Thứ Tư, 2 tháng 10, 2024

XXXXBất đáo trường thành phi hảo hán

Bất đáo trường thành phi hảo hán

Thay lời tựa

- Cho Trinh Dương Bá Huy

- Cho Ái Liên Hương

- và tất cả tranh sinh trong

ban Tranh Cầm Minh Đức

 

“Bất đáo trường thành phi hảo Hán”.

Đáo Trường Thành rồi đấy mà không biết đã được gọi là hảo Hán chưa, sự đáo Trường Thành nầy chỉ là một huyễn tưởng hay đã là sự thật. Gặp tướng Uy chấn Hung Nô Mông Điềm, hay tướng Nam bình Chiêm, bắc phạt Tống Lý Thường Kiệt, đó là sự thật hay chỉ ở trong giấc mơ. Đố ai biết được lúc nào Trang Chu là hồ điệp và lúc nào hồ điệp là Trang Chu.

Thôi thì xin cứ xem như đây là một đứa con ngông cuồng mà tác giả đã có khi cũng rất cuồng ngông, dám thấy mình ngang với đấng sáng tạo, những trang sách nhỏ bé nầy, ước mong sẽ mang lại cho ai, vài khi, một nụ cười hay một thoáng suy tư… có như thế mới khỏi phụ cái công “đèn sách”. Nét hoành là thời gian và nét hoạch là ranh giới của không gian chăng?

Còn năm tháng, chắc sẽ còn phải tái đáo Trường Thành để gặp nốt những ai đáng gặp và xem nốt những gì đáng xem. Có những người sống và những người chết, nếu cái thuyết Luân Hồi mà đúng thì câu chuyện Đáo Trường Thành nầy sẽ làm vui, làm hài lòng nhiều người, chắc thế. Hài lòng vì đã nói lên được một vài điều muốn nói.

Cuối đông Canh Ngọ 1990.

PHẦN I - 1 -

Nhớ đến mẹ tôi ngày xưa, mỗi lần có gì rầy la, dạy bảo chúng tôi, bà thường nói câu: “Các con làm như vậy không phải là hảo hán”. Mới độ lên bảy, lên tám, chưa đến tuổi hiểu biết, thì hai chữ hảo hán quả thực chẳng có ý nghĩa gì. Hẳn trước kia, mẹ tôi cũng đã từng bị bà ngoại rầy câu ấy, và chắc bà ngoại cũng đã nghe bà cố…rồi cứ thế mà truyền lên tới thời nước ta bị quân nhà Hán sang đánh chiếm…Con làm thế nầy không phải là hảo hán, thế kia không phải là hảo hán. Chữ hảo hán trở thành một tỉnh từ, như khi nói đến một cái gì tốt đẹp. Không phải hảo hán tức là xấu, là làm sai, phản lại với đạo đức, luân lý. Nhưng thuở bé chưa biết gì và chưa làm tội gì nặng, ngoài mấy cái tội như tội chạy ra nắng buổi trưa, hoặc trèo cây hái quả non, chưa chín mà đã hái ăn. Chỉ có thế mà đã bị mẹ mắng rằng không phải hảo hán, thì chắc hảo hán phải là một thứ gì ghê gớm, tốt lành, tuyệt vời lắm chăng.

Từ độ lớn lên, chung quanh chẳng còn nghe ai nói, ngay cả mẹ tôi cũng không dùng mấy chữ ấy. Có phải vì sau nầy chúng tôi hết phá phách, hết nghịch ngợm không còn làm những điều đáng bị đánh đòn nữa, hay là chúng tôi đã trở thành hảo hán dưới mắt người mẹ. Giá bà cụ còn sống thì sẽ bị tôi đưa câu chuyện ra để hạch hỏi, cũng chưa chắc mẹ tôi đã trả lời được với những câu vặn vẹo “lý sự cùn” của tôi.

Sáng nay lúc xe đến Vạn Lý Trường Thành, trên xe toàn ngoại nhân, chỉ có tôi là Á Ðông, là người Việt Nam, ngoài hai ông tài xế và chú hướng đạo. Tôi cũng là ngoại nhân, tuy cùng mầu da vàng, ngoài ra chẳng thấy có gì giống nhau với các chú Tàu nầy. Nhờ có học Hán ngữ ngày còn sống ở Pháp và vẫn tiếp tục nuôi dưỡng nó, nên hôm nay mới có thể đọc được mấy chữ khá lớn, kẽ lên một tấm bảng to, trước khi xe vào đổ bến dưới chân Trường Thành.

Mấy chữ “Bất Đáo Trường Thành Phi Hảo Hán” nầy làm tôi buồn cười, nhất là riêng ba chữ phi hảo hán. Chợt nghĩ đến người mẹ, lúc nào cũng dạy các con bằng những câu, những chữ mà lắm khi chẳng hề biết đến xuất xứ.

Nếu còn mẹ thì lúc về điều trước nhất là chạy đi tìm để khoe rằng bây giờ tôi thật quả là hảo hán rồi đó. Mục đích của cuộc viễn du nầy đã được ghi từ lâu vào trong chương trình mà mãi đến hôm nay mới có thể thực hiện. Hôm nay ai làm gì thì làm, đi đâu thì đi, riêng phần tôi đã nhất quyết sang sang Bắc Kinh, đáo Trường Thành để thăm người bạn.

Bảo rằng bạn, dùng chữ nầy liệu có đúng, đã có mấy lần nằm mơ thấy ông ta đến thăm, từ độ còn ở Pháp, hôm nay đến phiên tôi đi gặp ngài, gọi là đáp lễ. Bạn tôi là tướng Mông Điềm, nói ngay cho mọi người khỏi thắc mắc.

Tính theo ngày tháng của nhà Phật, một trăm năm cõi trần chỉ là một ngày của cung trời Đao Lợi, nếu tính theo cung trời Đâu Suất lại càng ít hơn, hình như phải đến ba trăm năm. Hôm nay, nếu chỉ tính theo ngày tháng của trời Đao Lợi thì tướng Mông Điềm mới chết chưa có bao lâu, một tháng hơn là nhiều.

Tôi sẽ mang mấy điểm thắc mắc ra chất vấn, may ra có giải ưu được một phần nào, những gì đang ngày đêm quằn quại trong tâm tư của nhiều người, nhất là người dân Việt chúng ta.

Xe đổ xuống bến, người “gít” (guide) là một chú “chệt” trẻ, biết nói tiếng Anh dáng dấp lịch sự, từ cách ăn mặc đi đứng, đến lối xử dụng ngoại ngữ khá thông suốt, ít thổ âm. Đây chắc phải là một trong những vị con ông cháu cha, nếu không là mật vụ chính cống mới được vào chức vị nầy. Đâu phải bất cứ ai muốn làm “Gít” là được phép hành nghề ngay, khi tưởng rằng mình có biết thông thạo một thứ ngoại ngữ. Nào phải dễ, hầu hết trên các nước cộng sản đều như thế, huống hồ nơi đây là xứ Trung Hoa, xứ của Mao xếnh xáng và nàng Giang Thanh, xứ đã từng phát minh ra những tên người máy, hồng vệ binh, đánh dân mình không nương tay, nhìn người chết không xót xa.

Xuống xe, người “gít” dặn: “Quý vị đi đâu thì cứ đúng năm giờ chúng ta gặp nhau ở đây”.

Vạn Lý Trường Thành, sự thực thì cũng chẳng xa Kinh Đô Bắc Kinh là bao nhiêu, xe chỉ đi vào lối hơn một giờ, sáng nay vì có đến viếng ngôi mộ của vua nhà Minh nên mới kéo dài thời gian. Lại có một bữa cơm trưa thật dở, chẳng đáng nửa đồng tiền Trung Hoa chứ không phải nửa đồng Mỹ kim đâu. Tôi nói với các bạn đồng hành, giá hồi Tổng Thống Nixon sang mà cho ăn như thế nầy thì chắc chúng ta không có ngày hôm nay. Mọi người cùng đồng ý.

Toàn một lũ quen ăn ngon mặc đẹp ở những nước tự do, thế mà hôm nay đến đây bị người ta xem như thứ ốm đói, cho ăn gì thì chỉ biết nhắm mắt nuốt vậy. Nhưng thôi, mục đích của những chuyến đi nầy đâu phải để ăn, vả lại, có thiếu gì hiệu ăn đang chờ ở ngoài phố.

Trước khi nói đến cái Trường Thành nầy phải nói đến chuyến đi của tôi. Chẳng có gì lạ, nhân có đôi bạn khá thân ở Hồng Kông, vợ chồng ông Staedtler, làm giám đốc cái Trung Tâm Văn Hóa Đức. Mỗi lần thư từ họ hay khoe chuyện đi chơi Trung Cộng, đi viếng bao nhiêu nơi, ông chồng còn được mời thường xuyên sang dạy về môn triết cho nhiều đại học ở xứ của các chú chệt ấy. Họ hỏi tôi có muốn đi thì sẽ tổ chức cho mà đi, chỉ gửi tiền sang là thực hiện ngay.

Tưởng họ sẽ tổ chức cho đi như thế nào, không ngờ họ ỷ rằng tôi biết đọc biết viết, tức là phải biết ăn, biết nói. Thế thì ta tổ chức bắt đi “lẻ loi một mình” cho nó biết thân.

Khi đến Hồng Kông, nhận được một phong bì dày cộm với mấy chục cái vé máy bay, phòng trọ giữ sẵn, và chương trình di chuyển ngày nào phải đi chuyến máy bay nào, ở phòng trọ nào… Eo ôi, quý vị hại tôi chi lắm, tôi hét lên phản kháng dậm chân kêu trời.

-Quý vị tưởng tôi còn chân cứng đá mềm như ngày xưa hay sao. Phải cho con người ta được quyền già nua, bệnh hoạn chứ, làm sao tôi có thể đối phó với bao nhiêu nỗi khó khăn đây.

Nói gì cũng đã lỡ, thôi thì đành nhắm mắt đưa chân, xem như ván đã đóng thuyền. Điểm cần biết nhất, tưởng nên khai ra đây để cho những ai rủi bị đặt vào hoàn cảnh của tôi hôm nay, mặc dầu có hằng triệu người đã đi trước, nhưng sao chẳng mấy khi được nghe ai nói đến những nỗi khó khăn vất vả. Hẳn vì người ta đi từng phái đoàn, nào tiền hô, hậu ủng, ngày đêm lúc nào cũng có ban tổ chức lo lắng, hướng dẫn.

Điểm quan trọng cần phải biết nhất, là dầu cho vé máy bay đã được giữ chỗ xong cả rồi, nhưng khi vừa đến một nơi nào, cũng vẫn phải lo chạy đi giữ chỗ lại một lần nữa mới đủ chắc, trước khi đi chơi đâu, nếu không thì không có chỗ và “Cái nị rán mà chịu lớ, ngộ không piết đau lớ…”

Sự kiện nghe qua chẳng có gì khó nhất là khi chúng ta quen sống trên một xứ tự do, nhưng trên thực tế nó đa đoan phiền phức vô cùng, mình đã không giàu, lại không phải là dân bản xứ để biết đường biết lối Trước hết là vấn đề di chuyển, làm sao đón tắc xi, đây gọi là “xi xơ” tức là khí xa vì không thể có phương tiện nào khác hơn. Vẫn có, nhưng phải dành cho người bản xứ mới đủ hiểu biết các ngõ ngách, mình là thứ ngoại nhân mới vừa đến, có biết gì mà cũng chẳng quen ai.

Người đâu mà nghi ngút, chen chúc xô đẩy, bản xứ quá nhiều mà ngoại nhân cũng không thiếu. Nơi nào cũng thấy từng đoàn người nối đuôi nhau chờ đợi. Tất cả đều đi làm cái công việc tôi vừa nói trên, tức là đi giữ chỗ máy bay. Sau khi đứng đợi cả giờ, để rồi lúc đến phiên mình thì được nghe một giọng lanh lảnh rằng rằng: “Pu sư…” Nếu ở một quày khác còn đỡ, lắm lúc văn phòng của hãng máy bay nầy lại được thiết ngay trong một khách sạn. Thế là, lại trèo lên tắc xi đi nữa, ngoại nhân thường phải giữ tắc xi, các chú lo đi giao dịch hộ cho, cố nhiên là đến lúc về trả tiền bằng thích. Sự bực mình lên đến độ không còn chữ để tả, thảo nào mà có nhiều người lúc bực tức quá đã thốt ra những câu nặng nề.

Chưa hết đâu, còn cả trăm, cả nghìn sự bực mình nho nhỏ khác, có khi cũng chẳng nhỏ đâu, nhất là vấn đề tiền tệ. Có hai thứ tiền như nơi nào có người Hoa Kỳ là xứ ấy phải đặt ra hai thứ tiền như thế chăng. Một thứ tiền dành cho người bản xứ, và một thứ dành cho “dương quỷ tử”, tức là lũ ngoại nhân mang đồng đô la xanh đổ vào cho Thiên Triều Trung Quốc. Vấn đề nầy thôi để gác lại vào một khi khác, hơn nữa, nó cũng là một vấn đề mà hẳn tất cả mọi người đều đã gặp. Mục đích của tôi hôm nay không phải để than thở, kể lể những bực dọc mà để nói câu chuyện “Đáo Trường Thành”, đến thăm ông tướng Mông Điềm, người bạn vong cả hai nghìn niên của tôi.

Sau khi nghe tên hướng dẫn dặn dò, chúng tôi chia tay mỗi đứa đi một nơi, và tôi đã bỏ hết mọi người đi lang thang một mình, tìm ông bạn.

Người đông chen chúc, toàn là hảo hán cả chăng. Tôi đứng trên cao, nhìn bên đông, nhìn bên tây, muốn nhận xe nơi nào là biên giới phía Hung Nô.

Sau khi đi một lúc, tìm được một chỗ, tựa vào thành ngồi nghỉ chân, nơi nầy tôi có thể phóng tầm nhìn khắp gần xa. Tôi vừa ngồi là tướng Mông Điềm đến ngay, câu hỏi thứ nhất mang giọng hơi trách móc.

– Sao mãi bây giờ mới chịu đến thăm nhau.

Tôi trả lời ngắn ngủi, tin rằng nó hàm đủ ý nghĩa.

-Nhất ẩm, nhất trác giai do “tiền” định (một cuộc ăn uống – ẩm là uống mà trác là ăn, (cách ăn như chim mổ), cũng phải được tiền định.

Tướng Mông Điềm hỏi thăm tôi về tình hình Việt Nam, ngày giờ nầy ray sao? Người trần, tôi đâu có thể biết hơn ngài được, chẳng qua đây chỉ là một vài câu đối thoại giáo đầu để làm bớt sự ngỡ ngàng của buổi sơ kiến đó chăng, biết vậy, tôi vẫn phải trả lời cho đủ lễ.

-Kiệt quệ đủ mọi mặt. Nhưng tôi đến đây còn có một vài thắc mắc muốn hỏi tướng công, vì thế mới phải cất công, vượt bao nhiêu gian nan.

-Thế à, vậy thì cứ hỏi đi.

-Tôi muốn hỏi sao độ ấy tướng công u mê thế. Nhận được lệnh bảo chết mà cũng ngoan ngoãn thi hành à, lý trí để đâu.

Tướng Mông Điềm trợn mắt nhìn tôi ngập ngừng một lúc lâu, hẳn đời ông ta chưa bao giờ gặp người bạo mồm bạo miệng như tôi. Dám chê một vị tướng đã từng trấn thủ biên cương, uy chấn Hung Nô là u mê.

– Quân xử thần bất tử bất trung (Vua xử tội bắt chết, thần phải theo, nếu không là bất trung).

Tướng Mông Điềm miễn cưỡng trả lời, tôi lắc đầu không đồng ý.

-Thế tướng công không chút nghi ngờ rằng đó chỉ là một tờ kiểu chiếu của Triệu Cao hay sao? Tướng công cũng biết, tên Triệu Cao mưu mô thủ đoạn, lại chỉ là một thứ gián quan, nhờ những hành động luồn lọt gian ngoan mà được lên đến địa vị ấy thì nào có giá trị gì?

Tướng Mông Điềm quắc mắt nhìn tôi, giọng dữ dằn hơn ban nãy.

-Thế bà quên rằng lúc ấy có Thừa Tướng Lý Tư cùng đi với Triệu Cao hay sao, vì thế chúng tôi mới bị mắc mưu. Ngay đến Lý Tư rồi cũng phải vào tròng. Hai tên ấy mưu mô để giết cả Phù Tô là người cương trực lại có nhiều lòng nhân. Phù Tô đã từng can gián Phụ Hoàng khi ông chôn các học sĩ và đốt sách. Nếu để Phù Tô lên nối ngôi, ông nầy là con trưởng, tất nhiên, chỗ đứng của Triệu Cao sẽ không còn và chắc chắn là đến cả cái mệnh vận của dòng họ nhà hắn cũng không còn. Chính vì ý kiến của tên Triệu Cao mà Tần Thủy Hoàng mới nổi cơn đại nộ, khi nghe Phù Tô cực lực can gián. Cái chết của các bậc vua chúa, Quốc Trưởng hầu hết đều chỉ vì bị những lời xúi dục của lũ nịnh thần, mà chúng thì toàn là những kẻ hiểm độc, bao giờ cũng có nhiều mưu chước.

– Tại sao lại đặt tên là Phù Tô? Nếu là đứa con trưởng, đứa con mà mình biết sẽ nối dõi. Tôi ư? tôi sẽ chọn một cái tên, cũng sẽ lấy từ Lục Thao của Thái Công Binh Pháp ra mà đặt cho con, chứ Phù Tô chỉ là phù trợ nhỏ nhoi, Phù Tô là Phù Tư, khí giới của khin xa, những cổ xe nhẹ mà thôi, phải vậy không thưa tướng công?

– Cô biết gì nhiều không mà dám nói?

– Không biết nhiều thì biết ít, mà ít nhất cũng đã có đọc Lục Thao và trong thiên Hổ Thao có câu: “Vũ Dực, Đại Lỗ, Mâu Kích, Phù Tư, thất thập nhị cự..” Mà Phù Tư với Phù Tô là một, đúng không?

– Bây giờ đến phần tôi thắc mắc đặt câu hỏi.

– Tướng công có gì thắc mắc? Xin cứ hỏi, nếu trả lời được sẽ xin trả lời ngay.

– Tại sao tò mò dữ vậy. Quân sự là vấn đề của nam giới chúng tôi kia mà, đàn bà chỉ nên…

Không để tướng Mông Điềm nói hết câu, tôi cắt lời ngay:

– Xin lỗi, tướng công sống từ đời nhà Tần, trên 2000 năm rồi. Thời buổi bây giờ thay đổi khác hẳn, vả lại gặp sách hay, sách đáng đọc, thì phải đọc chứ có hại ai. Nếu tướng công biết ngày nay ở West Point, trường quân sự xứ Hoa Kỳ hiện tại, còn có cả con gái Việt-nam vào học, và hẳn tướng công đã nghe danh hai vị nữ tướng Trưng Trắc và Trưng Nhị của Việt-nam chúng tôi đấy chứ.

– Trưng Trắc, Trưng Nhị…

Nghe giọng nói ngập ngừng nhắc lại, tôi thấy mình cần phải soi tỏ vấn đề, để khỏi có sự thắc mắc về sau.

– Vâng, chúng tôi gọi hai bà là Trưng Nữ Vương, hai nữ tướng đã từng bắt Tô Định phải bỏ thành Luy Lâu mà chạy, chỉ trong vòng một năm mà hai bà đã thâu được 65 thành ở cõi Lĩnh Nam.

– Những người ở vùng Quảng Đông và Quảng Tây vẫn dành bảo là của họ đấy, bà cũng biết chứ?

– Tôi biết, họ gọi Hai Bà là những nữ tặc, Trưng Thị, Triệu Thị…Nhưng xin tướng công nhớ cho là ngày xưa, nước Việt chúng tôi phía Bắc giáp tới Động Đình Hồ…Tuy nói vậy chứ ngày giờ này nếu có người mang Lưỡng Quảng mà trả lại chắc chúng tôi cũng chẳng ham, chẳng nhận đâu.

– Chúng ta đổi vấn đề thảo luận chăng, lâu lắm không gặp, đến lúc gặp lại đưa những hận thù cũ ra nhắc lại.

– Tôi đồng ý nhưng xin tướng công nhớ rằng thời ấy người Việt chúng tôi đã tiếp tay cho Hán Cao Tổ rất nhiều trong việc đánh dẹp nhà Tần đấy nhé.

– Con người nầy cũng lì lắm nhỉ!

– Con cháu của bà Trưng bà Triệu mà.

Nói xong tôi vội ngừng, quả thật ở đời không nên gây xáo trộn, cũng như tránh sự chuốc thêm oán thù, chuyện đâu còn có đó, tôi đổi vấn đề.

-Tôi còn muốn hỏi tướng công một vài điều nữa, một là về cây đàn tranh, hai là cây bút. Có người bảo rằng chính tướng công đã chế ra cây đàn ấy chứ chuyện hai chị em giật cây đàn Sắt để ra thành cây đàn tranh là vô lý, nhưng có người lại bảo rằng… Tranh là đàn có từ đời nhà Tần, người đời nghĩ rằng do Mông Điềm tạo ra. Nếu xét cái phẩm của của nó, bên trên cong như vòm trời, bên dưới phẳng như mặt đất ở giữa trống rỗng hoài lục hợp, dây đàn tượng cho mười hai tháng, thiết ra là tứ tượng tại đó, vỗ lên là ngũ âm phát ra, một vật phẩm hội được cả vừa đức Nhân lại vừa đức Trí “Khởi Mông Điềm, vong quốc chi thần, năng chi tai ” (Mông Điềm là thứ thần mất nước mà có thể tạo ra được sao).

Câu cuối tôi cố đọc nguyên Hán văn, để nhìn xem sắc mặt ông tướng có thay đổi, tôi lại hỏi tiếp.

– Tướng công nghĩ sao về những lời bình trong Đỗ Thị Thông Điển nầy?

Tướng Mông Điềm thở dài, trầm ngâm nhìn đoàn người lũ lượt lên xuống, một lúc mới lắc đầu nói giọng thật trầm, chậm rãi.

– Người ta nói thì mình đành chịu chứ biết sao, nhất là khi đã thành âm dương cách biệt. Có thể bảo rằng tại trấn ở cái vùng xa xôi hẻo lánh nầy, nếu không có cây đàn thì làm gì mỗi khi rảnh rỗi, nhớ nhà, nhất là, bà cũng biết ngày xưa cách hàng nghìn năm trước cảnh vật đâu phải như ngày nay. Có thể nói một điều, tôi đã sửa chữa từ nặng nề đổi thành nhẹ nhàng hơn, cho dễ di động mỗi khi có cuộc hành quân, bảo rằng tôi tạo ra hoàn toàn cũng không đúng hẳn. Nó là biến thể từ cây đàn Sắt… Chắc bà đã nghe nói đến Hoàng Đế một hôm ngài buồn, lệnh mời Tố Nữ bảo tấu một khúc đàn cho khuây, bà nầy tấu khúc Bạch Tuyết làm cho ngài càng buồn hơn. Nghệ sĩ đang lúc cao hứng không chịu ngừng mặc dầu đã được lệnh, ngài giận quá đã đập đàn vỡ đôi. Từ đó cây đàn sắt chỉ còn có 25 giây, trước đàn Sắt có những 50 giây.

Thấy ông tướng có vẻ không vui, tôi tìm lời an ủi.

– Dầu sao tên tuổi của tướng công cũng đã được vào sử xanh một cách vẻ vang, tướng công có muốn nghe tôi đọc ngay cho mà nghe: “Mông Điềm, tướng của Tần Thủy Hoàng, gốc người nước Tề, đã cầm ba chục vạn quân về phía Bắc, dẹp được Nhung Địch, từ Hoàng Hà đến Na Lĩnh, đánh các châu địa, tu chỉnh Vạn Lý Trường Thành từ Lâm Thao đến Chiêu Đông… mười năm sống nơi biên ải..”

Tướng Mông Điềm ngơ ngác nhìn tôi hỏi giọng ngạc nhiên.

– Sao học đâu mà thuộc lòng nhớ hay vậy?

– Tại tôi nghiên cứu về cây đàn tranh nên phải biết, đã hết đâu, còn cây bút nữa, tướng công quả thật là văn vũ toàn tài…

Tướng Mông Điềm nghe tôi nói đến đây, cắn môi lắc đầu.

– Văn vũ mà làm gì, rồi cũng bị bức tử.

– Tướng công có tin rằng mỗi con người đều có cái phần số, cái vận mệnh của mình, những gì đã do mình tạo nên từ mấy kiếp trước?

– Cũng tin, nhất là bây giờ, sau khi đã trải qua bao nhiêu thử thách, nhưng tôi muốn biết mục đích của bà sang đây để làm gì? Các chính trị gia sang để tìm đường lối, xin nâng đỡ, xin chức quyền, xin viện trợ, hỗ trợ. Ông nào cũng tiu nghỉu trở về vì thiếu tiền, bản quốc làm gì có thừa tiền mà viện trợ cho ai, tự nuôi lấy dân mình còn vất vả. Mà chẳng kiếm ra đủ tiền nuôi quân thì cũng vô ích. Lấy quân lính, lấy khí giới đâu mà tính chuyện đánh ai.

– Tôi sang đây để gặp tướng công, chỉ có mỗi mục đích nầy là chính, hôm nay gặp nhau đây, coi như đã đạt được. Ngoài ra, có thể còn một số vấn đề thắc mắc, cần xin ý kiến của tướng công. Người ta vẫn hỏi tôi, tại sao người cộng sản ác dữ vậy. Ai cũng nghĩ rằng dân tộc Á Đông với cái khối gia tài triết lý của người xưa để lại thì sẽ không bao giờ có thể làm thay đổi. Khi nghe báo cáo những công trình của bà Giang Thanh với đạo Hồng Vệ Binh độc địa, độc ngay cả với chính những người thân ruột của mình, tướng công trả lời sao.

– Tôi biết những câu hỏi của bà rồi, gặp Sihanouk thì bà lên đặt câu hỏi trước tất cả mọi người rằng, nếu bà Jackie Kennedy tái giá thì Đức Ông nghĩ sao? Gặp nhà văn Pakin thì hỏi, sao Mao chủ tịch là bậc lãnh tụ anh minh, thương dân thương nước, mà nỡ để cho Tứ Nhân Bang lộng hành, ác độc làm khổ dân quá vậy?

– Ô hay sao tướng công biết, tại hôm ấy nghe ông vua Sihanouk ca tụng cố tổng thống Kennedy quá, mà miền Nam chúng tôi lại chẳng có bang giao, tôi nói dối là buôn bán để xin lên Nam Vang nhân cuộc họp báo đầu tiên sau bao nhiêu năm đóng cửa của ông vua ấy.

– Thế mà người ta cũng cho bà đi họp báo à, họ còn tốt đấy, gặp mấy ngài cộng sản là bà vào tù rồi.

– Thì cũng cầu may, chắc họ nghĩ rằng tôi chỉ là thứ đàn bà, phụ nhân nan hóa cũng như các đồng bào hay ngay tướng công cũng đã nghĩ. Họ cho tôi đến họp báo mà còn xúi bảo tôi ngày mai bà cứ lên chất vấn đặt câu hỏi với  “Monseigneur”, không sao đâu. Thế thì sợ ai mà tôi không lên đặt câu hỏi. Cố nhiên, tôi cũng đã phải suy nghĩ trước nên hỏi những câu nào cho người ta đừng chê báo chí mình yếu kém, và nhất là chê đàn bà u mê, chỉ biết ăn diện… Hơn nữa, sau khi nghe Đức Ông ca tụng cố Tổng Thống Kennedy quá cỡ, thì câu hỏi của tôi chỉ có ý nói rằng: Được làm vợ một vĩ nhân, nhưng bà ta chỉ là “người” chứ nào phải thần thánh gì, mà bắt phải chịu cảnh góa bụa cô đơn như thế thì ngài có thấy là đáng thương không, theo ngài thì sao? Mục đích của tôi lúc hỏi chỉ có thế.

– Rồi Đức Ông trả lời sao?

-Tôi vừa hỏi xong, tại lũ báo chí nó đập bàn đập ghế vỗ tay la hét om sòm, chưa kể là sau đó, câu hỏi được đánh điện về khắp nơi, cố nhiên, nó đã làm cho Đức Ông đâm ra lúng túng, ngài chẳng biết phải trả lời như thế nào cho hợp tình hợp cảnh. Thế là ngài tự ý thay đổi chương trình không cho nhà báo lên hỏi nữa, ngài tự trả lời, xem như đây là tất cả điều mà quý vị muốn biết, quý vị sẽ hỏi.

– Thế là vô tình bà đã hại anh em rồi chứ gì.

– Tôi đâu có cố tình, mà tướng công có nhận thấy câu hỏi của tôi rất vô tư không, nếu tướng công còn ở đời, rồi trong một cuộc họp báo nào đó, gặp tôi thì cũng vậy, cũng sẽ được tôi hỏi những câu rất xây dựng và rất không có ác ý tí nào.

– Bà nói thế thì với câu hỏi trong cuộc họp báo của nhà văn Pakin ở Paris thì sao, cũng vẫn tự cho rằng mình không có ác ý?

– Không, tại hôm ấy người ta đặt toàn những câu hỏi u mê quá, mà nhà văn cũng than sự bị Tứ Nhân Bang hành hạ đủ mọi điều, chịu không nổi, nên tôi hỏi để thay đổi. Câu hỏi cũng bị một sự la lối đập bàn đập ghế om sòm và sau đó tôi được bao nhiêu người đến bắt tay. Họ cho rằng mãi bây giờ mới có một câu hỏi vừa ý.

– Rồi nhà văn Pakin trả lời như thế nào?

– Nhà văn ầm ừ một lúc, nói lúng túng rằng tại nị ở ngoài xứ, không biết nhiều… và sau đó, người ta tuyên bố không cho hỏi nữa, lý do vì nhà văn đã cảm thấy mệt, cần phải trở về nằm nghỉ.

– Lại hại anh em một lần nữa, nhưng theo bà vừa nói thì thế nào là một câu hỏi u mê?

– Người ta hỏi về sự ăn uống, có đàn bà làm báo ở xứ Trung quốc hay không… Tôi cho là vô bổ, với một nhân vật như thế, một nhà văn lớn như thế…

– Phải rồi, và sau những câu hỏi của bà là chẳng ai còn được lên hỏi nữa chứ gì, người ta sợ phải gặp những loại ký giả ác ôn móc họng như bà đó thôi. Thảo nào mà mấy ông lớn thường hay tránh không muốn gặp báo chí, phải bản lĩnh lắm…

Tôi lắc đầu không đồng ý, tự thấy mình hiền lành chẳng bao giờ muốn phá ai, bao giờ cũng chỉ muốn làm sáng vấn đề. Các bạn tôi đặt cho cái biệt hiệu là “petit soldat” (tên lính nhỏ) mỗi khi đi đâu mà chúng thấy có tôi là chúng đến bắt tay hỏi thăm trước, xem hôm nay tên lính nhỏ có lên lên tiếng hỏi han gì không. Nhưng tôi chỉ nhúc nhích lúc nào thật cần chứ lệ thường, ở ngoài cuộc đời tôi vẫn là thứ đuổi ruồi không thèm bay. Thấy hơi phí thì giờ vì những vấn đề không quan hệ tôi vội nhắc ông tướng.

– Tướng công chưa trả lời tôi.

– Ừ nhỉ, bà hỏi sao người Á Đông ác.

– Không phải cá nhân tôi hỏi, mà đây là một câu hỏi thắc mắc của ngoại nhân, mỗi khi người ta gặp tôi.

– Người Á Đông làm gì cũng tinh vi, thì sự độc ác cũng phải tinh vi chứ sao. Hẳn bà còn nhớ tên Triệu Cao. Tần Thủy Hoàng chết rồi mà hắn không cho tin ấy ra, sợ quân thần, sợ chúng tôi biết. Hắn đã làm những điều kinh khủng để che dấu, thí dụ như cho xe chở cá thối đi theo để mọi người không nghe mùi hôi lạ… Tại hắn mà nhà Tần mất. Tần Thủy Hoàng quá nghe lời sàm tấu nên mới làm thất nhân tâm đi đến chỗ bị tiêu diệt. Đây là một bài học cho người sau, chỉ tiếc rằng người sau không bao giờ chịu học. Khi đã nắm được địa vị trong tay thì chỉ còn biết nhắm mắt hưởng thụ, không nghĩ đến sự thương dân thương nước gì nữa. Để phó mặc cho một lũ gian nịnh thần lộng hành. Lịch sử đã chứng minh cả trăm nghìn lần.

– Theo tướng công, nếu vậy thì làm sao để cứu chữa cái tệ đoan ấy.

– Một vị lãnh tụ cần phải có kiến thức, phải có đức độ. Phải biết nhận xét ai là thiện tri thức, ai là người hiền, người có đủ sự hiểu biết, có tài, trí, đức. Không bao giờ nên nghe lời nịnh hót, ca ngợi dưới bất cứ một hình thức nào. Không cho phép gia đình, bà con mình và bà con vợ mình ra để gánh vác, nếu xét người ấy thiếu khả năng. Không hiếu sắc, những tên hiếu sắc là vứt đi, phải đặt chữ Đức trên chữ Sắc, nhưng tôi không tin rằng bà sang đây chỉ để gặp tôi mà thôi, bà phải còn mục đích gì khác nữa.

– Cũng có, tôi muốn cố lùng mua mấy quyển sách, nếu ở đây không tìm thấy thì phải sang Hồng Kông.

– Sách loại gì mà dữ vậy.

– Loại cổ Thiên Văn, sách về Địa Lý thì quá nhiều, dễ kiếm mà sách về Thiên văn thật khó. Ngay cả những hiệu bán sách chuyên môn cũng không tìm thấy.

– Đó là hai môn học để làm “Đế Vương chi Sư” (làm thầy nhà vua). Tần Thủy Hoàng đốt sách đã làm mất đi khá nhiều, thật đáng tiếc. Mà nếu chỉ nói đến Tần Thủy Hoàng không cũng chưa đúng, người sau mỗi khi mở một cuộc chiến là tiêu diệt, thiêu hủy biết bao nhiêu thư viện, biết bao nhiêu là pho sách quý, mà chỉ vì sự u mê cuồng loạn của một số người, đã biến ra thành tro bụi. Tội nghiệp, hận nào bằng.

– Thế tướng công có bao giờ tiếc cái công trình xây đắp của mình không?

– Chẳng nên tiếc, ngày nay nhờ đó mà mọi người còn có chỗ đến du ngoạn. Vả lại chỉ mình bức trường thành nầy là các phi hành gia ở trên không gian có thể nhìn xuống mà trông thấy. Những cơ sở ngụy tạo khác dầu là Kim Tự Tháp hay Empire State Building, hay gì gì đi nữa cũng bị mù mịt khói sương che, chẳng ai nhìn thấy.

– Mỗi viên đá ở đây là một mạng sống để xây đắp nên cái Vạn Lý Trường Thành nầy, có phải vậy không?

– Người sinh ra không chết trước cũng chết sau, bà cứ thử nhìn xem những nơi nào có sự hy sinh xương máu của người trước thì người sau mới lấy đó mà gây cơ đồ, sống nhờ vào đấy. Trái lại, những nơi nào bằng phẳng quá thì nơi ấy chẳng có gì để lôi cuốn du khách. Ai không tin cứ nhìn ra thế giới sẽ thấy, điển hình là Pompeii, sau trận đá núi lửa đổ xuống đầu dân chúng vào năm 79, mấy chục nghìn người bị chết ngạt, ngay cả cái nhà ông Pline, bố nhà văn La Tinh, vì muốn nhìn gần mà cũng bị ngạt thở đến chết. Khổ nào nói cho hết thế mà đấy, ngày giờ nầy du khách kéo đến đông đảo, người nào chưa đặt chân đến là có cảm tưởng thua chúng kém bạn.  Ở Âu Châu nơi nào có dấu ngựa của quân La Mã tràn tới thì ngày nay tấp nập ngựa xe. Dân chúng trong vùng tha hồ mà mua bán, mà kêu gọi du khách. Và, như bà đã biết, mỗi một đoàn quân đi đến đâu là gây ra bao nhiêu tang tóc, rồi những cái Kim Tự Tháp ở Ai Cập hay Mễ Tây Cơ cũng vậy, rồi các đền đài cung điện.. Tuy chưa đến nổi như bà vừa nói, mỗi viên gạch một mạng người, nhưng cũng đòi hỏi sự đóng góp sưu cao thuế nặng bắt dân phải chịu, làm kiệt quệ tài lực.

Nghe đến đây bắt tôi chợt nhớ đến cái Cô Tô đài của Ngô Vương xây cho nàng Tây Thi, tôi đặt ngay một câu hỏi rất xa câu chuyện đang nói.

– Tướng công nghĩ gì về Phạm Lãi.

– Một thiên tài, một nhà tiên tri, biết Việt Vương Câu Tiễn có hai tướng xấu mà khi Việt bị Ngô đánh bại, đã một lòng cương quyết, trung thành, hành động xứng danh quân tử, để đưa nước Việt trở lại vinh quang rửa được cái nhục chiến bại, để rồi sau khi công thành là thân thối, dầu Việt Vương có hăm dọa, vẫn ra đi, không thèm ở lại hưởng lộc.

– … và cũng để rồi đi uống trà trên Ngũ Hồ, có phải vậy không?

– Ừ, nói đến uống trà, tiếc rằng chúng ta gặp nhau hôm nay, ngay trên bức Trường Thành, tôi không có hoàn cảnh đãi tri kỷ một chén trà. Hẹn nhau một nơi khác vậy.

– Tướng công có dịp sang Hoa Kỳ xin mời đến Ngô Trúc, tệ xá, sẽ có đủ các thứ từ Bạch Trà, đến Thanh Trà, Hồng Trà…

– Bao giờ bà trở lại cái đất tạm cư ấy?

– Chắc không lâu, nhưng tôi còn phải ghé lại Hồng Kông thăm các bạn và đi lùng mua ít sách về Thiên Văn như tôi vừa thưa với tướng công.

– Hơi khó kiếm đấy, chỉ một vài chương xen kẽ, chứ riêng về Thiên Văn chưa chắc đã tìm ra.

– Lý do vì sao?

– Ngày xưa bắt đầu từ thời Đường, Tống, môn nầy bị cấm. Ai thù hận ai, chỉ cần đi báo với quan sở tại rằng người ấy đêm nào cũng ra sân sau, ngước mặt lên trời, như có ý theo dõi các vì sao. Thế là chẳng cần điều tra hạch hỏi, quan cứ việc cho lính đến trói giam vì tội tiềm đồ phản nghịch muốn tìm hiểu thiên cơ để mưu cầu sự lật đổ.

– Xem chừng cũng chẳng khác gì dưới Mao đại nhỉ?.

– Chẳng có gì mới lạ, đại nào cũng thế thôi, dưới ánh mặt trời… bà biết câu châm ngôn Pháp quốc ấy chứ.

– Tướng công nghĩ gì về sự đắc cử của đảng Cộng Hòa tại Hoa Kỳ vừa rồi, chắc tướng công có theo dõi báo chí chứ.

Tướng Mông Điềm gật đầu nói giọng vui vẻ.

– Hẳn bà đang nghĩ rằng tôi sẽ bảo là nhờ một số phiếu của người tị nạn nhà bà, phải vậy không?

Tôi cãi ngay rằng tôi chưa nghĩ đến điều ấy, mà nếu có nghĩ thì cũng không hẳn đã sai.

– Nhưng quý vị nên biết rằng chẳng ai nên đặt hết cả số trứng vào một giỏ. Nếu tôi là người Việt tị nạn khôn ngoan, có uy tín với cộng đồng, thì tôi sẽ đề nghị là, chúng ta hãy đặt tầm nhìn xa hơn, và chia công tác cho đều. Có thể lúc nầy như vậy, nhưng 4 năm sau sẽ có những thay đổi khác thì sao, ai sẽ là người đại diện để ra ăn nói.

Tôi biết rằng tướng Mông Điềm nói không sai lắm, nhưng tôi cứ cãi bướng lấy câu sấm Trạng Trình ra, bắt chước theo các chính trị gia nhà ta, đưa hỏi tướng Mông Điềm.

– “Mã đề, dương cước anh hùng tận”. Theo như câu sấm nầy thì quý vị ấy đã giảng ra rằng, chỉ đến cuối năm Ngọ và năm Mùi, tức thị cộng sản, là những người mà từ trước đến nay vẫn tự xưng mình là anh hùng ấy, sẽ phải tận, và người Việt chúng tôi sẽ kéo nhau về nước, tướng công có tin như thế không?

Tướng Mông Điềm lắc đầu nhìn tôi hơi thoáng chút thương hại chắc trong ý nghĩ ông cho tôi là thứ phụ nhân nan hóa (đàn bà khó dạy) chăng.

Câu chuyện còn có thể kéo dài nhưng thấy xa gần, mọi người đã lũ lượt dẫn dắt, nắm tay nhau đi xuống. Các bạn đồng hành thấy tôi ngồi tựa lưng vào thành, nhìn ra xa, đến hỏi tôi có biết là đã tới giờ rồi không.

Tôi vội vàng giã từ ông bạn, hẹn trở lại ngày mai để còn chất vấn về cây bút, cây đàn và có thể là rất nhiều vấn đề khác nữa.

- 1 - (2)

Chào Hảo Hán.

Tôi giật mình nhận ra giọng nói quen thuộc của cố nhân. Sáng nay ngài có vẻ chải chuốt, tươm tất hơn. Hôm qua chắc là vì hơi vội, khi quân hầu báo tin có viết sũ, khách phương xa đến tìm, nên ngài không kịp chuẩn bị sửa soạn chăng.

– Chào tướng công, nhưng sao ngài gọi tôi là Hảo Hán, tôi là…

– Biết rồi, bà là người Việt Nam, con cháu bà Trưng bà Triệu… Nhưng hôm qua nếu tôi không lầm thì hình như bà có ghi vào sổ tay câu “Bất đáo Trường Thành phi Hảo Hán”. Vậy thì sau khi đáo Trường Thành bà phải là Hảo Hán chứ còn gì nữa.

Tôi gật đầu, cười cho qua vấn đề, chợt nhớ đến một câu nói của một nhân vật nào, không biết ai, tôi mang câu nói ấy ra làm mồi câu chuyện.

– Tướng công có nghe một ý kiến rằng, nếu trong một thời điểm nào đó, mà con số một tỷ người Trung quốc nầy, cùng hẹn nhau, chụm chân nhảy vọt lên một lần, một hai cái thôi, là cả địa cầu rung rinh.

Tướng Mông Điềm mỉm cười, vui thích, ông nói tiếp theo.

– Thế bà không nghe rằng, nếu cả tỷ người Trung Hoa nầy mà cùng nhau mỗi người nhổ một bãi nước bọt, thì thế giới sẽ ngập lụt.

– Nhưng đừng quên rằng chính quý vị sẽ điên đảo bì bõm trước, vì nước ấy sẽ cuồn cuộn chảy dưới chân quý vị cơ mà.

Chủ, khách cùng cười vui vẻ, đồng ý sự khai mạc buổi gặp mặt, mở đầu câu chuyện bằng những lời nói đùa như thế, thì cuộc đối thoại tất nhiên sẽ được cởi mở hơn.

– Quên hỏi bà đi bằng xe gì để đáo Trường Thành hôm nay.

– Tôi bị xếp vào cái khách sạn Hoa Kiều, hơi xa và buồn quá. Hôm qua tôi nói với tướng công câu: Nhất ẩm, nhất trác, giai do tiền định. Chữ tiền nầy viết với bộ “kim”, chứ không phải tiền với bộ “đao” đâu nhé. Xin nhớ cho.

– Nhớ rồi, làm nghề viết mướn như quý vị, thì chỉ có chữ tiền là tiền bạc, là đồng Đô La đấy chứ gì. Ngưng bà có thấy là chúng tôi, tuy đọc lên nghe tưởng giống nhau, nhưng khi viết thì rõ ràng, khác hẳn, chữ nào ra chữ ấy. Ngày xưa quý vị có thứ chữ Nôm, thật là độc đáo, phải phục cái nhân vật nào đó đã sáng tạo ra.

– Bảo rằng chỉ có một người mà sáng tạo ra chữ Nôm thì không đúng, chữ Nôm của chúng tôi được sáng chế ra là do nhu cầu cấp bách của thời đại, có những chữ mà Hán ngữ không có, như chữ Ổi, chữ Cù, chữ Ớt… Chúng tôi cũng đã cần mượn đến Lục Thư của quý quốc để mở đầu đấy chứ.

– Hay thật, chẳng kém gì Triều Tiên, Nhật Bản. Bảo rằng mượn Lục thư của chúng tôi, nhưng chúng tôi cũng phải chịu thua, muốn đọc cũng chỉ lõm bõm vài chữ. Đúng là do từ cái tinh thần độc lập, bất khuất, không chịu bị ai chi phối, không muốn lệ thuộc vào ai. Thật đáng khâm phục, đề cao. Cho nên hồi năm Nhâm Tý 1772 khi ông vua trẻ tuổi của quý vị, vua Quang Trung, sau khi đã thắng trận Ngọc Hồi, làm cho tướng nhà Thanh, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự vẫn. Tôn Sĩ Nghị phải hốt hoảng chạy về mạn Bắc, đến địa phận huyện Phương Nhãn, đã phải vứt bỏ ấn tín để thoát thân…

– Ồ sao tướng công nhớ lịch sử của chúng tôi hay đến thế.

– Thì hôm qua bà đọc lên vanh vách về tướng Mông Điềm, hôm nay bỉ nhân phải trả lễ, phải thuộc bài cho bà chứ.

À ra thế, tôi nghĩ thầm, chắc ông tướng nầy biết rằng ngày mai thế nào tôi cũng còn trở lại, nên đêm qua ông mở sử của Việt Nam xem vài đoạn chăng? Đây là nghề của các nhà ngoại giao, biết trước ngày mai sẽ có khách nào đến thăm là học qua vài đoạn văn, đoạn sử hoặc nhân vật để chứng tỏ sự quan tâm của mình với người ấy, xứ ấy.

– Tướng công đã nói đến vị vua anh hùng áo vải của chúng tôi vì cái chữ Nôm đó không?

– Đúng như thế, tôi muốn nói đến người Anh Hùng Áo Vải Nguyễn Huệ của quý quốc, sau khi vua Càn Long nhà Thanh tấn phong An Nam Quốc Vương xong, Nguyễn Huệ đã hết sức lo chỉnh đốn nước nhà, mà theo thiển ý thì một trong những sáng kiến hay nhất, là sự tổ chức nền học chính và đã trọng dụng chữ Nôm, dự định một nền quốc học thuần túy Việt Nam. Năm Nhâm Tị lại cho sứ thần Võ Văn Dũng sang xin cưới Công Chúa con vua Thanh, đòi lại hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây… Đáng tiếc là ông bị chết ngay vào lúc ấy. Đúng là cái vận nước chưa lên.

– Tướng công không giận sao mà ca tụng vị anh hùng áo vải của chúng tôi, lệ thường, tôi vẫn thấy đa số con người không bao giờ chấp nhận cái hay, cái tốt của kẻ thù…

– Điều thứ nhất tôi không thù, mà cũng không phải là đa số con người xin bà nhớ cho, điều thứ hai là chỉ có phường tiểu nhân mới không biết nhận định, chứ quân tử thì dầu  bạn hay không bạn, cũng phải biết rõ đâu là thị, đâu là phi, điều gì đáng phục, điều gì đáng chê…

Tôi đứng thừ ra, cảm động, không ngờ lịch sử của nước mình mà có những người, chẳng phải dân, lại nhớ rõ ràng, khen chê đúng đắn, trong khi chính dân xứ mình, lắm kể thật hững hờ, không thèm biết đến. Nhật là sau vụ ra đi… cuộc sống tị nạn giả tạo đã đẻ ra những cái máy ăn, máy nói, máy làm tiền. Không còn biết xúc cảm, không có lịch sử, không có tình tự quê hương đất nước, vì sống trên xứ người, chỉ còn biết vui cái vui mượn của người, ưu tư cái ưu tư vật chất của người…

– Tướng công chắc phải có nhiều thì giờ rỗi rãi để đọc sách, các thứ sách tham khảo trên thế giới, đúng không?

– Sách tham khảo thì được, chứ không có thì giờ để đọc loại sách nhảm nhí đâu. Ngưng khi thấy ai là một nhân tài bất cứ của nước nào mình cũng nên biết qua, nhất lại là một nước láng giềng.

– Tướng công nói đúng, giá Nguyễn Huệ còn sống thêm vài chục năm nữa, thì cục diện chính trị của nước tôi đã không như hôm nay, tôi nghĩ như thế, chẳng biết với người khác thì sao. Đa số con người vẫn hay nhận xét tình hình qua những sự lợi ích của gia đình, hoặc chính cá nhân mình, không mấy ai chịu nhìn đại cuộc.

– Mà có biết câu chuyện chi triều đình Huế làm đơn xin chính phủ Pháp đề nghị để cho một vị vua nào đó được trị vì, hay được một đặc ân gì đó, đơn viết bằng chữ Nôm nên đã bị bác ngay. Người Pháp bắt phải về viết lại bằng chữ Hán. Nói sơ qua để thấy rằng, những kẻ đến đô hộ bao giờ cũng sợ cái tình thần độc lập, cái ý chí bất khuất của một dân tộc, bà biết chứ?

– Mà chữ Nôm đã tiêu biểu cho cái tinh thần ấy, có phải tướng công đã nghĩ như vậy không?

– Chính thế.

– Nhưng ngày nay chúng tôi có thứ chữ dùng gốc chữ La Tinh, cũng khá tiện, chỉ cần học ba tháng là biết đọc, biết viết và…

– Trong cái dở có cái hay, nhưng trong cái hay cũng không thiếu gì điều dở, bà nên nhớ như thế, và hầu như cuộc đời cũng đã bị cái định luật ấy nó chi phối.

– Một sự Tái Ông thất mã, phải không. Nhưng bây giờ, thì ngày cả Trung Hoa của tướng công cũng đang tìm cách chuyển sang gốc chữ La Tinh đấy, tướng công biết mà, ý tướng công như thế nào.

Tướng Mông Điềm lắc đầu, mím môi thở dài, tầm mắt phóng ra thật xa, chắc ông đang chợt nhớ đến cái thời oanh liệt, uy chấn Hung Nô của mình. Tôi nghĩ thầm, nếu bây giờ lại một chút cho ông ta nói, hẳn ngài sẽ vui lắm. Tiếc rằng mục đích đến đây của tôi, đâu phải để nói, và để nghe những chuyện bâng quơ. Mà nếu chỉ nói những câu chuyện khô khan nghiêm trọng mãi cũng mệt. Tôi đưa mắt nhìn hai bên Trường Thành rồi hỏi, cốt để gợi chuyện cho bớt nặng nề.

– Bên nào là địa phận Hung Nô?

Tướng Mông Điềm đưa tay chỉ ra phía xa, rồi quay về phía Trường An, ông thở dài nói khẽ, chẳng biết có muốn cho tôi nghe.

– Tần Thành là nơi mà Chu Hiếu Vương đã phong cho hậu duệ của Bá Ích, ngày nay là tỉnh Cam Túc thuộc huyện Thiên Thủy…

– Chắc tướng công cũng phải có nhiều lúc hối tiếc.

Tướng Mông Điềm quắc mắt quay lại, cái chứng của người hùng, quen thói chỉ huy và hay nổi giận chăng. Tôi đổi hẳn câu chuyện sang hướng khác.

– Hẳn tướng công vẫn nghe nói đến nàng Vương Tường?

Bà muốn nói đến nàng cung phi cùng người nướcTề với tôi đấy chứ gì. Tội nghiệp cô bé đúng là “vị thường khuy môn hộ”, như người ta vẫn nói.

– Là nghĩa gì, chắc muốn nói sự người con gái chưa hề liếc mắt nhìn ra ngoài cửa phải không?

– Đúng, cô ta là con gái của Vương Ngướng, ông nầy vẫn rất tự hào, cho rằng con gái mình khác người, lại thêm có nhan sắc tuyệt vời, ai đến xin cưới cũng lắc đầu chê rằng không xứng, đến năm 17 tuổi, đưa vào làm cung phi cho Hán Nguyên Đế. Để rồi suốt sáu bảy năm không được gặp nhà vua, chỉ vì ông vua nầy có đến hai nhìn cung nhân.

– Sao mà lắm thế, một năm chỉ có 365 ngày đêm.

– Ừ thì vì thế nhà vua mới phải dùng đến một họa sĩ họa chân dung mỗi cô, trình dâng lên để mỗi ngày nhà vua chọn một người. Các cung phi đã không ngoan, biết hối lộ Mao họa sĩ, ông nầy vẽ tăng thêm nhan sắc, ngoại trừ Vương Tường, kiêu hãnh, tự biết mình đẹp không thèm hối lộ. Nhà họa sĩ ghét nên đã vẽ cho xấu đi, nên bị nhà vua không chú ý. Gặp lúc chúa Hung Nô là Đơn Vu gửi sứ sang triều cống hậu cung ra, trước mặt sứ giả, Hán Nguyên Đế hỏi ai muốn làm món quà của nhà vua ân tứ cho chúa Hung Nô. Một khi ra đi sẽ không còn được trở lại. Nàng Chiêu Quân, tức Vương Tường biết ý vua, nên đã cố trang sức thật đẹp, ra trước mặt sứ Hung Nô, cô đã đưa tay xung phong xin ra đi.

Mọi người đều kinh ngạc, ngay cả sứ Hung Nô lẫn Hán Nguyên Đế cũng không ngờ. Lúc bấy giờ nhà vua mới thấy nàng cung nữ nầy vừa kỳ lạ lại có nhan sắc như tiên trên trời. Mà đã trót hứa, đành phải giữ lời, nhà vua tức giận mang tranh ra so sánh và cố nhiên là anh chàng họa sĩ ăn hối lộ đã bị xử tử. Sang đến đất Hồ, chúa Hung Nô đã trên bảy chục tuổi, khi trông thấy nàng cung nữ quá xinh đẹp lại còn trong trắng mà vua Hán đã “ân tứ” cho mình, ngỡ rằng nhà vua phải quý mình lắm. Chúa Hung Nô gửi sang tạ ân lại bằng một đôi Bạch Bích, mười con ngựa quý và rất nhiều châu báu của đất Hồ.

Một năm sau Đơn Vu chết, Thế Đạt là con trai lên làm chúa thế vị, đòi lấy Chiêu Quân theo tục lệ của xứ Hồ, Chiêu Quân vờ ưng thuận nhưng đến ngày làm lễ đã uống thuốc độc tự vẫn. Thật đáng thương, bà thấy không, sự quá đẹp cũng trở thành một cái vạ.

Nghe câu kết hơi bất hợp thời, tôi cảm thấy phải cần minh định lại, giảng cho ông tướng nầy biết rằng thời buổi bây giờ các bà đã bỏ tiền muôn bạc nghìn ra đến viện mổ xẻ để làm cho đẹp hơn, mà nào có tội vạ gì đâu.

– Tướng công có cái nhìn hơi lỗi thời đấy, ngày nay nhan sắc được xem như là một yếu tố thượng thặng cần thiết cho sự nghiệp.

– Sự nghiệp gì vậy?

– Minh tinh, Hoa hậu, làm vợ các quan lớn, và tất cả các văn phòng cơ quan, hãng xưởng, nơi nào người ta cũng chỉ muốn tuyển chọn người đẹp, dầu người xấu có khả năng hơn, đó là quan niệm của thời đại.

– Thế người xấu thì sao? Mang vứt đi à.

– Nhờ các viện thẩm mỹ, nhờ phương pháp dinh dưỡng và thuốc men săn sóc, nhờ cả mấy bác thợ nay, thợ cạo, nên ngày nay hầu như không có người xấu mà chỉ có đẹp nhiều, đẹp ít thôi.

Tướng Mông Điềm gật gù hơi có vẻ thông ra, tôi nói tiếp để “văn hóa” thêm ông ta tí nữa.

– Tướng công không nghe người ta vẫn kể chuyện nếu có hai cô, một cô đẹp và một cô kém đẹp, rơi xuống ao hồ sông bể gì đó, thì người ta vớt cô đẹp lên trước. Tướng công thấy chưa, cái quan niệm…

– Ừ thì đồng ý, người đời nay có quyền nghĩ như vậy, nhưng bà hãy nhìn chung quanh từ cổ chí kim, từ Á sang Âu, chỉ có người đẹp mới hay tự vận, quyên sinh, chứ có mấy khi nghe ai nói người xấu đi tìm cái chết đâu, ngay cả Chung Vô Diệm.

– Ừ nhỉ, cũng có một phần nào như thế, giống như bên xứ Hoa Kỳ chỉ có nhà giàu mới hay xảy ra nhiều vấn đề.

Tôi ngừng, nhận thấy cuộc nói chuyện đang đi đến chỗ vô bổ, chẳng lẽ vượt hằng mấy trăm nghìn dặm đến đây để chỉ nói những câu chuyện vô bổ nầy sao. Còn bao nhiêu là vấn đề quan trọng, ích lợi cần phải thải luận. Chỉ lạ một điều là khi đứng trước hiện tại thì lại quên đầu, quên đuôi, để lúc về đến nhà mới nghĩ ra, mới hối tiếc. À, nhớ rồi, tôi còn phải hỏi về cây bút và cây đàn.

Thấy tôi ngồi yên lặng, tướng Mông Điềm cũng ngừng, đoàn người tiếp tục bấm máy ảnh, cố sức thu hết những hình ảnh để về còn đưa ra khoe với bà con. Tôi chợt nhớ đến Trọng Kim, anh chàng thường chỉ trích tôi cái tội đi đâu không chịu chụp ảnh, trái lại hắn ta thì, đi đâu cũng lè kè, đến nhà tôi, hắn chụp từ cái gốc cây ngọn cỏ.

– Tướng công nghĩ gì về Mao Trạch Đông?

Tướng Mông Điềm mỉm cười rồi lắc đầu thở dài, nói bằng tiếng Hán.

– Kỳ nhân, khẩu vô tì, tu, nam sinh, nữ tướng, hiểm ác, âm mưu, vô anh hùng khí chất.

– Tướng công nói vậy, xin cho phép tôi được tạm dịch là: “Con người mà không có râu mép, râu cằm (râu mép là tì, râu cằm là tu) sinh ra là đàn ông mà tướng đàn bà, là loại người hiểm ác, nhiều âm mưu, không có khí chất của người anh hùng” dịch như vậy có đúng chăng? Tướng công muốn phê ông ta như vậy chứ gì.

Tướng Mông điềm có vẻ đắc ý sự lĩnh hội nhanh chóng của người đối thoại. Tôi được thể, cố ý nói tiếp.

– Tả truyện có ghi câu: “Sở nhân đa trá” mà Mao ông là người nước Sở, phải vì vậy không tướng công?

– Đúng, nhưng không phải tất cả mọi người dân nước Sở đều đa trá. Từ Ngũ Tử Tư, đến Phạm Lãi, Văn Chủng đều là dân nước Sở cả đấy chứ, mà rồi người sang Ngô kẻ sang Việt làm công thần đó thôi. Cả ba ông nầy đều là dân nước Sở có thể cũng đa trá nhưng đã biết xử dụng cái đa trá, tức là đã mưu đồ, dối trá để làm lợi cho đất nước họ trú ngụ.

– Ừ nhỉ, cả ba đều đã tận tình giúp cái quốc gia đã bao dung họ, chỉ có Phù Sai với Câu Tiễn mới thay đổi mà thôi.

Tướng Mông Điềm lại gật gù đưa tay lên vuốt chòm râu tỏ vẻ hài lòng, có ý muốn chứng minh sự ta đây khác Mao ông, ta đây có đủ cả râu cằm, râu mép, thượng hạ phân minh.

– Bà có biết tại sao người ta gọi Mao Trạch Đông là Thanh Long không?

– Không, chẳng bao giờ nghe mà chỉ nghe qua các sách về địa lý, tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, tiền Chu Tước, hậu Huyền Vũ…

Ông tướng nhìn tôi thoáng có chút thương hại, ngỡ tôi là đứa chỉ biết đùa, không đủ trang nghiêm để làm việc lớn, hẳn ông không thể không có chút khinh khi, cho rằng đàn bà thôi thì chấp nhận nó như vậy, dầu sao thì bộ óc nghe bảo cũng nhẹ cân hơn đàn ông, làm sao mà vượt được xa hơn đàn ông. Tôi nhếch mép chấp nhận. Thua ai còn sợ nhục chứ thua cái nhà ông tướng “Uy chấn Hung Nô” nầy thì cũng chẳng lấy gì làm xấu hổ.

– Xin được chỉ giáo, dầu sao tôi cũng chỉ là một viết sĩ tầm thường, mà kiến thức và sự học hỏi còn mênh mông hơn Đại Dương, có điều gì còn u mê xin tướng công dây bảo thêm. Như thế mới xứng đồng tiền bát gạo của tôi, làm việc cả năm, dạy bao nhiêu học trò, viết bao nhiêu trang báo…

– Mà lắm khi còn bị “Chùa” trực tiếp hay gián tiếp, có phải không?

 Thấy nhân vật cõi âm nầy sao có vẻ thông thạo, tôi chỉ cười. Ai lại vạch áo cho người xem lưng làm gì. Kiếp nầy nợ thì kiếp sau ráng mà làm trâu ngựa đưa lưng cho người ta quất, người ta cưỡi. Chuyện đâu còn có đó. Thấy tôi vẫn giữ im lặng, tướng Mông Điềm tiếp tục giảng giải, giọng nói trầm, êm, rất dễ nghe.

– Con người sinh ra ai cũng có 8 cái mạch theo Hoàng Đế Nội Kinh, đó là Nhâm mạch, Đốc mạch, Xung mạch, Đái mạch, Âm mạch, Dương kiệu, Âm duy và Dương Duy. Mạch không có huyết quản mà chỉ để thông hành khí lộ nên được gọi là khí mạch. Cái được gọi là dịch hoàn phân bí tuyến, nôm na là cơ quan sinh thực của đàn ôn, thuộc về Nhâm mạch, ở trước hung cốt (sternum). Cái Nhâm mạch nầy từ Hải Đê huyệt, còn gọi là Hội Âm hay là Nhiếp Hộ Tuyến. Nhâm mạch từ trước Hung Cốt đi lên, nhưng phải biết rằng Nhâm mạch nầy kinh qua Sĩ Cốt, nhập Đan Điền, lại qua Tâm Khãm Huyệt, đến đây nó chia làm đôi đường, tả, hữu nhũ bộ đi lên nữa để rồi nhập vào cổ, qua Giáp Trạng Tuyến, nhập vào họng, lên đến mặt.

Sĩ mao và Tì, Tu tức là những lớp lông và râu cằm, râu mép đều từ nhâm mạch mà ra. Nếu có gì làm trở ngại ở cái hệ tuyến đó, thì dẫu dịch hoàn phân bí có làm việc, cũng không đưa lên được đến cằm, đến mép. Cứ để ý nhìn xem người nào mà Nhâm mạch không thông thì râu ria lơ thơ, lông lá ít ỏi.

– Lý do tại sao, và như vậy thì có làm sao không, thưa tướng công?

Tướng Mông Điềm cười lên ha hả, nhận thấy rõ nét u mê hiện trên mặt tôi. Từ nãy đến giờ nghe nói về các khí mạch mà chẳng hiểu ông ta muốn đưa câu chuyện đến đâu. Thấy tôi ngồi yên, chỉ biết lắng nghe mà không dám ngắt lời, ông ta lại tiếp tục giảng.

– Tại sao ư? Chắc tại thuở bé có ốm đau gì đó, mà không biết thầy biết thuốc, hoặc có người từ thuở sinh ra đã bị như vậy. Tuy nhiên, dầu không râu ria nhưng đối với thân thể cũng chẳng có gì trở ngại…

– Tướng công muốn dạy tôi về Đông Y học chăng? Xin để cho tôi được về nhà chuẩn bị đã.

Tướng Mông Điềm cau mặt lắc đầu.

– Không đâu, chúng ta nào có nhiều thì giờ, tôi chỉ muốn nói với bà về Mao Trạch Đông, nhưng vì cái nghề viết lách của bà nên nói gì thì phải rõ ràng, để lúc về, nếu bà có dịp ghi lại cũng phải rõ ràng. Người cầm bút mà nói bậy, nói sai sự thật, bóp méo vấn đề đều đắc tôi với quỷ thần, với dân chúng, với độc giả, tội nầy nặng lắm, bà nên nhớ điều ấy. Chết là đáo hỏa ngục ngay.

Tôi cảm thấy vui vui trong lòng, con người nầy của cõi âm, nên có một sự hiểu biết vượt thời gian và cả không gian. Cuộc gặp gỡ hôm nay phải là mối duyên kỳ ngộ, đã được xếp đặt từ bao nhiêu kiếp trước trước.

– Xin tướng công dạy bảo tiếp…

– Ban nãy tôi nói về đường đi của Nhâm mạch, bây giờ chúng ta sang đến cái gọi là Đốc mạch, tiếng Việt Nam của quý vị thường đảo ngược, gọi là mạch Nhâm và mạch Đốc, tuy vậy chúng ta vẫn hiểu nhau. Đốc mạch khởi từ Vĩ Lư –  Lư là cái cổng làng,Vĩ ở đây có nghĩa là cái đuôi là chỗ cuối, riêng trong lĩnh vực chúng ta đang nói thì chữ Vĩ Lư nầy có nghĩa là cái xương đằng cuối mông, Hung Cốt, và nơi nầy có Đốc mạch nằm ở đằng sau. Nhâm mạch ở đằng trước, Đốc mạch đi qua Mệnh Môn, tức là đốt xương sống thứ năm, đếm từ dưới lên. Sau đó nó đi qua Lộc Lô Quan, nhập vào Cao Hoang, ở nơi nầy nó được phạn ra hai huyệt nằm dưới vai, phía đằng sau lưng, đi vào cổ, vào Đối Khẩu nhập trở lại thành một, vào Ngọc Chẫm Quan, đi lên tí nữa đến Bách Hội huyệt là nơi đỉnh đầu của con người.

Ông bà nào mà mạch Đốc bị trở ngại thì ít tóc. Cũng có người vì thuở bé bệnh hoạn, như bệnh thương hàn, sau khi ốm mà sợ xấu không cạo một lần thì sẽ rụng hết tóc, không mọc lại nữa. Những người bị rụng tóc có thể dùng lối tập khí công để cứu chữa thì tóc sẽ mọc lại.

Nghe tướng Mông Điềm nói đến đây tôi chợt nghĩ đến chú em, và một số người quen, ngày về bảo cho họ biết chắc họ sẽ mừng lắm. Tôi muốn hỏi rõ hơn tuy biết rằng câu hỏi sẽ đưa ra xa vấn đề.

– Khí công là gì, hình như chữ nầy không có trong tự điển.

– Một chữ do mấy ông thầy võ đặt ra, khí công là khí lực, dùng cái lực của khí, của hơi thở mà tập luyện, đây là một sự luyện tập khí mách. Nhưng sao bà hay nhảy ra ngoài đề quá vậy.

– Tại muốn biết cho rõ, tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri… (biết thì bảo rằng biết…)

Ông tướng phì cười thấy tôi mang Khổng Tử ra nói để đỡ tội.

– Tướng công nói nốt đi, tôi xin lỗi.

– Bà biết chứ, theo Tướng Thư, tức là loại sách viết về tướng số, có ghi rằng: “Phàm hạ thể vô mao giả, nam viết Thanh Long, nữ viết Bạch Hổ” (lệ thường những người nào mà bên dưới không có mao, thì đàn ông được gọi là Thanh Long và đàn bà được gọi là Bạch Hổ).

À ra thế, từ nãy đến giờ ngài giảng về Nội Kinh, mục đích để dẫn đến đây. Con người sao mà kỹ lưỡng, cẩn thận, nói điều nào rõ ra điều ấy, thảo nào mà Hung Nô vừa nghe danh đã sợ. Tiếc rằng ông đã thuộc về cõi âm, giá là người thời nầy, người cõi dương chắc tôi đã cõng về suy tôn làm cố vấn cho công cuộc đấu tranh của chúng ta.

– Tại sao tôi rất ít khi đọc thấy những vấn đề nầy qua các sách vở, thưa tướng công.

– Vì người xưa cho đó là uế tục chi ngôn, không dám viết rộng, viết dài sợ làm bẩn mắt, bẩn trí, chữ gọi là “hữu thương đại nhã”. Mà tự cổ đã nói rằng: “Bạch Hổ đương gia tắc gia bại, Thanh Long trị quốc tắc quốc vong”. Bà hiểu không, hiểu thì thử giảng ra.

– Có nghĩa là người đàn bà Bạch Hổ mà làm chủ gia đình thì gia đình sẽ lụn bại, người đàn ông Thanh Long mà giao cho việc trị quốc thì mất nước, quốc vong. Phải thế không, nhưng nước Tàu đâu có vong, sách viết e sai rồi tướng công ơi.

Tướng Mông Điềm lắc đầu, hơi cau mặt, chắc bực mình cái tính gàn bướng hấp tấp của tôi.

– Hãy yên, chờ nghe tôi giải thích, sao mà nóng nẩy thế. Đành rằng nước Tàu không mất, nhưng suốt mấy chục năm bắt dân sống trong sự đấu tố, lo âu, hỏi có được gì so với các quốc gia tự do khác.

– Nhưng, xin tướng công…

– Để tôi giảng tiếp cho mà nghe, phàm nhìn thấy người nào mà chỗ cầm và mép không có chút râu thì đầu tóc lại xanh tốt, vượng thịnh. Hãy nhìn lại cái ảnh Mao Ông đi tắm sông, mặc dầu đã gần 80 tuổi mà tóc tai rậm rạp thì đủ rõ.

Đàn bà Bạch Hổ cũng chỉ vì nhâm mạch bất thông, đầu tóc cũng rậm rạp, chỉ có đôi chân mày nhạt hơn người thường. Những người nầy khá thông minh nhưng chẳng biết gì về đạo lý. Mặt mày xinh đẹp mà đầu óc dị kỳ, lại rất thạo về môn trang điểm, loại người nầy “tần tiếu vô thường” tức là lúc vui lúc buồn, chẳng ai còn dám biết trước. Thái độ lại kiêu ngạo. Đối với cha mẹ thì vô lễ phản phúc, với con cái thì ngược ngạo, với chồng như cừu hận. Thuyết trường, đạo đoản có nghĩa là nói thì hay mà trong lòng rỗng không, cắt đứt cả tình bà con nhất là đối với nhà chồng, diện thị bối phi, chẳng có gì cũng làm lớn chuyện, sao náo gia đình, rốt cuộc là gia phá nhân vong…(nhà tan người mất).

Tướng Mông Điềm ngừng một lúc, hẳn để nghỉ hơi, tôi hơi ngạc nhiên, ông có bực tức điều gì không mà sao ông nói nhiều thế. Định chờ ông ta nghỉ một lúc tôi sẽ hỏi thêm một ít về chính trị nhưng ông ta lại tiếp tục ngay sau đó, không cho tôi có thì giờ nói chen vào.

– Tự cổ đã bảo mãi rồi, và cũng có nhiều nhân vật đã được ghi vào lịch sử, vả lại đàn bà là Âm, đàn ông là Dương, đây là nói về con người, với trời thì ban ngày là dương, ban đêm là âm, với đất thì cao là dương, thấp là âm, quang đãng sánh lạng là dương mà âm u đen tối là âm. Người Thanh Long tuy là đàn ông mà tính tình lại là âm, nên người Thanh Long làm gì cũng thích về đêm, mà đạo lý của chính trị lại nên dương không nên âm. Kế hoạch quân sự thì ngược lại, nên âm không nên dương. Người nắm vận mệnh quốc gia cần được sự tin tưởng của dân, và làm chính trị cần phải quang minh chính đại, không bao giờ đi dùng những âm mưu quỷ kế. Chưa hề nghe ai trị quốc bằng đường lối mưu chước hư ngụy mà thành công được lâu dài. Tính Nam, tướng Nữ, hàm không râu, đó là người âm tính, không thể để cho loại người nầy nắm vận mệnh quốc gia. Mao Ông phát minh ra sự nội bộ đấu tranh, giữa đồng sự mà bỉ với thủ tức là anh với tôi mà hận thù nhau, hôm nay ta đấu người ngày mai bị người đấu tố lại, như thế thì còn đạo lý đâu nữa.

– Tôi nghĩ đây là đường lối chung của người cộng sản chứ đâu phải riêng Mao Ông.

– Đúng, nhưng Mao Ông với sự phụ giúp của Mao Bà, càng ngày càng tăng cường phát minh thêm nhiều sự ác độc tinh vi hơn hết các xứ thì người dân chỉ có cơm không no áo không ấm. Sống trong sự sợ sệt lo âu. Bà có đọc tác phẩm của Jack London chứ.

Tôi gật đầu, không ngờ cái nhà ông tướng nầy có nhiều thì giờ đọc đến thế, chắc cõi âm là vậy chăng, ai cũng có thì giờ, muốn đọc sách đông tây gì cũng có, khỏi cần học cũng biết, nhưng để tiếp tục vấn đề, tôi thấy cần phải cãi một câu.

– Dầu sao Mao Ông cũng là Quốc Vương của nước Trung Hoa suốt một thời gian dài gần nửa thế kỷ, và Mao Bà cũng đã hét ra lửa, bao nhiêu triệu người phải hy sinh. Theo Thiên Văn chí, ai làm vua thì trên trời có Đế Tinh xuất hiện, thế thì tướng công nghĩ sao?

Tướng Mông Điềm nhìn tôi cau mặt, chắc ông đang nghĩ thầm cái con đàn bà nầy lắm điều nhiều chuyện, nhưng rồi biết là với một đứa cứng đầu, lại ham hiểu biết, đừng mong bỏ qua được với tôi, nên ông phải đổi giọng hiền hòa để trả lời cho yên.

– Tinh của Đế Vương phải xuất hiện từ Tam Viên mà ra. Biết rồi, bà sang đây để lùng cổ thư về Thiên Văn, thứ nầy mà cho sống vào thời Hán Đường là mọt gông nằm nhà tù đến chết. Không dễ gì mà mua ra nguyên một quyển cho bà về nhà đắp chăn, mở đèn nghiền ngẫm đâu. Chưa ai chịu ngồi để gom góp lại viết thành hẳn một quyển tự điển như ý bà muốn đâu, có giỏi thì cầu trời cho sống thêm vài chục năm nữa mà làm lấy, chắc sẽ có những đứa gàn như bà tìm mua được dăm ba quyển. Học về hai môn Thiên Văn và Địa Lý là cái học để làm Đế Vương chi sư, bà hơi nhiều tham vọng đấy.

Tôi lắc đầu cãi lại.

– Tướng công quá lầm, tại cái tính tò mò, vả lại những đứa mà theo khoa Tử Vi, ở mệnh cung có những vì sao như tôi, là đứa có học hành từ kiếp trước, biết đâu kiếp nầy chỉ là sự tiếp nối mà thôi.

– Ừ nhỉ, biết đâu kiếp trước bà chẳng là một…

– Một Lưu Bá Ôn, một Triệu Khang Tiết, một Tư Mã Ý, một Gia Cát Lượng.

– Hay là một lão thầy bói mù ngồi ở góc chợ.

Tướng Mông Điềm nói giọng chế riễu, vừa cười vừa cố nhìn xem tôi có nổi cáu vì tự ái bị chạm, nhưng không, ông đã thất vọng.

– Chắc tướng công nói đúng, biết đâu tôi chẳng là một lão thầy bói mù ngồi ở một góc chợ quê nào, lại còn đoán quẻ trật, đón sai nên kiếp nầy phải tội, bị đày làm thân đàn bà…

Chủ, khách cùng cười, ở đời anh nào biết nói đùa, chấp nhận lời nói đùa, là anh ấy dễ sống, miễn nó đừng thuộc loại đùa thô tục, hạ cấp làm bẩn tai bẩn mắt.

– Thôi, bây giờ xin tướng công nói qua về môn Thiên Văn cho tôi nghe để xem cái kiến thức của vị tướng Uy Chấn Hung Nô nó đến đâu.

– Tôi cho bà biết, tại hôm qua nghe bà bảo có ý định đi kiếm sách về Thiên Văn, nên hôm nay tôi mới trở lại, nếu gặp người không say mê môn ấy, thì chắc tôi đã nằm nhà. Nào, bây giờ bà muốn biết xem Mao Ông có sao nào trên trời không chứ gì?

Tôi gật gù, thán phục, chỉ người cõi âm mới có thể đọc lên đư5ơc những ý nghĩ của người cõi dương một cách rõ ràng nhanh chóng, thật dễ chịu, chưa nói đã biết.

– Xin được chỉ giáo.

– Đế Vương chi tinh, ứng tại Tam Viên Đế Tòa.

– Tam Viên Đế Tòa có những 15 vì sao, làm thế nào mà biết được?

– Lại nóng nẩy… Tam Viên, mỗi Viên chỉ có 5 vì sao, nếu chợt thấy hiện ra một vì sao thứ 6 đó là Đé Vương Tinh. Hẳn bà đã nghe câu chuyện Khách Tinh Phạm Đế Tòa rồi chứ.

– Chuyện Hán Vũ Đế ngủ chung giường với người bạn, đêm ông nầy nằm gác lên bụng ấy phải không.

– Đúng, thời trước khi nhà Minh lên, Lưu Bá Ôn đã trông thấy tại Tử Vi Viên, xuất hiện một Đế Tinh, lại nhìn về miệt Giang Hoài, có Thiên Tử khí, trong một thời kỳ mà thiên hạ đại loạn, bao nhiêu đấng anh hùng nổi lên đó đây, ông đi lần đến góc trời có Thiên Tử khí ấy mà tìm ra Minh Thái Tổ. Mang Thiên Tướng và Nhân Sự ra đối chiếu là biết ngay. Ngày xưa mỗi triều đại Đế Vương đều có một vị quan trông coi về sự biến động của các vì sao để rồi phúc trình lên…

Thấy tướng Mông Điềm ngừng tôi vội đặt câu hỏi.

– Tôi nghe nói Lưu Bá Ôn, khi vào quán thấy một người, ông đoán ra sau khi xem tướng mạo, đó là Chu Nguyên Chương. Ông nầy mời Chu vào phòng mình, sụp xuống lạy bảo rằng ngài sẽ là Vương thiên hạ trong 10 năm nữa, làm Chu Nguyên Chương sợ quá, phải vậy không?

– Phải, chịu khó tìm tòi nhỉ.

– Khó khăn gì, sách địa lý nào chẳng nhắc chuyện ấy, nhưng xin tướng công nói thêm, để tôi đỡ phải đọc sách.

– Hẳn bà đã thuộc lòng tất cả tên những hằng tinh của 4 phương, Đông Thanh Long, Tây Bạch Hổ, Nam Chu Tước và Bắc Huyền Vũ rồi chứ gì. Muốn học Thiên văn, trước hết phải biết phương vị, sau đó phải thuộc các danh xưng, ngoài ra, cũng không được quên Nam Đẩu Lục Tinh. Người ta phân ra cửu Châu để đối chiếu trời đất với nhau. Thí dụ như tỉnh Hồ Nam ngày nay, xưa thuộc Kinh Châu, trên trời thuộc Chu Tước, lĩnh vực của Chẩn Tinh. Nơi nầy đã có vì sao của Mao Ông, cố nhiên là ngày nay không còn nữa vì Mao Ông đã chết. Ngày Mao Ông còn sống, vì sao ấy đã được nhiều thiên văn gia nhìn thấy. Nó chỉ là một tiểu tinh màu đỏ nhấp nháy không ngừng. Theo cổ thư thì một ngôi sao nào mà quang thái tường lệ, được gọi là Thụy Tinh. Bà biết chữ Thụy nghĩa là gì chứ?

– Là điềm lành, viết với bộ ngọc, phải không?

– Đúng đấy, có khi còn gọi là Cảnh Tinh, nếu ánh sáng của sao nầy mà có lúc bùng lên to, có lúc thâu nhỏ lại thì gọi là Bồng Tinh. Màu sao đỏ, nhìn thấy chói mắt gọi là Yêu Tinh, hay là Khách Tinh hay là Dị Tinh. Cố nhiên, Yêu Tinh không thể là một vì sao chính, mà sao của Mao Ông chỉ là Yêu Tinh. Trước khi chết, sao sẽ mờ dần dần để rồi lúc chết là tắt hẳn, không còn trông thấy nữa.

– Tôi vẫn còn thắc mắc một điều, làm sao người xưa có thể mang gán cho người nầy vì sao nầy, người kia vì sao kia, căn cứ vào đâu? Nếu không đúng thì sao?

– Esprit Cartésien nhỉ. Nhưng không sao, đã học thì học cho đến nơi, đến chốn, đặt những câu hỏi lục soát như bà cũng hay. Người xưa có những vì quan suốt đời chỉ theo dõi có chừng ấy việc. Nghiên cứu những người có học có thi, được bổ dụng ra làm quan. Những người ấy phải có đầy đủ gia phả, nếu không có là chẳng được vào thi cử gì nữa chứ đừng nói đến sự bổ làm quan. Ngày tháng nào, trên trời có vì sao nào xuất hiện, thì ở dưới đất thuộc vùng nào có đứa bé nào sinh ra, có những điềm gì thí dụ như, mời bà về mở lịch sử của quý quốc ra mà xem lại. Ngày ông vua nào ra đời thì có những điềm gì, nào là con rồng nằm phủ phục lên lưng lúc ông nằm ngủ, có người thì mùi hương thơm ngát luôn  mấy ngày, có người thì vùng ấy trên trời có màu mây tím đẹp bao phủ khắp cả… Do sự quan sát những vì sao mà người xưa có thể biết được thời vận của mỗi cá nhân, sự an nguy của một quốc gia. Sao của Mao Ông không nằm cùng một vị trí với những Đế Tinh nên các thiên văn gia chuyên nghiệp biết ngay rằng nó không phải là một chính tinh.

Tôi nhăn mặt vẫn còn thắc mắc, có thể là tôi muốn nghiên cứu về Thiên Văn vì nhận thấy bên trong nó có nhiều chất thơ hơn là để đi tìm một sự gì khác. Phần mình nghèo, lại sinh vào một thời buổi mà mọi người đều chạy theo văn mình cơ khí. Làm sao mà mình, với cái vị trí nhỏ nhoi có thể tạo đủ phương tiện để nghiên cứu như ý muốn.

– Tại sao với cái cương vị hệt như Đế Vương mà vì sao của Mao Ông lại ở Chu Tước, không nằm trong Đế tòa thưa tướng công.

– Mỗi người một giai đoạn, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc phải trả một cái giá nào của những kết quả tạo ra hay nói như tiếng của nhà Phật, cái nghiệp chung, phải chia ra mà hứng chịu. Phương vị như thế tức là không phải chính quả. Nếu sao của Mao Ông mà nằm ở Đế tòa thì tương lai của Cộng Sản sẽ còn trường cửu, người dân trong nước còn phải tìm đủ cách để thoát thân.

- 1 - (2)

Để tỏ sự ngưỡng mộ về tầm kiến thức bao la của ông tướng nầy, tôi chọn một câu khen tán của chính các ông đặt ra.

– “Độc vạn quyển thư, bất như hành vạn lý lộ, đồng quân nhất dạ thoại, thắng đọc thập niên thư” (đọc vạn quyển sách không bằng đi vạn dặm lý, cùng ngài nói chuyện một đêm còn hơn mười năm đọc sách).

Chúng tôi lại cười vang, không hề chú ý đến đám người  hỗn tạp chung quanh đang ngược xuôi, lên xuống.

– Đa tạ, xin trả lại lời bà khen, đã gọi là tri kỷ rồi, tưởng không cần phải nói chi những lời khách sáo.

– Còn Việt Nam chúng tôi, tướng công thấy sao?

– Thấy sao ư? Nếu căn cứ theo sự phân chia đất đai của người xưa thì có thể bảo rằng quý quốc thuộc Thiên Thị Viên, tại sao gọi là Viên, bà biết chứ? Viên là bức tường thấp rào chung quanh, ở đây nó có nghĩa như thế.

Tôi gật đầu, nhận thấy ông tướng nầy quả có mang dòng máu làm Sư thiên hạ, giảng giải kỹ càng, lúc nào cũng sợ học trò quá kém, hiểu không tới. Nhưng người đã thích giảng dạy thì cho giảng dạy, có vậy ngài mới hào hứng để nói chuyện chăng.

– Xin tướng công cứ giảng hết đi, xem như tôi là kẻ phàm trần tối tăm, cần đi tìm thầy để được học hỏi.

Tướng Mông Điềm có vẻ hài lòng, đàn ông vốn ghét đàn bà cứng đầu bướng bỉnh, càng búp bê lại càng được hoan nghênh. Ông tướng tiếp tục nói thêm về Thiên Văn, càng hay tôi đỡ phải đi tìm mua sách.

– Từ thời nhà Hạ, vua Vũ đã biết vạch ra 9 đơn vị, gọi đó là Cửu Châu. Nhưng trước hết phải nói qua rằng, người xưa cho ngành Thiên Văn Học là thiên cơ, mà thiên cơ thì bất khả lậu. Nếu mọi người đều biết về Thiên Văn, tức sẽ là một đại họa cho quốc gia, vì thế mà có lệnh cấm. Một vị vua còn tàn nhẫn hơn, ông cho người viết ra một quyển Ngụy Thư về hai môn Thiên Văn và Địa Lý, cho mọi người bị hỏa mù không còn biết đâu là chân đâu là giả, đó là một tội ác vô cùng. Cũng ác như người đi buôn thuốc phiện vậy. Bà có nghe nói đến Trương Lương chứ.

– Có, ông còn một tài nữa là thổi sáo. Mà vị vua ác ôn sợ dân biết về hai môn Thiên Văn, Địa Lý nầy có phải là Đường Huyền Tông không? và tác phẩm đó là Đông Hàm Kinh để “dĩ loạn kỳ chân” phải không.

Tướng Mông Điềm mỉm cười, chắc ông đang nghĩ rằng tôi chỉ chú trọng có mỗi một thứ trong đời là âm nhạc, tuy cũng chịu khó đọc ít sách vở ông nói tiếp, giọng nói sang sảng cao hứng, có lẽ vì gặp được đối thoại không đến nỗi quá đần.

– Trương Lương rất giỏi về khoa Thiên Văn, sau khi giúp xong nhà Hán, ông đi ẩn lên trên núi chẳng còn ai biết đâu mà tìm.

– Tiếc nhỉ, giá ông ta chịu ngồi xuống mà viết lên thành những quyển sách cho chúng ta được học hỏi. Nhưng xin tướng công nói nốt.

– Khi người xưa gọi châu quận triền thứ, tức là sự đối chiếu trên trời sao nào thì dưới đất thuộc vùng nào.

– Tại sao bây giờ ít người chịu nghiên cứu môn nầy quá.

– Đã bảo là thiên cơ, không nên tiết lộ nhiều, không nên để cho nhiều người biết, chỉ có hại, bà cũng không nên quá tò mò, chẳng ai cần đến sự cố gắng, sự tò mò tìm kiếm của mình đâu. Có kẻ còn nghĩ rằng người sưu tầm chỉ cần mở một quyển sách ra ghi lại, nhưng họ quên đặt câu hỏi rằng sách nào? trước khi đọc sách, mà đọc cho tới cũng phải bỏ ra bao nhiêu năm học hỏi, vả lại đâu phải chỉ trong một quyển sách mà đủ, nếu chỉ tìm trong một quyển sách, thì ai gọi đó là sưu tầm.

– Kệ chứ, ai nói gì thì nói, tôi học cho tôi, tướng công nói nốt đi. Xứ Việt chúng tôi thuộc Thiên Thị Viên, chứ không thuộc Tử Vi Viên, hoặc Thái Vi Viên, rồi sao nữa?

Tướng Mông Điềm như không thèm nghe câu thúc dục của tôi, cứ tiếp tục nói cho hết ý mình.

– Ừ, cái nhà ông vua Vũ đời nhà Hạ, đúng là bậc thánh nhân. Ngài tinh thông về môn Thiên Văn, các triều đại về sau cứ vậy mà noi theo để học hỏi. Phàm quan lên tới nhị phẩm là đều phải mang tổ tiên quê quán ra để tra cứu, hạch hỏi, do một vị Tinh Quan chuyên lo việc ấy.

– Tinh quan là người chỉ có lo quan sát về tinh tượng mà thôi phải không?

– Đúng, nhưng không dễ đâu, phải là một người có đầy đủ kiến thức học rộng, đạo đức cao. Thượng thông Thiên Văn, Hạ đạt Địa Lý, Trung…

Tôi dành nói tiếp.

– Trung tri nhân sự, có phải đó là vị Thái Bảo trong Tam Công chăng?

– Gọi rằng Tam Công nhưng đó là ba chức dồn trong một người, và người nầy còn phải là một nhân vật được mồ mã nữa chứ không phải ai muốn học hành thi đỗ ra là có thể làm. Còn phải mấy đời ông cha ăn ở đức độ mới sinh ra được một người con cháu làm đến Tam Công.

– Thái Bảo, Thái Truyền và Thái Sư phải không, công việc của Tam Công là gì, tôi chỉ nghe nói, mà tướng công có biết là tôi đã dám phong cho ba cây trúc ở trước nhà tuy chưa hiểu rõ, xin tướng công giảng cho được nghe thêm.

Ông tướng mỉm cười khi nghe nói tôi phong cho ba cây trúc ở nhà, biết ngay rằng tôi bắt chước người xưa.

-Thái Bảo chuyên lo về long huyệt cho Hoàng Gia, Thái Truyền để tuyên truyền uy danh của nhà vua và Thái Sư để dạy vua học, nguyên tắc là như vậy, nhưng rồi sau đó có một vài vị quá giỏi đã làm thay đổi, kiêm nhiệm được tất cả.

– Xin được nghe một tên, như ai chẳng hạn.

– Lã Mông Chính.

– Là cái người con trai được mồ mả, mà đã bị bố đuổi ra đó phải không?

– Ừ đúng đấy, số mệnh cả, có hai nhà phong thủy đã tìm ra lý do, vì cái nhà ở, dương trạch có những điểm xấu, nên mới xui ra ông nầy không thể ở, và những người con khác mẹ ở trong nhà đều rất tầm thường, người nào cũng bị mũi hếch lên. Thế mà sau Lã Mông Chính làm đến chức Tam Công, thế có lạ không?

– Làm sao ông ấy đi học, vì nghèo đến độ gần như phải làm hành khất.

Có mấy giải pháp tuy sử sách ít nói ra, mà người ta mò như bà cũng không nhiều, nên chẳng ai thắc mắc. Theo tôi thì sử có chép một độ ông ta phải vào ở chùa. Nơi nầy cũng có thể học hỏi, hai là có những người được thiên phú … từ kiếp trước, hay là …

– Còn Tinh quan thì sao.

Tôi hỏi để trở lại với vấn đề, nếu không thì chẳng bao giờ xong một câu chuyện gì, cả tướng Mông Điềm lẫn tôi đều hay bỏ đi ra ngoài vấn đề khá xa.

– Vị quan nầy lo chung cho cả nước, nhưng sao chúng ta cứ đi vượt ra ngoài vấn đề mà thì giờ của bà thì có hạn. Hãy để yên cho tôi nói nốt. Khi vị Tinh quan nhận thấy một vị quan nhị phẩm nào đó mà có sao ở Tam Viên Đế Tòa. Biết rằng rồi đây ông nầy có thể chiếm ngôi báu, thì phải trình tâu lên, xin cách chức ngay, nếu không tìm một tội gì để đưa ra ngoài biên ải, những nơi ma thiêng nước độc, hy vọng nhờ các thứ bệnh hoạn muỗi mòng kết thúc hộ, khỏi phải lên án xử tử.

Ông tướng ngừng giọng, tôi chợt nhớ đến một lũ bạn người ngoại quốc ngày ấy chúng tôi hay nghịch, cứ thấy một vị quan ngoại giao nào tuổi hơi già, lại không được nhanh nhẹn, thông minh là chúng có ác ý nghĩ ngay rằng, hẳn nước của ông ấy có ý muốn nhờ chiến tranh Việt Nam giải quyết hộ chăng.

Thấy tôi hơi mỉm cười, tướng Mông Điêm đọc ngay những ý nghĩ của tôi, ông ta cũng mỉm cười, nói tiếp câu chuyện, nhưng cũng chen vào một câu chứng tỏ sự đọc được ý nghĩ của người cõi trần.

– Chiến tranh Việt Nam nhà bà đâu có gì đáng sợ, có phải ra xông pha ngoài mặt trận mới đáng ngại chứ. Một vở tuồng đã được viết sẵn hết rồi, chỉ có đến nằm trong lòng đô thị thì cũng như một cuộc du lịch đổi không khí xứ nhà vậy thôi, nhưng bà quả là hay phân trí, nghe tôi nói nốt có được không.

– Xin tướng công tha lỗi, tại nhớ đến cái thời đi làm báo, mà lũ ký giả ngoại quốc nó nghịch như quỷ, tướng công nói nốt đi.

– Nếu người nào mà sổ sách không rõ, chẳng biết con cái nhà ai, quê quán tại đâu thì bị ghi là “Thân gia bất thanh” tức là loại người khả nghi, chính phủ tuyệt đối không dùng, và như tôi đã nói ban nãy là không được thi cử, vì không biết gốc gác thì làm sao mà đề phòng.

Tôi lại ngắt lời vì vừa chợt nhớ ra nhân câu chuyện đi đày một vị quan mà tướng Mông Điềm vừa nói ban nãy.

– Xin phép cho tôi lại nhảy ra ngoài đề, ban nãy tướng công nói đến vùng ma thiêng nước độc, hình như tôi có đọc ở đâu bảo là Thi sĩ Tô Đông Pha cũng bị…

– Ừ, vì thế mới có cái biệt hiệu là Đông Pha cư sĩ, vì cái chỗ ông bị đày tới là Hoàng Châu, cực khổ vô cùng, không chịu nổi phong thổ. lại thêm tiền lương hao hụt mà còn phải  nuôi gia đình khá đông. Đến nỗi mỗi tháng khi lãnh lương về là phải chia từng gói nhỏ mang bỏ trong một cái giỏ treo trên nóc nhà, mỗi ngày có người cầm sào móc xuống một gói để chi dùng trong ngày hôm đó. Xong rồi phải mang cây sào dấu đi, nếu còn dư chút ít tiền trong ngày hôm ấy thì lại gọi là tiền để dành đãi khách.

– Tại sao ông ta bị đày, một con người tài hoa như thế.

 Ông bị cái nhóm người Lý Định, Thư Đản, Hà Chính Thần, là những người vì ganh ghét nên mang ra tố rằng thơ văn của Tô Thức đầy ý ngạo mạn, phỉ báng triều đình. Sau một thời gian bị đày, nếu gặp kẻ thường tình thì đã chán nản bỏ cuộc, nhưng Tô Thức không phải ở vào hạng ấy nên ông đã vươn lên, nhờ các bạn giúp mua được một khu đất hoang phía đông hướng về Phủ Chính lại có những gò đất chập chùng nên mới đặt tên là Đông Pha, và từ đó mình cũng lấy bút hiệu là Đông Pha cư sĩ. Điều đáng tiếc nhất là do sự đày đó, mà vợ con ông đã mang một số thi văn của ông đốt đi, bảo rằng vì thi văn mà đói khổ.

– Thảo nào mà người ta hay bảo phụ nhân nan hóa, nhưng thôi xin tướng công nói nốt đi, chính tướng công cũng  hay nhảy ra ngoài đề chứ không riêng mình tôi.

– Ban nãy chúng ta nói đến Việt Nam nhà bà ở Thiên Thị Viên, nơi nầy gồm 22 chòm sao, có những chòm hội đến 9 vì sao như chòm Quán Tác, và người xưa đã phân phối 22 chòm sao ấy ra 22 khu đại biểu. Chỉ tiếc rằng sự phân chia ấy không còn phù hợp với thời đại của người đời nay, vạn vật biến đổi trong cuộc đời, trên quả đất. Bao nhiêu nghìn năm qua, các vì sao cũng phải đổi dời vị trí, một số sao quá già, đã tắt đi. Do đó nên những học thuyết về tinh tòa giữa Á với Âu có nhiều điểm bất đồng. Tuy vậy theo chúng tôi khảo sát lại, đối chiếu giữa xưa và nay, thì Thiên Thị Viên thuộc khu vực của 4 sao Tâm, Phòng, Đẩu và Cơ. Bốn chòm sao nầy cũng đã gồm có một số sao khá nhiều. Dùng Bộ Thiên Ca là quyển sách trắc lượng về Thiên Thể mà phán đoán.

– Tác giả là ai?

– Chỉ cần biết cái tên sách đi lùng mua là đủ, nhân bà sẽ có dip sang Hồng Kông, chứ ở đây không có đâu. Sách gồm 7 quyển, theo tôi thì Việt Nam quý quốc có rất nhiều liên hệ với bản quốc. Ngày nào bản quốc chấm dứt được những sự đấu tố, tù đày, hết các quan áo đỏ, thì quý quốc cũng phải đổi tuồng chứ ở đó mà múa rối cho ai xem nữa.

– Lâu quá tôi chỉ sợ cái chính thể quá hà khắc, quá nghèo đói đã làm chai sạn hết tất cả mọi tấm lòng, làm sao mà cứu vãn lại. Nhưng theo sự nhận định của tướng công thì tại sao Việt Nam chúng tôi lại phải chịu đựng sự khốn khổ quá như vậy. Nào nạn hải tặc, nào sự bị đuổi thuyền ra khỏi bến ở những quốc gia tự do, nào tù đày trong nước… Trong khi các nước láng giềng đều được nâng cao mức sinh hoạt. Tội lỗi những người nầy thật là “Khánh Nam Sơn chi trúc, bất dĩ thư kỳ ác”

– Oán khí ngùn ngụt chất chứa lên tận chín tầng mây, mỗi một triều đại qua, chẳng thấy có ai làm gì đức độ, mà chỉ thấy chất chứa thêm nhiều hận thù.

– Nhà Phật dùng chữ cộng nghiệp đó, tướng công nghĩ sao?

– Cộng nghiệp chung của cả nước, biệt nghiệp của mỗi cá nhân, mỗi vị trưởng giả, mỗi vị thương gia, mỗi cấp chỉ huy hơi cao một chút đều có đóng góp vào đấy. Oán thán rền rĩ, mà có ai nghe, với đôi tai phàm tục thì làm sao nghe nổi. Nếu mang xác chết mà sắp dài thì có thể trải khắp hình chữ S của quý quốc đấy, e chừng lại phải chất lên đến mấy từng cao, chứ một hai tầng chưa chắc gì đã đủ.

Nghe tướng Mông Điềm nói sao tôi cảm thấy buồn, chắc phải đổi vấn đề, tìm câu chuyện gì vui hơn, chờ ông vừa im tiếng, tôi quay sang hỏi chuyện khác ngay.

– Tướng công có đọc mấy câu thơ của thi sĩ Đỗ Phủ trong bài Bát Trận Đồ đấy chứ.

Công cái tam phân quốc

Danh thành Bát Trận Đồ

Giang lưu, thạch bất chuyển

Di hận thất thôn Ngô.

– Con người nầy lại muốn thay đổi vấn đề phải không? Thì thay đổi cho đầu óc bớt căng thẳng, ngày mai, ngày kia, lúc nào cảm thấy hứng thú chúng ta lại bàn tiếp về cái Việt Nam đầy oán khí của nhà bà.

– Cảm ơn tướng công. Bây giờ xin nói về bài thơ.

– Bài nầy là một loại Hoài Cổ Thi, nhà thơ Đỗ Phủ rất phục Gia Cát Lượng, có bao nhiêu nhân vật khác như Tào Tháo, Tôn Quyền, Lưu Bị… mà chỉ có Gia Cát Khổng Minh là bậc tài khí quá nhân, chứng cớ là cái Bát Trận Đồ còn đó…

Không đợi ông tướng ngừng, tôi đưa tay ra hiệu xin được ngắt lời, ngắt ý, tôi muốn hiểu về cái Bát Trận Đồ nầy trước khi nói đến bài thơ.

– Xin được nghe về cái Bát Trận Đồ. Tôi muốn tìm hiểu nhưng bản xứ, về sau nầy chỉ chuộng Âu nên chẳng ai còn chú ý đến những gì vừa cổ, vừa không thông dụng. Nếu ngày trở về tôi có đưa câu chuyện của chúng ta hôm nay ra kể lại, chắc sẽ có nhiều người hỏi han kỹ hơn, được nghe từ một vị tướng giảng giải cho, chắc phải rõ ràng dễ hiểu hơn nhiều.

Tướng Mông Điềm mỉm cười dấu chút ngạo nghễ, hẳn ông đang chê tôi khéo nói, nhưng rồi ông vui vẻ đổi sang giảng về Bát Trận Đồ. “Nghề của chàng” mà, không thích nói lên sao được.

– Nếu mà nói thật kỹ thì phải mất hằng mấy buổi, đây tôi chỉ nói sơ qua, sau nầy lúc về kể lại, mà có ai còn thắc mắc thì bảo họ sang đây gặp tôi giảng thêm. Mà chắc cũng chẳng còn ai thèm thắc mắc ngoại trừ một vài kẻ có máu gàn như…

– Như ai?

– Ai thì tự biết lấy.

Cả hai chúng tôi cùng cười, không cần phải nói ra, tướng Mông Điềm lại giảng tiếp.

– Bát Trận tức là tượng theo hình Bát Quái mà định vị. Lấy Tinh địa mà chế hình, ở đây chữ tỉnh có nghĩa là cái giếng nước, viết với bộ nhị. Thiên hữu xung, Địa hữu trục.

– Trục thì biết, nhưng Xung là gì?

– Xung là lưỡng thiên thể, xích hoàng tương cự có thể dùng tiếng Pháp để giảng thêm đó là “point stratégique” cho mọi người dễ hiểu. Nhưng tôi nghĩ rằng, trước hết chúng ta phải nói rõ về cái gọi là Bát Trận Đồ nầy. Ngày nay có nhiều nơi cũng xưng là địa điểm Bát Trận Đồ của Vũ Hầu Gia Cát Khổng Minh. Tại Thiểm Tây, rồi tại Tứ Xuyên huyện Tân Đô, nhưng chính thực là tại Tứ Xuyên mà ở huyện Phụng Tiết. Đây cũng chính là nơi mà Đỗ Phủ đã đi qua và đã làm bài thơ than cho người tài bị thất thời.

Bà vừa hỏi Xung là gì? Có thể giảng thêm, xung là xung đạo, tức là lối ngõ ngách trọng yếu. Địa hữu trục, chữ trục có nghĩa là cái nòng cốt bánh xe. Tiền, hậu, tả, hữu, hữu hành, chữ hành đây có nghĩa là cây cân, và đó là định vị của Bát Trận.

Khích nguyệt hoàn, vệ ư hậu, tức là ở phía đằng sau, ở những chỗ hẻo lánh, hang hốc có một vòng bảo vệ như Vũ Dực, ở phương nam được gọi là Thiên Phúc, và ở phương bắc là Địa Tải, lúc biến hóa phải như mây phủ ở phương đông (vân thùy biến ư đông). Phương tây cũng như gió biến hóa, đông nam như rồng bay, tây bắc như hổ vồ. Những khối đá được xếp đặt theo hình tượng ấy ở trên bờ Trường Giang mà ngày nay còn dấu tích.

Định vị rõ ràng, quân lính cứ theo đó mà luyện tập. Kỳ, Chính tương sinh… nhưng nói ra thì người đời nay chắc chẳng mấy ai hiểu và ưa thích. Riêng bài thơ của Đỗ Phủ, câu thứ nhất: Công cái tam phân quốc. Tức là muốn nói đến 3 nước Ngụy, Thục, và Ngô.

Tác dụng của Bát Trận Đồ thời ấy, quá hơn thiên binh vạn mã, thế mà chỉ vì, khi Gia Cát Lượng đề nghị với Lưu Bị, nên liên kết với Ngô để diệt Ngụy. Lưu Bị không nghe, ông còn có mối thù riêng với Ngô, vì Ngô đã giết đại tướng Quan Vũ là người anh em kết nghĩa của mình, nên Lưu Bị không thể tha thứ. Ông đã quá căm hận mà không chấp nhận, nghe lời bàn có tính cách mưu lược ấy, cứ mang quân đi đánh Ngô.

Kết quả là đại bại, phải kéo tàn quân về, từ đó Lưu Bị buồn mà phát bệnh để rồi chết. Vì thế nên mới có câu thơ thứ ba: Giang lưu thạch bất chuyển (nước vẫn chảy, nhưng đá vẫn còn trơ trơ ) cũng như những khối đá của Bát Trận Đồ còn đó, mà để làm gì. Và câu cuối: Di hận thất thôn Ngô. Là mối hận lớn để lại, hận là tại sao lại để mất đi cái cơ hội lập thế, cùng đi với Ngô để kháng Ngụy.

Đỗ Phủ được gọi là thi thánh, ông là một người trung trực đối với quốc gia, với bạn bè, với người thân lúc nào cũng thắm thiết, nên những lời thơ viết tự tấm lòng ấy, bao giờ cũng làm cho mọi người dễ cảm xúc. Ông đã gây nhiều ảnh hưởng trong các thi nhân của thời đại. Ông là một thi sĩ đã làm cho nước nhà được kiêu hãnh, đó mới là một tài hoa chân chính.

Tôi lắc đầu, tỏ vẻ không tán thành, nói thế thì bao nhiêu thi sĩ khác để đâu, tôi đã cố ý sửa lại, cũng có chút muốn trêu tức cái nhà ông tướng nầy chơi.

– Tướng công nói vậy chưa đúng, phải nói rằng ông là một trong những nhà thơ đã làm cho nước nhà kiêu hãnh, nếu không thì… còn bao nhiêu thi sĩ khác bỏ đâu.

– Biết rồi tại tôi chưa kip nhắc đến ông Vương Duy, ông Lý Bạch, ông Bạch Cư Dị của bà chứ gì…

– Nào phải của tôi, giá mà của tôi thì lúc nầy tôi đâu ngồi đây, thưa chuyện với Tướng công.

Tướng Mông Điềm vuốt râu vui vẻ hẹn.

– Cho ngoan ngoãn rồi lần sau tôi mời các ông ấy cho mà đàm luận.

Nghe vậy thì biết vậy chứ tôi chắc không thể nào đủ giờ, vì còn rất nhiều chuyện để bàn cãi, thảo luận với ông tướng nầy, vả lại tôi vẫn ngại các ông văn thi sĩ, hay nhõng nhẽo, nói chuyện gì mà thoát ra ngoài cái sở trường của họ là họ không vui. Ông thì hút thuốc, ông thì uống rượu, ông  thì cả tam tứ đổ tường mà tôi thì cái gì cũng không thích, sợ e khó làm hài lòng các ngài tuy nhiên, nếu có thì giờ để được gặp quý vị thì cũng không phải là điều không phải là không thú vị. Chỉ sợ thì giờ quá eo hẹp.

– Cảm ơn tướng công, xin để cho một dịp khác, nhân đề cập đến các thi nhân xưa, sao các ngài hay nói đến Dương Quan nhỉ. Nhiều bài thơ của nhiều tác giả thường nhắc tới.

– Dương Quan ở phía Nam Ngọc Môn Quan, mà Ngọc Môn Quan lại ở về phía Tây tỉnh Cam Túc, huyện Đôn Hoàng. Phía ngoài Ngọc Môn Quan là tỉnh Tân Cương ngày nay. Thời Xuân Thu cũng có một Dương Quan ở nước Lỗ, ngày nay gọi là huyện Ninh Dương, tỉnh Sơn Đông, tại Hà Nam cũng lại có một Dương Quan nữa.

– Thế Dương Quan khúc? Ngày nào Tướng công sang viếng xứ Hoa Kỳ, xin mời đến tệ xá có sẵn mấy cây đàn, xin được nghe khúc Dương Quan ấy.

Tướng Mông Điềm trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi mỉm cười nhìn ra phương xa, ông đưa tay chỉ vừa nói.

– Nơi xa kia là Long Thành, thời ấy, hằng năm Hung Nô vẫn tổ chức đại hội.

– Tướng công có đến dự và có đánh đàn chăng?

– Không, tôi chỉ đánh đàn vào lúc đêm khuya hoặc buổi sáng sớm, chỉ đánh cho một mình mình nghe.

– Tôi muốn tướng công nói về khúc Dương Quan mà sao tướng công lại ra ngoài đề.

Ông tướng lắc đầu, chắc trong đời ngài ít khi bị ai làm trái ý, quen được tuân lệnh. Kệ chứ, nhập giang phải tùy khúc, thế kỷ gần sang đến thứ 21 rồi, cổ hủ quá sao được.

– Dương Quan Khúc là Vị Thành Khúc, bài thơ của Vương Duy, bà biết mà:

Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu.

Tây xuất Dương Quan vô cố nhân

Bài nầy đã được phổ nhạc và đã được người thời ấy rất hâm mộ. Nó thuộc loại Tống Biệt nên ai tiễn đưa ai cũng cũng ca cũng tấu khúc Dương Quan nầy. Người đời còn gọi hai câu ấy là Dương Quan đệ tứ thanh.

– Lý do vì sao?

–  Vì cái nhà ông Bạch Cư Dị lúc làm bài Đối Tửu Thi có hai câu:

Tương phùng thả mạc thôi từ túy.

Thính xướng Dương Quan đệ tứ thanh

Khúc Dương Quan nầy lại còn được chia ra Bắc khúc và Nam khúc. Bà cứ về sẵn sàng chuẩn bị lên dây đàn trước đi. Bao giờ có dịp, nói theo tiếng nhà Phật, bao giờ có duyên, tướng Mông Điềm nầy sẽ đàn cho mà nghe. Nam khúc hơi buồn, nhưng lúc tiễn đưa nhau có mấy khi vui.

Tôi sợ phải nói đến những lời những chữ tiễn đưa, biệt ly bèn nhẹ nhàng đổi câu chuyện.

– Ngày còn bé tôi lên 6 tuổi, có lần được nghe bố tôi đọc bài diễn văn giã từ, khi ông phải lìa tỉnh Kontum để đi nhậm chức Tuần Phủ tỉnh Quảng Bình. Bài diễn từ đọc trong buổi tiệc tiễn đưa. Tôi nhớ mãi nên đã thuộc lòng hai câu ấy. Mặc dầu không hiểu tí nào về cái chiều hướng thâm sâu của tác giả, khi bảo khuyến quân, nhưng sự thật chính là tự khuyên mình. Hồi ấy tôi cũng không hiểu cả bố tôi, vì có bao giờ gần gũi để tâm sự, nhưng tôi thích hai câu ấy, nghe âm điệu thật gợi hứng.

– Một phần vì bà là con gái, mà có ai đi nói chuyện văn chương với đứa bé lên 6 tuổi bao giờ.

– Cũng đúng, tôi là con gái mà lại tiếp liền thứ bốn, vừa u mê, vừa bệnh hoạn, ngồi đâu thì hóa đá ở đó, đuổi ruồi không bay. Ai hỏi đến là chạy trốn.

Tướng Mông Điềm gật gù nhìn tôi cảm thông, thoáng có chút thương hại, nhưng tôi đã ngạo nghễ mím môi nhìn lại ông, tỏ thái độ bất cần. Người ta là con cháu bà Trưng bà Triệu chứ. Ông tướng chịu thua không đám thương hại nữa. Thấy quãng thời gian gần 30 giây trôi qua hơi phí thì giờ, tôi vội lên tiếng trước. Hỏi cái gì đây, một trăm nghìn vấn đề, đủ mọi mặt.

Chợt nghĩ đến độc giả, hẳn cũng có nhiều người nôn nóng khi thấy tôi không biết hỏi cái gì. Thế nào cũng có người sẽ bực tức, sao có thể u mê, nghìn năm một thuở mới gặp được một nhân vật văn võ toàn tài nầy mà không đưa những vấn đề thời sự ra chất vấn giùm cho người ta nhờ.

– Là một vị tướng từ cõi âm lại là một người trung quân ái quốc, tướng công nhận thấy cái tương lai của đảng cộng sản sẽ như thế nào, liệu có sự chuyển hướng nào không?

Ông tướng nhìn tôi rồi đưa mắt nhìn về phía Bắc Kinh, thủ đô, nơi đang có cái xác của Mao ông nằm phơi mình tại đấy. Giọng ông hơi đổi, trầm buồn, không hăng say như ban nãy.

– Bà cũng đã biết rằng ở cõi đời cái gì cực thịnh thì rồi cũng có ngày suy, nếu không nói đến sự cực suy. Bao nhiêu trăm nghìn thế kỷ, thế hệ, từ Đông sang Tây Âu sang Á đã chứng minh. Rốt cuộc rồi anh nào cũng chỉ là một thứ ma lang thang, càng ác ôn thì càng phải trả cái giá ác ôn ấy. Lúc sống có hét ra đến thứ lửa nào thì lúc chết cũng chỉ là một nắm xương. Cất dấu ướp ép đến thế nào rồi cũng có ngày trở thành tro bụi. Đảng Cộng Sản Nga nắm quyền từ 1917 tính lại đã trên 70 năm mà thằng dân ở Nga quốc vẫn khốn khổ, đến cuộn giấy vệ sinh cũng còn thiếu. Khác gì những anh dân sống trong hang cùng ngõ tận. Miệng thì chửi tư bản cứ ầm cả lên, mà trong lòng anh nào cũng thèm từ điếu thuốc lá, đến tấm áo lót đưa từ xứ tư bản sang.

Nghe tướng Mông Điềm nói đến đây, tôi chợt nhớ đến một kỷ niệm, đưa ra kể cho ông tướng nghe. Năm 1971 tôi sang dự hội nghị nhà văn tại Nam Tư, sau khi hoàn tất buổi lễ chào mừng quan khách, có một nhân vật trong ban tiếp tân, mời tôi ra hành lang, nói chuyện thêm mặc dầu biết tôi là dân miền Nam, không cộng sản. Ông ta than rằng hôm nay là ngày sinh nhật của ông ta, nhưng mà vì biết nói tiếng Pháp nên bị cử vào ban tiếp tân ngày khai mạc đón chào văn nghệ sĩ, thế là đành phải để cho vợ con chèo queo ngồi chờ ở nhà. Thấy ông ta nói có vẻ tội nghiệp, tôi mở ví rút cây bút Cross làm quà tặng. Ông ta mừng quá, giật lấy bỏ vào túi rồi quay lưng đi thật nhanh, hình như sợ tôi đổi ý mà đòi lại chăng. Biết thế thì khoan hẵn đưa ra, kinh nghiệm cả. Tướng Mông Điềm nghe kể, cười lên ha hả, nói tiếp:

– Đấy, một chế độ mà chỉ biến được con người ra thành một thứ máy thèm. Cái gì cũng thèm, cái gì cũng thiếu, rồi từ sự thiếu thốn và thèm khát ấy khiến cho con người trở thành tham lam, gian xảo. Cái nhà ông Đặng Tiểu Bình thế mà lại khá, mươi năm nay đã mang lại chút sinh khí, cầu mong cho ông ta đừng có nghe ai xúi bậy trở thành u mê mà bế môn tỏa cảng lại thì chỉ khốn khổ cho lũ dân đen…

– Tướng công có tin rằng rồi đây sẽ có sự….

– Ai điên mới nhắm mắt mà tin mấy ông ấy, chẳng bao giờ nên tin những lời hứa hẹn của họ, nhưng ở đời, toàn thịnh dục tuyệt. Cứ lên đến đỉnh đi, rồi thế nào cũng ngã, không ngã bằng cách nầy cũng bị xô xuống bằng cách khác.

– Như thế tức là cộng sản rồi sẽ bị tiêu diệt, tướng công muốn nói vậy chăng. Có người ví cộng sản với Tần Thủy Hoàng, tướng công có đồng ý?

– Thì cũng vào lối đó, nhưng Tần Thủy Hoàng chỉ có một mình với lũ nịnh thần, còn cộng sản là cả một đảng có liên kết có tổ chức quốc tế cứ nhân danh đảng, nhân danh dân tộc rồi đi giết người ta. Họ Hồ nhà bà đấy, và tình trạng nước Việt Nam nhà bà đấy, chứng minh rõ ràng sự đưa nước nhà lên, sắp hàng đứng hạng nhất trên thế giới.

– Hạng nhất gì vậy?

Ông tướng cười, nhìn thẳng vào mặt tôi, nghe bảo hạng nhất tưởng bở, ông nói ngay.

– Hạng nhất của sự kham khổ, túng đói.

Tôi nghe nói mà lòng buồn vời vợi, ngày còn là một nhóc con mới lên mười lăm, mười bảy tôi cũng đã từng viết những bài thơ ca ngợi bác, đóng góp vào công cuộc tuyên truyền…

Bác Hồ ơi hỡi bác Hồ,

Xin vào khu bốn bắt bồ với em,

Bác buồn em múa bác xem

Đói bụng thì có cà rem ăn liền…

– “Thương nữ bất tri vong quốc hận”

Nghe ông tướng ngâm một câu thơ của thi sĩ Đỗ Mục xong rồi ông ta nhìn tôi như để dò xem tôi có biết. Tôi trề môi, cười đọc tiếp bốn câu sau cho ông ta hết dám khinh đàn bà Việt Nam là phụ nhân nan hóa, như từ trước đến nay các chú chệt vẫn hay có thành kiến.

– Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa

Dạ bạc Tần Hoài, cận tửu gia

Thương nữ bất tri vong quốc hận

Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa

Tướng Mông Điềm nghe tôi đọc đã mở tròn mắt ngạc nhiên, hai âm hơi lệch nhau đôi chút nhưng có gì vẫn từa tựa nhau. Người Trung Hoa đọc là Wong kuố hấn thì chúng ta đọc là vong quốc hận.

– Lạ nhỉ thế thì chúng ta học ngôn ngữ của nhau rất dễ.

 Tôi lặng yên, nhưng riêng trong lòng vẫn tin rằng âm thanh của chúng ta nghe thanh tao hơn, nhiều nhạc điệu hơn, có thể là tôi hơi chủ quan, nhưng không sao, lúc nầy cần phải thanh minh cho tuổi trẻ trước đã, sau nầy sẽ còn thì giờ, sẽ tranh giành xem ai đọc hay hơn ai.

– Độ ấy chúng tôi còn trẻ, nhiệt huyết bừng bừng, ai chẳng mơ nước nhà độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp. Sự thành công ngày nay của hầu hết khối cộng sản là do sự biết lợi dụng tuổi trẻ, và lòng yêu đất nước của người dân.

Ông tướng gật đầu ra vẻ ta đây hiểu cả.

Biết rồi, bà khỏi phân trần.

– Tuy vậy tôi vẫn hận những quốc gia tự do, biết rằng chế độ cộng sản hà khắc như thế mà vẫn tiếp tay, mở cửa mời họ vào.

Tướng Mông Điềm cau mặt lắc đầu chưa hiểu tôi muốn nói gì, hỏi ngay.

– Bà muốn nói gì đây?

– Tôi muốn nói đến sự tham nhũng, ích kỷ của những người nắm chính quyền ở các quốc gia ấy. Họ hầu như không thèm đếm xỉa đến cuộc sống của người dân. Ông nào lên cũng chỉ lo mang tiền ra cất dấu ở ngân hàng ngoại quốc cho yên chí, để ngày mất nước khỏi thắc mắc về vấn đề sinh sống của cá nhân và gia đình mình. Sống chết mặc thằng dân.

– Bà muốn nói ai, xin đừng vơ đũa cả nắm nhé, đổ thùng nước tắm xin đừng hắt luôn cả đứa bé đang nằm trong thùng nước.

Tôi bật cười, cái nhà ông tướng nầy cũng biết dùng cả câu ngạn ngữ Anh quốc. Có phải vì là người cõi âm, ai cũng thông giỏi như vậy chăng. Tiện đây tôi phải hỏi xem hồn với phách khác gì nhau.

– Nhân đây muốn tướng công nói về hồn với phách cho bỉ nhân nghe chơi, được chứ.

– Sao lại không, nhưng ngày giờ thì ít mà tôi thấy bà…

– Các hạ, – tôi cố ý sửa lại.

– Ai gọi đàn bà là các hạ bao giờ?

– Tướng công lầm rồi. Cái hình hài bé nhỏ nầy chỉ là một sự hóa thân. Tướng công không thấy các bậc sĩ phu đời Đường đã khen nét chữ của bà Vũ Tắc Thiên có trượng phu khí đó sao? Trong khi rất nhiều đấng nam nhi lại có lối viết như gà mái phải mưa.

Tướng Mông Điềm cũng muốn chơi chữ, sửa lưng tôi cũng để chứng minh sự hiểu biết rộng rãi của mình.

– Bà có biết gà mái phải mưa là để nói đến mấy thằng đàn ông sợ vợ, mà là tiếng của người Pháp đấy nhé, bà ảnh hưởng hơi nhiều. Điều thứ hai, may là bà dùng chữ hóa thân, tưởng bà dám đùng chữ hóa độ…

– Bỉ nhân đâu dám vô lễ, bỉ nhân là con nhà Phật mà, biết chữ gì phải dùng, nói bậy mắc tội chết.

– Cha chả, bây giờ mới được nghe các hạ nói một lời khiêm tốn, từ hôm qua đến hôm nay toàn cái giọng hách địch, lúc nào cũng khoe ta đây con cháu bà Trưng, bà Triệu.

Tôi mỉm cười hài lòng vì bắt được ông tướng gọi mình bằng các hạ là chữ người ta dùng khi đối thoại với bậc tôn quý mà kém tuổi. Chắc hẳn ông ta có hơi dễ tính và đã nghĩ rằng sá gì một tiếng xưng hô, cứ gọi đi cho nó mát ruột, cũng chẳng tốn kém gì. Đây cũng là một bài học cho cá nhân tôi, trước hết là sự chẳng mất mát gì, một lời, một chữ.

– Tướng công chưa trả lời câu hỏi của tôi.

– Theo tôi nghĩ thì: “Hồn cư hậu não, phách cư tâm phòng” tức là hồn ở tiểu não, ban ngày ngủ mà ban đêm lại thức, lúc có gì phải suy nghĩ thì hồn ở ấn đường, chỗ sống mũi, gặp lúc sợ hãi lại chạy trở về tiểu não, lúc nào quá sợ thì do huyệt Bách Hội, tức là huyệt ở ngay giữa đỉnh đầu mà bay ra, đợi bình yên thì mới trở về. Phách ở trong tim, nam tả nữ hữu, tức là đàn ông thì phách ở phía tim bên trái, đàn bà phía tim bên phải. Lúc có gì sợ hãi, phách ở đấy không yên, vì tim đập mạnh, phách phải chạy trốn vào túi mật. Nếu sợ hơn nữa thì lại phá túi mật để từ miệng bay ra. Nếu trong một ngày không trở về thì người sẽ bị bệnh, mười ngày không trở về là chết.

Tôi nghe ông tướng giảng mà thích thú, để đấy lúc trở về sẽ rao lên cho bạn bè độc giả nghe mà suy nghiệm thêm, nhưng phải lợi dụng để còn biết được thêm những điều khác, tôi lại đặt câu hỏi.

– Người ta bảo ở Trường Thành nầy có quỷ, tướng công biết chứ?

– Đầy đường đầy sá, bà nhìn không thấy đấy chứ, à quên các hạ là người cõi trần, cõi dương nên không thể nhìn ra, chứ những người chết mà là loại người tầm thường, không làm ma quỷ thì làm gì. Nhưng các hạ nên nhớ rằng, ma quỷ không đáng sợ, rắn rết, cọp beo không đáng sợ mà chỉ có loài người là đáng sợ. Lũ thú vật không động gì đến chúng thì chúng cũng chẳng làm hại gì đến các hạ, nhưng loài người thì phải coi chừng, dẫu các hạ có ở xa nghìn dặm, chúng vẫn ganh ghét và tìm cách hãm hại, nếu cần. Hôm qua, các hạ hỏi tôi về Triệu Cao là đó, chỉ vì y biết rằng nếu để Phù Tô lên ngôi thì y có thể mất hết, nếu bên cạnh Phù Tô còn có thêm tướng Mông Điềm nữa thì y sẽ không bao giờ hy vọng nhìn thấy ánh mặt trời.

Tôi chợt nhớ thêm một điều, nói cho đúng là bố mẹ sinh ra tôi dưới một vì sao hiếu kỳ, nôm na thì gọi là tò mò, cái gì cũng thích tìm tòi học hỏi, say mê đủ thứ. Hôm nay nhân gặp một quý nhân đặc biệt nầy tôi phải lợi dụng hỏi cho thật nhiều chẳng cần phải đi đâu nữa, chuyện đâu còn có đó. Tôi sẽ hỏi tất cả những gì mình vẫn thắc mắc từ trước đến nay, lắm khi trong cuộc sống chẳng biết tìm ai để hỏi, sách vở thì không đủ, mà có thể nếu gặp được một người, thì sự hiểu biết của họ cũng chỉ hướng đến một vài ngành. Hỏi tò mò quá ra ngoài giới hạn thì họ sẽ nhìn mình như nhìn con quái vật của thời thái cổ. Đưa những ý nghĩ nầy ra nói với ông tướng, được ông chấp thuận rất vui vẻ.

– Xin các hạ cứ tự nhiên, cái gì mà hôm nay tôi không tiện trả lời thì sẽ hẹn đến ngày mai, hoặc chờ tôi nghiên cứu kỹ lại. Hoặc là mời các hạ tái đáo Trường Thành, làm hảo hán một phen nữa, hoặc là tôi sẽ du hồn sang Ngõ Trúc của các hạ để cùng nhau uống trà mà đàm đạo bên khóm trúc, nghe các hạ có một vài cây quý.

– Được lời như cởi tấm lòng.

Tôi đọc lên câu Kiều để tỏ sự hoan hỉ, không ngờ ông tướng cõi âm nầy cũng biết, ông ta đọc tiếp chắc để trả đũa mấy câu thơ Dạ Bạc Tần Hoài ban nãy chăng.

– Giở kim thoa với khăn hồng trao tay.

Rằng trăm năm cũng từ đây,

Của tin gọi một chút nầy làm ghi..

Tôi ngạc nhiên, không ngờ ông tướng nầy lại biết cả Nguyễn Du của chúng ta.

– Ủa sao tướng công cũng biết Đoạn Trường Tân Thanh của chúng tôi?

– Tôi còn biết đó là câu thứ 353, tôi đọc thêm 3 câu nữa là 356. Các hạ thử tìm xem có được mấy người trong đám bạn bè của các hạ, mà có thể thuộc Kiều đến như thế. Người ta hay đọc tùy hoàn cảnh như các hạ vừa đọc, mà bây giờ hỏi lại xem câu ấy ở vào đoạn nào, lúc nào, câu số mấy, chắc ít người dám tự hào rằng mình biết. Thí dụ như bây giờ tôi hỏi các hạ một câu.

“Bốn phương mây trắng một mầu

Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.”

Đố các hạ nó ở vào hoàn cảnh nào trong Kiều?

Tôi đang cau mặt suy nghĩ, trong lòng đang phục thầm cái nhà ông tướng cõi âm nầy sao mà có thì giờ để đọc, để biết như thế.

– Các hạ chịu thua chưa?

– Chắc phải chịu thua, tướng công nói đi.

Tướng Mông Điềm đưa tay lên vuốt hàm râu, sung sướng, tự thấy ta là kẻ chiến thắng, dầu cuộc chiến rất bé nhỏ.

– Đó là câu thứ 1787 và 1788, lúc nàng Kiều bị Hoạn Thư bắt vào làm con hầu, trong lúc chờ Thúc Sinh về để đày đọa cho hả cơn ghen.

Lần nầy đến lượt tôi mở tròn con mắt ngạc nhiên, à ra thế, bây giờ mới thấy rõ sự khác biệt giữa hai cõi âm dương.

– Nhân đây, tại hạ muốn hỏi tướng công một vấn đề chắc tướng công phải đủ thẩm quyền để giải thích.

– Xin các hạ cứ tự nhiên đã là bạn bè, dầu không có bạch mã, hắc ngưu, đào viên kết nghĩa, như ba vị Lưu, Quan, Trương thời tam quốc, nhưng các hạ đã tốn bao nhiêu công của đến đây, chỉ có một mục đích là để thăm tướng Mông Điềm nầy, thì đó cũng là một điều đáng ghi vào…

– Sử xanh.

Tôi láu táu tiếp cắt lời nhưng ông tướng lắc đầu, chắc vì nhận thấy chữ sử xanh hơi quá đáng, sự gặp gỡ giữa hai người bạn thì có gì mà phải đến ghi vào sử xanh.

– Xin các hạ đặt vấn đề, đặt câu hỏi, mặt trời gần đứng bóng mà thời gian không biết đợi chờ.

– Thời gian và con nước…

Tôi cố ý nói để trêu, vì ông tướng lại đang dùng một câu ngạn ngữ Anh, chắc từ khi có cuộc Nha Phiến Chiến Tranh nên ông tướng bắt buộc phải đọc sách của người Anh nhiều.Tí nữa tôi sẽ thử xem ông ta còn biết văn chương xứ nào khác nữa, nhưng hôm nay để phải đi vào đề, những gì tôi vẫn thắc mắc sẽ hỏi trước.

– Tôi muốn hỏi tướng công về sự ướp xác sau khi chết có phải là điều tốt không, sự kiện có liên quan đến thuật Phong Thuỷ, xin được nghe những lời chỉ giáo, vì tại hạ là  đứa phàm trần u mê ám chướng.

Ông tướng tủm tỉm cười, lại đưa tay lên vuốt hàm râu, chắc là để tìm lời đáp lại cho đúng.

– Xin các hạ đừng nói lên những lời khách khí, đây tôi xin trả lời để chiều cái ý của con người tò mò muốn tìm hiểu tất cả, những ai phải sống chung với các hạ chắc là khổ sở lắm, các hạ không nên đày đọa người ta, tôi đây là người cõi âm nên có đủ sức chịu đựng, người đời mà hành hạ họ quá thì họ sẽ bỏ đi vì hết chịu nổi.

– Điều ấy cũng đã xảy ra…

– Để mở đầu xin nói đến thời tiền sử, ở các vùng sa mạc, người ta hay chôn xác trong những cái hố, đào nông dưới cát. Nhờ khí hậu nóng và khô làm cho thi thể giữ được nguyên vẹn. Hẳn cũng do từ đó mà đã tạo lên niềm tin trong khối người dân sa mạc rằng, sự linh thiêng của người chết là khởi từ sự nguyên vẹn của thân xác. Rồi cũng từ đó người ta tin thêm rằng, nếu xác giữ xác cho được nguyên vẹn thì sự linh ứng càng tăng, và kỹ thuật ướp xác bắt đầu để giữ cho uy lực linh ứng được dài lâu. Cố nhiên là phương pháp ướp xác rất tốn kém. Chỉ các bậc quyền quý, vua chúa mới đủ sức trả cái giá ấy.

– Phải làm những gì, tướng công có biết chứ?

– Sao lại không.

– Xin được nghe.

– Bắt đầu bằng công việc lấy bộ não ra, phải rút từ lỗ mũi bên phía trái, tiếp theo là phải tiêm ngay vào một chất khác để làm tan những gì còn lại. Sau đó là mổ bụng ra lấy hết lòng tim gan tỳ phế, mang ngâm vào rượu cây kè để dành.

– Sao lại phải là rượu cây kè, một chất rượu khác có được không?

– Các hạ chịu khó nghe, tí nữa hẳn đặt câu hỏi, sao mà nóng nảy thế.

Tướng Mông Điềm tỏ ra không thích sự bị ngắt lời, thì thôi vậy, ông tiếp lời.

– Sau đó còn phải làm cho xác được khô, tức là phải bỏ xác vào trong hòm gỗ, phủ lên với chất thiên nhiên diêm (natron). Chất nầy vừa làm khô, lại vừa làm sạch. Sau 70 ngày cho tử thi nằm trong cái hòm gỗ ấy, hoàn toàn khô khan rồi mới được lấy ra quấn vải, thứ vải đã được tẩm trong chất sáp và long não. Tất cả đều chung một mục đích là giữ cho xác được tồn tại dài lâu…

Ông tướng vừa dứt lời, tôi định nói thì bị ông ta đưa tay ra hiệu ngăn chặn, để ông ta tiếp tục.

– Biết các hạ muốn hỏi câu gì rồi, nhưng phải từ từ, nghe cái gì cũng phải nghe cho trọn đầu trọn đuôi. Các hạ muốn hỏi thăm mấy cái xác ướp ngày nay đấy chứ gì?

– Tướng công thật là…

– Ngày nay y học thường dùng một thứ tửu tinh, cam du và giáp thuyên thủy (aldehyde) ba chất nầy được pha trộn thành một thứ dung dịch. Tửu tinh, tục gọi là hỏa tửu, phân tử thức của nó là C2H50H, nó có sức sát trùng rất mạnh. Người ta dùng nó để bảo tồn thi thể. Nhưng chất nầy lại là chất bốc hơi, một thời gian sau mặt mày sẽ bị nhăn nhúm, vì chất tửu tinh ấy đã làm co rút lại. Chất Cam Du tiếng ngoại quốc là glycerine, cũng có sức bảo tồn thi thể, làm cho con khuẩn không có dưỡng khí để thở mà sống, tuy vậy, trong một thời gian sau, chất nầy lại có sức du hóa làm cho biến thể. Thứ ba là Hỏa Ma Lâm, ngoại ngữ là formalin, công thức là HCHO. Nhưng nói cho hết vậy thôi chứ mấy cái xác ấy, chẳng trước thì sau, cũng sẽ có ngày chui vào thùng rác của xã hội.

– Là sao?

– Thì còn sao nữa, chính các hạ đã thường nói lên cái định luật: “Vạn vật đều sẽ chui vào thùng rác”, bây giờ còn hỏi.

Tôi bật cười, không ngờ câu nói đùa hằng ngày của tôi mà cũng đến tai ông tướng. Tôi chợt nghĩ đến các con cháu ở nhà chúng còn đặt cho tôi cái tên là Võ thị Liệng, vì cái gì cũng đòi liệng thùng rác.

– Còn muốn nghe chuyện xác ướp nữa không?

– Muốn chứ, xin tướng công nói nữa đi.

– Chưa ai bằng cô gái ở Hồ Nam, mà hẳn các hạ có từng nghe nói đến Mã Vương Thôi, ngôi mộ chôn từ 2000 năm mà đào lên da thịt vẫn y nguyên, hồng hào như mới chôn.

– Tướng công muốn nói đến ngôi mộ vừa được khai quật chứ gì?

– Cũng đã mấy chục năm rồi từ khi tìm ra được vết tích cho đến khi quyết định khai quật.

Tôi hơi cau mặt, sự thực tôi cũng không có ý nghiên cứu về vấn đề ướp xác, những của nầy chỉ cần ra hiệu sách, mua lấy một quyển là có ngay tất cả mọi công thức, thấy mất nhiều thì giờ nên tôi hỏi ngang.

– Tại hạ muốn hỏi tướng công nghĩ gì về…

– À, hiểu rồi, thì ra các hạ nóng ruột muốn hỏi bỉ nhân về mấy cái xác khô tốn công tốn của, vô bổ, hại dân, hại nước… Các hạ muốn biết về mấy cái xác đó chứ gì?

Cái nhà ông tướng cõi âm nầy thật dễ nói chuyện, chẳng cần nêu lên đã biết hết, đọc được cả từ trong tim trong phổi của người ta.

– Vâng xin tướng công cho biết, quả thật tướng công quá sức linh ứng.

Ông tướng nhếch mép cười như không thèm đếm xỉa đến những lời khen vô bổ của người đời, đã mấy lần tôi chú ý điều nầy.

– Người Ai Cập xưa mới tin cái sự ướp xác như thế, ngày nay chắc cũng chẳng còn ai tin. Vả lại sự ướp xác, giữ lại cái xác rỗng đầu rỗng ruột ấy để làm gì, chẳng khác gì những con thú được độn rơm bên trong. Chết rồi mà cũng không được yên. Các hạ có am hiểu chút ít về thuật Phong Thủy chắc cũng rõ chứ, chết mà được nằm trong lòng đất, nếu gặp được sinh vượng địa, khí mạch điều hòa, mà khí mạch bao giờ cũng có sự liên hệ đến các tinh tòa, thiên nhiên tuy xa mà gần. Các hạ có thấy con cháu của những cái xác ướp ấy có tên nào làm nên nghề ngỗng gì chưa, nói nghe coi. Có những địa huyệt được gọi là dưỡng thi, các hạ có bao giờ nghe nói đến tên dưỡng thi huyệt chưa? Chôn nhằm đất ấy thì cái xác sẽ không bị hủ hoại. Lệ thường chỉ độ vài ba năm, lâu lắm là tám chín năm thì xác nào cũng phải hủ hoại, gặp phải dưỡng thi huyệt thì chỉ cái áo quan bị hủ hoại mà cái xác thì vẫn tiếp tục mọc râu, tóc, răng nanh và móng tay cứ theo thời gian mà dài ra, nếu đào lên, ngoài cái hình thù quỷ quái đáng sợ ấy lại có mùi hôi thối gọi là chiên khí. Gặp huyệt ấy là phải cải táng ngay, nếu không thì con cháu hoặc chết yểu, đọa thai, tật nguyền, nếu là xác đàn bà thì bên con cháu gái bị ảnh tưởng nếu là xác đàn ông thì bên phía con cháu trai bị ảnh hưởng.

– Làm sao để biết?

– Thì mấy cái nhà chuyên môn về khoa phong thủy phải biết, cứ nhìn gia đình ai hay xảy ra những sự ấy thì phải đặt vấn đề ra mà đi tìm thầy để thỉnh thầy về xem lại mồ mả, ngày xưa là như thế. Người ta mong tìm ra đất có long mạch tốt, khí vận tốt để mà chôn cho yên xác yên hồn, nếu không thì đốt theo lối trà tỳ của Phật Giáo chứ ai lại mang cái xác ra mà hành hạ moi óc moi tim, để rồi cho nằm phơi thây ra đấy bắt thiên hạ ngắm. Chưa kể rồi đến ngày hết thuốc cũng đành phải kéo cái xác ra mà đi vùi nơi khác. Mấy chú Cộng đã tự mâu thuẩn, miệng thì leo lẻo vạn vật biến đổi, mà lại mang xác đi ướp cho vĩnh viễn. Giá mấy ông xác ấy mà lúc còn sống đã thông minh hơn thì phải làm di chúc xin các chú tha cho cái thân già, cho thân già được về với đất đai.

Ông tướng nói một hơi không ngừng, giọng có vẻ mỉa mai bực bội, tôi vội đặt câu hỏi vì mục đích chuyến Trung Quốc du nầy là để tìm mua sách. Ở Hoa Kỳ thỉnh thoảng tôi hay rủ Liên Hương, cô bạn trẻ đi Chợ Lớn mua sách. Chợ Lớn của chúng tôi là phố Tàu ở Los Angeles. Sang đây tuy chưa mua được sách nhưng gặp được ông tướng cõi âm nầy, cũng phải xem như gặp được một tủ sách vô cùng quý giá, tôi triệt để khai thác học hỏi cho đến tận cùng những điều thắc mắc mới đáng.

– Thỉnh vấn tướng công…

– Sao các hạ bỗng trở nên khách khí vậy?

– Tại hạ còn quá nhiều điều thắc mắc, nhiều vấn đề cần học hỏi, chẳng biết thời gian có cho phép, cứ ý nghĩ nào trào ra trước thì xin được hỏi trước, mong tướng công miễn chấp. Tại hạ vẫn thắc mắc, con người chết rồi đi về đâu? Những khối óc thông minh những kiến thức hiểu biết, cảm xúc… chết là hết sao?

– Các hạ sao mà chẳng phụ nhân tí nào, đàn bà thì nên chú tâm đến gia đình, nhà cửa, chồng con, cúng kiến chứ cứ lo chạy theo tìm những gì đâu đâu, nhưng các hạ đã hỏi thì cũng xin trả lời để rồi các hạ lại trách móc. Những kiến thức, học hỏi, rung cảm đều còn đó, cả những sự ngu xuẩn, u mê, độc ác cũng còn đó, dẫu con người đã chết. Các hạ vẫn xưng mình là con nhà Phật, am hiểu một phần nào về luật nhân quả với kiếp luân hồi, mà sao còn thắc mắc. Tôi đồng ý với chú em của các hạ, hằng tuần phải đi học những điều gì mới mẻ nhất của y học, nhưng về nhà mỗi sáng vẫn khoác tấm áo tràng ngồi tụng kinh, cầu nguyện cho bố mẹ được siêu thoát, khỏi trở lại làm người, hụp lặn trong cái biển nghiệp. Đó mới đúng là một lời cầu nguyện vì loài người chỉ cầu xin cho được giàu sang phú quý danh vọng, được người yêu…

Tôi ngạc nhiên cau mặt suy nghĩ nhưng rồi cũng chẳng ngạc nhiên nữa vì đã bảo người cõi âm là khỏi cần nói lên cũng hiểu tất cả rồi.

– Tại hạ với chú ấy cãi nhau hằng ngày…

– Về vấn đề gì, đó là lời cầu xin đứng đắn nhất, không như các hạ chỉ lo cầu cho những ai tôi thương và thương tôi, đúng là lời cầu xin của phụ nhân.

– Tướng công nói thế cũng chưa đúng, có thể là tôi không được thông giỏi bằng chú ấy, nhưng nếu bảo rằng tôi thương tất cả mọi người thì sao.

– Đừng có cãi bướng, đúng là phụ nhân.

Tướng Mông Điềm nói xong, khoanh tay chờ đợi xem sự phản ứng của phụ nhân ra sao

Tôi biết vậy nên không thèm tức giận, chờ dịp khác sẽ trả đũa, đâu còn có đó, còn gặp nhau còn nói chuyện là thế nào cũng có cơ hội.

– Tương lai của Trung Quốc đi về đâu? Từ ngày Đặng tiên sinh mở cửa, nới dây thắt họng, coi bộ phấn khởi quá, tướng công đồng ý chứ.

– Pouvou que ca doure (chỉ mong nó được mãi).

Tôi trợn mắt há miệng, mấy chữ Pháp đọc sai nầy người ta hay nhắc để ngạo ông tướng Napoleon. Đây hình như là lời bà mẹ ông ta hay nói, khi biết con làm Hoàng Đế. Đáng lẽ phải nói pourvu que ca dure, vì bà mẹ người Corse, rất bình dị nên nói có chút thổ âm. Sao ông tướng nầy biết cả đến những chi tiết ấy mà lại đặt đúng chỗ.

– Tướng công có thích ông tướng Corse đó không?

– Có nhiều cái hay, mà cũng có nhiều cái chưa hay, làm tướng mà đa tình quá cũng mất thì giờ. Nhưng tôi vẫn xót xa khi ông ta bị đày ở đảo Sainte Hélène. Chí lớn bị thâu tóm lại trong một mảnh hoang đảo, để rồi có hôm ngồi buồn viết lên mấy chữ làm xót xa người đời sau.

– Mấy chữ gì vậy thưa tướng công.

– “Sainte Hélène, petite île” ( Sainte Hélène, cái đảo nhỏ). Hẳn các hạ có nghe câu: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”, với ông nầy cũng khá đúng.

– Thế công thành của tướng công thì sao? Có mấy chục vạn cái cốt khô?

Tướng Mông Điềm nhìn về phía Hung Nô rồi mỉm cười lắc đầu, như không muốn nhắc đến những chiến công xưa của mình.

– Đâu có bằng ngày nay, thời đại chúng tôi, chiến tranh thắng hay bại là do tài, đức của tướng, còn thời đại bây giờ là do mấy cái ngón tay bấm nút. Chỉ cần một ngón tay điên nào bấm xuống một cái là có thể nổ tung một phần tư, phần năm thế giới, nếu không muốn nói là phân nửa. Các hạ có thấy rằng ngày nay chơi trò chiến tranh không vui nữa.

– Chiến tranh có bao giờ vui.

Tôi trả lời miễn cưỡng, nghĩ đến đất nước thân yêu, bao nhiêu năm bị chiến tranh tàn phá chẳng biết đến ngày tháng nào người dân mới được sống cảnh thực sự thanh bình.

– Các hạ không nên ưu tư nhiều, mỗi quốc gia cũng như mỗi cá nhân đều có cái vận của nó, nói rõ hơn là có một thời điểm. Nếu các hạ đã đọc qua Bible, trong thiên Truyền Đạo Thư (Ecclesiaste), chẳng biết các hạ có để ý đến một đoạn…

– Nhiều người cho là hay nhất trong cả quyển Bible đó tướng công ạ.

Bây giờ đến lượt tướng Mông Điềm ngạc nhiên, sao tôi dám cướp ý, nhưng ông vẫn còn chút ngờ vực chưa dám tin, cố hỏi vặn lại một lần nữa, xem tôi có thật đoán đúng ý ngài.

– Đoạn nào đâu, các hạ nói thử nghe coi.

– Đọc bằng tiếng Hoa Kỳ được không? Con người sao phải học nhiều thứ tiếng, mất nhiều thì giờ quá. Chắc thần tiên thì khỏi cần, phải không thưa tướng công.

– Thì cứ đọc đi xem có đúng không.

– Đúng là cái chắc, chương ba, từ câu 1 đến câu 8, thưa tướng công như vậy đã đủ chưa: “To everything there is a reason, and a time to every purpose under the Heaven…”

– Và câu thứ tám?

– “A time to keep silence and a time to speak, a time to love and a time to hate, a time of war and a time of peace”

Nghe tôi đọc xong, ông tướng gật gù có vẻ hài lòng như vị thầy lớp nhi đồng, hài lòng thấy đứa trẻ thuộc bài, nếu ông ta biết tôi chỉ thuộc có mấy câu, muốn nữa là phải đi vào tủ sách.

– Đấy, các hạ thấy không, cái gì cũng phải có một thời điểm, nhưng con người phải luôn luôn sẵn sàng chuẩn bị để khi cái thời điểm ấy đến, mà đón nó, làm sao đừng vấp váp lúng túng. Bất cứ việc gì từ đại sự của một quốc gia, đến tiểu sự như một cuộc du ngoạn, dã xan, người Âu gọi là picnic cũng phải có tổ chức phân công, người lo mua thứ nầy kẻ lo mua thứ khác, nếu không thì lúc đến nơi chẳng biết ai mang cái gì, ai mua cái gì.

– Tướng công nói vậy thì cái thời loạn, thời chiến của Việt Nam chúng tôi, sao mà nó kéo dài dữ vậy. Mấy chục năm rồi, có những người từ lúc sinh ra đến khi khôn lớn, đến lúc chết, không hề được trông thấy một năm, một tháng thanh bình, nhất là có người suốt đời không biết đến hai chữ tự do, không được thở làn không khí tự do.

– Nếu các hạ về tìm “Trung Âm Kinh” mà nghiên cứu. Sinh ra con người là đã bị định tội rồi, mà sinh làm con người Việt Nam thì sự định tội lại càng rõ rệt. Có một chút thông minh trí tuệ chỉ để mà thấm thía sự khổ nhục hơn những giống người khác mà thôi.

Giọng ông tướng âm trầm như có ý muốn chia sẻ nỗi khổ đau với dân tộc chúng ta. Thấy tôi ngồi yên lặng, không láu lỉnh như ban nãy, ông tướng cũng giữ yên lặng, kính trọng nỗi quằn quại của người dân khi nhận thấy sự bất lực yếu đuối của chính mình và của bao nhiêu người khác.

– Có người bảo rằng người làm sao thì nằm chiêm bao làm vậy, dân làm sao thì có ông lãnh tụ làm vậy, tướng công có đồng ý ấy không?

– Các hạ có đồng ý không?

Tôi bĩu môi, lắc đầu, không muốn cho câu ấy là đúng, khi nghĩ đến Việt Nam thân yêu hiện đang quằn quại trong những u uất triền miên. Tôi ngẩn nhìn ra phía chân trời, xa xa một vài áng mây mầu hồng thấp thoáng, liếc đồng hồ trên tay, gần năm giờ chiều, mặc dầu còn đầy cả lũ người đi lên đi xuống, rất tiếc thì giờ sao qua nhanh, nhưng chắc đành phải tạm biệt để hẹn ngày mai. Nghĩ đến sự về phòng trọ lạnh lẽo chẳng quen ai, ngập ngừng chưa muốn về, ông tướng nhận biết, hỏi ngay.

– Các hạ không đi nếm thử cái món vịt quay Bắc Kinh à, nổi tiếng nhất đấy, người nào sang đây cũng ăn mấy bụng trước khi ra về.

Tôi lắc đầu, chuyện ăn uống với tôi chỉ là phụ thuộc, ở nhà chúng tôi vẫn ăn cơm gạo lức muối mè với hoa quả làm chính, các thức ăn khác chỉ là phụ mà thôi.

– Tướng công không biết chứ đời nầy, ở các xứ tự do rất sợ các chất béo, chất mỡ, sợ mắc chứng…

– Cholesterol phải không? bệnh của thời đại nầy và của các nước tự do chứ ở các quốc gia cộng sản hoặc xã hội chủ nghĩa thì làm gì có bệnh ấy. Vả lại cholesterol cũng cần, các hạ về học lại với chú em nữa đi. Kể cũng hay, thời đại nầy sao mà lắm trò, đầy những chứng bệnh ma quái, nào Ái Từ, ung thư tủy, ung thư máu, ung thư..v..v..

– Tướng công có ý kiến gì về bệnh Ái Từ (Aids).

– Thì đã bảo là bệnh của thời đại, cứ ăn chơi thật nhiều, khoái lạc chủ nghĩa lắm vào thì sẽ còn trăm nghìn thứ bệnh nữa sẽ lần lượt xuất hiện. Hình như con người của thời buổi nầy, vừa sinh ra đời đã ôm theo một mối buồn nên phải tìm cách giải trí. Mà lạ, sao sự giải trí chỉ thấy quanh quẩn không ngoài vấn đề thể xác, vật chất. Hình như họ không tìm ra một trò nào vui hơn nếu cái trò ấy không đưa đến chỗ hủy hoại. Thật đáng thương. Phải công nhận rằng người ty nạn Việt Nam ra khỏi nước đến cư ngụ trên các quốc gia văn minh đã cứu vãn một phần nào, nếu không thì những ông bà dân tộc trên các quốc gia tự do ấy đang chen chúc xô đẩy nhau từng thế hệ, ngụp lặn trong cái đại dương vật chất, xa hoa, để rồi dẫn nhanh đến chỗ tiêu diệt, các hạ có đồng ý vậy không?

Ông tướng nói xong, ngừng lại nhìn thẳng vào mặt tôi như quan tòa dò xét tội nhân.

– Theo ý tướng công thì làm sao để cho con người đi lên, cho bớt sự sa đọa, trầm nịch trong đám bùn lầy.

– Người xưa khuyên nên độc thư và hành thiện, đó là hai việc duy nhất để đưa cái ý chí hướng thượng. Đọc loại sách đạo đức, cao thâm, hoặc cổ thư, không phải bất cứ loại sách nào cũng mang về nhà. Hành thiện tức là làm tất cả mọi việc lành, dầu nhỏ dầu lớn. Tránh làm điều ác, nói lời ác. Các hạ về suy nghĩ lấy xem lời tôi có đúng. Vì mỗi cuộc đời không ai quá trăm tuổi, trừ vài trường hợp đặc biệt. Các hạ hãy nghe lời tôi, ngày nào trở về nhà, tuyệt đối không đọc những loại sách vở vô bổ, tránh giao du với loại người chẳng mang lại một chút lợi ích tinh thần nào, dầu họ có là đại danh đại phú.

– Loại nào xin tướng công nói rõ?

– Phải thông minh mà nhận định lấy. Loại ngồi lê đôi mách, hàm huyết phún nhân, loại giàu sang không bằng tâm trí, mồ hôi nước mắt mà bằng sự lường gạt, loại người chỉ biết ăn chơi bạc bài, không nhìn đến những đau thương của kẻ khác...

Tướng Mông Điềm ngừng giọng, như đang muốn moi móc kiếm thêm vài thí dụ, những hạng người khác nữa, nhưng tôi đã đưa tay xin đủ.

– Các hạ để tôi nói cho hết… Không ăn những thức ăn vô bổ, không nghe, không nói những lời sàm tấu, thô tục làm bẩn tai, không nhìn những hình ảnh dâm ô làm bẩn mắt, bẩn trí.

– Xin đa tạ những lời khuyên xứng đáng. Tôi còn có điều thắc mắc muốn hỏi tướng công, tại sao ngày nay nhìn ra chung quanh chỉ thấy toàn đổ vỡ, lý do vì đâu?

Tướng Mông Điềm gật gù như có vẻ suy nghĩ, một lúc chậm rãi trả lời.

– Cuộc đời nầy chỉ là một chốn thị trường, người ta đến để vay và để trả có người đến để đòi, đối với một số người thì chẳng khác gì chốn địa ngục.

– Thôi tướng công ơi, tôi hỏi tướng công nhưng không muốn biết thêm những lời triết lý tuy đúng nhưng hơi buồn, chắc là sắp hết giờ, tôi phải ra về kẻo trật chuyến xe.  Sáng nay tướng công có hỏi đến bằng cách nào, vì từ lữ quán đến trạm xe hàng cũng xa nên tôi đã lấy tắc xi đi chung với  hai vợ chồng một nhà ngoại giao xứ Pháp cũng ở khách sạn gần đó. Báo trước cho tướng công là tôi còn nhiều câu hỏi về cuộc đời, về sự hạnh phúc, về cây đàn và cây bút. Đêm nay tướng công lo chuẩn bị trước đi, rồi đây tôi còn phải về xứ Mỹ chứ, đi lâu quá cây cỏ nó buồn.

– Lạ nhỉ, chưa nghe các hạ nhắc đến loài người, ngoài chú em, mà chỉ nghe nói đến cây cỏ.

– Vì trong đám cỏ cây không bao giờ có phường tiểu nhân, có thể có thứ cỏ độc, cỏ dại, nhưng nếu không tìm đến chúng thì chẳng bao giờ chúng hại mình.

Tướng Mông Điềm lại hơi cau mặt để rồi lại gật gù có vẻ đồng ý.

– Từ sáng đến giờ, từ hôm qua đến hôm nay mới nghe các hạ nói một lời chí lý, cỏ cây không có phường tiểu nhân ngay cả loài cỏ dại cỏ độc. Đúng như thế, ban nãy tôi bảo với các hạ, không nên giao du với loại người chẳng mang đến một chút lợi ích tinh thần nào, có thể nói tóm tắt là không nên để mất thì giờ cho đám tiểu nhân.

– Nhưng thưa tướng công, ở cái thế giới loài người nầy thì khó mà phân biệt, có người nói rất hay, trông bề ngoài dễ lầm.

– Ngụy quân tử, nói theo tiếng của thời đại xứ Việt nhà các hạ thì thì loại ngụy quân tử ấy ngày nay đang ngập tràn trong khắp năm châu bốn biển, mà quý vị vẫn gọi là nằm vùng, hay có thể gọi thứ tiểu nhân nằm vùng trong mặt trận quân tử. Loại ngụy quân tử nầy ngày nay đang ngập tràn trong thế giới loài người. Do đồng tiền họ kiếm ra được dễ dàng nên họ có đủ phương tiện để đóng vai trò quân tử mà ở cái xã hội “tiền kính la y hậu kính nhân” nầy, rất dễ có sự mập mờ, vàng thau lẫn lộn, khó phân biệt. Phải thật tinh vi mà nhận xét, đừng để chói mắt trước những cảnh phù hoa. Nghe một lời nói hay, một hành động “cao cả”, lắm khi chỉ là một hình thức để tuyên truyền, quảng cáo, tức là cái lớp áo ngụy quân tử khoác bên ngoài mà thôi.

Tôi thở dài, thoáng một chút ngao ngán, nói thêm.

– Biết vậy nhưng số người ấy quá đông, phương tiện quá nhiều nên đám thứ dân khó phân biệt.

– Các hạ nói đúng, nhất là người cõi trần, khó biết đánh giá mà lắm khi có biết cũng làm ngơ, thứ lê dân vẫn thích ngã theo chiều nào tưởng có nhiều ánh sáng, có sức mạnh, tự thấy như được chút thơm lây.

– Tướng công đã biết lý do vì sao mà tôi chỉ quý trọng cỏ cây, ra ngoài cuộc đời lẫn lộn nầy thật khó mà biết được. Tốt nhất là nên tránh trước đi để khỏi mất thì giờ.

Tướng Mông Điềm mỉm cười thông cảm, chắc hẳn thời ông ta cũng thế thôi, con người bao giờ cũng là con người muôn thuở.

– Tôi hiểu, đó cũng là lý do vì sao mà các hạ đến tìm tôi hôm nay chứ gì, thật đáng thương.

Tôi đưa tay ra ngăn chặn, không để cho ông tướngười nói tiếp.

– Tôi không muốn nghe hai chữ đáng thương ấy, xin tướng công vui lòng rút ý nghĩ đó lại.

Tướng Mông Điềm lại nhìn tôi bằng đôi mắt thương hại, không nói ra nhưng ta vẫn nghĩ thì sao, tuy vậy ông ta cũng chiều ý tôi nói tiếp.

– Thì thôi, nhưng các hạ thường hay luận về hai chữ tội nghiệp là đó, người kiếp trước đã tạo nên cái nghiệp gì để ngày nay phải chịu cái quả tội nầy.

– Cái tội của tại hạ chẳng có gì đáng nói, tại hạ biết rồi, biết rằng kiếp trước đã tạo quá nhiều tội nên kiếp nầy phải làm thân đàn bà mà lại còn là đàn bà Việt Nam, làm dân Việt Nam, nhưng tại hạ đâu có đến đây như người cổ Hy Lạp đến Delph để vấn thần linh.

Tướng Mông Điềm biết tôi hơi cáu, có lẽ vì cũng đã mệt, ông ta có vẻ cảm thông.

– Muộn lắm rồi đấy, các hạ hãy về phòng trọ nghỉ ngơi, ngày mai chúng ta lại gặp nhau, đêm nay các hạ cố nghĩ thêm vài vấn đề để ngày mai còn thảo luận, tôi phải cảm ơn các hạ đã bỏ công, bỏ của đến đây cho tôi được những phút giờ khá vui, mặc đầu chúng ta cách biệt âm dương nhưng vẫn có sự đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu.

Ngày nay quỷ quái đầy rẫy nên tìm được một người bạn để đấu láo cũng đã là khó, nói chi đến kiếm người để thảo luận những vấn đề đại sự quan trọng.

Chúng tôi giã từ nhau sau vài chữ tái kiến, minh thiên tái kiến (ngày mai lại gặp).

Vừa quay đi chưa tới ba bước, ngoảnh lại thì tướng Mông Điềm đã không còn nữa, đúng như sử sách vẫn ghi, đối với những người cõi âm ấy, quả thật “Lai thời vô ảnh, khứ thời vô tung“. Họ đến họ đi mình chẳng biết đâu mà tìm.

Tôi xuống dưới chân thành thì bao nhiêu xe hàng đã đi hết, chỉ còn lại mấy chiếc tắc xi ở lại vớt những người khách muộn. Đành vậy, định lấy một chiếc xe tắc xi mà về cho xong, may quá còn hai đôi ngoại nhân, chắc hẳn là từ Mã Lai hay Nam Dương gì đâu đó. Họ cũng xuống muộn, họ chạy đến thương lượng với tôi, để cùng đi một chuyến cho đỡ tiền. Họ cũng ở một khách sạn gần chỗ tôi, thật là có sự dàn xếp sẵn.

Về phòng trọ tôi lên phòng tắm rửa thay quần áo, trông bề ngoài, nhà trọ nào cũng có vẻ tiện nghi sang trọng nhưng bên trong thì nơi nào cũng bị gian nan trong vấn đề nước. Mặc đầu có những mấy con sông vĩ đại nào Hoàng Hà, nào Trường Giang, nào Hoài Hà rồi Tương giang, Mịch La giang, và còn bao nhiêu là đại hồ… ấy thế mà chỉ vì cái hệ thống nước lên cao chưa được tốt nên phòng trọ nào ở cao thường hay bị kẹt đang tắm mình mẩy đầy xà phòng mà người khách ở tầng dưới cũng vào phòng tắm thì thật là chỉ còn biết kiên nhẫn mà chửi thầm. Nhưng thôi hãy xem đấy như là một tiểu tiết chẳng đáng quan tâm.

Xuống phòng khách, hỏi thăm xem phố xá còn mở đến mấy giờ, định đi lùng mua ít sách nhưng người ta bảo muộn rồi. Thế là đành vào phòng ăn, ăn vội đĩa cơm rồi lên ngủ lấy sức cho ngày mai.

PHẦN II - 1 -

– Các hạ hà thái trì? (sao chậm vậy)

Tôi giật mình, sáng nay mải đi tìm mua mấy cái bút nên đến Trường Thành hơi muộn. Tướng Mông Điềm đã chờ ở đấy, tôi vừa đến chỗ hẹn, đang ngơ ngác nhìn từ trên xuống, những vạt cỏ xanh đang chờ đợi ánh mặt trời.

– Tướng công hà thái tảo? (sao ông đến sớm vậy?)

Tướng Mông Điềm biết tôi muốn trêu nên mới trả lại câu hỏi, dùng lối cổ thi để đối đáp. Có gì lạ đâu, tôi là khách từ phương xa, còn bao nhiêu thứ cần xem, tướng Mông Điềm là chủ nhà, có gì lạ nữa đối với ông, nên ông phải chịu chờ. Bắt được một người khách từ phương xa đến để nói chuyện, chắc ông ta cũng thích thú, hẳn đêm qua ngài ít ngủ, nếu người cõi âm cũng cần ngủ.

– Hôm qua các hạ về nhà bình yên chứ?

– Tại hạ về, thấy trời chưa tối nên có ý định ra phố mua sách mà người ta bảo phố bán loại sách ấy ở rất ra, mà đã đóng cửa, thế là đành chịu vậy.

– Các hạ phải bớt cái bệnh mê sách đi chứ, về nhà đổ nợ ra đấy.

– Nghìn năm một thuở, đời của tại hạ ngày nay chỉ còn ba thứ để say mê là sách, nhạc và cỏ cây.

– Ba vị quân tử, còn đòi gì nữa.

Tôi chợt nhớ đến câu chuyện nói về chữ Ngụy quân tử hôm qua, sáng nay lúc vừa thức giấc tôi nằm suy nghĩ trong đám bạn bè, ai đáng được gọi là quân tử, may quá cũng còn tìm được vài người.

– Xin tướng công định nghĩa hai chữ quân tử, xem hai cõi âm dương có suy nghĩ giống nhau.

Tướng Mông Điềm lắc đầu, hơi mỉm cười.

– Khó mà cho một định nghĩa ngắn, trong Kinh Dịch quẻ Càn có câu: “Quân tử chung nhật càn càn” có nghĩa là người quân tử suốt ngày nỗ lực không đám lười, từ việc trau dồi đức hạnh, làm điều ích lợi cho mọi người, đọc sách… Mỗi sách đều có một định nghĩa mà đại ý là như thế. Nếu mang một nhân vật điển hình ra mà nói thì có kẻ đưa Văn Vương, có người đưa Khổng Tử. Đó là những bậc vĩ nhân quân tử, ngày nay được gọi là quân tử, không bị đòi hỏi tuyệt đối đến như vậy nữa.

Tôi như chợt gặp được một làn ánh sáng. Tôi vẫn thích cái nhân vật Văn Vương ấy, nhân đây phải đặt vài câu hỏi để hiểu biết thêm.

– Xin được nghe nói về Văn Vương.

– Nói về cái gì mới được chứ? Nói về bà mẹ, vì ông ta là người con chí hiếu, mà người mẹ ấy cũng là một nhân vật hiếm có. Bà đã dùng Dịch Kinh để theo dõi cuộc đời của con, cố nhiên là thời ấy chỉ nói đến Tiên Thiên, về sau khi Văn Vương bị tù tại Dữu Lý mới chỉnh đốn soạn ra Hậu Thiên… Hay các hạ muốn tôi nói đến cái tâm trạng của người cha lúc phải ăn bát cháo nấu với thịt của con trai mình. Biết rằng Trụ Vương đã giết Bá Ấp Khảo, bắt mang nấu cháo đưa đến buộc mình phải ăn, mà vẫn phải ăn.

– Bá Ấp Khảo chết chỉ vì cái tội đàn cầm quá hay, có đúng vậy không?

– Một phần thôi, một phần vì quá thương cha mà không chịu chờ đợi theo lời của cha, dặn đừng đến Kinh Đô Triều Ca, hãy chờ 7 năm cha sẽ trở về, Bá Ấp Khảo quá nôn nóng, cứ liều ra đi, bị con yêu Đắc Kỷ nó mê tiếng đàn, nó đòi học, không nghe lời nó dụ dỗ, quá đứng đắn nên bị nó phao cho cái tội khi quân, dám tán người đẹp của vua. Mà các hạ có biết đó chỉ là một thứ mưu kế phổ thông và tầm thường nhất của người đàn bà đẹp, tức giận vì thấy cái nhan sắc của mình vô hiệu quả nên đã đổi chiến thuật chứ có gì đâu. Hay các hạ muốn nghe cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai đại quân tử là Văn Vương và Thái Công Vọng.

– Cái gì tôi cũng muốn nghe, đề tài nào cũng bắt phải  suy nghĩ, bà Thái Khương quả là đặc biệt, hình như bà cũng giỏi về Dịch Lý như con trai là Văn Vương, nhưng ai đã dạy cho ai, mẹ dạy cho con hay con truyền cho mẹ. Bà biết trước mọi sự cát, hung sẽ xảy đến và đã báo cho văn võ triều thần biết, khi Văn Vương đang còn trong tù.

Tướng Mông Điềm gật gù hài lòng, nhận thấy người đối thoại cũng có chút chịu khó bỏ thì giờ nghiên cứu sử sách.

– Các hạ chịu khó đọc, khá đấy. Ở đời mà muốn tiến thì chỉ có đọc sách và làm điều thiện. Chính ra vai trò của người mẹ quan trọng vô cùng, con có làm nên, có là người hiền hay không đều nhờ đức mẹ. Những người mẹ quá lo nhan sắc, quên trau dồi đức độ thì con chẳng nên cơm cháo gì, giỏi lắm là cái máy làm tiền mà thôi. Bà Khương Thị quả là người đàn bà vô cùng đạo đức, biết dạy con, nhờ bà nên chúng ta mới có Văn Vương.

– Con người ấy lại còn biết đàn cầm để mỗi khi buồn nhất, là lúc bị cầm tù tại Dữu Lý.

– Các hạ chỉ chú trọng có mỗi một việc bé nhỏ ấy sao?

– Tướng công cho đó là bé nhỏ sao, theo tôi thì âm nhạc đã dự một phần rất quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người. Tôi nhớ hình như trong cuộc đời của Khổng Tử cũng có lần đang tấu cầm mà thấy Văn Vương hiện về…

Tướng Mông Điềm mỉm cười giảng hòa, ai lại mới sáng ngày ra gặp nhau chưa gì đã có sự trêu gan nhau. Tôi bình thản nói tiếp.

– Trêu gan tôi thì tôi sẽ bắt nói về Lục Thao cho mà biết tay.

– Nghề của chàng mà, sợ gì.

– Nghề của chàng, Tướng công mà cũng biết chữ ấy sao? Tôi tưởng chỉ có người Việt Nam sau nầy mới dùng, chứ đời bố mẹ tôi cũng chẳng hề biết.

– Đi với Bụt mặc áo cà sa.

Tôi bật cười, cố nhiên không chịu nhận mình là ma nên nói gài một câu cố ý trêu chơi.

– Xin tướng công khỏi cần nói câu sau.

– Các hạ tự nhận mình là Bụt à. Con của Bụt thôi.

Giọng tôi trầm tĩnh làm y như mình là con của Bụt thật. Tướng Mông Điềm vui cười, câu chuyện từ nghiêm trang đổi sang đùa nghịch.

– Thì thôi để tôi nói đến câu chuyện gặp gỡ giữa hai người quân tử cho La Hầu La, con của Bụt nghe nhé.

– Tướng công cũng biết La Hầu La là con của Bụt nữa à?

– Ai mà không biết…

– Ờ nhỉ, tướng công là người cõi âm, cái gì mà chẳng biết, nhưng coi chừng về sau La Hầu La cũng đi tu, cũng thành Bồ Tát rồi đấy, thôi xin tướng công cứ giữ lối xưng hô cũ.

– Các hạ yên lòng – tướng Mông Điềm nói xong mấy chữ thì ngừng, im lặng một lúc, chắc đang tìm lời mở đầu.

Tôi tinh nghịch nhắc, gợi ý:

– Phi long, phi ly, phi hùng, phi bi, sở hoạch Bá Vương chi phụ.

– Ô hay, sao các hạ đoán đúng ý của tôi thế.

– Đi với Bụt mà.

Ông tướng cười, vuốt hàm râu, bộ râu được trau chuốt kỹ càng hơn ngày trước.

– Ừ nhỉ, trước khi đi săn, ngày hôm ấy, Văn Vương gieo một quẻ bói thì ra như thế, hôm nay sẽ săn được một vật không phải rồng (long) không phải Ly, không phải gấu đực (hùng) cũng không phải bi, một loại gấu khác.

– Gấu cái chăng.

– Có thể, sở hoạch Bá Vương chi phụ.

– Mà sẽ được một người giúp cho để làm nên sự nghiệp Bá Vương, có phải đại khái là nghĩa như vậy không?

<– Tạm được, tôi thích nhất là cái tư chất của con người  Tây Bá ấy, thuở ông còn là một chư hầu chưa mang tên Văn Vương, khi ông bỏ Trụ Vương trốn về xứ mình, bị quan quân của Trụ Vương đuổi theo. Thật là nguy hiểm, đúng với câu: “Ngưỡng diện cáo thiên, thiên bất ngữ. Đê đầu tố địa, địa vô ngôn”.

– Xin tướng công ngừng để cho tại hạ ghi câu nầy, có nghĩa là ngước mặt lên muốn nói với trời mà trời không đáp một lời, mà cúi đầu xuống than với đất, đất cũng im lặng. Hay thật. Nhưng cái tâm trạng nầy chắc hẳn những tù nhân của cộng sản đều gặp phải, thật đáng thương.

– Các hạ cũng lạ nhỉ, nghe câu gì, lúc nào cũng nhớ đến mấy người tù cộng sản. Hẳn các hạ còn nhiều gia đình bị kẹt lại lắm chăng?

– Tại hạ còn cả nước, tất cả dân tộc đều là thân ruột, mục đích tại hạ sang đây, tuy không có nhiều tham vọng cao quý như các bậc chính khách Việt Nam từ trước đến nay…

Nói đến đây, tôi thấy ông tướng nhếch mép cười, nụ cười bí hiểm, không hở răng, tôi cau mặt, không hiểu nổi nụ cười có ẩn ý gì, tôi tiếp tục nói hết ý mình.

– …Tại hạ xin lỗi đã cắt đứt câu chuyện, chắc rằng ngày về mà có viết lên thành bài, thì lúc đọc đến đây sẽ có một nghìn lẻ một người nôn nóng, mong muốn tại hạ đặt ngay một câu nói ngay một lời với tướng công…

– Lời gì? Câu gì? Sao chưa nghe các hạ nói.

– Còn cả tuần lễ, chuyện đâu còn có đó, tại hạ còn gặp tướng công. Xin cứ nói nốt về Tây Bá, dầu sao những buổi nói chuyện nầy cũng có những phần bổ ích khác. Tại hạ không phải là quân nhân trong kiếp nầy. Khí giới của tại hạ chỉ là một cán bút nhỏ bé, tuy vậy cách 13 năm trước ngày còn ở Paris, có một đêm tại hạ ngủ mơ thấy cây súng của mình sao bỗng biến thành cây đàn mà lại có chạm khắc vàng với ngọc, tại hạ viết thư kể cho một người bạn ở Việt Nam, sau đó quên bẵng đi và chính người ấy đã viết thư nhắc lại cho mới nhớ, mà bây giờ mỗi khi nhớ thì những hình ảnh lại thật rõ rệt… Nhưng thôi làm mất thì giờ, xin được nghe thêm về con người đệ nhất quân tử ấy.

– Tây Bá có rất nhiều tình cảm, khi ông phải lìa con ngựa, ông đã vỗ về, nói những lời xót xa: “Mã, phi Xương bất nhân, xá nhỉ xuất quan, nại khủng truy binh phục chí, ngã mệnh nan đào, ngã kim biệt nhỉ.” Vì con ngựa nầy đã theo ông trong suốt 7 năm hoạn nạn nên ông không muốn lìa, mà hoàn cảnh bắt buộc, đành phải thốt ra những lời giã thiết ấy, các hạ hiểu cả chứ?

– Ngựa ơi không phải Xương nầy bất nhân, bỏ mi ra khỏi quan ải một mình, nhưng truy binh sắp tới, mệnh ta sẽ khó thoát, hôm nay ta phải giã từ mi… Tạm dịch như tướng công nghe được không?

Tướng Mông Điềm nhếch mép hỏi lại.

– Các hạ có biết ngạn ngữ Anh quốc có nói “thả cần câu lời khen” không nhỉ?

– Fishing compliments, tướng công thật là thông kim bác cổ, nhưng tôi đâu có thả cần câu, chỉ sợ dịch sai vì…

– Traduttore… traditore.

– Đúng, dịch thế nào cũng khó tránh vài phần phản bội. Mà sao tướng công là người Á, chưa sang Âu mà biết về Âu nhiều quá vậy?

Tướng Mông Điềm chỉ mỉm cười, không trả lời, hẳn ông không muốn nhận lời khen. Tôi sợ phí thì giờ nên phải vội dục:

– Rồi sao tướng công, khi hai người quân tử gặp nhau, nói gì với nhau?

– Một người ngồi câu cá, biết là người kia đã đến gần nên ngâm lên mấy câu:

Tây phong khởi hề, bạch vân phi

Tuế dĩ mộ hề tương yên vi

Ngũ phượng minh hề chân chúa hiện

Thùy cán sâu hề tri ngã hy

Các hạ có giỏi thì dịch 4 câu nầy ra, bỉ nhân sẽ…

Tôi cắn môi, giá bố tôi còn sống, thì ngài sẽ đủ tài mà “gà” cho con gái ngay, khốn nổi, bố đã chết. Nhưng tôi cũng khấn thầm… ‘Bố ơi về giúp con…” À thì ra người xưa, từ thời Âu Cơ, Lạc Long Quân đã nghe câu gọi bố như tôi đang gọi. Đúng như lời ông đặn lại với bà Âu Cơ, trước khi ông về Thủy Cung.

Gió Tây chừ nổi, mây trắng bay.

Tháng năm chừ tàn, làm chi đây?

Bầy Phượng chừ ca, mừng chân Chúa.

Thả cần câu chừ, ai có hay.

Ông tướng dậm chân khen.

– Tạm được đấy, chưa quá một phút đã uốn ra thành vần, chưa sát nghĩa lắm nhưng giữ được ý thế cũng là đủ rồi, không đến nỗi phản bội.

Tôi mỉm cười, nghĩ đến bố tôi, ngày xưa ông già rất yêu thi văn, đã từng sáng tác rất nhiều bài thơ bài ca, bài văn tế nhưng lại không muốn để người ta biết mình là tác giả. Lạ nhất là có nhiều người đã biết sự thật là như thế, nhưng vẫn cố ý làm ngơ.

Thấy tôi im lặng đang mải suy tư về hành vi của một vài vị học giả.

– Các hạ đang nghĩ đến bài ca Nam Bình “Nước non ngàn dặm ra đi” đấy chứ gì?

Tôi cau mày nhìn ông tướng rồi mỉm cười hỏi lại, muốn đặt vấn đề với một người hoàn toàn đứng ngoài câu chuyện.

– Theo ý của tướng công thì sao? Tác giả có nên dấu diếm như thế không? Có người gọi đó là thái độ đánh lừa lịch sử. Ý của bố tôi thuở ấy thì ông muốn bắt mọi người tin rằng bài ca Nam Bình mang tên ‘Nước non ngàn dặm ra đi” ấy là của Huyền Trân công chúa viết ra.

– Các hạ cho tôi được đặt lại một câu hỏi, nếu Huyền Trân Công Chúa đã viết ra thì bà ấy viết bằng chữ gì? Chữ Nôm chăng, theo tôi biết thì thời ấy chữ Nôm chưa phổ biến đầy đủ. Chữ Hán chăng? Nếu có chữ Hán thì nguyên bản đâu? Chỉ một câu hỏi ấy thôi đủ cho chúng ta thấy rằng mọi người đã không suy nghĩ. Đến bài Hịch viết cho quân lính mà tướng Trần Hưng Đạo cũng phải viết bằng Hán Văn… Dư thường văn chi… để rồi có người dịch lại. Ngay cả Thạch Xuyên, tác giả bài ấy cũng nói dối thiếu kỹ thuật. Bố con nhà các hạ hơi coi nhẹ mọi người đấy, như thế là láo. Với những phường sân si, u mê, ganh tị, thì muốn láo xược thế nào cũng được nhưng với những người thật tâm suy nghĩ, sưu tầm thì đó là một sự lừa dối, xem người ta như con cháu mình, muốn nói gì thì nói, không được.

Tôi gật gù  nhận thấy ông tướng nói cũng có lý, nhưng tôi đã có lần nghe bố tôi phân trần khi tôi đặt vấn đề với ông. Bố tôi bảo rằng, cứ để cho người ta tin như thế, cho người ta  nghĩ rằng bà Công Chúa Huyền Trân ấy đã sáng tác ra, chứ nếu nói sự thật thì nó sẽ kém ý nghĩa.

Tướng Mông Điềm nói tiếp, chắc để bênh vực sự suy luận của mình.

– Các hạ cứ xem ngay bài thơ của Nguyễn Khuyến: “Rượu ngon không có bạn hiền, không mua, không phải không tiền không mua”, chính ông ta có viết bản chữ Hán mà hai câu ấy là:

Hữu tửu vi thùy mãi

Bất mãi phi vô tiền

Hữu tín vi thùy tả

Bất tả phi vô tiên.

Bây giờ hỏi lại các hạ, nếu mang ra thử một câu “Đắng cay vì, đang độ xuân thì…” Xin các hạ hãy dịch ra Hán văn cho bỉ nhân nghe chơi.

Tôi lắc đầu chịu thua, nhưng trong lòng thầm nghĩ, ông tướng nầy vừa cho ta một ý kiến khá hay. Tôi sẽ về lấy nguyên tác của Thạch Xuyên rồi dịch ra Hán văn, mang tung lên báo, để cho những ông học giả, học giả thật ấy, được một phen thi thố tài năng một lần nữa cho vui cửa vui nhà. Mặc dầu ông anh tôi thường phàn nàn rằng hình như bố không thích cho chúng ta nói lên, làm trái ý bố, mỗi lần anh viết những bài có liên quan đến bố, hoặc đến cái văn nghiệp của bố là bài ấy bị thất lạc, hoặc báo đóng cửa hay gì gì đó. Ông anh cho rằng người chết không muốn, tôi chẳng tin, tuy rằng đến các bản thảo của bố cũng bị người thân mang dấu đi, để thất lạc và bây giờ muốn tìm lại cũng không thể được, còn chăng chỉ là trong trí nhớ của mỗi anh em chúng tôi mà thôi, đây cũng là kết quả của những cuộc biến động, đảo loạn lòng người.

– Nhưng chúng ta đã đi ra ngoài đề tài câu chuyện quá xa, chúng ta đang nói đến cuộc gặp gỡ của hai bậc quân tử, xin tướng công nói tiếp.

– Ừ nhỉ chúng ta hay đi ra ngoài đề. Sau bài ca của Khương Thượng, Cơ Xương đến gần hỏi một câu rất tầm thường nhưng mang đầy ý nghĩa: “Hiền sĩ khoái nhạc hồ?” (người hiền thích nhạc chăng?)

– Tại sao lại hỏi câu ấy nhỉ, có một vài sử sách ghi khác cơ…

– Các hạ hãy chịu khó nghe cho hết, rồi chúng ta sẽ bàn cãi sau. Cơ Xương hỏi câu nầy vì trước đó ông đã từng nghe nhiều bài ca khác, cũng do những người đốn củi ca hát mà mỗi lần hỏi tác giả là ai, mọi người đều bảo là của Khương Thượng. Có những câu làm cho Cơ Xương phải chú ý chẳng hạn những câu như: “Tẩy nhĩ bất thính vong quốc âm” (rửa tai, không nghe những âm thanh vong quốc).

– Thế nào là Vong Quốc âm, tướng công có thể giảng thêm.

Ông tướng nhìn tôi hơi có chút ngạc nhiên, tôi không hiểu ý nên cũng nhìn lại, âm và dương đã dùng mục ngữ để đối thoại, nhưng phận người cõi trần đâu có đủ sức hiểu biết mà dám láo.

– Tưởng các hạ có bỏ thời gian nghiên cứu về âm nhạc, thỉnh thoảng nghe bảo có đi nói chuyện nơi nầy nơi khác, ăn tiền của các đại học nầy đại học kia sao còn hỏi.

– Hỏi là vì sợ rằng sự hiểu biết của mình chưa đến đâu, cao nhân tắc hữu…

– …cao nhân trị, biết câu ấy rồi, những ai biết được câu ấy mà có suy nghĩ sâu xa thì cũng đã khá, lắm người bao giờ cũng cho mình là đệ nhất trong cõi trần nầy mới là nguy.

– Tại hạ không phải chỉ biết câu ấy mà hôm nay gặp được một vị đại sư chi sư, nên cái gì cũng phải hỏi cho tỏ ngọn nguồn chứ.

Tướng Mông Điềm thấy tôi có vẻ biết phục thiện, bớt cái giọng cao ngạo, hàm hồ của kẻ phàm phu nên có vẻ cũng vui lòng, bỏ thì giờ giảng giải. Mà hẳn đây cũng thuộc lĩnh vực của ngài nên trông mặt mày có vẻ hào hứng, râu cằm, râu mép đều vênh lên một cách hiên ngang.

<– Nhạc là lạc, mà lạc tức là vui, đó là định nghĩa từ nguyên thủy, con người ta lúc cảm thấy vui trong lòng mới phát ra những âm thanh, ngâm nga ca lý, để chứng tỏ niềm vui của mình. Chim muông cầm thú cũng đều như thế, bi thanh và hỷ lạc thanh khác hẳn nhau, tuy lắm khi nghe giọng cười và giọng khóc cùng một điệu. Tuy phải nhắc lại một lần nữa rằng đây chỉ là ở vào lúc phôi thai của con người. Về sau nầy khi đã vượt đến trình độ hiểu biết khôn ngoan thì định nghĩa của nhạc trở nên cầu kỳ phức tạp hơn. Nhạc phải gồm đủ lục luật, ngũ thanh, bát âm mới được gọi là nhạc. Các hạ về mở sách Lễ Ký nhìn vào chương Nhạc Ký còn có một định nghĩa cũng khá hay, đó là:“Ứng luật nãi vi nhạc, cố duy quân tử vi năng tri nhạc.”

– Có nghĩa là…

Lần nầy thì quả là tôi không dám dịch đại, dịch bừa như những lần trước và tướng Mông Điềm cũng hiểu như thế.

– Có nghĩa là: Phải ứng hợp với cung luật mới được gọi là nhạc, cho nên chỉ có bậc quân tử mới biết nhạc, sáng chế nhạc, và phải loại nhạc ấy mới là thứ nhạc không làm vong quốc vong gia.

Sau khi nghe ông nói thêm, thế là hết dám nghịch, vả lại còn sợ ông chê không được nghiêm chỉnh. Ngày xưa Cụ Khổng đang nói chuyện với một vị vua, trong lúc ấy, bỗng có một đàn chim bay qua, nhà vua ngẩng đầu nhìn theo, bỏ lững câu chuyện. Cụ Khổng giận lắm, ra về bảo với học trò rằng ông vua nầy không xứng đáng, ta không thể mang cái đạo của ta ra giúp một xứ mà vị quân vương chỉ là một ” Dong Nhân”. Từ ngày đọc câu chuyện ấy tôi đã bỏ bớt cái tính hay phá hay nghịch. Tuy rằng, nếu cụ Khổng có đọc sách Mai Hoa độn của Thiệu Khang Tiết thì sẽ dùng đàn chim bay ấy tính lấy ngày giờ mà bấm độn thì chắc đã biết sẽ có một điềm gì, lành hay chẳng lành sẽ xảy ra. Mà hôm ấy, là đàn chim báo cho biết một điềm không có gì hay, đáng vui, trái lại, là điềm không lành, vì xứ ấy, vị vua ấy không được bậc Thánh Nhân ấy dừng chân ở lại trên nước mình để giúp nước  giúp dân mình. Tôi cũng sợ bị tướng Mông Điềm chê là dong nhân nên phải giữ thái độ nghiêm trang.

– Lục Luật, xin được nghe thêm về Lục Luật.

– Gọi là Lục Luật để nói đến sáu dương luật và sáu âm luật, nói kỹ hơn thì phải định rõ dương là Luật mà âm là Cung, lục luật là dương thanh chi luật, gồm có: Hoàng Chung, Thái Thốc, Cô Tẩy, Nhuy Tân, Di Tắc và Vô Xạ.

-Còn Lục Cung, xin được nghe cho hết, nếu không phiền Tướng Công.

– Có gì gọi là phiền, đã biết thì phải biết cho đầy đủ, sau nầy còn nói lại cho con cháu nó nghe, tối kỵ là sự nửa chừng. Lục Cung đây là Âm Thanh, sánh với Lục Luật là Dương Thanh. Lục Cung gồm có Lâm Chung, Nam Cung, Ứng Chung, Đại Cung, Giáp Chung và Trung Cung. Mười hai Luật và Cung nầy là căn bản của vạn vật.

Thấy con người nầy (gọi là con người chẳng biết có đúng) biết quá đầy đủ, tôi yên chí, để gác cái vấn đề cung luật nầy lại đây, vài hôm nữa còn thì giờ tôi sẽ phanh phui thêm nó ra, cho mọi người cùng hiểu, bây giờ để nhảy sang hỏi về Ngũ Thanh đã.

– Ngũ Thanh à, ai chẳng biết nó là Cung, Thương, Giác, Trưng, Vũ. Cung mang sắc vàng gọi là Hoàng Thanh. Thương mang sắc trắng gọi là Bạch Thanh. Giác mầu xanh nên gọi cung nầy là Thanh Thanh. Trưng có người đọc là Chùy, cung nầy mầu đỏ gọi là Xích Thanh, và cung Vũ mầu đen gọi là Hắc Thanh.

– Tại sao cung Thương mang mầu trắng mà cung Giác lại là mầu xanh, lấy tiêu chuẩn nào, căn cứ vào đâu.

-Lại chớm cái tinh thần Cartésien phải không? cái gì cũng phải hỏi, xin thưa với các hạ rằng người xưa đã lấy ngũ hành để phân chia, hành Kim là Thương, hành Thổ là Cung, hành Mộc là Giác, hành Hỏa là Trưng và hành Thủy là Vũ có thế thôi. Như các hạ đã rõ, Kim là mầu trắng, cung Thương thuộc hành Kim nên Thương Cung mang sắc trắng. Thổ mầu vàng thì Cung mang hành Thổ tức phải mang luôn sắc vàng… Các hạ đã hiểu cả chứ.

– Tạm hiểu, nhưng ban nãy chúng ta có nói đến cái gọi là Vong Quốc Chi Âm.

– Có hai thứ, Vong Quốc Chi Âm và Vong Quốc Chi Thanh, các hạ muốn nghe cái nào trước?

Tôi nghĩ thầm, đúng là buồn ngủ gặp được chiếu manh, tính tôi hay tò mò hôm nay gặp được cơ hội, đã vậy ta vặn vẹo cho kỹ mới thỏa chí bình sinh.

– Thưa tướng công thế thì Âm và Thanh khác gì nhau?

<– Với người Âu Mỹ thì chẳng có sự khác biệt, nếu các hạ mở từ điển sẽ tìm thấy có mấy chữ để nói đến âm và thanh Sound, Voice, Music, Tune, nhưng với người Á đông chúng ta thì: “Tri Thanh nhi bất tri Âm, cầm thú dã”

– Có nghĩa là biết thanh mà không biết âm thì chẳng khác gì loài chim loài thú, có phải thế không ạ, xin tướng công nói rõ hơn nữa về âm và thanh, sự khác biệt giữa hai thứ.

– Sao nghe bảo cũng nghiên cứu về âm nhạc?

– Thì có nghiên cứu mới hỏi kỹ nếu không…

– …nếu không thì ai mà thèm hỏi chi cho mất thì giờ, đúng thế chứ gì? Vậy thì xin nói: Thanh là Cung, Thương Giác Trưng Vũ, mà Âm là âm của các thứ như Ty, Trúc, Thạch, Thổ, Biêu, Cách, Mộc.

– Cũng như một bên là các nốt nhạc do ré mi fa sol và một bên là tiếng trống da, tiếng trống đất, tiếng giây tơ, tiếng sáo tre… Phải vậy không thưa tướng công. Thế thì Vong Quốc Chi Âm là gì?

– Các hạ có nghe câu chuyện Hứa Do rửa tai vì nghe Đế Nghiêu đòi nhường ngôi báu cho mình không?

– Có nghe, thế thì còn Vong Quốc Chi Thanh là sao?

– Vong Quốc Chi Âm thì nghe buồn não, bắt con người phải trầm tư, Vong Quốc Chi Thanh là những âm thanh dâm loạn sa đọa, vua quan nghe, thì quên việc triều chính, dân gian nghe, thì quên chuyện làm ăn.

– Thế còn Vong Quốc Chi Vật là gì?

– Là người đàn bà đẹp.

Tôi lắc đầu không đồng ý một lần nữa, ngày nay người đẹp có khi còn lợi quốc, cứ xem như bà Brigitte Bardot thuở ấy đã mang về bao nhiêu là ngoại tệ vào cho nước Pháp còn hơn tất cả các hiệu xe hơi khác. Sợ ông tướng không nắm vững chi tiết, tôi phải mang chuyện xưa ra cãi.

– Tướng công nói hệt như bà vợ của Việt Vương Câu Tiễn khi chê Tây Thi “Thử vong quốc chi vật, lưu nhi hà vi” (cái vật vong quốc đó giữ lại mà làm gì?), nhưng đó là ý kiến của phụ nhân, đàn bà hay ghen. Nhìn về phía Ngô quốc thì Tây Thi làm cho mất nước Ngô nhưng đứng về phía Việt quốc, thì mỹ nhân đã tiếp tay quá đắc lực cho Việt quốc, sao không mang ơn, có sách còn ghi rằng trước khi ra đi cô ta được trao cho cái sứ mệnh cứu quốc mà, tại cái nhà bà vợ ông Câu Tiễn không được biết những bí mật quốc gia đấy thôi, Tướng Công có đồng ý là thiếu sự công bình đối với nàng Tây Thi chăng?

– Thì đồng ý vậy, các hạ vạch ra cũng đúng, lần này chịu thua các hạ.

– Còn Vong Quốc Chi Khí là gì?

– Là cái mà các hạ vẫn dùng hằng ngày, mỗi ngày ba bữa đó.

Tôi cau mặt suy nghĩ, thật vô lý, tôi có dùng cái gì đáng để gọi là Vong Quốc Chi Khí đâu.

– Xin tướng công nói rõ, tôi vẫn thấy mình là “Thiên hạ đệ nhất không giàu” mà, có gì đáng để mang cái tên ấy nhà chỉ có vài tủ sách với mấy cây đàn thôi.

– Vong Quốc Chi Khí  là chén ngọc đũa ngà, các hạ đã dùng đũa ngà từ bao nhiêu năm nay,

Tôi giật mình, quả thật có như thế, nhưng tại đũa ngà rất bền và nhẹ, thanh, cầm không đau tay, chẳng có lý do gì khác, chẳng lẽ lại vứt nó đi, vô lý. Nhưng thôi chuyện đâu còn có đó, về nhà sẽ tính, ngày xưa bố tôi cũng ăn đũa ngà đâu có phải vì thế mà mất nước, điểm nầy sẽ phải mang ra mà mổ xẻ lại, tôi không đồng ý lắm, nhất là khi lũ voi già nó chết đi, tức thị nó phải trút đôi ngà để lại cho đời chứ, tôi chắc lưỡi nói cho qua vấn đề.

– Rằng quen mất nết đi rồi…

Biết tôi muốn đổi vấn đề, sang đây đâu phải để nói đến đũa ngà, với chén ngọc. Ông tướng Mông Điềm nhận thấy, nói ngay.

– Các hạ muốn đổi vấn đề, người nầy không biết phục thiện.

Tôi hơi tức, đã thế thì phải cãi mới được, không thể để cho bị hiểu lầm.

– Vong quốc có một nghìn lẻ một lý do, nhất là ở hoàn cảnh nước Việt Nam chúng tôi, trước hết là bị đô hộ, hết người Trung Hoa của tướng công thì đến người Pháp, dân tình mệt mỏi, thêm vào còn cái họa cộng sản gây nên trận chiến…

– Thì đúng rồi, huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Tôi đồng ý với các hạ, đa số những vị lãnh đạo có được bao nhiêu ông thật tình vì dân, vì nước, hay là họ có, mà dấu cái thật tình ấy quá kỹ nên chúng ta không thấy đó chăng?

Tôi nghĩ thầm, nếu bây giờ mà để cho cái nhà ông tướng nầy moi xấu chuyện của nước ta thì chắc đến mười ngày chưa hết, tôi phải đổi vấn đề mới được.

– Thôi tướng công ơi, chúng ta đổi sang nói chuyện khác đi.

Tướng Mông Điềm lắc đầu nhìn tôi, tỏ vẻ thương hại nhưng không dám nói ra, biết là tôi không chịu nổi sự thương hại của bất cứ ai.

– Hỏi tướng công một câu, tại sao lịch sử ít khi đến người đàn bà. Xứ tôi lại còn có câu: “con hư tại mẹ”. Chỉ có những bà Nhan Thị, mẹ của Khổng Phu Tử, bà Thái Khương, mẹ của Văn Vương, một vài khi còn nghe nói đến vì các ông ấy mồ côi sớm, còn các bà mẹ khác rất ít khi nghe nói đến, là tại làm sao?

– Nói thì cũng phải có gì mới nói, bà nào thật hay thật giỏi mới nói chứ không thì nói có ích gì. Cũng có một phần là ngày xưa các vị sử gia rất nghiêm khắc, thà bị cắt đầu chứ không muốn viết những điều sai sự thật, ngày xưa với ngày nay thật khác nhau. Ngày xưa, ai làm điều gì trái với lương tâm thì xấu hổ, sám hối. Ngày nay, hai chữ Sám Hối hình như không còn nữa, Kinh Sám Hối là quyển kinh ít được tới. Ngay cả trong các chùa chiền mà lắm chùa cũng hơi lãng quên.

Tôi đưa tay chặn ngang, ngắt lời ngay.

– Xin đừng vơ đũa cả nắm, đổ thùng nước tắm thì đừng đổ luôn cả đứa bé…

Tướng Mông Điềm nghe tôi nhắc lại câu châm ngôn Anh Quốc, biết ngay là tôi muốn phá ông ta nên chỉ mỉm cười.

– Các hạ lúc nào cũng nóng nảy, tôi muốn nói là nói đến một số nhân vật làm chính trị ngày nay. Các hạ thử nhìn lại xem, mỗi ông lên nắm quyền là để cho bà con anh em tha hồ lộng. Giết bao nhiêu mạng người mà đến lúc gần chết cũng không chút ân hận, toàn những tên đại… dùng chữ gì cho đúng nghĩa đây, thôi thì bỏ trống vậy, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Ở đời phải nên bớt thù thêm bạn… chỉ những tên dại như thế mới được nhắc đến, càng được sùng bái.

– Đến bao giờ…?

– Đến bao giờ loài người thức tỉnh, mở to đôi mắt. Nhưng để nói thêm về câu hỏi của các hạ, tại sao ít nghe nhắc đến các bà?

– Vâng như phu nhân của tướng công chẳng hạn, có bao giờ ai nghe nói bà Mông Điềm đâu, chính Tướng công cũng chưa hề nhắc đến.

– Thê tróc tử phọc.

Tướng Mông Điềm nói ra đúng bốn chữ rồi ngừng.

– Tướng công cũng cho là vợ rượt con trói, sao mà nói bốn chữ ấy. Thế thì tướng công nghĩ gì về vị Tổng Thống xứ Hoa kỳ Reagan, lúc nào cũng không quên nhắc đến trong mỗi câu chuyện…

Tướng Mông Điềm cướp lời, nói ngay:

– Nancy and I…

Tôi bật lên cười vì thấy ông tướng cõi âm nầy mà cũng bắt chước được đúng cái giọng của cựu Tổng Thống Reagan.

– Tướng công nghĩ sao về ông Tổng thống nầy.

– Sau một ông ba phải, thì chỉ cần một chút cố gắng  hay một chút ý khí, tôi muốn dùng chữ “caractère” của tiếng Pháp, chỉ cần có ý khí hơn một chút là nổi ngay. Dầu sao cái truyền thống dân chủ cũng không cho phép người ta tung hoành, như ở những quốc gia phong kiến cộng sản hủ lậu, duy đảng độc tôn, ở nhiều nơi khác.

– A, nhớ ra rồi, bắt tướng công nói về bà Võ Tắc Thiên nghe chơi.

– Nghe là phải nghe thật, nghe để mà ghi nhớ điều hay lẽ phải chứ tôi không nói cho người nghe chơi. Các hạ phải tập đứng đắn cho quen, già đầu rồi đừng ăn nói xô bồ, nhất là khi đối ngoại. Người ta xét đoán mình từng chữ, từng câu. Chính các hạ đã từng bắt mỗi người dân đi ra khỏi nước phải là những cán bộ…

Ông tướng làm tôi nhớ đến vị thầy cũ của tôi, ông Đặng Thái Mai, ngày ấy chắc ông nhận thấy tôi quá trẻ con nên trong câu chuyện ông thường nhắc mỗi một câu: ‘La vie est une chose sérieuse” (Đời là một chuyện nghiêm trang đứng đắn). Câu ấy đã theo tôi mãi đến ngày giờ nầy. Vừa ngước lên nhìn, bị tướng Mông Điềm đọc ngay trong ánh mắt.

– Các hạ có cái tội và cái nợ đó. Mấy chục năm không viết thư về thăm thầy.

Tôi cúi mặt suy nghĩ, xấu hổ nhận tội, quả thật như thế nhưng ở đời có những lý do khó nói lên được thành lời.

– Tướng công nói đúng, tại hạ có mang ơn ông ấy rất nhiều, nhưng tại cứ băn khoăn, nhất là về sau nầy, thấy không đi chung một đường. Đọc những tác phẩm của ông về sau, tại hạ càng bức rức...

– Chẳng hạn…

– Chẳng hạn như khi ông trách rằng Hồ Thích đã đưa văn hóa ngoại bang tức là văn hóa Âu Mỹ vào, thì người cộng sản mỗi lúc mở miệng là nói đến chủ nghĩa Mác Lê, cái nầy không là ngoại bang sao. Một tên cán bộ nào nói thì được, chứ một người như ông ta, mà ngày bé tại hạ rất kính phục, ông là đảng viên cao cấp của đảng cộng sản, là bố vợ của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong khi ấy thì suốt cả đời tại hạ chẳng bao giờ làm nên cơm cháo gì. Mặc dầu khi chia tay ông đã viết mấy giòng lưu bút mà tại hạ còn nhớ rõ mấy chữ cuối là “Minh Đức phải cố lên, cố mãi lên…” Nghĩ rằng có viết thư về, chắc lá thư cũng chỉ được vào thùng rác.

– Cũng chưa chắc, không bao giờ nên dự đoán, biết đâu…

Ông tướng đã mím môi lắc đầu tỏ ý không chấp nhận những lời biện hộ của tôi.

– Các hạ vẫn có lỗi, một kiếp nào đó cũng phải trả những gì đã nhận được từ người thầy ấy.

– Tại hạ xin nhận lỗi, hy vọng có một dịp nào sẽ giải thích đền đáp. Ngày ấy có thể nói rằng Đặng tiên sinh đã cho tại hạ một cây gậy để chống bước trên con đường đầy chông gai, đầy vực sâu núi thẳm với cạm bẫy của cuộc đời.

– Được, các hạ đã biết nhớ ơn, có thể là ngày hôm nay của các hạ cũng đã do một phần nào, những giờ học hỏi của thời xa xưa ấy.

Tôi đổi giọng năn nỉ, muốn bắt ông tướng thay đề tài nói về bà vua của thời thịnh Đường Võ Tắc Thiên ấy.

– Người đàn bà ấy rất có tài, đầy trượng phu khí, chỉ tiếc rằng bị đày đọa vào cái thân xác phụ nhân. Bà ấy là người đàn bà đầu tiên được viết chữ khắc lên bia, các hạ biết chứ.

Tôi gật đầu, điều nầy tôi đã từng nghe, cũng đã từng nhìn những phúc bản các bài do bà ấy viết.

– Nét chữ của Đường Vũ Hậu rất vững, nhiều khí chất trượng phu, có tài nhìn người, biết phẩm định ai tài ai không.  Nhờ vậy nên dầu ghét hay thương, mọi người đều phải công nhận rằng thời bà được gọi là Thịnh Đường không phải ngoa, từ văn hóa đến chính trị, ngoại giao đều phát triển vững vàng.

– Mà sao người ta nói xấu bà ta quá vậy.

– Các hạ cũng biết rằng đã là con người ai chẳng có lỗi lầm, các sử gia thì nghiêm khắc. Vả lại càng có tài càng bị người đời ganh ghét. Trước kia bà là Tài nhân của Đường Thái Tông.

– Sao lại gọi là Tài Nhân?

– Tài nhân là hữu tài chi nhân, vào đời Hán, Đường để gọi chức nữ quan, được mời vào cung để dạy các phi tần học.

– Dầu sao bà ta cũng hơi quá thẳng tay với Trung Tông, Duệ Tông, tướng công cũng nhận điều ấy chứ.

– Cứu cánh biện minh cho hành động.

– Ồ, tướng công cũng nói vậy sao “la fin justifie le moyen”, tại hạ không đồng ý.

– Đến đời Duệ Tông lên có làm được gì, nhưng thôi về sau bà ta cũng già quá, rồi lại bệnh hoạn. Con người một khi đã bệnh hoạn thì còn ích lợi gì nữa.

– Sử ghi bà bị tẩm tật, là bệnh phải nằm hoài chăng? Tại sao?

– Sau những tháng năm tranh đấu từ vật chất đến tinh thần, làm sao không bị bệnh. Bà ta đã có công rất lớn trong sự phát triển về văn hóa. Nhưng sao các hạ cứ chạy đi kiếm đi tìm đâu cho xa, hãy nhìn lại lịch sử nước nhà của các hạ, chẳng hạn như đời nhà Trần, có những vị minh quân, lại có những nhân vật đặc biệt như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Nguyễn Công Trứ… Các hạ đi tìm xa xôi làm gì.

– Tướng công nói đúng, bài Hịch của Trần Hưng Đạo, đến ngày nay chúng tôi vẫn thấy cần phải học, phải nghiền ngẫm.

– Các hạ nên đi tìm quyển sách mang tên là “Vạn Kiếp Tông, bí truyền thư” mà đọc, cố nhiên đây không phải là sáng tác mà là một sự góp nhặt binh pháp của các binh gia xưa, rất đáng hâm mộ.

Nghe tướng Mông Điềm nói đến danh nhân của mình tôi thật cảm kích, kỳ nầy về, nếu có viết lách gì, chắc phải gào to, nhắc lại. Hầu như đa số con người đều có cái trí nhớ ngắn ngủi.

– Đố các hạ, Nguyễn Trãi của các hạ gặp Lê Lợi của  các hạ vào năm nào.

Tôi bật cười vì sự phân chia rõ rệt Nguyễn Trãi của các hạ, Lê Lợi của các hạ, cũng hay như thế để khỏi ai mượn nhầm của ai, nhưng quả thật là xấu hổ cho tôi vì không bao giờ để ý nhớ cho kỹ những con số.

– Tại hạ xin chịu thua, tướng công thật phi phàm, chắc đa số anh em đồng hương và đồng nghiệp của tại hạ ở nhà hay ở hải ngoại cũng sẽ ngập ngừng, chẳng biết mấy ai có thể trả lời được.

– Họ gặp nhau ở Lỗi Giang, thượng lưu sông Mã, năm ấy là năm 1421 dương lịch và âm lịch là vào năm Tân Sửu.

Tôi lẩm nhẩm nhắc lại để khỏi quên, ngày về sẽ nói cho các bạn liệu mà chuẩn bị, nếu có cơ hội đi chơi đâu mà gặp cái loại người thông thái cổ kim nầy, thì đừng để cho phải có những lúc lúng túng như tôi hôm nay. Nhưng tôi cũng muốn thử xem ông tướng nầy có thật là thông thái cổ kim không, hay chỉ giỏi về chuyện cổ mà thôi. Tôi phải đặt một câu hỏi gì thật hợp thời đại mới được.

– Tướng Công có quan tâm đến cái hiệp ước….

Mới nói chưa dứt câu, ông tướng đã mỉm cười, hình như ông ta đoán được cái ý nghĩ hơi láo xược của tôi là có ý muốn bẫy, thử tài, ông ta nói ngay.

– Các hạ muốn nói đến cái hiệp ước ABM phải không? Hạn chế, ở đó mà hạn chế với người cộng sản. Các hạ và mọi người đều biết rằng không cái hiệp ước nào có thể cấm hẳn sự nghiên cứu về ABM. Mỗi một vấn đề là không thể phân định giữa hai cái Anti Ballistic-Missile và Non Anti Ballistic-Missile. Điểm thứ hai là ai dám nói đã biết rõ rằng trong các viện thí nghiệm của Nga quốc đã thí nghiệm những gì. Các hạ về xem lại cái điều khoản số 1 của bản ABM Treaty 1972. Bắt buộc đôi bên không phải chỉ có triển khai khắp toàn quốc cái sự phòng ngự ABM mà còn phải cấm chỉ cả sự cung ứng một căn cứ…

– For such a defense? (cho loại phòng ngự ấy)

Tôi ngắt lời hỏi, biết đây là sở trường của ngài. Nếu tôi không ngắt đi thì chắc suốt buổi hôm nay chỉ nói toàn cái vấn đề nầy. Ngày về mà viết ra thì độc giả sẽ la lối. Tướng Mông Điềm có vẻ chưa thỏa chí nên cứ tiếp tục nói.

– Điều khoản VI cấm để cho cái gọi là Non ABM systems…

Tôi lắc đầu mạnh hơn, đưa tay cắt ngang một lần nữa, biết rằng sẽ bị khinh là phụ nhân nan hóa, là văn dốt vũ dát, là không chịu học hỏi thêm v..v… Mặc chứ, những điều nầy chỉ cần về nhà mở một tờ báo chính trị, quân sự ra là biết hết, cần gì phải đi cả vạn dặm đến đây để nghe nhắc lại. Tướng Mông Điềm có vẻ thất vọng, ông hỏi tôi.

– Chắc các hạ muốn nghe nói về cách nấu món ăn Hùng Chưởng, tức là món bàn tay gấu chăng.

Biết ngài bị chạm tự ái, ngài có ý giận, không thèm nói chuyện ABM, tôi phải xin hòa giải.

– Xin tướng công để cho tôi về học hỏi thêm và nếu có thể, sẽ xin được giới thiệu với tướng công một vài cấp tướng lĩnh của Việt Nam chúng tôi. Chắc họ sẽ thích thú lắm, được nghe tướng công nói đến những vấn đề thuộc về quân sự.  Còn phần tôi thì… thôi xin tướng công cứ nói về cách thức để nấu món bàn tay gấu ấy đi. Tôi chỉ là một viết sĩ tầm thường…

– Các hạ đã muốn thì bỉ nhân cũng đành phải chiều lòng vậy, một lần nữa lại phải nhắc câu ngạn ngữ Pháp:”Ce que femme veut, Dieu le veut”.

Tôi cắn môi để khỏi bật thành tiếng cười, ông tướng này lắm khi cũng hơi quê, những câu nầy bây giờ chỉ có các cụ già mới nói, đời bây giờ là unisex, làm gì có sự nịnh đầm ấy nữa. Ông tướng tiếp lời, không thèm đọc ý tôi.

– Thú thực với các hạ, món hùng chưởng nầy một độ tôi cũng mê lắm, có tên hỏa đầu quân rất khéo nấu. Hùng chưởng là một trong bát trân đấy. Bàn tay gấu ngon là vì khi ngủ, suốt cả mấy tháng đông miên, con gấu vẫn tiếp tục liếm bàn tay, nên bao nhiêu tinh khí dồn vào đấy. Gấu thích nhất là bắp nên đến mùa bắp nhà nông giận chúng lắm. Gấu có nhiều giống, gấu người gọi là nhân hùng, gấu chó là cẩu hùng, gấu trắng là bạch hùng, gấu lông vàng là hoàng mao hùng. Mọi người đều biết món hùng chưởng nầy là vừa ngon vừa bổ nhưng chẳng mấy ai biết cách nấu.

– Học được cách nấu món hùng chưởng chắc tôi sẽ về phổ biến ở Alaska, nơi ấy có nhiều gấu trắng, gấu đen.

– Muốn học thì mang giấy bút ra tôi đọc cho mà ghi lấy để mang về dạy lại cho học trò, chắc sẽ thành công.

Tôi bật cười, nghĩ bụng, học môn gì còn dễ kiếm chứ cái món bàn tay gấu nầy, tìm đâu ra gấu mà nấu. Thêm cái hội bảo trợ súc vật, đến các khoa học gia, nuôi khỉ để thử thuốc là điều có ích cho nhân loại, mà họ còn biểu tình đập phá ầm cả lên, nếu biết tôi về mở lớp dạy nấu món hùng chưởng nầy chắc họ sẽ không tha. Nhưng đã gặp được một cơ hội may mắn kỳ diệu như thế nầy sao lại không lợi dụng. Tôi tự hẹn sẽ moi móc ruột gan ông tướng nầy ra mà học hỏi cho hết. Ngày về sẽ có một thiên phóng sự độc đáo.

Bao nhiêu người đã sang Trung Quốc về mang rất nhiều vàng bạc, châu báu đồ cổ… nhưng họ chỉ đưa về chưng tủ kính, khóa kỹ, nếu có chết để lại cho con cháu thì cũng lại khóa kỹ dấu kín mà thôi, chẳng thấy ai mang về được cái gì để có thể gọi là lợi ích chung hay là chia sẻ với anh em đâu. Hẳn tôi đã may mắn hơn nhiều người nên mới gặp được ông tướng cõi âm nầy.

Tôi mở ví, lấy quyển sổ tay và cây bút sẵn sàng ghi bài học cách nấu món Hùng Chưởng, tức là bàn tay gấu nầy.

– Xin được chỉ giáo.

– Đây là dạy cho các hạ nấu theo lối cổ truyền đấy, ngày nay thì dễ dàng hơn, cứ barbecue hoặc low cook là xong cả. Người thời nầy chỉ thèm món hot dog và món Mac Donald, cho ăn suốt đời cũng cảm tạ.

– Thôi mà, ngày giờ ít ỏi xin tướng công nhập đề đi.

– Các hạ vẫn tính nào tật ấy, thì thôi nhập đề đây. Trước hết phải tìm cho được thứ đất bùn vàng, chúng tôi gọi là hoàng sắc nê thổ, mà phải chọn thứ nào từa tựa đất sét, cứ mười cân đất lại thêm một bát muối mặn, đổ nước vào nhồi hai thứ như tương, trộn với rơm hoặc cỏ khô mang bọc lấy bàn tay gấu ấy. Làm sao cho cỏ với bùn bọc thật kín. Dùng một tấm thiếc đặt trên lửa, mang bàn tay bọc bùn ấy nướng lối một giờ. Khi thấy bùn khô và rơm đã cháy hết, thì mang đập xuống đất cho rơi bùn khô ấy ra. Bao nhiêu lông lá cũng sẽ theo bùn mà rơi rụng hết. Dùng nước sạch, trong mà rửa cái bàn tay ấy, lớp da đen cũng phải lột ra, lúc ấy sẽ chỉ còn lại bàn tay trắng nõn tựa như bàn chân của người. Bấy giờ mới mang đun lên, thêm nước dùng gà, thịt nạc muối, chất nước sẽ trắng như sữa. Ngon tuyệt trần, các hạ về làm mà xem, ăn như mỡ mà không có chất mỡ, món nầy đại bổ.

– Nghe tướng công tả, mê quá, chắc kỳ nầy về sẽ đi lùng một con gấu mà thử nấu.

– Có mấy con Pandare của Trung Quốc biếu xứ Hoa Kỳ Xing Xing, Ling Ling gì đó, các hạ đi bắt lấy một con nấu thử.

– Thôi xin ngài đừng xúi dại, đúng là xúi trẻ ăn…

– Ồ, còn quên một điều, đã nói thì nói cho hết, các hạ nên nhớ rằng bàn tay trước gọi là chưởng, hai chân sau gọi là cước, và bàn tay trước ngon hơn hai chân sau, và chưởng bên trái lại quý hơn chưởng bên phải.

– Tại sao vậy, cầu kỳ nhỉ.

– Bản quốc cầu kỳ vậy đó, tại lúc ngủ nó ưa liếm tay trái, mỗi giờ người ta tính ra thấy nó liếm cả 100 lần, tinh hoa tụ hết vào đấy. Ai ăn được nhiều bàn tay gấu thì khỏi sợ lạnh, dầu có không mặc áo quần dưới trời tuyết, nhưng cũng không nên lạm dụng sẽ bị hỏa thượng xung. Người ta còn biết dùng mỡ gấu để làm thuốc, nhất là để chữa chứng phong thấp không có gì hay bằng hổ cốt với hùng du.

– Thỉnh vấn.. còn thứ mật gấu thì sao?

– Ừ nhỉ, khen mỡ gấu mà bỏ quên mật gấu. Mỡ gấu mà ăn được đều, mỗi ngày thay chất dầu thì sẽ không cần sưởi, cơ thể vẫn luôn luôn ấm áp. Còn mật gấu tốt là vì con gấu ăn hằng trăm thứ rễ cây, mà trong số rễ cây ấy, lại có rất nhiều cây thuốc. Thú vật lắm khi còn khôn ngoan hơn cả loài người, vì thiên nhiên cũng đã cho chúng một linh giác để tự vệ và tự tồn. Tinh hoa bao giờ cũng tích tụ nơi túi mật. Nơi đó có nhiều thành phần khoáng vật. Có những con người suốt cả đời không gặp được một thứ rễ cây thuốc nào. Nhưng dầu sao thì loài người vẫn khôn ngoan điêu xảo, biết đó là thứ thuốc quý nên đã lấy mật con lợn để giả mật gấu, cố nhiên là chẳng có chút hiệu nghiệm nào. Mà các hạ có biết rằng mật gấu còn chữa được chứng lười biếng không?

Tôi nghe mà mừng, từ nay mỗi lúc cảm thấy lười biếng, không muốn làm việc thì sẽ đi tìm mật gấu để uống cho siêng hơn.

– Ban nãy tướng công vừa bảo có nhiều loại gấu. Loại nào ngon nhất?

Nhìn tôi tinh nghịch, chắc ông đang thầm nghĩ, cứ nói chuyện tu hành mà hỏi lắm câu độc địa. Phạm giới sát sanh, tạo ý nghiệp đấy. Tôi sợ bị hiểu lầm, giải thích ngay.

-Tại tính tôi hơi bị méo mó nghề nghiệp, xin tướng công đừng chấp trách những câu hỏi tỉ mỉ và tò mò nầy.

– Loại gấu lông trắng, ban nãy tôi có nói với các hạ là bàn tay trái ngon nhất, cũng như chén trà thứ nhất, sau khi đã biết cách pha chế đúng phương pháp, vẫn được gọi là Hoàng Đế trà, các hạ nhớ chứ. Sau đó là bàn tay phải, thú ba là đôi chân, nhưng với lũ gấu trắng còn có miếng mỡ ở ngực, ngon thơm và rất bổ.

<Tôi chợt nghĩ đến dân xứ Esquimaux, ông tướng mỉm cười lắc đầu nhắc lại câu nói của Khổng Tử “Kiến kỳ sinh,  bất nhẫn kiến kỳ tử. Văn kỳ thanh bất nhẫn thực kỳ nhục, quân tử viễn bảo trù”

– Tại hạ thử dịch nhé, “Thấy nó sống không nỡ nhìn nó chết, nghe tiếng nó kêu la không nở ăn thịt nó, cho nên người quân tử tránh xa nhà bếp” Phải vậy không thưa tướng công?

– Tạm được, các hạ cũng chịu khó học hành đấy nhỉ, theo thuyết nhà Phật, nếu kiếp nầy chịu khó học hành thì kiếp sau bớt u mê, đỡ vất vả.

- 2 -

Tôi đang phân vân còn muốn hỏi thêm nhiều câu, nhưng nhìn thấy ánh nắng đang lên dần, chưa bao giờ tôi muốn níu cánh thời gian như lúc nầy. Có một số câu hỏi cập nhật và rất cần thiết, chúng đang ứ tràn trong tâm khảm, chẳng biết nên hỏi câu nào trước, câu nào sau. À thôi nhớ ra rồi sang đây thì bây giờ phải thăm Đặng Thị trước, tôi nói ngay, chỉ sợ rồi lại quên.

– Xin tướng công nói cho biết hơn một chút về ngài Tổng... Đặng Tiểu Bình, tại hạ thấy ông ta coi vậy mà khôn hơn Mao ông, tướng công có đồng ý không?

– Đặng Thị, tức ông họ Đặng nầy nhờ hưởng được ngôi mộ của bà cố chôn cạnh miếu của Vũ Hầu Gia Cát Lượng, trên đỉnh Trung Sơn. Trước đó tổ tiên họ Đặng rất nghèo, Đặng Thời Mẫn là ông nội của Đặng Tiểu Bình phải đi giữ trâu cho nhà giàu. Sau khi mẹ chết, chú bé chăn trâu bỗng có ý muốn đi học, nên mỗi khi đưa trâu ra núi cho trâu ăn cỏ, thì thả trâu đấy, còn mình lẽn chạy đến nhà ông thầy cũng chẳng cách bao xa, để đứng nấp ở cửa nghe bài. Một hôm vô ý thế nào bị trật chân ngã quay xuống đất, cánh cửa bật tung ra. Ông thầy trông thấy, gọi vào hỏi lý do. Sau khi nghe chú bé kể lể hoàn cảnh gia đình, ông thầy bèn cho vào để khảo thí, nhận thấy chú bé chăn trâu nầy học lén có bao nhiêu tháng năm đâu, sao lại giỏi hơn rất nhiều đứa học trò đã được cha mẹ nuôi ăn học từ tấm bé. Thế là từ đấy chú bé chăn trâu khỏi phải học lén nữa. Sau 3 năm theo học, thấy cậu bé Đặng Thời Mẫn nầy quá tấn tới, ông thầy bèn đến nhà nói chuyện với người cha, xin cho Đặng Thời Mẫn được lên thị thành để tiếp nối sự học. Cha của chú bé mang gia cảnh ra trình bày, sự không thể cố gắng sự ấy. Ông thầy đề nghị chịu hết mọi sự phí tổn cho đến ngày chú bé thành tài. Người cha cảm tạ, vui mừng vì đó là điều vượt ra khỏi tầm ước muốn, ông thầy bảo rằng chú bé nầy “Phi nhất huyện, nhất phủ chi tài, tha nhật quý vi triều đình đống lương“. Không phải chỉ là người tài trong một phủ, một huyện mà ngày sau sẽ là cột trụ của triều đình.

Y như lời ông thầy tiên đoán, sau một năm Đặng Thời Mẫn thi đỗ tú tài, năm sau nữa đỗ cử nhân đầu bảng được vua Càn Long hân thưởng tài học, đã thân ngự bút phê điểm rồi cứ thế mà thăng quan tiến chức lên đến Hình bộ Thượng Thư, nhờ vậy mà Đặng gia đã danh dương thiên hạ.

Tướng Mông Điềm nói đến đây đã ngưng giọng, trầm ngâm suy nghĩ.

– Như thế là họ Đặng nhờ chôn nhằm huyệt tốt, đúng không tướng công, làm sao tìm ra được ngôi đất, chắc ngôi đất phải có văn bút quý nhân sa, lại có cả chiên cổ, kỳ phướng…

– Khoan hẳn, chuyện đâu còn có đó các hạ đã nghe nói nhiều đến câu “Phúc địa, phúc nhân cư”. Tức là phải có phúc mới được ở trên một ngôi đất tốt, và bao giờ cũng đừng quên sự: “Tiên mãi đức, hậu tầm huyệt” tức là trước hết phải lo mua đức, tức là tạo ra nhiều đức, sau đó hay nghĩ đến chuyện tìm huyệt. Các hạ cũng đừng tưởng những nhà giàu cứ ỷ tiền, cho rằng mang tiền đi rước thầy địa lý về nhà chiều chuộng, cho thầy hưởng đủ mọi thứ của ngon vật lạ để rồi đưa thầy vào sự: Ăn xôi chùa ngọng miệng, bắt thầy phải đi tìm cho mình một ngôi đất tốt mà được đâu. Nếu ăn ở bạc ác thì ngôi đất cũng biến thành xấu, mà lại còn biến rất nhanh. Từ xấu trở nên tốt lắm khi cần cả đời người, hay là hơn nữa, mà trái lại từ tốt hóa xấu thì lắm khi chưa đến 3 năm.

– Làm sao biết được?

– Nhìn sự thành bại trong họ, trong gia đình, nhìn cây cỏ ở nơi mộ địa…nhưng sao các hạ tò mò chi quá vậy, để nghe nốt câu chuyện nhà họ Đặng nầy đã.

– Tại hạ cũng đang nóng ruột muốn nghe đấy chứ, nhưng tại Tướng công nói thêm ra ngoài mà rồi vấn đề nào cũng hấp dẫn. Tại hạ thắc mắc muốn tìm hiểu sự thăng quan của nhà họ Đặng, lý do vì đâu, lệ thường, lắm khi vì quá nghèo có muốn làm việc thiện, việc phước đức cũng không làm được. Chưa đủ ăn, lấy đâu mà bố thí cho ai.

– Các hạ nói cũng đúng nhưng chỉ một phần nào thôi, để yên bỉ nhân kể nốt. Thuở ấy Đặng Thời Mẫn có bà mẹ ốm yếu phải nằm nhà, hai cha con đi làm thuê mỗi ngày, bỏ người đàn bà ở nhà, trước khi đi bao giờ cũng nấu cho một bát cháo ăn mà cầm hơi. Chờ đến chiều tối hai cha con đi làm về mang chút tiền công mua gạo nấu cơm cùng ăn.

Một hôm người đàn bà bệnh hoạn ấy đang nằm trong nhà, bỗng nghe một tiếng rơi đánh bịch lên mặt đất từ ngoài sân vọng vào, cố nhiên là từ nhà đến sân giỏi lắm cũng chỉ độ vài ba thước. Tưởng chừng như có ai vứt vào một cái gì, bà lần bước ra, nghe thêm vài tiếng rên yếu ớt, nhìn kỹ thì đó là một nhà sư đói, đi đến đó thì bị đuối sức đã ngã xỉu ngay trước sân. Người đàn bà nghĩ bụng, hẳn nhà sư đến đấy thì vừa mệt lại vừa đói. May quá sẵn phần mình còn sót bát cháo hôm nay chưa ăn, thôi thì nhường cho nhà sư, may ra có cứu thoát. Bà ta bèn lết vào nhà mang bát cháo ra, nâng đầu người đang sắp lả, đổ từng thìa cháo vào miệng. Dần dần người đói hồi tỉnh, ngạc nhiên và cảm động nói khẽ: A Di Đà Phật, thí chủ đã cứu mệnh bần tăng, ân nầy làm sao báo đáp đây?

Người đàn bà mừng rỡ khi thấy nhà sư đã hồi tỉnh, chỉ nói.

– Sư tỉnh lại là may lắm rồi, không phụ công của một bát cháo trắng.

Nhà sư nhìn lại người đàn bà với dáng điệu tiều tụy xanh xao, nhìn vào trong nhà cũng chỉ là thứ mái tranh, vách đất. Biết chắc rằng người đàn bà đã nhịn phần bát cháo cho mình.  Người đàn bà đoán hiểu ý nên đã nói thêm cho nhà sư an lòng.

– Nhà sư được bình yên là tôi an tâm rồi, tấm thân bệnh hoạn nầy có một bát cháo hay không cũng còn kéo dài được.

Nhà sư cảm động, trầm ngâm một lúc rồi hỏi:

– Trên đời thí chủ có ước nguyện gì không? Để xem tôi  có thể làm gì hòng mong trả cái ân của bát cháo chăng?

Người đàn bà nở nụ cười héo úa trả lời.

– Với tấm thân tàn nầy, sắp chết đến nơi còn có gì nữa mà nguyện với vọng. Tuy vậy cũng có một điều ước mơ, làm sao cho cha con nó đỡ vất vả, và cầu cho thằng con trai Đặng Thời Mẫn sau nầy lớn lên cũng sẽ có được vợ con như người ta, thế là thân già nầy mãn nguyện lắm rồi và chắc đó là điều khó thực hiện. Nghèo quá, ai mà thèm thương.

Nói xong người đàn đã khóc lên, vì quá xúc động. Nhà sư tìm lời an ủi.

– Thí chủ đừng quá lo, bỉ cực thái lai, sắp được về miền cực lạc, gia đình họ Đặng rồi sẽ có ngày khá.

Nói xong nhà sư cáo từ, nhưng trước khi đi có đọc lên bốn câu có ý nghĩa rằng: “Cứ tìm hướng Tây mà đi, lên trên núi cao, rung ba lần, thân rơi xuống nơi nào thì nơi ấy là long sàng”. Nói xong nhà sư đi mất.

Hai cha con nhà họ Đặng đi làm thuê xong, trở về thấy người đàn bà năm lả trên giường có vẻ mệt và đói lắm, hỏi ra mới biết rõ sự tình. Người mẹ tuy cạn sức mà vẫn cố gắng hết lực đọc mấy câu kệ của nhà sư cho thằng con trai, bắt nó học thuộc lòng, chỉ có mấy hôm sau người đàn bà chết.

Cha con Đặng Thời Mẫn đã làm hệt những gì nhà sư dặn qua câu kệ. Đặng Thời Mẫn về sau làm đến Thượng Thư như bỉ nhân đã kể cho các hạ nghe lúc đầu, ông có một vợ và sinh được một con trai là Đặng Văn Minh, ông nầy thì rất giàu, của cải bố mẹ để lại, không học hành nhiều, lấy đến năm bà, và Đặng Tiểu Bình là con của bà cả Đàm Thị, lúc sinh ra không một tiếng khóc.

Tướng Mông Điềm kể chuyện nhà họ Đặng nghe cứ y như trong tiểu thuyết, tôi không biết có nên tin hay chỉ xem như tất cả những huyền thoại người ta thường thêu dệt chung quanh những nhân vật.

– Tướng công đọc đâu ra câu chuyện nầy vậy, vừa đạo đức luân lý lại vừa sưu tầm lịch sử.

Ông tướng mỉm cười nhìn ra phương xa, tôi nhận thấy mỗi khi có gì suy nghĩ là y như cái nhìn gửi vào một nơi thật xa.

– Thì cũng đọc trong mấy tờ báo lá cải như mọi người vậy.

– Thế tướng công có tin là họ Đặng đã được ngôi đất ở Trung Sơn đó không?

– Trên quan điểm địa lý thì chắc phải có thật. Nhưng nếu câu chuyện nầy mà được đưa ra thời Mao Ông, Mao Bà còn tại vị thì chắc là Mao Bà đã sai Hồng Vệ Binh đến mà phóng uế cho phá cách vương tướng nầy đi mất rồi, còn đâu có hôm nay, vì phá là được. Ngày xưa trong các triều đại thấy ai nổi lên mà thế dân mạnh là triều đình chỉ việc cho người tìm đến mộ tổ ếm cho một cái là cục diện thay đổi ngay.

Tôi gật gù suy nghĩ, nhớ đến những trang sử nói về Cao Biền, à ra thế, nhưng thôi hãy cho đó là mệnh nước, là quá khứ, thảo nào mà hay có những cái chết bất đắc kỳ của những đại nhân vật, sẽ có lúc mang ra thảo luận thêm với  ông tướng nầy nhưng bây giờ còn phải hỏi thêm về con người họ Đặng nầy đã, lúc về còn kể cho anh em nghe.

– Thỉnh vấn tướng công…

– Cái gì nữa đây?

– Tại hạ còn nghe một câu chuyện về Đặng Thị nữa. Người ta bảo ông nầy lúc sinh ra không khóc, cô đỡ đã theo lệ thường, đánh cho mấy cái vào mông, chú bé vẫn không  khóc mà chỉ hơi mếu và trên trán nhăn thành 3 lằn, hình chữ Vương, cả nhà ngạc nhiên… Có thật vậy không?

– Các hạ cũng biết chuyện ấy nữa sao, cũng có thì giờ đọc báo lá cải lá hành nữa sao? Cũng may cho họ Đặng là những mẫu huyền thoại nầy chẳng ai dám nói ra, hoặc đề cập đến trong câu chuyện khi Mao Ông còn tại vị.

– Thế tướng công có tin rằng những cái chết bất đắc kỳ tử cũng còn là do kết quả của các hành động gian ác từ tổ phụ truyền xuống không.

Tướng Mông Điềm mỉm cười rồi bỗng cau mặt có dáng suy nghĩ, hay là ông ta đang nghĩ đến cuộc đời của mình, cái sống và cái chết của chính mình. Yên lặng một lúc ông ta mới trả lời rất chậm rãi.

– Các hạ và quý đồng hương hay nói câu: “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Nhưng nhà Phật dùng chữ nghiệp để giải thích nghe hợp lý hơn. Ai làm tội thì người ấy chịu, các hạ về mở sách xem lại, nếu bây giờ mang ra đây mà nói thì chẳng khác gì một buổi thuyết pháp, dành việc của các sư, không được. Chỉ nên tóm tắt rằng, ai tạo nên nghiệp gì thì nhận cái quả ấy, chứ chẳng có ông thần bà thánh nào ngồi đó mà đợi thưởng hay phạt, chỉ có chính mình tự thưởng hay phạt lấy mình.

Tôi sợ nói nhiều, sợ sẽ không tránh khỏi sự bắt ông ta phải nhắc đến cái chết bị bức tử của chính mình. Tuy nếu được nghe tự miệng ông ta nói chắc sẽ thú vị vô cùng, chỉ e rằng mình kém lịch sự chăng. Châm ngôn Pháp có dặn, vào nhà người  tự tử không nên nhắc đến sợi dây thừng. Tôi đành đổi vấn đề, mà trong lòng hơi tiếc.

– Tướng công có thể cho tôi biết một vài ngôi đất nào có cách phát mả Đế-vương không?

– Biết để làm gì vậy? Bộ muốn con cháu sau  nầy làm vua à?

Tôi lắc đầu đưa tay lên trời tỏ ý phản kháng.

– Biết để nói chuyện với anh em chơi cho vui vậy thôi,  chứ tôi đâu có tham lam dữ vậy, đến tấm vé số còn không muốn mua, có ai cho cũng mang vứt vào xó ngăn kéo, không hề nghĩ đến chuyện dò xem trúng hay trật.

– Dại, ngu. Các hạ xử sự như thế là ngu.

– Biết vậy nhưng tại hạ cũng tự hiểu rằng cái nghiệp mình khá nặng phải cong lưng làm mới đủ sống. Không thể chờ đợi những món hoạnh tài của những người có Thiên Phủ trong Tử vi, mà không bị triệt.

– Xin lỗi các hạ, phải nói rằng, cung tài nào có Thiên Phủ ở trong mà số lại không bị tuần triệt là người nhận được tiền của “welfare” mỗi tháng, khỏi phải đi làm. Hoặc các cô nhân tình của quan lớn, những kẻ nầy, đa số đều được sao quý ấy chiếu mệnh.

Tôi giật mình, không ngờ cái nhà ông tướng nầy cũng có nghiên cứu cả môn tử vi. Nhân đây cũng có vài điều thắc mắc muốn hỏi mà sợ mất thêm nhiều thì giờ, đành chờ một dịp khác chăng, tôi nói tiếp ý mình.

– Tại hạ lại còn sợ những thứ tiền ngồi không mà lãnh ấy là với ai cơ, riêng phần tại hạ nhận xét thấy thì hình như nó là loại chữ tài mà nhà thơ Nguyễn Du bảo rằng liền với chữ tai một vần đó chăng?

Tướng Mông Điềm lắc đầu cãi lại.

– Tài đó là tài hoa, sao các hạ nói bừa bãi thế, nhà thơ có mặt hôm nay thì biết thân. Nói đùa vậy thôi chứ bỉ nhân đây cũng chẳng hơn gì các hạ, chết rồi, con cháu chắt chỉ có mấy cây đàn với mấy cây bút.

– A cây đàn Xuân Lôi, xin nói về cây đàn Xuân Lôi.

– Các hạ nhảy như cóc làm sao ai mà theo cho kịp, chờ hôm khác, chúng ta còn cả trăm vấn đề, chỉ sợ rằng …

Ông tướng cau mày một lúc, hình như đang suy nghĩ sự gì khá quan trọng ông bỗng đổi giọng bình thản nói tiếp.

– Thôi, chuyện đâu còn có đó…

– Nhưng tướng công chưa trả lời cho tại hạ về những ngôi đất phát Đế Vương, cho tại hạ biết thêm. Tại hạ cần thêm chất liệu để viết bài cho quý vị chiêm gia, và một vài tờ báo Xuân.

Ông tướng đưa tay lên vuốt hàm râu, có vẻ trầm ngâm khá lâu một lúc mới chậm rãi bắt đầu.

– Khá phức tạp, không thể nói vài câu hay vài chục câu mà đủ ý. Thí dụ như bây giờ tôi bảo với các hạ hãy tìm ngôi đất nào được cái cách gọi là Ngô Đồng Cách  mới là đệ nhất cách, làm sao các hạ biết nó như thế nào. Phải là một vị thầy giỏi, nhiều kinh nghiệm. Từng trèo non lặn biển nhiều nơi, ở nhà phải nghiền ngẫm nhiều sách vở. Học môn địa lý là phải đi, không phải ngồi nhà mà đọc sách thôi. Đàm binh chỉ thượng, tức là nói chuyện quân sự binh pháp trên mặt giấy thì cũng như vậy. Sau khi đọc sách một thời gian rồi phải đi. Nghe nơi nào có người được ngôi mộ phát, hay một ngôi mộ đang phát, hoặc đang tàn cũng phải đến mà nghiên cứu.

– Nhưng làm sao biết được một ngôi đất nào có thể phát đế vương?

Tôi nóng ruột hỏi thúc. Ông tướng lại cười ngạo nghễ, chắc hẳn có hơi khinh khi đàn bà không đủ kiên nhẫn, thảo nào không làm được đại sự.

– Thì khoan hẳn, các hạ sao mà lúc nào cũng như đang nhảy trên lửa.

Tôi phì cười, cái nhà ông tướng cõi âm nầy thật là không thèm đếm xỉa đến thời gian, người ta thì nóng ruột, nhưng vì đã đoán biết tôi đang nghĩ gì nên ông tướng nói tiếp.

– Một ngôi đất phát công hầu thôi là cũng phải có đủ tiền hô hậu ủng, nói gì đến ngôi đất phát Đế Vương. Các hạ hãy tưởng tượng ra một cung điện như thế nào, cần phải có những gì, nào ấn trướng, chung cổ, xa mã, thương khố, nào nhật nguyệt, nào đội ngũ, rồi bên văn, bên vũ. Tất cả những quý sa chầu đến, ngoài mấy vấn đề căn bản, nào long nào hướng nào thủy, nào khí, lại không được phạm bát sát, hoàng tuyền.. Không được phạm âm phong là thứ gió làm tán sinh khí.

– Có những mấy thứ phong?

– Có nhiều mà người ta thường nói đến là Ao phong, Xạ phong, Trực phong, Cấp phong. Nên nhớ là khán phong đệ nhất mà biện âm dương thứ chi. Sa cũng phải biết phân biệt thế nào là Triều sa, Nghênh sa, Thị sa, Vệ sa…

Tôi lắc đầu, thảo nào đời không có nhiều vua, và phải khó khăn đến thế nào mới tìm được một ngôi đất quý.

Ông tướng lại nói.

– Nếu có dịp tôi sẽ đưa các hạ đi xem những ngôi mộ đã phát, và có thể là cả những ngôi mộ sẽ phát, rồi giảng giải ra mới thích, chứ nói khơi khơi như thế nầy, quả là đàm binh chỉ thượng, bỉ nhân không muốn.

– Tại sao gọi là minh đường, thưa tướng công?

– Minh đường là Thiên Tử chi đường, tức là nơi làm việc của nhà vua, hướng minh nhi trị, hướng về chốn ánh sáng mà trị dân, nơi thiên hạ quy triều. Nhà kham dư phong thủy mượn cái tên ấy để nói đến sự “Sơn tụ thủy quy” mà gọi cái vũng nước ở trước huyệt đấy thôi.

– Như câu chuyện về sự phát đạt của Đặng Thị, tướng công có nhìn thấy Đặng Tiểu Bình còn sống lâu, còn nhiều thời giờ dẫn dắt quý quốc đi đến chỗ phồn vinh không.

Tướng Mông Điềm vuốt râu mỉm cười, không trả lời, đợi một lúc sau ông ta hỏi tôi.

– Các hạ có biết hồi tháng tư năm 1975, về phía Việt-nam của các hạ, có những vì sao đỏ ở phương ấy. Ai cũng tin chắc, sau ngày quân cộng sản vào Nam rồi là ngưng chiến, là hòa bình, là hết đổ máu, là quốc thái dân an. Chỉ tiếc rằng sau đó mới thấy rõ là quốc chẳng thái, mà dân cũng chẳng an. Trái lại, sự đổ máu còn nhiều hơn dưới một hình thức khác, người dân đã đau khổ hơn cả lúc còn bom đạn, còn chiến tranh… Như thế là cớ làm sao?

– Tướng công muốn nói …

– Bỉ nhân chẳng muốn nói gì cả, Trung Hoa cũng như tất cả các quốc gia khác trên thế giới đều cần được sự thanh bình dài lâu, sự ấm no thực thụ và sự tự do tối thiểu trong tư tưởng cũng như trong cuộc sống hằng ngày. Có như thế mới hòng cất đầu lên được. Nhưng đó là những điều “Khả cầu nan khả đắc” tức là có thể cầu nhưng khó được, mặc dầu mới nghe qua thì cũng dễ. Cuộc sống thanh bình của thời Nghiêu Thuấn không bao giờ trở lại nữa, không phải chỉ ở bản địa mà là ở trên toàn thế giới.

– Vì sao? Hình như tướng công hơi bi quan chăng?

– Các hạ lầm, ngày nay cơ khí tiến bộ, khoa học cũng tiến bộ, nhưng cái gì tốt vẫn đến chậm hơn những cái xấu đến quá nhanh. Các hạ có thấy trồng lên được một gốc cây mất bao nhiêu thời gian mà đốn nó đi thì mất bao nhiêu thời gian không. Con người cũng vậy từ lúc nằm trong huyết khí của cha mẹ, đến lúc khôn lớn cần có bao nhiêu năm tháng, bao nhiêu sự săn sóc dạy dỗ mà chỉ cần một phát đạn, một lát đao là gục ngã. Tắt thở và bao nhiêu công sức vun xới, nuôi dưỡng đều tiêu tan.

Tôi đưa cả hai tay lên trời tỏ sự phản kháng.

– Thôi thôi, xin tướng công, tại hạ đã mệt mỏi lắm rồi. Sang đây để tìm một làn gió, tìm sự lãng quên, mà tướng công còn không tha. Tại hạ muốn hỏi, muốn nói đến cái tương lai của quý quốc, rồi có còn bị những cơn đại nạn nữa không, mà tướng công vượt ra khỏi đề xa quá, tại hạ theo không kip.

– Các hạ thật là “Oa tại tỉnh trung” tức là ếch ngồi đáy giếng, biết một mà cam phận biết một của mình, không muốn biết mười. Các hạ chịu khó để yên, tôi sẽ phân tích ra cho mà nghe…

Mặc đầu ông tướng đã năn nỉ mà tôi vẫn cứ lì, vẫn giữ ý nghĩ thay đổi vấn đề chứ để cho ông tướng nầy mà nói triết lý, chắc đến chiều vẫn chưa xong chuyện, tôi phải tìm cách khác để đặt câu hỏi.

– Ngày ấy tướng công làm đến chức tướng vậy thì chắc tổ phụ cũng phải có ngôi mộ đắc cách lắm.

Tướng Mông Điềm cau vừng trán, mím môi một lúc mới trả lời.

– Ngôi mộ của tổ phụ được một cách rất đặc biệt là:“Án kiếm quý nhân cách”, thuộc về thượng cách long nên bỉ nhân mới làm đến chức vụ ấy. Ở dưới chân núi có một ngọn đồi nhỏ, dài, nằm xéo, nó lại nằm cách nghịch thủy nên khá tốt, chỉ tiếc rằng phía mũi kiếm, tức là phía đầu ngọn đồi lại hơi chĩa vào huyệt nên con cháu về sau không nối nghiệp được, hay nói đúng hơn là không theo kịp ông cha. Cách này nếu hoàn hảo là Phát Tướng quân uy chấn tứ di.

Nghe giọng nói hơi buồn, chắc ông ta đang tiếc cho cái thế sa không hoàn toàn hợp cách, để cho con cháu được tiếp nối. Muốn nói lên một lời an ủi nhưng nói gì cũng bằng thừa, tốt nhất là thay đổi vấn đề một lần nữa.

– Người ta bảo rằng tướng công đã chế ra cây bút, xin nói cho tại hạ được nghe để mở rộng thêm tầm kiến thức khả dĩ bất khả di?

Lần nầy thì ông tướng mở miệng cười thật sự, sau khi nghe cái lối ăn nói vá víu của tôi, nhưng ông cũng rầy tôi một câu thân mật.

– Lại khách khí, chúng ta quen nhau đã hơn một ngày một đêm rồi, sao các hạ còn dùng những lời khách khí nếu  không là thừa thãi. Các hạ thường bảo tránh xa những người nói khéo, và như Khổng Tử cũng bảo “Xảo ngôn lệnh sắc” thì ít có lòng nhân, xin các hạ bớt những lời đãi đưa ấy đi, có thế tình bạn mới mong giữ được dài lâu. Với người đời cũng nên như thế mà cư xử. Tốt nhất là nên tránh xa những người nói quá khéo.

Đợi tướng Mông Điềm dứt lời, tôi mới giải thích, cái nhà ông tướng nầy quả thực có chất nghệ sĩ chân chính, bén nhậy trong vấn đề giao thiệp.

– Xin được nghe nói về cây bút, mao bút.

– Thế có phải dễ nghe mà rõ ràng không? cần chi phải rườm rà, khách sáo, “để mở rộng thêm tầm kiến thức”. Cây bút nó có cả một quá trình lịch sử, không phải một sớm một chiều mà nó ra cái vóc dáng ngày nay. Độ ấy bỉ nhân thấy dùng bút gỗ, hay bút trúc đều cứng, khó viết, nhân một hôm đang ngồi chơi ngoài sân thấy có người dẫn dê đi qua, hỏi đi đâu? bảo ràng đi làm thịt. Bỉ nhân cảm thấy tội nghiệp cho con vật, ra đời chỉ để nuôi người hay nuôi hổ, nuôi beo. Lúc chết cũng chẳng để lại gì cho đời, nhân đang bực mình với cây bút, bỉ nhân bèn nẩy ra cái ý định hay là ta cứ làm thử, đã chết chóc ai. Hơn nữa, con vật nếu nó biết chắc nó cũng hài lòng, ít nhất cũng lưu lại được một chút gì cho nhân gian. Không ngờ thế mà lại đúng như ý mình muốn.

Nghe nói đến đây tôi không thể dấu được một nụ cười, ai ngờ mà con người nầy bên ngoài coi có vẻ hùng dũng uy chấn Hung Nô, bên trong lại ẩn dấu một tâm hồn khá lãng mạn, nhưng không dám lên tiếng, sợ cắt mất nguồn hứng đang thao thao của ngài. Ông tướng nói tiếp không thèm để ý đến những suy nghĩ riêng tư của tôi.

– Bỉ nhân bèn bảo quân hầu mang đến cho mình một số lông đê, rồi ngay hôm ấy, nghĩ ra cách chế biến, tức là lấy cán trúc, mang nhét một túm lông dê vào, dính chút hồ, vậy mà nào ngờ dùng nó lại có vẻ thông sướng dễ dàng, rồi ngày một, ngày hai, mỗi ngày lại có thêm một chút biến hóa. Người đời sau cứ thế mà tiếp tục thêm bớt. Thí dụ như đến đời Tấn có ông Quý Di, lấy lông con lang để thay lông dê, thật ra thì lông con gì cũng làm bút được, mà ngay cả lông dê cũng được chia ra 6 thứ, trước hết là:

1.Bạch Tiêm Phong, thượng hạng, phải lấy lông chỗ nách, gần ngực con dê, chọn lông sợi to bao quanh, sợi nhỏ gom vào giữa.

2.Cước Trảo Mao là hạng thứ hai, phải lấy lông ở chỗ móng chân con dê, mà là lông ở phía sau, chứ không phải những túm lông đằng trước móng chân đê, chọn cho được những sợi lông nhỏ mà dài nhất, thì mới có được những cây bút tốt.

3.Phó Trảo Mao, loại nầy được xếp vào hạng ba, cũng phải nhổ lấy lông ở móng chân con dê, nhưng đây là thứ lông ở đằng trước, tuy cũng phải chọn thứ lông mịn và dài mới làm bút được,

4.Phúc Mao, hạng thứ tư. Lấy lông ở bụng, tuy là hạng tư nhưng cũng viết được, vẽ được.

5.Dương Tu là râu dê, nhổ hết hai hàm trên và dưới, quanh mõm con dê rồi cắt xén làm bút, thứ nầy xấu, viết không sướng tay.

6.Nhưng còn một thứ tệ hơn nữa là Bối Mao, loại nầy vặt lông trên lưng đê, vừa thô lại vừa cứng, nhưng giá tiền rất rẻ, với những người như chúng ta thì mang đến cho cũng còn giận chứ đừng nói đến sự bỏ tiền ra mua. Tuy vậy với các anh học trò khó thì cũng đành phải dùng tạm, có còn hơn không.

Nghe nói đến sáu loại bút trong một lúc, tôi thích chí nhưng cũng bị cái tính hay nghịch, thấy tôi hơi mỉm cười tướng Mông Điềm hỏi ngay.

– Các hạ cười cái gì vậy.

– Nghe tướng công bảo cho cũng giận, ở nhà tại hạ còn có câu, cho cũng gọi lính đến bắt.

Ông tướng cười ha hả, hẳn ông vui vì học thêm được một câu nói xấc hợp thời đại, bây giờ đến phiên tôi hỏi lại.

– Sao tướng công lại cười?

– Cười vì thấy một dân tộc mang nhiều tang tóc như quý vị, mà lúc nào cũng vẫn có thể nói đùa. Nhưng các hạ chắc cũng biết là đời có ba, bảy loại đùa chứ nhỉ, ba bảy lối chọc cười, phải làm sao cười mà không rơi vào sự thô tục mới đáng gọi là hay.

Tôi đồng ý, nhớ đến một đêm được mời đi xem hát tại Saigon, lúc vai hề ra, nghe mọi người cười gần vỡ rạp mà sao tôi vẫn ngồi yên, chẳng thấy có gì đáng cười. Ngay cả loại cười của người Hoa Kỳ, vứt chiếc bánh kem vào mặt nhau, cũng không làm tôi cười được. Cả những câu chuyện hơi thô, người ta cho là tiếu lâm cũng chỉ có thể làm cho tôi cau mặt chứ không thể cười. Hình như trong cuộc đời làm cho người cười được đúng mức còn khó hơn làm khóc. Đa số các bà hay tìm những phim tuồng, những trang tiểu thuyết lâm li để khóc, tôi cho là dại, nếu họ khôn thì chỉ nên đi tìm những phim nào, chuyện nào làm cho họ cười thì sẽ tăng thêm nguồn sinh lực. Tôi bỗng cảm thấy, thì ra mình cũng còn khôn, nghe cái gì buồn là trốn nằm nhà.

Mang những ý nghĩ của mình ra nói với tướng Mông Điềm, ông ta nhìn tôi một lúc rồi nói.

– Để bỉ nhân kể thử một câu chuyên xem các hạ có cười được không nhé.

– Xin tướng công cứ kể, có gì thì tôi sẽ mang về làm quà cho anh em, mà nếu có cười không nổi thì… cũng chẳng sao.

– Câu chuyện xẩy ra trên Nga quốc, một hôm các cán bộ Nga Sô được mời sang Hoa Kỳ, mỗi đêm sau khi ăn uống tiệc bàn, lại còn được mời đi xem ‘”show” thoát y vũ. Ban ngày thì đi viếng các hãng xưởng nhà máy… Từ Nasa đến Cape Canaveral, phim trường Hollywood đến Disneyland, các nhà chế tạo xe hơi, máy bay tàu thủy, súng đạn…

Cán bộ Nga Sô về xứ, họp nhau lại, và dầu có ghét đến mấy cũng phải công nhận rằng nền kinh tế của Hoa Kỳ quá phát đạt, mức sống của người dân quá cao. Các cán bộ đã vô cùng thắc mắc, ngày đêm bàn cãi, sau cùng tất cả đều “nhất trí” một sự. Có phải vì các cán bộ cũng như các kinh tế gia, kỹ nghệ gia đã nhờ vào sự mỗi đêm đi xem “show” thoát y nên mới được hăng say như vậy chăng, và nhờ ở sự hăng say ấy, nên công tác phát triển, sáng kiến hùng mạnh đó chăng?

Các đồng chí Y khoa, Tâm lý khoa cũng tỏ vẻ đồng ý chấp nhận sự kiện nầy, cho rằng nhờ thế mà những chất “Hà Nhĩ Mông” (hormone) được tiết ra làm cho con người trở thành quân bình hơn, trong số có những chất “Hà Nhĩ Mông” làm tăng trưởng sức phát kiến, sáng tạo. Tinh thần sảng khoái thì năng xuất của công tác sẽ phải gia tăng tự nhiên. Tuy đêm nào cũng thức mà không thấy mệt, mà nếu có mệt thì chỉ cần nốc một vài chai coca, trong ấy có chất làm tỉnh táo ngay, hoặc là một cốc cà phê chua vì có trộn nhiều sinh tố C… Chỉ có thế mà năng xuất vượt bực.

Vậy thì tại sao chúng ta lại không nghiên cứu để bắt chước, để làm tăng năng xuất của chúng ta? Vấn đề được đưa ra thảo luận nhiều lần, nghiên cứu kỹ lưỡng. Sau đó là một phiên họp bất thường gồm có nhiều phân khoa trưởng tham dự nào Y khoa, Dược khoa, Phân-tâm khoa v..v.. và cố nhiên là tất cả các đảng viên cao cấp của Trung Ương.Trước hết là đảng viên phải được học tập kỹ càng rồi sẽ đưa xuống các cấp dưới. Nhưng học tập là học tập thế nào. Bàn cãi mãi, sau cùng có một nữ đồng chí đã được xem phim và nghiên cứu. Bà đã xung phong, vì tinh thần đảng, vì tương lai của cả nền xã hội chủ nghĩa, vì uy tín của Liên Xô, vì tương lai nền kinh tế quốc gia, vì chủ nghĩa Mác Lê và Liên Xô vĩ đại, bắt đầu ngay đêm nay, mỗi đêm từ 10 giờ đến 12 giờ sẽ có màn thoát y do nữ đồng chí Nina Petrovna trình diễn.

Hoan hô tinh thần xung phong của nữ cán bộ gương mẫu đã vì nước, vì đảng mà sẵn sàng xung phong, mở màn thoát y cho các đảng viên cao cấp. Rồi đây chắc chắn là Liên Xô sẽ không còn thua kém Hoa Kỳ, sẽ phát triển đủ mọi mặt…

Sau chưa tới một tháng thì các đảng viên, ông nào cũng mệt đừ, lắm ông còn phát bệnh vì cứ phải thức đêm ngồi xem nữ đồng chí Nina Petrovna thoát y, với mục đích làm cho các đảng viên lên tinh thần để ngày mai còn phục vụ cho xã hội chủ nghĩa, để Liên Xô sẽ không còn thua kém Hoa Kỳ trong tương lai… Thế mà tại sao năng xuất không những không lên mà lại càng sút kém. Một đồng chí đã thốt lên lời phê bình: “không thể nào tin tụi tư bản được, chúng nó mà phát triển được như ngày hôm nay chắc phải còn những yếu tố gì bí mật mà ngay KGB của chúng ta cũng chưa biết, chứ không phải chỉ có mỗi một sự để cho cán bộ đi xem thoát y như chúng ta thế nầy mà thôi đâu… vả lại xem thoát y như thế nầy… thật chẳng ra gì…”

Mọi người đều đồng ý, hoan hô và cảm tạ lòng hy sinh cao cả, gương mẫu của nữ đồng chí Nina Petrovna, con người tuy đã trên 50 tuổi đảng, mà vẫn một lòng vì đảng, vì nền xã hội chủ nghĩa,  thật đáng được tuyên dương công trạng và trao huy chương Lê-Ninh.

Tôi cười vang sau một hồi cố giữ yên lặng, hẳn tiếng cười của tôi làm cho mấy du khách quay đầu nhìn lại, không hiểu lý do. Tướng Mông Điềm không cười, chỉ đưa mắt nhìn lên lũ người ở phía dốc cao, rồi lại cúi nhìn xuống bên dưới. Người đâu mà lắm thế, nhưng liệu có ai vui bằng tôi trong giờ phút này.

– Các hạ hiểu chứ?

Tôi hơi nhăn mặt, chẳng lẽ ông ta nghĩ rằng tôi không hiểu sao, cái nhà ông tướng nầy cũng hơi khinh người, tôi hỏi.

– Có phải tại nữ đảng viên Nina Petrovna gia nhập đảng vào năm bà lên 20 tuổi chăng?

– Không, năm bà lên 25 tuổi mới gia nhập đảng, cho nên mặc dầu tinh thần cao, nhưng với bốn chục tuổi đảng thì… năng xuất của cán bộ khán giả nhất định phải sút kém.

Tôi còn muốn nghe nói thêm về cây bút, vì từ nãy đến giờ chúng tôi đã vượt ra ngoài đề tài quá xa. Lạ thật cả ông tướng lẫn tôi đều hay bỏ đề tài để nói chuyện gì đâu đâu. Cũng may, đây chỉ là một cuộc gặp gỡ giữa hai người bạn vong niên, không có sứ mệnh, trọng trách, tôi lại đặt câu hỏi, đưa câu chuyện trở về với cây bút

– Xin tướng công nói thêm về cây bút nữa đi, thì giờ ít mà sao chúng ta cứ nói ra ngoài đề.

– Các hạ thật dễ ghé, bộ câu chuyện của bỉ nhân không hay à? Sao mà không cười. Lúc nào cũng hồng hộc chạy theo thời gian, đúng là dân sống ở xứ Hoa Kỳ, người xứ cộng sản không hề đếm xỉa tới thời gian. Thảo nào trên những quốc gia giàu sang thường phát ra những bệnh trạng, suốt ngày ngồi trên xe, ăn đồ hộp…

Tôi đành im lặng, mỉm cười nhận khuyết điểm, nhưng vẫn phải giữ cái ý muốn bắt ông tướng nói thêm về cây bút.

– Nghe bảo có loại sói, lông nó dùng làm bút tốt lắm, phải không? Thưa tướng công.

– Thứ đó gọi là Lang Hào, phải dùng đuôi con lang, rồi phân sợi dài, sợi ngắn, sợi thô, sơi thanh mà làm các loại bút. Nhưng phải chờ đến mùa đông mà phải bắt cho được lũ sói cái, lấy đuôi nó làm bút mới tốt.

– Hay nhỉ, lần đầu tiên mới nghe nói đến sự ích lợi của giống cái, ngoài sự sinh đẻ sao thấy tuồng như giống cái chẳng làm được việc gi hay ho, ích lợi cho đời.

Tướng Mông Điểm cau mặt gạt ngang.

– Các hạ lại vọng ngôn rồi. Sự sinh nở làm tiếp nối giống nòi là một đại sự, một sứ mệnh vô cùng thiêng liêng, sao các hạ lại nói thế.

Tôi cúi đầu im lặng, ông tướng làm gợi nhớ đến ông thầy cũ của tôi, Đặng tiên sinh, người thầy cũ. May quá ngài tiếp tục sự giảng giải:

– Thứ ba là Thố Hào, loại bút làm bằng lông thỏ, vặt lông trên lưng chế thành bút cũng khá. Nhưng cũng phải đợi mùa thu và mùa đông, tìm thứ thỏ dại ở trên núi, thỏ nuôi nhà không dùng được. Bút này cũng được chia làm mấy hạng. Thứ nhất là loại bút với lông trên lưng, toàn mầu đen gọi là Tiêm Khẩu. Thứ hai là Lục Hoa, cũng vặt lông ở lưng mà là lông màu vàng, và lông ba màu. Thứ ba, loại bút lông nhiều màu vàng, ít màu đen gọi là Tam Hoa. Ngoài ra, các giống vật như giống ngựa hoang trên núi, chồn, đều có thể vặt lông làm bút nhưng không được tốt bằng các giống thú mà chúng ta vừa kể.

– Trong các thứ tốt, thứ nào tốt nhất?

– Tùy theo dùng để làm gì, vẽ hay viết?

– Người ta bảo ông Vương Hy Chi đã thử lấy râu chuột làm bút, có phải không?

Ông tướng có dáng suy nghĩ rồi như nói một mình, không cần tôi nghe.

– Ừ, Vương Hữu Quân, Thư Thánh… Lan Đình Ký viết trong lúc đang lên một cơn vũ bão tinh thần, sau đó thử lại mấy lần mà không thể nào viết được như thế nữa.

– Tôi có xem mấy phức bản đập vào đá ra, không biết có thật là nguyên tác? Như tướng công có nói, loài người khôn ngoan quá, tìm đủ cách để tráo trở, lấy chân thay ngụy, ngụy làm chân.

Ông tướng lắc đầu cũng có vẻ ngờ vực, tôi chợt có ý định sẽ đưa vấn đề hội họa ra, chắc có nhiều người sẽ thích thú lắm, nhất là Nam họa, để đấy, mà sao còn nhiều vấn đề quá thế nầy, nhưng tướng Mông Điềm đã tiếp nối câu chuyện bỏ dở vì bị tôi ngắt lời.

– Đáng tiếc là ngày nay loài người cần phải đốt thời gian, ít mấy ai chịu bỏ thì giờ để ngồi tập viết. Chương trình học cũng thay đổi, máy móc đã thay con người làm tất cả mọi việc…

Giọng ông tướng có vẻ bâng khuâng tiếc nuối, tôi thấy cần phải giải toả. Đến đây mới thấy sự khác biệt của người cõi âm mà lại là một nhân vật từ gần hai nghìn năm trước. Nhìn lại con người của chính mình, hồng hộc theo đuổi… sao mà quá u mê… Trời sắp ngả bóng, một vài giờ nữa tôi sẽ phải từ giã ông bạn vong “thiên niên” nầy để trở về với gian phòng trọ lạnh lẽo. Cũng như trong vài tuần lễ nữa, hết hạn đi chơi lại phải bay trở về với công việc, với các cô tranh sinh, với cái Ngõ Trúc thân yêu, từ một cành trúc bé nhỏ của các sư Tiểu Thừa ở Chùa Pháp Vân cắt cho, đặt trên bàn viết, chỉ trong bảy năm sau tôi đã gầy dựng thành mấy chục vị quân tử. Người ta bảo cây cỏ cũng biết yêu thương, hờn giận, nếu giờ phút nào mình đi xa mà nhớ đến nó là nó biết. Các khoa học gia đã chứng minh như thế.

– Sáng nay có mấy người đến hỏi có muốn đi xem các đền đài, cung điện Thiên An Môn… ngày giờ chật hẹp quá, làm sao đây?

– Chắc chắn là phải đi, nghìn năm một thuở, các hạ đâu có thể sang đây chỉ để mà gặp riêng một mình bỉ nhân, như thế thì quá đặc biệt, quá hân hạnh cho bỉ nhân….

– Sao lại không? Tướng công chưa biết tại hạ sao?

– Biết chứ, tôi còn biết cả cái tuần lễ mà các hạ sống ở Brasilia, lúc đi làm công việc… Chạy chọt cái hội nhà văn…gì đó. Hơi ngu đấy ai bảo mà đưa lưng ra, rán chịu.

– Sao tướng công hay quá vậy, tại vì thuở ấy khối cộng sản còn đang vững, các vị trí thức thiên tả cũng hơi nhiều. Người ta đã nói hẳn vào mặt tôi rằng hội Văn Bút quốc tế đã có nhiều hội viên lưu vong lắm rồi, họ không muốn nhận thêm một Việt Nam lưu vong nữa, hãy gia nhập vào khối Lưu Vong quốc tế là đủ.

– Thế tại sao không cứ vậy mà làm, có phải thông minh hơn không.

Tôi cúi đầu suy nghĩ, chắc chắn là ông tướng nói đúng, nhưng thuở ấy vì nghe những tin tù đày ở quê nhà, tôi quá uất ức nên cố vùng vẫy cho được. Sự khổ nhục thật vô cùng, khi mình chỉ có một thân sau lưng chỉ được vài người bạn ngoại quốc của gia đinh, các cô con gái. Nghĩ đến đây tôi thấy chắc hẳn có ngày cũng nên minh xác lại, hay là thôi, chỉ phải nhắc vài ba tên những người mà có lẽ ngày nay đã chết đó là Boris Glovacki, chúng tôi đặt tên là ông già cá, vì lúc vào hiệu ông ta thường gọi món cá; ông Serge Wourgaft tổng thư ký hội cựu chiến binh Âu châu, và nhất là Michel Voirol, nhà báo rất trung trực, láng giềng của chúng tôi và một người Hoa Kỳ là ông Robert Mueller… Ồ nói thế cũng chưa đúng, còn một số người nữa như bà chủ tịch lưu vong Hoa Kỳ mà chúng tôi thường chỉ gọi tên Clara suông thôi. Tôi không quên được đêm họp cuối cùng, trong buổi dạ vũ, Clara thấy tôi quá mệt mà ngày mai còn phải chịu trận nặng nhất, vì là ngày bầu cử, Việt Nam lưu vong chúng tôi có được đắc cử vào làm hội viên chính thức hay không, nếu không được thì quả là một sự bẽ bàng nhục nhã cho tất cả khối lưu vong. Clara thấy tôi đừ quá, bà ấy đến ôm tôi nói khẽ vào tai:”Đi lên phòng ngủ trước đi để chuẩn bị cho ngày mai, tôi sẽ ở lại nhảy với một số người và sẽ vận động giúp cho”. Thật cảm động và tôi vẫn nhớ, vẫn mang ơn. Cũng như bà chủ tịch Hàn quốc, mấy hôm đầu đã buồn rầu đến nói khẽ với tôi  rằng: “Chúng tôi không thể bỏ phiếu cho you được vì hiện nay còn nhiều nhân viên ở tòa Đại Sứ Đại Hàn kẹt lại Việt Nam. Chúng tôi sợ họ bị khó dễ”. Nhưng rồi sáng ngày trước hôm bầu cử bà ấy đến ôm tôi nói khẽ vào tai: “Chúng tôi đã họp nhau, bàn cãi suốt mấy hôm may và quyết định là ngày mai sẽ bỏ phiếu cho you“. Nói xong bà ta đẩy vội tôi ra xa và đi tránh chỗ khác ngay, chỉ sợ mọi người trông thấy. Tôi nói lời cảm ơn nhưng trong lòng chỉ muốn khóc vì tủi nhục, không biết nợ nần gì mà phải vất vả, nhục nhã như người hủi, người lao, ai cũng sợ hãi, tránh xa… còn nữa, còn một số bạn bè mà chắc sau nầy tôi sẽ phải làm gì để tạ ơn.

– Các hạ bỏ bỉ nhân đi trở về với quá khứ hơi lâu đấy nhé.

Tôi giật mình, chợt nhớ, thì ra từ nãy đến giờ mãi u uất với quá khứ, với những kỷ niệm, với những người bạn bè xa gần, tôi quên mất hiện tại. Cũng lạ, có những ý tưởng rằng mọi sự đều dễ: “P.E.N quốc tế đã dành mọi dễ dàng mà giúp đỡ Minh Đức Hoài Trinh vì họ muốn chuộc lại cái lỗi lầm, và an ủi người cầm bút Việt Nam ở hải ngoại.” Sự thực, nhưng thôi cần gì phải nói. Những người chết trên biển cả, chết trong ngục tù biết là được rồi. Vì quả thật là những ngày giờ ấy, tôi đã khấn thầm với họ: “Các anh chết oan ức, xin hãy về tiếp tay với tôi” Ngày giờ nầy tôi vẫn nghĩ nếu không có những sự cứu giúp vô hình ấy thì chắc còn lâu mới có những gì để cho một số người có thể nghĩ rằng đấy là vì “…muốn chuộc những lỗi lầm và an ủi người cầm bút ở hải ngoại”.

– Các hạ hơi trẻ con, nhớ gì những lời nói của những kẻ… ấy. Cứ xem như là….

– Tướng công nói đúng, âu cũng là cái vận nước…

– Các hạ vẫn buồn, tại sao lại còn buồn nếu đã bảo là cái vận nước.

– Tướng công có lý, thôi ta đổi vấn đề, tướng công có thích hội họa không?

– Người biết viết, thích chơi các loại Tự như Đại Tự, Thảo Tự… đều có am hiểu ít nhiều về hội họa.

– Trong các họa gia, tướng công chuộng ai nhất?

– Bỉ nhân thích cũng nhiều tên, nhưng ưa nhất có lẽ là Thạch Đào, biệt danh Khổ Qua Hòa Thượng.

– Thạch Đào chỉ là mới sau nầy thôi, tại hạ tưởng rằng tướng công phải chuộng những Cố Khải Chi, Lý Tư Huấn, Vũ Đạo Tư, Nghê Tã, Vương Duy..

– Thì mỗi người có một lối, chẳng ai muốn bắt chước ai, nhưng ngoài nghệ thuật ra còn phải kể cả cái tính chất đặc thù của nghệ sĩ. Trong số có Trầm Thạch Điền, đời nhà Minh, có tác phong rất đặc biệt, các hạ muốn nghe không, tôi kể cho mà nghe.

– Xin tướng công cứ kể, cái gì mà tại hạ chẳng muốn nghe, tướng công cũng biết tại hạ làm nghề cầm bút…

Nghe nói đến hai chữ cầm bút, tướng Mông Điềm bỗng phá lên cười ha hả làm tôi trố mắt ngạc nhiên, không hiểu lý do.

– Các hạ làm tôi không thể nhịn cười được khi nghe các hạ bảo làm nghề cầm bút, tức là có những lúc kẹt tiền các hạ phải mang cây bút Mont Blanc đi cầm chứ gì. Nhà văn, cửa nhà có mỗi một cây bút mà phải mang đi cầm thì đáng thương thật, tội nghiệp cho các hạ sinh vào làm dân một nước mà…

– Ô hay sao tướng công biết câu chuyện bí mật nầy, chỉ vì tại hạ có chú em cũng thích chơi bút, hôm ấy kẹt tiền, tại hạ mang cái bút đi bán cho chú em. Sau khi mua xong chú ấy chỉ viết có hai dòng rồi đưa tặng lại cho tại hạ, bảo: “xem như chị cầm nó chứ không phải bán”.

– Để rồi vài tháng sau lại kẹt tiền lại mang đi cầm nữa chứ gì.

Tôi chỉ cười không trả lời, ai lại đi vạch áo cho người xem lưng bao giờ, chỉ cái nhà ông tướng cõi âm nầy mới có thể biết được chứ người đời làm sao biết nổi những bí ẩn riêng tư nầy.

– Các hạ có chú em như thế là may mắn lắm đấy nhé, gặp bỉ nhân à, bắt túng thiếu một lần, cho mà biết. Chừa cái tội mê sách.

Tôi bĩu môi lắc đầu, biết lâu rồi đã dám tự xưng rằng thiên hạ đệ nhất không giàu, chứ nói nghèo thì hơi vô lý, chỉ tại cái tôi mê sách.

– Thôi tướng công ơi, xin xếp chuyện đời tư của tại hạ lại, xin kể chuyện anh chàng họa sĩ họ Trầm ấy đi, tại hạ cũng có người bạn gái họ Trầm, tên nàng là Xuân Hương…. người thật dễ thương, nhiều đức tính.

Tướng Mông Điềm vuốt râu có vẻ suy nghĩ rồi nhắc khẽ.

– Trầm Xuân Hương, cái tên khá hay, chắc người cũng phải đẹp như tên, anh chàng hoạ sĩ của tôi là Trầm Thạch Điền, nói đến cái lòng tốt của anh ta thì suốt ngày cũng không hết. Chẳng hạn một hôm nhà hàng xóm để thất lạc đâu một món đồ đạc gì trong nhà. Nhìn thấy bên nhà ông hoạ sĩ cũng có món đồ giống hệt, ngỡ rằng ông ta đã ăn cắp của nhà mình, cho người sang đòi, Trầm họa sĩ thấy họ đòi thì cũng đưa, chẳng nói năng gì, chỉ mấy hôm sau nhà láng giềng tìm ra được món đồ, xấu hổ quá lại mang sang trả và xin lỗi, nhà họa sĩ chỉ mỉm cười nhận lại, không nói thêm một lời gì, các hạ thấy con người như thế có tốt không?

Tôi gật đầu nghĩ đến Trầm Xuân Hương, chắc phải có họ hàng gì với nhà họa sĩ nầy. Thấy tôi im lặng, tướng Mông điềm nói tiếp.

– Các hạ đang nghĩ đến Trầm Xuân Hương đấy à? Ông chồng cũng dễ thương nhỉ, hiếm có những đôi vợ chồng như thế ở thời nay. Đúng vậy không.

Tôi gật đầu mỉm cười, nghĩ đến cái phòng mạch của ông chồng, lúc nào cũng đông mà “chùa” rất nhiều. Chính tôi cũng hay đến “chùa” một vài khi, nhưng lắm khi cũng không dám. Người ta càng tốt mình càng ngại chẳng biết kiếp sau làm sao mà trả.

– Lại còn một câu chuyện nữa cũng độc đáo không kém, kể nốt cho các hạ nghe để ngày về có “cầm bút”.

Tôi cười, biết ông tướng nhắc chuyện mình đã mang bút đi cầm, tôi nói.

– Xin được nghe nốt.

– Ông ta còn lấy một biệt hiệu nữa là Trúc Cư Chủ Nhân, vì nhà ông ta ở cạnh khu rừng trúc, rất thích nghe tiếng gió thổi làm giao động những cành trúc và thường chờ khi trời đổ mưa nhẹ để đi dạo dưới rừng trúc. Mỗi lần xuân đến, ông thường ngồi suốt nửa ngày nhìn măng mọc. Hẳn các hạ biết chỉ cây trúc mới cho người nhìn thấy được sự lớn dần của mình. Chẳng còn có cây nào mà các hạ nhìn thấy được nó lớn ngay trước mắt như thế. Đây cũng là một đặc điểm, lý do vì sao mới được người đời phong làm Đệ nhất quân tử trên cả các thứ Mai Lan và Cúc chứ.

– Thích nhỉ, tại hạ cũng có thể tạo một khu rừng trúc, chỉ trong vòng nửa giờ, gọi là tiểu Trúc Lâm. Để cũng có thể ngồi nghe gió thổi, hoặc là tĩnh tọa thính vũ thanh như cái nhà ông họa sĩ của tướng công vậy, một vấn đề là nó hơi nặng nề, giá có đôi cánh tay của một chàng lực sĩ thì dễ dàng cho công việc xê dịch, biến thành Trúc Lâm được nhanh chóng hơn.

– Các hạ hơi tham lam đấy.

– Xin nói nốt về ông tướng họ Trầm ấy đi, tại hạ còn phải nghe mà thời gian càng ngày càng co rút.

– Ông ta là nhà họa sĩ nổi danh nhất thời. Sáng nào nhà chưa mở cửa mà dưới bến sông Tô Châu đã chật cả thuyền của khách đến mua tranh. Do đó nên có một số họa sĩ cỡ hạng ba, hạng tư đã bắt chước giả lối vẽ tranh của ông để bán lừa khách, kiếm tiền. Trong số ấy có một người đã hoàn toàn sinh sống bằng nghề giả mạo nầy. Một hôm bà mẹ ông ta ốm nặng cần có tiền, một số tiền khá lớn mà chẳng biết làm sao, ông ta bèn vẽ lên một bức tranh, bắt chước hoàn toàn lối vẽ của Thạch Điền, rồi sai con mang đến nhờ Thạch Điền ký và đóng triện vào, kể lể nỗi niềm. Thạch Điền vui vẻ viết thêm mấy câu thơ vịnh cảnh, ký tên và đóng dấu. Nhờ đó mà tranh bán được ngay một số tiền đủ thuốc men cho mẹ và bà mẹ thoát bệnh. Các hạ có thấy đó mới đáng tôn làm bậc chính nhân quân tử không?

– Nhà Phật chúng tôi gọi đó là tâm Bồ Tát, nhưng tại sao ban nãy tướng công bảo thích Thạch Đào, Khổ Qua Hoà Thượng.

– À đấy là thích cái kiến thức của ông ta, thích cái tác phẩm Họa Phổ của ông ta, không phải chỉ nói đến hội họa mà còn nói đến triết lý, về cái quan niệm nhân sinh, vũ trụ, các hạ nên về nhà tìm mà đọc.

Tôi đồng ý, nghĩ đến hành trang sách vở ngày về chắc sẽ nặng nề lắm, tôi hỏi tiếp.

– Tại sao lại chọn cái biệt danh là Khổ Qua hòa Thượng?

<– Tôi nghĩ rằng chúng ta nên lấy lời giải thích của Khuất Đại Quân, một nhà bác học sống vào thời đại ấy, ông ta giải thích rằng:“Khổ Qua, nhất danh quân tử, kỳ vị thậm khổ, nhiên tạp tha vật trữ chi, tha vật phất khổ, tự khổ nhi bất dĩ khổ nhân, hữu quân tử chi đức yên”.

– Xin tướng công giảng rõ đi, tại hạ sợ không đủ sức dịch ra cho sát nghĩa chăng.

Ông tướng thấy tôi cũng biết chịu thua nên vui lòng dịch ngay. Đời phải có lúc thua lúc thắng chứ cứ đòi thắng hoài, chắc rồi ai cũng bỏ chạy. Tướng Mông Điềm tằng hắng giọng đọc lên.

– Khổ qua còn tên là quân tử, vị nó rất đắng, nhưng nếu mang nấu lẫn với các món khác thì những món ấy lại không bị đắng. Chỉ để mình nó chịu đắng khổ mà không cho các vị khác phải khổ theo, đó là cái đức của bậc quân tử vậy.

Tôi cau mặt suy nghĩ hình dung ra quả mướp đắng, nói chuyện với cái nhà ông tướng nầy thật là có thể học thêm từng giờ, từng phút. Xứ ta có bao giờ ai ăn khổ qua mà biết suy luận những điều nầy nhỉ.

– Khổ qua là mướp đắng.

– Ừ, gọi là dưa hay là mướp cũng vậy, quý quốc gọi là mướp, bản quốc thì cứ gọi hết cả các thứ ấy là dưa cho nó tiện.

– Tướng công nghĩ gì về ngành hội họa ngày nay?

Ông tướng mỉm cười hỏi tôi có biết chuyện: “Bộ áo mới của nhà vua  không?

– Có phải chuyện của Andersen, nhà văn Đan Mạch ở thế kỷ trước chứ gì.

– Đúng đấy, người ta hay nói với câu “Ông vua ở trần” để nhắc lại câu chuyện chứ chẳng ai nói rõ tên chuyện.

– Tướng công trả lời tại hạ như vậy là sao?

– Các hạ hỏi kỹ quá, sao bắt bĩ nhân cứ phải nói lên những gì mà bỉ nhân không muốn lập thành lời.

– Xin lỗi tướng công chứ tại hạ không đồng ý với tướng công ở điểm nầy. Hội họa ở mỗi thời đại phải mang cái tính chất của nó, mang cái tầm ưu tư và suy tư của xã hội nó đang sống, của người nghệ sĩ. Tướng công phải chịu đặt mình vào niên đại đó, xã hội đó, chứ đang thời buổi bây giờ mà tướng công bắt phải giữ cái tầm cảm xúc của mấy nghìn năm trước. Nếu bảo văn là người thì họa cũng là người và người làm sao thì phải để cho họ nằm chiêm bao làm vậy…

Ông tướng nhếch mép hơi cười rồi gật đầu hơi có chút suy nghĩ.

– Xin đồng ý với các hạ, xin được rút lui cái ý nghĩ chật hẹp của bỉ nhân lại, và đề nghị chúng ta nên đổi câu chuyện.

Tôi còn muốn trêu tướng Mông Điềm nên nhắc lại câu chuyện ông họa sĩ Trầm Thạch Điền nầy một lần nữa.

– Tướng công có biết là xứ Hoa Kỳ, có vùng Nam Cali, từ khi tỵ nạn Việt-nam đến lập Thủ Đô  tại đấy thì vùng Cali, nhất là quận Orange đã trở thành một nơi khá lừng lẫy, kinh động. Cái nhà ông họa sĩ họ Trầm của tướng công, nếu đưa đến cho sống ở tại quận này thì chắc chỉ vài tháng là ông ta phải thay đổi.

– Tại sao vậy, người ta bảo là dời quốc gia, nết na không dời mà, các hạ không nghĩ như thế sao?

– Khó mà giải thích được thành lời, xin tướng công cứ dời gót sang viếng cái quận ấy rồi tự nhận xét lấy.

– Vậy sao? Chẳng hóa ra người Việt Nam của quý quốc nhiều mưu thần chước quỷ lắm sao. Bỉ nhân không tin đâu, các hạ về xét lại đi.

– Tôi chợt nghĩ đến một chú nghệ sĩ nói với tôi cái ý nầy trong một buổi gặp. Chú ấy bảo rằng người ta rủ em sang Cali sống mà em sợ quá, sợ thay đổi tính nết vì phải bon chen. Ừ mà chú ấy làm cái nghề ca sĩ nên mới phải bon chen chứ đôi bạn Văn Thế Xuân Hương của tôi, Cửu Lâm Liên Hương của tôi, Ái Liên và Tân của tôi… đâu có vậy. Những con người ấy cũng sống cả chục năm hơn trên đất Cali nào có thay đổi gì. Chắc tại cái đất Cali nó chứa chất nhiều hồn oan ma quái, nó khiến cho con người ta ai tốt thì thật tốt, ai giỏi thì thật giỏi, mà người nào độc địa, ác hiểm, tham lam, hư hỏng thì cũng lên hạng vô địch, tướng công có nghĩ như thế không?

– Thì cũng chỉ là một thứ cam nước Việt qua trồng đất Ngô, nước Tần trồng đất Sở chứ gì. Con người cũng vậy, nhất là anh chị nào còn nhiều chất sân si, háo thắng, nhiều tự ái.

Tôi cau mày suy nghĩ, hẳn tướng Mông Điềm nói có phần đúng, trong ba miền, Việt-Miên-Lào của xứ Đông Dương, thì xứ Việt đi đâu cũng đè đầu đè cổ người ta. Giá tâm sự được với ông tướng này, nhờ ông đi tìm lại các anh hùng liệt sĩ của xưa đâu cả rồi, những Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Ngô Thời Nhiệm, Nguyễn Huệ… các vị ấy đi đâu cả mà bỏ ngỏ quê hương, để cho cái lũ ma quái nó múa men phá phách, hại dân hại nước, sao các ngài không nóng gan nóng ruột.

– Mệnh nước. Các hạ đừng nên suy nghĩ quá nhiều, chẳng làm gì được đâu, cái gì cũng phải có thời điểm, chúng ta đã nói từ ban nãy rồi cơ mà: “to everything there is a season…”

– Ừ nhỉ, nhưng rồi đành chịu bó tay giương mắt nhìn vậy sao?

Ánh nắng hầu như đã bắt đầu thoi thóp, nhìn giờ, chắc phải tính chuyện chia tay, trả người về cho cõi âm. Nếu tôi kéo dài câu chuyện thì sẽ trật chuyến xe như hôm qua. Chưa nói thì tướng Mông Điềm đã hiểu và đã lên tiếng giục.

– Các hạ lo về đi, ngày mai chúng ta sẽ lại gặp, đừng đến muộn quá, thời gian qua nhanh mà chúng ta còn bao nhiêu là chuyện để nói với nhau, nếu các hạ cùng một ý nghĩ như bỉ nhân.

Tôi nghĩ thầm, ngài thúc tôi thế nầy chắc phải có lý do. Hẳn phu nhân đang chờ cơm ở nhà chăng, hay ngài sắp phải đi làm việc, hay đi họp một cuộc hội nghị giữa các tướng lãnh. Chưa đặt câu hỏi thì tướng Mông Điềm đã nói.

– Điều các hạ đang nghĩ là đúng, rồi bỉ nhân sẽ có những cuộc hội nghị quan trọng, liên can đến vận mệnh nhiều lớp tuổi trẻ của bản quốc, những người thuộc giai tầng trí thức, đang sắp có một cuộc biến chuyển nặng nề.

– Cuộc biến chuyển gì vậy, xin tướng công nói rõ.

Tướng Mông Điềm mím môi lắc đầu.

– Thiên cơ bất khả lậu, các hạ sống nơi đô thị, bị nhiều khói ô nhiễm chứ ở nơi thôn dã và nếu có một cơ quan vọng viễn kính đầy đủ thì nhìn lên trời, người ta có thể đọc thấy mọi biến cố qua các vì sao. Nhưng thôi, các hạ nên về ngay, rồi lại trễ xe vất vả lắm đấy. Tái kiến các hạ, minh thiên tái kiến, thỉnh bất yếu thái trì.

Tướng Mông Điềm chào, hẹn gặp lại ngày mai và dặn tôi không nên đến muộn quá, tôi cũng đành quay gót sau câu chào.

– Tái kiến tướng công.

Mới vừa xong câu chào ngước lên thì tướng Mông Điềm đã không còn đó nữa, giận thời gian sao qua nhanh, tôi còn có rất nhiều chuyện để nói, nhiều vấn đề phải thảo luận, hỏi ý kiến, đành vậy, đêm nay về phòng trọ sẽ có thì giờ suy nghĩ  xếp đặt xem chuyện nào nên nói trước…

Đến nhà trọ, sau khi tắm rửa, thay xong bộ quần áo để xuống phòng ăn. Vừa kéo ghế ngồi vào bàn, thì nhận ra hai vợ chồng Bresilien, bà vợ rất trẻ và ông chồng hơi xế chiều nên bà ta tha hồ nhõng nhẽo. Hôm cùng đi viếng ngôi mộ vua nhà Minh, chúng tôi  đã để ý và mọi người đều cười thầm, thương hại ông già sao quá mê muội. Nhưng đó là chuyện người ta, tôi cứ phải nhăn mặt khi mấy vị đồng hành khác muốn bắt tôi phải nhìn cô vợ đóng trò rất khéo. Có thể cô nầy không phải là vợ nhà mà là thứ vợ thời đại ở các đô thị ngày nay rất dễ tìm. Một kỹ nghệ mới rất có ích cho các vị nam giới độc thân.

Người đàn ông nhận ra được tôi, vui vẻ đến chào, đề nghị  ăn xong sẽ cùng mướn tắc xi ra Thiên An Môn chơi một vòng. Ông ta bảo muốn nhờ ai bấm vài tấm ảnh hai vợ chồng đứng kề vai dưới tấm chân dung vĩ đại của Mao Trạch Đông. Tôi cũng vui vẻ nhận lời ngay vì thấy nếu ăn xong mà lên phòng ngủ sớm cũng phí. Hơn nữa có đi như thế này thì ngày mai sẽ có thêm đề tài để thảo luận với ông tướng bạn của tôi.

Thiên An Môn có cái sân gạch thật mênh mông, tắc xi bỏ chúng tôi xuống cách cái Môn rất xa, phải đi bộ một lúc nhưng được buổi khí trời mát mẻ, người đi xem về đêm cũng chỉ còn lại một số du khách nên không phải chen chúc như những nơi khác vào lúc ban ngày. Đi mãi mới đến nơi có chân dung của Mao ông, tôi nghĩ thầm, ngày mai sẽ hỏi tướng Mông Điềm xem Mao ông bây giờ ở đâu, hay là đã đi đầu thai rồi, nếu đầu thai thì làm gì, A Tu La, Ngạ Quỷ hay súc sinh hay trở lại làm người dân Trung Hoa một lần nữa để trả món nợ máu xương khủng khiếp ấy.

Về đến phòng trọ là gần mười một giờ, tôi vội vàng thay quần áo rửa mặt để lên giường ngủ ngay, không dám cả sự đọc sách chỉ vì sợ ngày mai không dậy kịp. May là có mấy tiếng đồng hồ lết bộ nên thân thể khá mỏi mệt, khỏi phải mất thì giờ thao thức. Ngày mai tướng Mông Điềm đã dặn là “bất yếu thái trì”, không nên đến muộn, quả thật ở đời chẳng có gì bực mình bằng sự chờ đợi, bao nhiêu cái xấu sẽ được phơi bày ra trong tâm trí người đợi, thế nào cũng bị nghĩ rằng vì là đàn bà chỉ biết lo áo quần với nhan sắc nên lúc nào cũng chậm.

Minh Đức Hoài Trinh

Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hắn 0000

Hắn 1. Hắn Hắn còn nhớ rõ cái ngày cha hắn bán bộ sách quý với giá ba chục nghìn bạc để lấy tiền cho hắn đi Pháp. Ngày ấy lòng hắn như nở ...