến các nước hay khu vực có quan hệ mật thiết với Việt Nam, nhưng các bản tin đều không được trình bày một cách đầy đủ như bản tin gốc, mà chỉ trích dịch một số đoạn có lợi cho nhà nước Việt Nam.  Thật ra thì điều này cũng có thể hiểu được, vì các kênh truyền hình đều do nhà nước quản lí và là cơ quan tuyên truyền của nhà nước, của Đảng, cho nên họ có xu hướng đưa những bản tin mang tính tuyên truyền, hơn là những bản tin mà quần chúng quan tâm.
 
            Tuy nhiên, tôi thích chương trình phản ánh của khán giả qua đường điện thoại.  Đây là chương trình rất ngắn (chỉ kéo dài khoảng 10 phút) mà khán giả có thể gọi điện thoại báo cho đài biết về những tai nạn giao thông, những biến cố trong làng xã, những điều phi lí trong xã hội, đại khái là những chuyện cần đến sự can thiệp của các cơ quan chính quyền địa phương như ủy ban nhân dân, công an, bưu điện, v.v... Thế nhưng cũng chính qua các phản ánh này mới bọc lộ một xu hướng thụ động của các cơ quan chức năng địa phương.  Rất nhiều, có thể hơn 50% các phản ánh của người dân mà đài truyền hình luôn có câu “Đề nghị các cơ quan chức năng giải quyết và trả lời dân” hay “Đề nghị các đồng chí […] trả lời ngay cho dân”, nhưng chẳng có ai trả lời và chẳng có cơ quan nào giải quyết!  Cũng có thể các “quan chức năng” không xem tivi, hay không thèm làm, hay  … xem thường dân chúng.
 
            Trong khi tin tức nghèo nàn thì các chương trình games (trò chơi) tràn đầy thời lượng truyền hình.  Theo báo chí làm thống kê, có ít nhất là 25 chương trình games trên các kênh truyền hình.  Ngoài các chương trình nổi tiếng và phổ biến như Đường lên đỉnh Olympia, Trò chơi âm nhạc, Vui để học, Chiếc nón kì diệu … còn có hàng loạt trò chơi mới như Ai là triệu phú, Rồng vàng, Cuộc sống số, Chung sức, Đố vui để học, v.v… Phần lớn chương trình games hoặc mô phỏng, hoặc mua từ nước ngoài, mà mục tiêu chủ yếu là quảng cáo sản phẩm tiêu dùng hàng ngày, như bột giặt, sữa, nước suối, cà phê, đồ điện tử, v.v…  Điều đáng nói là những quảng cáo của họ rất lộ liễu, chứ không tinh vi như các game shows ở ngoại quốc.  Chẳng hạn như chương trình games quảng cáo bột giặt, người ta trưng một hộp bột giặt to đùng trên sân khấu, nó còn to hơn bất cứ vật dụng nào trên sân khấu, đập vào mắt của người xem một cách đầy ấn tượng mà … khó chịu.
 
Một điểm nổi bật trong các chương trình truyền hình ở Việt Nam ngày nay là các phim truyện Hàn quốc.  Thời lượng dành cho các phim truyện Hàn quốc còn nhiều hơn cả (có thể là nhiều nhất) các chương trình games.  Có thể nói ở Việt Nam đang có một con sốt phim Hàn quốc, chứ không phải cơn sốt dịch cúm gà.  Phần lớn là những cuốn phim loại tình cảm xã hội, thể hiện sinh hoạt xã hội và văn hóa của Hàn quốc hơn là của Việt Nam.  Những cuốn phim này không chỉ được trình chiếu qua các kênh VTV, mà còn trên tất cả các kênh tivi tỉnh thành khắp nước.  Có thể nói bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, mở tivi lên và nếu chịu khó chuyển đài thì thế nào cũng thấy một phim Hàn Quốc hay Trung Quốc đang trình chiếu !
 
Qua gần 2 tuần theo dõi, tôi thấy đó là những bộ phim nghèo nàn về nghệ thuật tính, đơn sơ trong dàn dựng, và phần lớn là gượng ép trong diễn tuồng.  Thú thật, tôi chẳng thấy một cái nghệ thuật tính gì, chẳng thấy một khía cạnh xuất sắc nào trong các bộ phim này.  Đó là những bộ phim với một câu chuyện kéo dài hết ngày này sang tháng khác, câu khách một cách khá rẻ tiền.  Tôi có cảm giác đó là một sản phẩm văn hóa rẻ tiền, một loại phó sản văn hóa của nước ngoài.  Ấy thế mà nó làm say mê rất nhiều khán giả, kể cả khán giả cao tuổi. 
 
Do đó, ảnh hưởng của những cuốn phim này trong xã hội, và đặc biệt là trong giới thanh niên, không nhỏ chút nào.  Nhiều người Việt Nam ngày nay có thể kể vanh vách tên những tài tử và tình tiết câu chuyện y như những người mê truyện chưởng Kim Dung thởi trước 75 !  Cứ nhìn qua cách ăn mặc, ăn nói, cư xử, v.v… của thanh niên ngày nay thì rõ : Họ bắt chước theo phim.  Tóc tai nhuộm màu nâu, màu vàng; quần áo hoa hòe ống loa, ống chật; ăn nói kèm theo những ngôn từ ngoại lai như “thiện tai” nghe rất ư là chướng tai và nhìn rất ư là gai mắt.  Có em không phân biệt được ai là diễn viên người Việt và ai là diễn viên Hàn Quốc !  Thật là một sự xâm lăng văn hóa ghê gớm !
 
            Tình trạng phổ biến của phim Hàn quốc ở Việt Nam đặt ra nhiều câu hỏi và thách thức cho nền kịch nghệ và điện ảnh Việt Nam.  Có người giải thích rằng vì các đài truyền hình Việt Nam không có đầy đủ ngân sách để trình chiếu các phim ảnh của Mĩ hay Âu châu, trong khi đó Hàn quốc và Trung quốc sẵn sàng cho chúng ta những tập phim truyện miễn phí thì tội gì chúng ta không nhận.  Miễn phí bây giờ, nhưng có lẽ chúng ta phải trả cái giá văn hóa sau này. 
 
Câu chuyện trong bệnh viện và y tế Việt Nam
 
Tôi có dịp vào thăm người thân đang nằm tại một bệnh viện lớn ở Tp.HCM, và vài lần ghé qua bệnh viện đem lại cho tôi nhiều cảm giác vui buồn lẫn lộn.  Bệnh viện là một trung tâm y tế lớn nhất và hiện đại nhất ở miền Nam ( hay cả Việt Nam ), cho nên có rất nhiều bệnh nhân từ khắp cả tỉnh, phần lớn là các tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, được điều trị tại đây.  Bệnh viện lúc nào cũng quá tải.  “Quá tải” ở đây phải hiểu là có nhiều bệnh nhân hơn số giường, cho nên hầu như khoa nào của bệnh viện cũng có bệnh nhân nằm ngoài hành lang; bất cứ phòng nào cũng có tình trạng hai bệnh nhân phải nằm chung một giường !  Khoa thấp khớp có 65 giường, nhưng hầu như tháng nào cũng có ít nhất là 100 bệnh nhân nằm, phần lớn là những bệnh do lạm dụng thuốc corticosteroid.  Có một bệnh nhân mà nhìn qua tấm phim X-quang khó mà nhận ra các đốt sống !  Khoa ung bứu có vô số bệnh nhân nằm la liệt trong phòng và ngoài hành lang trông cực kì thảm hại. 
 
Mà một bệnh nhân có nhiều thân nhân đến thăm nuôi, cho nên con số người trong bệnh viện lúc nào cũng đông nghẹt.  Nhìn từ xa thấy toàn cảnh bệnh viện rất hỗn độn và … dơ bẩn.  Có khi khó nhận ra đây là một bệnh viện.  Những ai, và nhất là bác sĩ, từng làm việc trong các bệnh viện ở các nước Tây phương có lẽ khó mà tưởng tượng một cảnh trạng như thế. 
 
            Tuy nhiên, bệnh viện cũng có những khu vực ( hay “khoa ) tương đối sạch sẽ hơn.  Chẳng hạn như khu vực “ Nội quốc tế ”, dành các quan chức cao cấp, các bệnh nhân có tiền (kể cả bệnh nhân nước ngoài – do đó có chữ “quốc tế” trong tên gọi).  Khu này có thể nói là gần như đạt tiêu chuẩn quốc tế về vệ sinh : Phòng ốc sạch sẽ, mỗi phòng đều có cầu tiêu thiết kế theo kiểu vừa là nơi làm vệ sinh cá nhân vừa là nơi tắm rửa, có ti-vi, tủ lạnh, v.v… Khu này còn có nhân viên làm vệ sinh hàng ngày, nên trông rất sạch sẽ.  Tuy nhiên giá cả thì không rẻ chút nào: giá tiền phòng cho mỗi ngày là 300.000 đồng, còn tiền thuốc và chi phí điều tra (X-quang, MRI, CT scan, v.v…) là bệnh nhân phải trả thêm.  Một MRI scan tốn khoảng 2 triệu đồng (tức trên dưới 200 đô-la Úc), một giá không rẻ hơn ở Úc chút nào.  Người dân lao động có thu nhập thấp không thể nào có khả năng chịu nổi những khoản phí tổn khổng lồ này. 
 
            Có lẽ là trung tâm y tế chính của cả nước, nên bệnh viện được đầu tư khá dồi dào.  Tất cả các máy X-quang, MRI, CT scan, DXA scan, v.v… đều có ở đây.  Ngay cả cơ sở phân tích sinh hóa cũng rất tốt, nhất là trong điều kiện kinh tế ở Việt Nam như hiện nay.  Ngoài ra, có một thay đổi tích cực trong bệnh viện, đó là cấm hút thuốc lá.  Trước đây, thân nhân và bệnh nhân hút thuốc lá thoải mái, rất ư là phản y tế, nhưng nay thì điều lệ cấm hút thuốc lá trong và ngoài khung viên bệnh viên đã được ban hành và được chấp hành rất nghiêm chỉnh. 
 
            Nhưng việc đi lại trong bệnh viện, nhất là đối với bệnh nhân ở các tầng cao như tầng 8, 9, và 10, còn rất nhiêu khê và khó khăn.  Cứ mỗi lần ra ngoài bệnh viện và đi vào bệnh phải tốn ít nhất là 30 phút!  Lí do đơn giản là có quá nhiều thân nhân đến thăm nuôi, mà bệnh viện chỉ có 2 thang máy dành cho họ, vì thế người ta phải … sắp hàng mỗi khi vào bệnh viện.  Có khi hàng người kéo dài cả trăm mét ngay trước cổng bệnh viện, và cảnh chen lấn nhau, dành đứng đầu (người Việt Nam ta vẫn chưa quen với khái niệm trước sau), và kẻ lạ móc túi cũng gây ra bao nhiêu là phiền phức và thảm cảnh cho thân nhân.  Vì rất nhiều thân nhân, nhất là thân nhân từ các miền quê, chưa biết sử dụng thang máy điện cho nên bệnh viện phải mướn một đội “tài xế” mà việc làm chỉ đơn giản là … lái thang máy.  Mỗi khi vào thang máy, chỉ cần nói số lầu là “tài xế” bấm nút và quay lại đọc tờ báo đã nhàu nát từ buổi sáng !  Trong khi chỉ có 2 thang máy được dành cho thân nhân thăm nuôi, thì bệnh viện có đến 12 thang máy dành cho nhân viên và chuyên tải bệnh nhân !  Tôi thật không hiểu nổi tại sao lại có một sự bất cân đối như thế. 
 
Có hôm tôi đi lạc vào khu thang máy dành cho nhân viên, đang loay hoay tìm cầu thang, thì liền bị một giọng nói phía sau đầy uy quyền : Ông kia, đi đâu đây?  Dạ, tôi đi thăm nuôi.  Thăm nuôi đâu đây, ngoài kia kìa, đứng sắp hàng ở đó đó.  Anh nhân viên bảo vệ ra lệnh cho tôi.  Mới sớ rớ sắp hàng, liền bị một anh bảo vệ khác gọi giật lại: Ông kia, có cái gì trên vai vậy?  Dạ, máy chụp hình.  Hả, ông ăn cắp ở đâu vậy, trả cho người ta đi !  Anh ta nói giữa thanh thiên bạch nhật như thế, và hàng trăm ánh mắt tò mò nhìn sang tôi.  Vừa nói, anh vừa ra lệnh tôi cởi áo ngoài để anh ta xem cái máy chụp hình.  Tôi dứt khoát không rời cái máy Nikon yêu quí của tôi, và khẳng định tôi là thân chủ của nó.  Có lẽ thấy thái độ “giữ của” của tôi quá kiên quyết, nên anh ta hỏi: Ông đi đâu.  Dạ tôi đã nói là đi thăm thân nhân trên lầu 10.  Hả, lầu 10 ?  Dạ.  Anh ta quét mấy cái nhìn nghề nghiệp vào tôi và sau vài giây suy nghĩ, anh cho tôi vào thang máy.  Ôi, thật là hú hồn một phen !  ( Xin nói thêm lầu 10 là khu “điều trị theo yêu cầu”, giống như là một khu bệnh viện tư trong một bệnh viện công, mà phần lớn bệnh nhân là người nước ngoài.)
 
            Thật ra hành động của anh bảo vệ cũng không phải là quá đáng, bởi vì nạn ăn trộm tại các bệnh viện lớn ở Tp. Hồ Chí Minh ngày nay phải nói là đến độ nguy hiểm.  Lợi dụng đám đông và tình trạng bệnh của bệnh nhân, có rất nhiều kẻ gian len lỏi vào bệnh viện để ăn cắp đồ đạt và tiền bạc của bệnh nhân hay của thân nhân bệnh nhân.  Hầu như bệnh viện nào cũng có những biển như “Đề phòng trộm cắp”, “Coi chừng móc túi”.  Có nơi còn cho phát thanh thường xuyên cảnh báo bệnh nhân và thân nhân về nạn ăn trộm và móc túi.  Mà xem ra công an chưa có biện pháp gì để ngăn chận tệ nạn này.
 
            Thái độ của nhân viên bệnh viện, đặc biệt là y tá và hộ lí, ở bệnh viện này chỉ có thể mô tả bằng một danh từ: hống hách.  Tôi có cảm giác là họ chẳng biết hay chẳng hiểu khái niệm phục vụ bệnh nhân có nghĩa gì.  Câu chuyện và kinh nghiệm của tôi cũng đáng suy ngẫm về thái độ này.  Hôm đó, tôi chuẩn bị thủ tục cho thân nhân xuất viện, và phát hiện tên của thân nhân tôi đã bị thay đổi chỉ với một dấu nặng.  Tôi phàn nàn rằng cả hai tháng mà chẳng ai sửa lại tên bệnh nhân cho chính xác.  Thay vì nói một lời xin lỗi, cô y tá nhìn tôi khinh khỉnh nói: Ôi, có cái tên mà làm gì phải nghiêm trọng vậy.  Tôi cãi lại rằng nghiêm trọng chứ, vì nó biểu hiện thái độ coi thường bệnh nhân và cách làm việc cẩu thả, ngay cả cái tên mà còn không viết đúng thì còn sai sót gì khác nữa đây. 
 
Hôm xuất viện, một cô y tá, chẳng cần báo trước, xông vào phòng bệnh nhân, nói là đòi kiểm tra xem có mất gì không.  Tôi thấy thái độ hách dịch và cách dùng chữ “mất” của tôi, nên không ngăn được một lời cảnh cáo: Thưa chị, tôi cảm thấy xúc phạm khi chị dùng chữ “mất”; thân nhân tôi đến đây để chữa bệnh, chứ không phải để ăn cắp của ai cả.  Cô y tá quét một ánh mắt sáng ngời và khinh khi nói rằng: Đây là qui định, tôi phải kiểm tra.  Dạ thưa chị, không ai không cho chị kiểm tra, tôi chỉ không chấp nhận chữ “mất”, và tôi nghĩ chị nợ chúng tôi một lời xin lỗi.  Cô tả quay lưng bỏ đi, cũng như khi cô vào phòng, chẳng có một lời nói từ biệt chứ nói gì đến xin lỗi. 
 
            Do có đồng nghiệp làm việc ở đây, tôi có dịp ghé thăm vài khoa trong bệnh viện, tôi phải nói rất nhiều y tá ở đây thật khó ưa.  Họ nói chuyện với bệnh nhân như là người chủ nói chuyện với người ở, và thái độ của họ thì hống hách, đe dọa, miệt thị đến độ có thể nói là vô giáo dục.  Tôi thấy rất ít y tá có lời nói dịu dàng với bệnh nhân.  Trước những quát mắng, bệnh nhân và thân nhân chỉ biết nhẫn nhục chịu đựng, nhẫn nhục cuối đầu thấp, y như là thần dân phủ phục trước bệ rồng của vua. 
 
Người y tá phục vụ đã trở thành quan chức được phục vụ.  Thật vậy, những thói nhũng nhiễu, vòi vĩnh tiền bạc từ bệnh nhân xảy ra hàng ngày.  Đi qua một vòng các giường bệnh và hỏi thăm thân nhân, tôi có thể nói 100% thân nhân đều thường xuyên cung phụng các y tá trực phòng để được yên thân.  Hình thức có thể là quà cáp, trái cây, tiền bạc.  Thành ra, không một ai ở bệnh viện cảm thấy thoải mái cả.  Bệnh nhân, ngoài căn bệnh ra, lúc nào cũng ám ảnh với những “ma” đang trực chờ lừa đảo, ăn trộm, và sợ những y tá vào la mắng, thành ra không lúc nào cảm thấy yên thân, chứ nói gì đến yên tâm.  Có người cho rằng nằm bệnh viện là một cực hình, xem bệnh viện là một nhà tù, thậm chí đối với vài người nằm bệnh viện là một địa ngục ở trần gian.
 
            Người ta nói nhiều đến vấn đề giáo dục, nhưng tôi cho rằng y tế cũng là một trong những vấn đề nổi cộm và nghiêm trọng nhất ở Việt Nam.  Thiếu bệnh viện là một cái khó khăn triền miên, muôn thuở.  Thiếu thốn phương tiện điều trị và chẩn đoán cũng là vấn đề đau đầu cho bác sĩ.  Nhưng có lẽ cái thiếu thốn đau lòng nhất, nhức nhối nhất và nguy hiểm nhất trong ngành y tế hiện nay là hiện tượng vô cảm, là vấn đề y đức của giới y tế, kể cả bác sĩ và y tá.  Những thái độ hách dịch, những hành vi xem bệnh nhân như là người hưởng ân huệ, những trò “chuyền bóng” bệnh nhân để làm tiền xảy ra hầu như hàng ngày đến độ xã hội xem đó là chuyện thường tình.
 
            Có thể nói hệ thống y tế Việt Nam hiện nay đang giết chết người dân.  Ngày nay, người dân không bị bệnh truyền nhiễm, mà những bệnh liên quan đến ăn uống và thừa thải thực phẩm, và việc điều trị thường quá khả năng tài chính của bệnh nhân.  Những bệnh thường hay gặp nhất ở nông thôn ngày nay là: cao huyết áp, tiểu đường, khớp xương, tim mạch và tai biến mạch máu não.  Mỗi lần đi khám bệnh, chi phí bác sĩ thì không bao nhiêu, nhưng cái toa thuốc kèm theo mới làm cho nhiều gia đình điêu đứng, méo mặt.  Một bệnh nhân tiểu đường, mỗi lần đi khám bác sĩ đều có một toa thuốc trị giá 600.000 đồng có thể dùng trong vòng 1 tháng.  Đó là chưa kể các dịch vụ thử nghiệm khác, cũng tốn khoảng 100.000 đồng một lần, có khi lên đến cả triệu đồng.  Một người nông dân làm trung bình một ngày chỉ 20.000 đến 30.000 đồng thì lấy đâu để trang trải toa thuốc này? 
 
Chính phủ chẳng có tài trợ gì, người dân phải tự lo liệu lấy.  Nếu người dân bị bệnh và không có tiền thì phải làm gì?  Chờ chết.  Cuộc sống thiếu thốn sản sinh ra nhiều thảm cảnh.  Vài ba câu chuyện thương tâm xảy ra trong làng tôi.  Bà X bị bệnh đau khớp xương, và qua biết bao lần chữa trị không hết, mà tiền thì cứ cạn dần.  Đến lúc mợ thấy không muốn làm phiền và hao tổn con cái nữa, bà quyết định treo cổ tự tử chết.  Một người Khmer ngày xưa (trước 1975) có khoảng 20 công ruộng; sau 1975 cũng còn nguyên vẹn, vì gia đình có 5 con.  Mấy đứa con đều có gia đình và chúng ra ở riêng, chỉ còn một mình bà ở trong căn nhà lá đơn sơ.  Vài năm trước đây, bà bị bệnh khớp xương, nghe nói là đau đớn lắm; bà cố gắng chịu đau, không chịu mua thuốc uống, vì thuốc đắt đỏ quá.  Đến khi cơn đau lên cao, bà tự tử bằng cách lấy dao tự cắt cổ mình.  Vì nghèo quá, nghèo đến nổi không có tiền mua hòm để liệm.  Hàng xóm phải góp tiền để mua cho bà một cái hòm để hỏa táng. 
 
            Các tổ chức y tế quốc tế một mặt ca ngợi thành tựu của ngành y tế Việt Nam, mặt khác họ cảnh báo rằng tình trạng thiếu công bằng trong chăm sóc sức khỏe cho người dân đứng vào hạng những nước tệ nhất thế giới (hạng 187 trong số 191 nước).
 
            Trước những bức xúc như thế, người đứng đầu ngành y tế Việt Nam nghĩ gì ?  Đề cập đến chất vấn của các đại biểu về vấn đề y đức và nạn nhũng nhiễu bệnh nhân, bà Trần Thị Trung Chiến (nghe đâu mang hàm phó giáo sư tiến sĩ) chẳng những không trả lời được mà còn than vãn xin được … thông cảm: “Nghề nào thì cũng cần đạo đức nhưng y đức của ngành y tế được đặt ra nặng hơn.  Mọi người cũng phải thông cảm cho, hiện nay nhiều bệnh viện quá tải, cầu vượt quá cung.  Một buổi chiều khám 100 người bệnh, bác sĩ còn đâu vui vẻ.”  Còn trước tình trạng thiếu bệnh viện và cơ sở vật chất trong ngành y tế, bà bộ trưởng cũng tỏ ra … bó tay: “Có những bệnh viện không mổ được một ca ruột thừa … Tôi đã thiết tha nhiều lần đề nghị đầu tư cho ngành y tế.  Phải có kinh phí, nếu không Quốc hội hỏi tôi, chất vấn thế này, tôi không làm sao giải thích được.”  Nghe người đứng đầu ngành y tế của cả nước nói như thế, người dân còn gì là hi vọng ?
 
 
Nhọc nhằn đường xá Đồng bằng sông Cửu Long
 
Trong mỗi chuyến về Việt Nam, tôi luôn cảm thấy và nghĩ mình không thể nào chịu nổi cuộc sống xe cộ ồn ào, nhà cửa chật chội ở thành phố.  Thành ra, xong việc là về quê ngay, bởi vì ở trong quê, tôi luôn cảm thấy mình thật sự ở trạng thái thoải mái, vì hít thở được không khí trong lành, được sống những ngày êm đềm, được nằm võng giữa trưa hè dưới hàng cây xanh rậm lá và nghe vọng cổ bên kia sông, và nhất là được sống lại môi trường bà con chòm xóm.  Nhưng mỗi chuyến xe về quê là mỗi ám ảnh khó quên …
 
Một hôm, tôi quyết định đi từ Sài Gòn về Kiên Giang (và ngược lại) bằng xe đò thay vì bao xe.  Ai cũng khuyên tôi không nên vì sẽ gặp nhiều phiền phức và nhọc nhằn lắm.  Nhưng tôi muốn nếm mùi giang hồ nên bỏ ngoài tai những lời khuyên bảo chí tình.  Cũng cần nói thêm, một chuyến bao xe từ Sài Gòn về Kiên Giang tốn khoảng 800 ngàn tới 1,2 triệu đồng (tức khoảng 100 đô-la Úc), tùy theo xe ở Sài Gòn (đắt hơn) hay xe ở tỉnh, nhưng đi xe đò chỉ tốn khoảng 50.000 đồng.  Đã lâu, cũng cả 30 năm rồi, không đi xe đò, nên tôi muốn đi thực tế xem tình hình ra sao.
 
            Tôi thức sớm chuẩn bị ba lô, đồ dùng cá nhân, rồi thả bộ ra Xa cảng miền Tây để mua vé.  Buổi sáng mới tinh sương mà hàng quán quanh Xa cảng đã tấp nập người đi lại và buôn bán.  Mấy anh chàng xích lô không ngừng "gạ" tôi đi xe họ.  Tôi để ý thấy vài khẩu hiệu cũ vẫn còn xuất hiện lẻ tẻ, nhưng dưới làn nước sơn phai màu, như "Đảng Cộng Sản Việt Nam Quang Vinh Muôn Năm!", "Bác Hồ Vĩ Đại Sống Trong Lòng Sự Nghiệp Cách Mạng của Chúng Ta!" ...  Vào phía trong, tôi thấy Xa cảng vẫn nhộn nhịp như ngày nào, nhưng sạch sẽ và gọn gàng hơn rất nhiều so với thời trước 1975 hay thời bao cấp.  Xe cộ đậu rất thứ tự và theo tên từng tỉnh.  Dò theo tên của tỉnh mình, tôi tìm tới bến xe về Kiên Giang rất dễ dàng.  Khu dành cho Kiên Giang có 4 chiếc đang đậu chờ khách.  Có ba loại xe chính: xe 12 chỗ ngồi (tức xe van bên Úc hay Mĩ), xe 25 chỗ ngồi (tức xe mini-bus) và xe lớn hơn khoảng 50 chỗ ngồi (tức xe bus).  Nhìn chung quanh tôi thấy phần đông là xe hiệu Hyundai và kế đến là Toyota.
 
            Vừa tới nơi, đã có ba bốn anh lơ xe hay cò gì đó mời mọc đi xe của họ.  Cần nói thêm là thời bao cấp xưa tôi đã phải năn nỉ họ, chứ làm gì có chuyện họ chào hỏi tôi.  Họ quảng cáo đủ thứ để lôi cho bằng được khách.  Họ đưa ra những đặc tính xe để hấp dẫn khách, nào là xe có video chiếu phim chưởng, xe có máy lạnh, xe chạy tốc hành không đón khách giữa đường, xe mới chỗ người rộng rãi, tài xế chịu chơi, v.v. và v.v...  Tôi chọn chiếc xe 25 chỗ ngồi, không có video nhưng có máy lạnh và đi tốc hành.  Anh lơ xe sốt sắng xếp hành lí của tôi vào xe và dẫn tôi lên ghế ngồi. Anh nói ngọt ngào: Em biết anh là Việt Kiều, anh nên ngồi ghế trên thoải mái hơn.  Giá chỉ có 40.000 đồng thôi hà, số lẻ đối với anh mà ... Tôi hỏi giá của các ghế khác thì anh nói là 38.000 đồng.  Tôi quyết định mua giá 40.000 đồng và cho anh ta thêm 5.000 đồng để uống cà phê.  Anh ta liền đon đả dẫn tôi đi uống cà phê trong khi chờ khách.
 
            Tôi lên xe chờ và nhìn chung quanh những bạn hành khách.  Xe đò này đúng là dành cho dân nghèo tỉnh lẻ.  Cả xe có khoảng 15 người, mà phân nửa là các cụ bà, cụ ông, còn lại là các anh chị học sinh, sinh viên, dân thường hay cán bộ đi công tác.  Các cụ thì lĩnh kĩnh mang theo bao bị đủ thứ đồ ăn, bánh mì; các anh chị học sinh thì sách báo trên tay, ăn nói đùa giỡn liên tục như chỗ không người; một hai anh cán bộ hay bộ đội đang say sưa với tờ Tuổi trẻ cuối tuần ... Không còn cảnh gà vịt trên xe đò nữa.  Tôi thở phào nhẹ nhõm để chuẩn bị tinh thần cho chuyến đi dài.   Theo lịch trình, xe sẽ rời bến lúc 8:10 sáng, nhưng tôi coi đồng hồ đã 8:20 mà xe vẫn chưa chuyển bánh.  Đột nhiên, có một chị nhân viên điều hành bến cảng đến đuổi tài xế phải rời bến. Anh tài xế dùng dằng, chị ta nói vài câu nữa (mà tôi không nghe được), anh ta phải rời bến.  Nhưng trước khi rời, anh ta văng tục: Đ. M., tao mướn chỗ đậu tốn tiền, thì phải cho tao chút thì giờ đón khách chớ.  Làm gì đuổi hoài vậy.  À, thì ra, các xe miền tỉnh lẻ phải mướn chỗ ở Xa Cảng này!
 
            Xe bon bon rời Xa cảng đi về hướng Long An.  Theo yêu cầu của khách, anh tài xế mở nhạc.  Tiếng hát của một cô các sĩ (mà sau này tôi mới biết là Phi Nhung) vang lên trong trẻo, tình tứ và ướt át, làm hài lòng nhiều hành khách:
 
                        Tôi ở ngoại ô, một căn nhà nhỏ
                        Có cây thơm trái ngọt
                        Gần kề lối xóm có cô bạn thân
                        Sớm hôm lo sách đèn ...
 
Nàng ca phần lớn những bài nhạc điệu boléro mà ngày xưa có người cho là "nhạc sến", và sau này (sau 75) có thời được xem là "nhạc đồi trụy" hay "phản động.  Nói vậy thôi, chứ bây giờ thì những loại nhạc này tràn đầy khắp thị trường … đen. 
 
Nói là xe tốc hành, nhưng trên đường, khi thấy ai về miền Tây, anh lơ xe cũng đón hết.  Anh lơ xe này hay lắm: anh ta chỉ nhìn qua là biết khách miền Tây hay không.  Đi miền Tây hả, lên đi! là câu mà anh hay la hét.  Thật ra, chuyện lên xuống hành khách cũng rất nhanh, không tới 1 phút.  Được quảng cáo là xe có máy lạnh, nhưng tôi chả thấy tài xế dùng nó bao giờ trong suốt chuyến đi.  Mà thật ra, cũng chả cần dùng máy lạnh, vì gió mát đồng quê có lẽ còn mát hơn cả cái lạnh bệnh hoạn của máy lạnh.  Vả lại, cửa xe đóng mở liên tục thì có máy lạnh nào phục vụ cho một chiếc xe rộng như thế.
 
            Đi khoảng một đoạn và nhìn qua cách lái xe của anh tài xế chịu chơi này, tôi mới thấy mình sai lầm khi chọn ngồi gần ghế anh ta.  Thoải mái, rộng rải thì có thật, nhưng kinh hồn vì những lần anh qua mặt xe khác và đối đầu xe đối diện.  Mang tiếng là quốc lộ, nhưng thật ra, con lộ từ Sài Gòn về miền Tây chỉ có hai lane, vừa đủ cho hai xe chạy ngược chiều.  Vì thế, khi qua mặt, họ phải dùng lane phía bên kia để vượt lên.  Có nhiều lúc, hai xe đi đối diện nhau trên cùng một lane chỉ cách nhau vài thước, tức sự chết chóc có thể xảy ra trong nháy mắt, nếu tài xế không lách kịp vào lane của mình.  Đó là chưa kể đến các xe gắn máy, xe đạp, xe ôtô đi loạn xạ trên lộ.  Có nhiều lúc, tôi chỉ nhắm mắt không dám nhìn vào những lần qua mặt khủng khiếp.  Tôi để ý thấy mấy tay tài xế cũng có tình đồng nghiệp lắm.  Chẳng hạn nhừ tài xế xe hàng (tải) luôn luôn dành đường cho các xe hành khách, bằng cách ra dấu cho tài xế nên vượt hay không.
 
            Tôi có dịp hỏi anh tài xế sao anh lại gan qua mặt xe khác một cách nguy hiểm vậy.  Anh này, coi bộ du côn với người khác, vậy mà mềm dẽo với tôi lắm, anh nói: Em phải chạy như vậy anh à, nếu không nó sẽ lấn mình xuống ruộng.  Tôi ngạc nhiên và hỏi thêm tại sao nó sẽ lấn mình xuống ruộng, thì anh ta nói: mình phải tỏ ra có bản lãnh với xe đối diện thì nó mới nhường.  Tôi nghĩ thầm: trời ơi bản lãnh kiểu đó thì có ngày bỏ mạng như chơi.  Tôi nói với anh ta là chắc chẳng ai gấp gáp gì đâu, anh cứ chạy từ từ ... nhưng lời nói của tôi chả có hiệu lực gì hết.
 
            Xe chạy vừa tới bến phà Vàm Cống, mùi thịt nướng thơm ngào ngạt đã lấn chiếm các giây thần kinh của tôi.  Chưa thưởng thức xong mùi vị quê hương, tôi đã phải đương đầu với một "đội quân" bán đủ loại thức ăn uống mời gọi.  Đội quân này vừa đi Honda, vừa đi bộ, luôn miệng rao hàng.  Họ còn nhảy lên cả xe để thuyết phục hành khách mua thức ăn của họ.  Thức ăn thì ôi thôi đủ thứ: cơm xườn, chả lụa, nem chua, bánh tráng ngọt, nước ngọt, nước khoáng, trái cây ... đủ thứ!  Có lẽ họ thấy cái mã "Việt kiều" của tôi, nên tôi bị đội quân này chiếu cố quá cỡ.  Tôi nói tôi không phải Việt kiều mà là học sinh từ Sài Gòn về quê.  Có người còn nói: Xạo hoài anh hai ơi, anh tưởng như tụi tui hổng có mắt vậy.  Tôi cũng nhân cơ hội mà nói đùa, mua vài món trái cây làm quà.  Ngày xưa, tôi nghe nói mấy ông thương phế binh (thật hay giả thì không biết) thường hay làm phiền khách qua phà, thậm chí hành hung khách, nếu khách không chịu mua kẹo của họ.  Nhưng trong chuyến đi này, hoàn toàn không có tình trạng đó.
 
Nhưng bực bội và khó chịu nhất vẫn là đội quân bán vé số.  Họ nài nỉ một cách ... dai không tả được.  Ngày nay, hầu hết các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đều có tổ chức xổ số.  Vì vậy, ngày nào cũng có chương trình xổ số trên đài truyền hình.  Họ tranh nhau in những tấm vé số màu mè, hoa hòe chẳng kém gì so với thời trước 1975.  Đội quân đi bán vé số cũng tăng theo nhanh chóng.  Đội quân này không những có mặt ở bến phà, mà còn ở hầu hết các quán ăn uống và nơi công cộng.  Họ là học sinh, công tư chức, nông dân, v.v...  Nhưng tôi cũng nghe nói có nhiều người chỉ sống vào nghề bán vé số, thậm chí có người làm giàu cũng bằng nghề này.
 
            Phà Vàm Cống chạy nhanh và phục vụ khá hữu hiệu.  Tình trạng chờ phà như ngày xưa hầu như không có.  Không đầy 15 phút, phà đã qua phía bên kia sông và xe lại lên đường.  Xe vừa qua phà, anh tài xế cho ghé lại quán Ba Mỹ để hành khách ăn uống, giải lao và đi tiểu.  Lợi dụng sự thiếu thốn cầu tiêu tiểu ở đây, các nhà gần phà đều trương biển hiệu “Đi tiểu” để kiếm thêm thu nhập.  Một lần đi tiểu tốn chỉ 500 đồng, nhưng với lượng khách hàng chục ngàn người mỗi ngày thì thu nhập của các nhà này cũng khá.
 
Tôi cũng theo bà con ăn một tô hủ tiếu Mỹ Tho ở đây.  Ngon không tả được!  Anh bộ đội ngồi trên ghế phía sau tôi trên xe nãy giờ im lặng đột nhiên lân la đến  làm quen với tôi.  Nói chuyện một chút tôi mới biết anh ta là trung úy và đang là bộ đội biên phòng đóng quân ngoài đảo Phú Quốc, một huyện của tỉnh Kiên Giang.  Ngày xưa, tôi từng đi ra đảo này làm việc nhiều lần, nên hỏi anh về tình hình ngoài đó và được nghe nhiều chuyện thú vị.  Anh ta hỏi tôi về cuộc sống ở nước ngoài và hỏi tôi có muốn về Việt Nam làm gì cho quê hương không.  Anh ta còn đi xa hơn và hỏi ngày xưa tôi đi vượt biên hay đoàn tụ gia đình.  Tôi nói thật là tôi đi vượt biên.  Anh ta cười, vỗ vai tôi và đùa: Ngày xưa tôi xem anh là phản cách mạng đó nhé.  Tôi cũng đùa lại là Ngày xưa chắc tôi không dám léo hánh đến gần anh, chứ làm gì trò chuyện như vầy ...  Vẫn biết anh ta đùa, nhưng tôi cứ suy nghĩ hoài câu nói đó.  Mấy chữ "phản động" hay "phản cách mạng" đã làm cho biết bao người phải lận đận lao đao, tán gia bại sản ...
 
            Đường từ Vàm Cống về Kiên Giang càng lúc càng hẹp lại.  Nhà cửa hai bên đường chỉ cách mặt đường xe chạy 1, 2 thước.  Tôi thấy thật là nguy hiểm cho các em học sinh và người đi bộ đi bên lề.  Anh tài xế tay luôn bóp kèn inh ỏi.  Ấy vậy mà người đạp xe đạp vẫn tỉnh bơ, coi như "ne pas".  Đến huyện Tân Hiệp thì đường xá lại càng hẹp hơn (chỉ vừa 1 chiếc xe qua lại theo tiêu chuẩn bên này), đã vậy, dân chúng buôn bán lấn chiếm lề đường một cách ... tự nhiên, làm cho xe đi lại càng thêm nguy hiểm.  Nhưng đường từ Tân Hiệp về Rạch Sỏi thì lại khá hơn nhiều, nhưng cũng không kém phần nguy hiểm.
 
            Giữa đường từ Tân Hiệp về Rạch Sỏi, bỗng đâu xuất hiện một chị thấp người, lanh lẹ, với microphone, và một bao bị gì đó lên xe.  Chị ta chuẩn bị giàn máy xong xuôi và cầm microphone bắt đầu nói chuyện.  Chị ta nói chuyện rất lưu loát, có duyên và thu hút.  Nghe một lúc thì tôi biết chị ta là một nhân viên tiếp thị (salesman) của một hãng bán thuốc Tây và thuốc Nam.  Theo lời chị thì thuốc của chị chữa trị bách bệnh, từ đau nhức đến ung thư, tiểu đường, và … nhức đầu!  Sau khi giới thiệu thuốc xong, chị ta bèn mở bao ra và cho khách hàng xem hàng.  Tôi thấy cũng có nhiều khách mua thuốc của chị ta.  Đến một đoạn kia, tài xế cho chị xuống.  Sau này tôi mới biết đội quân tiếp thị này hoạt động trên các tuyến đường vùng ĐBSCL đều có ăn rơ với tài xế để bán hàng hóa.
 
            Nói chung, tôi đã có một chuyến đi xe đò thú vị, nhưng cũng mất hồn.  Thú vị vì đã biết thêm cái “văn hóa” của dân xe đò, sinh hoạt khó khăn của hành khách từ tỉnh lẻ lên Saigon.  Kinh hoàng vì những nguy cơ tưởng như chỉ xảy ra trong chớp mắt.  Tôi tự hỏi chả biết bao giờ vùng ĐBSCL mới có một con đường “ngon lành” để dân miền Tây đi lại dễ dàng và an toàn hơn.  Bây giờ thì hành khách đỡ bị “hành” hơn trước đây, nhưng những vất vả và nguy hiểm thì vẫn còn đó:  Xe đò ơi, những vất vả ngày ấy  / Nhớ thương hoài chẳng nguôi ...  
 
Đường xá gập ghềnh
 
            Từ Sài Gòn về các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có thể đi theo một con đường duy nhất: Quốc lộ 1A.  Con đường này được xem là huyết mạch nối liền Sài Gòn và cái vựa lúa của Việt Nam.  Từ Sài Gòn, qua ngả ba Trung Lương, đến Long An, băng qua Tiền Giang, rồi trực chỉ phà (nay là cầu) Mỹ Thuận.  Từ Mỹ Thuận, có thể về thành phố Cần Thơ hay các tỉnh như An Giang và Kiên Giang.  Nếu đi đường Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, phải qua sông Hậu (bằng phà Cần Thơ); nếu đi đường An Giang và Kiên Giang, hành khách phải qua một nhánh sông Hậu khác (qua phà Vàm Cống). 
 
Gần đây chúng ta thường nghe đến những phát triển giao thông đáng khích lệ trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.  Chẳng hạn như cầu Mỹ Thuận đã được xây xong từ năm 2000 (tốn 95 triệu đô-la Úc hay 72 triệu đô-la Mĩ, với 66% tài trợ từ Úc) giải quyết rất nhiều vấn đề lưu thông cho các tỉnh miệt Hậu Giang.  Mới đây, dự án xây cầu Cần Thơ đã khởi động hồi tháng 9 năm 2004, với kinh phí 342 triệu đô-la Mĩ, và khi hoàn tất (dự kiến năm 2008) sẽ là cây cầu dây văng lớn nhất Đông Nam Á và lớn vào hàng thứ 7 trên thế giới.  Quốc lộ 1A từ Sài Gòn về Long An và một phần tỉnh Tiền Giang đã được nới rộng giúp xe cộ lưu thông cũng khá. 
 
Nhưng ngoài những phát triển mang tính tập trung và bề nổi đó, phần còn lại của quốc lộ vẫn chưa có gì cải tiến cả.  Chẳng hạn như con đường Từ Sài Gòn về Kiên Giang chỉ khoảng 260 cây số, mà phải tốn đến ngót nghét 6 tiếng đồng hồ!  Thực ra, như vậy đã là một tiến triển đáng mừng rồi, bởi vì 30 năm về trước phải mất một ngày đường (12 giờ đồng hồ).  Có lẽ nhiều bạn ngạc nhiên tại sao trong thời kì phát triển nhanh chóng hiện nay, mà con đường về các tỉnh ĐBSCL còn quá lâu như thế, nhưng đó là một thực tế rất đáng buồn.  Con đường về các tỉnh ĐBSCL chỉ có thể mô tả bằng hai chữ: kinh khủng. 
 
Vâng, đường từ Sài Gòn về các tỉnh miền Tây Nam bộ còn rất gập ghềnh và lắm chông gai.  À không, phải nói chính xác là còn lắm ổ gà.  Sau 30 năm thống nhất đất nước, trong khi các tỉnh ngoài Bắc đã có những con đường quốc lộ lán on chẳng khác gì đường xá tại các nước Tây phương, thì ngược lại con đường về miền Tây còn tệ hơn cả 30 năm về trước.  Về phương diện đường xá này, có thể nói Việt Nam là hai nước khác nhau. 
 
Chỉ có một đoạn đường có thể nói là khá hơn trước, đó là đường từ Sài Gòn đến Tiền Giang.  Còn đường từ cầu Mỹ Thuận, qua phà Vàm Cống đến các tỉnh như An Giang, Kiên Giang, Minh Hải, v.v… thì đường xá còn tồi tệ hơn tình trạng của 30 năm về trước.  Con đường huyết mạch kinh tế của cả miền Nam mà chỉ 2 lằn xe rất hẹp, chỉ vừa đủ cho hai xe bốn bánh.  Nhiều đoạn xuống cấp hết sức nghiêm trọng, ổ gà khắp nơi.  Có nơi xe phải bò (chứ không phải chạy) theo hình chữ “Chi”, và hành khách trên xe thì tha hồ ngất ngư như nhảy đầm!  Có nhiều đoạn đường chỉ có thể chạy 30 hay 40 km/giờ.  Chẳng hạn như con lộ từ Phà Vàm Cống đến Tân Hiệp chỉ có thể chạy 30 km/giờ; từ An Giang đến Cần Thơ chỉ chạy 45 km/giờ.  Từ Cần Thơ đến cầu Mỹ Thuận thì khá hơn chút: 65 km/giờ.  Theo đánh giá của một quan chức trong ngành giao thông thì “Hệ thống đường trên nhiều quốc lộ, tỉnh lộ tại ĐBSCL hiện có chất lượng dưới trung bình”.  Thành ra, không ai ngạc nhiên mỗi khi có lũ lụt thì có đến 1200 cây số rất khó đi lại, hoặc có nơi, không đi lại được. 
 
Còn cầu cống chẳng những không có gì cải tiến mà còn tồi tệ hơn 30 năm về trước.  Những cây cầu được xây từ đời Pháp cho đến nay vẫn chưa được nâng cấp hay tu bổ, cho nên có cây cầu mà xe chạy ngang, hành khách chỉ biết nhắm mắt trao thân cho … trời.  Đã từng có vài cầu bị sập cầu và hành khách bỏ mạng, nhưng thay vì xây cầu mới hoàn chỉnh và an toàn hơn, thì buồn thay, chính quyền chỉ sửa sơ sài cho có để giải quyết giao thông.  Có nhiều cây cầu đã 50 hay 60 tuổi chỉ vừa đủ cho một xe qua mà thôi, ấy thế mà xe bốn bánh và xe gắn máy phải chen chân nhau vượt!  Bạn đọc phải đi qua những cây cầu làm bằng ván hay tole, cột xiêu vẹo, và nhịp gập ghềnh mới có thể thấy mạng sống của người dân rẻ rúng cỡ nào. 
 
            Vấn đề xem thường tính mạng của người dân còn thể hiện qua những lơ là, chểnh mảng trong các biển chỉ đường.  Một con đường đang chạy bon bon đột nhiên bị hạ thấp cả 20 cm, mà không hề có một biển cảnh cáo nào cả.  Nếu không quen đường thì xe có thể bị hư hỏng, thậm chí lật tại chỗ như chơi.  Hầu như con đường nào cũng có nhiều ụ và ổ gà trên đường nhưng trước đó hay quanh đó hoàn toàn không có một biển ngữ nào cảnh báo người lái xe cả.  Có khi người ta xây một cột điện gần giữa đường mà cũng không hề có một cái biển nào cảnh báo.  Hầu như tất cả những nơi đang xây dựng đường, nhà thầu (hay cơ quan chịu trách nhiệm xây đường) đều không đề biển gì cả.  Trong thực tế, đã có nhiều người chết vì tình trạng này.  Ấy thế mà từ năm này sang tháng nọ, dù đã có bao người bỏ mạng vì những cái ụ, ổ gà đó, mà cơ quan chức năng chẳng làm gì cả.  Tôi bức xúc nói chuyện này với anh tài xế, thì anh ấy nói: Ấy, vậy mới là Việt Nam chứ!  Anh bảo tôi nên so sánh đoạn đường chung quanh cầu Mỹ Thuận do Úc làm với những đoạn đường kế tiếp do Việt Nam làm để biết “họ ăn cỡ nào”.  Thật vậy, ngành xây đường lộ ở Việt Nam ngày nay được người dân gắn cho huy chương vàng (các huy chương bạc và đồng thì trao cho ngành nhà đất, công an, hải quan, và y tế).  Xin nói ngay huy chương này là huy chương về tham nhũng và “ăn”, chứ không phải huy chương thành tích hoạt động. 
 
Vấn đề lấn đường cũng là một mối khổ tâm của tài xế.  Đoạn đường từ Phà Vàm Cống đến Kiên Giang là một nỗi kinh hoàng cho tài xế xe và hành khách, vì cái chết có thể chỉ xảy ra trong nhấp nháy.  Dân chúng xây nhà, làm chợ lấn ra ngoài đường.  Trẻ em đi học trên những xe đạp xiêu vẹo cũng trên quốc lộ.  Vì nhà cửa dân hai bên con lộ chật hẹp, trẻ em và người lớn băng qua đường lộ quá … tự nhiên đến nổi tôi có cảm giác họ chẳng biết cái chết là gì.  Tài xế bóp kèn inh ỏi, họ cũng làm ngơ!  Tối về thì hàng quán lấn ra đường gây nên một nỗi kinh hãi cho giới lái xe khách.  Không ai ngạc nhiên khi biết rằng trên con lộ này, hầu như ngày nào cũng có người chết hay bị thương vì tai nạn xe cộ.  Xin nhắc lại: hàng ngày (chứ không phải hàng tuần nhé!)
 
            Nói đến tai nạn giao thông ở nước ta, tôi đọc đâu đó một thống kê nhức nhối.  Cứ mỗi ngày có khoảng 86 người chết vì tai nạn giao thông.  Chỉ riêng năm 2004 có đến gần 17 ngàn vụ tai nạn giao thông làm cho 12 ngàn người chết.  Số lượng xe cơ giới của Việt Nam không bằng 5% so với lượng xe ở châu Âu, mà số tai nạn giao thông thì bằng phân nửa số tai nạn ở châu Âu!
 
            Trước tình trạng này, Nhà nước phát động phong trào phòng ngừa tai nạn xe cộ.  Chẳng hạn như người lái xe gắn máy trên 50 cc phải có bằng lái; như người lái xe gắn máy phải mang mũ an toàn; phải nghiêm chỉnh tuân hành luật lệ giao thông, v.v… nhưng có lẽ do ý thức dân còn kém nên hiệu quả của phong trào này vẫn còn kém.  Rất ít người đội mũ an toàn trên đường.  Tuy nhiên, vấn đề bằng lái xe thì có vẻ được chấp hành nghiêm chỉnh.  Việc vẽ lằn ranh trên đường cũng được tiến hành trong cả nước.  Tuy nhiên, ít ai tuân thủ theo các lằn ranh này! 
 
            Ở các nước Tây phương một tần số tai nạn như thế là một khủng hoảng chính trị, và chính phủ phải tìm mọi phương cách giải quyết vấn đề.  Nhưng ở nước ta, tôi có cảm giác nhà nước chỉ nói mà chưa làm gì nhiều và mạnh để khắc phục vấn đề.  Đã 30 năm rồi mà người dân ĐBSCL không có một con lộ xứng đáng với tầm vóc kinh tế và mức độ cống hiến của họ.  Đã 30 năm rồi mà người dân ĐBSCL vẫn phải chết hàng ngày vì những tai nạn xe cộ đáng lẽ ra phải được ngăn ngừa ngay từ ngày hôm qua, chứ không phải hôm nay. Nếu một ông Tây bà đầm mới ghé thăm Việt Nam hay một Việt kiều sau nhiều năm về thăm lại làng tôi qua con đường lộ xe chạy và sự hiện diện của điện nước sẽ kết luận ngay rằng thôn quê Việt Nam bây giờ khá giả quá.  Nhưng chỉ cần đi sâu vào các con kênh chung quanh khu chợ tấp nập, người ta sẽ có một cái nhìn khác, công bằng hơn.  Nói một cách ngắn gọn, nông thôn Việt Nam, mà đặc biệt là vùng miền Tây Nam bộ, dù có vài “tiến bộ” nhưng vẫn còn quá nghèo. 
 
Nhưng trước khi nói chuyện nghèo, xin nói vài phát triển tích cực trước.  Trước hết là đường xá nông thôn.  Nhiều con đường nối liền các huyện, xã và liên tỉnh đã được thi công, làm cho việc đi lại của bà con trong quê càng ngày càng dễ dàng và nhanh chóng hơn trước kia rất nhiều.  Ngày xưa từ xã tôi ra thị xã (khoảng 25 cây số) phải đi bằng đò, và tốn chừng 5 đến 6 giờ đồng hồ (tức gần nửa ngày).  Mỗi ngày chỉ có một chuyến đò đi và về.  Mỗi chuyến đi lên thành thị như thế là cả một hành trình gian truân và phải chuẩn bị từ lúc hừng sáng.  Người ở xa phải bơi xuồng từ trong rạch ra chợ để đón đò, để có chỗ ngồi tốt.  Nhưng nay thì con lộ đã xây xong, người dân chỉ tốn 30 phút là đến Rạch Giá.  Chuyện đi lại với các tỉnh lân cận như An Giang và Cần Thơ cũng dễ hơn xưa rất nhiều, nhờ đường liên tỉnh đã được xây lại tốt hơn xưa.  Ngoài ra, còn có xe bus chở học sinh từ các vùng nông thôn ra thị trấn hay thị xã đi học.  Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ giao thông vận tải, trong vùng ĐBSCL đến nay vẫn còn 20% xã chưa có đường lộ cho xe ôtô. 
 
Một trong những thay đổi tích cực nhất là việc đưa điện về tới thôn quê.  Nghe nói hiện nay, đã có khoảng 90% thôn quê có điện lực.  Tôi được biết nguồn điện này được chuyền vào từ ngoài Bắc, chứ không phải trong Nam.  Tuy nhiên, không phải ai cũng có tiền nối điện vì thu nhập eo hẹp.  Giá nối điện bốn 5 năm về trước là 3 triệu đồng, nhưng ngày nay chỉ còn khoảng 1 triệu đồng, thậm chí thấp hơn nếu trong dịp khuyến mãi.  Đối với những người sống bằng nghề làm mướn, tức là không có ruộng đất, thì đây là một số tiền rất lớn.  Còn nông dân thường hay trả tiền bằng lúa. 
 
            Điện về quê mang theo nhiều dịch vụ hiện đại khác như chiếu phim và bắt cá bằng chạy điện.  Trước hết bà con đã có thể mua tivi, đầu máy CD, video, thậm chí tủ lạnh, nồi cơm điện, và máy giặt quần áo.  Ngày nay, nhiều gia đình đã có thể chiếu phim chưởng Hồng Kông ngay tại nhà và bất cứ lúc nào, mà ngày xưa họ phải đi ra tận thị xã coi chiếu bóng!  Xã tôi có nhiều người Khmer, và họ đã có thể theo dõi tin tức bằng tiếng Khmer ngay trên tivi.  Tưởng cần nên nhắc lại là ở thôn quê không có báo chí hàng ngàỵ  Người đọc thường phải nhờ các anh tài xế chạy Honda ôm mua từ các thị trấn hay thị xã.  Vì vậy nguồn tin tức duy nhất và nhanh nhất là qua radio hay tivi. 
 
Điện về còn mang theo sự “hiện đại hóa” các quán ăn uống ở quê.  Bây giờ, quán cà phê đua nhau chiếu phim chưởng, phim tình cảm, phim nhạc Paris by Night, v.v… cho khách xem.  Quán cà phê ngày nay, mặc dù ở tận vùng đồng ruộng, nhưng cũng có cả cả cà rem đủ mùi vị, rất hấp dẫn.  Ban ngày bán cà phê, ban đêm bán đồ nhậu.  Vì làng tôi có khá nhiều dân theo đạo Công giáo, nên rất nhiều quán bán thịt cày thứ thiệt (không phải giả cầy) cho thực khách.
 
            Ngoài điện và ánh sáng ra, quê tôi còn được hiện đại hóa bằng điện thoại.  Qua tìm hiểu các quan chức địa phương tôi biết hiện nay gần 50% các hộ trong làng đã có điện thoại bàn, và con số này vẫn gia tăng hàng năm sau mùa gặt lúa.  Chỉ hai năm về trước, giá gắn điện thoại là 2 triệu đồng, bây giờ giá chỉ còn 500,000 đồng.  Tuy nhiên, nhiều nhà khá giả vẫn chưa nhìn thấy sự tiện lợi của điện thoại, nên vẫn chưa chịu gắn, mặc dù nhân viên khuyến mãi làm việc rất hăng hái.  Giá gọi điện thoại trong vòng địa phương rất hợp lí, chỉ khoảng 2000 đồng một cú.  Giá gọi viễn liên trong nước thì tùy thuộc vào đường dài và tính theo phút.  Giá từ làng tôi ra Qui Nhơn tốn khoảng 3000 đồng một phút.  Tuy nhiên, chưa ai dám gọi ra nước ngoài vì giá quá ư là đắt đỏ, có thể nói là giá “cắt cổ lột da”.  Quả vậy, điện thoại từ nước ngoài về Việt Nam cũng rất đắt.  Tôi xem qua bảng giá điện thoại từ Mĩ và Úc đi các nước trên thế giới, và dám nói rằng giá gọi về Việt Nam là đắt nhất thế giới, đắt hơn giá gọi về Trung Quốc, và đắt hơn cả giá gọi đi Phi châu!  Chả biết bao giờ giá này mới hạ xuống cho nó hợp tình hợp lí một chút.
 
Hai năm gần đây rộ lên phong trào điện thoại di động về làng quê.  Khó mà tưởng tượng nhưng người nông dân chân lấm tay bùn ngày nào chưa biết sử dụng cái điện thoại bàn ra sao mà nay đều rủng rỉnh cái điện thoại di động.  Ngay cả học sinh trung học mà cũng có điện thoại di động trong túi! 
 
            Chùa chiền và nhà thờ cũng được xây mới rất oách.  Tìm hiểu thì mới biết một phần là do Việt kiều đóng góp tiền, và một phần là do tín đồ địa phương và chính quyền cho kinh phí để xây.  Làng tôi phần lớn dân theo đạo Phật tiểu thừa (người Khmer) và đại thừa (người Kinh), và một số nhỏ theo đạo Công giáo.  Không có đạo Tin lành ở đây.  Chùa chiềng người Khmer đã tồn tại hơn 100 năm ở đây lúc nào cũng uy nghi và màu mè, còn chùa người Kinh thì đơn giản hơn.  Tôi có dịp ghé thăm một ngồi chùa Khmer mà tôi từng góp tiền trùng tu, thấy chùa bây giờ rộng lớn hơn vì dân cho đất để chùa xây thêm chỗ thờ phượng, và có khá nhiều Phật tử tình nguyện góp công xây dựng.  Tôi tò mò hỏi vị đại đức là chính quyền có làm khó dễ gì không thì ông nói hoàn toàn không.  Tuy nhiên, ông dơ tay chỉ khu cơ quan hành chính mới mọc lên phía bên kia sông, đối diện chùa, và mỉm cười nói có lẽ “người ta” cùng có ý dóm ngó hay cảnh giác gì đó mới chọn đấy xây ủy ban nhân dân ở đây, chứ nếu không thì tại sao không xây gần chùa người Việt?!  Là người Kinh, tôi cũng cảm thấy “nhột”, nên chẳng biết nói sao.  Nói xong, ông kêu tôi vào phòng cho tôi xem những hình ảnh ông ra Hà Nội bắt tay với cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt và các nhân vật to trong chính phủ thời đó.  Ông nói, dạo này chỉ có người có tuổi mới đi chùa, còn giới trẻ thì chúng nó đi đâu hết rồi …
 
Tôi còn có dịp ghé thăm nhà thờ nay được trùng tu rất đẹp.  Hồi còn nhỏ tôi từng theo học trường do nhà thờ quản lí vài năm trước khi sang học trường công ở xã.  Nay thì ngôi trường của nhà thờ không còn hoạt động nữa, dù ông cha có ý định xin phép làm lại (theo chính sách trường bán công của Nhà nước).  Ông cha chủ trì nhà thờ này mới về đây chừng 10 năm, tuổi chỉ ngang hàng tôi, rất vui tính và cởi mở, dám uống cả rượu đế, nên tôi có dịp nói đủ thứ chuyện thánh kinh, chuyện thơ văn, chuyện xã hội, nói chung là đủ thứ chuyện trên trời dưới đất với ông suốt 4 giờ liền!  Tôi hỏi ông có biết cha Nguyễn Văn Lý không, thì ông nói có nghe qua, nhưng không để ý đến quan điểm của ông cha mà ông nói là “hơi bất bình thường” đó.  Tôi hỏi: Cha có bị khó dễ gì trong việc tổ chức lễ Noel vừa qua?  Ông cười nói: Ủa, sao Việt kiều nào về cũng hỏi mấy chuyện này cả.  Ông nói thêm: Có khó dễ gì đâu, chính quyền ở đây là người địa phương cả mà.  Có tổ chức gì lớn thì nói cho mấy ảnh một tiếng trước, chứ có khó dễ gì đâu.  Thế còn chuyện truyền đạo thì sao?  Thì vẫn bình thường.  Nhưng ông nói thêm là lúc này khó thu hút thêm con chiên mới, vì dân chúng quá tất bật với cuộc sống, quá thực dụng, ít ai quan tâm đến đời sống tâm linh.  Thậm chí, có người bỏ đạo, hay có con chiên chất vấn giá trị về những lời dạy của Chúa trong thời đại kinh tế ngày nay.  Tôi hỏi ông tương lai đạo ra sao, thì ông chỉ mỉm cười nói: Chuyện đó còn xa quá, khó nói lắm.  Tuy nhiên, cũng như vị đại đức ở chùa Khmer, ông Cha này cũng tỏ ra rất quan tâm đến cái khoảng trống đạo đức trong xã hội ngày nay.  Ông nói, chương trình giáo dục của nhà nước không có phần về đạo đức, cho nên bây giờ xã hội có đến cả 2 thế hệ lớn lên không có nền tảng đạo đức xã hội vững vàng ... 
 
Chợ búa nông thôn cũng phát triển đáng kể.  Ngày xưa cái chợ làng tôi chỉ lèo tèo vài người bán cá, thịt heo, thịt chuột, và những nông sản gia đình tụ tập chung quanh cái sân khoảng 10 x 20 mét là cùng.  Nhưng ngày nay, khu chợ đã nới rộng giống như một thị tứ nhỏ hẳn hoi: cũng có nhà lồng chợ, cửa hàng bốn bên nhà chợ, và bán đủ thứ hàng hóa, kể cả bia rượu.  Nghe nói trong vòng 2 năm tới, khu chợ này sẽ phát triển khang trang hơn và sẽ có những căn phố xây theo kiểu mẫu hẳn hoi, chứ không theo kiểu tự phát.  Thế là khu đất xung quanh chợ đột nhiên tăng giá.  Một khu đất 10 x 20 mét ngày nay ở làng tôi giá cũng khoảng 100 – 200 triệu đồng, cao gấp 10 – 20 lần so với 5 năm trước đây.
 
Nhưng những phát triển bề ngoài đó vẫn không che dấu được cái nghèo bên trong của phần lớn nông dân làng tôi và cũng có thể nói của cả vùng Tây Nam bộ này.  Dân cư càng ngày càng đông, mà đất thì không giản nở ra, cho nên mật độ dân số càng ngày càng cao.  Chẳng nói đâu xa, ngay cái con kênh nho nhỏ (khoảng 3 cây số) 30 năm về trước chỉ có vỏn vẹn có mười căn nhà, mà ngày nay đã có cả năm chục căn nhà mọc lên san sát hai bên bờ kênh.  Tôi có nhiều bà con và bè bạn trong con kênh này, nên cũng nhân dịp đi thăm một chuyến cho biết tình hình thực tế ra sao.
 
            Một hôm tôi ghé thăm một anh bạn tên Đ hồi còn học tiểu học mà ấn tượng về cái nghèo của bà con nông dân Việt Nam thật là khó quên.  Nhà anh bạn tôi được xem là kha khá ở trong xóm, nhưng nhìn gia đình anh ta, một vợ, 6 con phải chen chúc nhau sống trong một cái nhà chật chội mà tôi khó cầm lòng được.  Nói là “nhà”, nhưng thật ra, đó chỉ là cái chòi, lợp lá và chung quanh “tường” cũng bằng ... lá dừa nước.  Khi trời mưa thì ủ dột khắp nơi. Trong nhà, chỉ có một cái bàn gỗ cũ kĩ để tiếp khách, để ăn cơm và cũng để cho mấy cháu dùng làm bàn học.  Phía trên bàn, cái bình trà và vài li con dùng cho cả uống trà lẫn uống ... rượu.  Ba cái giường bằng tre được kê một cách xiêu vẹo, khập khiễng.  Mấy đứa con thì đen đúa, chắc suốt ngày chỉ rong ngoài đồng nuôi vịt.
 
            Anh Đ làm ruộng và nuôi vịt.  Mấy năm gần đây rộ lên phong trào nuôi vịt số nhiều (hàng ngàn con) để lấy lời.  Lúc đầu, đã có nhiều người làm giàu nhờ nuôi vịt, nhưng sau này có lẽ vì bà con không đủ trình độ khoa học (hay không được hướng dẫn một cách khoa học), nên chỉ một vài con vịt bị bệnh là nguyên đàn vịt đều đi chầu diêm vương.  Anh bạn tôi cũng có lần khốn đốn khi một đàn vịt 3000 con bị chết gần phân nửa, và phải chịu lỗ lã cả hai chục triệu đồng (tức hơn 2 ngàn đô-la Mĩ).  Anh nói tưởng lần đó suýt bị phá sản vì đàn vịt !
 
            Anh Đ mừng rỡ gặp lại tôi, sau cả ba mươi lăm năm biệt tin, và không ngờ tôi lại ghé nhà anh ta.  Hôm đó anh làm một con vịt tiết canh, và e dè hỏi tôi có dám ăn không vì nghe đài truyền hình, đài radio suốt ngày nói chuyện dịch cúm gà và H5N1.  Tôi nói anh đừng lo, tôi không chết vì cúm gà đâu.  Nói vậy chứ mới đầu thì hơi ngán, nhưng sau vài li rượu đế, tôi lại thấy … ngon là đằng khác.  Trong chầu rượu cùng bà con chòm xóm, không thấy anh ta than phiền về cuộc sống hiện tại, tôi gợi chuyện và hỏi sao anh không lợp lại nhà cho đàng hoàng.  Anh nói tiền đâu ra.  Tôi hỏi thêm phải cần bao nhiêu mới đủ, thì anh nói khoảng 500 ngàn đồng, tức không tới 30 Mĩ kim.  Tôi cầm lòng không được, sau khi nhậu xong và thừa lúc anh ta say tôi lén nhét vào túi anh 100 đô để để lợp nhà ... 
 
            Tôi đi lang thang thăm nhà vài bà con cùng xóm.  Sau nhiều năm xa nhà, tôi đã trở thành ông chú, bác, cậu ... vì đã có quá nhiều cháu mà tôi không tài gì nhớ tên hết được.  Đi nhà nào, dù nghèo bà con đều đối xử với tôi một cách chân tình.  Ai cũng mời ăn uống một cách thật lòng, cho dù bữa ăn chỉ là khô với mắm.  Mặc dù nghèo, nhưng không một ai hỏi xin tiền tôi.  Ở nhà nào, nói chuyện vài câu là tôi nhận ra cái cụm từ khóa: “Bây giờ dễ thở hơn hồi thời bao cấp rồi, nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo con à”.  Quả vậy, ở xóm này, chưa đến 10 hộ có điện, chứ nói gì đến điện thoại.  Mỗi khi muốn đi xem video hay cải lương, thì bà con phải chèo xuồng ra ngoài lộ để ghé nhà bà con để xem ké.  Đêm tối lại bì bõm chèo về. 
 
            Một điều tôi thấy buồn là vào thời điểm đầu của thế kỉ 21 này mà phương thức làm ruộng vẫn chẳng có gì khác so với thế kỉ 19 hay 20.  Tuy ngày nay máy cày đã dần dần thay thế con trâu trong việc cày bừa, nhưng về gặt lúa, bà con ta vẫn làm như cả mấy trăm năm nay, với lưỡi hái và cái bàn đập lúa (không phải búa liềm đâu nhé).  Tôi thấy dân Mĩ làm lúa bằng máy và so với cách bà con mình làm mà thương cho dân mình.  Trước 1975, gia đình tôi có một chiếc máy cày (truck) hiệu John Deer của Mĩ, nhưng sau 1975 phải bán cho bà con khác để đủ sống.  Khi tôi về, chiếc máy cày đã 30 tuổi vẫn còn làm việc như con trâu ì ạch trên đồng!  Chả biết bao giờ nông dân Việt Nam mới có máy tự động gặt và xây thành lúa trên một cái xe máy lưu động?
 
Cơ khí hóa việc cày bừa làm cho con trâu … thất nghiệp.  Không chỉ thất nghiệp, mà trâu còn có nguy cơ tuyệt chủng ở ĐBSCL.  Đó là một nguy cơ rất thật.  Một hôm tôi ra chợ huyện chơi và gặp một anh bạn cũ rủ vào quán ăn.  Anh ta kêu liền hai món thịt trâu, làm tôi rất đổi ngạc nhiên.  Nguồn thực phẩm thịt bò, heo, gà thì chẳng có gì ngạc nhiên, nhưng thịt trâu, một con vật rất Việt Nam, rất có ích cho đồng ruộng mà nay lên bàn tiệc!  Thấy tôi ngạc nhiên, anh bạn giải thích: Ăn đi, chứ không thì mai mốt chưa chắc còn trâu cho mầy thưởng thức!  Sau này tìm hiểu tôi mới thấy câu nói đó rất đúng: con trâu đang dần dần biến mất trên đồng ruộng ĐBSCL.  Vài con số thống kê cũ cho thấy điều đó: năm 1985 cả vùng ĐBSCL có khoảng 330 ngàn con trâu, mười năm sau (năm 1994) con số này chỉ còn 147 ngàn con.  Một bài báo trên Người lao độngcho biết năm 1991 huyện Cai Lậy có 870 con trâu, đến năm 1997 chỉ còn 15 con!   Nguy cơ tuyệt chủng -- không quá lời đâu -- quả là một nguy cơ có thật.  Chưa thấy Nhà nước có chính sách gì về vấn đề này.
 
            Hệ quả của đông dân là ô nhiễm môi trường.  Ngày xưa con kênh này nước rất sạch, nó là cái hồ tắm, là ao cá, là nguồn nước sinh hoạt cho cả xóm, ấy thế mà ngày nay con kênh lềnh bềnh những rác rưởi thời công nghiệp như bao plastic và … vỏ bia, vì nó đang biến thành một bãi rác cho cả xóm.  Người dân vô tư bỏ tất tật những rác rưởi và thậm chí cả phân người xuống sông.  Dần dà, con kênh trở thành ô nhiễm đến nổi không ai dám tắm sông, không ai dám dùng nguồn nước này để uống hay cho nấu nướng.  Chỉ có 10 năm mà chất lượng nước đã suy thoái đến mức báo động.  Ngày xưa người ta có câu “Gió đưa gió đẩy về rẩy ăn còng, về sông ăn cá về đồng ăn cua”.  Nhưng nay thì cá trên sông dần dà cạn kiệt, chỉ còn cua ngoài đồng mà thôi.  Lâu lâu mới bắt được một con cá lóc to, nhưng chưa chắc dân trong làng đã thưởng thức được nó, vì người ta có thể bán cho một đầu nậu nào đó để đưa về Sài Gòn.
 
Nói chung đời sống của người nông dân vẫn còn rất nhiều khó khăn.  Sau thời Đổi mới có nhiều người khá lên, nhưng đa số thì chỉ dậm chân tại chỗ, thậm chí nghèo hơn.  Sau thời kì bao cấp hợp tác xã, Nhà nước có trả đất cho những gia đình đã bị vào hợp tác xã, và phân phối ruộng cho những gia đình nào chưa có ruộng.  Thông thường một gia đình được chia khoảng 3 đến 5 công đất để trồng lúa.  Nhưng sau một thời gian, nhiều gia đình không có khả năng tài chính để duy trì ruộng, và phải bán cho những gia đình có tiền của trong xóm.  Trắng tay lại hoàn trắng tay.  Họ quay sang nghề cũ, tức là làm mướn.  Mỗi ngày làm mướn chỉ được 15.000 – 20.000 đồng, tức trên dưới 1 Mĩ kim.  Với một thu nhập khiêm tốn như thế, họ chỉ sống qua ngày ...
 
            Hiện nay, vì làm ruộng không đủ ăn, đủ sống, nông dân, nhất là những thanh thiếu niên, có xu hướng “tản cư” đi các thành phố khác để kiếm sống.  Phần lớn họ làm công nhân trong các hãng xưởng ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Biên Hòa, có người còn mạo hiểm theo bạn bè ra tận các hãng ngoài Trung để kiếm cơm.  Có lẽ một số bạn đọc ngạc nhiên khi tôi dùng cụm từ “mạo hiểm”, có vài trăm cây số mà mạo hiểm nổi gì!  Nhưng đối với dân làng đã qua bao đời, bao thế kỉ “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, trên mảnh đất của ông bà để lại, chưa từng ra thị xã Rạch Giá một lần,  thì một cuộc hành trình 500 cây số là một cuộc mạo hiểm lớn.  Người ta nói là “bỏ xứ”, bỏ quê.  Mà phong trào bỏ quê này càng ngày càng cao, đến nổi đến mùa thu hoạch lúa người ta không tìm ra lao động để làm.  Vấn đề này đặt ra bài toán phân bố lao động và tổ chức lại phương thức làm ruộng rất nhức đầu cho các giới chức chính quyền.
 
Một số khác, phần lớn là phụ nữ, thì lên Sài Gòn để làm những nghề như bán bia ôm và dần dần bán mình.  Tôi đã nói qua đội quân bia ôm ở Sài Gòn mà đại đa số là các cô gái quê từ vùng Đồng bằng sông Cửu Long.  Số phận những cô gái này còn lắm long đong, vì hỏi bất cứ ai, câu trả lời lúc nào cũng là “một đi không trở lại”.  Đã bỏ quê lên thành thị làm cái nghề mà ông bà bao đời xem là rẻ rúng đó thì làm sao về quê để kiếm một tấm chồng được.  Mà làm nghề bán bia ôm thì còn tùy thuộc theo độ tuổi, đến tuổi 24 hay 25 thì các chủ quán xem là “già” và bị thất nghiệp.  Đã có người mất việc quán bia ôm, lại lao vào ngay nghề “gái cột đèn” để bán mình.  Không ai biết số phận những cô gái này rồi sẽ ra sao, mà cũng chẳng ai quan tâm đến họ.
 
Một số nhỏ khác thì tìm đường ra nước ngoài bằng cách kết hôn với Việt kiều và người nước ngoài.  Làng tôi ngày nay đã có nhiều ông rể Tây đến từ Mĩ, Úc, Đức, và Canada.  Gần đây cả làng bàn tán xôn xao về một ông Úc 65 tuổi về cưới một cô gái chưa tròn tuổi 20, và trong ngày vu qui, ông bà bố vợ còn trẻ măng chẳng biết kêu ông rể bằng con hay bằng ông.  Cũng may ông rể không biết tiếng Việt nên câu chuyện chỉ lưu hành trong dân địa phương. 
 
            Nói cho ngay, một số ông rể Tây này cũng rất tốt với làng.  Có một anh rể người Đức, là một kĩ sư cầu cống, thấy làng chưa có bệnh xá đàng hoàng, anh ta về Đức vận động tiền được khoảng 20 ngàn đô la.  Anh ta quay lại Việt Nam xây một bệnh xá cho dân.  Người dân địa phương vẫn còn nhớ và kể về cách làm việc của anh này: Chính tay anh thiết kế và vẽ kiểu bệnh xá, và cũng chính anh hàng ngày đi gõ gõ từng viên gạch xem có đúng chất lượng hay không.  Kết quả là một bệnh xá rất oách, mà ai cũng tự hào.  Thế nhưng cái ngày khánh thành bệnh xá, các quan chức chính quyền và đảng ủy địa phương thay nhau và đua nhau hát bài “Nhờ sự quan tâm của Đảng và nhà nước”, mà không có một lời cám ơn anh ta!  Ngay cả người dân làng còn cảm thấy xấu hổ cho sự vô ơn của nhà nước, mà những người làm trong chính quyền chẳng thấy mắc cỡ chút nào!  Hôm tôi về quê, tình cờ ngồi chung bàn cà phê với anh (cũng về quê thăm bà nhạc) và tâm tình mới biết là đáng lẽ anh ta còn có dự án xây cầu nữa, nhưng qua kinh nghiệm cái bệnh xá anh ta cho tôi biết “Tao sẽ không làm gì nữa cho cái làng này, tao ngạc nhiên là tại sao họ tỏ ra vô ơn quá”.  Tôi chẳng biết nói sao vì chính mình cũng cảm thấy xấu hổ.
 
Hai trong những vấn đề lớn nhất của nông dân hiện nay là y tế và giáo dục.  Hệ thống y tế nông thôn trước đây gần như là không có, cho nên sau này, xây dựng một hệ thống y tế dự phòng ở nông thôn đòi hỏi một chi phí rất lớn.  Ngay cả hiện nay, nhiều làng xã không có cơ sở y tế.  Xã tôi may mắn hơn vì có một trạm y tế (như tôi vừa nói do ông rể người Đức xây và tài trợ) và có bác sĩ, y sĩ chăm sóc những bệnh thông thường cho bà con.  Thành ra, khi có vấn đề sức khỏe, người dân phải hoặc là đi bệnh viện huyện hay bệnh viện tỉnh.  Cả tỉnh chỉ có một bệnh viện đa khoa duy nhất (khoảng 1000 giường).  Tuy số giường không phải là nhỏ so với các bệnh viện Tây phương, nhưng vì dân số liên tục gia tăng, nên bệnh viện này càng ngày càng lâm vào tình trạng quá tải, rất thê thảm.  
 
Toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, cứ 10.000 dân số có 18 giường bệnh, trong khi đó tỉ số cho cả nước là 35 giường.   Ngoài ra, sự thiếu thốn về dụng cụ y khoa vẫn còn triền miên.  Nhưng một vấn đề khó khăn khác là nhân sự trong hệ thống y tế còn thiếu nghiêm trọng.  Ngoài một vài nhà thương lớn có bác sĩ được đào tạo có hệ thống, có liên hệ với quốc tế, phần còn lại ít được đào tạo qui củ, mà chỉ học hành tại chức, không qua thi cử toàn quốc, do đó khả năng chuyên môn của họ còn rất hạn chế.  Một số bác sĩ ở ĐBSCL ngày nay chưa hề học qua đại học!
 
Nạn rượu chè còn là một vấn nạn khác của vùng ĐBSCL.  Ngày nay, đi đến đâu cũng thấy nhan nhản những quán nhậu, thậm chí quán bia ôm miệt vườn.  Con đường từ Rạch Sỏi đến Minh Lương chỉ vỏn vẹn 5 cây số xưa kia là đồng ruộng xanh rì hai bên (là nguồn cảm hứng cho Lam Phương viết bài Khúc ca ngày mùa)  mà nay tôi đếm hai bên đường có gần 30 quán cà phê và quán nhậu.  Vì không có những nơi giải trí lành mạnh, người dân sau giờ đồng áng chỉ còn một cái thú duy nhất: tập bè tập bạn lai rai vài li, ca vài bản vọng cổ trước khi đi ngủ.  Uống rượu ngày nào là một thú tiêu khiển đậm tính Nam bộ, nay thì biến tướng thành một vấn nạn mang tầm vóc quốc gia.  Thanh niên bỏ học hay không có cơ hội và điều kiện để theo học, thấy tương lai mịt mờ mà cuộc sống hiện tại thì bấp bênh cũng tìm đến li rượu để giải sầu.  Con đường từ chỗ “giải sầu” đến nghiện ngập và chết chóc là cực ngắn.  Đã có không biết bao nhiêu trường hợp gia đình tan hoang, thương tích, chết chóc, có khi cả loạn luân xảy ra vì rượu chè mà ra trên khắp vùng ĐBSCL.  Tại Kiên Giang, có một trường hợp thảm thương về một người đàn ông trong cơn say xỉn bắt bỏ con vào bao bố rồi quăng xuống sông để hai đứa trẻ chết oan.  Ở Kiên Giang người ta có những câu vè tả khá chính xác về tình trạng nhậu nhẹt và hệ quả của nó như sau:
 
Một li nhâm nhi tình bạn
Hai li giải hạn cơn sầu
Ba li cứt mũi đầy râu
Bốn li ngồi đâu nói đó
Năm li cho nó ăn chè
Sáu li ai nói nấy nghe
Bảy li làm xe lội nước
Tám li chân bước chân quì
Chín li còn gì mà kể
Mười li khiêng để xuống giường
 
Đời sống của người nông dân nói chung là một cuộc đấu tranh liên tục.  Đấu tranh chống cái nghèo.  Đấu tranh chống lại thiên nhiên.  Mấy năm trước đây là họa ốc bưu vàng.  Nay thì sâu rầy đang làm bà con khốn đốn.  Muốn chống lại sâu rầy, bà con phải tiêu ra hàng nửa triệu đồng (một số tiền không phải là nhỏ) để mua thuốc trừ sâu.  Cái khó trong việc trừ sâu là càng dùng thuốc mạnh, thì sâu rầy càng biến hóa đề kháng thuốc, và nông dân càng dùng thuốc mạnh hơn.  Mà nếu dùng thuốc quá mạnh thì sẽ làm cho chết cá, một mối nguy cơ đối với người nông dân.  Nói như một anh hàng xóm, “Sâu nó cũng như người mình vậy, nó cũng tìm cách thích nghi và sống sót, biết bao giờ mới xóa bỏ được nó.”  Nhà nước có chương trình giáo dục về cách dùng thuốc trừ sâu, thậm chí có lệnh cấm dùng những thuốc có hại đến cá và môi trường, nhưng bà con vẫn cứ liều, bị phạt thì chịu, chứ để chết lúa thì chắc là không.  Các nhà khoa học nông nghiệp cũng khá thành công trong việc nghiên cứu thuốc trừ sâu mới an toàn cho môi trường, nhưng thường thường họ đi sau con sâu khoảng 1 đến 2 năm!  Bài toán trừ sâu thật là nan giải.
 
Với chi phí sản xuất càng ngày càng tăng, mà sản lượng lúa và giá lúa thì gần như chẳng có gì thay đổi, nên dẫn đến tình trạng thu nhập càng ngày càng ít.  Tôi đọc báo thấy về thành tích kinh tế của vùng này càng làm cho tôi khó hiểu.  Tính trên diện tích, ĐBSCL chỉ chiếm 12% diện tích của cả nước, nhưng 50% sản lượng lúa, 60% lượng trái cây và 65% sản lượng hải sản của Việt Nam xuất phát từ ĐBSCL.  Hơn thế nữa, 90% lượng gạo xuất khẩu là do đóng góp từ nông dân vùng ĐBSCL.  Xuất khẩu gạo đem về cho ngân sách Việt Nam hơn 1 tỉ Mĩ kim.  Thế nhưng trớ trêu thay, chỉ có 15% số tiền này là đến tay người nông dân, một số lớn (45%) lại nằm trong tay các công ty quốc doanh, và phần còn lại lọt về các tay trung gian buôn bán.  Thật là hết sức bất công!
 
Theo một bài báo trong nước, thu nhập trung bình của người dân ĐBSCL trong năm qua là 4,3 triệu đồng, tức khoảng 287 đô la Mĩ.  Nhưng đầu tư vào giáo dục tại ĐBSCL chỉ 4,26% ngân sách, thấp hơn tỉ lệ của cả nước là 6,13%.  Với tình trạng thiếu cân đối và vô lí trong đầu tư như thế chả trách tình trạng giáo dục trong vùng ĐBSCL tồi tệ nhất nước.  Cứ đọc qua những cái “nhất” của giáo dục vùng này tôi cũng thấy đau lòng: Số lượng học sinh đến trường thấp nhất nước; tỉ lệ bỏ học cao nhất nước; tỉ lệ dân số có trình độ đại học thấp nhất nước.  Tôi thấy đồng tình với nhận xét của một giáo sư người Mĩ khi ông cho rằng giáo dục vùng ĐBSCL là một nạn nhân khác của chiến tranh Việt Nam.  Nhưng chiến tranh đã chấm dứt 30 năm rồi, mà tình hình vẫn chưa có gì đổi thay tích cực.  Người dân vùng ĐBSCL chờ đến năm nào để có một nền giáo dục tương xứng với tầm vóc kinh tế của vùng?
 
            Nói tóm lại, vùng đất vốn mang tiếng là “thừa gạo” này lại là vùng thua kém mọi mặt so với các vùng đất khác trong nước.  Thực ra, đối với nhiều bà con vùng ĐBSCL, hai chữ “thừa gạo” là một sỉ nhục, bởi vì trong thực tế theo một nghiên cứu gần đây của trường Đại học Cần Thơ, khoảng 60% dân số trong vùng thiếu ăn từ 4 đến 6 tháng; hơn một phần tư dân số vẫn còn ở nhà tranh vách lá.  Thu nhập bình quân của cư dân trong vùng cũng thấp hơn thu nhập trung bình của cả nước, và không theo đuổi kịp tỉ lệ lạm phát.  Trong mấy năm gần đây, dù điện lực đã về đến thôn quê ĐBSCL, nhưng số người có tiền và điều kiện để kéo điện vẫn còn quá ít, chưa đến con số 50%.  Hiện nay, mức tiêu thụ điện trong vùng chỉ dừng lại ở con số trên dưới 38 kW trên đầu người, tức chỉ bằng một phần tư mức độ trung bình của cả nước.
 
Cái nghèo của bà con vùng này làm tôi suy nghĩ nhiều về chính sách phát triển nông thôn của Nhà nước.  Đã 30 năm sau ngày đất nước thống nhất mà không hiểu tại sao cái vùng vốn được ví von là cái nồi cơm, cái vựa lúa của cả nước, vẫn còn quá nghèo.  Năm 1996, ông Võ Văn Kiệt lúc bấy giờ là thủ tướng chính phủ, từng nói: “Đồng bằng sông Cửu Long đi lên bằng cái gì, công nghiệp hóa bằng cái gì, thoát khỏi đói nghèo bằng cái gì … nếu không phải là cơ sở hạ tầng – là cái cơ bản để giải quyết hàng loạt các vấn đề khác.  Hạ tầng đó là thủy lợi gắn với giao thông và gắn với đời sống … Đó là sự lựa chọn không cách nào khác.  Vì thế chúng ta phải tập trung, phải dành dụm, phải huy động một cách cao nhất tài lực và vật lực.  Nhưng nếu chúng ta không lựa chọn phương án hết sức khó khăn này thì ĐBSCL sẽ tụt hậu xa, chẳng những nguy cơ với đồng bào vùng ĐBSCL mà còn  nguy cơ đến nhịp độ phát triển của cả nước.”  Vâng, không ai có thể tranh luận những cái nhìn này của ông Võ Văn Kiệt, nhưng đã 10 năm từ ngày ông nói câu đó, mà người dân vùng ĐBSCL vẫn còn tụt hậu.  Hậu quả là ngày nay ĐBSCL có nhiều cái nhất mà không ai dám tự hào: nghèo nhất nước, tỉ lệ mù chữ nhiều nhất, số người có trình độ đại học thấp nhất, số người chết yểu nhiều nhất, hay nói chung là chịu nhiều thiệt thòi nhất nước. 
 
 
Những tương phản trong xây dựng:
Ủy ban, đảng ủy, nhà thương và trường học
 
Ngày đầu về nhà, tôi đến trình giấy với ủy ban nhân dân xã về việc tạm trú của mình.  Trên đường đi từ nhà ra xã, tôi để ý thấy hai bên đường, có nhiều nhà được xây rất đẹp: tường xi măng, sơn trắng, lợp ngói, lót gạch men, cửa kiếng sáng choang ... Điều này không ngạc nhiên, vì xã tôi là một trong những xã khá của tỉnh Kiên Giang.  Ngoài ra, xã tôi có nhiều người đi nước ngoài.  Những người này hiện đang sống rải rác ở Mĩ, Âu châu và Úc châu.  Thành ra, phần lớn những ngôi nhà này được "Made in USA/Australia/Europe".  Nhưng những người làm ăn khá cũng có những ngôi nhà không kém nguy nga.  Tuy vậy, xen kẽ đó đây vẫn còn nhiều nhà vách lá, vách ván của bà con nghèo khó hơn.  Nhà thờ Công giáo được tín đồ ở trong và ngoài nước góp tiền xây lại đẹp hơn ngày xưa nhiều.  Thậm chí, nhà thờ còn có khu công viên dành cho trẻ em chơi.
 
Đi một đoạn tới trường tiểu học mà tôi từng học ngày xưa.  Nhìn hồi lâu tôi mới thấy trường này chỉ có một thay đổi duy nhất: cái tường gạch được xây chắc không lâu.  Còn lại thì chẳng có gì khác so với 40 năm về trước, nếu không muốn nói là tệ hơn.  Tình trạng xuống cấp rất thảm hại: vào lớp học nào cũng thấy tường loang lổ, cột xiêu vẹo, mái ngói đen xì như sắp rớt xuống đầu học trò ...  Điều này chứng tỏ cả 30 năm nay trường chưa bao giờ được trùng tu.
 
Bên cạnh ngôi trường nghèo nàn là ủy ban nhân dân xã đang được xây lại một cách nguy nga.  Tôi bước vào trình giấy và đếm có khoảng 10 người làm việc trong ngôi nhà hai tầng này mà thôi.  Hóa ra, ông xã trưởng và phó công an đều là học trò của cô em họ tôi ngày xưa.  Gặp nhau tay bắt, mặt mừng.  Hai ông này bèn hẹn tôi tối đi ... nhậu rượu đế.  Tôi được biết là phần đông mấy ông xã này chỉ làm tới 12 giờ trưa.  Còn sau đó là họ đi làm ruộng của họ, hay đi … nhậu.  Thành ra, muốn làm việc hay gặp mấy ông quan xã này, buổi sáng là giờ lí tưởng nhất.  Tôi không hiểu tại sao họ lại xây cái trụ sở ủy ban to và sang trọng như thế, trong khi thời gian làm việc, phục vụ lại quá ngắn.          
 
Nhưng có lẽ tình hình ở làng tôi không phải là quá cá biệt; ngược lại, có thì giờ đi đây đi đó trong các tỉnh như An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, v.v… tôi có thể nói đó là một thực trạng chung ở vùng ĐBSCL.  Đi đâu cũng thấy cái nét đập vào mắt là bên cạnh các cơ quan nhà nước như ủy ban nhân dân, cơ quan đảng ủy được xây lại lớn hơn, qui mô hơn, và tráng lệ hơn bất cứ thời nào trong lịch sử, thì các cơ sở công cộng như đường xá, trường học và bệnh viện thì ... xuống cấp thảm hại.  Nhìn vào cơ quan tỉnh ủy tại các tỉnh miền Tây Nam bộ, người ta có thể tha thứ khi cho rằng đó là những công viên, chứ không phải văn phòng làm việc.  Có nơi người ta còn mở cửa vào ngày thứ Bảy và Chủ nhật để … thu tiền!  Còn nhìn vào các trường học được xây bằng tre trúc, và và trần lợp bằng lá dừa, trống huơ trống hoác, người ta có thể nói đó là những cái chòi chứ không phải trường học.
 
Trong khi người dân nghèo như thế, một số nơi chính quyền địa phương lại tỏ ra là người rửa tiền mát tay.  Gần đây, người dân Cần Thơ không ngớt bàn tán về một cổng chào mà tổng kinh phí lên đến hơn 1 tỉ đồng.  Ì ạch xây dựng riết và hoàn tất vào tháng 8 năm 2005, người ta mới phát hiện cái tréo cẳng ngỗng là khi cầu Cần Thơ hoàn tất thì cái cổng này sẽ là một ngõ cụt.  Thế thì câu hỏi đặt ra là cái cổng hoành tráng nhất miền Tây này xây lên để chào ai?  Chào hà bá!  Người dân nói.  Chưa hết, tỉnh Trà Vinh, một trong những tỉnh nghèo nhất của vùng và có lẽ là nghèo nhất của cả nước, còn chơi trội bằng một công trình xây tượng đài đề cao tinh thần đoàn kết hai dân tộc Kinh – Khmer với tổng chi phí lên đến 10 tỉ đồng.  Xây xong, tượng đài là một bãi tha ma, chung quanh cỏ mọc tùm lum, gạch men bị tróc, nền lún, trông rất thảm hại và nhếch nhác. 
 
Có khi quan chức muốn chơi nổi bằng những trò rất tốn kém và lố bịch.  Báo chí mới đây phanh phui một quan chức ở Kiên Giang rất mến mộ nghệ sĩ cải lương Minh Vương, khi nghe anh nghệ sĩ này về biểu diễn ở Cà Mau, bà ra lệnh cho nhân viên dùng chiếc xe 12 chỗ ngồi chỉ chở một nồi cá kho tộ cỏn con đến tận nơi biểu diễn cho “ảnh ăn đỡ thèm”!  Đúng là dân chơi miền Tây!
 
            Có một người bạn từng (và vẫn) tranh đấu cho Việt Nam nhiều năm nhận xét rằng chính quyền Việt Nam không thương dân.  Ban đầu tôi thấy bán tín bán nghi câu nói đó, nhưng qua đi thực tế, tôi thấy nhận xét đó hoàn toàn có cơ sở.  Tôi đã nói qua về những đoạn đường nguy hiểm không có biển cảnh báo gây ra cái chết cho người dân, tôi cũng đã nói qua về tình trạng tai nạn giao thông, bây giờ tôi sẽ nói qua về tình hình xây dựng.  Khu Phú Lâm, huyện Bình Chánh Tp.HCM ngày xưa là một cư xá ngoại thành, nay theo đà phát triển của thành phố nên có rất nhiều nhà xây cất lên khá khang trang.  Có lẽ vì quá tải, nên ống cống bị hư, và nước cống đen ngòm thải ra mặt đường làm ô uế hôi thối cả một vùng suốt 16 tháng trời.  Mười sáu tháng trời người dân phải chịu trận sống với cái mùi nồng nặc như thế trước cửa nhà, có khi tràn vào nhà khi mùa mưa về.  Chính quyền địa phương chẳng làm gì trong 16 tháng trời.  Đến khi chính quyền ra tay thì bà con còn khốn đốn hơn nữa.  Mới năm qua, nhà nước quyết định làm lại đường, đặt ống cống, và hậu quả là mặt đường cao hơn sàn nhà cả nửa thước!  Thế là chuyện gì xảy ra phải xảy ra: mỗi khi có mưa, nước tràn vào nhà lai láng.  Đúng là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa.  Nhà nào có tiền hay có khả năng thì phải đi vay ngân hàng để xây lại nhà sao cho cao hơn mặt đường, còn đại đa số dân lao động không có khả năng thì cứ chịu trận với những con nước lụt ngay giữa lòng thành phố!  Nhà nước chẳng hề có một lời xin lỗi, chứ nói gì đến bồi thường hay giúp đỡ cho người dân. 
 
            Nhưng đó không phải là trường hợp duy nhất.  Đi khắp các vùng nào có đường xá mới xây lại, rất dễ thấy nhà cửa bây giờ thấp hơn mặt đường, và chuyện bị ngập lụt trong nhà là chuyện rất phổ biến.  Không biết mấy trăm ngàn hộ dân phải chịu cái cảnh này, mà những người xây dựng chẳng thèm đếm xỉa gì đến chất lượng cuộc sống của họ.  Thành ra, nói là xây dựng cho tốt hơn, nhưng trong quá trình xây dựng, biết bao nhiêu người dân trở thành nạn nhân của xây dựng, nạn nhân của cái ngạo mạn của các cơ quan và giới chức nhà nước.
 
            Cũng có khi người dân lên tiếng, báo chí chỉ trích, nhưng chẳng có ai trong chính quyền đứng ra nhận lấy trách nhiệm để giải quyết vấn đề.  Nếu có làm gì thì họ chỉ làm bằng hai chữ: Chỉ thị.  Một hôm tôi được xem một phóng sự điều tra khá thú vị trong tỉnh tôi.  Số là báo chí nêu vấn đề cái cầu đã có kinh phí xây cả 5 năm, mà thi công thì vẫn ì ạch, đến đâu năm thứ ba thì nhà thầu bỏ  trốn vì thua lỗ.  Anh phóng viên hỏi vị chủ tịch, thì ông nói là đã chỉ thị cho sở giao thông vận tải nhanh chóng giải quyết cho dân.  Anh kí giả tìm đến ông giám đốc sở thì ông nói là đã chỉ thị cho phòng gì đó tìm hiểu vấn đề và báo cáo lên cho ổng biết.  Vất vả mò đến ông trưởng phòng, thì ông nói đã chuyển chỉ thị cho huyện vì đây là công trình do huyện quản lí!  Hỏi ông huyện thì ông nói là đang chờ sở quyết định.  Cứ thế, hết “chỉ thị” đến “chuyển”, đến “chờ”, cái cầu sau 5 năm vẫn chưa xong, và biết bao xe Honda đã lội sông vì cách làm việc quan liêu đó. 
 
Hỏi cấp cao hơn thì họ dùng danh từ văn hoa hơn để nói: tại “cơ chế”.  Thế nhưng cái mâu thuẫn ở đây là mấy người nói do cơ chế cũng chính là những người bày ra cái cơ chế đó.  Đúng là cái vòng tròn lẩn quẩn không có đường ra!. 
31/3/2006
Nguyễn Văn
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Khúc vọng đêm – Chùm thơ Nguyên Thu 19 Tháng Sáu, 2023 Từng sâu lắng/ từng nhũ giọt sương tắm gội rửa tình/ người đành băng đông từng ...