Thứ Tư, 31 tháng 8, 2022

XXXXXVăn Miếu Thăng Long Hà Nội - Liên hệ giữa Văn Miếu - Quốc Tử Giám - Khoa Cử 3

Văn Miếu Thăng Long Hà Nội
Liên hệ giữa Văn Miếu
Quốc Tử Giám - Khoa Cử 3

II- THI HỘI - THI ĐÌNH
A- THI HỘI
1- Tổ chức :

a- Định kỳ - Lúc đầu nước ta chỉ có thi Thái Học Sinh, mãi đến 1396 thời Hồ Quý Ly mới phân biệt Thi Hội là thi ở kinh đô còn Thi Đình hay Điện thí là thi trong cung điện nhà vua. Có đỗ thi Hội mới được thi Đình. Vì thi Đình chỉ có một bài văn sách, mục đích đề xếp hạng đỗ cao thấp nên thường được coi là kỳ thi cuối cùng của thi Hội, và Thi Hội, Thi Đình thường được gọi chung một tên là Thi Hội.
Thi Hội dành cho những người đã đỗ thi Hương, tổ chức ngay năm sau thi Hương, vào khoảng tháng ba, dài độ một tháng. Năm 1838 Định ḷệ từ ngày tiến trường đến ngày xuất bảng là 18 ngày.
Vì thường được tổ chức vào mùa Xuân nên cũng gọi là Xuân Vi hay Xuân Hội.
b- Trường thi - Nhờ có văn bia Tiến sĩ ta biết đích xác trường thi Hội thời Lê thay đổi địa điểm mấy lần. Khi nhà Mạc chiếm ngôi, vua Lê lui về Thanh Hoa thì mở cảc khoa thi ở Thanh Hoa, tại Hành cung. Sau khi diệt nhà Mạc, vua Lê trở lại Thăng Long, thì Hội các Cống sĩ năm 1595 ở bến Thảo Tân [bờ sông Nhị], năm 1688 tại trường thi giữa bãi sông Nhị.
Thời Lê Trung Hưng số người thi Hội còn rất đông, cách thức xây trường thi Hội không khác trường thi Hương mấy.
Năm 1822 Vua Minh Mệnh mở khoa thi Hội đầu tiên của nhà Nguyễn, dựng trường thi Hội ở phía Nam trong Kinh thành [Huế], chia làm Nội, Ngoại trường và 2 vi Giáp, Ất. Chiếu theo số người thi mà dựng các nhà trong vi, đánh số hiệu, treo thẻ tên Thí sinh. Ngày vào trường, phía ngoài mỗi nhà thi có một võ sĩ đeo gươm đứng canh suốt ngày [8].
2- Thí sinh phải là người đã đỗ Hương cống / Cử nhân hoặc những quan viên không đỗ Hương cống nhưng trình độ như Hương cống và đỗ kỳ sát hạch hàng năm vào tháng giêng ở QTG.
Quan tỉnh phải khai tên những người đi thi để bộ Lễ cấp cho hộ chiếu khi tới Kinh trình bộ Lễ. Hương cống / Cử nhân không muốn thi phải làm giấy cáo.
Trước một ngày, bộ Hộ tư giấy cho các quan hai Ty Thừa, Hiến chuyển báo cho các phủ huyện trong hạt : Những Giám sinh, Nho sinh, Sinh đồ về nhà để tang, tới ngày thi phải đến nha môn phủ mình khai tên để điểm mục, người nào vắng mặt đều xét hỏi, trị tội [để ngăn mồ́i tệ đi thi hộ, làm "gà", đổi quyển].
Năm 1664 Định lệ sĩ nhân vào trường thi Hội phải xét ba lần, chỉ được mặc hai áo đơn, không được mặc áo kép [phòng gian lận, giấu bài làm sẵn trong áo]. Làm trái phải đuổi ra.
Thời Nguyễn, cấm các Học quan Huấn đạo, Giáo thụ từ lục phẩm, các quan viên từ thất phẩm trở lên, các Tri huyện phẩm nào cũng cấ́m, sợ vì luyện thi sao lãng việc công.
1877 Các quan dự thi mà phạm húy thì phạt 90 trượng, giáng ba cấp, đổi đi nơi khác.
3- Khảo quan thi Hội cũng chia ra hai ban Giám khảo và Giám sát nhưng Nội trường và Ngoại trường có khi đổi gọi là Nội Liêm  Ngoại liêm.
Tri cống cử là quan chấm thi, thường là các quan Thượng thư.
Theo bia Tiến sĩ khoa 1442 thì số người dự thi là 450 ngưởi, lấy đỗ 33 người.
Khảo quan gồm có :
Đề điệu [Chủ khảo] Thự tả Bộc xạ Lê văn Linh ;
Giám thí Thị Ngự sử tại Ngự sử ̣̣đài Triệu Thái ;
Tuần xước/sát [dẫn đầu một đội quân vũ trang, voi ngựa đi tuần quanh trường để canh phòng ] ;
Di phong [rọc phách, niêm phong hòm đựng quyển] ;
Thu quyển ;
Đằng lục sao chép quyển văn của Thí sinh ;
Đối độc, 1 người đọc, 1 người soát lại, đối chiếu quyển của Đằng lục sao chép cho đúng với quyển văn của Thí sinh trước khi đưa cho quan trường chấm.
Thời Lê Trung Hưng chúa Trịnh có khi làm Đề điệu : khoa 1595 chúa lấy 6 người Hợp cách thi Hội.
4- Đề mục và Văn bài thi Hội cũng tựa như thi Hương, chỉ xin chép ở đây những chỗ khác biệt chính :
Đề mục thường do quan trường chọn trước một ngày rồi đệ trình lên vua. Hôm thi đem niêm yết, cũng có khi đông sĩ tử quá thì sao ra rồi phát cho mỗi người. Khoa 1499 có tới trên 5000 người thi, cho Nghi tào định phép thi, cận thần ra đầu bài rồi in đưa từng lều.
1305 bắt đầu đặt thể lệ thi Thái học sinh :
Kỳ 1 thi ám tả ;
Kỳ 2 Kinh nghĩa ;
Kỳ 3 Chiếu, biểu, chế, thơ phú ;
Kỳ 4 văn sách.
- Khoa 1664 [Khoa mục chí] Định phép thi : Trước một ngày của mỗi kỳ quan Đề điệu xin vua ra đề thi. Đến ngày thi Ngự đề ban xuống, quan Thí trường phải theo phép nhận rõ ấn nhà vua và chỗ niêm phong. Việc phóng đề thi thì dùng các viên án lại, Học sinh, Nho sinh, nha lại các nha môn, chọn những người biết chữ, thông văn lý, kê khai họ tên gửi cho quan Đề điệu. Sáng sớm ngày thi những người ấy phải đến cửa trường đợi khám xét rồi mới cho vào.
Phép thi cải tổ dần dần. Sang thời Nguyễn, Minh Mệnh mới tổ chức khoa thi Hội đầu tiên năm 1822, định phép thi :
Kỳ 1 5 đề Kinh nghĩa ;
Kỳ 2 chiếu, chế, biểu mỗi thứ một bài ;
Kỳ 3 1 bài thơ ngũ ngôn cổ thể, 1 bài phú 8 vần ;
Kỳ 4 Văn sách.
Khoa cải cách đầu tiên thời Pháp thuộc [1910] :
Kỳ 1 10 đạo Văn sách[9].
gồm 5 Kinh, 2 Truyện, 2 Bắc sử, 1 Nam sử. Làm 6 bài là đủ [2 Kinh, 2 Truyện, 1 Bắc sử, 1 Nam sử]. Làm nhiều hơn hay làm cả cũng được.
Kỳ 2 Văn kim gồm 1 chiếu/dụ, 1 sớ tấu, 1 biểu ;
Kỳ 3 1 luận chữ Nho,
2 luận quốc ngữ, đầu bài vẫn bằng chữ Nho ;
Kỳ 4 10 đạo văn sách gồm 2 bài sử Thái Tây, 2 bài cách trí, 2 bài địa dư nước nhà, 2 bài nhân vật nước nhà, 2 bài thời sự. Làm 6 bài là đủ [2 thời sự, các thứ kia mỗi thứ 1 bài], làm hơn cũng được.
5- Chấm thi : Phép chấm thi thay đổi tùy thời nhưng không ngoài mục đích kén chọn người một cách công bằng, thích đáng. Thời Nguyễn, để tránh gian lận, quyển thi của sĩ nhân viết bằng mực đen, sau khi rọc phách cất đi, quyển thi giao cho quan Đằng lục sao lại bằng son đỏ, lối chữ "Đằng tả" ngay ngắn, rõ ràng. Chép xong đối chiếu với bản mực đen rồi tất cả những người sao chép cùng ký tên, ghi chức tước vào trang đầu cả bản chính lẫn bản sao trước khi giao trả quan Đề tuyển. Ông này cất bản mực đen đi và gửi bản son đỏ vào Nội liêm cho hai quan Giám khảo cùng chấm và cho điểm chung, chấm xong cùng ký tên lên quyển rồi đưa ra Ngoại liêm cho hai quan Chánh, Phó Chủ khảo xét lại, xếp thứ tự cao thấp, ghi số lên mặt quyển rồi giao cho Đề tuyển hợp phách, xong rồi hợp với bản chính chuyển đến khảo quan đệ trình cùng với sớ tâu để vua quyết định.
Chấm thi lúc đầu cũng lấy 4 hạng : ưu, bình, thứ, liệt, sau chia ra tỉ mỉ hơn như bình thứ, thứ cộc v.v..., Thời Pháp thuộc đổi ra phân số : "ưu" được 9-10 phân, "bình" được 7-8 phân...; từ khoa cải cách 1910 mới chấm từ 0 đến 20.
Quan trường chấm thi không phải chỉ xem nội dung và lời văn mà còn phải để ý xem có phạm trường quy không. Thi Hội phạm trường quy bị phạt nặng hơn thi Hương, nhẹ thì đánh hỏng, văn kém quá có thể mất luôn cả chức Cử nhân, nặng thì bị cấm suốt đời không được đi thi, có khi Thầy học cũng bị phạt về tội dậy dỗ kém.
6- Kết quả - Thi Hương đông sĩ tử nên hay dùng lối loại bớt từng kỳ một. Thi Hội ít người hơn nên quan trường thường chấm lối quán quyển nghĩa là sĩ nhân được dự cả 3 hay 4 kỳ thi rồi cộng chung điểm mới quyết định cho đỗ người nào, như thế công bằng hơn.
1721 Đặc chỉ chấm thi Hội :
Kỳ 1 Sơ khảo chấm 10 phần lấy 8 phần, Phúc khảo tùy văn bài lấy đỗ ;
Kỳ 2 Sơ khảo chấm 10 phần chỉ lấy đỗ 5, 6 phần, Phúc khảo tùy văn bài lấy đỗ.
Trước kia thi Hội không có quy chế nhất định. Chúa Trịnh muốn rộng cầu hiền tài, lo quan trường tự ý lấy hay bỏ đến nỗi có sự sơ sót, ra chỉ định rõ phân số ưu to, ưu nhỏ, bình to, bình nhỏ...để lấy hay bỏ trong 2 kỳ đầu, kỳ 3 phải đợi Chúa quyết định.
Người thi đỗ gọi là Trúng cách, có tên yết trên Chính bảng, được dự thi Đình.
Những người không đủ điểm để đỗ nhưng được điểm cao trong s̀́ố những người trượt thì liệt vào hạng Thứ Trúng cách, thời Nguyến gọi là Phó Bảng, có tên trên bảng phụ gọi là Ất bảng. Phó Bảng không được thi Đình.
1852 Từ nay gia ân cho Phó Bảng được thi Đình, nếu xuất sắc cũng được lấy đỗ Tiến sĩ [Tam giáp], Hoàng giáp [Nhị giáp]. Ngược lại, Trúng cách mà Đình đối kém thì giáng làm Phó Bảng.
Quan trường chấm xong làm bản danh sách những người đỗ dâng lên, vua có thể sai triều thần xét lại, thay đổi ít nhiều rồi mới giao lại cho quan trường theo đó yết bảng.
Sau khi yết bảng Trúng cách thì định ngày thi Đình.
Thi Hội không có Xướng danh. Khảo quan mặc triều phục lạy tạ trước hương án rồi lên ghế tréo trước cổng trường chứng kiến lễ yết bảng. Có cờ trống, gươm giáo, hương án che 4 lọng vàng. Một viên Đội hàng tứ phẩm treo bảng ở cổng trường.
Sau đó Khảo quan mời những người Trúng cách ngồi trên hàng ghế ở cổng trường, dặn cách thức vào Đình thí.
B- THI ĐÌNH
1- Tổ chức :
Tên "Thi Đình" có từ đời Lý nhưng chưa phải là kỳ thi sắp đặt thứ bậc những người đỗ thi Hội như sau này bởi chưa có sự phân biệt thi Hương, thi Hội với thi Đình. Thi Đình còn được gọi là Đình thí, Điện thí hay Thi Điện vì thi ờ cung điện của vua. Thi Đình thường được coi như kỳ thi cuối cùng của thi Hội nên năm 1856 vua Thiệu Trị nhà Nguyễn mới đổi gọi là Phúc thí.
- Mục đích Thi Đình là để sắp đặt những người đỗ Trúng cách thi Hội theo thứ bậc cao hay thấp chứ ít khi đánh hỏng.
Thời hạn thi Đình chỉ có một ngày và thường được tổ chức từ 1 đến 5, 6 tháng sau thi Hội. Vì thời Lê không nhất thiết thi Hội vào mùa Xuân, có khi thi vào mùa Thu hay mùa Đông nên thi Đình có thể vào tháng 7, tháng 8 hay tháng giêng năm sau chứ không phải vào tháng tư, tháng sáu như nhà Nguyễn.
Năm 1879 định rõ thời hạn làm bài. Bắt đầu canh một đánh ba hồi trống sưu không, cũng gọi là thu không [= Chập tối quân Hộ thành đi tuần thấy không có kẻ gian lọt vào thành mới ra hiệu đánh chiêng trống để đóng cửa thành] báo hiệu hết hạn nộp bài, hết ba hồi trống kể lả ngoại hàm. Đúng giờ phải ra, chậm sẽ bị kẹt trong cung và bị nghiêm trừng.
Khoa 1847 đặc cách cho sĩ nhân làm bài tới khuya, có người nửa đêm mới xong, ban cho cái bài "Ra cửa", mở khóa đưa về.
Khoa 1877, thi từ 6 giờ sáng đến 5 giờ chiều.
Nghi thức : Thi Đình là thi ở cung vua, khi ở sân điện, sân rồng, khi ở hai dẫy hành lang Tả Vu, Hữu Vu nối vào chính điện...
Cống sĩ, coi như đã làm quan, phải mặc mũ áo Cử nhân ngồi làm văn.
Cống sĩ mặc mũ áo Cử nhân
Quyển thi, bằng giấy quan lệnh kẻ đỏ cùng nghiên bút thường do của công cấp cho. Được phép viết chữ thảo, không phải viết chữ chân phương.
Quy chế thời Lê Trung Hưng : Chúa đến điện Giảng võ, sau đó vua ngự giá tới, Chúa cùng các bề tôi chầu lạy. Về sau Chúa được miễn lạy.
- Nghi thức thi Đình thời Nguyễn [1856] : Trước một ngày bộ Lễ bầy bàn thi, chiếu ngồi ở hai dẫy hành lang Tả, Hữu điện Khâm Văn, Ngày thi, các Giám thí mặc đại triều, đến sân điện Khâm Văn. Viên Kinh dẫn dẫn Cống sĩ vào sân điện quỳ, ngoảnh mặt hướng Bắc. Những viên Đằng tả đem các bản giấy vàng chia cho người thi, những người này tiếp lấy giơ cao lên trán rồi trả lại cho viên Đằng tả, lạy 5 lạy rồi đến bàn thi, chiếu tên mình làm văn bài.
Các quan Giám thí và các quan dự việc thi đều đến nhà Hữu Vu điện Cần Chính trực hầu một ngày. Sĩ nhân nộp quyển ra hết mới được vào trực.
Hết hồi trống sưu không phải đem quyển thi và bản thảo nộp. Các viên Tuần la, Tuần sát ở lại kiểm soát.
- Khoa cải cách 1916 :
13/7 13 người Trúng cách thi Hội, yết bảng ở Phu Văn Lâu.
30/7 15 giờ các quan bận triều phục, làm lễ bái mạng trước điện Cần Chính rồi đến Nội các chọn đầu bài thi Đình, dâng lên vua.
1/8 Những người Trúng cách mặc áo Cử nhân, thi Đình ở Tả, Hữu Vu điện Cần Chính. Khoảng 18 giờ bắt đầu chấm rồi đem kết quả trình lên vua.
7/8 Truyền lô xong thì yết bảng ở Phu Văn Lâu.
9/8 Ban yến ở bộ Quốc gia Giáo dục. Khoảng 15 giờ các Tân khoa cưỡi ngựa dạo chơi vườn Ngự uyển rồi theo cửa chính cung môn đi xem thành phố.
13/8 Các Tân khoa Tiến sĩ và các Phó Bảng bái yết ở điện Văn Minh.
2- Thí sinh : Phải đỗ Trúng cách thi Hội nhưng thời Nguyễn có khi ít người Trúng cách quá nên vua gia ơn cho cả Phó Bảng củng được phép thi Đình .
Quyển thi và nghiên bút thường do của công phát cho, mặt quyển cũng cung khai lý lịch như thi Hội nhưng phải thêm đỗ thi Hội thứ mấy.
3- Khảo quan :
Chi tiết khoa 1442 là khoa xưa nhất có bia Tiến sĩ, dựng năm 1485, ghi rõ : "Xuân vi, 450 người thi, 33 người Trúng cách được vào Tứ trường. Vua sai chọn ngày vào đối sách tại sân rồng.
2/2 Vua ngự điện Hội Anh, thân ra đề Sách vấn.
3/2 Các quan Độc quyển là :
Nguyễn Trãi, Hàn lâm viện Thừa chỉ Học sĩ kiêm Trung thư Quốc sử sự,
Nguyễn Mộng Tuân, Trung thư Sảnh Trung thư Thị lang,
Trần Thuấn Du, Nội mật Viện Tri viện sự,
Nguyễn Tử Tấn, Quốc Tử Giám Bác sĩ
đem quyển dâng đọc rồi đệ vua xem xét, định thứ bậc.
3/3 Xướng danh, yết bảng, ban tước trật, áo mão, yến Quỳnh lâm, cho ngựa trạm đưa về.
4/3 Trạng nguyên Nguyễn Trực dâng biểu tạ ơn.
9/3 Bái yết Thánh thượng để vinh quy.
- Thời Nguyễn, Đại Nam Thực Lục Chính Biên ghi đầy đủ chi tiết định phép thi năm 1822 :
1 Giám thí, quan võ, hàng Chánh Nhị phẩm trở lên ;
4 Độc quyển, quan văn hàng Tam phẩm trở lên.
Đều quan văn hàng tứ, ngũ phẩm :
1 Thu quyển [nhận quyển] ;
1 Thu chưởng [giữ quyển] ;
1 Điền bảng [viết bảng] ;
1 Di phong ;
1 Ấn quyển.
Quan văn hàng tam phẩm trở lên :
1 Kinh dẫn Cống sĩ, dùng ty viên bộ Lễ ;
8 Tuần sát, cai đội quân Thị Trung Thị nội ;
4 Tuần la kiêm Hộ bảng, quân vệ quân Thị trung Thị nội ;
4 Chia cấp quyển thi kiêm biên chép, Hành tẩu văn thư phong, dùng ty viên bộ Lễ ;
1 Truyền lô.
4- Đề mục: Thi Đình chỉ có một bài Sách vấn cũng gọi là Vănsách hay Chế sách, hỏi về thuật trị nước lan rộng ra cả đến các vấn đề lý số, thuật phong thủy... thường chia làm hai phần :
Cổ văn hỏi về Tứ thư, Ngũ Kinh, thuật trị nước của các đế vương Trung quốc thời đại Hoàng kim [Nghiêu, Thuấn] những biến chuyển của các thời đại, tai biến xẩy ra và cách thức ngăn ngừa...
Kim văn hỏi về thuật trị an của nhà vua [Việt Nam] đang thực hiện và những phương pháp làm cho mước mạnh, dân giầu...
Đầu đề có 2 loại :
Văn sách đạo đầu bài ngắn, hỏi từng việc, mỗi câu hỏi là một đạo, có thể có tới 10 hay 12 đạo ;
Văn sách mục đầu đề dài tới mấy chục câu hỏi về một hay nhiều vấn đề.
Đề mục thời nhà Lê không được ghi lại đầy đủ, thường chỉ chép vắn tắt. Thí dụ :
1448 Ngày 23/7 vua ngự điện Tập Hiền, hỏi về lễ nhạc, hình chính.
1502 Thi Đình, văn sách hỏi về kinh Phật. [theo Cao Xuân Dục, Quốc Triều Hương Khoa Lục]
Thời Trung hưng, một phần vì các thân sĩ Thanh, Nghệ ít học do lọan ly, lại đố kỵ không muốn cho ai hơn mình nên thường chọn những đầu đề hiểm hóc, tìm điển tích lạ trong những sách ít người đọc đến, đặt những câu hỏi mẹo, vặn vẹo cốt làm sao cho học trò không trả lời được để khoe tài học rộng của mình.
+ Văn bài : Luật lệ làm văn thi Đình là phải chép đầu bài song vì đầu đề văn sách dài nên có khi Cống sĩ được phát cho bản sao, không phải chép lại, có quyển viết thẳng vào bài và có lúc được phép viết chữ thảo.
Phép làm văn bài thi Đình phải bắt đầu bằng "Thần nghe", "Thần đối" vì xưng với vua, khác với thi Hương viết cho quan trường đọc nên xưng "sĩ" như "Đối sĩ văn". Chữ "thần" hay chữ "sĩ" đều phải viết nhỏ bằng một nửa và lệch sang bên hữu, nếu không sẽ phạm trường quy.
Văn thi Đình là lối văn thù phụng, sĩ tử bị bó buộc phải luôn luôn tán tụng công đức, chính sách của nhà vua. Cuối thời Nguyễn lại còn thêm thói xu nịnh cả các quan Đại Pháp.
5- Chấm thi : Quan Tuần la thu xong quyển mở cửa cho Cống sĩ ra, đem quyển thi dán lại, đánh dấu rồi giao cho viên Thái giám nộp vào trong Nội. Các quan coi việc thi đợi chỉ, giao quyển thi ra. Quan Giám thí chuyển cho viên Thu chưởng trình đưa quyển cho quan Duyệt quyển điểm duyệt trước, cho phân điểm rồi giao cho các quan Độc quyển hội đồng xét xong phiến tâu, đợi vua định thứ bậc [Đại Nam Thực Lục Chính Biên, khoa 1856, 1875].
1779 Kỷ Hợi : Chúa Trịnh Sâm mở Thịnh khoa : tháng 10 thi Hương, tháng 11 thi Hội Cống sĩ ở Bãi Cát, lắy 15 người Trúng cách, yết bảng ở Nam cung phủ Chúa. Tháng 12, ra lệnh theo chế độ cũ cho thi Điện ở sân rồng, vua thân ra đề Sách vấn nhưng văn bài không đưa vua duyệt. Hôm sau truyền cho những người Hợp cách đến thi ở phủ Chúa, chấm xong chia ra Giáp, Ất rồi mới đệ đơn xin vua ban sắc lệnh treo bảng vàng ở cửa nhà Thái Học. Thành lệ [10].
Nhưng theo Lịch Triều Tạp Kỷ thì tháng ba năm 1780 mới thi Đình ". Vua ra đề văn sách cho những người trúng thi Hội khoa 1779 ở điện nhà vua, Hôm sau Chúa Tĩnh Vương lại cho thi bài văn sách nữa ở phủ đường, sai Vũ Miên và Phan Lê Phiên duyệt quyển rồi tiến trình [Chúa], cho Lê Huy Trâm, Phạm Nguyễn Du đỗ Nhị giáp, cho bọn Phạm Quý Thích... 16 người đỗ Tam giáp [11].
a- Thứ bậc - Chấm xong xếp từ cao xuống thấp.
1232 Thi Thái học sinh, bắt đầu chia giáp đệ [Nhất giáp, Nhị giáp, Tam giáp].
1247 Thi Đại Tỷ, chia Tam Khôi là 3 người đỗ đầu Nhất giáp :
Trạng nguyên tức Đệ Nhất giáp Tiến sĩ, đệ nhất danh ;
Bảng nhãn tức Đệ Nhất giáp Tiến sĩ, đệ nhị danh ;
Thám hoa tức Đệ Nhất giáp Tiến sĩ, Đệ tam danh.
1256 Nhà Trần khuyến học những người ớ các châu xa Kinh thành, đặc biệt lấy đỗ hai Trạng là Kinh Trạng nguyên [đỗ ở Kinh đô]  Trại Trạng nguyên [đỗ ở Thanh Hoa, Nghệ An].
Sau Nhất giáp Tiến sĩ đến Nhị giáp Tiến sĩ là :
Hoàng Giáp thường cũng chỉ lấy 1 người nhưng có lúc lấy 2 người hay nhiều hơn.
Sau Nhị giáp Tiến dĩ đến Tam giáp Tiến sĩ tức Tiến sĩ hạng ba, hạng cuối. Số người đỗ nhiều hơn nhưng không nhất định.
.Tuy đỗ thi Đình được gọi là đỗ Tiến sĩ nhưng có khi còn phải vào trình diện để vua xét dung mạo, hoặc vào điện "ứng chế" hay đã vinh quy rồi lại phải về Kinh thi thơ, luận, có hợp cách mới lấy đỗ hẳn, cấp văn bằng. Khi Mạc Đĩnh Chi [1272-1346] đỗ Trạng nguyên khoa thi Thái Học sinh năm Giáp Thìn [1304] vào ra mắt vua Trần Anh Tông, vua thấy tướng mạo ông xấu xí có y ́không muốn cho ông đỗ Trạng. Ông làm bài phú "Ngọc tỉnh liên" [Hoa sen trong giếng ngọc] ca ngợi nét cao quý của bông sen, tự ví mình với hoa quân tử. Vua đọc xong thuận cho ông đỗ Trạng.
1847 Thi Đình bắt ̣đầu bị đánh hỏng vì trong bài Kim văn của Đặng Huy Trứ có câu "Hữu hại gia miêu" [Làm cho lúa tốt], song Gia Miêu là tên quê hương vua nhà Nguyễn, họ Đặng mắc tội phạm húy, bị đánh hỏng tuột, mất luôn cả danh vị Cử nhân, đuổi về học lại.
b- Ngạch lấy đỗ [Thi Hội - Thi Đình]- Số người lấy đỗ không hạn định trước như thi Hương.
Thời Lê trung bình mỗi khoa có vào khoảng 2000, 3000 người dự thí Hội, lấy đỗ từ 20 đến 40 người. Số người đỗ không căn cứ vào s̀́ố người thi : Khoa 1442 có 450 người thi mà lấy đỗ 33 người, khoa 1640 trên 6000 người thi Hội, lấy đỗ có 22 người.
Thời Nguyễn, số người thi thường không quá 100, 200, số người đỗ không vượt quá vài chục. Không tính được ngạch lấy đỗ vì sử sách chỉ ghi số người đỗ mà không chép số người dự thi trừ vài trường hợp đặc biệt :
1822 tháng ba, khoa đầu thi Hội của nhà Nguyễn. Có 164 người dự thi, lấy đỗ 5 người. Vua Minh Mệnh cho là ít lấy thêm 3 người thành 8 người Trúng cách. Tháng tư thi Đình ở điện Cần Chính, cho Nguyễn Ý đỗ Hoàng giáp, 7 người kia đỗ Tam giáp Tiến sĩ.
1826 Vua trách khảo quan thi Hội chấm nghiệt quá, trên 200 người thi mà chỉ lấy 9 người đỗ mà đều hạng thứ và toàn là người Bắc, bắt lựa thêm 1, 2 người từ Thừa thiên vào Nam để cổ lệ sĩ phong. Quan trưường lấy thêm Phan Thanh Giản thành 10 người.
Quan Duyệt quyển là Hà Quyền và Phan Bá Đạt. Lấy đỗ :
Nhị giáp 2 người là Hoàng Tế Mỹ và Nguyễn Huy Hựu.
Phan Thanh Giản đỗ đầu Tam giáp Tiến sĩ.
c- Danh hiệu :
Trạng nguyên "Trạng" là "bảng", "nguyên" là "đầu", Trạng nguyên chỉ người đỗ đầu bảng.
Bảng nhãn nghĩa là "mắt bảng".
Thám hoa là người đỗ trẻ nhất được cử đi hái các hoa lạ trong những vườn danh tiếng ở kinh đô về bầy trên bàn tiệc yến đầu tiên mừng các Tân khoa.
Hoàng giáp : "Hoàng" là "Hoàng bảng" = bảng vàng, "Hoàng giáp" là người có tên trên bả̉ng vàng, giáp liền với tên các Tiến sĩ.
Tiến sĩ là người được tiến lên vua.
Ông Nghè trỏ ông Tiến sĩ. Có nhiều cách giải thích chữ "Nghè":
- Trong cung điện vua, điện nào cũng có mái ngói chạy dài ra hẳn quá sân để khi mưa nắng che cho các đại thần, mái ấy gọi là Nghè. Các Tiến sĩ vào Đình đối, là những người đã "tiến" lên vua rồi, đứng ỡ đấy nên gọi là ông Nghè [12].
- Thời Lê, Nghè là chỗ làm việc trong điện các, chỉ các Tiến sĩ mới được làm việc ở đấ́y. Thời Nguyễn, dù không đỗ Tiến sĩ mà làm việc ở đấy cũng gọi là ông Nghè [13].
- Những miếu th̀ờ thần thánh, nơi tôn nghiêm cũng gọi là "nghè". Các Tiến sĩ chầu hầu lăng miếu gọi là ông Nghè.
"Nghè Vẹt" là nơi thờ 12 Chúa Trịnh, "nghè" làm bằng gỗ lợp ngói có gian chính và các gian tả hữu gồm 12 gian. Gian chính còn giữ được nhiều cột gỗ lim lớn, mỗi cột nghè có một con giống. "Nghè Vẹt"còn giữ được hai con vẹt bằng gỗ. "Vẹt" là vật linh biểu tượng nhà Trịnh : Nhờ thấy vẹt bay lượn trên thi hài bà mẹ Trịnh Kiểm [bị nhà Mạc giết] mà người nhà mới tìm ra được thi thể [14].
Danh vị và thứ bậc các Tiến sĩ rất quan trọng. Phùng Khắc Khoan đã làm quan to mà còn đi thi để giật danh vị Nhị giáp Tiến sĩ khoa 1580.
6- Kết quả :
a- Lễ Truyền lô - Đỗ thi Đình là đạt ̣đỉnh cao của Khoa mục, danh giá vô cùng cho nên lễ Truyền lô tức Xướng danh được tổ chức hết sức long trọng ở điện đình. "Truyền"là đọc to lên cho mọi người cùng nghe rõ, "" là "chúng", nhiều người. Sau khi quan Truyền lô đọc họ tên, quê quán người thi đỗ, một số vệ sĩ lần lượt nhắc lại để mọi người ở xa cũng nghe thấy.
bBảng vàng Sau lễ Truyền lô, bảng vàng mang tên các Tân khoa Tiến sĩ được đem yết mấy ngày. Thời Lê yết ở ngoài cửa Đông hoa, đình Quảng văn hay ở cửa nhà Thái học [Thăng Long] ; thời Nguyễn ở Phu văn lâu [Huế].
Bảng Chánh Trúng cách, cũng gọi là Long bảng, Bảng rồng, Giáp bảng, Bảng vàng mầu vàng, vẽ rồng, ghi tên những người đỗ Tiến sĩ ;
Ất bảng mang tên các Phó bảng thì mầu đỏ.
cBia đá - Cho đến đầu thời Hậu Lê vẫn chưa có bia. Năm 1484 Lê Thánh Tông mới sai Quách Đình Bảo tìm lại tên tuổi Tiến sĩ các khoa trước để dựng bia ngược lại từ khoa 1442 là khoa đầu nhà Hậu Lê để vinh danh các Tiến sĩ. Kể từ khoa 1442 tên các Tiến sĩ được khắc trên bia đá trừ một số khoa vì loạn ly không dựng bia.
Hiện nay Văn Miếu Hà Nội còn giữ được 82 bia, xế́p ở hai bên Giếng Thiên Quang, khu 4.
Bia Tiến sĩ trước khi dựng lại nhà bia
d - Văn bằng - Sau khi yết bảng, các Tân khoa được cấp văn bằng, được ghi danh vào sổ những người đỗ gọi là Danh tịch.
 
 
 

THÔNG CÁO CỦA MAI TỔNG ĐỐC GỬI TÂN KHOA TIẾN SĨ HOÀNG ĐÌNH TÁ CHO VỀ KINH LĨNH BĂNG CẤP

(Sắc chỉ số 10)

Phiên âm
Lãnh Hà-ninh Tổng-đốc, Tân Lộc Nam, Mai...
Vi bằng cấp sự chiếu đắc tỉnh hạt Tân khoa Tiến-sĩ Hoàng Ðình Tá, tiền kinh ân tứ vinh quy nhị cá nguyệt tự giới hạn tiêu, tiếp bệnh khất giả nhất nguyệt lưu quán điều trị, tư bệnh dĩ thuyên, bẩm khất lãnh bằng tựu đạo đẳng ngữ hợp hành bằng cấp, nghi do lục lai kinh, do Lại bộ đường quan Thính hậu sở, hữu đới (đái) tùy giả tùng tam danh, định thính thông hành tu chí cấp giả.
Hữu bằng cấp thuộc tỉnh Tân khoa Tiến-sĩ Hoàng Ðình Tá chuẩn thử.
Thiệu-Trị tam niên, chính nguyệt, thập nhị nhật
Dịch nghĩa
Lãnh Tổng-đốc Hà-ninh (1), tước Tân Lộc Nam, họ Mai
Căn cứ vào cấp sự (2), xét trong tỉnh hạt có Tân khoa Tiến-sĩ Hoàng Ðình Tá, trước đã từng được ân tứ vinh quy (ở quê) hai tháng đã hết hạn, vì tiếp bị ốm xin tạm lưu một tháng ở quê quán để điều trị. Nay bệnh đã khỏi, bẩm xin lên đường lĩnh bằng, những lời trên hợp với lời xin cấp bằng. Nên theo đường bộ về kinh đến "Thính hậu sở" (3) thuộc đường quan bộ Lại, kèm ba người đi theo đều nghe lệnh thông hành cùng đến với người được cấp bằng.
Bằng cấp bên hữu (4) này chuẩn cấp cho Tân khoa Tiến-sĩ của tỉnh : Hoàng Ðình Tá.
 
Ngày 12, tháng giêng, năm Thiệu-Trị thứ ba (1843)
 (1) Hà-ninh : tức Hà-nội và Ninh-bình. Các đời Thiệu-Trị, Tự-Ðức, chức Tổng-đốc Hà-nội kiêm cả tỉnh Ninh-bình, đến thời Tổng-đốc Hoàng Diệu (1883) vẫn thế.
(2) Cấp sự / Cấp sự trung : chức quan phục vụ trong cung đình.
Thời Minh, Thanh ở Trung quốc, Cấp sự trung thuộc Lục khoa.
Ở Việt-Nam, Lục khoa đặt từ thời Lê Nghi Dân, có các chức Ðô Cấp sự trung, trật Chánh Thất phẩm, Chánh Bát phẩm.
Thời Nguyễn là chức Tá nhị cho Ðô sát Ngự sử trong Ðô sát viện, trật Chánh Ngũ phẩm, giữ việc thanh tra hành pháp. Năm Minh-Mệnh 18, đặt Chưởng ấn Cấp sự trung, trật Tòng Tứ phẩm, đưa vào các Bộ, Viện.
(3) Thính Hậu Sở : Nhà chờ đợi quyết định bổ nhiệm của cấp trên.
(4) Bên hữu : tay phải. Vì chữ Hán viết theo hàng dọc từ phải qua trái. Cuối bài, cuối một văn bản nào đó, để ghi chú cho rõ thì viết chữ "Hữu".
(Nguyễn Tiến Ðoàn phiên âm, dịch và chú thích
Vũ Trung ngày 11, tháng XI, 2003)
THÔNG CÁO CỦA BỘ LỄ GỬI TÂN KHOA TIẾN SĨ HOÀNG ĐÌNH CHUYÊN CHO VỀ VINH QUY ĐỒNG THỜI CẤP VĂN BẰNG
(Sắc chỉ số 11)

Phiên âm

Lễ bộ vi khâm cấp văn bằng sự chiếu đắc kim khoa Hội thí Trúng cách Hoàng Ðình Chuyên, khâm hậu Ðiện thí sự thanh. Khâm phụng sắc tứ Ðệ Tam giáp Ðồng Tiến-sĩ xuất thân. Tư mông ân tứ vinh quy, triếp thử hợp cấp văn bằng thính hồi Hà-nội tỉnh, Thường-tín phủ, Thanh-trì huyện, Thanh-liệt tổng, Linh-đường xã, Linh-đường thôn nguyên quán.

Ðể tỉnh nhật tiến tương Bộ bằng cụ trình tỉnh quan tri, chiếu trừ khứ hồi ngoại lưu quán nhị cá nguyệt. Hạn tiêu lai kinh do Lại bộ Hậu bổ sở, hữu thử thứ đới (đái) tùy tùng giả ngũ danh, tịnh thính thông hành tu chí khâm cấp giả.

Hữu khâm cấp Ðệ Tam giáp Ðồng Tiến-sĩ xuất thân Hoàng Ðình Chuyên chuẩn thử.

Tự-Ðức nhị niên, nhuận tứ nguyệt, nhị thập ngũ nhật

(Văn bản có đóng dấu "Sắc mệnh chi bảo" của vua bằng vàng, truyền đến đời Bảo-Ðại. Cách mạng tháng 8, 1945 Bảo-Ðại giao lại cho phái đoàn chính phủ lâm thời, do Trần Huy Liệu cầm đầu, vào Huế thu nhận. Con triện này để ở Bảo tàng viện Cách mạng Việt-Nam. Hiện nay ít người được xem lại con dấu đó).

Dịch nghĩa

Bộ Lễ đã kính trọng cấp văn bằng xét được sĩ tử Trúng cách thi Hội khoa này là Hoàng Ðình Chuyên kính đợi để vào Ðiện thí, nay việc đã hoàn thành.

Kính theo sắc ban cho Tam giáp Ðồng Tiến-sĩ xuất thân.

Nay đội ơn nhà vua ban cho vinh quy, đồng thời cấp văn bằng về nguyên quán thôn Linh-đường, xã Linh-đướng, tổng Thanh-liệt, huyện Thanh-trì, phủ Thường-tín, tỉnh Hà-nội. Về đến tỉnh, ngay ngày đó phải xuất trình đầy đủ văn bằng do Bộ cấp, lên quan tỉnh biết. Chiếu theo lệ, trừ những ngày lưu lại ở quê là hai tháng, khi hết hạn phải trở về kinh đô, do bộ Lại thu xếp ở Hậu bổ sở (nơi chờ bổ ngạch quan - ND).

Chuyến đi này được kèm theo 5 người tùy tùng. Tất cả đều về kinh cùng với người được kính trọng cấp bằng.

Văn bản bên hữu này kính trọng chuẩn cấp cho Ðệ Tam giáp Ðồng Tiến-sĩ xuất thân Hoàng Ðình Chuyên.

Ngày 24, tháng 4 nhuận năm Tự-Ðức thứ hai (1849)

(Nguyễn Tiến Ðoàn phiên âm, dịch và chú thích

Vũ Trung ngày 11, tháng XI, 2003)

 7- Ân tứ - Sau khi thi đỗ các Tân khoa được vua ban thưởng rất hậu. Ngay từ đời Trần đã được vua ban xiêm áo, đãi yến, được cưỡi ngựa đi xem vườn Thượng uyển và Kinh thành.
Xem vườn Thượng uyển / Ngự uyển - Có hai giai thoại về chuyện đi thăm vườn Ngự uyển : Hán Vũ đế [140-187] muốn kén Phò mã, cho phép các Tiến sĩ mới được vào thăm vườn Ngự uyển, Công chúa ở trên lầu cao gieo quả cầu ngũ sắc vào người mình chọn, cũng co thuyết nói là ai bắt trúng quả cầu thì được làm Phò mã.
Giai thoại thứ hai kể các Tân khoa do Lễ bộ Thượng thư hướng dẫn đi thăm Ngự uyển, được phép chọn hái một bông hoa để cho thợ kim hoàn trong cung đánh lại bằng vàng cài mũ bên tai trái. Ông Nghè Nguyễn Quý Tân [1814-1858] chọn hoa dâm bụt cho to, theo Lãng Nhân [15].
Vũ Trọng Khánh lại kể là chọn hoa chuối vì thuở nhỏ Nghè Tân quá nghèo khổ phải ăn củ chuối trừ cơm nên chọn hoa chuối để nhớ thuở hàn vi [16].
8 - Đặc quyền của các Tân khoa - Về tục lệ ban đặc quyền cho các Tân khoa ta còn biết ít nhiều nhờ các bản hương ước khắc ghi trên bia đá như cắt dân đi phu rước vinh quy, cắt đất làm nhà cho Tân khoa...
- Vinh quy - Đám rước vinh quy của ông Nghè tổ chức đại khái cũng như đám rước vinh quy ông Cử, ông Tú, cũng cờ quạt, tàn lọng, chiêng trống, võng ngựa...nhưng long trọng hơn. Thường thì đỗ Tú tài chỉ có làng xã rước, đỗ Cử nhân hàng huyện phải rước, đỗ Tiến sĩ thì hương lý, trai tráng hàng tổng đem đủ nghi lễ cờ quạt, đón từ tỉnh rước về làng. Theo Ngô Tất Tố [Lều Chõng] thời Lê, đỗ Tiến sĩ thì dân phải đem cờ quạt đến tận Kẻ Chợ [Thăng Long] đón rước nhưng từ thời Nguyễn Kẻ Chợ dời vào Thuận Hóa [Huế] người Bắc tới đó xa quá, bắt cả tổng phải đi rước sợ làm phiền dân nên chỉ bắt rước từ tỉnh nhà mà thôi.
Ông Thám hoa cầm cành hoa
(Tranh Oger)
Tiến sĩ vinh quy -Tranh dân gian
Tiến sĩ vinh quy 
Những người trong họ quan Tân khoa được miễn làm phu phen đi rước. Bản hương ước khắc ghi trên bia đá quy định mỗi khi làng có người đỗ đạt phải tùy theo học vị mà cắt dân phu đi rước, ít nhất là 50 người, nhiều đến vài trăm để khiêng kiệu, võng, lọng, bồi ngựa cho Tân khoa và cho cả bố, mẹ, vợ Tân khoa nữa. Lại phải chuẩn bị lễ mừng : câu đối, trướng... lễ vật của hàng xã, hàng huyện, hàng tỉnh không kể của bạn hữu, thân thuộc.
Lúc đầu Tân khoa vinh quy cưỡi ngựa trạm, Phạm Quý Thích cưỡi voi nhưng không rõ tử bao giờ Tân khoa lại ngồi võng :
Võng anh đi trước, võng nàng theo sau.
Ngôi thứ trong đám rước. Thứ bậc trước sau trong đám rước rất quan trọng. Trên nguyên tắc. Thời xưa võng Thầy được đi trước võng cha mẹ vì cha mẹ chỉ có công sinh thành và nuôi dưỡng, Thầy mới có công dậy dỗ, đào tạo cho thành người.
Khoa 1757 Phạm Tiến đỗ, có nhà giầu gả con gái cho, giao hẹn chịu hết phí tổn lúc vinh quy. Khi vinh quy, cô con nhà giầu tranh đi trước, vợ cả thưa vào trong triều, triều đình bắt lỗi ông Nghè, đình việc cất nhắc [17].
- Phải cắt đất làm nhà cho Tân khoa, địa điểm phải được Tân khoa đồng ý hoặc do Tân khoa chọn. Có người chưa đỗ đã đánh tiếng muốn chiếm chỗ này, tranh nhà người khác v.v... nên ta mới có câu :"Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng".
9- Khao vọng - Cũng như thi Hương, Tân khoa về đến làng, kỳ mục và dân làng ra đón tận cổng làng, đưa về nhà. Đến nhà. Tân khoa làm lễ bái tổ rồi ra đình, miếu cúng lễ và cuối cùng, không kém phần quan trọng là khao vọng. Nếu không khao theo tục lệ thì làng không công nhận. Một ông Tiến sĩ vinh quy tất phải ăn khao linh đình hàng 4, 5 ngày là thường. Nhiều người phải đi vay để khao làng xóm nên không thiếu gì những ông Nghè mang công mắc nợ. Từ tệ tục đó mới sinh ra thói nhà giầu "mua rể" và tệ nạn những tên gian manh lừa bịp, mạo nhận thi đỗ nhưng chưa có tiền vinh quy để nhà giầu ham danh hứa chịu hết tổn phí, gả con gạ́i cho nhg đến ngày công bố kết quả kỳ thi thì tên gian manh trốn biệt.
Vua Gia Long biết những tệ tục về khao vọng nên ra sắc chỉ giảm bớt lệ ăn khao. Đại Nam Thực Lục chép :"1804 Khi có người trúng khoa trường hay được ban sắc mệnh, người làng vin tục lệ ấy đòi thết đãi cỗ bàn, ăn uống mấy phen, gọi là "trả nợ miệng". Đền xong khoán lệ của làng thì mất hết gia tài. Từ nay về sau các lễ vui mừng lớn thì cho dùng xôi lợn hoặc nộp 3 quan tiền thay, việc nhỏ thì cho dùng xôi gà hay nộp 1 quan 6 tiền". Song ai cũng biết "Phép vua còn thua lệ làng".
10- Bổ dụng - Luật lệ đời Trần, năm 1305 :
Trạng nguyên bổ Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung chức Nội Thư gia ;
Bảng nhãn Chi hậu bạ thư, sung chức Nội lệnh Thư gia ;
Thám hoa Hiệu thư, được 2 tư [tư cách, tước Công được 24 tư, cửu phẩm 1 tư] [18].
Đời Lê, 1472 Định tư cách các Tiến sĩ :
Trạng nguyên hàm Chánh lục phẩm, 8 tư .
Bảng nhãn hàm Tùng lục phẩm, 7 tư ;
Thám hoa hàm Chánh thất phẩm, 6 tư.
Nhị giáp hàm Tùng thất phẩm, 5 tư ;
Tam giáp hàm Chánh bát phẩm, 4 tư.
Thời Nguyễn : năm 1865 định lại lệ bổ quan Tiến sĩ, Phó bảng :
Trạng nguyên bắt đầu thụ hàm Thị độc ;
Bảng nhãn bắt đầu thụ hàm Thừa chỉ, đợi chỉ kén dùng ;
Thám hoa bắr đầu thụ hàm Trước tác, lập tức bổ ngay Tri phủ ;
Hoàng giáp bắt đầu thụ hàm Tu soạn, đầy một năm cho đi Tri phủ ;
Tam giáp bắt đầu thụ hàm Biên tu, đầy một năm thăng bổ Chủ sự cho đi Thự Tri phủ, lại đầy một năm nữa được thực thụ ;
Phó bảng bắt đầu thụ hàm Kiểm thảo, đầy một năm thăng Tri huyện, Thự Đồng Tri phủ hoặc Thự Đồng Tri lãnh huyện đứng đầu trong tỉnh, lại đầy một năm được thực thụ.
- Thời Pháp thuộc :
1903 Định lệ các Cử nhân, Tú tài muốn làm quan phải qua một kỳ thi tuyển vào trường Hậu bổ, thi các môn Tân học, bài làm bằng quốc ngữ, thi viết và vấn đáp tiếng Pháp [19].
1918 Dụ 498, điều 3 : Chức Tri Huyện bổ những người thi trúng, tốt nghiệp Cao đẳng Pháp chánh Đông Dương hay Cử nhân Luật một trường Đại học Pháp. Phải qua ít ra 3 năm làm Tham biện trong một sở Hành chánh ở Đông Dương. Phải có giấy hạnh kiểm tốt.
Nha lại có 7 hạng : 5 hạng dưới gọi là Thừa phái, 2 hạng trên là Thông phán hạng nhất hay nhì. Thừa phái 5 hạng tuyển bằng thi Thi Hương phải qua Nhất, Nhị trường hay có bằng Tiểu học Pháp-Việt, đã qua 3 năm trong một trường Trung học [20].
1919 Theo quy thức của Toàn quyền A. Sarraut, bộ Học tư cho các tỉnh Trung kỳ bãi hết các viên Giáo, Huấn chỉ biết chữ Nho hay quốc ngữ, không đủ tư cách làm thầy giáo nữa. Mỗi người sẽ được thăng hai trật và 6 tháng lương. Ai tình nguyện đủ sức dậy học trò đỗ Tiểu học được thì cho ở lại, nếu sau xét ra không được thì bị triệt về, mất hết quyền lợi tức là không được thăng trật và cấp bổng như trên [21].
o O o
Kể từ nhà Lý khai khoa năm 1075 đến nhà Nguyễn bãi Khoa cử năm 1919, nước ta đã tổ chức được :
Thi Hương : thời xưa không chép rõ, riêng thời Nguyễn có 47 khoa, lấy đỗ 5190 Cử nhân ;
Thi Hội : trước nhà Nguyễn có 149 Đại khoa, lấy đỗ 2413 Tiến sĩ ; thời nhà Nguyễn có 39 Đại khoa, lấy đỗ 557 Tiến sĩ.
Tổng cộng là : 188 Đại khoa, lấy đỗ 2970 Tiến sĩ [22].
Riêng ở nước ta Khoa cử đã thọ gần 9 thế kỷ tất nhiên cũng phải có những ưu điểm thích đáng mới được trọng dụng lâu như thế. Đạo trị nước của Khổng giáo khá thực tế và có nhân đạo, xây dựng một xã hội nền nếp, có quy củ, quý trọng người có nhân cách hơn người tài cao mà phẩm hạnh không ra gì, tin tưởng lễ giáo hơn luật pháp vì luật pháp chỉ trừng phạt mà không dạy dỗ, kẻ có tội vẫn tái phạm, còn dạy dân hiểu lễ nghĩa, biết phân biệt phải trái, để tự mình ngăn ngừa tội ác ngay từ khi nẩy mầm mới là thượng sách. Khuyết điểm bị chỉ trích nhiều nhất là quá tôn quân quyền.
1- Mục đích của Khoa cử là kén chọn người đức hạnh và tài giỏi ra làm quan, giúp vua trị nước, mưu đồ "quốc kế dân sinh" vì dân vì vì nước , ngoài vòng cương tỏa của danh lợi. Trong bài ký bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất [1442] Thân Nhân Trung [1419-1499] viết :"Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần kíp".
Phan Huy Chú [1762-1840] trong Lịch Triều Hiến Chương, Khoa Mục Chí, cũng viết :"Xem việc thi cử hay hay dở thì biết nước thịnh hay suy. Thời thịnh của Khoa cử là thời kẻ sĩ chỉ coi đó là phương tiện tiến thân, tạo cơ hội cho mình đem tài trí ra gánh vác việc nước, đạo đức là cái chính, văn chương là thứ yếu".
Để khuyến khích con em chăm học, ngày Tết Trung thu của trê em cha mẹ thường bầy cỗ thưởng trăng và không bao giờ quên Ông Tiến sĩ giây trên bàn cỗ.
ông Tiến sĩ giấy
2- Công hay tội ? Sau khi nước ta liên tiếp bị quân Pháp đánh bại một cách quá dễ dàng từ Nam ra Bắc, cuối cùng là mất chủ quyền, những người có tâm huyết tìm hiểu nguyên do và đi đến kết luận là lỗi tại chế độ Khoa cử đã đào tạo ra những ông quan chỉ biết "ngâm thơ vịnh nguyệt" nhưng trên thực tế tỏ ra đã tham nhũng lại bất tài. Hán học lúc đó đã suy, châu Âu lại phú cường, không thể đem "Đức" ra luận bàn với tầu chiến tối tân của họ, đem "nhân nghĩa" ra chọi với súng ống của họ. Tuy nhiên, sự chống cự hầu như tuyệt vọng của Phan Thanh Giản [1796-1867], Hoàng Diệu [1832-1882], Phan Đình Phùng [1844-1895]... đã cho thấy Hán học không phải chỉ đào tạo ra toàn những ông quan bất tài chỉ biết "vinh thân phì gia", và giới "trí thức phong kiến" cũng không thiếu gì kẻ sĩ có bản lĩnh, có liêm sỉ, dẫu thua thà chết không chịu nhục. Người Pháp tuy đắc thắng nhưng cũng phải nhìn nhận và tỏ ra kính trọng những ông quan "uy vũ bắt năng khuất". Paul Doumer, trong Hồi ký L' Indo-Chine française [Souvenirs],khi viết về Nguyễn Thân và Nguyễn Trọng Hiệp đều khen cả hai. Nguyễn Thân là cộng tác viên đắc lực của Pháp trong công cuộc "bình định" nước Nam, P Doumer rất khen ngợi nhưng là với giọng kẻ cả của một quan Thầy khen thuộc hạ, khác hẳn thái độ đối với Nguyễn Trọng Hiệp kể cả những khi Nguyễn Trọng Hiệp tỏ ra "cứng đầu" không chịu khuất phục trước sự uy hiếp của các quan thực dân. P. Doumer biết vai trò khó khăn của Nguyễn Trọng Hiệp, quan Đại thần của một nước đả̃ mất chủ quyền, phải khôn khéo đương đầu với những yêu sách ngày một nhiều của các quan "Bảo hộ" .Paul Doumer luôn tỏ ra thông cảm và kính trọng Nguyễn Trọng Hiệp, đối xử ngang hàng chứ không trịch thượng.
Hán học suy - Vài nguyên nhân chính :
a- Cái học từ chương - Các sử gia thường khen cái học phong thời Lý, Trần hùng mạnh, quán triệt tất cả, trọng khái quát, không câu nệ. Khoa cử thịnh nhất dưới triều Lê Thánh Tông, từ Lê Trung hưng đến nhà Nguyễn chuyển dần sang cái học từ chương, chỉ chuộng lối văn thù tạc mà không quan tâm đến đạo học mới trở thành hư văn, bị chê là viển vông, ít thực dụng, đào tạo ra những ông quan cầm vận mệnh nước mà chỉ biết đắc ý với những điển tích viện dẫn hiếm lạ, những câu đối chọi vụn vặt, thi cử thì đặt những câu hỏi mẹo ngoắt ngoéo, để khoe cái học rộng nhưng hoàn toàn bất lực trước quân viễn chinh Pháp, gây nên cái họa vong quốc.
Học trò làm văn bài chỉ được giải thích, bàn rộng những lời của tiên hiền, không    được đưa ra những ý kiến riêng. Mục đích vốn là để thống nhất tư tưởng quan liêu, lấy kinh sách làm cơ sở, suy luận phải theo một khuôn đã vạch sẵn, ý kiến riêng chỉ có hại và bị phỉ báng như Ngô Thì Sĩ đã chê Hồ Quý Ly dám đặt KT ngồi bên trong VM chỗ chính giữs phải nhường cho Chu Công mặc dầu chính KT đã nhìn hận "Ngô tòng Chu’. Vì quá khiêm tốn, cho chỉ bậc thánh mới đáng viết sách và những gì đáng viết đều đã có trong kinh sách.
Người "giỏi" thời xưa là người sáng dạ, học đâu nhớ đấy, thành ra lẫn lộn trí nhớ với trí tuệ. Óc phê phán bị tê liệt, không dám có sáng kiến, không phát huy được ý kiến riêng mới mẻ.
b- Trọng văn khinh võ - Ta có những câu thơ hay thành ngữ thâu tóm rất rõ cái quan niệm khinh thường các quân nhân ai cũng biết như "vai u, thịt bắp, mồ hôi dầu", "có khoẻ mà chẳng có khôn" hay :
Văn thời tử phẩm đã sang,
Võ thời nhất phẩm còn mang gươm hầu.
Các võ quan thường bị khinh là dốt nát, cậy có sức khỏe lấn át kẻ khác chứ nhà Nho chỉ "đấu khẩu không thèm đấu chân tay", coi các võ quan là hạng chỉ để các mưu thần sai khiến, điều khiển.
Ưa hòa bình, việc dụng binh trong nước coi là bất thường, quân sĩ ít thao luyện. Song muốn bảo vệ nước mà trong tay không có binh hùng, tướng mạnh thì hi vọng thắng bằng "lể nghĩa" chỉ có thể may ra tìm thấy trong sách.
3- Phong trào cải cách - Tiền nhân ta ngày trước thần phục văn minh Trung quốc bao nhiêu thì bấy giờ mới suy xét lại, đặc biệt kết tội Khoa cử. Phan Bội Châu ôm bầu nhiệt huyết, quyết tâm không thèm đi thi nhưng khám phá ra không có học vị thì nói chẳng ai nghe, đành phải đi thi và đỗ Thủ khoa trường Nghệ An năm Canh Tý [1900], có mảnh bằng Cử nhân trong tay rồi thì hô hào mới được quần chúng răm rắp nghe theo. Quá phẫn uất trước cái nhục vong quốc, Phan Bội Châu đã phỉ báng Khoa củ không tiếc lời trong Việt Nam Quốc Sử Khảo :"Trung quốc bỏ Khoa cử từ năm Canh Tý [1900], Triều Tiên bỏ từ năm Giáp Ngọ [1894], đó là một việc nhơ nhớp duy chỉ nước ta còn có mà thôi... Cái mà muôn người khạc nhổ ra thì ta lại nhặt lấy mà nuốt ực vào". Tuy cụ Phan phỉ báng Khoa cử không tiếc lời nhưng thật ra là chưa cạn lời : chê là chê Khoa cử thời suy chứ không phải chê KC nói chung. KC dùng đạo Khổng để kén người mà cụ Phan lại rất trọng Khổng giáo, Cuốn Khổng Học Đâng cúa cụ vạch cho ta thấy cái tinh hoa của Khổng học, diễn giải những phần cốt yếu trong Tứ thư, đính chính những chỗ chú giải sai lầm của người đi trước.... Trong "Phàm lệ" Phan Bội Châu nói rõ :"Mục đích [viết Khổng Học Đăng] là cốt phù trì nhân đạo, phát huy chân lý để duy trì nhân tâm, bởi nhân tâm còn xấu thời thế đạo chẳng bao giờ tốt... Tác giả muốn cho người ta biết học cũ vẫn không phải trần hủ mà học mới vẫn không phải phù hoa... Tác giả nói học cũ là nói cái chân triết lý của Á châu từ thuở xưa, nọ́i học mới là chỉ nói khoa học tối tân thiệt có ích với nhân sinh của thế giới bây giờ."
Khoa cử mà không dùng đến Khổng giáo thì không phải là Khoa cử nữa, chẳng khác gì bất cứ một kỳ thi nào được tổ chức ngày nay ở khắp nơi ̣để kén chọn người. Cụ Phan chê là chê chế độ Khoa cử thời suy, sĩ nhân chỉ ham danh lợi mà kh̀ông màng tới đạo hạnh.
Trung quốc tự cao tự đại coi mình là văn minh nhất, còn tất cả các nước đều là "man di mọi rợ". Chúng ta thần phục Trung quốc. cũng tự coi mình là có văn hóa cao, chỉ thua có Thiên triều mà thôi nên thua người Pháp mà vẫn còn mong Thiên triễu cứu ứng. Có biết đâu chính Thiên triều cũng đang khốn đốn với các "rợ Tây phương". Thiên triều hạ bệ Khoa củ thì ta cũng đổ lỗi cho Khoa cử.
Khoa cử, cũng như bất cứ một học thuyết nào, hay hay dở là do người áp dụng nó. Chính Khổng Tử đã dạy :"Thuật nhi bất tác"nghĩa là không lập ra một học thuyết nào hoàn toàn mới nhưng tiếp tục phát triển cái cổ để cải tiến, hoàn thiện nó, biến hóa, thay đổi cho hợp thời.
Đổ tội chế độ Khoa cử đã đưa nước ta đến chỗ vong quốc là bất công bởi KC dùng Khổng giáo để kén người ra gánh vác việc nước. Đạo Khổng nhờ KC mà được phổ biến rộng rã̉i nhưng KC càng thịnh hành thì càng xa dần "Chính đạo", chất lượmg sa sút, mất dần chân tưởng, lỗi tại KC hay tại người áp dụng nó ? Huống hồ những nước láng giềng của ta như Miên, Lào có dùng KC đâu mà cũng bị Pháp đô hộ ? Phi Luật Tân bị Tây Ban Nha chiếm., Tích Lan bị Bồ Đào Nha rồi Hà Lan, Miến Điện, In-đô-nê-xia, Ấn độ bị người Hà Lan, người Anh khống chế... họ có dùng Khoa cử đâu mà cũng bị Tây phương khuất phục ?
CHÚ THÍCH PHẦN BA
[1] - Lê Tắc: An nam Chí Lược, tr 251.
[2] - Nho giáo, Khổng giáo. Xem Phần 1, chú thích 2.
[3] - Hoàng Xuân Hãn: La-Sơn Phu Tử, tr 135.
[4] - Nguyễn Thị Chân Quỳnh: "Bà Nguyễn thị Du, vị nữ Trạng nguyên độc nhất của ta sinh năm nào ?", "Lối Xưa Xe Ngựa...", tập I.
[5] - Xem Phần Một, tr 17-18.
[6] - Nguyễn Tường Phượng: Tri Tân, số 79, 7 Janv. 1943, tr 10
[7] - Lãng nhân: Giai thoại làng nho toàn tập, tr 662.
[8] - Đại Nam Thực Lục ,VI, tr 33-4.
[9] - Có lẽ Quốc Triều Đăng Khoa Lục, tr 250, đã chép sai, phải là "10 đề Kinh nghĩa" mới hợp lý.
[10] - Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, XIX, tr 66.
[11] - Lịch Triều Tạp Kỷ, II, 197.
[12] - Bút nghiên, tr 216, 239.
[13] - Khai Trí Tién Đức, tr 50.
[14] - Những Thắng tích của xứ Thanh, tr 64-66.
[15] - Lãng Nhân, tr 275.
[16] - Vũ Ngọc Khánh, Giai thoại các vị Đại khoa Việt Nam, tr 56, 358-60,
[17] - Phạm Đình Hổ, Vũ Trung Tùy Bút, tr 110.
[18] - "Tư" : xét công trạng các quan, theo tư cách chia ra nhiều "tư" , bạch đinh và vệ sĩ không có "tư". Nước ta, triều Lê, các quan có 24 tư. Cao nhất là Quốc công, 24 tư. [Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, tr 5, 42].
[19] -  Đặng Hữu Thụ, Làng Hành ̀Thiện và các nhà Nho làng HànhThiện, tr 256-262.
[20] - Nam Phong số 19, 1/11919, tr 1-16.
[21] - Nam Phong số 21, 3/1919, tr 242.
[22] -  Theo Trần văn Giáp và sửa theo Cao Xuân Dục,
Kết
Bia Tiến sĩ và giếng Thiên Quang
Du khách khi được hướng dẫn đi tham quan "chớp nhoáng" Văn Miếu Hà Nội không dễ gì nắm bắt được ngay cái tinh thần biệt lập của VM Hà nội, cái dụng tâm kín đáo của kiến trúc sư, so với các các di tích lịch sử khác của Việt Nam hay so với các VM của Trung Quốc, Đài Loan...
Du khách Phạm Xuân Đài khác ở chỗ đã dành nhiều thì giờ hơn để quan sát, suy ngẫm, nhận định giá trị VM Hà Nội trên một bình diện khá đặc biệt. Tuy không phải người Hà Nội nhưng Phạm Xuân Đài có những nhận xét về VM Hà Nội tinh tế và độc đáo hơn nhiều người Hà Nội "chính cống" :
"Di tích Huế chỉ mới như một kẻ vào độ tráng niên trong khi Văn Miếu là một cụ già thông thái và hiền từ, râu tóc bạc phơ, đang mỉm cười với con cháu. Bước vào cổng tam quan đi dưới bóng cây cổ thụ um tùm, qua một lớp thành nữa, rồi ̣đến hồ, bia đá và rùa đá sắp hàng rồi một lần cổng, rồi sân đá rộng thênh thang, rồi đền thờ, cứ vào, vào mãi như đi vào cái hun hút của lịch sử, như lần đến vùng thông tuệ của tiền nhân. Nói dân tộc Việt Nam là dân tộc có văn hiến là điều rất trừu tượng, nhưng đi vào Văn Miếu thì tức là đắm mình vào và hút thở chính cái văn hiến ấy. Tôi nghĩ không riêng gì người Việt Nam mà cả người ngoại quốc cũng có thể cảm thông điều ấy khi đi vào đây [...] Những nơi thật sự biểu hiệu cho một nền văn hóa và văn minh cao đều có thể gợi cho tất cả những con người văn minh trên quả đất này cảm tưởng bắt gặp một cái gì đó quen thuộc, thuộc vào một kho chung của nhân loại. Những con rùa đá kiên nhẫn đội những cái bia Tiến sĩ hàng ngàn năm để làm chứng rằng vào năm mão tháng mão của một triều đại có những con người vươn tới bậc thang cao nhất của trí thức vào thời đó...". [Phạm Xuân Đài, Hà Nội trong mắt tôi, tr 25].
Một tác phẩm nghệ thuật có thể được tiếp cận, thẩm định từ nhiều góc độ khác nhau. VM Hà Nội không chỉ là một di tích lịch sử mà là một tác phẩm nghệ thuật kiến trúc công phu, thoáng nhìn tưởng lả một cảnh trang trí cho đẹp mắt : mấy con phượng chụm đuôi thành bông sen trên đầu cột, cảnh "cá chép vượt Vũ Môn" trên nóc Đại Trung Môn... đều kín đáo biểu trưng những dụng ý thâm sâu về KT hay Khổng giáo.
Không thiếu gì người viết về VM Hà Nội, mỗi người một vẻ : Đỗ văn Ninh đã đề cập khá tỉ mỉ về nghệ thuật kiến trúc cổ với những hàng cột, cửa bức bàn, cổng tam quan, Khuê Văn Các... Ngô Đức Thọ đặt trọng tâm vào Bia Tiến sĩ... Trần Hàm Tấn viết rất cặn kẽ về mặt lịch sử... song đề tài VM Hà Nội vẫn còn có thể khai thác được.
Văn Miếu Hà Nội được xây dựng từ năm 1070, trải bao lần tu sửa nay hầu như không còn giữ được vết tích ban đầu tuy vẫn nằm ở địa điểm cũ. QTG sau lưng VM thì biến mất trừ cái tên, KC cũng không còn. VM là di sản tinh thần của quá khứ duy nhất tồn tại và sẽ được chuyển giao cho thế hệ mai sau. VM là di sản văn hóa một thời của Việt Nam, bắt nguồn từ văn hóa Trung quốc và đã chuyển hóa dần cho thích nghi theo tâm hồn Việt Nam bình dị. Uống nước nhớ nguồn,
Việt Nam đã lập VM để thờ Khổng Tử để tỏ lòng sùng kính, biết ơn.
Khổng giáo giữ một vai trò thiết yếu trong lịch sử văn hóa không riêng ở Trung quốc và Việt Nam mà cả ở Cao Ly [Hàn quốc, Triều Tiên] và Nhật Bản. Chúng ta quen gọi là VM nên hầu như quên vai trò quan tṛọng của Khổng Tử và Khổng giao trong khi Trung quốc, Đài Loan đều gọi là "Miếu Khổng Tử" biểu lộ ý nghĩa rõ rệt hơn.
Một số người không tìm hiểu đã hấp tấp chê Khổng giáo là cổ hủ, lỗi thời, thậm chí còn nói " nhân, nghĩa, lễ, trí, tín đều vứt đi" nhưng nếu hỏi giao kết bạn bè mà gập người bất nhân, vô lễ, thất tín... liệu có thể tiếp tục thân thiện được mãi không thì cười trừ.
Tất nhiên khi du khách đi xem VM dù có thấy bàn thờ KT cũng không thể biết có sự liên hệ mật thiết giữa VM, QTG và KC bởi những "chứng tích" thể hiện trong VM quá kín đáo, thầm lặng nên không mấy ai lưu ý.
VM trân trọng dành khu trung tâm -xưa là khu giữa, nay là khu 4- để đặt bàn thờ Khổng Tử là đã biểu lộ rõ sự tôn trọng KT. Lối kiến trúc và trang trí VM cũng có nhắc nhở ta mối liên hệ giữa KT, QTG và KC song chúng ta vô tình lướt qua nên không nhận ra chỗ dụng tâm kín đáo của Kiến trúc sư. Con đường dẫn từ VM Môn [khu 1]đến Đại Thành Môn [khu 4] tượng trưng cho con đường học đạo của Nho sĩ từ khi nhập môn đến khi thành đạt. Và khu 3, nổi bật là 82 bia Tiến sĩ, biểu hiệu trưng sự thành công của Nho gia.
Đại Thành Môn là "Sự thành đạt lớn" thuộc khu 4 là nơi chọn đặt bàn thờ KT, Vạn Thế Sư Biểu. Bia Tiến sĩ bầy ở khu 3 vì tuy thi đỗ ông Nghè đáng kể là thành công nhưng chưa hẳn là "Đại Thành".
Theo Huỳnh Thúc Kháng thì lúc đầu VM thờ cả Nho lẫn Thích, sau mới thờ riêng KT. Có thể lúc đầu là thời kỳ Tam giáo đồng tồn dưới các triều Lý, Trần mà các sử gia thường ca tụng. Thật ra thì ngay từ nhà Trần Nho giáo đã bắt đầu thịnh hành và Phật giáo. Đạo giáo mất dần ảnh hưởng, tới nhà Hậu Lê Nho giáo hầu như độc tôn, lấn át đạo Phật và đạo Lão nên trong VM chỉ còn thờ riêng KT. Cứ xem những đề mục thi Văn sách thời nhà Lê thì thấy có những câu hỏi ngụ ý chỉ trích, chê bai đạo Phật, đạo Lão không phải là "Chính đạo" [đạo Nho].
So với đạo Phật, đạo Lão thì đạo Khổng hướng về đời sống thực tế của xã hội nhiều hơn. Các Nho gia đã hấp thụ giáo lý đạo Khổng, dứt khoát coi rẻ đạo Lão, đạo Phật. Khi Hán học suy, đến lượt Khổng giáo bị hạ bệ, rẻ rúng, nhường chỗ cho văn minh Tây phương, trọng Trí dục, Thể dục mà có phần sao nhãng Đức dục.
Chính giáo có lúc hay lúc dở, thế đạo có khi thịnh khi suy.
Khổng giáo từng được tôn trọng hàng ngàn năm nhưng, cũng như các học thuyết khác từ xưa tới nay, không thể trường tồn.
Nho giáo bị hạ bệ một phần vì chỉ coi trọng ghuyện lập Đức, Tăy phương cường thịnh, thiên về đời sống vật chất. Một bên trọng Trí dục, một bên trọng Đức dục, một bên hướng ngoại, một bên hướng nội, đôi bên đều có sở trường và sở đoản, về lâu về dài chưa hẳn đã bên nào ăn đứt bên nào. Nhưng nếu chỉ quan sát trong một khoảng thời gian thỉ Khổng học đã phải nhường bước cho văn minh Âu Mỹ với những phát minh tiến bộ không ngừng về Khoa học, Y học... Đã có một thời Âu châu xưng hùng xưng bá nhưng ngày nay Âu châu đã thânh lạc hậu so với Mỹ... Sự hùng cường của các nước ấy không phải là không xác đáng nhưng mặt trái của những phát minh tiến bộ, mới lạ không phải là không đáng ngại. Chưa biết tương lai sẽ dành cho chúng ta những gì. E rầng cũng như anh học làm phù thủy, biết bật cho máy chạy nhưng chưa biết cách hãm máy lại.
Văn Miếu Hà Nội chỉ là chứng tích một nền văn minh cổ xưa của nước ta, nhưng là di sản của non một thế kỷ tự trị ông cha ta đã cố công gìn giữ mặc dầu đã bao lần bị ngoại xâm. Cái văn hóa trọng phẩm cách con người, ưa hòa bình đến nhẫn nhục có nhiều khuyết ̣điểm, lạc hậu, nhưng không phải là hoàn toàn vô giá trị để chúng ta quay lưng lại.
SÁCH THAM KHảO
BOISSIÈRES, Jules : Examens triennaux à Nam Định, 1894.
BÙI HẠNH CẨN: Lê Quý Đôn. Hà Nội : Văn Hóa, 1985.
CHU THIÊN: Bút Nghiên. Saigon: Đồ Chiểu tái bản, 1968.
CAO XUÂN DụC: Quốc Triều Hương Khoa Lục. Nhà xuất bản TPHCM, 1993. Dịch giả Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm.
CAO XUÂN DụC: Quốc Triều Đăng Khoa Lục. Saigon: Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1962. Dịch giả Lê Mạnh Liêu.
ĐẶNG HữU THụ: Làng Hành Thiện và các nhà Nho làng Hành Thiện triều Nguyễn. Paris, 1992.
ĐÀO DUY ANH: Trung Hoa Sử Cương.Huế: 1938 ; Saigon: Bốn Phương tái bản, 1961 ; Paris: Đông Nam Á tái bản, 1985 ; Hà Nội, 1991.
ĐỖ VÂN NINH: Văn bia Quốc Tử Giám Thăng Long-Hà Nội. Hà Nội: Thanh Niên, 2010.
FOX, Diane: "Une visite au Temple de la Littérature de Hanoi". Etudes Vietnamiennes, No 4, 2007.
HOA BẰNG: "Tài liệu tham khảo về Văn Miếu [Quốc Tử Giám]Hà Nội" trích in trong Đỗ Văn Ninh : Văn Miếu-Quốc Tử GiámThăng Long-Hà nội, tr 510-534.
HOÀNG NGHĨA NAM: Đêm Văn Miếu [Google].
HOÀNG XUÂN HÃN: La Sơn Phu Tử. Paris: Minh Tân, 1951 ? , Viet Nam Diffusion tái bản, 1983.
HUỲNH THÚC KHÁNG [Minh Viên]: Lối học Khoa cử và lối học của Tống Nho có ph̉ải là học đạo Khổng, Mạnh không ?" trích in trong Phan Bội Châu Khổng Học Đăng, tr 774-787.
HƯƠNG NAO: Những thắng tích của xứ Thanh. Hà Nội: Giáo Dục, 1997.
LÃNG NHÂN: Giai Thoại Làng Nho Toàn Tập. Saigon: Nam Chi Tùng Thư, 1966. Tái bản ở Mỹ, không đề năm và tên nhà xuất bản.
LÊ QÚY ĐÔN: Kiến Văn Tiểu Lục. Hà Nội: KHXH, 1977. Phạm Trọng Điềm dịch và chú thích.
LÊ TẮC: An Nam Chí Lược. Huế: Viện Đại Học Huế, ủy ban phiên dịch Sử liệu Việt Nam, 1961.
LÊ XUÂN GIÁO: "Tưởng niệm Đại thi hào Nguyễn Du". Tập San Văn Hiến.
NGÔ ĐứC THỌ chủ biên: Văn Miếu-Quốc Tử Giám và 82 bia Tiến sĩ. Hà Nội: Trung Tâm Hoạt Động Văn Hóa Khoa Học tái bản lần thứ nhất, 2007.
NGÔ SĨ LIÊN: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 4 tập. Hà Nội: KHXH, 1967-73. Dịch giả Cao Huy Giu.
NGÔ TẤT TỐ: Lều Chõng. Hà Nội: Văn Học tái bản, 1963.
NGÔ THÌ SĨ: Việt Sử Tiêu Án. San José: Văn Sử tái bản, 1991.
NGUYỄN HOÀNG DIệP chủ biên: Các vị Tư nghiệp và Tế tửu Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội. Hà Nội: Văn Hóa Thông Tin, 2010.
NGUYỄN ̉THị CHÂN QUỲNH: "Tinh Phi, Chiêu Nghi, Lễ Sư, Diệu Huyền, Bà Nguyễn Thị Du, Vị Nữ Trạng Nguyên độc nhất của ta sinh năm nào ?", "Lối Xưa Xe Ngựa...", Tập I, Paris: An Tiêm, 1995 ; TPHCM: Văn Nghệ và Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, 2000.
NGUYỄN THị CHÂN QUỲNH: Khoa Cử Việt Nam, Tập Thượng, THI HƯƠNG. Paris : An Tiêm, 2002 ; TPHCM: Văn Học và Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, 2003.
NGUYỄN THị CHÂN QUỲNH: Khoa Cử Việt Nam, Tập Hạ, THI HỘI-THI ĐÌNH. TPHCM: Văn Học và Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, 2007.
NGUYỄN TRIệU LUẬT: Bốn con yêu và hai ông Đồ. Hà Nội: Tân Dân, 1943 ; Saigon: Bốn Phương, 1955 ; Đại Nam tái bản ở Mỹ.
PHẠM ĐÌNH HỔ: Vũ Trung Tùy Bút. Hà Nội: Văn Học, 1972 ; Paris: Đông Nam Á tái bản, 1985. Dịch giả Nguyễn Hữu Tiến.
PHẠM ĐÌNH HỔ và NGUYỄN ÁN: Tang Thương Ngẫu Lục. Saigon: Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1962 ; Đại Nam tái bản ở Mỹ. Dịch giả Đạm Nguyên.
PHẠM XUÂN ĐÀI: Hà Nội trong mắt tôi.Westminster, CA: Thế Kỷ, 1994.
PHAN BỘI CHÂU: Việt Nam Quốc Sử Khảo. Hà Nội: Giáo Dục, 1962.
PHAN BỘI CHÂU: Khổng Học Đăng. Xuân Thu tái bản ở Mỹ.
PHAN HUY CHÚ: Lịch Triều Hiến Chương, Nhân Vật Chí. Tổ Biên dịch Viện Sử Học Hà Nội. Hà Nội: Sử Học, 1960.
PHAN HUY CHÚ: Lịch Triều Hiến Chương, Khoa Mục Chí. Hà Nội: Sử Học, 1961.
PHAN THÚC TRỰC: Quốc Sử Di Biên. Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hóa xuất bản, 1973. Dịch giả Lê Xuân Giáo.
TÔ HOÀI: Chiều Chiều. Hà Nội: Hội Nhà Văn, 1999.
TRẦN HÀM TẤN: "Etudes sur le Văn Miếu",Bulletin de l’ Ecole Française d’ Extrême Orient. 1951, No 45, pp. 89-118.
TRẦN TIẾN: Đăng Khoa Lục Sưu Giảng. Saigon: Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu, 1968. Dịch giả Đạm Nguyên.
TRẦN TRỌNG KIM: Việt Nam Sử Lược. Saigon: Tân Việt tái bản 1954 ; Bộ Giáo Dục tái bản 1971 ; Sống Mới tái bản ở Mỹ.
TRƯƠNG CHÍNH: Thơ Văn Nguyễn Công Trứ. Hà Nội: Văn Học, 1983, tr 28.
VŨ NGỌC KHÁNH: Giai thoại các vị Đại khoa Việt Nam. Hà Nội: Thanh Niên, 2001.
KHÔNG ĐỀ TÊN TÁC GIẢ
Đại Nam Nhất Thống Chí, tập III, trang 196 [VM]. Hà Nội: KHXH, 1971.
Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên, tập III, tr 108 [Ngô Thì Nhậm]. Hả Nội: Sử Học, Khoa Học, KHXH kế tiếp nhau xuất bản từ 1962 đến 1978.
Khâm Đính Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Hà Nội: Văn Sử Địa, 1957. Tổ biên dịch: Phạm Trọng Điềm, Hoa Bằng, Trần Văn Giáp.
The stone stelae at the Temple of Literature. Hanoi: Thế Giới Publishers, 1993.
Văn Miếu-Quốc Tử Giám - Le Temple de la Littérature. Hanoi: Editions Thế Giới, 1995.
1/2016
Nguyễn Thị Chân Quỳnh
Theo http://chimviet.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...