Thứ Ba, 30 tháng 8, 2022

Huình Tịnh Của (1834-1907)XXXX

Huình Tịnh Của (1834-1907)

Huình Tịnh Paulus Của hay Huình Tịnh Của người tỉnh Bà Rịa, ông thông thạo Hán và Pháp Văn. Năm 1881, được bổ ngạch Đốc phủ sứ, phụ trách công việc phiên dịch các văn án cho nhà cầm quyền Pháp tại Việt Nam.
Ông cũng là nhà văn quốc ngữ tiền phong cộng tác với Gia Định báo. Tác phẩm quan trọng trong văn nghiệp của ông rất có giá trị, đó là quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in thành 2 tập, tập I in năm 1895 từ mẫu tự A đến L, tập II in năm 1896 từ M đến X, cả hai quyển đều in tại Sàigòn do nhà in Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Rues Catinat & d"Ormay. Năm 1983, nhà sách Khai Trí có in lại 2 tập của quyển tự vị nầy.
Là tự vị quốc âm nên mỗi chữ ông ghi chữ Nôm rồi tới chữ quốc ngữ có ký chú n: nôm, c: chữ (từ Hán Việt), sau đó mới giải nghĩa, nếu là từ Hán Việt, đôi khi ông thêm câu chữ Hán vào, ví dụ : chữ Quấc trang 217 tập II .
(Chữ Nôm) Quấc n (Coi chữ quốc)
Con ---. Thứ chim đồng cao giò và hay kêu,
chữ gọi là (Đỗ)(Quyên), (Đỗ)( Võ),(Tử)(Qui)
Đỗ quiên, đỗ võ, tử qui.
Dò --- . Dài giò
Cách hành văn của ông rất mộc mạc và bình dân, cho đến nay chưa tìm thấy tác phẩm nào ông viết bằng Pháp Văn, các tác phẩm của ông cho chúng ta thấy, ông đã chú trọng vào việc điển chế và phổ biến chữ quốc ngữ.
Văn nghiệp của ông gồm có :
- Chuyện giải buồn (1880)
- Chuyện giải buồn, cuốn sau (1885)
- Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tập I (1895)
- Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tập II (1896)
- Tục ngữ, cỗ ngữ, gia ngôn (1896)
- Gia lễ quan chế
- Ca trù thể cách
- Bạch Viên Tôn Các truyện
- Chiêu quân cống Hồ truyện
- Thoại Khanh Châu Tuấn truyện
- Thơ mẹ dạy con
- Quan Âm diễn ca
(...)
Tác phẩm:
Chuyện Ký Viên
Ông Ký-viên, thuở còn đi học, dạo ra ngoài đồng, thấy có ba ông già chừng bảy, tám mươi tuổi, tóc râu trắng bạc, lum khum cuốc đất, công việc làm như kẻ còn trai. Ông Ký-viên hỏi: - Ba ông tuổi tác chừng ấy, tiếp dưỡng thế nào, mà sức lực còn mạnh thể ấy ? Một ông trả lời rằng: Thất nội cơ thô xú (nghĩa là trong nhà vợ thô kém); một ông đáp rằng: Vãn phạn giảm sổ khẩu (nghĩa là: cơm chiều bớt và miếng); ông thứ ba đối lại rằng: Dạ ngọa bất phúc thủ (nghĩa là: Đêm nằm chẳng úp đầu). Ông Ký-viên bèn nối ba câu ấy mà rằng : Chỉ tại tam tẩu ngôn, Sở dĩ thọ trường cửu (nghĩa là: ý chỉ thay lời ba ông, chỗ do sống lâu xa)
Chính là lời dạy người ta muốn hưởng tuổi xa, thì phải tiết ẩm thực, viện sắc dục, vẫn hợp với lời Tiền Kiên ca rằng: Thượng sĩ dị phòng, Trung sĩ dị bị, phục dược bách lõa, bất như độc ngọa; (nghĩa là: kẻ thượng sĩ riêng phòng, kẻ trung sĩ riêng mền; uống thuốc trăm viên, chẳng bằng nằm riêng)
Đính vận cả hai bài ca:
Thất nội cơ thô xú
Vãn phạn giảm sổ khẩu
Dạ ngọa bất phúc thủ
Chỉ tai tam tẩu ngôn!
Sở dĩ thọ trường cửu.
( Trích Miscellanées)
Chuyện tên Giáp
Có tên dân nghèo, gần mãn tháng chạp, trong mình không có manh áo cho lành, nghĩ qua tết nhứt lấy chi mà ăn mặc, lén vợ vác một cây hèo ra núp xó mả, chờ có ai đi lẻ bọn chận mà ăn cướp. Hồi lâu thấy một người lom khom đi tới, anh ta vác hèo chạy ra, thì là ông già vác bao gạo đứng xó ró bên đàng, nói nội mình không có giống gì, chỉ có năm ba cân gạo mới xin bên thằng rể đem về ăn cho đỡ đói. Tên Giáp không nghe, giựt bao gạo, lại muốn lột cái áo rách của ông già, ông già năn nỉ lắm mới thôi. Giáp vác gạo về, vợ hỏi gạo ở đâu? Giáp nói dối rằng gạo người ta tụi tiền cờ bạc, chớ gạo ở đâu! Giáp nghĩ chước ấy hay, ngày sau lại ăn quen đi nữa, hồi lâu thấy một người vác đoản côn cũng tới tại gò mả, ngồi chồm hổm ngó mong, coi ý cũng là một người đồng đạo. Giáp thụt lui trở ra, tên kia thất kinh hỏi ai vậy? Giáp nói là người đi đàng. Hỏi sao không đi? Giáp nói tôi đợi anh. Tên kia cười. Hai đàng hiểu ý nhau, nói chuyện nghèo khổ. Canh khuya không đặng vật gì, tên Giáp buồn ý muốn về. Tên kia nói: anh đi làm nghề, mà coi ý còn quê, xóm trước kia có nhà gả con lấy Huình Tịnh Của (1834-1907)
Huình Tịnh Paulus Của hay Huình Tịnh Của người tỉnh Bà Rịa, ông thông thạo Hán và Pháp Văn. Năm 1881, được bổ ngạch Đốc phủ sứ, phụ trách công việc phiên dịch các văn án cho nhà cầm quyền Pháp tại Việt Nam.
Ông cũng là nhà văn quốc ngữ tiền phong cộng tác với Gia Định báo. Tác phẩm quan trọng trong văn nghiệp của ông rất có giá trị, đó là quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in thành 2 tập, tập I in năm 1895 từ mẫu tự A đến L, tập II in năm 1896 từ M đến X, cả hai quyển đều in tại Sàigòn do nhà in Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Rues Catinat & d"Ormay. Năm 1983, nhà sách Khai Trí có in lại 2 tập của quyển tự vị nầy.
Là tự vị quốc âm nên mỗi chữ ông ghi chữ Nôm rồi tới chữ quốc ngữ có ký chú n: nôm, c: chữ (từ Hán Việt), sau đó mới giải nghĩa, nếu là từ Hán Việt, đôi khi ông thêm câu chữ Hán vào, ví dụ : chữ Quấc trang 217 tập II .
(Chữ Nôm) Quấc n (Coi chữ quốc)
Con ---. Thứ chim đồng cao giò và hay kêu,
chữ gọi là (Đỗ)(Quyên), (Đỗ)( Võ),(Tử)(Qui)
Đỗ quiên, đỗ võ, tử qui.
Dò --- . Dài giò
Cách hành văn của ông rất mộc mạc và bình dân, cho đến nay chưa tìm thấy tác phẩm nào ông viết bằng Pháp Văn, các tác phẩm của ông cho chúng ta thấy, ông đã chú trọng vào việc điển chế và phổ biến chữ quốc ngữ.
Văn nghiệp của ông gồm có :
- Chuyện giải buồn (1880)
- Chuyện giải buồn, cuốn sau (1885)
- Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tập I (1895)
- Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tập II (1896)
- Tục ngữ, cỗ ngữ, gia ngôn (1896)
- Gia lễ quan chế
- Ca trù thể cách
- Bạch Viên Tôn Các truyện
- Chiêu quân cống Hồ truyện
- Thoại Khanh Châu Tuấn truyện
- Thơ mẹ dạy con
- Quan Âm diễn ca
(...)
Tác phẩm:
Chuyện Ký Viên
Ông Ký-viên, thuở còn đi học, dạo ra ngoài đồng, thấy có ba ông già chừng bảy, tám mươi tuổi, tóc râu trắng bạc, lum khum cuốc đất, công việc làm như kẻ còn trai. Ông Ký-viên hỏi: - Ba ông tuổi tác chừng ấy, tiếp dưỡng thế nào, mà sức lực còn mạnh thể ấy ? Một ông trả lời rằng: Thất nội cơ thô xú (nghĩa là trong nhà vợ thô kém); một ông đáp rằng: Vãn phạn giảm sổ khẩu (nghĩa là: cơm chiều bớt và miếng); ông thứ ba đối lại rằng: Dạ ngọa bất phúc thủ (nghĩa là: Đêm nằm chẳng úp đầu). Ông Ký-viên bèn nối ba câu ấy mà rằng : Chỉ tại tam tẩu ngôn, Sở dĩ thọ trường cửu (nghĩa là: ý chỉ thay lời ba ông, chỗ do sống lâu xa)
Chính là lời dạy người ta muốn hưởng tuổi xa, thì phải tiết ẩm thực, viện sắc dục, vẫn hợp với lời Tiền Kiên ca rằng: Thượng sĩ dị phòng, Trung sĩ dị bị, phục dược bách lõa, bất như độc ngọa; (nghĩa là: kẻ thượng sĩ riêng phòng, kẻ trung sĩ riêng mền; uống thuốc trăm viên, chẳng bằng nằm riêng)
Đính vận cả hai bài ca:
Thất nội cơ thô xú
Vãn phạn giảm sổ khẩu
Dạ ngọa bất phúc thủ
Chỉ tai tam tẩu ngôn!
Sở dĩ thọ trường cửu.
( Trích Miscellanées)
Chuyện tên Giáp
Có tên dân nghèo, gần mãn tháng chạp, trong mình không có manh áo cho lành, nghĩ qua tết nhứt lấy chi mà ăn mặc, lén vợ vác một cây hèo ra núp xó mả, chờ có ai đi lẻ bọn chận mà ăn cướp. Hồi lâu thấy một người lom khom đi tới, anh ta vác hèo chạy ra, thì là ông già vác bao gạo đứng xó ró bên đàng, nói nội mình không có giống gì, chỉ có năm ba cân gạo mới xin bên thằng rể đem về ăn cho đỡ đói. Tên Giáp không nghe, giựt bao gạo, lại muốn lột cái áo rách của ông già, ông già năn nỉ lắm mới thôi. Giáp vác gạo về, vợ hỏi gạo ở đâu? Giáp nói dối rằng gạo người ta tụi tiền cờ bạc, chớ gạo ở đâu! Giáp nghĩ chước ấy hay, ngày sau lại ăn quen đi nữa, hồi lâu thấy một người vác đoản côn cũng tới tại gò mả, ngồi chồm hổm ngó mong, coi ý cũng là một người đồng đạo. Giáp thụt lui trở ra, tên kia thất kinh hỏi ai vậy? Giáp nói là người đi đàng. Hỏi sao không đi? Giáp nói tôi đợi anh. Tên kia cười. Hai đàng hiểu ý nhau, nói chuyện nghèo khổ. Canh khuya không đặng vật gì, tên Giáp buồn ý muốn về. Tên kia nói: anh đi làm nghề, mà coi ý còn quê, xóm trước kia có nhà gả con lấy chồng, dọn dẹp cả đêm, lẽ nào cũng mỏi mệt, thôi anh theo tôi, có được sẽ chia đôi. Giáp mừng đi theo tới cửa ngõ, cách vách nghe nấu bánh, biết trong nhà chưa ngủ, rình bên vách. Một chặp có người mở cửa đi gánh nước, hai người lẻn vào, thấy đèn leo lét để đàng phía chái, nhà trong thì tối đen. Một người đờn bà nói: con hai chịu khó đi coi nhà trong, đồ đạc con để trong rương, không biết đã khóa chưa. Nghe tiếng con gái nho nhỏ, nói giọng chả chớt, làm biếng, hai người mừng thầm, ẩn bóng chạy vào nhà trong, mò nhằm cái rương, dở nắp thăm coi nghe sâu hóm. Tên kia nói thầm, biểu Giáp chun vào lấy được một gói đưa ra. Tên kia hỏi còn hết? Giáp nói hết. Tên kia gạt Giáp, biểu mò nữa, sẽ lén đậy nắp rương khóa lại rồi bước rảo đi mất. Giáp ở trong rương lúng túng một hồi, thấy đèn sáng rọi vào, nghe một người đờn bà nói: ai đã khóa rồi. Hai mẹ con đem nhau lên giường, tắt đèn mà ngủ. Giáp lục đục không biết làm chước gì mà ra cho khỏi, mới giả làm chuột cạp sột sột trong rương, đứa con gái nghe, kêu mẹ nói trong rương có chuột. Người mẹ nói: tao mệt quá, mầy phải đi coi kẻo nó cắn hết áo quần mầy. Đứa con gái chờ dậy lấy khóa mở rương, Giáp ở trong rương chờn vờn nhảy ra, đứa con gái hoảng kinh ngã ngửa. Giáp rầm chạy đại, dầu không đặng chi mà cũng mừng khỏi hoạ. Nhà gái bị ăn trộm đồn ra, có kẻ nghi cho Giáp. Giáp sợ trốn đi xứ xa, ở với nhà giàu làm thuê mướn; việc nguôi ngoai rồi mới dám trở về làm ăn, bỏ nghiệp du côn.
Rút từ Chuyện giải buồn - cuốn sau.
Bản in Quản hạt, Sài Gòn, 1895.
 
( Trích " Các Nhà Văn Quốc Ngữ Tiền Phong " - Huỳnh Ái Tông) 
Huình Tịnh Của (1834-1907)
Huình Tịnh Paulus Của hay Huình Tịnh Của người tỉnh Bà Rịa, ông thông thạo Hán và Pháp Văn. Năm 1881, được bổ ngạch Đốc phủ sứ, phụ trách công việc phiên dịch các văn án cho nhà cầm quyền Pháp tại Việt Nam.
Ông cũng là nhà văn quốc ngữ tiền phong cộng tác với Gia Định báo. Tác phẩm quan trọng trong văn nghiệp của ông rất có giá trị, đó là quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in thành 2 tập, tập I in năm 1895 từ mẫu tự A đến L, tập II in năm 1896 từ M đến X, cả hai quyển đều in tại Sàigòn do nhà in Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Rues Catinat & d"Ormay. Năm 1983, nhà sách Khai Trí có in lại 2 tập của quyển tự vị nầy.
Là tự vị quốc âm nên mỗi chữ ông ghi chữ Nôm rồi tới chữ quốc ngữ có ký chú n: nôm, c: chữ (từ Hán Việt), sau đó mới giải nghĩa, nếu là từ Hán Việt, đôi khi ông thêm câu chữ Hán vào, ví dụ : chữ Quấc trang 217 tập II .
(Chữ Nôm) Quấc n (Coi chữ quốc)
Con ---. Thứ chim đồng cao giò và hay kêu,
chữ gọi là (Đỗ)(Quyên), (Đỗ)( Võ),(Tử)(Qui)
Đỗ quiên, đỗ võ, tử qui.
Dò --- . Dài giò
Cách hành văn của ông rất mộc mạc và bình dân, cho đến nay chưa tìm thấy tác phẩm nào ông viết bằng Pháp Văn, các tác phẩm của ông cho chúng ta thấy, ông đã chú trọng vào việc điển chế và phổ biến chữ quốc ngữ.
Văn nghiệp của ông gồm có :
- Chuyện giải buồn (1880)
- Chuyện giải buồn, cuốn sau (1885)
- Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tập I (1895)
- Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tập II (1896)
- Tục ngữ, cỗ ngữ, gia ngôn (1896)
- Gia lễ quan chế
- Ca trù thể cách
- Bạch Viên Tôn Các truyện
- Chiêu quân cống Hồ truyện
- Thoại Khanh Châu Tuấn truyện
- Thơ mẹ dạy con
- Quan Âm diễn ca
(...)
Tác phẩm:
Chuyện Ký Viên
Ông Ký-viên, thuở còn đi học, dạo ra ngoài đồng, thấy có ba ông già chừng bảy, tám mươi tuổi, tóc râu trắng bạc, lum khum cuốc đất, công việc làm như kẻ còn trai. Ông Ký-viên hỏi: - Ba ông tuổi tác chừng ấy, tiếp dưỡng thế nào, mà sức lực còn mạnh thể ấy ? Một ông trả lời rằng: Thất nội cơ thô xú (nghĩa là trong nhà vợ thô kém); một ông đáp rằng: Vãn phạn giảm sổ khẩu (nghĩa là: cơm chiều bớt và miếng); ông thứ ba đối lại rằng: Dạ ngọa bất phúc thủ (nghĩa là: Đêm nằm chẳng úp đầu). Ông Ký-viên bèn nối ba câu ấy mà rằng : Chỉ tại tam tẩu ngôn, Sở dĩ thọ trường cửu (nghĩa là: ý chỉ thay lời ba ông, chỗ do sống lâu xa)
Chính là lời dạy người ta muốn hưởng tuổi xa, thì phải tiết ẩm thực, viện sắc dục, vẫn hợp với lời Tiền Kiên ca rằng: Thượng sĩ dị phòng, Trung sĩ dị bị, phục dược bách lõa, bất như độc ngọa; (nghĩa là: kẻ thượng sĩ riêng phòng, kẻ trung sĩ riêng mền; uống thuốc trăm viên, chẳng bằng nằm riêng)
Đính vận cả hai bài ca:
Thất nội cơ thô xú
Vãn phạn giảm sổ khẩu
Dạ ngọa bất phúc thủ
Chỉ tai tam tẩu ngôn!
Sở dĩ thọ trường cửu.
( Trích Miscellanées)
Chuyện tên Giáp
Có tên dân nghèo, gần mãn tháng chạp, trong mình không có manh áo cho lành, nghĩ qua tết nhứt lấy chi mà ăn mặc, lén vợ vác một cây hèo ra núp xó mả, chờ có ai đi lẻ bọn chận mà ăn cướp. Hồi lâu thấy một người lom khom đi tới, anh ta vác hèo chạy ra, thì là ông già vác bao gạo đứng xó ró bên đàng, nói nội mình không có giống gì, chỉ có năm ba cân gạo mới xin bên thằng rể đem về ăn cho đỡ đói. Tên Giáp không nghe, giựt bao gạo, lại muốn lột cái áo rách của ông già, ông già năn nỉ lắm mới thôi. Giáp vác gạo về, vợ hỏi gạo ở đâu? Giáp nói dối rằng gạo người ta tụi tiền cờ bạc, chớ gạo ở đâu! Giáp nghĩ chước ấy hay, ngày sau lại ăn quen đi nữa, hồi lâu thấy một người vác đoản côn cũng tới tại gò mả, ngồi chồm hổm ngó mong, coi ý cũng là một người đồng đạo. Giáp thụt lui trở ra, tên kia thất kinh hỏi ai vậy? Giáp nói là người đi đàng. Hỏi sao không đi? Giáp nói tôi đợi anh. Tên kia cười. Hai đàng hiểu ý nhau, nói chuyện nghèo khổ. Canh khuya không đặng vật gì, tên Giáp buồn ý muốn về. Tên kia nói: anh đi làm nghề, mà coi ý còn quê, xóm trước kia có nhà gả con lấy chồng, dọn dẹp cả đêm, lẽ nào cũng mỏi mệt, thôi anh theo tôi, có được sẽ chia đôi. Giáp mừng đi theo tới cửa ngõ, cách vách nghe nấu bánh, biết trong nhà chưa ngủ, rình bên vách. Một chặp có người mở cửa đi gánh nước, hai người lẻn vào, thấy đèn leo lét để đàng phía chái, nhà trong thì tối đen. Một người đờn bà nói: con hai chịu khó đi coi nhà trong, đồ đạc con để trong rương, không biết đã khóa chưa. Nghe tiếng con gái nho nhỏ, nói giọng chả chớt, làm biếng, hai người mừng thầm, ẩn bóng chạy vào nhà trong, mò nhằm cái rương, dở nắp thăm coi nghe sâu hóm. Tên kia nói thầm, biểu Giáp chun vào lấy được một gói đưa ra. Tên kia hỏi còn hết? Giáp nói hết. Tên kia gạt Giáp, biểu mò nữa, sẽ lén đậy nắp rương khóa lại rồi bước rảo đi mất. Giáp ở trong rương lúng túng một hồi, thấy đèn sáng rọi vào, nghe một người đờn bà nói: ai đã khóa rồi. Hai mẹ con đem nhau lên giường, tắt đèn mà ngủ. Giáp lục đục không biết làm chước gì mà ra cho khỏi, mới giả làm chuột cạp sột sột trong rương, đứa con gái nghe, kêu mẹ nói trong rương có chuột. Người mẹ nói: tao mệt quá, mầy phải đi coi kẻo nó cắn hết áo quần mầy. Đứa con gái chờ dậy lấy khóa mở rương, Giáp ở trong rương chờn vờn nhảy ra, đứa con gái hoảng kinh ngã ngửa. Giáp rầm chạy đại, dầu không đặng chi mà cũng mừng khỏi hoạ. Nhà gái bị ăn trộm đồn ra, có kẻ nghi cho Giáp. Giáp sợ trốn đi xứ xa, ở với nhà giàu làm thuê mướn; việc nguôi ngoai rồi mới dám trở về làm ăn, bỏ nghiệp du côn.
Rút từ Chuyện giải buồn - cuốn sau.
Bản in Quản hạt, Sài Gòn, 1895.
 
( Trích " Các Nhà Văn Quốc Ngữ Tiền Phong " - Huỳnh Ái Tông) 
chồng, dọn dẹp cả đêm, lẽ nào cũng mỏi mệt, thôi anh theo tôi, có được sẽ chia đôi. Giáp mừng đi theo tới cửa ngõ, cách vách nghe nấu bánh, biết trong nhà chưa ngủ, rình bên vách. Một chặp có người mở cửa đi gánh nước, hai người lẻn vào, thấy đèn leo lét để đàng phía chái, nhà trong thì tối đen. Một người đờn bà nói: con hai chịu khó đi coi nhà trong, đồ đạc con để trong rương, không biết đã khóa chưa. Nghe tiếng con gái nho nhỏ, nói giọng chả chớt, làm biếng, hai người mừng thầm, ẩn bóng chạy vào nhà trong, mò nhằm cái rương, dở nắp thăm coi nghe sâu hóm. Tên kia nói thầm, biểu Giáp chun vào lấy được một gói đưa ra. Tên kia hỏi còn hết? Giáp nói hết. Tên kia gạt Giáp, biểu mò nữa, sẽ lén đậy nắp rương khóa lại rồi bước rảo đi mất. Giáp ở trong rương lúng túng một hồi, thấy đèn sáng rọi vào, nghe một người đờn bà nói: ai đã khóa rồi. Hai mẹ con đem nhau lên giường, tắt đèn mà ngủ. Giáp lục đục không biết làm chước gì mà ra cho khỏi, mới giả làm chuột cạp sột sột trong rương, đứa con gái nghe, kêu mẹ nói trong rương có chuột. Người mẹ nói: tao mệt quá, mầy phải đi coi kẻo nó cắn hết áo quần mầy. Đứa con gái chờ dậy lấy khóa mở rương, Giáp ở trong rương chờn vờn nhảy ra, đứa con gái hoảng kinh ngã ngửa. Giáp rầm chạy đại, dầu không đặng chi mà cũng mừng khỏi hoạ. Nhà gái bị ăn trộm đồn ra, có kẻ nghi cho Giáp. Giáp sợ trốn đi xứ xa, ở với nhà giàu làm thuê mướn; việc nguôi ngoai rồi mới dám trở về làm ăn, bỏ nghiệp du côn.
Rút từ Chuyện giải buồn - cuốn sau.
Bản in Quản hạt, Sài Gòn, 1895. 
Huỳnh Ái Tông
Nguồn: Trích "Các Nhà Văn Quốc Ngữ 
Tiền Phong" - Huỳnh Ái Tông
Theo http://chimviet.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...