Thứ Tư, 31 tháng 8, 2022

Việt Nam, chữ viết, ngôn ngữ và xã hội 3

Việt Nam, chữ viết,
ngôn ngữ và xã hội 3

Chương 6 - Quốc ngữ và giáo dục thời Pháp thuộc
Như ta đã thấy quốc ngữ hiểu như chữ viết vào đầu thế kỷ 20 đã thắng lợi hoàn toàn bằng cách đưa chữ nôm vào lãng quên, chiếm độc quyền trong việc ghi tiếng Việt. Cuộc thắng lợi này sở dĩ được tương đối dễ dàng vì chữ quốc ngữ éo le thay lại là giao điểm của hai chủ trương đối nghịch nhau. Một bên chính quyền Pháp ở Đông Dương xem chữ quốc ngữ là công cụ hữu hiệu để đồng hóa dân thuộc địa. Bên phía những sĩ phu Việt Nam lại cho đó là vũ khí sắc bén trong công cuộc phổ biến tân học, truyền bá tư tưởng yêu nước tiến tới giải phóng dân tộc, đem lại độc lập cho nước nhà.
Quốc ngữ hiểu như chữ viết kiểu La Tinh đã thế, còn quốc ngữ hiểu như tiếng Việt thì thế nào? Địa vị của tiếng Việt ra sao, trong một đất nước, giữa một dân tộc mà chữ Hán thống trị trong suốt một nghìn năm đô hộ phương Bắc, thêm mười thế kỷ nữa dưới các triều đại vua chúa Việt Nam lấy Hán học làm giềng mối quốc gia, làm gốc cho đạo lý xã hội, bây giờ lại đứng trước sức tiến công của tiếng Pháp trong chủ trương khai hóa, đồng hóa, của những ông chủ mới đến từ phương Tây. Lẽ dĩ nhiên tiếng Việt là tiếng nói của toàn dân Việt, sinh ra một lần với dân tộc Việt, trải qua bao nhiêu cuộc biến thiên vẫn còn tồn tại, sống động qua ca dao tục ngữ, câu hò tiếng hát dân gian qua Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi ở thế kỷ 15, đạt đến độ ngôn ngữ văn chương tài tình với truyện Kiều của Nguyễn Du ở cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19. Lẽ dĩ nhiên với thắng lợi của chữ quốc ngữ, sự ra đời của nhiều tờ báo, sự phát triển của nhà in, với những lời kêu gọi của những phong trào duy tân, tiếng Việt đã ngoi lên để trở thành một ngôn ngữ viết, khác hơn là một ngôn ngữ nói, một ngôn ngữ thông dụng hàng ngày. Trên con đường này, tiếng Việt vấp phải một số trở ngại, nhất là trước sự phổ biến có tổ chức và có chính quyền của tiếng Pháp.
Như đã nói ở Chương 5, hiệp ước Pentenôtre ký ngày 6.6.1884, đã nhìn nhận nước Pháp thay mặt nước An Nam trong mọi quan hệ đối ngoại; hậu quả rõ ràng là trong các giao thiệp quốc tế, tiếng Pháp sẽ nói thay tiếng Việt.
1. Quốc ngữ và bộ Học chính tổng quy
Bây giờ hãy xem địa vị mà Chính quyền bảo hộ dành cho tiếng Việt trong công cuộc giáo dục ở Việt Nam, qua bộ Học chính tổng quy (Règlement général de l'Instruction publique) do Toàn quyền Albert Sarraut ký ngày 21.12.1917, và đăng lên công báo ngày 10.4.1918. Bộ HCTQ gồm những qui định chung tạo nền móng cho cơ sở giáo dục đặt dưới quyền điều khiển duy nhất của Phủ Toàn quyền. Từ đây, học chính đạt được một diện mạo khá rõ ràng với sự hình thành của ba khu vực: trường Pháp (tiểu học, cao đẳng tiểu học, trung học); trường Pháp bản xứ (tiểu học, bổ túc, trung học); trường chuyên nghiệp.
Thiên thứ II bộ HCTQ về cấp tiểu học có quy định dạy tiếng Pháp và môn Hán tự như sau:
- Dạy tiếng Pháp (tập đọc, ám tả, học mẹo, làm văn) ở lớp nhì và lớp nhất, mỗi tuần ít ra là 12 giờ.
- Hán tự mỗi tuần lễ chỉ dạy 1 giờ ½ vào sáng thứ năm mà thôi. Lại thêm chỉ thị: "Dạy Hán tự phải theo chương trình nhà nước. Buổi dạy Hán tự, giáo viên kiêm đốc học nhà trường phải có mặt ở lớp để giữ kỷ luật, không nên để thầy đồ dạy một mình"
Rõ ràng là thời gian dạy chữ Hán bị teo lại nhường chỗ cho tiếng Pháp ngay ở cấp tiểu học. Không những thế lớp dạy chữ Hán còn bị theo dõi, kiểm tra, làm như dạy môn quốc cấm. Nhà cầm quyền thuộc địa vẫn còn nghi ngại các thầy đồ còn noi theo chí khí, tư tưởng của các sĩ phu nhà nho thuộc các phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục chăng? Không thấy nói đến việc dạy tiếng Việt ở cấp này. Nhưng theo Phạm Quỳnh (Nam Phong số 18, juin 1918, tr. 333): "Cứ lệ thời các môn trong chương trình tiểu học đều phải dạy bằng tiếng Pháp cả" Xem thế là có chủ trương thay thế tiếng Việt bằng tiếng Pháp như một ngôn ngữ dùng để dạy dỗ học tập ở nhà trường ngay cả ở lớp đồng ấu.
Ở cấp trung học, một trong những mục đích nhắm đến là "dạy cho học trò thực thông tiếng Pháp, vì tiếng Pháp là mối yếu cần cho sự học vấn về sau. "Mỗi tuần lễ thời gian học ở lớp là 27 giờ ½. Trong số giờ này phải để ra 12 giờ học tiếng Pháp và học lịch sử" (sở dĩ gộp giờ Pháp văn với giờ lịch sử vì lịch sử đây là lịch sử nước Pháp, viết bằng tiếng Pháp, chú thích NPP).
Hán tự và quốc ngữ, gọi chung là quốc văn dạy 3 giờ một tuần.
Ở  tiểu mục Sự dạy học bằng tiếng Pháp, Nam Phong (số 18: 339-341) có nhắc đến tờ chu tri của Toàn quyền Sarraut, với đoạn:
"Từ nay phải hết sức làm cho chữ Pháp thông dụng trong các trường tiểu học, bắt đầu ngay từ lớp ba (...) Vả từ xưa đến nay vẫn thi tiểu học tốt nghiệp bằng chữ Pháp thì đủ biết sự dạy học bằng tiếng Pháp ở các trường đã là một sự cố nhiên rồi (...)
"Vì những thứ chữ như chữ quốc ngữ, (...) đã thành ra văn tự gì có tiếng trong thế giới đâu, vả ai cũng biết rằng hãy còn khuyết điểm nhiều lắm, chưa có đủ những danh từ về khoa học để diễn những môn học mới của Thái Tây"
Xem qua những lời kể trên ta thấy ngay chủ trương bành trướng tiếng Pháp, lấn áp tiếng Việt, thật rõ ràng làm người chủ bút báo Nam Phong cũng phải nhận xét (tr. 340): "Cho nên cứ như ý riêng của người bàn đây thời dạy học bằng tiếng Pháp trong suốt các trường tiểu học hiện nay e còn chưa được tiện lợi lắm (...)"
Địa vị của tiếng Việt trong nhà trường đã được Hoàng Ngọc Phách, khóa 1914-1918 trường Bưởi, Hà Nội, trong hồi ký của mình, thốt lên câu: "Thật là ngược đời! Việt văn bị coi như một ngoại ngữ". Môn quốc văn bị bạc đãi như thế, còn người dạy quốc văn thì sao? Hoàng Ngọc Phách lại nhận xét: "Cả hai thầy (dạy chữ Hán và Việt văn) đều là thầy giáo phụ. Đến trường thường đứng ở hành lang hoặc ngồi ở các buồng giám thị, không bao giờ vào phòng giáo sư".
2. Tình hình Hán học
Bộ Học chính tổng quy có hiệu lực từ năm 1917 hướng vào việc Pháp hoá nền giáo dục bản xứ, đưa môn học tiếng Pháp vào cả chương trình tiểu học, không những giới hạn tối đa lớp học chữ nho mà còn đặt lớp học này dưới sự kiểm sát giám thị. Mục đích tối hậu của tổ chức giáo dục theo bộ HCTQ vẫn là đánh bạt ảnh hưởng Hán học, đồng thời khai hóa tạo ra một lớp người mới chịu ảnh hưởng văn hoá Pháp. Chủ trương này trên thực tế đã gặp phải sức chống mạnh mẽ và dẻo dai của các trường học cổ truyền hay chữ nho. Ngay cả Nam Phong, tờ báo đã giới thiệu và ca tụng bộ HCTQ, vẫn còn nêu điều thắc mắc qua việc đăng bài Bàn về việc học của quốc dân. Chữ nho có bỏ được không? của Nguyễn Tất Tế, tri phủ Mỹ đức, Hà Đông, viết năm 1915, in trong Nam Phong số 19, (janvier 1919, 197- 201). Dưới đây là những đoạn trích dẫn:
"Từ khi khởi ra cái nghị lấy chữ Pháp đổi hẳn chữ Nho, thì ngoài đồn rằng Chánh phủ sợ dân học nho rồi lại theo Tàu nên phải đổi.
"Nhiều người thấy các trường Đốc học, Giáo, Huấn, hầu không có nghe tiếng đọc sách, mà nghĩ lầm rằng: chữ nho là số liệt bại (...) nghĩ thế là chưa xét kỹ. Trường Đốc học, Giáo, Huấn không học trò là vì thơ, phú, sách, luận không thi nữa, có phải dân không học nho đâu; chúng ta nên biết chữ nho trong nước ta, cha đủ sức dạy con, anh đủ sức dạy em, không cần mượn thầy, tôi thường đi chơi các làng, chẳng ngõ nào không nghe tiếng tiếng học Luận, Mạnh, thành ra mỗi xóm có một trường, mà mỗi làng có năm bảy trường, trước hợp lại học các trường công, chẳng được bao, nay ta về học các trường riêng càng nhiều lắm. Hoa nho tàn hay chửa, hãy xin xem chốn nhà quê.
"Không phải dân nhà quê cố ý thủ cựu, bởi vì ngôn ngữ phong tục trong nước, hết thảy là đạo nho, nếu ai không học, đối với người thì khế khoán không tường, đối với nhà thì phổ chúc không biết, như mù, như điếc, thành một người ngu ngốc ở đời, vậy nên không cứ giàu nghèo, ai có con cũng phải cho học.
"Nhiều khi tôi bảo các tổng sư dạy trẻ thuần bằng quốc ngữ, cho trẻ chóng khôn, không cần học nho, thì bố mẹ đem con ngay về tìm thầy khác dạy; hỏi cớ sao thế? Người ta đáp rằng: "Quốc ngữ mất dấu, chữ nọ ra chữ kia, nếu không học nho, chắc sau con cháu lẫn cả tên ông vải". Thế mới biết chữ nho có nhiều mối vướng vít, làm cho dân gỡ không ra.
"Chữ nho bỏ không xong, chữ Tây thay cũng khó nước nào chẳng thế, mà nước ta càng hơn nữa, trăm người đến 99 người nghèo, bới đất vạch cỏ cả đời, hai tay không đủ vun vào lỗ miệng, nom thấy trường Pháp Việt Chánh phủ mở cửa, cũng biết cho con học đó thì dễ kiếm ăn, mà ngặt về nỗi nghèo không sẵn đồng tiền, một quyển Lecture giá 7 hào, đắt hơn 4 quyển Tứ truyện; một tập giấy tây giá hào rưỡi, đắt bằng trăm tờ giấy nam; tính mình (...) không đủ tiền gửi con vào trường học một tháng, (...) đành cho con học nho vậy...
"Phương chi thượng lưu học chữ Pháp, chửa hẳn đã phát đạt (...) nhưng khi cắp sách vào trong lớp học, chả ai không có lòng mơ tưởng cao xa, thế mà Chánh phủ mở trường 40 năm nay kết quả đến Thông ngôn là cùng dẫu rằng Tân học cử nhân, Tân học tú tài, đổi danh hiệu sang để mới tai mắt người, mà kỳ thực chửa khỏi hai chữ Thông ngôn được".
Trên đây là tóm lược các lý lẽ về văn hóa, lịch sử, kinh tế của viên tri phủ Nguyễn Tất Tế đưa ra để bênh vực cho các trường dạy chữ nho cổ truyền. Sức sống còn của các trường này khá vững bền đến mức năm 1938, nghĩa là hơn hai mươi năm sau khi áp dụng bộ HCTQ, theo dẫn liệu thống kê cuộc điều tra về nạn mù chữ ở Thanh Hóa, ta có những con số không ngờ. Như tại ba làng không có trường tiểu học, Thọ Lộc, Nam Thôn và Ninh Thôn chỉ có 3% đàn ông ở lứa tuổi 30 biết đọc một trong ba thứ tiếng, quốc ngữ, Hán, Pháp. Còn lứa tuổi cao hơn, tức là lứa tuổi theo học trường dạy nho cổ truyền thì đến 48 % đọc thông chữ Hán (xem Trịnh Văn Thảo, (1995, 35-38). Nhưng sự trường tồn và sức hấp dẫn của các trường thầy đồ chắc chỉ xảy ra ở nông thôn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ chứ càng đi vào Nam thì tình hình có đổi khác: giai đoạn 1916-1920, học trò các trường Nhà nước đã đông; chữ quốc ngữ đã thông dụng; chữ Hán đã bắt đầu bị chữ quốc ngữ và chữ Pháp thay thế (xem Nguyễn Vỹ, 1969, chương 4).
3. Báo Nam Phong và quốc ngữ
Báo Nam Phong có đăng nhiều bài nói về việc dạy và học quốc ngữ. Nhưng trước khi đề cập đến vấn đề trên, hãy sơ lược tìm hiểu về tạp chí này.
Báo Nam Phong - số 1, juillet 1917 - ra đời gần như cùng một lúc với sự ban bố của bộ Học chính tổng quy mà mục đích là nhắm vào sự khai hóa dân bản xứ rất rõ ràng. Đó là một sự ngẫu nhiên chăng, hay là những sự kiện có điều hợp trước? Bìa ngoài ở đầu tờ có hàng chữ: L'Information Française (Thông tin Pháp). Nam Phong là Văn học Khoa học Tạp chí gồm hai phần: phần quốc ngữ và phần chữ nho. Kể từ số 64, tháng 10, 1922, Nam Phong lại có thêm phần phụ bản tiếng Pháp. Chủ bút phần quốc ngữ là Phạm Quỳnh, phần chữ nho là Nguyễn Bá Trác. Nhưng bắt đầu số 20, 1919, ở trang trong tờ bìa trước, có ghi rõ tên các người sáng lập, ngoài Phạm Quỳnh (Hàn lâm viện trước tác) và Nguyễn Bá Trác (Cử nhân, Hồng lô tự khanh), còn có Louis Marty (trưởng tòa Chính trị Phủ Toàn Quyền).
Cũng ở trang này, báo Nam Phong có kê rõ: "Mục đích báo Nam Phong là thể cái chủ nghĩa khai hóa của Nhà nước, biên tập những bài bằng quốc văn, hán văn, pháp văn, để giúp sự mở mang trí thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân An-nam, truyền bá các khoa học của Thái Tây, nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp, bảo tồn cái quốc túy của nước Việt Nam ta, cùng bênh vực quyền lợi người Pháp người Nam trong trường kinh tế.
Báo Nam Phong lại chủ ý riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho thành một nền quốc văn An-nam".
Tưởng cần lưu ý là hai ông chủ bút Nam Phong đều không phải là những nhà báo độc lập mà là những công chức của chính quyền bảo hộ. Phạm Thị Ngoạn (1973: 217) có kể là Nguyễn Bá Trác sau khi xuất dương du học ở Nhật về, "hồi chánh", nên được nhận vào làm việc cho chính quyền thuộc địa như một thông dịch viên ở Sở Chính trị vụ (Direction des Affaires Politiques) thuộc Phủ Toàn Quyền. Ở đó Nguyễn Bá Trác trở thành đồng liêu của Phạm Quỳnh vừa được biệt phái từ Trường Viễn Đông Bác Cổ qua. Và công việc đầu tiên mà hai vị công chức kia cùng cộng tác, là dịch ra chữ Hán cuốn sách của Gabriel Hanotaux Lịch sử Chiến tranh Âu châu (Histoire de la guerre européenne) mà Phủ Toàn Quyền cho phát hành ở Trung Quốc để phô trương uy lực Pháp Quốc. Đó là năm 1917.
Ở vị thế của một công chức ngạch thuộc địa, thì biên độ hoạt động theo ý muốn riêng của hai ông Phạm và Nguyễn chắc không được bao nhiêu ngoài việc phục vụ đường lối đã được ấn định cho tờ báo. Quyền hạn của họ e không thể vượt qua việc cổ xúy chính sách do nhà cầm quyền đề ra. May thay chủ ý riêng này lại trùng hợp với nhiệm vụ được giao phó, nhất là phía chủ bút phần quốc ngữ. Vì quốc ngữ tất nhiên là công cụ nghề nghiệp của Phạm Quỳnh để truyền bá các khoa học của Thái Tây, nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp. Trau dồi, tập luyện quốc ngữ là bổn phận nghề nghiệp của nhà báo, nhà thông dịch Phạm Quỳnh vậy.
Phạm Quỳnh viết khá nhiều và đa dạng: những bài biên tập về chính trị, xã hội hay lịch sử; những bài văn học; những bài có tính cách triết học. Vì đụng đến nhiều thể loại nên họ Phạm phải dùng nhiều từ ngữ mới mẻ đối với tiếng Việt thời bấy giờ.
Các từ ngữ này phần nhiều xuất xứ từ Hán văn đã dùng trong các tân thư Trung Quốc và Nhật Bản. Thời ấy hay cả bây giờ cũng vậy, các nhà văn, các nhà nghiên cứu của ta khi cần đến thuật ngữ, từ ngữ để diễn tả một khái niệm mới, một tư tưởng mới chưa có trong tiếng Việt, thường quay qua vay mượn ở tiếng Hán. Đó là phương pháp thông thường để làm tăng trưởng vốn từ tiếng Việt. Báo Nam Phong nói chung và Phạm Quỳnh nói riêng cũng đi theo đường lối này và phần Từ vựng ở các số báo là bản kê những từ mới vừa được dùng. Trên phương diện từ ngữ như vậy, nhóm Nam Phong có góp phần làm giàu cho quốc ngữ. Nhưng trên mặt khác, vì lạm dụng quá nhiều Hán văn nên nhóm Nam Phong đã làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Sự vay mượn ở mức độ hình vị, từ đơn hay từ ghép tất được thu nhận dễ dàng, xuyên suốt, nhưng nếu bệ nguyên xi cả một nhóm từ, cả một đoản cú trong Hán ngữ để đưa vào tiếng Việt thì sẽ làm cho tiếng Việt lai căng. Vì cú pháp nội tại giữa các thành tố trong một nhóm từ rất khác nhau nếu đem so sánh tiếng Việt và tiếng Hán. Hãy lấy một ví dụ cụ thể: Nam Phong được ghi ở bìa báo là Văn-học Khoa-học Tạp-chí. Nhóm từ này tuân theo trật tự cú pháp của Hán ngữ: các định từ Văn-học Khoa-học đặt trước Tạp-chí, từ bị hạn định. Trái với tiếng Việt theo đó ta sẽ viết: Tạp-chí Văn-học Khoa-học.
Nguyễn Háo Vĩnh, một độc giả người Nam, trong thư ngỏ gửi cho chủ bút Nam Phong (số 1, octobre 1918, tr. 199), có đoạn nhận xét: " Các bài quốc ngữ, chủ bút Nam Phong cùng các người phụ bút dùng nhiều chữ Hán quá, nên coi khó hiểu lắm; có chỗ chẳng hiểu các ngài muốn nói cái chi chi !..."
Sự sính dùng chữ nho nằm ngay trong chủ trương của báo Nam Phong (số 1, tr. 5): "Bản báo không chủ trương sự phổ thông mà muốn làm cái cơ quan riêng cho bọn cao đẳng học giới nước ta, gồm cả những bậc cựu học cùng tân học mà dung hòa làm một". Như vậy rõ ràng là nền quốc văn mà nhóm Nam Phong muôn xây đắp hướng về cấp "cao đẳng" và Hán văn và cũng vì thế ảnh hưởng của báo này rất giới hạn đối với ngôn ngữ đại chúng. Hơn nữa, cái nhìn của Phạm Quỳnh về quốc ngữ, nghĩa là tiếng Việt, có nhiều điều khinh mạn, qua những lời của tác giả, rút trong bài Bàn về sự dùng chữ nho trong văn quốc ngữ, Nam Phong số 20, février 1919: "Trước kia quốc văn tức là hán văn, hán văn tức là quốc văn (...), chỉ biết văn thì duy có hán văn mà thôi, mà nôm là lời tục trong dân gian của những kẻ không biết chữ" (tr. 85); (...) vì nôm tức là tục, quá nôm không khỏi tục được" (tr. 91).
Ta không khỏi sửng sốt khi nghe những lời quá đáng như trên về quốc văn của ông chủ bút báo Nam Phong mà chủ ý riêng (là) sự tập luyện văn quốc ngữ cho thành một nền quốc-văn An-nam". Thử hỏi nôm là tục thì văn chương truyện Kiều là tục ư? Nếu quan niệm "hán văn tức là quốc văn" thì thảo nào bài đăng trong Nam Phong không nhan nhản từ ngữ gốc Hán?
4. Diện mạo quốc ngữ qua một số tác giả, tác phẩm
Xét diện mạo của quốc ngữ qua một số tác giả, tác phẩm của mỗi thời kỳ, ta sẽ thấy những nét như sau.
De Rhodes trong cuốn Dictionarium thế kỷ 17 đặt trọng tâm vào tiếng Việt phổ thông, đại chúng. Trong tác phẩm của mình, ông không hề đưa Hán văn vào. Cuốn Dictionarium của de Rhodes là công trình khai phá về mặt chữ viết cũng như lần đầu tiên đã phác họa diện mạo tiếng Việt với những nét chân phương về âm ngữ, ngữ nghĩa, cú pháp.
Kế đến hai cuốn tự điển của Pierre Pigneaux thế kỷ 18 và của J.L.Taberd thế kỷ 19 đã dành cho chữ Hán một địa vị quan trọng. Tiếng Việt ở hai cuốn sách này đã phải nhường chỗ cho sự có mặt khá nổi bật của chữ Hán. Vả chăng cung cách thực hiện chúng là theo sát quan niệm của hai tác giả: "Phải truyền đạo bằng cách tấn công vào cái tim và cái đầu của xã hội mà ta muốn xâm nhập. Muốn được như vậy phải gây ấn tượng với giới có học, trên mặt khoa học cũng như trên mặt văn hóa. Muốn lôi kéo vào đạo Ki Tô những nhà nho hay những quan chức có thế quyền trong xã hội Đàng Trong, thì phải nhữ họ và chinh phục họ ở lĩnh vực mà họ giỏi" (xem chương 2, 2.1, sách này).
Tiếng Việt trong sáng tác của ba vị Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký và Huình Tịnh Paulus Của ở buổi đầu chữ quốc ngữ trong Nam, không bị nhuốm đậm màu Hán ngữ như nhóm Nam Phong sau này. Như qua cuốn J.B.-P. Trương Vĩnh Ký, Petit dictionnaire français-annamite, Saigon, Imprimerie de la Mission Tân Định, 1884, ta thấy tác giả không lạm dụng những từ gốc Hán để giải thích các từ tiếng Pháp. Đọc Tập Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1976), ta thấy văn phong tiếng Việt của Trương Vĩnh Ký rất sáng sủa, gãy gọn, báo trước văn bút ký hiện đại. Còn cuốn Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Paulus Của tuy theo lối trình bày trong cuốn Dictionariumcủa Pierre Pingeaux bằng cách đưa chữ tượng hình vào trước chữ quốc ngữ (xem chương 2, 2.1., sách này) nhưng những lời giải thích phần lớn là thuần Việt, có khi là phương ngữ miền Nam. Phương ngữ này hiểu theo Trương Vĩnh Ký (1883, tr.4) là tiếng Việt nói từ tỉnh Quảng Nam đến tận mút ranh giới cực nam Đàng Trong (Basse Cochinchine).
Các nhà nho trong phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục ở đầu thế kỷ 20 nhắm vào việc đả phá tư tưởng lạc hậu của bọn hủ nho, từ bỏ lối học từ chương trong khoa cử, cổ động học quốc ngữ, khoa học kỹ thuật, v.v... Chủ trương rõ ràng là không những đưa chữ quốc ngữ lên làm chữ viết chính thức của nước Việt (Chữ quốc ngữ là hồn trong nước) mà còn tin tưởng vào sức mạnh của tiếng Việt trong việc chuyển tải các tư tưởng mới:
Sách các nước, sách Chi na
Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường
(Bài hát khuyên học chữ quốc ngữ)
Đường lối hoạt động như vậy nên quốc ngữ trong Quốc văn tập đọc là một thứ tiếng Việt phổ biến, có sức mạnh tuyên truyền dễ đi vào quần chúng. Các tác giả những bài hát trong Quốc văn tuy là khuyết danh nhưng có phần chắc là những nhà mới học chữ quốc ngữ và đến từ những địa phương khác nhau. Do đó có một số viết sai chính tả (xem Vũ Văn Sạch và đtg, 1997, 108-156).
Sau cùng tiếng Việt của nhóm Nam Phong nói chung là một thứ tiếng Việt "cao đẳng", đậm màu Hán ngữ, với những ưu điểm và nhất là khuyết điểm của nó (xem mục 2 trên đây).
Tưởng cũng nên nhắc đến cuốn Việt-Nam Tự điển do Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo từ 1923 và in năm 1931 do nhà in Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội. Ban biên tập ngoài Phạm Quỳnh còn có Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Đổ Thận, Nguyễn Văn Luận, Phạm Huy Lục, Dương Bá Trạc, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục. Là cuốn từ điển Việt-Việt thứ hai sau cuốn Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (1895-1896) của Paukus Của và Dictionnaire Annamite-Français (1898) của J.-F.-M. Génibrel được dùng làm gốc. Từ ngữ gốc Hán được đưa vào Việt-Nam Tự-điển nhiều hơn ở Đại Nam Quấc Âm vì chủ trương của Phạm Quỳnh là "chữ ta mượn chữ Tàu nhiều, một bộ Việt âm tự điển phải kiêm cả tính cách một bộ Hán Việt tự điển nữa..." (Nam Phong số 74, tr. 112A). Việt Nam Tự điển tự nhiên là có sưu tầm những tiếng thuộc phương ngữ miền Bắc và nhất là có phần Văn liệu ở rất nhiều mục từ. Các câu ở phần Văn liệu được lấy từ các tác phẩm nổi tiếng như Truyện Kiều, Cung Oán, Lục Vân Tiên, v.v... hoặc từ ca dao, tục ngữ, nhắm giải thích hoặc diễn tả cách dùng từ. Tiếng Việt trong Việt-Nam Tự điển vì thế có màu sắc văn chương hơn.
Chương 7 - Quốc ngữ và sự phát triển của tiểu thuyết
Trên mặt chứng tích cụ thể thì truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ là cuốn Truyện thầy Lazaro Phiền, (Saigon, J. Linage, Librairie-éditeur, rue Catinat, 1887, 32 trang) do P.J.-B. Nguyễn Trọng Quản làm ra. Trong những hàng ở đầu sách viết bằng tiếng Pháp mà tác giả gửi cho "Diệp Văn Cương và các bạn Annam của tôi ở Trung học Alger", có đoạn (dịch ra tiếng Việt của NPP) như sau:
"Các bạn thân mến! Mong cuốn sách khiêm tốn này mà tôi đề tặng các bạn, là khởi đầu cho sự thực hiện những giấc mộng ngày xưa [...] mộng cho xứ Nam Kỳ thân yêu của chúng ta một tương lai lấp loáng ánh sáng, tiến bộ và văn minh".
Nhưng làm sao một cuốn truyện khiêm tốn như thế kia có thể đem lại một tương lai sáng lạng cho xứ Nam Kỳ thuộc Pháp như tác giả mong muốn! Chỉ về giá trị văn học thôi thì cuốn truyện chưa thể được xem là một cuốn tiểu thuyết đúng nghĩa của nó về kết cấu, cũng như kỹ thuật mô tả diễn biến tâm lý của nhân vật. Về phong cách, ngôn ngữ, thì bị "ảnh hưởng rõ rệt của Pháp ngữ" (Bùi Đức Tịnh, 1992: 276). Tóm lại, Truyện thầy Lazaro Phiền chỉ được một cái duy nhất thôi: đó là truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ.
Cuốn tiểu thuyết kế tiếp là cuốn Ai làm được do Hồ Biểu Chánh viết năm 1912, nhuận sắc năm 1922 (xem Nguyễn Khuê, 1974: 158-163). Tiểu thuyết này trên mặt lịch sử là một sự kiện quan trọng vì đó là cuốn thứ hai viết bằng văn xuôi chữ quốc ngữ nhưng trên mặt nội dung và hình thức không gây được tác động mạnh trên văn đàn. Tuy nhiên với tác phẩm này, Hồ tiên sinh có thể được xem như một tiểu thuyết gia tiên phong trong lịch sử tiểu thuyết Việt Nam.
Chỉ nội trong năm 1922, có xuất bản các cuốn tiểu thuyết (xem Trần Văn Giáp và đồng tác giả, 1972, tr. 59): Nguyễn Thanh Long, Lỗi bước phong trần, Cần Thơ, 123 trang; Nguyễn Thanh Long, Oan kia theo mãi, Sài Gòn, 32 trang; Nguyễn Bân, Nữ lưu danh dự, Hà Nội, 15 trang. Tiểu thuyết Cuộc tang thương, Nhà in Vĩnh Thành, do Đặng Trần Phất viết năm 1922, in 1923. Đặng Trần Phất cũng là tác giả của cuốn Cành lê điểm tuyết có thể ra đời khoảng 1921 ở miền Bắc.
Cái đầu tiên trong bộ môn tiểu thuyết văn xuôi chữ quốc ngữ qui về cho tác giả miền Nam của Thầy Lazaro Phiền là điều tự nhiên vì chữ quốc ngữ áp dụng trước nhất ở Sài Gòn-Lục Tỉnh và ảnh hưởng của văn chương Pháp, của truyện và tiểu thuyết Pháp đã xâm nhập vào đây trước tiên. Nhưng sau khi chữ quốc ngữ lan rộng ra miền Bắc, lại được các phong trào duy tân như Đông Kinh Nghĩa Thục ủng hộ thì quốc ngữ tức tiếng Việt càng phát triển mạnh.
Sự tấn tới của tiếng Việt dẫn đến cái lỗi thời của chữ/tiếng Hán với quyết định bãi bỏ các khoa thi theo lối nho học do Triều đình Huế tổ chức.
Văn xuôi phát triển nhanh qua báo chí và tiểu thuyết. Năm 1925, Hoàng Ngọc Phách, một sinh viên Trường Cao Đẳng Sư phạm Hà Nội cho phát hành cuốn tiểu thuyết đầu tay Tố Tâm, gây tiếng vang không ít trên văn đàn và là đầu mối cho một số hiện tượng xã hội ở Hà Thành. Nhưng trước khi bàn đến Tố Tâm nói riêng và tiểu thuyết nói chung, ta hãy xét qua xã hội Việt Nam thời bấy giờ.
1. Xã hội Việt Nam thời 1900-1930
Xã hội Việt Nam trong giai đoạn này có nhiều chuyển đổi. Sài Gòn, Chợ Lớn, Hà Nội, Đà Nẵng trở thành những thành phố đúng nghĩa của nó. Huế cũng biến đổi thành một trung tâm thành thị. Những trung tâm khác nổi lên như Nam Định, Hải Dương, Vinh, Thanh Hóa, Đà Lạt, Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá. Sự phát triển của các thành phố và trung tâm này được thể hiện qua việc nới rộng diện tích đất đai, qua tăng trưởng ngân sách, qua cách bố trí đường sá và nhà ốc, qua sự thiết lập các cơ sở thương mãi và kỹ nghệ. Song song với sự mở mang của những thành phố lớn và các trung tâm thành thị là việc tăng cường hoặc sắp đặt lại guồng máy hành chánh với số viên chức gia tăng của chính quyền thuộc địa.
Tổng số xe hơi trên toàn cõi Đông Dương tăng từ 2000 chiếc năm 1914 đến 24000 chiếc năm 1934 (J.B. Alberti, 1934, tr. 727). Tuyến xe lửa Hà Nội-Vinh/ Bến Thủy, năm 1910 chở 47 188 621 hành khách/ kilômét (A. Sarraut, 1923, tr. 489). Xem thế cũng thấy làng mạc Việt Nam không còn đóng kín sau lũy tre xanh.
Một số nhà nho theo phong trào Duy Tân 1906-1908, sau khi bị đày Côn Lôn, Lao Bảo về, liền mở trường dạy quốc ngữ. Năm 1920 ông Tú đến nhà ông Cử chúc nhau bằng câu Bonne Année (theo Nguyễn Vỹ, 1970). Tầng lớp thượng lưu, những nhân vật trong xã hội từ những cụ Thượng, quan Bố, ông Nghè, ông Thám "hèo hoa gươm bạc, tán tía lọng xanh" chuyển sang làm những quan Tham, những thầy Phán, những ông Ký...
Nào có ra gì cái chữ nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co
Sao bằng đi học làm thầy phán
Tối rượu sâm bánh, sáng sữa bò.
Tóm lại xã hội Việt Nam chuyển sang hướng tư sản. Một lớp thị dân ra đời với những nhu cầu vật chất mới, văn hoá mới, văn học mới. Bắt đầu ló diện một số nhà văn thành thị. Hà Nội là nơi tập trung 7 trường cao đẳng: Trường Thuốc, Trường Thú y, Trường Công chánh, Trường Cao đẳng Sư phạm, Trường Cao đẳng Canh nông, Trường Luật. Các trường này đào tạo nên một lớp trí thức mới với những nhu cầu về thẩm mỹ, tư tưởng, và tình cảm khác hẳn với lớp nhà nho cuối mùa. Hà Nội với độ suy tàn của Triều đình Huế lại trở nên trung tâm văn hoá và văn học cho cả nước.

Cùng năm 1918, Đại học Đông Dương được Toàn Quyền Sarraut khai mạc trọng thể ở Hà Nội với sự hiện diện của Vua Khải Định, thì ông vua này ban dụ ngày 6 tháng 12, chấm dứt các cuộc thi kiểu cổ truyền ở Trung Kỳ, ba năm sau quyết định bãi bỏ ở Bắc Kỳ. Đây là miếng đòn tối hậu, kết liễu một chế độ thi cử có từ thế kỷ 11, đời nhà Lý, đã tạo ra biết bao nhà khoa bảng nho học, tuyển chọn biết bao nhân tài. Riêng Triều Nhà Nguyễn, từ Gia Long đến Khải Định, cũng có đến 39 khoa Hội, vinh quy 291 Tiến sĩ và 266 Phó bảng; 47 khoa Hương, chấm đỗ 5232 Cử nhân. Và sau đây cũng là dấu hiệu của thời kỳ Hán học tàn tạ: vị Tiến sĩ khoa thi Hội cuối cùng, khoa Kỷ Mùi, 1919, Nguyễn Phong Gi, lại vốn là lục sự tại Tòa Khâm Sứ Huế. Còn ông vua cuối cùng của Triều Nguyễn, Bảo Đại, lên ngôi năm 1925, là ông vua Việt Nam duy nhất không theo Hán học. Nhìn về tình hình xã hội Việt Nam trong giai đoạn này, cám cảnh thay hai câu thơ của bà Huyện Thanh Quan:
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
2. Tiểu thuyết Tố Tâm
Trong một xã hội như vậy thì cuốn tiểu thuyết Tố Tâm được phát hành năm 1925 ở Hà Nội. Thật ra Tố Tâm đã viết xong vào mùa hè 1922 trong lúc tác giả còn là sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm. Cuốn truyện được thành công lớn, "Lần in thứ nhất có 3000 quyển, chỉ trong vòng nửa tháng là bán hết ngay... Sách bán ra dư luận rất xôn xao... Nam nữ thanh niên thì hết sức khen ngợi... Các cụ già thì chê bai mạt sát." (Nguyễn Huệ Chi, 1989, tr. 217).
Tác giả Hoàng Ngọc Phách sinh năm 1896 vào lúc mà nền bảo hộ Pháp Quốc đã đặt vững vàng trên đất Bắc. Con nhà nho nên thuở nhỏ ông học chữ Hán với thân phụ nhưng đến tuổi 15 thì bắt đầu học tiếng Pháp. Năm 1914, Hoàng Ngọc Phách vào học trường Bưởi, tục gọi là trường Trung học Bảo Hộ. Đến năm 1919, cậu học sinh họ Hoàng xách ba bằng (bằng Sơ đẳng tiểu học Pháp [Brevet Elémentaire], bằng Cao đẳng tiểu học Pháp [Brevet primaire supérieur], bằng Thành chung [Diplôme d'études complémentaires] thi vào trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Xem thế đủ biết nhà văn Song An dù muốn dù không cũng được đào tạo trong lò các trường Trung học Pháp Việt và Đại học Đông Dương.
Hoàng Ngọc Phách có kể là "tôi vào trường Cao đẳng sư phạm là mong thành một nhà giáo và một nhà văn lành nghề...Muốn có kiến thức sâu rộng phải học rất nhiều. Học trong sách vở và học ở trường đời." Sách thì chủ yếu mượn ở hai thư viện do Pháp lập: Thư viện Trung ương và Thư viện Bác cổ. Ngoài chương trình nhà trường, các sinh viên thích đọc thêm những sách sau đây (Nguyễn Huệ Chi, 1989, tr. 190-192): 1) Văn thơ cách mạng Pháp với ba nhà văn Montesquieu, Voltaire và J.J.Rousseau; 2) Văn thơ lãng mạn của trường phái Victor Hugo nhất là giai đoạn sau 1880. Đặc điểm của giai đoạn này là cá nhân chủ nghĩa (individualisme), cá nhân tự do, bất chấp luật lệ cổ điển, bất chấp cả phong tục tập quán bó buộc của xã hội. Cái tôi được đề cao triệt để. Mình quay vào tự phân tích cái tâm trạng của mình, mô tả tình yêu thương, lòng ghen ghét, nỗi căm hờn của mình một cách miên man tha thiết; 3) Triết học duy tâm, đặc biệt là tâm lý học, luân lý học xã hội học.
Còn môn Việt văn, môn quốc ngữ? Tuy là trường Cao đẳng Sư phạm nhưng lại không dạy môn này. Thế thì mục đích vào trường này để trở thành nhà văn quốc ngữ e không đạt. Vốn liếng tiếng Việt, cách hành văn tất phải tự học, nhất là thừa hưởng di sản văn chương Hán nôm.
Qua việc đào tạo học hành của Hoàng Ngọc Phách, ta không lấy làm lạ là ông đã trở nên một nhà trí thức mới, chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp khá đậm. Tiếng Pháp có câu: Le style c'est l'homme "Văn phong biểu lộ con người". Như vậy Tố Tâm là sáng tác của một người ở giao điểm của hai nền văn hoá, một nền văn hóa phương Đông đặt cộng đồng, gia đình lên trên; một nền văn hóa phương Tây chú trọng cá nhân, cái tôi.
Ở thời điểm mà lối sống theo lối phương Tây lấn át ở các nơi đô thị - những gì theo lối cũ liền bị cho là nhà quê, cái tính cách nhà quê này sau được Tú Mỡ điển hình hoá qua nhân vật Lý Toét trong bài Lý Toét ra tỉnh đăng trên tờ Tứ dân tạp chí và sau đó Lý Toét tiếp tục có mặt trên tờ Phong Hóa - thì Tố Tâm ra mắt, đưa lên sân khấu Đạm Thủy, một nhân vật thời thượng. Mặc dù cái tên có vẻ nho nhả, Đạm Thủy là hình ảnh của một chàng trí thức tân thời, thấm nhuần các khoa học phương Tây với những tên học giả mới lạ như Durkheim, Fréboel, Comparé, v.v... Nghĩa là Đạm Thủy là mẫu người lý tưởng cho đám thanh niên Việt Nam thành thị lúc bấy giờ hướng tới, cho đám thiếu nữ, nhất là các cô Hà Thành, sửa túi nâng khăn. Phi cao đẳng bất thành phu phụ. Tuy là nhân vật hư cấu nhưng Đạm Thủy rất gần với người có thật. Độc giả Thăng Long có thể nhận ra Đạm Thủy lúc thiếu thời qua những học sinh Bưởi nhất quỷ nhì ma, hay nhảy xe điện. Cả Tố Tâm cũng vậy, chắc là một người đang sống ở phố X, số nhà 58. Tố Tâm có những nét của một thiếu nữ thuộc giai cấp trung - thượng lưu của chốn nghìn năm văn vật. Đạm Thủy với Tố Tâm thật khác xa với Vân Tiên và Nguyệt Nga, hay Kim Trọng và Thuý Kiều của thế kỷ 19.
Lối luận thuyết, suy nghĩ của Đạm Thủy thường dựa vào những ý tưởng tân học lấy ở sách vở phương Tây như câu Đàn bà sở dĩ quý là tại đàn bà là đàn bà; hay Lòng người ta có những điều phải mà chính lẽ phải không biết đến được (dịch từ câu: Le coeur a ses raisons que la raison ne connait pas). Dựa vào những lời hay ý đẹp của các văn hào Pháp, Song An viết theo xúc cảm của mình, để cho một mối tình vô vọng của hai nhân vật chính trong Tố Tâm tuôn ra trên ngòi bút.
Đạm Thủy và Tố Tâm yêu nhau say đắm tuy biết kết cuộc sẽ là một cuộc chia lìa. Vì chữ tín và chữ hiếu trong xã hội Việt Nam thời đó còn đủ sức mạnh đạo đức, tinh thần và lý trí để ngăn cản cái dào dạt của ái tình, cái lý lẽ của con tim. Sự nổi dậy của cái tôi chưa đạt đến mức cao độ để thoát khỏi những ràng buộc của gia đình và xã hội. Đạm Thủy yêu Tố Tâm nhưng không thể cùng nàng hưởng cuộc ái ân trăm năm vì không muốn bội lời hứa hôn với cô gái mà chàng chưa hề biết mặt. Chữ tín (quân tử một lời nói ra bốn ngựa khó theo), lòng hiếu thảo, tôn trọng gia đình - Đạm Thủy chắc đã thuộc lòng câu: Công cha, nghĩa mẹ khôn đền in trong Quốc Văn Giáo khoa Thư - đã áp đảo tình yêu của đôi lứa.
Về sau người ta hẳn lấy làm lạ về thái độ của một trí thức tân học như Đạm Thủy trước tình yêu của Tố Tâm. Nhưng nếu ta đặt câu chuyện vào xã hội Việt Nam vào những năm 20 thì tác phẩm của Hoàng Ngọc Phách đã thành công trong việc miêu tả sự du nhập những cái mới theo lối Âu Tây trước sức kháng cự, sự cưỡng chế của cái cũ theo tinh thần luân lý đạo đức Khổng Mạnh. Trên phương diện xã hội tâm lý học, Tố Tâm diễn tả sự biến đổi về tư tưởng, tình cảm của giai cấp trung - thượng lưu Việt Nam trong buổi văn hóa Âu Tây hưng thịnh, trên đà lấn áp những giá trị, tập tục còn khá vững chắc của xã hội luân thường. Cuộc xung khắc giữa cái tân và cái cựu, giữa cá nhân tây học và gia đình xã hội truyền thống, giữa mối tình đôi lứa và lễ giáo nho phong tuy vậy không đạt đến đô quyết liệt: cái tôi trong Tố Tâm chịu khuất phục trước những ràng buộc của cộng đồng. Chính cái thái độ nửa vời, phân vân, ngập ngừng của nhân vật trong Tố Tâm đã xáp họ lại gần với độc giả, gây niềm thông cảm và đưa lại sự thành công của cuốn truyện.
Cái hay của ngòi bút Hoàng Ngọc Phách là thể hiện được một lúc hai vai trò, một bên là viết văn theo Đạo, tôn trọng giá trị của xã hội cổ truyền, bên kia lột tả được cái xúc cảm của người nghệ sĩ biết rung động theo những nổi niềm của một mối tình thầm kín đưa đến một tình yêu vô vọng. Xét về chỗ đứng của Tố Tâm trong dòng văn học văn xuôi Việt Nam, chắc ta phải thừa nhận những điểm sau đây:
- Tố Tâm đã phản ánh được căn bệnh đa sầu cảm, bi lụy của một lớp thanh niên thành thị thời 1920-30 trong một xã hội mà các giá trị cũ đã lung lay và các giá trị mới chưa được khẳng định. Đó là một cuốn tâm lý tiểu thuyết thời đại.
- Tố Tâm là sáng tác của một nhà văn gần với nghệ sĩ hơn là thánh hiền. Đối lập nghệ sĩ/ thánh hiền lại lắm lúc trùng lặp với sự khu biệt thành thị/nông thôn, quốc ngữ/ Hán nôm. Hoàng Ngọc Phách có thể xếp vào hạng nhà văn mới, nhà văn chuyên nghiệp với số độc giả khá đông thuộc tầng lớp thị dân, rất khác với những nhà văn trí sĩ tiêu dao phong nguyệt lớp trước.
- Tuy đọc Tố Tâm còn gặp nhiều câu rất sáo, rất réo rắt, rất biền ngẫu lúc bấy giờ còn được tán thưởng nhưng nhìn chung thì Hoàng Ngọc Phách đã biết dùng văn xuôi quốc ngữ để đối thoại, kể chuyện, mô tả những diễn biến của tâm lý, những cái gợn lòng. Lối văn ấy bây giờ thành lỗi thời nhưng thời Tố Tâm có sức mạnh làm ngậm ngùi rưng rưng nước mắt theo chứng nhân Nghiêm Toản (xem Thanh Lãng, 1967: 537).
- Trong lịch sử tiểu thuyết văn xuôi quốc ngữ, Tố Tâm đã bước một bước khá gần đến văn học lãng mạn, mở đầu thời kỳ toàn thịnh của thể loại tiểu thuyết trong văn học Việt Nam; Trần Đình Hượu (1999 : 537) đã có nhận xét: "Tiểu thuyết ra đời từ Giấc mộng con (?) đến Tố Tâm mới "trước bạ" xong và đến các tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thì chiếm chiếu nhất trong thành phần văn học".
- Sự thắng lợi của Tố Tâm đánh dấu tuổi trưởng thành tiểu thuyết, thể loại văn học này chỉ được hình thành dưới dạng chữ quốc ngữ. Từ một công cụ phiên âm tiếng nói dân dã, thông thường, của người bản xứ, có công dụng chính là thông ngôn Pháp Việt - hãy suy gẫm và thưởng thức nghĩa của cái "chức" thầy Thông dưới thời Pháp thuộc - ở nửa sau thế kỷ 19, chữ quốc ngữ với Tố Tâm đã bước một bước dài trong sự nghiệp góp phần biểu đạt một ngôn ngữ văn chương hiện đại.
Chương 8 - Quốc ngữ trong chương trình tiểu học
Theo Học chính Tổng quy ban bố năm 1918 thì tiếng Việt hoàn toàn vắng bóng trong chương trình tiểu học, nhường chỗ cho tiếng Pháp. Địa vị lu mờ, nếu không nói là tắt lịm của quốc ngữ ở cấp học này gây ra một luồng dư luận xin xét lại vấn đề.
1. Phản ứng về việc giáo dục ở cấp tiểu học
Nguyễn Khắc Khiêm bàn về Vấn đề việc học nước ta bây giờ (Nam Phong số 45, juin 1921), đã viết rằng (tr. 507): "Phải có cái bằng tiểu học về quốc ngữ để làm cách giáo dục có cái tư cách quốc dân đã, không phải là bắt đầu đi học chữ Pháp ngay được..."
Trong Tập kỷ yếu của Hội Khai trí Tiến đức (Nam Phong số 65, novembre 1922, 411-417), có đoạn nói là:
"Cứ như thế thì sự học ở các trường sơ học (tức là trường Pháp Việt) của Chính phủ bây giờ không bao giờ đạt được cái mục đích ấy: học trò trong mấy năm ở nhà trường chỉ nhồi óc bằng những tiếng tây mập mờ không hiểu rõ, còn nghĩa lý không biết một tí gì cả, thậm chí đối với xã hội đã mang tiếng là người ngây ngô nhố nhăng. Nay muốn trừ sự hại đó thời phải xin Chính phủ thay đổi hẳn cái học chế về bậc sơ học, lấy chữ quốc ngữ làm chính, chữ Pháp làm chữ phụ và tốt nghiệp thời thi một cái bằng "tiểu học tốt nghiệp bằng quốc ngữ", gọi là bằng khóa sinh [...] - Ông Trần Trọng Kim nói rằng ông đi thanh tra các trường thường có nơi vào hỏi học trò bằng tiếng An nam rằng: "Ở đây có học Nam sử không?", học trò trả lời rằng: "Không, chúng tôi chỉ học Histoire d'Annam mà thôi!"; coi thế thời biết sự học sai lầm là dường nào! [...] - Quan Hoàng Trọng Phu nói rằng ngài thường đi xem các trường học nhà quê, thấy có nơi dạy thuần chữ tây cả, ngài hỏi thầy giáo cớ làm sao, vì trong học quy đã nói rõ rằng các trường nhà quê không cưỡng bách phải học chữ tây, thầy giáo trả lời rằng phải theo trong Học báo của Chính phủ phát cho, mà trong Học Báo có bài chữ tây. [...] Cả hội đồng (quản trị Hội Khai trí tiến đức) [...] quyết định làm một tờ thỉnh cầu lên quan Thống sứ Bắc kỳ, đại khái nói rằng: "Xét ra sự sơ học cho con trẻ An Nam bây giờ, tuy có chia ra trường yếu lược nhà quê không dạy chữ Tây và trường kiêm bị dạy thuần chữ tây, nhưng kỳ thực đâu đâu cũng khuynh hướng dạy chữ Tây hết; - Xét ra bậc sơ học phổ thông trong một nước mà dạy bằng một tiếng ngoại quốc như thế, là sai cách và khiến con trẻ học truyền khẩu như con yểng mà thôi; - Xét ra cách học như thế lại có điều bất lợi về đường chính trị và xã hội nữa, là khiến cho trong dân gian không khỏi được cái mơ mộng cho con học tây là chỉ mong cho để làm việc nhà nước, và mỗi năm số học trò tốt nghiệp tiểu học chữ tây có ngoại nghìn, trong số ấy bất quá vài trăm được vào trường trung đẳng, còn thời vì học ít tiếng Tây tưởng ngoài đường làm thuê cho nhà nước không có nghề nghiệp gì xứng đáng nữa, thành một hạng người dở dang, hại cho xã hội; - xét tình hình như thế dầu Chính phủ có hết sức mở mang sự học mà cách dạy như thế thật là không có kết quả tốt về đường giáo dục con trẻ; - bởi các lẽ trên, Hội Khai trí thỉnh cầu quan Thống sứ mấy điều như sau này : 1) Xin cho dạy bậc tiểu học bằng quốc ngữ hết cả, tiếng Pháp sẽ dạy phụ như tiếng ngoại quốc; -2) xin bậc tiểu học ấy sẽ có một cái thi tốt nghiệp bằng quốc ngữ, gọi là thi Khoá sinh; -3) xin trên bậc tiểu học đặt những lớp dự bị dạy tiếng Pháp ít là hai năm cho những học trò nào có tư cách học lên lớp trung đẳng; -4) xin Chính phủ đặt một hội đồng cải lương bậc tiểu học để xét về các phương cách thi hành mấy điều như trên đó là những điều hết thảy người trí thức trong dân An Nam đều mong mỏi cả, nhất là xét về cách làm sách giáo khoa bằng quốc ngữ, cải định chương trình mới và luyện tập các thầy giáo mới".
Trước phản ứng, thỉnh cầu của các giới cấp, và nhất là trước sự thất bại quá rõ trên thực tế của chương trình giáo dục bậc tiểu học, Toàn Quyền Đông Dương ra nghị định 19.9.1924 sửa đổi lại ba điều 134, 135 và 136 trong Học chính Tổng quy. Việc sửa đổi này được thông báo trong Nam Phong số 87, septembre 1924, trang 185, dưới nhan đề Mấy sự cải cách trong học giới:
"Điều 134. - Lý ưng thì các món tiểu học phải dạy bằng tiếng Pháp cả.
"Song vì lẽ thực tế thì dùng tiếng bản xứ để dạy ba lớp bậc tiểu học. [...]
"Điều 135. - Đặt ra một cái "bằng sơ học yếu lược" để chuẩn chứng cho sự học trong ba lớp đầu bậc tiểu học. [...]
"Điều 136. - Phàm học trò ứng thi bằng tiểu học tốt nghiệp tất phải có bằng "sơ học yếu lược bằng tiếng bản xứ" như điều trên đã định mới được.
"Nói tóm lại là trong ba lớp dưới tiểu học, bất phân trường nhà quê hay trường kẻ chợ, trường yếu lược hay trường kiêm bị, từ nay trở đi đều phải dạy bằng tiếng An Nam cả, học hết ba lớp ấy phải thi lấy một cái bằng tức như bằng "tuyển sinh" năm xưa, học trò nào có bằng ấy mới được lên lớp nhì lớp nhất và ra thi "tiểu học tốt nghiệp".
Như vậy từ tiếng Việt dưới dạng chữ nôm là một bà con nghèo đối với chữ Hán đến tiếng Việt qua chữ quốc ngữ là tiếng nói của thứ dân, tiếng Việt bây giờ tiến được một bước đáng kể, trở thành ngôn ngữ giáo dục ở cấp tiểu học, một địa vị hẳn là còn khiêm tốn nhưng không kém phần quan trọng. Trong khi chờ đợi tiếng Việt bước vào ngưỡng cửa đại học năm 1945 trong một nước Việt Nam độc lập, cái bằng sơ học yếu lược đánh dấu sự thắng lợi lớn của tiếng Việt trước sự chèn ép lần lượt của chữ Hán và của tiếng Pháp.
Nhiệm vụ nặng nề sắp tới là làm sao đặt một chương trình, soạn thảo một bộ sách giáo khoa để dạy tiếng Việt một cách thích đáng và hữu hiệu ở ba năm đầu cấp tiểu học. Xét đến mục này không thể không nhắc đến mấy tập Quốc văn Giáo khoa Thư trong bộ Việt Nam Tiểu học Tùng thư.
2. Sách QKT gồm ba tập, dùng cho lớp đồng ấu (tập I), lớp dự bị (tập II), lớp sơ đẳng (tập III). Trên bìa ấn bản 1941, in lần thứ 14, cuốn QVGKT lớp đồng ấu mà chúng tôi sử dụng có ghi rõ là "Sách này do Nha Học Chính Đông Pháp đã giao cho ông Trần Trọng Kim, ông Nguyễn Văn Ngọc, ông Đặng Đình Phúc và ông Đổ Thận soạn"
Trên bìa QVGKT lớp dự bị in 1948, có ghi Lecture (Cours Préparatoire) và QVGKT lớp sơ đẳng, 1948, Lecture (Cours Elémentaire); cả hai tập đều có chua: Rectorat de l'Université Indochine. Tous droits réservés.
QVGKT xuất bản lần đầu tiên năm nào, chưa xác định được. Nhưng vì ấn bản 1941 là lần in thứ 14, mà cứ tính ngược lại mỗi năm tái bản một lần nên theo ý chúng tôi thì lần in đầu là vào khoảng năm 1928. Tuy nhiên có thể trễ hơn, dựa theo "Lời điều trần cùng quan Thuộc địa Thượng thư" của Dương Bá Trạc (Nam Phong, số 167, novembre-décembre 1931, tr. 393), có đoạn: "Gần đây tuy đã có sửa đổi đặt riêng ra một bậc sơ học yếu lược, chuyên dạy bằng tiếng Nam, nhưng ở các trường dạy vẫn còn kèm vào rất nhiều bài chữ Pháp; và tiếng nói rằng dạy bằng tiếng Nam, mà sách dạy bằng tiếng Nam chưa có (NPP nhấn mạnh), có được một số ít cuốn thì phần nhiều cũng là dịch ở chữ Pháp ra; tệ nhất là không định ra cái kiểu cách dạy chữ Nam phải dạy thế nào [...] phải có dạy chữ một, dạy mẹo ghép chữ, mẹo đặt câu, dạy dùng chữ chắp câu mới được..."
2.1 Quốc văn Giáo khoa Thư lớp đồng ấu
QVGKT lớp đồng ấu (QVGKT/ĐÂ) có hai phần: phần I dạy chữ cái và đánh vần (34 bài, 34 trang); phần II tập đọc (55 bài, 55 trang).
Trong phần I, có đưa vào những khái niệm như phụ âm, nguyên âm, giọng (thay vì thanh) nhưng không thấy có nguyên âm đôi, bán nguyên âm. Để lưu ý cách đọc của một số phụ âm như s, r, tr thì sách chỉ mô tả cách phát âm chứ không nói đến vị trí phát âm. Sách không dạy mẫu tự theo trật tự cũ a, b, c - thứ tự này áp dụng trong sách dạy chữ quốc ngữ của Đông Kinh Nghĩa Thục, và cho đến nay vẫn còn dùng cho việc làm từ điển - mà theo lối mới, trước dạy 12 nguyên âm, sau dạy 27 phụ âm (16 đơn và 11 kép). Xem ra thì phụ âm hiểu theo nghĩa QVGKT có lúc là mẫu tưï chứ không phải là âm vị vì hiểu theo nghĩa sau thì trong tiếng Việt làm gì có phụ âm kép. Ví dụ như ngh ghi lại một âm thôi, tức là một phụ âm đơn (xem chi tiết ở chương 1 sách này).
"Lối dạy chữ cái theo sách này (tức là QVGKT/ĐÂ) được tổ chức thành hai thành phần: Bài đọc và Bài làm. Bài đọc đếm trung bình 72 từ, theo sau có mục Giải nghĩa chữ khó, khoảng 5 từ hay nhóm từ. Bài làm gồm mục Hoo các bài tập đọcïc tiếng, chừng 6 tiếng mới mỗi bài; Câu hỏi, gồm độ 5 câu. Có bài, mục Câu hỏi được thay bằng mục Đặt câu. Cứ độ bảy bài tập đọc, lại đưa vào một bài thuộc lòng gồm bốn câu thơ hay ca dao; hết được 11 bài.
Chủ đề của các bài tập đọc có thể phân ra như sau: Trường học (11 bài), Gia đình (10), Thân thể người ta ũng bức vẽ minh họa cho ta Vệ sinh thường thức (8), Cảnh và vật (11), Luân lý và cách cư xử (7), Công việc hàng ngày (7), Ngày giờ (2).
Thế giới, môi trường dùng để làm bối cảnh hay đề tài cho các bài tập đọc là thôn quê; thành thị hoàn toàn vắng bóng. Mùa cấy, mùa gặt, làm ruộng, công việc ngoài đồng, cánh đồng nhà quê, cảnh mùa xuân, trường học làng tôicây tre, chim hoàng anh, con gà trống, chim chèo bẻo, con cóc là những đầu đề dùng để xây dựng các bài tập đọc, gầy vốn từ căn bản cho con trẻ.
Gia đình với những bổn phận và giá trị truyền thống như Thờ cúng tổ tiên, Yêu mến cha mẹ, Giúp đỡ cha mẹ, Đi thưa về trình, Thăm nom cha mẹ, Anh em như thể chân tay, Thờ mẹ kính cha,... chiếm một chỗ khá quan trọng trong chương trình quốc văn năm đầu.
Trường học qua những bức vẽ minh họa cho ta thấy những cậu họ trò trường Pháp Việt thời bấy giờ, tóc đã hớt ngắn, mặc áo dài, đứng trước thầy còn phải vòng tay. Thầy giáo còn vận áo dài, đầu đội khăn, có thầy để râu chòm, hình ảnh phảng phất ông đồ xưa. Cái khác là học trò quốc ngữ khi đọc, khi viết thì ngồi vào bàn ngay ngắn không như học trò chữ nho chữ nôm nằm dài như trong câu: Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm...
Điểm đặc biệt là ngay từ bài 1, QVGKT đã giúp các em học sinh mới cắp sách lần đầu đến trường, ý thức được cái bản ngả xã hội của mình. Đúng như vậy, qua những câu ngắn gọn như Tôi đi học. Tôi học đọc, học viết... Tôi cố tôi học. Tôi chăm, tôi học..., cái bản ngã con người qua từ tôi được xác quyết mạnh mẽ. Mà từtôi nói lên cái bản ngã xã hội, của người nói ngôi thứ nhất, thích ứng cho sự đối diện với mọi hạng người trong cộng đồng. Sự dùng từ tôi để tự chỉ mình ngay trong bài đọc số 1 đánh dấu bước đầu của trẻ thơ mới nhập vào một môi trường khác hơn là gia đình.
Học trò lớp đồng ấu cũng bắt đầu học môn Vệ sinh qua những bài nói về Vận động thân thể, Nhổ bậy, Giấc ngủ, Nước bẩn, Ăn uống điều độ, ... Đề tài này được đưa vào quốc văn lớp đồng ấu quả là một điều mới lạ thời bấy giờ. Nhưng nghĩ cho cùng đây cũng là một điều mới lạ thời bấy giờ. Nhưng nghĩ cho cùng đây cũng là tiếp nối của những Bài hát răn người vừa có tính cách luân lý vừa có giáo dục vệ sinh mà Đông Kinh Nghĩa Thục đã soạn hơn 20 năm trước, như Bài răn người uống rượu, với hai câu đầu:
Đạo vệ sinh phải nên biết trước
Nghĩ rượu men là thuốc độc người...
Các bài tập đọc nhìn chung được viết bằng những câu văn ngắn gọn, trong sáng, chấm phết đúng chỗ, dễ ăn sâu vào cái óc còn non của đứa trẻ mới cắp sách đến trường, mở ra một thế giới sinh hoạt hàng ngày mà lằn ranh giữa học đường và gia đình nhòa đi, cảnh vật và con người cũng hòa hợp. Đặc biệt là từ gốc Hán rất ít gặp. Ví dụ trong bài 1 Tôi đi học, mục giải nghĩa chỉ có ba từ gốc Hán.
Có những bài rất "tầm thường" như bài 1 Tôi đi học hay bài 52, học thuộc lòng Con trâu với người đi cày, mãi đến hơn 60 năm sau khi học lần đầu, có người vẫn thuộc làu làu, đọc lại không sót một chữ.
2.2 Quốc văn Giáo khoa Thư lớp dự bị
QVGKT/DB có 119 bài; mỗi bài choán một trang, gồm hai phần: phần chính là đoạn văn để đọc, khoảng 120 chữ, thêm mục Giải nghĩa chữ khó, trung bình 3 từ. Phần phụ chia ra hai mục: Học tiếng và Làm văn. Tổng số bài học thuộc lòng là 5. Vậy so với QVGKT/ĐÂ thì số bài trong QVGKT/DB nhiều hơn, tỉ lệ ĐÂ/DB là 55/119 @ ½; bài lại dài hơn, nhiều chữ hơn, tỉ lệ: 72/120 @ 2/3.
Những chủ đề dùng để khai triển bài đọc là: Trường học (10 bài), Gia đình (9), Vệ sinh bịnh tật (10), Cảnh và vật (19), Luân lý và đào luyện tâm chí (19), Công việc và dụng cụ hàng ngày (10). Ngoài các chủ đề này đã được khai thác trong QVGKT/ĐÂ, còn được đưa vào những chủ đề mới như Lịch sử (23), Quê hương làng mạc (5), Phát minh kiến thiết (5), Thành phố (2), Linh tinh (7).
Nếu ở lớp đồng ấu, bối cảnh sự việc trong các bài tập đọc đều thuộc thời gian hiện tại thì lên lớp dự bị, có những bài đọc nói về lịch sử nước nhà đưa các em vào quá khứ.
Lịch sử có những bài nói về danh nhân, phần đông là những vị anh hùng Việt Nam đã có công kháng cự ngoại xâm phương Bắc, hoặc những ông vua hiền tài, nhưng cũng có vài người Âu như A. De Rhodes, người đặt ra chữ quốc ngữ, hoặc ông Carnot, làm quan to nước Pháp mà vẫn nhớ ơn thầy cũ, đúng với lễ giáo Á Đông.
Điều đáng lưu ý là thành phố bắt đầu mon men xen vào thế giới nông thôn của các bài tập đọc, với hai bài tả Thành phố Sài gòn và Hà Nội kinh đô mới ngày nay. Với bài sau, một cuộc dời đô, từ Huế ra Hà Nội, đã lặng lẽ xảy ra cuối thập niên 20, thế kỷ 20, chứng tích là bài đọc số 103, trang 105, QVGKT/DB.
2.3 Quốc văn Giáo khoa Thư lớp sơ đẳng

Tổng số bài trong QVGKT/SĐ là 84, mỗi bài như trong hai tập ĐÂ và DB đều kèm theo một bức vẽ minh họa nội dung của bài đọc. Bài đọc trong tập SĐ dài không đều, có bài dài 273 từ, có bài chỉ chứa 120 từ, đổ đồng mỗi bài khoảng 190 từ, không kể các bài học thuộc lòng. Số lượng các bài thuộc lòng, dưới hình thức thơ hay ca dao, gia tăng (21 bài).
Tính theo chủ đề thì Luân lý chiếm 23 bài (chia ra 18 bài về Công dân, 5 bài thuộc Gia Đình). Nói về Đức tínhTình cảm, có 19 bài. Công việcĐồ vật, 9; Phong cảnh, 6; Loài vật, 5; Mỹ thuậtKỹ thuật, 4; Thành phố, 3 bài; Học đường, 2; Linh tinh, 8.
Chương trình quốc văn lớp sơ đẳng có những điểm nổi bật như sau: học đường như một cơ sở vật chất ít được nói đến nhưng việc giáo dục những giá trị về đạo đức, phận làm con trong gia đình, đạo làm người trong xã hội, cách cư xử với loài vật, chiếm một chỗ quan trọng. Học, hạnh, khoa tu thân, sự thủy chung, đạo bằng hữu, lòng thanh liêm, tính thật thà, tình thân ái... được triển khai, cơ hồ biến một số lớn bài tập đọc thành những bài dạy luân lý theo quan điểm Khổng Mạnh.
Nếu mục đích của bài đọc là giúp cho học sinh gầy vốn từ căn bản, và qua đó tiếp xúc với thế giới vật chất và tinh thần quanh mình thì nhân sinh quan của các tác giả QVGKT thể hiện trong sách đã ảnh hưởng mạnh đến cả mấy thế hệ người Việt Nam. Đừng quên là QVGKT là sách giáo khoa độc quyền ở ba năm đầu bậc tiểu học trong suốt hơn 15 năm trời, mãi đến 1945 mới dứt.
3. Tổng luận
Nhìn chung, Quốc Văn Giáo Khoa Thư toàn tập là một thành công lớn trong bước đầu đưa môn tiếng Việt vào làm ngôn ngữ học đường.
- QVGKT đã soạn những bài tập đọc với số lượng từ vừa phải cho học sinh lớp tuổi từ 6 đến 9.
- Câu văn trong QVGKT ngắn gọn, trong sáng, chấm phết đúng chỗ, thuần Việt, ít bị những thành ngữ Hán thêm vào làm cho nặng nề. Ngôn ngữ trong QVGKT tuy là một ngôn ngữ bình dị nhưng là một ngôn ngữ viết, với rất ít đoạn đối thoại. Phải tán thưởng việc đưa vào những bài ca dao để cho con trẻ nằm lòng những tiếng nói mộc mạc nhưng không kém phần thi thơ trong dòng văn học dân gian tiếng Việt.
- Gợi ra từ QVGKT hình ảnh một nước Việt Nam nông nghiệp, một xã hội Việt Nam nông thôn, với giá trị đạo đức cổ truyền tuân theo giềng mối Khổng Mạnh là chính. Việc này chắc là phản ánh hiện thực tình hình nước Việt Nam thời làm ra QVGKT. Nhưng cũng có thể là theo ý của các tác giả thì thời bấy giờ nước Việt Nam chân chính là nước Việt Nam nông thôn, chứ nước Việt Nam thành thị e đã ngoại hóa đi rồi.
Sau cùng xin kể một câu chuyện cá nhân để nói lên dấu ấn đậm nét của QVGKT. Năm 1976 nhân chuyến đi thực địa ở tỉnh Hòa Bình, tôi có đến viếng một gia đình Mường, anh chủ nhà người Mường trạc tuổi tôi. Sau khi hàn huyên, chúng tôi bổng thấy cả hai đều còn thuộc lòng bài Đi học phải đúng giờ, bài số 1 trong QVGKT lớp sơ đẳng. Chúng tôi cùng đọc to trong tiếng cười rộn rã của cả nhà:
Xuân đi học coi người hớn hở,
Gặp cậu Thu đi ở giữa đàng...
Bài thơ 13 câu với lời bình dị đã đưa anh chủ nhà và tôi về một cộng đồng quá khứ, truyền cho chúng tôi một rung cảm đồng tình, và sau đó biến chúng tôi thành hai người bạn như quen biết từ bao giờ. Có thể nói đó là tình bạn QVGKT.
Câu chuyện cá nhân của tôi không bì với truyện Tình nghĩa Giáo Khoa Thư trong cuốn Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam mà hai nhân vật đã thuộc làu từng đoạn từng bài trong QVGKT với lời bình phẩm "Văn chương như vậy là cảm động lòng người..." Mẫu chuyện của Sơn Nam tuy là hư cấu nhưng cũng chứng tỏ QVGKT còn âm vang mạnh trong ký ức của những lớp người từ Nam chí Bắc, gốc miệt vườn hay thành thị mà đã theo học lớp năm, lớp tư, lớp ba trong thời gian 1930-1945. Chỉ điều này thôi cũng nói lên giá trị và sự thành công của Quốc Văn Giáo Khoa Thư.
KẾT LUẬN
Trong công cuộc truyền bá Phúc Âm ở Viễn Đông vào thế kỷ 16-17, các linh mục đạo Ki Tô đã vấp phải một chướng ngại lớn, đó là rào cản ngôn ngữ. Chữ quốc ngữ được phát minh nhắm giải quyết phần nào bài tính ngôn ngữ ở Việt Nam. Mô hình này trước đó đã áp dụng ở Nhật Bản, tại đây các nhà Truyền giáo có soạn thảo vài cuốn từ vựng và văn phạm Nhật ngữ bằng tiếng Nhật ghi theo mẫu tự La Tinh*. Như vậy chữ quốc ngữ trước tiên là một công cụ dùng cho việc truyền bá đạo Ki Tô được đưa vào bối cảnh văn hóa trí thức của cộng đồng Công giáo.
Nhưng khác với Nhật Bản, chữ viết theo mẫu tự La Tinh ở Việt Nam, chữ quốc ngữ, sản phẩm của sứ mệnh truyền bá Phúc âm tới các nước vùng Thái Bình Dương, lại bắt rễ, trường tồn và loại hẳn chữ nôm đã có trước, để trở thành quốc tự của nước Việt.
Chữ quốc ngữ, sản phẩm của ngoại nhân đến từ phương Tây, rốt cuộc đã lẫn nhập tốt đẹp vào môi trường văn hoá phương Đông Việt Nam. Trước tiên chữ quốc ngữ là một tay phụ tá đắc lực trong guồng máy hành chánh của chính quyền quân sự Pháp ở Nam Kỳ nửa sau thế kỷ 19 trước sự chống đối của các nhà nho kháng ngoại xâm.
Mặt khác chữ quốc ngữ cũng được Nhà cầm quyền bảo hộ xem như một phương tiện hữu hiệu để đẩy lùi, loại bỏ ảnh hưởng của chữ Hán, bứng Việt Nam ra khỏi thế giới Trung Hoa, đưa Việt Nam vào quỹ đạo văn hoá Pháp. Rồi đến đầu thế kỷ 20, các sĩ phu nho học thức tỉnh trước chiến thắng của hải quân Nhật trước hạm đội Nga Hoàng ở Eo Đối Mã Thái Bình Dương, đã hô hào học chữ quốc ngữ, xem nó như phương tiện ưu hạng để chuyển tải các tư tưởng tiến bộ, các kiến thức mới, để phổ biến sách tân học. Đối lập Hán nôm/ chữ quốc ngữ đồng nghĩa với đối lập ta/ địchđối kháng/ cộng tác ở thế kỷ 19 bắt đầu mờ đi từ đầu thế kỷ 20, nhường chỗ cho đối lập cũ/ mớithủ cựu/ hiện đại.
Chữ quốc ngữ là một chữ viết còn trẻ nhưng đã thu góp được một di sản văn hoá khá lớn. Báo chí, tiểu thuyết, là những thể loại văn học chỉ khởi đầu và phát triển với chữ quốc ngữ. Những công trình biên khảo về ngôn ngữ học như từ điển, thuật ngữ, khảo cứu ngữ pháp, cũng nằm trong lĩnh vực chữ quốc ngữ. Nói tóm lại những sáng tác thuộc về các môn học hiện đại đều viết bằng chữ quốc ngữ. Nói đến văn xuôi Việt Nam là nói đến văn (chữ) quốc ngữ.
Cuốn sách của chúng tôi, qua các chương mục triển khai, mong rằng đã soi sáng, đánh dấu những chặng đường đi của chữ quốc ngữ và theo nó là tiếng Việt, trải qua những cái ngập ngừng, những ý kiến tương phản của chính sách chữ viết ngôn ngữ dưới thời Pháp thuộc.
Sách này lẽ ra còn một phần nữa nhưng chưa thực hiện được. Phần III sẽ triển khai đề tài Chữ viết và ngôn ngữ trong nước Việt Nam độc lập qua các chương: (1) Cải cách chữ viết; (2) Thuật ngữ khoa học và kỹ thuật: mượn từ và sáng tạo từ; (3) Chánh sách ngôn ngữ.
Kết luận:
Trong công cuộc truyền bá Phúc Âm ở Viễn Đông vào thế kỷ 16-17, các linh mục đạo Ki Tô đã vấp phải một chướng ngại lớn, đó là rào cản ngôn ngữ. Chữ quốc ngữ được phát minh nhắm giải quyết phần nào bài tính ngôn ngữ ở Việt Nam. Mô hình này trước đó đã áp dụng ở Nhật Bản, tại đây các nhà Truyền giáo có soạn thảo vài cuốn từ vựng và văn phạm Nhật ngữ bằng tiếng Nhật ghi theo mẫu tự La Tinh*. Như vậy chữ quốc ngữ trước tiên là một công cụ dùng cho việc truyền bá đạo Ki Tô được đưa vào bối cảnh văn hóa trí thức của cộng đồng Công giáo.
Nhưng khác với Nhật Bản, chữ viết theo mẫu tự La Tinh ở Việt Nam, chữ quốc ngữ, sản phẩm của sứ mệnh truyền bá Phúc âm tới các nước vùng Thái Bình Dương, lại bắt rễ, trường tồn và loại hẳn chữ nôm đã có trước, để trở thành quốc tự của nước Việt.
Chữ quốc ngữ, sản phẩm của ngoại nhân đến từ phương Tây, rốt cuộc đã lẫn nhập tốt đẹp vào môi trường văn hoá phương Đông Việt Nam. Trước tiên chữ quốc ngữ là một tay phụ tá đắc lực trong guồng máy hành chánh của chính quyền quân sự Pháp ở Nam Kỳ nửa sau thế kỷ 19 trước sự chống đối của các nhà nho kháng ngoại xâm.
Mặt khác chữ quốc ngữ cũng được Nhà cầm quyền bảo hộ xem như một phương tiện hữu hiệu để đẩy lùi, loại bỏ ảnh hưởng của chữ Hán, bứng Việt Nam ra khỏi thế giới Trung Hoa, đưa Việt Nam vào quỹ đạo văn hoá Pháp. Rồi đến đầu thế kỷ 20, các sĩ phu nho học thức tỉnh trước chiến thắng của hải quân Nhật trước hạm đội Nga Hoàng ở Eo Đối Mã Thái Bình Dương, đã hô hào học chữ quốc ngữ, xem nó như phương tiện ưu hạng để chuyển tải các tư tưởng tiến bộ, các kiến thức mới, để phổ biến sách tân học. Đối lập Hán nôm/chữ quốc ngữ đồng nghĩa với đối lập ta/địchđối kháng/cộng tác ở thế kỷ 19 bắt đầu mờ đi từ đầu thế kỷ 20, nhường chỗ cho đối lập cũ/mớithủ cựu/hiện đại.
Chữ quốc ngữ là một chữ viết còn trẻ nhưng đã thu góp được một di sản văn hoá khá lớn. Báo chí, tiểu thuyết, là những thể loại văn học chỉ khởi đầu và phát triển với chữ quốc ngữ. Những công trình biên khảo về ngôn ngữ học như từ điển, thuật ngữ, khảo cứu ngữ pháp, cũng nằm trong lĩnh vực chữ quốc ngữ. Nói tóm lại những sáng tác thuộc về các môn học hiện đại đều viết bằng chữ quốc ngữ. Nói đến văn xuôi Việt Nam là nói đến văn (chữ) quốc ngữ.
Cuốn sách của chúng tôi, qua các chương mục triển khai, mong rằng đã soi sáng, đánh dấu những chặng đường đi của chữ quốc ngữ và theo nó là tiếng Việt, trải qua những cái ngập ngừng, những ý kiến tương phản của chính sách chữ viết ngôn ngữ dưới thời Pháp thuộc.
Sách này lẽ ra còn một phần nữa nhưng chưa thực hiện được. Phần III sẽ triển khai đề tài Chữ viết và ngôn ngữ trong nước Việt Nam độc lập qua các chương: (1) Cải cách chữ viết; (2) Thuật ngữ khoa học và kỹ thuật: mượn từ và sáng tạo từ; (3) Chánh sách ngôn ngữ.
Thư mục
1. Alberti, J.-B., 1934, L'Indochine d'autrefois et d'aujourd'hui, Paris, Société d'Editions éographiques, Maritimes et Coloniales, 833 p.
2. Aubaret, Gabriel, 1861, Vocabulaire français-annamite et annamite-français, Bangkok, Imp. de la Mission Catholique, XCV+96+157 p.
3. Auvade, Robert, 1965, Bibliographie critique des oeuvres parues sur l'Indochine Française. Un siècle d'Histoire et d'Enseignement, Paris, G.-P. Maisonneuve & Larose.
4. Aymonier, Etienne, 1886, Nos inscriptions. Etude sur les systèmes d'écriture en caractères européens adoptés en Cochinchine française, Excursions et Reconnaissances 12, 31-89.
5. Aymonier, Etienne, 1890, La langue française et l'enseignement en Indochine, Paris.
6. Bằng Giang, 1992, Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930, Tp Hồ Chí Minh, Nhà xb Trẻ.
7. Belloncle, Guy (sous la direction de), 1984, Alphabétisation et éducation des adultes en République Socialiste du Vietnam, Paris, Agence de Coopération Culturelle et Technique, Collection ALPHA n°9, 245 p.
8. Bùi Đức Tịnh, 1974, Văn học và ngữ học, Saigon, Lửa Thiêng, 266 tr.
9. Bùi Đức Tịnh, 1992, Những bước đầu của báo chí tiểu thuyết và thơ mới, Nhà xb Tp Hồ Chí Minh, 286 tr.
10. Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sỹ Lâm, Nguyễn Thạch Giang, 1980, Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (I và II), Hà Nội, Nhà xb ĐH và THCN, I, 497 tr. ; II, 456 tr.
11. Cadière, Léopold, 1911, Le dialecte du Bas-Annam. Esquisse de phonétique, BEFEO, XI, 1-2.
12. Christin, Anne-Marie (sous la direction de), 2001, Histoire de l'écriture. De l'idéogramme au multimédia, Paris, Flammarion, 405 p.
13. Chương Thâu, 1982, Đông Kinh Nghĩa Thục, Nhà xb Hà Nội, 252 tr.
14. Cordier, Georges, 1935, Les trois écritures utilisées en Annam : chữ nho, chữ nôm et chữ quốc ngữ (Conférence faite à l'Ecole coloniale, à Paris, le 28 mars 1925), Bulletin de la Société d'Enseignement Mutuel du Tonkin, XV, 1935, 113-122, Hanoi, Imp. Le Van Tan.
15. Đặng Thai Mai, 1976, Văn thơ cách mạng Việt Nam (in lần thứ ba), Tp Hồ Chí Minh, Nhà xb Văn Học Giải Phóng, 391 tr.
16. Đào Đăng Vỹ, 1949, Evolution de la littérature et de la pensée vietnamienne depuis l'arrivée des Français jusqu'à nos jours (1865-1946), Huế, Ed.Tao Đàn. 45 p.
17. De Francis, John, 1977, Colonialism and language Policy in Viet Nam, The Hague, Paris, New York, Mouton.
18. De Rhodes, Alexandro, 1651, Dictionarivm Anamiticvm et Latinvm, Romae, Sacrae de Congregationis.
19. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), 1997, Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Hà Nội, Nhà xb Chính Trị Quốc Gia, 555 tr.
20. Đỗ Quang Chính, 1972, Lịch sử chữ quốc ngữ, Saigon, Tủ sách Ra Khơi, 171 tr.
21. Đỗ Thúc, 1935, Văn nôm (Bài diễn thuyết ở Hội Trí tri Hà Nội), Bulletin de la Société d'Enseignement Mutuel du Tonkin, XV, 1935, 68-90, Hanoi, Imp. Le Van Tan.
22. Dubois, M., 1909, Quốc ngữ et mécanisme des sons de la langue annamite. Etude phonétique pratique, Hanoi-Haiphong, Imp. d'Extrême-Orient.
23. Dubois, M., 1910, Annamite et français. Etude phonétique pratique, Hanoi-Haiphong, Imp. d'Extrême-Orient.
24. Dương Kinh Quốc, 2001, Việt Nam. Những sự kiện lịch sử (1858-1918), Hà Nội, Nhà xb Giáo Dục, 479 tr. (tái bản lần thứ nhất).
25. Dương Quảng Hàm, 1968, Việt Nam thi văn hợp tuyển, Sài Gòn, Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học liệu xuất bản, in lần thứ 9, 268 tr.
26Dương Quảng Hàm, 1968, Việt Nam văn học sử yếu, Sài Gòn, Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học liệu xuất bản, in lần thứ 10, 496 tr.
27Génibrel, J.F.M., 1898, Dictionnaire Annamite-Français, Saigon, Imp. de la Mission à Tân Định (2è édition).
28. Haudricourt, André Georges, 1949, Origines des particularités de l'alphabet vietnamien, Bulletin Dân Viêt Nam 3 : 61-68, Hanoi.
29. Hoài Thanh - Hoài Chân, 1985, Thi nhân Việt Nam (1932-1941), Paris, Đông Nam Á (in lại từ bản chính xuất bản lần thứ hai, Hà Nội, 1943).
30. Hoàng Thị Ngọ, 1999, Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Hà Nội, Nhà xb Khoa Học Xã HộI, 231 tr + 47a,b.
31. Hoàng Xuân Hãn, 1948, Danh từ khoa học (Vocabulaire scientifique), Saigon (2è éd.).
32. Hồ Hữu Nhựt, 1999, Lịch sử giáo dục Sài Gòn thành phố Hồ Chí Minh (1698-1998), Tp Hồ Chí Minh, Nhà xb Trẻ, 274 tr.
33. Hội Khai Trí Tiến Đức, 1954, ViệT Nam Tự Điển, Sài Gòn, Hà Nội, Văn Mới.
34. Huỳnh Tịnh Paulus Của, 1895-1896, Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Saigon, Imp. Rey, Curiol & Cie (Tome I, A-L, 1895 ; Tome II, M-X, 1896).
35. Huỳnh Văn Tòng, 1973, Lịch sử báo chí Việt Nam, An Giang, Trí Đăng, 288 tr.
36. Janneau, G., 1884, Rapports de l'étude de la langue annamite vulgaire, BSEI, 21-31.
37. Karpelès, Suzanne et Louis Malleret, 1948. Notes et Documents sur l'impression des Dictionnaires de Mgr Taberd édités au Bengale en 1838, BESI, 1er trimestre, 3-18.
38. Landes, A., 1886, Notes sur le quơc ngu, BSEI, 1er semestre, 5-22.
39. Luro, Eliacin, 19005, Cours d'administration annamite professé en 1875 au Collège des Stagiaires, Saigon, Presse du Commissariat Central, 562 p.
40. Marr, David G., 1971, Vietnamese Anticolonialism 1885-1925, Berkely, University of California, 322 p.
41. Maspero, Henri, 1912. Etudes sur la phonétique de la langue annamite. Les initiales, Bulletin de l'Ecole Française d'Extrême-Orient, XII, 1.
42. Meyer, Charles, 1895, La vie quotidienne des Français en Indochine 1860-1940, Paris, Hachette.
43. Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), Lục Văn Tiên, Saigon, Tủ sách Văn Học, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc trách Văn hoá, 1973.
44. Nguyễn Huệ Chi (biên soạn), 1989, Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách, Hà Nội, Nhà xb Văn Học, 266 tr.
45. Nguyễn Khắc Kham, 1993. Lược sử công trình biên soạn tự điển Việt ngữ từ thế kỷ XVII, Tuyển tập ngôn ngữ văn tự Việt Nam, 51-68, California, Dòng Việt.
46. Nguyễn Khắc Viện, Hữu Ngọc, et al., 1975, Anthologie de la littérature vietnamienne, tome III, Hanoi, Ed. en Langues Etrangères, 655 p.
47. Nguyễn Phú Phong, 1978. A propos du nôm, écriture démotique vietnamienne, Cahiers de Linguistique Asie Orientale n°4, 43-55, Paris.
48. Nguyễn Phú Phong, 1984. Formation et standardisation du vocabulaire scientifique et technique en vietnamien, in I. Fodor et C. Hagège (éds), La réforme des langues. Histoire et avenir, vol. III, Hamburg, Buske Verlag.
49. Nguyễn Phú Phong, 1988. L'avènement du quốc ngữ et l'évolution da la littérature vietnamienne. Quelques considérations linguistiques, Cahiers d'Etudes Viet-namiennes 9, 1988, 3-18, Université Paris 7.
50. Nguyễn Phú Phong, 1990, Le vietnamien: un cas de romanisation inachevée, Cahiers d'Etudes Viet-namiennes 10, 1989-90, 25-32, Université Paris 7.
51. Nguyễn Phú Phong, 1995, Questions de Linguistique Vietnamienne. Les classificateurs et les déictiques, Paris, Presses de l'Ecole Française d'Extrême-Orient, 286 p.
52. Nguyễn Phú Phong, 2002, Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt. Loại từ và chỉ thị từ, Hà Nội, Nhà xb Đại Học Quốc Hà Nội, 234 tr.
53. Nguyễn Phú Phong, 2004, Tôi và con, cái, Hợp Lưu 77, tháng 6&7, 2004, 34-53, California, Hoa Kỳ.
54. Nguyễn Quang Tuân, Nguyễn Khắc Thuần, 1987, Từ ngữ thơ văn Nguyễn Đình Chiểu " Thơ và Văn tế ", Nhà xb Tp Hồ Chí Minh, 334 tr.
55. Nguyễn Q. Thắng, 1972, Huỳnh Thúc Kháng. Con người và thơ văn, Sài Gòn, Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hoá, 395 tr.
56. Nguyễn Q. Thắng, 1998, Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Hà Nội, Nhà xb Văn Hoá, 510 tr.
57. Nguyễn Thê Anh, 1992, Monarchie et fait colonial au Viet Nam (1875-1925). Le crépuscule d'un ordre traditionel, Paris, l'Harmattan, 195 p.
58. Nguyễn Văn Dương, 1995, Tuyển tập Phan Châu Trinh, Nhà xb Đà Nẵng, 831 tr.
59. Nguyễn Văn Trung, 1972, Chủ đích Nam Phong, Sài Gòn, 270 tr.
60. Nguyễn Văn Xuân, 1970, Phong trào Duy Tân, Saigon, Lá Bối, 375 tr. 140
61. Nguyễn Vỹ, 1970, Tuấn, chàng trai nước Việt. Quyển 1, Sàigòn, Tác giả xb, 598 tr.
62. P.-G.V., Grammaire annamite à l'usage des Français de l'Annam et du Tonkin, Hanoi, F.-H. Schneider.
63. Phạm Đán Bình, 1988, Poètes vietnamiennes et poésie française (1913-1945), Université de Paris-Sorbonne, Thèse de 3è cycle, 375 p.
64. Phạm Đán Bình, 1989, Romantisme vietnamienne et poésie française, Cahiers d'Etudes Vietnamiennes, 10, 1989-90, 33-76.
65. Phạm Đán Bình, 1994, Ecrivaines vietnamiens de langue française, Cahiers d'Etudes Vietnamiennes, 11, 1994-95, 9-22.
66. Phạm Thị Ngoạn, 1973, Introduction au Nam Phong (1917-1934). Extrait du BSEI, N.S., tome XLVIII, n° 2 et 3 (2è et 3è trimestre 1973), 170-500.
67. Pigneau (de Béhaine), Pierre, 1772 ?, Dictionarium Annamiticum-Latinum (manuscrit), Paris, Société des Missions Etrangères (édition en fax-mimilé, 2001).
68. Rivoalen, A, 1956, L'oeuvre française d'enseignement au Vietnam, France-Asie (Revue mensuelle de culture et de synthèse franco-asiatique), 1956, 13, n°125-6-7, 401-18 AOM.
69. Roucoules, E., 1889, Etude sur l'instruction publique, BSEI, 2è semestre, 25-44.
70. Roux, Jules, 1912. Le triomphe définitif en Indochine du mode de transcription de la langue anamite à l'aide des caractères romains ou " Quốc ngữ ". Conférence, Paris, Imprimerie Nouvelle.
71. Sarraut, Albert, 1923 La mise en valeur des colonnes françaises, Paris, Payot.
72. Taberd, Jean Louis, 1838, Dictionarium Annamiticum-Latinum, Serampore.
73. Thanh Lãng, 1967, Bảng lược đồ văn học Việt Nam. Quyển hạ: Ba thế hệ của nền văn học mới (1986-1945). Saigon, Nhà xb Trình Bày, 820 tr.
74. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng, 1988, Văn học Việt Nam, Giai đoạn giao thời 1900-1930. Hà Nội, Nhà xb Đại Học và Giáo Dục Chuyên Nghiệp, 439 tr.
75. Trận Đình Hượu, 1996, Đến hiện đại từ truyền thống, Hà Nội, Nhà xb Văn Hoá, 399 tr.
76. Trần Đình Hượu, 1999, Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Hà Nội, Nhà xb Giáo dục, 548 tr.
77. Trần Kinh Hòa, 1953 " An Nam dịch ngữ khảo cứu, Quốc lập Đài Loan Đại học, Văn Sử Triết Học báo, Đệ ngũ kỳ.
78. Trần Kinh Hoà, A bibliographical and linguistic study on the " An-Nam Yi-Yu ". Reprinted from Shigaku, vol. XXXIX, N° 3, 4; vo. XL, N° 1, 2, 31966-1968.
79Trần Nghĩa, 1984, Một bộ từ điển Việt-La Tinh viết tay vào cuối thế kỷ XVIII vừa sưu tầm được, Nghiên cứu Hán Nôm, 1984, 127-136, Hà Nội,Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam.
80. Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận, Quốc văn giáo khoa thư. Lớp đồng ấu, Nha Học chính Đông Pháp, 1941, in lần 14, 94 tr.; Lớp dự bị, Rectorat de l'Université Indochine, 1948, 123 tr.; Lớp sơ đẳng, Rectorat de l'Université Indochine, 1948, 104 tr.
81. Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận, 1941, Luân lý giáo khoa thư (Sách tập đọc và tập viết). Lớp sơ đẳng, Nha Học chính Đông Pháp, in lần 14, 72 tr.
82. Trần Văn Giáp, 1941, Lược khảo về khoa cử Việt Nam, Hanoi, Imp. du Nord, 47 tr.
83. Trần Văn Giáp (cb), Tạ Phong Châu, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Tường Phượng, 1971, Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I, 1971; tập II, 1972, Hà Nội, Nhà xb Khoa Học Xã Hội.
84. Trương Bá Cần, 1988, Nguyễn Tường Tộ, con người và di thảo, Nhà xb Tp HCM, 513 tr.
85. Trương Vĩnh Ký, P.J.-B., 1883, Voyage au Tonking en 1876. Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất hợi (1876), Saigon ; C. Guilland et Martinon, 32 tr.
86. Trương Vĩnh Ký, P.J.-B., 1883, Grammaire de la langue annamite, Saigon, C. Guilland et Martinon.
87. Trương Vĩnh Ký, P.J.-B., 1884, Petit dictionnaire français-annamite, Saigon, Imprimerie de la Mission à Tân Định.
88. Vandermeersch, Léon, 1986, Le nouveau monde sinisé, Paris, PUF.
89. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại. Phê bình văn học. (Q. nhất, 198 tr.; Q. hai, 265 tr. ; Q. ba, 185 tr.), Hà Nội, Nhà xb Vĩnh Thịnh, 1951 ; Q. tư (2 tập), Saigon, Nhà xb Thăng Long, 1960.
90. Viện Ngôn Ngữ Học, 1993, Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Hà Nội, Nhà xb Khoa Học Xã Hội, 325 tr.
91. Viện Văn Học, 1961, Vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ, Hà Nội, 392 tr.
92. Vũ Văn Sạch, Vũ Thị Minh Hương, Philippe Papin, 1997, Văn thơ Đông Kinh Nghĩa Thục (Prose et poésies du Đông Kinh Nghĩa Thục), Hà Nội, Nhà xb Văn Hóa.
103. Vương Lộc, 1995, An Nam dịch ngữ, Hà Nội Đà Nẵng, Nhà xb Đà Nẵng, 203 tr.
Nguyễn Phú Phong
Theo http://chimviet.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầ...