Thứ Ba, 30 tháng 8, 2022

Nguyễn Thị Manh Manh (1914-?)XXXX

Nguyễn Thị Manh Manh (1914-?)

Nguyễn Thị Manh Manh là biệt hiệu, nữ sĩ thường ký tắt là Manh Manh, tên thật là Nguyễn Thị Kiêm, sinh năm 1914 tại tỉnh Gò Công (Nam phần). Con của một công chức, tri huyện Nguyễn Đình Trị, tục danh Huyện Trị; ông cũng là một cây bút trong làng báo lúc bấy giờ.
Thuở nhỏ nữ sĩ Manh Manh học ở trường Áo Tím, tức trường Gia Long ngày nay. Sau khi tốt nghiệp bằng Thành chung, gặp ngay những nhát búa đầu tiên của ông Phan Khôi khai sơn phá thạch cho nền thơ mới; lúc bấy giờ nữ sĩ là phóng viên của một tờ báo ở Sài Gòn, một mặt cổ võ cho thơ mới và sáng tác theo lối thơ phá thể, một mặt gây phong trào Nữ lưu và Văn học, đánh thức giới phụ nữ, khơi động nguồn máu văn học của các bà Đoàn Thị Điểm, bà Huyện Thanh Quan v.v...
Hòa nhịp, ta phải kể thêm nữ chiến sĩ, bà Phan Văn Gia, đứng lên đòi giải phóng phụ nữ, đòi nam nữ bình quyền. Lại nữa, cô Bùi Thị Út với thiện chí cải tạo con người phụ nữ từ bấy lâu quan niệm phải ẻo lả, mảnh mai, cô hô hào phong trào Phụ nữ Thể dục.
Đây, ta có thể coi như một thời kỳ (từ 1932), những con người từ chốn buồng the đứng ra làm một cuộc cách mạng toàn diện mà nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh đã đóng góp không nhỏ vào văn học nước nhà.
Sau cuộc khởi nghĩa 1945, khoảng 1950, nữ sĩ sang Pháp rồi không nghe tin tức gì cho đến ngày nay.
***
Giữa lúc đô thành Sài Gòn đang sống trong khung cảnh trầm lặng, đột nhiên xuất hiện trên tạp chí Phụ nữ tân văn số 122 ngày 10-3-1932, một bài thơ mới đầu tiên mang tên Tình già với lời giới thiệu của nhà " sáng tạo " Phan Khôi như sau : " Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ " . Lúc bấy giờ là thời kỳ hưng thịnh của báo Phụ nữ tân văn nên sức truyền bá rất rộng rãi. Sau đấy, độc giả khắp ba kỳ lại biết thêm bài thơ mới thứ hai Trên đường đời ( ký Lưu Trọng Lư ) và thứ ba là Vắng khách thơ ( ký Thanh Tâm nhưng cũng là Lưu Trọng Lư ).
Sau hai bài thơ mới đầu tiên ra đời, kế tiếp là những thi bản của nữ sĩ Manh Manh, thi sĩ Hồ Văn Hảo v.v...
Lược qua, ta thấytrong hồi dậy men của nền thơ mới, nữ sĩ Manh Manh là người đàn bà đầu tiên đáp ứng tiếng gọi đàn của nhà tiên phong Phan Khôi. Nữ sĩ hết đăng thơ, viết bài, lại đăng đàn diễn thuyết hô hào phong trào thơ mới. Sự cổ võ nồng nhiệt của nữ sĩ Manh Manh, Hoài Thanh đã không ngần ngại viết :
" Từ hai tháng trước, hôm 26 juillet 1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn Hội Khuyến học Sài Gòn thành lập đến bấy giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng là lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết được đông người nghe như thế ".
Trong cuộc diễn thuyết này Nguyễn Thị Manh Manh có trưng ra làm điển hình bài thơ mới đầu tiên của cô như sau :
Canh tàn
Em ơi, nghe lóng nghe
Gió đêm thoáng qua cửa ...
Lụn tàn một góc lửa,
Lạnh ngắt chốn buồng the.
Gió đêm thoáng qua cửa ...
Não dạ dế tỉ te
Lạnh ngắt chốn buồng the ...
Em ơi, khêu chút lửa.
Não dạ dế tỉ te
Gió ru " ... thiết chi nữa ... "
Em ơi, khêu chút lửa
Rồi lại ngồi đây nghe.
Gió ru " ... thiết chi nữa ... "
Sụt sùi mấy cành tre
Em ngồi đây có nghe
Tơ lòng chi đứt nữa.
(Trích trong bài diễn thuyết tại Hội Khuyến học Sài Gòn ngày 26-7-1933)
*
Nối gót là những diễn giả trong nước, các ông Lưu Trọng Lư, Đỗ Đình Vượng, Vũ Đình Liên, Trương Tửu tổ chức những cuộc diễn thuyết với mục đích bênh vực lập trường thơ mới. Người chiến sĩ trẻ tuổi của chúng ta, cô Nguyễn Thị Kiêm hay nữ sĩ Manh Manh còn hăng say trong cuộc diễn thuyết tranh luận với ông Nguyễn Văn Hanh ( phái thơ cũ ) tại Hội Khuyến học Sài Gòn ngày 9-1-1935.
Thơ mới, chẳng những do cách phá thể đã làm long lở khuôn sáo xưa, mà con gieo tư tưởng lãng mạn, bộc bạch quá lộ liễu nỗi lòng khao khát yêu đương mà bao thế kỷ nay người ta cố phong nhẹm trong thi ca. Vì thế, thơ mới vừa tượng hình liền va chạm ngay sức đề kháng mãnh liệt của phái thơ cũ.
Đã phải xốn xang như bị đinh châm chọc vào mắt khi đọc bài Tình giaø của Phan Khôi, lại còn gặp Viếng phòng vắng của nữ sĩ Manh Manh, dưới nhan đề còn chua thêm trong dấu ngoặc : " Một lối thơ mới " (nghĩa là còn hứa hẹn nhiều lối nữa ) đã khiến phái thơ cũ lồng lộn điên tiết trước những dòng phá thể của một người con gái :
 
Gió lọt phòng không
Tạt hơi đông
Lạnh như đồng
Ngồi mơ tưởng
Ngày xưa phất phưởng
Dấy động tơ lòng ...
...
Gió lọt phòng không
Tạt hơi đông
Lạnh như đồng
Ngồi tơ tưởng
Tình xưa phất phưởng
Ấm dịu cõi lòng ... (1)
(1) Các bạn lưu ý đến điệu thơ và cách trình bày
Cũng như bài Tình già của Phan Khôi, Trên đường đời của Lưu Trọng Lư, những thi bản " sơ sinh " của nữ sĩ Manh Manh, ta có thể coi như những phát minh cơ khí hồi thế kỷ XIX. Nền thơ mới cũng đã trải qua bao cuộc chống đối cam go, chẳng khác nào chiếc xe hơi cổ lỗ đầu tiên đã bị xem như một quái vật kinh khủng khiến thiên hạ phải hốt hoảng chạy trốn hoặc như số phận chiếc tầu thủy đã bị những chú lái chèo đò ganh tức vì quyền lợi bị chạm, nên đập phá tan tành một sáng kiến và công trình khoa học. Cái tác dụng của phát minh không phải ở sự hữu dụng cấp thời của nó, mà là sự đặt để viên gạch đầu tiên cho một nền tảng.
Cứ thế, phong trào thơ mới bành trướng nhanh chóng trong toàn quốc, và được các cơ quan ngôn luận nhiệt liệt ủng hộ. Những thi tài mới lạ xuất hiện, cấu tạo những vần thơ theo thể điệu tân kỳ, lời thơ như từ ở một tư thế đang bị nén ép, bỗng vun vút bay tuyệt mù lên bầu trời bao la của những tâm hồn vừa giải thoát. Nó là một khúc quanh bừng chói nhất trong lịch sử văn học nước nhà.
Chúng ta ngày nay nhìn lại việc qua, giữa cái cũ kỹ từ nghìn đời sừng sững như cổ thành kiên cố; thế mà, bỗng chốc, một Phan Khôi táo bạo nổ phát súng cách mạng thi ca; người nữ chiến sĩ tiền phong anh dũng và hăng say hoạt động để bảo vệ và củng cố nền tảng thơ mới bén rễ và sống mạnh, ta phải kể Nguyễn Thị Manh Manh, một tay đã đóng góp công lao không nhỏ cho nền văn học đất nước.
TÁC PHẨM”
Nữ lưu và văn học

Dưới tựa đề :
" Cô Nguyễn Thị Kiêm nói về vấn đề Nữ-lưu và Văn-học "
Báo Phụ nữ tân văn năm thứ tư số 131, ngày 26-5-1932 đăng bài diễn thuyết của nữ sĩ Manh Manh ( biệt hiệu của Nguyễn Thị Kiêm ) như sau:

Thưa quí ông, quí bà,
Thưa các chị em.
Báo Phụ nữ tân văn số mùa Xuân có dự tính làm ba việc :
1 ) Tổ chức công việc Hội Dục-anh.
2) Tổ chức một cuộc Hội-chợ Phụ-nữ.
3) Mở một Nữ-lưu Học-hội.
Trong ba điều dự tính đó, có hai điều đã thiệt hành. Hội-chợ Phụ-nữ nay đã mở cửa. Tiền thâu được giúp vào cho sự tiến hành của Hội Dục-anh. Và hồi hôm này, về vấn đề dục anh cũng đã có chị em bạn gái ra diễn thuyết ở đây nữa.
Vậy còn Nữ-lưu Học-hội bao giờ mới ra đời ?
Việc đó cũng như việc trên, không phải riêng của Phụ nữ Tân văn mà là chung của Nữ-lưu Nam-Việt, thì tưởng cũng nên nhân cơ hội này, đem ra nói chuyện với hết thảy chị em trong nước có mặt ở đây.
Câu chuyện đã khó mà nói ra lại khó hơn. Nói ra ở lúc nào, chỗ nào, còn dễ, mà nói ra ở lúc này, chỗ này, thiệt là khó quá.
Tài sơ, trí thiểu và lời ăn nói vụng về như tôi, thật lấy làm e lệ mà bước lên diễn đàn và cũng lấy làm áy náy, sẽ không khỏi để phụ lòng quí ông, quí bà và hết thảy các chị em.
Nói chuyện về Nữ-lưu Học-hội tức là muốn nói chuyện phụ nữ với văn chương. Nếu cho Nữ-lưu Học-hội là cần ích thì cũng phải cho đàn bà là có mật thiết quan hệ đến văn chương nước nhà.
Sự quan hệ đó, tôi muốn nói rõ ở bài này. Tôi lại còn muốn xét ra cái địa vị của đàn bà trong văn học cổ kiêm, nói về cái công dụng của Nữ-lưu đối với tinh thần trí thức của loài người, giả thuyết như được cùng chị em trong nước đương hội hiệp nhau ở nhà Nữ-lưu Học-hội mà chung vui câu chuyện văn chương.
Phàm văn học nước nào cũng đều có thể chia ra làm hai phần, phần khách quan và phần chủ quan (littérature objective et littérature subjective).
Cái văn học khách quan thường thiên về triết lý với khoa học. Cái văn học chủ quan thường trọng về mỹ thuật với thi ca. Một đàng nhờ cái tư tưởng nhơn sanh mà có, một đàng do ở cái tình cảm nhân loại mà ra.
Theo lẽ sinh lý, thì đàn bà thường nặng về phần hồn và nhẹ về phần trí, cảm tình thì sâu mà tư tưởng thì hẹp nên trong văn học thường sở trường về lối tả cảnh, đạo tình mà ít hay về lối khách quan triết lý.
Đem cặp mắt tinh thần mà thưởng thức đến những kỳ quan, thắng cảnh của thiên nhiên vũ trụ, đem khối tình thâm thiết mà hòa theo với những nỗi cay, đắng, bi, thương của nhân loại thế gian, đố ai nói được rằng đàn bà phải thua sút đàn ông về chỗ đó.
Đã sẵn có cặp mắt tinh thần ấy, đã có sẵn khối tình thâm thiết ấy, mà lại có văn tài đủ hình dung được những cảnh mình coi, đủ tả diễn được những tình mình cảm, thì khó gì mà chẳng thành nên được những công trình tuyệt xảo về mỹ thuật, văn chương.
Thử đọc bài thi Vịnh Đèo Ngang của bà Huyện Thanh-Quan :
Qua đỉnh Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc.
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân ngảnh lại trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
thì ta phải công nhận là một bài thi tả cảnh thiệt hay, phải có tinh thần mỹ thuật mới chụp được hết những cái cảnh sắc thiên nhiên, mà lại cũng phải có tâm hồn thi sĩ mới cảm thấy được những mối kỳ tình cao tứ.
Lại thử đọc một đoạn văn sau này trong bài Giọt lệ thu của nữ sĩ Tương-Phố đã thấy đăng trên tạp chí Nam phong.
Thu về đẹp lứa duyên Ngâu,
Năm năm ô thước bắc cầu Ngân-giang
Đôi ta ân ái lỡ làng,
Giữa đường sinh tử đoạn trường chia hai.
Anh vui non nước tuyền đài,
Cõi trần hương lửa thương ai lạnh lùng.
Nhân gian khuất nẻo non bồng,
Trăm năm não kiếp tấm lòng bơ vơ ...
thì ta sẽ thấy thiệt là tình thâm, giọng thiết, phi ngọn bút đàn bà không lấy đâu được lời văn thống thiết như thế, và nếu không phải là đàn bà về hạng cao đẳng ( femme supérieure ) thì cũng không lấy đâu được cái tình cảm nặng nề như kia.
Hoặc có kẻ nói : bài văn tả cảnh chỉ là một cái đồ chơi tỉ tỉ của khách nhàn cư, mà lời thơ đạo tình nhắm cũng chẳng ích gì cho nhơn tâm thế đạo.
Nói vậy thì những bài thi tả cảnh của Lamartine sau có người dám đem mà so sánh với những bài văn triết lý của Descartes mà những giọt lệ nên thơ của Musset sao có người dám đề trên những thiên hùng văn đại luận của Voltaire ?
Không. Nếu cái óc ta cần phải làm bạn với những cái tư tưởng cao siêu thì cái hồn ta cũng cần phải tiêu dao với những cái công trình mỹ thuật. Nếu cái phần trí thức ta cần phải trau giồi cho được sung túc phong phú, thì cái khối tình cảm ta cũng cần phải bổ dưỡng cho được thâm thiết trứ minh.
Vả, một giọt nước mắt của kẻ đa tình, một tiếng thở dài của người mạng bạc, nếu ta biết nó từ đâu mà có, lại thật rõ trong cái tâm sự của kẻ đoạn trường thì đều có thể bổ ích được như mấy thiên khảo cứu của những nhà triết học vậy.
Nếu văn học khách quan có thể làm cho ta khôn người ra thì cái văn học chủ quan lại khiến ta được biết mình hơn.
Thấy người vui mà xét đến nỗi vui của ta, thấy người buồn mà xét đến nỗi buồn của ta, thấy người xót xa đau khổ mà xét đến những chỗ đau khổ xót xa của ta, thì chẳng những ta được vừa lòng rằng đã có người cùng một tâm sự với ta, mà lại còn thỏa chí vì ta đã nhơn đấy mà tự biết thêm được các bổn ngã của ta nữa.
Một nhà Tây nho có nói : " Mỗi người ta đều có đem theo một cuốn sách nhơn loại ( livre de l'humanité ).
Cuốn sách đó ở đàn ông thường vì cái khuynh hướng về khách quan, mà bị bỏ quên hoặc để mất. Song đàn bà vốn nặng về chủ quan, nên không hề chẳng nhận thấy cái kho tàng quí báu ấy của mình.
Những của cải tích trữ ở trong cái kho tàng đó, nếu có thể phân phát ra bằng ngọn bút đường văn, thì cái văn ấy là cái hình ảnh của nỗi lòng, khi thường, khi biến, lúc an, lúc nguy, tùy theo với sự kích thích của ngoại cảnh mà thăng trầm, mà theo với cái ca điệu của thiên nhiên mà họa vận.
Nhưng nếu không có văn tài đủ tả diễn nó ra thì cũng có thể gây lấy ảnh hưởng tới những văn nhơn tao sĩ, mà hoặc truyền thọ cái nguồn thi ca của mình, hoặc phát sanh cái kho tình cảm cho người để gián tiếp giúp vào cho văn học.
Cái công việc trực tiếp của đàn bà, đối với văn học thì từ xưa tới nay ta đã thấy nhiều, thấy bà Thị Điểm, thấy bà Thanh-Quan, thấy bà Sévigné, thấy bà Starl, v.v... mỗi bà đều có thêm chương, thêm tiết vào cho cuốn sách nhơn loại, càng ngày càng được hoàn toàn thêm lên, được phong phú thêm ra, cho cái tâm giới minh mông bát ngát của người đời đã phải theo vết chơn nhà thám hiểm mà lần lần cũng được khám phá như cái thế giới hữu hình của ta vậy.
Còn công việc gián tiếp đàn bà đối với văn học thì trong lịch sử cũng đã từng có nói : nói Pascal đã chịu ảnh hưởng của cô em Jacqueline mà làm ra tập Tư tưởng ( Les Pensées ); lại nói Chateaubriand đãõ chịu ảnh hưởng của bà chị Lucile mà làm ra bộ Tinh thần đạo Cơ-đốc ( Génie du Christianisme ).
Còn nào là nhà bác học Ernest Renan đã nhờ sự un đúc của bà chị Henriette mà làm ra cuốn sách Đời Chúa Giê-su ( Vie de Jésus ) là một công trình tuyệt xảo của tư tưởng loài người, cũng là nhà văn hào. Jean Jacques Rousseau đã nhơn sự cảm hóa của Warens phu nhơn mà khai đạo ra cái văn mạch lãng mạn của nước Pháp ... kể sao cho xiết.
Ta vẫn thường có câu Nhi nữ tạo anh hùng, mà những văn nhơn tao sĩ tức cũng là những anh hùng ở trong tinh thần giới và tư tưởng giới của nhơn loại. Những bực anh hùng này nguyên bản chất đã có chỗ khác người, mà chỉ vì trần ai vắng mặt tri kỷ nên thường khi không biết tự mình phát minh được những cái thiên tài của mình.
Ở nước Anh, về thế kỷ thứ 19, có một nhà bác học là Stuart Mill, thông minh sớm, học vấn nhiều. Ba tuổi đã biết tiếng Hy-lạp. Tám tuổi đã thông chữ La-tinh. Mười hai tuổi đã khảo về triết học và kinh tế. Mười lăm tuổi đã lãnh hội được hết thảy những trí thức của nhơn loại cổ kim.
Nhưng tới năm hai mươi tuổi thì điên. Sự điên này, người thì cho là bởi quá dùng sức của tinh thần mà kẻ lại nói bởi thiếu đồ ăn cho tình cảm.
Sau ông gặp một nhà nữ sĩ là Taylor phu nhơn. Ông thương bà, rồi ông cưới bà. Từ đó ông hết điên và làm ra được nhiều sách rất có giá trị tới nay còn nhiều người nói đến.
Sau khi bà Taylor chết, trên bài tựa một cuốn sách của ông, ông có viết mấy hàng để kính tặng cái hương hồn của bà, xin dịch ra sau đây:
" Quyển sách nầy là để kính tặng cái hương hồn một người vừa dự phần cảm hóa lại vừa giữ việc trứ tác trong những chỗ đặc sắc nhứt ở các công trình văn nghiệp của tôi, tức là cái hương hồn của người vừa là nữ lưu (amie) vừa là hiền thê, mà tôi đã được thừa hưởng, biết bao nhiêu những lời khuyến khích phấn khởi, cùng những ý kiến biểu tình mà tôi đã coi như những phần thưởng đích đáng vậy. Từ mấy năm nay những cái gì tôi đã viết ra, tức vừa là ở công tôi, vừa là ở công nàng.
" Nhưng quyển sách này mà tôi đã xuất bản ra đây, không được nàng coi lại như lòng tôi sở nguyện, thiệt đã khiến cho nhiều chỗ quan trọng cần phải phủ chánh mà không được nàng ở lại để phủ chánh lại cho.
" Nếu tôi chỉ lấy nửa phần những cái tư tưởng quảng bác, những cái tánh tình cao siêu mà nàng đã đem đi mất, thì thế giới sẽ được hưởng thọ gấp mấy mươi chữ cái tôi viết bây giờ, chỉ riêng một mình độc lực mà không có cái tài trí độc nhứt, vô song của nàng bổ cứu vào cho ".
Coi như vậy thì cái địa vị của đàn bà ở trong văn học cũng không phải là thấp thỏi gì, theo như nhiều người đã tưởng. Và cái ảnh hưởng của đàn bà đối với những bậc văn nhân tao sĩ cũng rất là nặng nề thâm thiết, nhờ đó mà văn học phát đạt vô cùng.
Tuy nhiên, cái địa vị đó thường vẫn có nhiều người lấy làm bất mãn vì thấy nó cách biệt quá với cái địa vị của nam giới ở trên văn đàn. Và cái ảnh hưởng kia, lại có kẻ coi là không danh giá gì cho phụ nữ ở giữa đời văn minh khoa học.
Bởi vậy mà mới đây có sự cách mạng rất đáng chú ý ở làng văn nữ giới là sự nam hóa ( masculinisation ) nghĩa là sự đàn bà muốn hóa theo đàn ông. Sự nam hóa nầy là kết quả dĩ nhiên của cái phong trào nữ quyền ở thế giới.
Quyền lợi trong xã hội đã muốn hưởng ngang nhau thì địa vị trong văn học cũng không được cách vị. Đàn ông chê đàn bà không sở trường về lối khách quan nghị luận, đàn bà phải tỏ ra là có.
Mà đã muốn tỏ ra có tư cách khoa học, có tư tưởng triết học, biết nghị luận khách quan thì cái bổn ngã khác thế nào.
Có người cho sự nam hóa nầy là không có lợi cho văn học, vì nếu đàn bà mà hóa theo đàn ông cả, thì trong tư tưởng giới ( monde intellectuel ) không biết có thêm được gì không, mà trong tinh thần giới ( mond moral ) ta đã thấy sự thiệt thòi, cái kho trí thức của nhân loại không biết có tăng lên được bao nhiêu, mà cái nguồn tình cảm của nhân loại ta đành thấy ngưng trệ.
Riêng tôi, thì tôi không hề có bi quan về sự ấy.
Đàn bà muốn nam hóa thì cứ việc nam hóa, mà đâu có nam hóa được hết, và đâu có thể bỏ hẳn được cái bổn sắc của mình.
Nhà nữ khoa học sẽ làm cho khoa học nên thơ. Nhà nữ văn học sẽ làm cho tư tưởng thêm ngộ. Nhà nữ tác giả sẽ làm cho nghĩa lý thêm duyên. Mà rồi mỗi thể trong văn học ( genre littéraire ) sẽ đều có cái vẻ dịu dàng êm ái, cái vị phong phú, thanh tao của đàn bà có điểm chuyết vào cho.
Thử đọc qua văn học sử nước Pháp ngày nay, ta lại chẳng thấy những nhà nữ sĩ như Arvède Barine, Sévérine, Made de Searcey, v.v ... kẻ chuyên về sử học, người viết văn phê bình, kẻ đứng làm chủ báo ... phần nhiều đều được hoàn toàn đắc thể cả ư ?
Vả, bây giờ ta mới thấy ở văn học nữ lưu có phong trào nam hóa, mà từ trước đến nay, ở bên nam giới đã có bao nhiêu sự nữ hóa về văn chương ?
Ông Lamartine vì thương bạn gái mà làm nên được những bài thi tuyệt diệu, ông Alfred de Musset vì giận tri âm mà có được cái giọng điệu tiêu tao. Ở Hà-tiên có nhà văn sĩ Đông Hồ viết văn đã nhiều mà chỉ có bài văn khóc vợ là hay hơn hết cả. Ở Hà-nội có nhà thi sĩ Tản-Đà, thường phải giả thiết ra một người tình nhân không quen biết để lấy tứ làm thi.
Nay có cái phong trào nam hóa, không biết sự nữ hóa còn được ở trong văn học không. Hai việc đó xét ra không có gì là mâu thuẫn cả.
Đàn bà muốn học cái cứng cỏi của đàn ông cũng chưa bớt cái uyển chuyển của đàn bà. Đàn bà muốn có cái khách quan của đàn ông, thì đàn ông cũng vẫn mượn được cái chủ quan của đàn bà chớ sao ?
Nay xét đến sự nam hóa đó ở trong văn học nước nhà thì ta cũng đã thấy có nhiều cái hiện tượng khả quan.
Thấy các bà chủ thơ quán hô hào việc dân, việc nước, các bà chủ tân văn cổ động bình đẳng, bình quyền, các cô nữ tác giả, nữ trợ bút, kẻ kê cứu học thuật, người nghị luận văn chương, kẻ giữ việc khôi hài trên báo chí, người chuyên bàn đạo lý giữa văn đàn ... nhứt nhứt đều nhiệt thành nam hóa, công nhiên phản đối hẳn cái địa vị trước kia đàn bà ở văn học, mà tư tưởng, học thức, giáo dục, hành động đều muốn như bạn nam nhi để mưu lấy quyền lợi bình đẳng ở xã hội.
Lấy riêng về phương diện văn học mà nói thì cái phong trào nầy chính là một cái triệu chứng về sự tấn hóa của nữ lưu ở trên đường văn học.
Sự tấn hóa đó ta chưa thấy được mạnh mẽ, vì trong xã hội, ngoài những trường học công, tư, theo chương trình của nhà nước, thì chưa có cái cơ quan văn học nào của nữ lưu.
Đó là một sự thiếu sót mà chúng ta đều lấy làm phàn nàn, và chính cũng là một lẽ khiến cho chúng ta trông đợi có một vài nữ lưu học hội mở ra trong xã hội Việt-nam.
Đã đành, việc văn học không phải là việc chung của hết thảy mọi người, mà hễ có duyên nợ với văn chương thì cũng không cần phải có nữ lưu học hội mà mới phát triển được cái thiên tài thi cảm của mình.
Đối với những cái thiên tài xuất chúng, nữ lưu học hội có thể không là cần thiết; đối với những kẻ dung tục chí ngu, nữ lưu học hội có thể cho là đồ thừa.
Nhưng đối với những người như chúng tôi đây, ngu mà muốn học cho khôn, dốt mà muốn học cho giỏi, không biết mỹ thuật mà biết yêu mến mỹ thuật, không biết văn chương mà biết cảm mến văn chương, thì nữ lưu học hội thiệt là cần ích cho chúng tôi lắm.
Theo như lời tuyên ngôn trong số mùa Xuân của Phụ nữ tân văn thì học hội sẽ do một bọn phụ nữ lập ra và đứng chủ trương. Đại để dạy nhau bằng cách nói chuyện, ai cũng có thể nghe mà hiểu được hết, ấy là học đó. Chỉ cần có căn phố rộng, bàn ghế cho nhiều, tuần lễ mấy lần, mời những tay thông thái đến giảng về những vấn đề cần yếu cho chị em nghe, bất luận sang hèn, ai muốn học đều có thể ghi tên vào mà nghe giảng.
" Ấy chẳng qua là một phương pháp cấp cứu cho nạn đói khó về sự học mà là một phương pháp đã kiến hiệu được ở nhiều nước ".
Ở các nước thì tôi không biết, chớ ở nước Pháp hiện có cái Université des Annales do bà Yvonne Sarcey chủ trương mỗi tuần đều có mời những nhà văn hào thi sĩ, hoặc những vị bác học hàn lâm tới diễn thuyết về văn chương, lịch sử, mỹ thuật, thi ca, hoặc nói chuyện về luân lý, giáo dục, xã hội, kinh tế.
Mỗi lần diễn thuyết, nữ thính giả đến dự rất đông. Cô học sinh sau khi ra khỏi cửa trường, chị thơ ký sau khi đã rời biệt việc sở, bà nội trợ sau khi đã rảnh chuyện gia đình, khách khuê phòng sau khi đã xếp đồ may vá ... ai cũng vui lòng đến nghe diễn thuyết để học thêm lấy một vài cái lạ, cái hay mà tu bổ vào cho trí thức cho mình, và để tiếp hưởng lấy một cái cảm giác về mỹ thuật, văn chương đặng sống qua một vài chục phút cái đời tinh thần giữa thế tục.
Cái nữ lưu học hội ở nước ta mà Phụ nữ tân văn đang được dự tính đây, liệu sẽ có được cái kết quả đó không ?
Lẽ phải thì phải chờ cho nó ra đời, ta mới nên nói tới kết quả.
Nhưng nếu các chị em trong nước đã cùng tôi nhận thấy cái địa vị của mình ở trong văn học thì tất phải muốn cho cái địa vị đó càng ngày càng cao, cái công dụng đó càng ngày càng lớn mà vui lòng trông cho nó có nữ lưu học hội ra đời.
Kinh Phật có câu " Tự giác nhi giác tha " nghĩa là tự sáng mình để sáng người.
Người đàn bà cũng có cái tinh thần cần phải tự giác để chiếu sáng ra ở chung quanh mình, cho gia đình được êm đềm phong phú, cho xã hội được rực rỡ quang minh.
Cái tinh thần đó ta muốn có thì ta lại càng tha thiết mong cho nữ lưu học hội sớm ra đời.
Vậy, tới đây, xin cho chúng tôi được tạm biệt với hết thảy chị em đã hạ cố nghe tôi từ nãy đến giờ, cùng nhau hẹn hò sẽ lại còn được gặp gỡ ở trên ghế nhà học hội.
Phụ nữ tân văn số 131 ngảy 26-5-1932 )

 Viếng phòng vắng

 
Gió lọt phòng không
  Tạt hơi đông
    Lạnh như đồng
      Ngồi mơ tưởng
        Ngày xưa phất phưởng
          Dấy động tơ lòng ...
 

Trải đã mấy trăng
   Hỡi nhện giăng
      Với rêu lan
      Tấm vách cũ
   Từ khi người chủ
Một giấc lặng trang.

Tan nát vóc xưa
      dưới mồ mưa
sương phủ dập ! ...
      Đến hồn nàng
   Thôi cũng bặt đàng
Biết sao được gặp ! ...

Hò hẹn kiếp sau
   lại tìm nhau.
      Có đặng nào ?
   Dầu có tin
      nàng sẽ tái sinh
   ở vũ trụ nào ?

*

Thôi duyên có bấy
nhiêu ngần ấy ! ...
Hoa để tàn
trong trương sách
hơi lây lách
Như thấm từ hàng ;

Nàng tựa đóa hoa
               mà người ta
            là quyển sách
         lật nửa chừng
      từ mỗi tờ, bừng
hương lên bay tách ...

*

Gió lọt phòng không
      tạt hơi đông
    lạnh như đồng
    Ngồi tơ tưởng
Tình xưa phất phưởng
   Ấm dịu cõi lòng ...
 

( Phụ nữ tân văn, số mùa Xuân, 19-1-1933 )

 

[^]

 

Hai cô thiếu nữ

Hai cô thiếu nữ đi ra đồng
( Một cô ở chợ, một cô ở đồng )
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng,
Một mảnh lụa hồng, một vóc vải đen.

Hai cô rủ nhau đi xuống đầm
( Cô đi chân không, cô đi dép đầm )
Hai cô rủ nhau đi xuống đầm,
Bóng lụa hồng tách bóng vải thâm.

Mỗi người tay xách một giỏ mây,
Băng đi tha thướt dưới bóng nhành cây.
Mỗi người tay xách một giỏ mây,
Cô này bắt cá, cô này hái hoa ...

Rồi lại rủ nhau đi về.
Một cô nhẹ nhàng, một cô nặng nề.
Rồi lại rủ nhau đi về.
Giỏ cá cũng gần kề với giỏ bông.

Gặp bà lão khóc dựa bên đường,
Hai cô mới ngừng để hỏi tỏ tường.
Gặp bà lão khóc dựa bên đường,
Nghe tỏ tường cả hai động lòng thương.

Bà kia còn ba mụn cháu thơ,
Mồ côi cha mẹ, cùng bà bơ vơ ...
Bà kia còn ba mụn cháu thơ,
Nhà tranh hết gạo biết nhờ cậy ai ?

Cô ở đồng tay đưa giỏ cá :
" Bà ơi, cá ni bán được giá cao. "
Cô ở đồng tay đưa giỏ cá :
" Bà lấy hết đi, bán được khá tiền . "

Lão bà nước mắt đổ chan hòa
Thốt ra mấy lời cảm ân thật thà
Lão bà nước mắt đổ chan hòa
Rằng : " Cô thật là tiên xuống cứu tôi. "

Cô ở chợ tay đưa giỏ bông :
" Bà ơi, thứ này bán được tiền không ? "
Cô ở chợ tay đưa giỏ bông :
" Nếu bà muốn bán, cho bông cháu bà . "

Bà lão cười rồi lại nói vầy :
" Ở đồng có ai mua chi thứ này "
Bà lão cười rồi lại nói vầy :
" Cháu nhà trông gạo, bông này quản chi. "

Xong mới từ hai cô mà đi ...
Cấp củm giỏ mây, buổi cơm trẻ nhi.
Xong mới từ hai cô mà đi ...
Một cô thì lại nghĩ chi, thở dài ...

Hai cô thiếu nữ đi khỏi đồng,
Cô ở đồng bay nhẹ bổng tấm lòng.
Hai cô thiếu nữ đi khỏi đồng.
Cô áo hồng mang nặng cái giỏ bông ...

(Phụ nữ tân văn, 1933)

 

[^]

Bức thư gởi 
cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới (1)

Phải tôi đấy, Manh Manh, mấy bạn à !
Lâu quá không làm thơ, mấy bạn cũng " nột dạ " ?
Phải, tôi đây Manh Manh, mấy ông à !
Lâu quá không làm thơ, mấy ông lấy làm lạ ?...

Bạn yêu tựu hỏi nhỏ : " E...chỉ sợ ?
Tội nghiệp chớ ! Người thì trẻ nên có hơi khờ "...
Bạn ghét xúm hét to : " Á ! nó sợ !
Đáng khiếp chửa ! Người thì đẹt mà muốn vát cờ "

Nghiêng mình thưa :" Hỡi các bạn quí yêu,
Gì mà sợ ? Nghe tôi nói nhỏ : Manh chưa " xiều "
Khoanh tay gọi :" Hỡi các ông trớ trêu,
Khoan vinh mặt, đứng ngay cho tôi tỏ mấy điều

Thật, lâu nay tôi vắng đến " làng thơ "
Các bạn ơi, không phải phụ ai mà hởn hờ,
Ừ, lâu nay tôi không có làm thơ,
Các ông ơi, không phải sợ ai mà lu lờ.

Bị lôi cuốn trong chiến trường hoạt động.
Há được ngồi không mà sấp " mấy sợi tơ lòng ".
Trước là hành động, thơ không mấy trọng,
Suốt đời nào để nghe quả tim con phập phồng !

Tuy vậy, giữa những lúc đi hăm hở,
Đôi khi tôi giựt mình nhớ đến khách làng thơ.
Ừ, mình nín thinh họ cho nhát dở !
Thôi, lấy " túi văn chương " vét một vài bài thơ.

Bấy lâu đành với tình cảm hởn hờ,
Bây giờ cần tới nó e hồn thơ không tới ?
Nói chơi, chớ có gì đâu mà chờ,
Đây một bức thơ, thơ mới ! thơ mới ! thơ mới !

...Rồi tôi thấy biết bao người rũ tới.
Vừa nghe hô thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh
Người ưa với kẻ ghét lối thơ mới,
Ưa đến nghe, ghét đến " bới " làm tôi tái xanh

...Rồi tôi nghe tiếng cười rộ lớn thêm,
Vớ được chuyện, họ cầm bút viết thôi kịch liệt !
Kẻ nghịch la :" Đả đảo ! chẳng để êm ! "
Bạn thích gật đầu nói :" Cái lối thơ hay thiệt "

Kết luận chuyện mới gần thành chuyện cũ
Các bạn ơi, cãi với nhau thét đã nhàm rồi
Làng thơ, thơ cũ, thơ mới, có đủ :
Thơ xưa là đất cũ, thơ nay tỷ đất bồi ;

Đất trước để yên, đất sau lo xới,
Đất mới thì ít khô khan hơn đất dụng rồi.
Rủ nhau khai phá, cất thêm sở mới,
Nếu thật tình mong cây thơm mọc nhánh đâm chồi.

Bây giờ tôi thử khuyên khách làng thơ :
Đổi lại, ai ưa thơ mới lo tìm chỗ dở,
Ai ghét, ráng kiếm cái hay của thơ
Vậy, chê, khen, có giá trị hoa mới sẽ nở ".

( Phụ nữ tân văn, số 228, ngày 14-12-1933 )


(1) Sau một thời gian hô hào cổ võ thơ mới, Nguyễn thị Manh Manh xoay qua hoạt động trong lãnh vực phụ nữ, tiếng thơ vì đó mà im hơi. Phái chống đối thơ mới cho đấy là Nguyễn thị Manh Manh đã " xìu ". Dưới đây là bài thơ " tái xuất giang hồ " của nữ sĩ để trả lời dư luận trên .

Hai cô thiếu nữ

Hai cô thiếu nữ đi ra đồng
( Một cô ở chợ, một cô ở đồng )
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng,
Một mảnh lụa hồng, một vóc vải đen.

Hai cô rủ nhau đi xuống đầm
( Cô đi chân không, cô đi dép đầm )
Hai cô rủ nhau đi xuống đầm,
Bóng lụa hồng tách bóng vải thâm.

Mỗi người tay xách một giỏ mây,
Băng đi tha thướt dưới bóng nhành cây.
Mỗi người tay xách một giỏ mây,
Cô này bắt cá, cô này hái hoa ...

Rồi lại rủ nhau đi về.
Một cô nhẹ nhàng, một cô nặng nề.
Rồi lại rủ nhau đi về.
Giỏ cá cũng gần kề với giỏ bông.

Gặp bà lão khóc dựa bên đường,
Hai cô mới ngừng để hỏi tỏ tường.
Gặp bà lão khóc dựa bên đường,
Nghe tỏ tường cả hai động lòng thương.

Bà kia còn ba mụn cháu thơ,
Mồ côi cha mẹ, cùng bà bơ vơ ...
Bà kia còn ba mụn cháu thơ,
Nhà tranh hết gạo biết nhờ cậy ai ?

Cô ở đồng tay đưa giỏ cá :
" Bà ơi, cá ni bán được giá cao. "
Cô ở đồng tay đưa giỏ cá :
" Bà lấy hết đi, bán được khá tiền . "

Lão bà nước mắt đổ chan hòa
Thốt ra mấy lời cảm ân thật thà
Lão bà nước mắt đổ chan hòa
Rằng : " Cô thật là tiên xuống cứu tôi. "

Cô ở chợ tay đưa giỏ bông :
" Bà ơi, thứ này bán được tiền không ? "
Cô ở chợ tay đưa giỏ bông :
" Nếu bà muốn bán, cho bông cháu bà . "

Bà lão cười rồi lại nói vầy :
" Ở đồng có ai mua chi thứ này "
Bà lão cười rồi lại nói vầy :
" Cháu nhà trông gạo, bông này quản chi. "

Xong mới từ hai cô mà đi ...
Cấp củm giỏ mây, buổi cơm trẻ nhi.
Xong mới từ hai cô mà đi ...
Một cô thì lại nghĩ chi, thở dài ...

Hai cô thiếu nữ đi khỏi đồng,
Cô ở đồng bay nhẹ bổng tấm lòng.
Hai cô thiếu nữ đi khỏi đồng.
Cô áo hồng mang nặng cái giỏ bông ...

(Phụ nữ tân văn, 1933)

 

[^]

Bức thư gởi 
cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới (1)

Phải tôi đấy, Manh Manh, mấy bạn à !
Lâu quá không làm thơ, mấy bạn cũng " nột dạ " ?
Phải, tôi đây Manh Manh, mấy ông à !
Lâu quá không làm thơ, mấy ông lấy làm lạ ?...

Bạn yêu tựu hỏi nhỏ : " E...chỉ sợ ?
Tội nghiệp chớ ! Người thì trẻ nên có hơi khờ "...
Bạn ghét xúm hét to : " Á ! nó sợ !
Đáng khiếp chửa ! Người thì đẹt mà muốn vát cờ "

Nghiêng mình thưa :" Hỡi các bạn quí yêu,
Gì mà sợ ? Nghe tôi nói nhỏ : Manh chưa " xiều "
Khoanh tay gọi :" Hỡi các ông trớ trêu,
Khoan vinh mặt, đứng ngay cho tôi tỏ mấy điều

Thật, lâu nay tôi vắng đến " làng thơ "
Các bạn ơi, không phải phụ ai mà hởn hờ,
Ừ, lâu nay tôi không có làm thơ,
Các ông ơi, không phải sợ ai mà lu lờ.

Bị lôi cuốn trong chiến trường hoạt động.
Há được ngồi không mà sấp " mấy sợi tơ lòng ".
Trước là hành động, thơ không mấy trọng,
Suốt đời nào để nghe quả tim con phập phồng !

Tuy vậy, giữa những lúc đi hăm hở,
Đôi khi tôi giựt mình nhớ đến khách làng thơ.
Ừ, mình nín thinh họ cho nhát dở !
Thôi, lấy " túi văn chương " vét một vài bài thơ.

Bấy lâu đành với tình cảm hởn hờ,
Bây giờ cần tới nó e hồn thơ không tới ?
Nói chơi, chớ có gì đâu mà chờ,
Đây một bức thơ, thơ mới ! thơ mới ! thơ mới !

...Rồi tôi thấy biết bao người rũ tới.
Vừa nghe hô thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh
Người ưa với kẻ ghét lối thơ mới,
Ưa đến nghe, ghét đến " bới " làm tôi tái xanh

...Rồi tôi nghe tiếng cười rộ lớn thêm,
Vớ được chuyện, họ cầm bút viết thôi kịch liệt !
Kẻ nghịch la :" Đả đảo ! chẳng để êm ! "
Bạn thích gật đầu nói :" Cái lối thơ hay thiệt "

Kết luận chuyện mới gần thành chuyện cũ
Các bạn ơi, cãi với nhau thét đã nhàm rồi
Làng thơ, thơ cũ, thơ mới, có đủ :
Thơ xưa là đất cũ, thơ nay tỷ đất bồi ;

Đất trước để yên, đất sau lo xới,
Đất mới thì ít khô khan hơn đất dụng rồi.
Rủ nhau khai phá, cất thêm sở mới,
Nếu thật tình mong cây thơm mọc nhánh đâm chồi.

Bây giờ tôi thử khuyên khách làng thơ :
Đổi lại, ai ưa thơ mới lo tìm chỗ dở,
Ai ghét, ráng kiếm cái hay của thơ
Vậy, chê, khen, có giá trị hoa mới sẽ nở ".

( Phụ nữ tân văn, số 228, ngày 14-12-1933 )


(1) Sau một thời gian hô hào cổ võ thơ mới, Nguyễn thị Manh Manh xoay qua hoạt động trong lãnh vực phụ nữ, tiếng thơ vì đó mà im hơi. Phái chống đối thơ mới cho đấy là Nguyễn thị Manh Manh đã " xìu ". Dưới đây là bài thơ " tái xuất giang hồ " của nữ sĩ để trả lời dư luận trên .

 

Bức thư gởi 
cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới (1)

Phải tôi đấy, Manh Manh, mấy bạn à !
Lâu quá không làm thơ, mấy bạn cũng " nột dạ " ?
Phải, tôi đây Manh Manh, mấy ông à !
Lâu quá không làm thơ, mấy ông lấy làm lạ ?...

Bạn yêu tựu hỏi nhỏ : " E...chỉ sợ ?
Tội nghiệp chớ ! Người thì trẻ nên có hơi khờ "...
Bạn ghét xúm hét to : " Á ! nó sợ !
Đáng khiếp chửa ! Người thì đẹt mà muốn vát cờ "

Nghiêng mình thưa :" Hỡi các bạn quí yêu,
Gì mà sợ ? Nghe tôi nói nhỏ : Manh chưa " xiều "
Khoanh tay gọi :" Hỡi các ông trớ trêu,
Khoan vinh mặt, đứng ngay cho tôi tỏ mấy điều

Thật, lâu nay tôi vắng đến " làng thơ "
Các bạn ơi, không phải phụ ai mà hởn hờ,
Ừ, lâu nay tôi không có làm thơ,
Các ông ơi, không phải sợ ai mà lu lờ.

Bị lôi cuốn trong chiến trường hoạt động.
Há được ngồi không mà sấp " mấy sợi tơ lòng ".
Trước là hành động, thơ không mấy trọng,
Suốt đời nào để nghe quả tim con phập phồng !

Tuy vậy, giữa những lúc đi hăm hở,
Đôi khi tôi giựt mình nhớ đến khách làng thơ.
Ừ, mình nín thinh họ cho nhát dở !
Thôi, lấy " túi văn chương " vét một vài bài thơ.

Bấy lâu đành với tình cảm hởn hờ,
Bây giờ cần tới nó e hồn thơ không tới ?
Nói chơi, chớ có gì đâu mà chờ,
Đây một bức thơ, thơ mới ! thơ mới ! thơ mới !

...Rồi tôi thấy biết bao người rũ tới.
Vừa nghe hô thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh
Người ưa với kẻ ghét lối thơ mới,
Ưa đến nghe, ghét đến " bới " làm tôi tái xanh

...Rồi tôi nghe tiếng cười rộ lớn thêm,
Vớ được chuyện, họ cầm bút viết thôi kịch liệt !
Kẻ nghịch la :" Đả đảo ! chẳng để êm ! "
Bạn thích gật đầu nói :" Cái lối thơ hay thiệt "

Kết luận chuyện mới gần thành chuyện cũ
Các bạn ơi, cãi với nhau thét đã nhàm rồi
Làng thơ, thơ cũ, thơ mới, có đủ :
Thơ xưa là đất cũ, thơ nay tỷ đất bồi ;

Đất trước để yên, đất sau lo xới,
Đất mới thì ít khô khan hơn đất dụng rồi.
Rủ nhau khai phá, cất thêm sở mới,
Nếu thật tình mong cây thơm mọc nhánh đâm chồi.

Bây giờ tôi thử khuyên khách làng thơ :
Đổi lại, ai ưa thơ mới lo tìm chỗ dở,
Ai ghét, ráng kiếm cái hay của thơ
Vậy, chê, khen, có giá trị hoa mới sẽ nở ".

( Phụ nữ tân văn, số 228, ngày 14-12-1933 )


(1) Sau một thời gian hô hào cổ võ thơ mới, Nguyễn thị Manh Manh xoay qua hoạt động trong lãnh vực phụ nữ, tiếng thơ vì đó mà im hơi. Phái chống đối thơ mới cho đấy là Nguyễn thị Manh Manh đã " xìu ". Dưới đây là bài thơ "tái xuất giang hồ" của nữ sĩ để trả lời dư luận trên.

 Tháng 4/1968
Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Hữu Trọng
Nguồn: Trích Việt Nam Thi Nhân tiền chiến
Theo http://chimviet.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầ...