Thứ Tư, 2 tháng 10, 2024

Niệm thư

Niệm thư

Lời tác giả
Tập sưu tầm này ra đời để chiều ý một số các bạn và độc giả, những người chung một ý thích, muốn tìm tòi hiểu biết những gì cổ xưa. Sưu tầm là do lòng tò mò thúc đẩy, người làm công việc sưu tầm là những người không mấy khi tìm được sụ hòa âm với cuộc sống nên phải đi tìm ở trong các đống sách cũ những gì để an ủi, để cảm thấy mình không đến nỗi loạc loài, ít nhất cũng có một thế giới đón nhận mình.
Những bài sưu tầm này đã đăng ở các báo Hồn Việt Nam, Phật Giáo Việt Nam, Việt Nam Phụ Nữ, v..v.. mà tài liệu chỉ hướng về cổ Á đông, vào những sự hiểu biết cổ xưa của ông cha ta, để nhắc nhở chúng ta. Theo Đại Việt Sử Ký toàn thư thì nước Đại Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh “Thế là trời đã chia vạch Nam, Bắc; thuỷ tổ ta ra từ con cháu Thần Nông Thi, thế là trời đã sinh ra chân Chúa, vì thế mới cùng Bắc Triều đều làm chủ một phương” Câu cuối của sách viết rất quan trọng nếu chúng ta chịu suy ngẫm, tức là chúng ta từ núi Ngũ Lĩnh mà đến trấn phương Nam cho tới ngày nay, người Trung Hoa thì từ Ngũ Lĩnh trở về Bắc. Ngũ Lĩnh là Ngũ Lĩnh quan, có nhiều thuyết bàn cãi về núi Ngũ Lĩnh này, nhưng theo Hán Thư ta đọc thấy câu “Nam hữu Ngũ Lĩnh chi thú” : THÚ có nghĩa là đồn ải và NGŨ LĨNH là dãy núi có năm ngọn, sách còn ghi rõ thêm rằng “Giao Chỉ, Hợp Phố giới hữu thử lĩnh”, tức là ở biên giới của Giao Chỉ và Hợp Phố có núi ấy.
Nói dài để chứng minh lý do tại sao giữa chúng ta và người Trung Hoa có nhiều sự hiểu biết giống nhau, chứ không phải là sự “bắt chước tàu” như có nhiều người đã nghĩ. Chúng ta xuất phát từ những miền đất đai ấy, rồi vì sự không đồng ý với các vị vua chúa hay vì muốn mở mang đất đai nên đã vượt tiến về phương Nam. Đi đến đâu thì lập nghiệp lấy vợ đẻ con xây cơ đồ tại đó. Tên Việt Nam đã chứng minh rõ ràng, chữ VIỆT ghép do chữ tẩu và chữ việt (cái búa), có nghĩa là người cầm búa đi về phương Nam.
Ở đây chúng tôi chỉ muốn nói rõ một vài điểm nhắc lại lịch sử để minh định và giải thích cho sự đi tìm lại những gì mà chúng ta đã bỏ quên. Ngoài ra còn một mục đích nhỏ là để giúp những bạn trẻ không có nhiều thì giờ đi lùng sách vở, tài liệu để đọc.
Có một vài chi tiết nghe huyễn hoặc, nhưng chúng tôi vẫn thâu nhận để người đọc có thêm ý kiến. Cũng xem như những câu chuyện giả tưởng ngày nay.
Tìm trong sự huyễn hoặc, một sự gì huyền diệu, một chút gì nên thơ. Tập II và tập III sẽ lần lượt ra mắt độc giả trong những tháng năm tới nếu tập I được đón nhận như ý muốn của người sưu tầm.
Mong độc giả bỏ qua những lầm lỗi thiếu sót có thể không làm sao tránh khỏi. Một lần nữa xin nhắc lại cái ý định của Vua Quang Trung mà người Việt Nam nào ham mê lịch sử, yêu chuộng quê hương đều không thể quên.
Ngày 18 tháng 8 Giáp Tý
1. Ngọc
Tập sưu tầm này NGỌC là gì? Chúng ta biết gì về NGỌC?
Ngọc từ đâu đến? theo khoa học thì Ngọc là hợp chất của các thứ khoáng chất, Calcium, magnesium..v..v.. Tùy theo chất sắt nhiều hay ít mà phân mầu sắc.
Người Á Đông biết đến Ngọc từ đời nhà Hạ trên 2 nghìn năm trước T.C. tức là từ Đại Vũ. Người ta tôn Ngọc làm vua của các thứ đá, nhận thấy ở Ngọc có 5 đức tính. Đức NHÂN do ở tính trơn mát ôn nhuận, đức NGHĨA do sự trong sáng có thể nhìn suốt những lý, là thớ ngọc dọc, từ ngoài vào trong. Đức TRÍ do thanh âm dịu mà vang xa, dài như tiếng nhạc, đức DŨNG là sự không nao núng nhưng khi cần vỡ tan thì vỡ, góc cạnh bén nhọn nhưng không làm đau ai, đó là đức KHIẾT.
Vì Ngọc là tinh của đá, là đức của người quân tử, sự kiên cường của Ngọc còn tượng trưng cho tín nghĩa, cho uy quyền, cho cái phẩm hạnh, nhân cách của con người. Thời xưa, Ngọc không phải chỉ có làm đồ trang sức cho phái nữ mà người đàn ông cũng mang ngọc. “Quân tử tất bội ngọc”. “Quân tử vô cố, ngọc bất khứ thân”. Có nghĩa là người quân tử tất phải mang ngọc, và người quân tử nếu không có lý do gì thì không cởi ngọc ra.
Bởi cái đức kiên trinh không thay đổi của Ngọc, nên ngọc còn được chọn làm đại biểu cho sự hỗ tín, tức là niềm tin giữa đôi bên và người xưa mỗi khi xa nhau hoặc ước hẹn một điều gì đều trao nhau một phiến Ngọc để gọi là tín vật, giữ hình ảnh, giữ lời hứa qua ngọc.
Nói đến giá trị của Ngọc, đức Khổng Tử thường nhắc rằng, làm người ai cũng có lần chết nhưng không thể để cho mất lòng tin. Người dân tin là do sự tin chung mà hợp lại, cọng lại, và niềm tin chung nầy khởi ở sự hỗ tín, tức là lòng tin nhau giữa hai người, ở đây muốn nói Ngọc làm đại biểu cho sự Hỗ Tín vậy, do đó nên người xưa luôn luôn trao ngọc và giữ gìn ngọc để chứng tỏ sự hỗ tín.
Ngọc và Người mang ngọc lại còn có sự hỗ tương cảm xúc, khi vui, khỏe, hạn vận thông hanh, có điềm vui, sự lành sẽ xảy tới thì ngọc tươi sáng, da ngọc ôn nhuận, trong mướt. Trái lại những người sắp phát bệnh nặng, tai nạn, tang tóc, hoặc sắp chết thì ngọc đang sáng hóa mờ, ủ dột, chai lì cho đến khi vận xấu trôi qua.
Trong chính trường, Ngọc được người xưa dùng đến rất nhiều. Một câu trong Thư Kinh để chứng minh: “Ban thụy vu quần hầu” Có nghĩa là ban ấn ngọc cho các vua chư hầu. Chữ Thụy chỉ những thứ ngọc cầm ở tay, chữ ngọc chỉ các đồ vật trang trí, trần liệt. Khi nói ban thụy là nói đến sự trao ấn ngọc để chứng tỏ lòng tin giữa đôi bên. Một câu khác: “Vũ tích Huyền Khuê, cáo quyết thành công”. Có nghĩa là vua Vũ dâng ngọc Khuê mầu huyền, tâu mọi việc trị thủy đã thành công. Huyền là mầu đen pha đỏ. Vũ theo sắc nước mà chọn mầu ngọc. Nước là thủy, thuộc Khảm nên mang mầu đen, cũng như lửa thuộc Ly mầu đỏ, đất mầu vàng, Thổ, thuộc Khôn, Mộc mầu xanh thuộc Chấn, và Kim mầu trắng thuộc Đoài. Vũ dùng ngọc mầu huyền chuốt thành khuê để tâu với vua Thuấn công việc trị thủy đã hoàn tất của mình. Hình Khuê là hình dài, trên vuông to đầu, dưới nhỏ hơn, hơi nhọn và dẹp.
Ngọc có nhiều thứ và nhiều sắc. Bạch, Huyền, Hoàng, Hồng, Thanh, Bích, Lục, Chu, Phách, Tử.
Bạch Ngọc là thứ ngọc trắng trong tinh khiết được gọi là thượng đẳng, nhưng cũng có người chuộng Thanh Ngọc, tức mầu xanh hơi ửng vàng, mầu lục cũng được quý, mầu xanh nhạt gọi là thiên thanh bị đặt xuống hạng nhì, Thái Ngọc là thứ không xanh không lục, phi lục phi thanh, ở hạng ba.
Sách viết câu: Thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội, vì kẻ thất phu không mang ngọc, không hiểu biết gì nên không thể bị kết tội mà chỉ kết tội người hoài bích tức là người mang ngọc, người có kiến thức, là những kẻ có địa vị được ưu đãi trong xã hội, những người nầy mới đáng mang ra xử tội khi họ làm bậy.
Chu Ngọc là một thứ Ngọc đỏ, được xem như một vật đẹp mà giả dối, những lời nói hay mà không chân thành, bậc chính nhân quân tử không dùng tới cũng như chẳng muốn nghe, muốn biết tới.
Hẳn mọi người đều nghe nói đến những tên Ngọc như Bích, Khuê, Hoàn, Chương, Viên, đó là những thứ ngọc quý được chuốt theo các hình thể đã được quy định theo cấp bậc của vua và các chư hầu.
Trước khi nói đến những tên ngọc nầy cần phải nói đến cái hốt cầm tay của vua và chư hầu cũng như các quan đại phu. Thuở ban sơ chỉ những mãnh trúc chuốt thẳng, dành khi ra triều hoặc vào chầu vua mà có những gì cần bảo ban hay chư hầu cần tâu lên vua thì ghi vào mãnh trúc cho nhớ. Gọi là Hốt Vong, đừng quên, chớ nên quên, thời đại ấy chưa có giấy nên phải dùng tre thay giấy.
Khi tìm ra ngọc thì cuộc sống cũng đã tiến triển chưa có giấy nhưng người ta đã biết ghi lên lụa, con người hiểu về lễ nghĩa nhiều hơn, chữ tín cũng được đặt nặng hơn, nên mới có sự trao ngọc làm tin, cái giá trị của ngọc cũng là giá trị của chữ Tín.
Lễ dâng ngọc là một lễ rất long trọng cần phải có năm thứ ngọc, ba thứ bạch, hai con vật sống một con vật chết để tế trời đất. Quan trọng nữa là lễ Hợp Phù, thời xưa người ta viết văn tự lên một mảnh trúc rồi chẻ đôi mỗi người giữ một nửa, đến tiết Hợp Phù, người ta hội lại và mang hai mãnh trúc ra ghép vào nhau, cũng như các văn khế ngày nay, tất cả để nói lên sự tin nhau, không lừa gạt. Lễ Hợp Phù cũng là lễ mà đầu tiên vua Vũ hội chư hầu ở Phủ Sơn, về sau đời nhà Chu và các đời sau cứ thế mà theo. Ngày lễ nầy mỗi người đều đến, mang theo ngọc của mình.
Ngọc được chia ra hai loại. Bích ngọc, hình tròn dẹp như một đồng tiền lớn, Khuê ngọc hình dài. Một nửa của Bích gọi là Viên, và một nửa của Khuê gọi là Chương. Hoàn cũng là hình tròn nhưng phần lỗ rộng như những chiếc vòng ngọc, gọi là Hoàn trái với Bích ở chỗ ở Bích phần ngọc rộng mà phần lỗ ở giữa (gọi là hảo) thì bé hơn.
Bích, Hoàn, Khuê, Chương được xếp vào một loại, còn Bồ Bích và Cốc Bích là do những hình khắc cỏ Bồ hoặc nhánh lúa. Ngoài ra lại còn Tông Ngọc là một khối ngọc hình bát giác giữa có lỗ vuông, để tế đất, Bích để tế trời, không thể thiếu.
Ngày lễ Hợp Phù, nhà vua cầm ngọc Trấn Khuê, tước Công cầm ngọc Hoàn Khuê, tước Hầu cầm Tín Khuê, tước Bá cầm Cung Khuê, tước Tử cầm Cốc Bích và tước Nam cầm Bồ Bích.
Trấn Khuê tức là ngọc Khuê để trấn an tứ phương, tượng trưng uy lực của thiên tử. Phải lấy hình bốn Trấn Sơn chạm lên Ngọc Khuê nầy để trang sức cho ngọc, Trấn Khuê dài 1 xích 2 thốn, Khuê lớn còn được gọi là Giới.
Hoàn Khuê dài 9 thốn, Hoàn tượng trưng cho cung thất làm cho an ổn cấp trên. Hai gốc cây hợp lại cũng gọi là Hoàn như hai cây trụ để chống đỡ cho ngôi nhà. Cung thất không thể thiếu cột trụ, nhà thiếu trụ thì làm sao vững, nước không có tước Công để lo giúp vua thì lòng vua sao an ổn được.
Tín Khuê, để dành cho tước Hầu, dài 7 thốn, khắc hình người để nhắc nhở mỗi hành động cần phải thận trọng để giữ mình.
Cung Khuê của tước Bá cũng phải được cùng khắc hình người như của tước Hầu, Cung có nghĩa là cung kính. “Trai giới, mộc dục nhi cung triều”, có nghĩa là ăn chay, tắm rửa để vào triều, như thế mới đủ cung kính.
Cốc Bích của tước Tử, và Bồ Bích của tước Nam, 2 tước nầy là hạng chưa đủ lớn nên chưa được cầm Khuê mà phải cầm Bích, cũng có sách ghi là Cốc Khuê dài 7 thốn, có khắc nhánh lúa, Cốc Bích tượng cho sự nuôi dưỡng con người, ngọc của Cốc Bích thường là Bạch Ngọc. Bậc vương giả cầm ngọc với lòng cầu mong cho ngũ cốc được phồn thịnh. Bồ Bích, ngọc dành cho tước Nam cầm tay, khắc nhánh cỏ Bồ, tức là một thứ cỏ lát để dệt chiếu dụng ý của người xưa là Cốc để dưỡng dân, Bồ để an dân, an đây là an nghỉ, sau những ngày mùa màng nhọc nhằn. Hai thứ ngọc nầy đường kính là 5 thốn.
Năm tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam là năm tước phong cho năm bậc Chư Hầu. Đến đây phải hiểu qua về nền chính trị phong kiến ngày xưa. Có nhà vua với các chư hầu do sự liên hệ huyết thống hoặc có công lao với một triều vua nào thì được phong đất. Sau đến cuối đời nhà Chu vua trở thành hoang dâm, chư hầu không phục nên bắt đầu có sự tranh chấp, xưng vương xưng bá từ đó.
Lễ Hợp Phù hội chư hầu và các đại phu đến, mang ngọc theo, nếu có điều gì lầm lỗi thì phải để Khuê của mình ở lại, bao giờ chuộc lỗi thì mới được mang Khuê về, chứng tỏ sự trọng kỷ luật đặt vào Ngọc một tầm giá trị tinh thần rất cao.
Như đã nói ở bên trên, ngọc có nhiều sắc, Bích Thuong là mầu xanh nhạt như mầu của không gian cũng rất được ưa chuộng. Ngọc cần được mài dũa mới ra hình, gọi là trác, nếu không được trác ngọc thì ngọc cũng thành vô dụng, không có giá trị như đã nói ở trên.
Chúng ta thường nghe nói đến cái Khánh bằng ngọc, đó là một nhạc khí bằng ngọc, gõ lên mới ra âm thanh, tiếng khánh nghe trong trẻo và vang rất xa, trong 8 cái đức của người quân tử là Trung, Hiếu, Nhân, Ái, Tín, Nghĩa, Hoà, và Bình thì hai đức cuối, Hòa và Bình là do tiếng Khánh dựng mà nên. Cũng như trong một ban hợp tấu thì âm của khánh là chủ, và thanh của Khánh đã chỉ huy và tiết chế tất cả ban nhạc.
Người ta cũng hay lấy Ngọc làm món quà tặng cho nhau. Thụy là một mãnh ngọc dài 8 thốn để chư hầu mang tặng cho các Phu Nhân, Thụy Hoàn là Ngọc Hoàn để tặng cho các Hậu Phi. Du ngọc, dành cho Thái Tử.
Tế trời đất và tứ phương gọi là Lục Khí thì phải dùng Xích Chương, hay Khuê Chương mầu đỏ để tế phuong Nam và Huyền Hoàn để tế phương Bắc.
Lễ Quán là lễ đổ rượu xuống đất, nhà vua tay cầm cái Khuê Toản hình như cái vá, múc rượu đổ xuống đất, gọi là Khuê Toản, vì cán là ngọc Khuê.
Điểm là Khuê mà có đầu nhọn đâm thủng da thịt, khi chư hầu bất nghĩa, vua cho sứ giả mang Điểm đến, tượng cho sự chinh, phạt, tru, thảo.
Chinh có nghĩa là tuần hành, Phạt là đoàn quân có chiêng có trống, Tru là giết một lần nhiều người như tru mộc phải cắt từ gốc rễ đến ngọn, lá, cành. Thảo là trị tội. Chữ Thảo để dùng khi người cấp trên trị kẻ dưới. Thiên tử thảo nhi bất phạt, bậc làm vua chỉ thảo mà không phạt.
Mỗi triều đại, khi lên ngôi thường lấy ngọc ban phát cho những người đồng tộc với mình để làm tin, chứng tỏ sự có họ hàng mật thiết.
Ngọc có nhiều tên nhiều loại, sau đây xin kể ra một vài thứ.
Lâm là một thứ ngọc mà khi gõ vào thì tiếng ngọc nghe rất thanh. Theo sách Đông Minh Ký ghi rằng Lâm là một xứ nhỏ cách Trường An chín nghìn dặm ở đó có núi sản xuất Lâm ngọc, mầu như Bích Ngọc, Bích còn dùng để gọi những mầu đá xanh đậm.
Ngoài ra còn có Mai Khôi, Phấn, Anh, Vân, Đào, Lưu Ly, Cứ. Mai Khôi là tên một thứ mỹ ngọc, Phấn còn là trạng văn thái của ngọc cũng như Vân. Lưu Ly là một thứ ngọc sắc xanh, một trong 7 thứ châu báu. Huyên Cứ đều chỉ được xếp vào bậc thứ nhì của ngọc. Anh là tên một loại ngọc đẹp rất láng, mà còn dùng để nói đến cái ánh sáng của ngọc.
Thất Báu, theo Pháp Hoa Kinh của nhà Phật là Vàng, Bạc, Lưu Ly, Xa cừ, Mã não, Trân Châu, Mai Khôi. Theo Đường Vũ Hậu thì thất báu của nhà vua là Kim Luân báu, Bạch Tượng báu, Nữ báu, Mã báu, Châu báu, Chủ Binh Thần báu, Chủ Tàng Thần báu.
Vân là một thứ ngọc hạng nhì, gần như đá, Tuân Tử trong Thiên Pháp Hành có câu: “Quân tử chi sở dĩ quý ngọc, tiện Vân”, (vì vậy người quân tử mới quý ngọc mà coi thường Vân), vì Vân chỉ là một thứ đá, giống ngọc nhưng không phải ngọc. Miệt Phù Trung có Cổ Ngọc Tính nơi nầy sản xuất rất nhiều đá Vân.
Sau Ngọc và các thứ hạng nhì của ngọc đã kể trên còn có San Hô và Hổ Phách. San Hô là một thứ cây dưới biển sâu, ở dưới nước thì mềm mà lên gặp khí trời và ánh sáng thì trở nên cứng rắn, mầu hồng là san hô, mầu xanh là Lan Can, có thuyết ghi rằng Lan Can mọc ở núi.
Phách Hổ ta gọi là Hổ Phách, mầu đỏ như máu có thể hút hạt cải, mầu vàng sáng, gọi là não phách, hồng pha vàng gọi là Minh Phách, nặng như đá mầu vàng là Thạch Phách, có vân đỏ vân vàng là Hoa Phách, nếu hai vân nầy mầu nhạt là Kim Phách, đen là Ý Phách..
Có nhiều thuyết nói về Hổ Phách, cho rằng cây Tùng sau 1000 năm hóa thành Phù Linh, 1000 năm nửa hóa thành Hổ Phách. Một thuyết khác lại cho rằng nhựa cây Phong nhập vào đất sẽ thành Hổ Phách. Một thuyết nữa lại bảo nhựa cây gì cứ nhập vào đất lâu cũng sẽ thành Hổ Phách, chỉ vì cây Tùng nhiều nhựa nên người ta chỉ nói cây Tùng đó thôi. Có thuyết cho rằng máu rồng nhập vào đất sẽ thành Hổ Phách, cũng như sách ghi rằng người phương Nam biết lấy tổ ong mang đốt đi để chế thành Hổ Phách, chẳng khác gì Hổ Phách của Tùng.
Sau Hổ Phách còn có Mã Não, vì thấy nó giống cái bộ não ngựa nên đặt tên. Có thuyết bảo rằng đó là máu quỷ đã hóa ra mã não.
Đoạn trên chúng ta có đọc thấy câu: “Quân tử bội ngọc”, thứ mà quân tử thường mang đó là Quyết, hình trạng như ngọc Hoàn, nhưng vì có chạm trổ nên có những chỗ lõm vào không tròn lẳn như ngọc Hoàn, sách xưa ghi “Quân tử năng quyết đoán tắc bội Quyết” có nghĩa là vì người quân tử có tài quyết đoán, làm việc gì cũng quyết đoán nên phải mang ngọc Quyết.
Nói về ngọc Quyết sách xưa ghi rằng khi Tử Sản chết, các bậc đại phu nước Trịnh đã xá Quyết và các phụ nhân xá châu nhĩ, tức là quan đại phu thì cởi ngọc và các bà cởi hoa tai, để tang Tử Sản. Ông là người Xuân Thu giỏi tài ăn nói, trải mấy đời nhờ ông dàn xếp mà nước Trịnh khỏi bị chiến tranh.
Phác là ngọc còn nằm trong đá chưa được mài người ta còn dùng chữ phác để gọi những thứ ngọc non, chưa có lý. Nếu lý là ưu điểm của ngọc thì hà là bệnh của ngọc, hà là những gân đỏ chạy từ trong lòng ngọc.
Để kết thúc xin được nhắc lại câu chuyện viên ngọc họ Hòa. Xưa có người nước Sở, Hòa Thị, tức là họ Hòa một hôm tìm được một khối đá, biết bên trong có ngọc quý, mang dâng cho Sở Lệ Vương, nhà vua cho thợ chuyên môn về ngọc, nhìn, người thợ bảo không phải ngọc, mà là đá.
Nhà vua giận bắt tội, chặt một chân trái, gọi là cuồng nhân. Sở Lệ Vương chết, Vũ Vương lên ngôi, Hòa Thị lại mang dâng khối đá, nhà vua cũng lại đưa cho thợ ngọc lần nầy người thợ ngọc cũng nói không phải ngọc, chỉ là đá giả. Vũ Vương cũng lại kết tội điên mang chặt chân phải.
Vũ Vương chết, Văn Vương lên ngôi. Hòa Thị ôm khối đá ngồi khóc dưới chân núi Sở, khóc ba ngày, nước mắt cạn, chỉ còn máu chảy ra. Có người thương tình đưa câu chuyện tâu với vua, nhà vua cho người tới hỏi thăm, Hòa Thị trả lời, tôi khóc chẳng phải vì bị chặt cả hai chân mà khóc cho người đời không có mắt. Ngọc thật thì bảo là đá, người lành mạnh thì cho là điên.
Văn Vương nghe nói bắt thợ ngọc xem kỹ, chặt đôi khối đá, quả thấy có viên ngọc quý nhất, cho ngọc mang họ Hòa, đó là viên ngọc vô giá, ai được mang vào mình thì sẽ gặp được mọi điều may mắn, an lành.
Người xưa tin rằng mang ngọc vào thì sẽ tránh dược nhiều tai nạn và khỏi được chứng đau gan.
Sử chép Tần Thủy Hoàng đã chiếm được viên ngọc họ Hòa nầy và, đổi lối ân. Trước đó ấn thường được làm bằng vàng hay là bạc nhưng với viên ngọc họ Hòa, Tần Thủy Hoàng bắt lấy để khắc cho mình một cái ấn, gọi là Tỷ hay là Hoàng Đế chi Tỷ.
Câu chuyện Ngọc chấm dứt ở đây, đón đọc tập II để xem biết thêm về Ngọc.
2. Nghệ thuật yêu trà
Tập sưu tầm này người ta nói nhiều về Trà, về nghệ thuật uống trà, hôm nay chúng ta nói đến nghệ thuật yêu Trà, vì yêu cũng là cả một nghệ thuật, mà đã là nghệ thuật thì cần phải có sự nghiên cứu kỹ càng, và sự hướng dẫn chu đáo.
Muốn yêu ai thì cần phải tìm hiểu tính tình, rồi lại phải tìm biết tổ tiên quê quán, biết cả từ tính tốt đến tính xấu, sau đó mới xét lại xem có thích hợp với mình không rồi mới yêu, khi đã biết rõ những ưu khuyết điểm mà vẫn chịu được thì tình mới bền.
Trà cũng như người, cổ nhân gọi trà là Tình Nhân, và ngày xưa cũng như bây giờ có những người yêu trà, chờ đợi giờ phút được ngồi cạnh ấm trà như chờ đợi giờ phút hò hẹn với người yêu.
Từ độ lưu vong, người Việt sống toàn ở các xứ Rượu, đi đến đâu cũng chỉ nghe nhắc đến nho với rượu không nhớ đến trà. Người Việt Nam lại thông minh, dễ hội nhập, e rằng sau một thời gian ở xứ người, sẽ quên mất mối tình cũ đi chăng. (thiên sưu tầm nầy viết từ năm 1976).
Thiên tìm hiểu nầy sẽ được chia làm nhiều mục:
– Lịch sử và nguồn gốc.
– Bước đi của Trà từ Á sang Âu.
– Các giống trà và tính chất.
– Dụng cụ và cách thức pha trà.
– Những giai thoại, thi ca và triết lý của Trà.
– Kết luận.
 LỊCH SỬ và NGUỒN GỐC
Loài người biết về cây trà qua những trang ghi chép trong các sách sử. Cây trà không được nhắc đến nhiều như cây Nho, vì là một giống cây sinh trưởng, xuất phát từ Á châu, mà dân tộc Á châu vốn trầm lặng, yêu để đấy, biết cũng để đấy, chỉ giữ riêng cho mình không cần phải phô trương ra cho người thấy, người nghe làm gì. Họa hoằng mới có người nói đến, mà cũng không bao giờ chịu nói kỹ, chịu đi sâu vào chi tiết. Ngày nay sách vở có một số thất lạc, ai là kẻ thắc mắc, tò mò, muốn tìm hiểu về trà cần phải mất nhiều công, nhiều thì giờ…
Cây trà được biết từ đời Thần Nông, sứ giả gọi là Cổ Đế (2737-T.C.) Ông sinh trưởng ở đất Khương Thủy. Thời ấy con người còn ở chế độ mẫu hệ, chẳng nghe nói đến cha mà chỉ biết ông đã lấy đất Khương làm họ, nên còn được gọi là Khương Thị (họ Khương). Ông là người thứ nhất biết dạy dân trồng trọt nên còn được gọi thêm một tên nữa là Thần Nông Thị, một tên khác nữa là Viêm Đế vì đã biết lấy cái đức của lửa mà trị dân.
Viêm Đế rất say mê nghiên cứu về môn y dược và cỏ cây, ông thường đi tìm các thứ cây, cỏ, lá nào, có đức chữa được những thứ bệnh gì rồi đưa ra dạy dân, theo đó mà làm thuốc trị bệnh. Viêm Đế rất được dân biết ơn và yêu kính, lúc ông chết được chôn ở Trường Sa, thuộc miệt Hồ Nam ngày nay.
Sách sử chép lại cho biết một hôm ông đang ngồi dưới gốc cây, chờ nước đun sôi để uống. Vì thời ấy con người đã biết đun nước sôi uống để tránh các thứ bệnh tật. Có mấy chiếc lá từ trên cây rơi ngay vào nồi nước, ông bắt để yên, không cho vớt ra, cứ thế mà uống, sau đó, nhận thấy có vị hơi lạ, đăng đắng, nhưng uống xong một lúc lại nghe ngọt mà thoang thoảng dư hương, sắc nước vàng óng ánh, trong như mầu mật tươi, mầu ánh nắng, một lát sau lại nghe chừng như cơ thể thanh thoát, nhẹ nhàng, tinh thần minh mẫn hơn.
Cho người trèo lên cây hái thêm lá thử đun và uống lại mấy lần, bảo người chung quanh cùng thử sau khi ông đã thử, đều nhận định giống nhau, cảm giác lâng lâng tỉnh táo.
Trà đi vào cuộc sống của con người từ buổi ấy. Văn minh của trà cũng đi theo giòng sông như tất cả mọi nguồn văn minh thế giới khác. Từ miệt Tứ Xuyên, thuộc lưu vực Trường Giang (Ba Thục), Trà tràn xuống lưu vực Hoàng Hà.
Thuở đầu tiên, sau kinh nghiệm quý báu của Thần Nông, trà mới chỉ được xem như một thứ thuốc, uống vào thì đầu óc tỉnh táo, hết chứng bần thần, hay ngủ. Y gia còn nhận thấy trà tính hàn nên chữa được cả bệnh kiết lỵ, bã trà nhai còn chữa được các vết thương chảy máu, làm cầm máu, chữa vết bỏng lửa, da không bị phồng, chữa được chứng dứt đầu, hôm mê, lợi dại tiểu trường, tức ruột già ruột non, chữa được cả chứng đau lưng, đau tim và trúng độc do rau và nấm, vì trà còn có sát trùng tính. Các nước Đông Âu ngày nay vẫn còn rửa vết thương bằng nước trà, kể cả vết mổ vì họ đã biết sức mạnh sát trùng của trà.
Cố nhiên, là phải tìm thứ trà tốt không ướp hoa vớ vẩn rẻ tiền. Nếu không thì không thể có nhiều công dụng, mà chỉ giúp một vài thứ thôi. Trà nguội mất một vài đức tính đã kể trên, tuy cũng vẫn hơn các thứ nước hóa học.
Người ta biết dần dần thêm về trà qua các tác phẩm của các y gia trải nhiều thời đại. Sau đó mới được những thi nhân, triết nhân như Tống Thái Trương, Lý Thời Trân, Tô Đông Pha, Lục Vũ… biết đến, nói đến, yêu và nghiên cứu kỹ hơn về các giống trà, phương pháp uống trà…
Người nói nhiều nhất, và đã đưa trà lên một địa vị xứng đáng nhất là Lục Vũ, ông sinh vào đời nhà Đường, quê ở Cảnh Lăng, ông còn mang nhiều biệt hiệu khác như Hồng Tiềm, Tang Trử Ông, Cảnh Lăng Tử… Vào thời Thương Nguyên (Uyên Tông 756-762) Lục Vũ an cư tại Diêu Khuê, tính ông say phong cảnh, yêu nơi thôn dã, giỏi thi phú, dịch lý, biết rõ về cơ trời, ông thường hay đi lang thang một mình ở các vùng núi non để ngâm thơ cho cây cỏ cùng nghe với mình.
Một đặc điểm dị thường của Lục Vũ mà đã được chú ý và ghi vào sử sách là có những gốc cây đã bị ông cầm roi đánh vào rồi khóc to lên mà bỏ đi. Không ai hiểu lý do. Sự giỏi về môn Dịch Lý làm ông rất tự hào, cho đó là một đặc ân của thiên nhiên dành cho mình.
Lục Vũ nổi tiếng về khoa uống trà, phải nói rằng Lục Vũ nổi danh nhờ trà, nhưng trà cũng nhờ Lục Vũ mà từ đó đã được người đời chú ý hơn. Tác phẩm TRÀ KINH, mà tất cả những ai chuyên về trà đạo đều phải từng nghe qua (xem hình). Tác phẩm được chia làm ba quyển, gồm 10 chương nói về Trà nguyên, trà tính và trà cụ. Tức là nguyên thủy của trà, cách trồng trà, phương pháp chọn trà, tính chất riêng biệt của trà, cách thức nấu trà và những dụng cụ để uống trà, cũng như các thứ nước để nấu trà làm tăng vị trà.
Cũng nên nói qua rằng thời Lục Vũ người ta còn uống theo lối Đoàn Trà, tức là trà khô được vo tròn thành bánh, trước lúc uống trà phải mang bánh trà ra hong trước bếp cho mềm trà, rồi đặt giữa hai tờ giấy sạch mà nghiền vụn ra. Chờ nước vừa sôi thì bỏ muối vào, chờ nước sôi thêm một lúc thì mới mang trà đã nghiền mà bỏ vào. Nước sôi sùng sục như giận dữ mới là lúc quan trọng nhất. Cần phải bỏ vào lúc ấy một thìa nước lạnh gọi là để trấn trà, và là phục hồi tính của nước, tức là nguyên khí. Sau đó mới mang pha ra để uống.
Đến đời Tống (962-1274) Lối uống trà của Lục Vũ tức Đoàn Trà đã được bỏ đi để uống theo lối Mạt Trà. Lối nầy được gọi là đệ nhị trà phái, trà được bỏ vào cối đá nghiền thành bột rồi mang đặt vào chén, đổ nước thật sôi, quấy đều bằng một chiếc trà tiễn, hình như một cái chổi bằng tre, vót thật khéo, chọn tre tốt, chẻ tách ra thành nhiều que như que tăm dài, một đầu không chẻ để làm cán. Tiễn là để chùi nồi, chùi âm như ta vẫn thấy nhưng đây cũng là một loại tiễn mà được vót công phu hơn, thanh cảnh hơn, đặc biệt để quậy trà.
Người của thời đại nầy rất hâm mộ trà, và lối uống trà nầy đã thay đổi nhiều, từ dụng cụ đến phương pháp so với thời đại của Lục Vũ. Người Nhật và lối trà đạo của họ là lối uống theo nghi thức của thời đại Tống nầy, sẽ có một chương nói về cách thức uống trà.
Trở về với tác phẩm Trà Kinh của Lục Vũ, ông quả đã làm cho mọi người ý thức về Trà, một đặc ân của thiên nhiên dành cho loài người, mà có bao nhiêu kẻ đã nhắm mắt bưng tai, không biết thưởng thức cái đẹp, cái hay, cái tao nhã của trà. Thật đáng tiếc.
ĐỒ là cái tên thuở ban đầu của TRÀ, có người ngờ rằng chữ “Đồ” đã bị đọc chệch ra thành chữ Trà đó thôi. Sách Nhĩ Nhã cũng ghi là đồ, khổ thái, hoặc khổ thảo gọi là một thứ rau đắng, nhưng có thể ăn được. Trà còn một tên nữa là Mính, về sau người ta chia ra búp non, hái sớm được gọi là Trà, lá già hái muộn là Mính hay Minh, các văn gia cổ điển còn gọi thêm những tên khác như Thiệt, Thuần, Gia,…
Sau khi Trà Kinh ra đời, còn có Trà Lục của Tống Thái Trương, ông nầy chê Trà Kinh còn thiếu sót, Lục Vũ không chép đủ các thứ trà và nói nơi sản xuất. Dầu sao Trà Kinh cũng đã được hoan nghênh và Lục Vũ cũng đã trở thành người bạn, con cưng của Đại Tông Hoàng Đế (763-766). Người đời tiếp tục tôn Lục Vũ làm Trà Thánh, có kẻ chê gọi là Trà Điên.
BƯỚC ĐI CỦA TRÀ TỪ Á SANG ÂU
Vào đời Tống có một vị thiền sư là Vĩnh Tây Thiền Sư, khi ông sang Nam Hoa để nghiên cứu về phái Thiền ở đấy, ông còn nghiên cứu về các giống trà, ông đã chọn giống trà Phù Lương về trồng tại mấy vùng khác, mà Chân Sơn và Vũ Thủy là nổi tiếng nhất. Ông còn viết ra một quyển sách mang tên: Khiết Trà dưỡng sinh lực, và đã lấy trà nầy để chế ra một thứ trà khác tẩy được chướng, lấy tên là Nham Thượng.
Mãi thế kỷ thứ 16, người Âu châu mới được nếm hương vị tuyệt vời của trà. Có nên nói thêm rằng nhờ trà nên mới có nước Hoa Kỳ ngày nay. Nếu trà không thanh cao, đặc biệt đem lại bao nhiêu niềm lâng lâng cho con người thì liệu có nước Hoa Kỳ như hôm nay? Lại một lần nữa nhắc đến cái mũi của nữ hoàng Cléopâtre, nếu nó to hơn, dài hơn thì sao? Nếu trà không làm cho người dân Anh quốc đã say mê đến độ đánh thuế quá nặng thì liệu, người dân thuộc địa Hoa Kỳ có phải kiệt sức, không thể chịu nổi, nên đã vùng dậy mà ném cả 342 thùng trà xuống biển, để rồi bắt đầu cuộc khởi nghĩa dành độc lập năm 1773. Cố nhiên là không lỗi ở trà và cũng không phải chỉ vì trà mà còn một nghìn lẽ một lý do khác, nhưng đã nói đến trà thì cứ nên cho rằng, nhờ đó mà cái gọi là Boston Tea Party trở thành bất hủ.
Một sinh viên y khoa người Pháp tên gọi là Morrisset khi trình bày luận án trước viện y học Paris, đã đề cao trà gọi trà là một thức uống có thể làm tăng sự minh mẫn, tăng thêm trí tuệ. Cái luận án nầy, tiếc thay đã bị phản đối, phải chịu mang đốt đi vì một số người muốn bênh vực một thức uống khác, đã không hài lòng.
Vào đến thế kỷ 19 mà Trung Hoa vẫn còn là nơi độc quyền sản xuất trà bán ra khắp toàn thế giới. Thuở ấy người ta chỉ mới biết mua trà về pha chế thêm, mang bỏ vào hộp, đóng thùng dán lên các thứ nhãn hiệu rồi đưa đi bán lại mà thôi. Càng ngày thấy nhu cầu càng tăng và nguồn lợi càng rõ ràng vĩ đại, người ta nghĩ đến mang giống trà đi trồng ở các miền đất đai các xứ khác mới đủ cung cấp cho cả thế giới.
Người Anh quốc là kẻ tiên phong đã biết dùng ngay đất thuộc địa của mình, tức là xứ Ấn Độ thời ấy, làm nơi trồng trọt và sản xuất trà, thay vì phải mua từ người Trung Hoa. Họ đã lấy giống trà từ Trung Hoa, đón một số chuyên viên Trung Hoa trong ngành trồng tỉa cũng như pha chế, đưa những người nầy sang Ấn Độ để dạy cách thức trồng trọt pha chế cho dân địa phương, và họ đã thành công.
Người ta cũng đã tìm được ở những vùng Assam xứ Ấn Độ những giống trà mọc từ đất ấy, và ở phía đông bắc Ấn Độ vùng Darjeeling là nơi được mang giống trà đến gieo trồng trước nhất. Sau đó mới đến vùng Ceylan, dần dần các nước khác cũng noi theo, chạy đi kiếm hạt giống mang về trồng ở xứ mình như Nga, Phi, Mỹ…
Ngoài ra còn những vùng mà cây trà được trời ban cho cũng mọc lên tự nhiên và hợp khí hậu không kém trà của Trung Hoa đó là những vùng như Việt Nam, Miến Điện, Mã Lai, Lào, Miên. Về sau có những thứ tưởng là trà tàu, gọi là trà tàu nhưng sự thực là họ đã mua rất rẻ ở xứ ta về pha chế, đặt tên, đóng hộp rồi lại gửi sang bán cho người Việt, mà chúng ta không ngờ tới.
CÁC GIỐNG TRÀ VÀ TÍNH CHẤT
Trà từ thời Thần Nông, hay từ thuở có mặt trên quả đất cho đến bây giờ vẫn là thứ trà xanh lá, mùa đông cũng không đổi mầu. Thân trà cao từ 5 đến 15 thước, khi được cắt tỉa thì chỉ còn từ 1 đến 2 thước.
Trà có nhiều giống, nhiều loại, có thứ chuộng khí ấm nhưng cũng có thứ chuộng khí lạnh. Muốn trồng trà trước hết phải lấy hạt trà ương vào chậu con trong vòng 6 tháng, sau đó mới cho ra đất, hai năm sau, khi cây trà cao lên hơn một thước, người ta cắt sát gốc chờ đến năm thứ 3 mới bắt đầu hái lá, mỗi cây trà sống được từ 25 đến 50 tuổi, nếu không gặp tai nạn.
Hương vị và độc đáo của mỗi thứ trà là do khí hậu đất đai, tuổi lá, cách thức vun xới, phân bón, tuổi lá và thời gian người ta trẩy lá, thay đổi từng mùa.
Những vùng cao nguyên ở trên 1000 thước, là một yếu tố cần thiết làm cho hương vị thêm đậm đà. Theo sự suy nghiệm của các chuyên gia thì chính ánh quang tuyến ở những vùng cao nguyên ấy đã chiếu xuống nụ trà làm tăng hương vị.
Trà được chia ra mấy thứ, Hồng trà, Hắc trà và thanh, lục trà. Tất cả đều do cách thức pha chế chứ trà thì nguyên thủy vẫn là mầu lá xanh chỉ trừ giống Lạp Mộc trà mọc ở Phúc Kiến mang mầu vàng mà về sau chúng ta sẽ đề cập tới.
Có những tên trà quen thuộc mà người sành trà ai cũng phải biết đến, nếu không cũng đã từng nghe qua như Long Tĩnh, Đông Đỉnh, Vũ Tiền, Vũ Hậu, Xã Tiền, Hỏa Tiền, Ngân Châm, Tước Thiệt, Ưng Trảo, Phổ Nhĩ, Ô Long, Vũ Di… Những tên nầy được chia ra từng loại hoặc do từ giống trà, hoặc từ thời gian hái trà, hoặc địa phương trà mọc lên, ngoài ra là những tên được đặt theo hứng cảm của nhà chế tạo như: La Hán, Châu Trà, Bạch Trà, Bích Lệ, Thiết Quan Âm…
Trà mang tên Long Tĩnh là một thứ trà mà thuở ban đầu đã mọc ở Triết Giang, thuộc Hàng Châu, đặc biệt nhất tại vùng nầy là nước suối hay nước giếng đều trong và thơm ngọt. Chung quanh những cái thiên tỉnh (giếng trời thiên nhiên) mọc lên những giống trà đặc biệt từ hương lẫn vị. Bao nhiêu người sành trà sau khi thưởng thức đều phải chịu là: Thậm giai (ngon nhất). Người ta thử đưa giống trà nầy đi trồng tại các nơi khác thì không thể nào sánh với thứ trà của thiên nhiên chính gốc được. Trà được mang tên Long Tĩnh là do từ những cái giếng của rồng uống nầy.
Vùng Đoan Châu trên Bạch Vân sơn có một ngôi chùa, mà nơi đây các tăng ni đã trồng trà với một nghi thức trang trọng, lúc pha chế cũng như lúc gieo trồng, tưới tẩm đều riêng biệt khác thường. Trà chế riêng biệt nầy còn được mang tên là Tố Hinh Hoa Khí, vị ngọt, mát, thơm lại còn một tên là Đỉnh Hồ Trà, không dễ gì có tiền mà mua được.
Vùng La Phù có Trà Yêm, mỗi năm trước ngày vào tiết Xuân Phân (trung tuần tháng 2) người hái trà phải đến từ hôm qua, ngủ lại suốt đêm trong những cái lều lá gọi là cái Yêm, đợi sáng tinh sương dậy hái trà. Thứ trà nầy đòi hỏi phải được hội đủ cả khí âm và khí dương, vì thế không thể hái muộn hơn. Nấu trà Yêm với La Phù tuyền tức là nước ở suối La Phù thì không còn gì hơn.
Người Xưa vẫn cho suối là bạn của trà, vì chỉ có nước suối mới đưa được hương vị trà lên đúng tầm thơm ngọt (sẽ nói sau về các thứ nước). Tại La Phù có những giòng suối rất nổi tiếng.
Tào Khê trà mỗi năm chỉ có thể hái 4 lần, khác với những thứ trà khác ở điểm ấy, vì có những giống cứ 2 tuần là có thể hái một lần. Bốn lần hái trà nầy phải canh vào dịp Thanh Minh và Hàn Lộ, do đó mà Tào Khê trà rất hiếm và rất quý.
Tân An có Mông Sơn trà, lúc pha trà nghe thoảng mùi hương lan hoặc hương Mạt Ly, mùi hương tự nhiên do từ nụ trà mà ra chứ không phải trà ướp hoa như nhiều người vẫn tưởng và vẫn lầm. Người ta chỉ ướp hoa nhưng thứ trà không hương, loại trà hai tuần một lần hái, có khi còn trộn thêm với một thứ Phi Trà.
Vùng Tân An nầy có trên mười thứ nước suối, đưa ra pha trà, mỗi suối mang một hương vị khác nhau, mà hương vị nào cũng thơm ngon. Người được hân hạnh nếm qua đều ngạc nhiên, khó quên. Nhờ mọc trên núi cao, mây móc u nhàn, nên trà đã hấp thụ được hết tất cả cái gọi là tinh anh của thiên nhiên.
Lạc Xương có Mao Trà, một giống trà lá thật nhỏ, trên lá mang đầy lông tơ trắng, vị trà vừa thanh vừa ngọt, một thứ ngọt trong trẻo tinh khiết.
Triêu Dương có Phượng Sơn trà uống vào thì giọng nói trở nên trong trẻo, còn mang tên là Hoàng Trà.
Quỳnh Châu có Linh Trà, còn gọi là Giang Nam Hoàng Liên Trà, hay là Điểu Dược Trà hoặc Sơn Dược Trà., uống vào thì bổ khí.
Đất Kinh Hồ có Long Khê Trà và Vũ Tiền Trà, Vũ Hậu Trà. Sao gọi là Vũ Tiền vì thứ trà nầy đòi hỏi phải chỉ được hái vào trước tiết Cốc Vũ (lối đầu tháng ba, âm lịch). Theo sách Nông Phổ Lục Thư thì vào tiết nầy, trời hay mưa và cần có mưa để cây cỏ thêm lá nhưng nước mưa lại làm nhạt vị của hoa, quả, tất nhiên là nụ trà cũng phải chịu chung cái họa hại ấy. Vì vậy phải hái trước khi Cốc Vũ để hương vị trà khỏi bị ảnh hưởng.
Vũ Hậu Trà lại là thứ trà phải hái sau tiết Cốc Vũ mấy ngày để cho hương vị trở lại thơm ngọt, tức là trước tiết Lập Hạ. Lối 18 tháng ba âm lịch.
Xã Tiền là thứ trà phải được hái trước ngày tế Xã Thần, tức là Thổ Thần, vị Thần chủ âm khí, người ta vẫn chọn ngày Thân hoặc ngày Mậu, vì theo âm lịch thì hai ngày nầy tốt nhất trong hàng Can và Chi của âm lịch vào tháng Trọng Xuân.
Hỏa Tiền tức là vào ngày Hàn Thực, trước tiết Thanh Minh hai hôm. Ngày nầy người ta chỉ ăn nguội, không đốt lửa để tưởng nhớ đến Giới Tử Thôi. Thời Xuân Thu, ông đã phò Tấn Văn Công đi trốn suốt 19 năm có khi đói quá ông phải cắt cả thịt đùi mình nấu cháo cho vua ăn. Ngày được trở về nước làm vua lại, Tấn Văn Công đã ban thưởng cho mọi người mà quên mất Giới Tử Thôi. Ông chỉ lặng lẽ cõng mẹ vào Miên Sơn ở ẩn, có người biết chuyện làm một bài thơ treo ở cổng thành. Nhà vua lúc nầy mới nhớ chuyện cũ, ân hận cho đi tìm. Biết ông và mẹ ở trong núi nhưng nhất định không chịu ra. Nhà vua cho lệnh đốt rừng để mong ông sợ lửa mà chạy ra nhưng ông quyết tâm ôm gốc cây mà chết.
Từ đó nhà vua ra lệnh mỗi kỳ trước Thanh Minh 2 ngày, thì dân gian phải ăn thức nguội để khỏi đốt lửa. Trà hái vào ngày ấy gọi là Hỏa Tiền trà.
Hạng thứ ba, tên trà do từ hình dạng mà ra, thí dụ giống trà mang tên ngân châm tức là một giống trà khô, bé và mãnh mai như những cây kim lại có ánh bạc, trà nầy hiếm và rất ngon.
Tước Thiệt, hình mỏng như lưỡi chim sẻ, cánh tròn, theo Mông Khê Bút Đàm, trà nầy là thứ non nhất, non như những mầm lúa sữa. Cố nhiên là quý và hiếm.
Ưng Trảo, thứ lá trà nhỏ hình cong úp như móng chim, ở vườn phía bắc vùng Nam Kinh, trà vườn nầy nổi tiếng, không phải dễ mua.
Lạp Trà là thứ trà Phúc Kiến, lá vàng bóng như mầu sáp ong, còn tên là Lạp Hồ, Viên Kiến Trà.
Phổ Nhĩ, loại trà chỉ thấy sản xuất ở Vân Nam, vùng Phổ Nhỉ phủ, pha nước có thể đen như sơn, có thể làm cho giã rượu, lại còn làm tiêu các chất mỡ của thức ăn chiên xào, chữa được cả chứng ung thư dạ dày, theo sách thuốc của người xưa. Những hiệu ăn thường đãi khách với loại trà nầy.
Còn một tên nữa, rất quen thuộc là Ô Long trà, có hai thứ Ô Long, một thứ là Ô Long thanh trà và một thứ là Ô Long hồng trà, vì lá được làm dập ra trước khi….
Thanh trà nhiều chất trà tố hơn nên gọi là trà của tuổi trẻ và Hồng trà ít trà tố nên để dành cho các bô lão.
Ngoài ra còn những tên thú vị như Trảm Mã Trà, Hầu trà, Cô Nương Trà hay là Trinh Nữ trà. Tất cả đều là những tên mà nay chỉ còn vang danh. Nói đến Trảm Mã trà, phải biết rằng ngày xưa người ta phải dùng riêng một thứ kiếm gọi là Trảm mã kiếm để giết ngựa, mổ bụng ra để lấy lá trà còn nguyên, chưa tiêu hóa. Sự thực vì ngày xưa có những giống trà mọc trên đồi cao, đường đi gai góc, người không thể nào trèo tới. Trong khi đó lại có những con ngựa già không làm gì được, người ta cho trèo lên đó ăn no một bụng lá trà rồi bắt về mổ bụng, lợi một công hai việc. Kiếm để giết phải là thứ kiếm nhọn, bén, để không làm dẫy dụa, như loại dao giết cừu của các vị đồ tể Do Thái, Ả Rập mà trong Kinh của cả hai đạo đều có dặn dò. Trà hoang vẫn ngon hơn, hương vị đặc biệt hơn là thứ trà được trồng tỉa trong vườn.
Hầu Trà là thứ trà do khỉ hái, người ta cho khỉ quen với một thức ăn gì đó, có sách ghi là thuốc phiện, hòa vào nước cho khỉ uống, khỉ đâm nghiện nên cứ mỗi kỳ hái trà, chỉ việc mang vào cổ khỉ một cái túi, khỉ trèo lên cây hái thoăn thoắt, đầy túi thì trèo xuống để được thưởng, do đó mà mang tên là Hầu Trà. Sự thực cũng chỉ vì có những cành lá trà trên đồi mọc ra xa, người không thể nào hái được, chỉ có khỉ nhẹ mình mới có thể ra tận đầu cành mà hái. Loài người từ thuở nào đã biết tận dụng các thứ thú vật bắt làm tôi mọi mình.
Trinh Nữ trà hay là Cô Nương trà, thứ trà nầy chỉ để dành cho các cụ già mà còn ham chuyện hưởng thụ. Vì người ta tin rằng trong thân các cô gái đồng trinh có tỏa ra một chất sinh khí rất bổ ích cho tuổi cao niên. Nhà bán trà bèn bày đặt ra chuyện tuyển các cô gái trẻ nhỏ, nuôi cho ăn, ở, đến ngày đi hái trà thì lùa các cô ấy đi hái bỏ vào trong thân mình do một thứ áo may riêng, bó chân để giữ trà suốt đêm. Ngày mai mới lấy ra mà pha chế. Cố nhiên là giá trà rất cao và các bô lão rất tin.
Phải nhận rằng vì xứ Trung Hoa ngày xưa quá đông dân, nhà ai cũng đẻ cả chục hơn, nên sự dùng người làm những việc nầy để phục dịch thương mại cũng không lấy gì làm lạ.
Để kết thúc tưởng cũng không nên quên một thứ trà nữa là Vân Vụ Trà, giống trà nầy ở Lư Sơn thuộc phía Bắc tỉnh Giang Tây, truyền thuyết rằng ngày xưa có một giống chim bay từ phương Nam tới, mỏ chim thường ngậm một giống hạt trà mà chim đã rất ưa thích. Bay ngang Lư Sơn nhìn xuống thấy phong cảnh quá đẹp, chim thích chí, lượn một vòng ngắm cảnh, càng ngắm càng say, không nhịn được, chim đã cất tiếng hót và hạt trà đã từ mỏ chim rơi xuống, những hạt trà tinh túy công trình của chim đã mang từ phương Nam tới. Những hạt trà nầy đã rơi xuống đúng vào một khe đá, chẳng bao lâu, đã thành một vùng trà rất đặc biệt.

Người đời sau không tin, cho là huyễn thoại, cũng như người phương Nam bảo đó là giống trà ở miệt Đà Lạt. Nhưng hình như sự thật, Vân Vụ trà chỉ là một thứ trà tự nhiên, còn được gọi là Toãn Lâm Trà, toãn có nghĩa là dùi ở từ dưới đất dùi lên, và giống trà nầy đã dùi từ đá mà chui ra, đến tiết Đoan Ngọ mới bắt đầu nẩy mầm non, cây cao không hơn một xích. Đoan Ngọ vào mùng 5 tháng 5 còn được gọi là Thi Nhân Tiết. Ngày nay các nhà thơ vẫn giữ tục họp nhau, ngâm vịnh xướng họa. Trà Vân Vụ mọc trên các núi đá cao nên khó hái, nhất là sự phải đương đầu với gai góc cùng những dã thú chung quanh.
Vì Vân Vụ trà có nhiều chất thiết (ferrum) lẫn chất toan diêm (phosphore)… điều kiện khí hậu thích hợp nên trà rất nhiều nụ, mà nụ rất mập, đầy lông tơ, khi pha trà ra, nước vàng hơi lóng lánh xanh. Vị trà giống vị Long Tĩnh nhưng thuần hậu hơn, Long Tĩnh hơi chát, uống vào khỏi cổ thì vị ngọt còn giữ mãi, chén trà đã uống xong từ lâu mà vẫn còn giữ hương. Đời nhà Thanh gọi là cống phẩm chỉ dành cho giới quý tộc.
HÁI TRÀ CHẾ THÀNH TRÀ
Ngày xưa trước khi có máy, người ta thường sung đàn bà con gái làm công việc hái trà, vì công việc không có gì quá vất vả, ngày nay tuy có đủ các thứ máy hái nhưng nhiều nơi vẫn tiếp tục dùng các cô các bà, bàn tay người có thể lựa chọn, cố nhiên là đây chỉ dành cho những đồi trà quý, không được xuất cảng ra ngoài, dành cho những nhân vật biết thưởng thức, đại nghiện.
Cùng một đồi trà, một cách hái, một cách thức sấy nhưng trà hái mỗi mùa lại mang một hương vị khác. Các vị tình nhân của trà, hay các chuyên gia, nhận rằng mùa xuân trà đượm, mùa hạ trà nồng, mùa thu trà ngát, còn mùa đông thì chỉ được nước, vị trà chát và hương kém hẳn, so với những mùa kia.
Bón phân cho trà cũng phải tính ngày, bón phân sớm hoặc muộn sẽ có ảnh hưởng cho cả hương lẫn vị. Có những thứ trà chỉ thích được hái vào đầu thu, khi heo may chớm thổi. Sau đó người ta mang về phơi trong nhà, chỉ có gió vào, nhờ gió làm cho héo đi, chứ không phơi, không sấy than như những thứ trà khác. Phần đông trà của hai mùa Xuân và Thu là loại trà ngon, những mùa kia hái trà chỉ để phục vụ thương mãi.
Trà ngon, muốn cho thật đúng, còn phải biết săn sóc, làm cỏ, bón phân, ở đây không dùng phân hóa học, chỉ một số phân thiên nhiên, còn thì cần nhất là hái lá trà già, ủ làm phân, lá trà tự nuôi lấy cây thì trà mới ngon. Đối với các nhà trồng trà để bán nhiều ra ngoài, không bao giờ chịu bỏ phí lá trà như thế.
Phải cắt ngọn thế nào cho cây trà ra thật nhiều nhánh, để có nhiều nụ, nhiều lá, để chế các thứ hồng trà, hắc trà mà xuất cảng chứ không cần phải nghĩ đến hương và vị, tất cả đều có các chất hóa học giả tạo phụ giúp nếu cần đến, cố nhiên là trà ngon sẵn thì tự nó đã thơm.
Chúng ta vẫn nghe nói đến mấy chữ: Nhất thương nhất kỳ, tức là một cái que một lá, rồi đến nhất thương nhị kỳ, là một que hai lá. Thương tức là cái cán cờ, cái que cắm cờ, và nhất kỳ là chỉ có một nụ một lá, thứ trà quý nhất, sau đó là một nụ hai lá, dưới một tí nhưng cũng đã phải trả giá đắt, sau đó là một nụ ba, bốn, năm lá để chế các thứ chè mạn, chè buồm, cuối cùng, xứ ta còn gọi là chè Huế, là thứ lá già bên dưới, hái về phơi nắng mỗi lần nấu nước lên một lần với lá chè, rẻ tiền.
Có những thứ trà phải cần được sấy bằng than, ủ một lần trong mấy tiếng đồng hồ là đủ, nhưng có những thứ khác cần sấy hơi, sấy than, sấy nắng, sấy gió, và ngày nay người ta sấy bằng máy trong những cơ xưởng chế trà.
Trà tươi 100 ký lúc sấy khô chỉ còn có 25 ký mà như chúng ta đã nói ở trên, có thứ cần hái khi mới dứt sương, có thứ phải hái vào lối từ 12 đến 14 giờ rồi thôi, như thế mới hội đủ hương vị, đòi hỏi của giống trà.
Trà tốt phải dính chắc như keo, sắc vàng mật, ánh như nắng mùa xuân, hương trà lại phải tùy theo mỗi giống, cố nhiên là hương tự nhiên, không phải thứ ướp hoa.
DỤNG CỤ UỐNG TRÀ
Nhắc lại, chúng ta uống trà ngày nay là theo lối uống trà của đời nhà Minh, tức vào lối thế kỷ thứ 16 mà thôi. Đời nhà Đường, tức là lối của Lục Vũ chúng ta không theo. Sử chép vào thời Thần Nông người ta còn bỏ thêm vào nồi trà nào gừng, nào muối, nào vỏ cam, có khi thêm cả hành để trị bệnh. Chúng ta cũng không uống theo lối Mạt Trà, từ đời nhà Tống như người Nhật Bản mà chúng ta uống theo lối Tiễn trà hay là Tán trà, tức là bỏ trà khô vào ấm, chế nước sôi lên.
Một bộ trà gồm có một cái dầm để ngâm trà cho nóng, gọi là trà tẩm, một cái ấm gọi là trà hồ, một cái khay là trà bàn, một chén tống và ba chén quân.
Chén tống xưa gọi là tướng, sau đổi gọi là tống, chén tống rất quan trọng, như một vị tướng chỉ huy ba đội quân, nó vừa để tống vừa để nghênh đón những giọt trà mà được người xưa gọi là “Dịch thể ngạnh ngọc bào”. Để rồi chuyển qua những chén quân sau đó.
Chén tống có hai loại hoặc là trên dưới bằng nhau, hoặc là miệng hơi loe ra cho khỏi vung vãi đổ ra ngoài phí trà, chén tống làm cho nước vừa uống, khỏi bỏng môi bỏng họng, vì nước từ ấm trà ra bao giờ cũng phải dùng thứ nước thật sôi, mỗi lần mỗi nấu lại, nếu muốn pha một ấm trà mới, không lấy nước đã được nấu mười phút trước. Nước chưa đủ độ trà sẽ không chìm và không toát ra đủ tất cả hương vị của từng lá trà.
Tại sao phải là ba chén quân, vì người xưa hay có câu tam quân đương nhất chiến, phải ba đạo quân mới giữ vững được một trận tuyến, và người xưa lại còn nói thêm một câu khác nữa là: Quân chi tam đội, thành nhất chiến chi công. Ngay những lúc độc ẩm cũng phải cần tam quân để cho trà vừa nguội, uống hết chén nầy lại uống chén nữa, sau đó mới pha lần khác. Có người để sẵn trong chén tống, pha riêng khi độc ẩm, nhưng nghi thức vẫn đòi hỏi tam quân. Con số ba là dương số, con số vừa vặn nếu 5 thì lại quá nhiều mà người xưa ít thích âm số, tức số chẳng. Sau đó là cái khay, tùy từng hoàn cảnh, có những cái khay mà người ta có thể súc chén đổ ngay xuống, nhưng có loại khay phải cần thêm một cái lon hoặc bình để đổ các thứ nước thừa thãi, bã trà…
Cuối cùng, chúng ta để dành riêng một trang để nói riêng về cái ấm mà còn gọi là trà hồ. Theo đúng lễ nghi nguyên tắc, bao giờ cũng phải có cái ấm. Ngày nay có vài nhà đã theo lối mới chỉ bỏ trà trong cái cốc đổ nước sôi đậy lại, nhưng như thế chỉ là để uống nước cho khỏi khát, khó thưởng thức trà trong lối uống như thế. Hẳn vì sợ người ngoại quốc không hiểu nên người ta mới phải làm đơn giản hóa nghi thức uống trà, xem trà như cà phê chắc cũng là ảnh hưởng của người Âu châu chăng?
Không phải cái ấm nào cũng giữ được hương vị trà, yếu tố cần thiết là đất, rồi đến những điều kiện đòi hỏi một cái ấm tốt phải hội đủ, mới có thể pha được một ấm trà ngon.
Xin được nói qua một chút về truyền thuyết và lịch sử, chúng ta thường nghe nói đến cái tên Nghi Hưng, và các cụ mua ấm ngày xưa cũng đòi cho được loại ấm làm tại đấy. Nhưng Nghi Hưng là đâu, tại sao lại đòi phải cho được ấm từ Nghi Hưng.
Đọc sử hẳn ai cũng biết câu chuyện Phạm Lãi với nàng Tây Thi, ông là người đã giúp Việt Vương Câu Tiễn trả được mối thù với Ngô Vương Hạp Lư, nhờ dùng Mỹ Nhân kế là nàng Tây Thi, làm cho Ngô Vương mải vui theo người đẹp mà quên mất chính sự.
Sau khi chiến thắng ông thực hành đúng câu nói của cổ nhân là công thành, thân thoái (thành công rồi thì rút lui), sự thực thì tại ông biết xem tướng. Thấy Việt Vương Câu Tiễn là người có cái cổ dài và cái miệng giống mỏ chim mà người như thế với tướng đàn ông thì là thứ người chỉ có thể ở với nhau lúc hoạn nạn nhưng không thể cùng chung sống khi giàu sang thanh bình, vinh hiển (khả cộng nhục bất khả cộng vinh). Nên ông đã xin từ chức mặc dầu Câu Tiễn dọa dẫm đòi bắt vợ con ông cũng không cần, cứ ra đi. Sử ghi ông đã bơi thuyền nhỏ đến Ngũ Hồ, sau khi đã vượt khỏi Tam Giang. Có sách ghi ông sang Tề làm đến Thượng Khanh đổi tên là Lục Di Từ Bi, sau đó mới bỏ Tề sang Thái Hồ làm nghề đào khí, tức là đồ gốm đổi tên, họ một lần nữa là Đào Chu Công.
Ban đầu người trong làng bắt chước ông chỉ làm để dùng trong vùng sau đó tiếng tăm càng ngày càng nổi. Nghi Hưng trước tên là Dương Tiện, trên đất tỉnh Giang Tô phía tây Thái Hồ. Trước đời nhà Minh người ta uống trà trong những cái ấm lớn mà nổi tiếng nhất là ấm của Chu Cao Khởi. Sang đến niên hiệu Chính Đức, Thái Hồ có một ngôi chùa nhỏ mang tên là Kim Sa tự, trong chùa có một vị sư hiệu là Vô Danh, nhà sư cũng rất thiện trà, một hôm, ông suy nghĩ rồi nhận thấy quả thật uống trà trong cái ấm lớn vừa tốn trà vừa tốn nước, lại không đủ hương vị, nhân quen với những đệ tử làm nghề đào khí, ông bèn chọn thứ đất tốt rồi tự tay nắn lấy cho mình một cái ấm nhỏ, hình như quả trứng có nắp đậy, trên nắp có lỗ để cho thông khí. Mang vào lò nung xong, về chùa tự pha trà uống thì đúng y như ý muốn. Chỉ cần một nắm trà, không phải đun nhiều nước mà rồi uống chén nào ra chén nấy, hội đủ hương vị sắc, lại không phải uống nhiều đến nổi mất ngủ.
Ấm trà nhỏ ra đời từ đấy, mọi người đều công nhận sự ích lợi thiết thực của cái ấm nhỏ và phong cách uống trà cũng đổi bắt đầu từ đấy, ấm lớn chỉ được dùng khi nào cần đãi đông người, uống nước cho đã khát, nhưng với bạn tri kỷ, đạo trà, thì người ta mang ấm chén như đã nói trên ra để chủ với khách cùng thưởng thức.
Nghi Hưng được nổi tiếng chỉ vì nơi nầy có thứ đất sét gọi là Dao, để nặn ấm mà các vùng khác không có. Xứ Nhật Bản trong tác phẩm Minh Đại chi đào khí, người ta cũng rất quan tâm về vấn đề xuất xứ của thứ ấm đất nầy. Căn cứ vào các thi phẩm từ Hán, Đường, Tống và ngờ rằng ấm trà bằng đất đã có mặt từ trước ở những nơi khác chứ không riêng gì Nghi Hưng. Nhưng người ta cũng tìm được một số tài liệu từ đời Hán, mà bên dưới những cái ấm đất đều có khắc chữ triện Dương Tiện Chế và Dương Tiện là tên cũ của Nghi Hưng. Trong sử cổ cũng có câu: Thuấn đào Hà Tân, mà Hà Tân chính là Nghi Hưng.
Đời Đường uốn trà thịnh hành nhất, thì trà cũng sản xuất từ huyện Nghi Hưng. Có người đặt câu hỏi, có phải ở giữa cây trà và đất Nghi Hưng đã có một sự liên hệ chăng. Nhà sư Vô Danh ở Kim Sa tự, không phải chuyên nghiệp nên sau đó ông chỉ làm một số cho các bạn bè, nên ấm Vô Danh mà dấu tay của nhà sư thay cái triện dưới đáy ấm. Ngày nay không còn thấy, có học trò của ông là Cung Xuân mới chính là người đã làm phát triển loại tiểu hồ trà nầy. Cũng có người cho Cung Xuân là thủy tổ của nghề làm đồ gốm.
Thuở ấy người ta lại có cái lệ khắc thơ hoặc một câu gì trên ấm, có một câu “Hồi Văn Thi” rất được nổi tiếng đọc ngược xuôi gì cũng được đó là câu “Khả dĩ thanh tâm dã” có thể đọc thành “dã khả dĩ thanh tâm”, “thanh tâm dã khả dĩ”, hoặc “Tâm dã khả dĩ thanh”,… Ý nghĩa thì mọi người đã hiểu là uống trà trong cái ấm nầy thì có thể làm cho cái tâm người được trong sáng.
Về sau có những cái ấm kỳ hình quái trạng ra đời nhưng chỉ để bày cho vui mắt chứ không thể dùng để pha trà được.
Một cái ấm quý phải hội đủ mấy điều kiện, miệng, vòi và quai ấm phải ngang nhau lúc đặt sấp xuống bàn không chênh vênh, đổ nước sôi vào phải nóng ngay, mà quai ấm cầm vẫn không bỏng, nắp ấm phải khít khao với miệng ấm, nắp ấm có một lỗ nhỏ mà nước không được trào ra ở lỗ ấy. Lúc cầm lên pha vào chén, nước từ ấm ra phải chảy thành một đường như đường chỉ, không được vung vãi. Lúc ngừng tay, nước không trào ra ngoài giọt nào. Đặt ấm vào tai, nghe vi vu như tiếng sóng. Đất phải thật nhẹ và mịn nhuyễn. Đất mầu tím là hạng nhất gọi là Tử Sa, Thiết Sa, Chu Sa hạng nhì, sau đó còn hoàng sa, bạch sa, lam sa, đều có thể dùng làm ấm trà nhưng ở các hạng sau.
Sau khi nhà Minh mất thì mới bắt đầu nghe nói đến Tam Đại, Tứ Gia và Ngũ Đại Danh Hồ. Tam Đại có: Thời Đại Ban, Lý Trung Phong và Từ Hữu Tuyền, cả ba đời nầy làm đồ gốm, nhất là trà hồ rất nổi danh.
Tứ Gia là Đông Hàn, Triệu Lương, Nguyên Sướng và Thời Bang.
Ngũ Đại Danh Hồ có: Vô Danh Hồ, Tư Đình Hồ, Đạt Công Hồ và Mãnh Thần Hồ.
Ngày nay chỉ còn nghe và thấy một vài khi đến Ngũ Đại Danh Hồ mà thôi, nhất là Mãnh Thần Hồ thì vẫn còn sản xuất, với các tên khác, nhất là Vô Danh, không ai còn giữ được ấm nào hay là có, mà chúng ta chưa được biết.
Sau đây xin lượt kể vài đặc điểm của các thứ ấm Ngũ Đại Danh Hồ.
Vô Danh Hồ, ấm xuất từ chùa Kim Sa, nắn bằng tay chứ không nắn bằng bàn đạp, mầu đất của ấm là mầu cổ đồng, hình quả trứng, đáy ấm có ấn dấu tay, khi đổ nước sôi vào thì ấm tự xủi lên, từ ở ấm phát ra một âm hưởng nhè nhẹ, không ngừng cho đến khi nước nguội dần.
Tư Đình Hồ do Cung Xuân chế, bên trong là thứ đất thường, nhiều mầu, đậm nhạt đều có, giản dị, xinh, đáy rộng, thường khắc một câu thơ: Nhất luân tân nguyệt trạm giang hình.
Đạt Công Hồ mầu sáng, miệng ấm nhỏ mà cao cổ, vòi ấm dài, nhỏ, bụng ấm rộng mà dẹp, đáy khắc thơ hoặc 4 chữ Xuân Hoa Thu Nguyệt.
Mãnh Thần ấm nhỏ, tinh xảo, thanh nhã, nắp và ấm khít nhau, hay khắc những câu như Minh Nguyệt Tùng Giang Chiếu. Ngày nay chúng ta vẫn thường thấy các cụ để lại cho con cháu đa số là Mãnh Thần Hồ….
Da ấm cần phải mỏng, láng, gõ vào kêu tiếng thanh, ấm dùng lâu, bao giờ cũng có cốt trà đóng bên trong, để cho giữ hương vị trà. Không ai mang ấm trà ra mà kỳ cọ bao giờ, đó là điểm tối kỵ trong nghệ thuật uống trà.
Tùy từng lúc, với một người nghiện nặng, trong nhà bao giờ cũng có mấy cỡ ấm, lúc một mình độc ẩm cần ấm riêng cho một người, song ẩm để uống với tri kỷ, và quần ẩm lúc có trên ba người.
Uống trà chỉ thú vị khi uống với tri kỷ, nếu không là tri kỷ, thì thà uống một mình để còn có thể suy tư.
Trà tẩm tức là cái dầm, bộ trà nào cũng có cái dầm vừa tầm với cái ấm, để ngâm ấm mà không ngập đến miệng vòi, vì trà cần được nóng từ bên trong đến bên ngoài.
Chén uống trà mà chúng ta gọi là tam quân ở đoạn trên, cũng rất quan trọng, người ta phải chọn chén, men chén phải mầu gì để hợp với sắc trà, hoặc làm tăng thêm sắc lóng lánh của trà, trái lại có những mầu men làm giảm sắc trà, tức là giảm hứng thú.
Trà ngon phải hội đủ ba yếu tố: Hương, Vị, Sắc. Nếu để mất đi một là không thể đạt được, đây dành cho người biết thưởng thức. Lắm khi trà ngon lại pha không thành, mà trà thường lại pha ra ngon, đó cũng là nhờ tài pha của người biết trà. Hà tiện, bỏ ít trà, thì vị sẽ kém, bỏ quá nhiều thì vị và sắc cũng quá độ.
Nhà thơ Trà Thánh Lục Vũ thích mầu men xanh, thứ men nầy đời Đường gọi là Thanh Từ, nhưng chỉ riêng ở phương Nam mới chế được mầu men nầy, phương Bắc chỉ chế được men trắng, Bạch Từ. Lục Vũ chuộng mầu Thanh Từ, cho rằng nó làm tăng thêm mầu lục của nước trà, trái lại, với ông thì men trắng làm cho sắc trà trở thành vàng hồng, sẽ kém đẹp, giảm phần thi vị.
Người ta còn nhận định chất thơm ở lá trà và chất ngậy ở nụ. Đoạn trên có nói đến một thứ trà mang tên Tước Thiệt. Khi lá trà nầy chỉ được hái một nụ một lá, tức là nhất thương nhất kỳ, bề dài chỉ độ từ một phân rưỡi đến hai phân rưỡi là hết. Mỗi cân trà đếm độ trên hai chục nghìn nụ mà thôi.
Sang đời Tống, uống theo lối Mạt trà nên lại chuộng men mầu xanh đen (thanh mặc) và mầu nâu sẫm (ám hạt) hơi u ám nặng nề. Ngày nay người ta tìm được những vết tích các thứ ấm đất từ thời ấy, rất thô sơ, nhưng cũng để chứng minh rằng, đất Dương Tiện đã là nơi cung ứng loại ấm trà bằng đất từ trước đời Minh.
Xứ ta cũng bắt đầu uống trà theo lối của nhà sư Vô Danh và Chúa Trịnh đã cho người sang Trung Hoa đặt riêng cho Phủ Chúa những thứ chén trà có dấu Nội Phủ mà chúng ta còn được thấy rất nhiều ngày nay ở Việt Nam.
Những bộ chén nầy phù hợp với loại kỷ trà chạm cẩn do người thợ Việt Nam với bàn tay khéo léo đã làm ra, còn lại rất nhiều, chúng ta vẫn thấy ở các gia đình cổ kính.
Chén uống trà cũng được chia ra chén đông ẩm, thu ẩm, và hạ ẩm.. chén đông ẩm trên dưới không khác nhau, chén hạ ẩm miệng chén hơi loe ra bên trên. Xứ ta hay gọi là chén hạt mít, vì có những mầu men tựa như thế và chén cũng khá bé nên được mang tên ấy.
Còn một vật nữa mà ngày nay không mấy ai dùng, trừ phi sống trên đò như ông Lục Quý Mông, hay những ai sống trên núi đó là cái hỏa lò và than. Người xưa cầu kỳ, ngay đến than cũng được chọn rất kỹ, để cho nửa chừng đừng có tắt, làm hỏng nước. Lục Quý Mông, tức là ông Lã Vọng, con người đã câu cá chờ thời, theo sách ghi lại, ông thường thả ghe nhỏ mang theo cần câu, chõng tre, kệ sách, bút mực, hoa lá và trà thơm để qua lại trên sông, trong khi chờ đợi Văn Vương.
CÁCH THỨC PHA TRÀ
Làm sao để pha một ấm trà cho đúng nghi thức, hợp trà đạo, không làm tủi lòng trà, được xứng danh là sành.
Có thể bảo rằng ai chẳng biết pha trà, chỉ có đun nước sôi bỏ trà vào ấm chứ có gì đâu. Đơn giản như thế nhưng nếu làm đúng tinh thần trà đạo thì nó sẽ khác hẳn nhất là ở mặt tinh thần, triết lý, tư tưởng.
Chén trà pha đúng nghi thức sẽ không còn mang tính chất tầm thường do bàn tay của kẻ vô tình, nếu muốn tránh chữ phàm phu, và để cho kẻ vẫn bị gọi là “ngưu ẩm”. Pha đúng nghi thức sẽ thành một chén của “Dịch Thể Ngạnh Ngọc Bào” như đã nói ở trên.
Yếu tố cần thiết để có thể pha trà ngon còn là yếu tô Nước, không phải lấy nước ở đâu cũng được và bất cứ ngày giờ nào cũng đuọc.
Thứ nước làm cho trà tăng hương vị, hoặc giữ trọn hương vị gọi là nước suối núi vì suối là bạn của trà (tuyền dĩ trà vi hữu), thứ hai là nước giếng núi, là hai thứ nước của thiên nhiên, vị nước ngọt, thanh. Thứ ba là nước sông, những dòng sông ngày chưa bị ô nhiễm. Ngày xưa nước mưa, cũng như nước tuyết cũng được liệt vào hạng bạn của trà, nhưng ngày nay, ở thời đại ô nhiễm nầy thì mây trên trời cũng không còn mang lại những giọt nước trong lành nữa. Ngày nay người ta uống nước máy nhưng với các chất sát trùng hóa học, hoặc chất vôi trong nước làm cho trà trở thành tím và mất rất nhiều hương vị.
Người ta kể chuyện Lục Vũ, một hôm cho tiểu đồng đi ra giữa giòng sông mà lấy nước, vừa nhìn thùng nước mang về, ông lắc đầu, đổ đi gần hết nửa thùng rồi mới đưa vào nấu trà. Các bạn ngạc nhiên hỏi chú tiểu đồng, chú bé thú nhận là vì thuyền chòng chành làm đổ đi mất phân nửa. Vào đến bờ thấy nước quá ít chú bé múc nước ngay ở bờ đổ thêm, ngỡ rằng đâu cũng là nước. Các bạn khâm phục.
Cố nhiên là người đời sau ngờ vực cho đó chỉ là huyền thoại mà thôi. Người xưa còn đi lấy nước vào lúc sáng tinh sương chưa bị bụi bặm của ban ngày xâm phạm, sau một đêm ướt sương, không khí cũng như nước đều được trong lành hơn.
Ngày nay với thời đại văn minh nầy, người nghiện trà, hoặc là mua nước suối, hoặc dùng nước máy nhưng phải đun lên một lần, mang lọc qua những cái lọc giấy mà người ta vẫn dùng để lọc cà phê, có thể đặt thêm một miếng bông gòn để cho các chất vôi, cáu và thuốc khử trùng hóa học đi bớt. Thứ nước nấu và lọc nầy xong, còn phải để ra vài ba ngày mới mang đun trà, có như thế trà mới không đổi sắc và hương vị. Cố nhiên là không bằng với nước suối núi được. Thời Lục Vũ người ta chia ra đến mấy chục thứ nước nhưng bây giờ thì con người đành phải bớt khó tính, bớt cầu kỳ.
Nước sôi có 3 độ, lúc ban đầu nước sủi lăn tăn như những hạt cườm nhỏ, hay mắt cá đang nổi lên, độ thứ hai trở thành hạt châu, to hơn, những hạt châu lăn lóc trên mâm bạc, độ thứ ba nước bắt đầu lên tiếng gào thét, những hạt châu trở nên điên cuồng đòi vùng ra khỏi nồi nước. Lúc nầy cần phải lấy xuống ngay, không nên để lâu nước sẽ làm cứng trà. Kỵ nhất là nước đun từ nửa tiếng hay một tiếng đồng hồ trước, mặc dầu đã bỏ vào bình thủy, nước vẫn không đủ sức làm chìm trà. Khi một ấm trà đã hỏng rồi thì chỉ có cách là bỏ ra làm ấm khác.
Các cụ xưa cần tiểu đồng quạt than cho nước luôn luôn sôi là thế.
NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN
– Nước sôi đổ vào để tráng ấm cho nóng và sạch.
– Bỏ trà vào ấm, vừa với độ chứa của ấm, độc ẩm hay song ẩm hay quần ẩm. Người nghiện còn bỏ một lớp trà một lớp mạt trà, rồi lại một lớp trà trên nữa. Mạt trà là để gọi những vụn trà còn lại bên dưới, mỗi lần thay trà mới vào hộp, người ta cất riêng cái vụn không cho lẫn.
– Nước đang sôi chế vào trà rồi đổ ra ngay, gọi là rửa trà hay là để cho trà được thấm chất ẩm.
– Đặt ấm vào dầm chế nước sôi vào ấm, đậy nắp ấm và sẵn nước sôi, chế cả lên ấm cho gần ngập, làm như thế để trà được nóng từ trong ra ngoài tất cả trà phải toát ra hết chất tinh túy.
Trong lúc chờ trà ngấm, lối 5 phút thì phải lo sửa soạn quay chén vào nước sôi, cả chén tống cũng phải được tráng nước sôi. Sau 5 phút có thể pha trà ra chén tống để rồi chuyển vào những chén quân mà thưởng thức với tri kỷ.
Không kể lần nước đổ ra khi rửa trà, nước nầy gọi là Khất Cái, tức là nước đổ cho ăn mày uống, vì người ăn mày thời xưa cũng biết thưởng thức trà.
Nước thứ hai, mới chính là nước trà nhất, vừa thơm ngon đậm đà, đủ ba yếu tố, tam tài tức là thiên, địa, nhân, thiên là Hương trà, địa là Vị trà và Nhân là mầu Sắc của trà. Nước thứ nhất được gọi là Hoàng Đế trà, theo nguyên tắc Quân Sư Phụ. Sau nước thứ hai là của Lão Bá, tức là cha mẹ ông bà, hay thầy giáo, người mình kính trọng. Nước thứ ba gọi là Bình Dân trà.
Nếu chỉ pha trà cho mình thì chén thứ nhất và thứ hai, thứ ba được gọi là tri kỷ, sau đó những nước chế vào chỉ để uống nước mà thôi.
TRÀ VỚI NGƯỜI NHẬT BẢN
Với sự thành công trên mặt trận kinh tế, nước Nhật đã dư sức để tung ra thế giới tất cả những cái hay, cái đẹp của họ, mà người Âu Châu ngày nay rất say mê.
Hẳn độc giả đã từng nghe, đọc hoặc đã dự qua những buổi lễ uống trà của người Nhật. Ở đây, đã nói đến trà thì chúng ta cũng không thể bỏ quên.
Từ đoạn trên chúng ta có nhắc đến đời nhà Tống có vị Thiền sư Nhật Bản, khi sang Nam Hoa để nghiên cứu về Thiền học, ông còn nghiên cứu thêm về các giống trà, và đã chọn giống trà ở Phù Lương, thuộc tỉnh Giang Tây. Mang hạt trà về trồng tại mấy vùng, nhưng về sau chỉ nghe nói đến 2 tên Châu Sơn và Vũ Thủy là nổi tiếng.
Bắt đầu từ thế kỷ thứ 15 người Nhật Bản đã nâng trà lên đến một địa vị quan trọng hầu thành một nghi lễ, một tôn giáo mà mọi người đều nghe nói đến hai chữ Trà Đạo. Lúc bình thường thì hầu hết người Á Đông, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam hay Trung Hoa đều uống trà theo một cách thức gần giống nhau, đến đâu cũng thấy có một kỷ trà hoặc một bình trà được pha sẵn, tùy khách muốn uống thì cứ pha lấy mà uống.
Ở đây không đi sâu vào triết lý của trà đạo mà chỉ xin nói qua về nghi thức của trà đạo mà thôi.
Thứ trà mà chúng ta vẫn nghe nói trong các buổi lễ là một thứ trà bột (Koicha), mầu lục đậm, lúc quấy ra thì đặc như một thứ kem, nhưng phải quấy sao cho đừng nổi bọt, đừng đóng thành từng cục nhỏ, nói đơn giản ra thì nó chỉ có thế, và trà Nhật Bản rất đậm, uống vào một bát lớn là có thể thức luôn mấy đêm.
Bước đầu của Trà Đạo là do một vị thiền sư, về sau cũng do các thiền sư tiếp tục nâng trà lên một vị trí xứng đáng và dạy cho dân chúng cũng biết theo lối Trà Đạo nầy. Trà và Thiền là hai thứ được đi đôi với nhau, hòa hợp với nhau. Tùy ở cuộc sống, ngày nay cũng có những người Nhật chưa bao giờ được nhìn một buổi lễ Trà Đạo của họ.

Trà Đạo phải được đặt vào trong một ngôi Trà Thất mới đúng khung cảnh của nó. Nguyên Thủy của Trà Thất chỉ là những mái chùa Thiền, đơn sơ bé nhỏ, nên ngày sau người ta cũng vẫn tiếp tục theo lối kiến trúc đơn sơ ấy, để xứng với cái tên Trà Thất được gọi là “Hư Không Cư Trú”.
Số khách được mời đến dự một buổi lễ Trà Đạo không quá 5 người. Vì trà đặc nầy là một thức uống mạnh, người bụng đói có thể bị say nên trước khi uống trà, quan khách thường được mời ăn chơi một chút để dằn bụng, và chữ Kaiseki để nói đến cái lúc ăn nầy, còn liên quan và đồng âm với chữ dùng để gọi khối đá nóng mà ngày xưa các thiền sư vẫn đặt lên bụng dằn cho bớt cảm thấy đói cào xót khi ngồi tham thiền. Kaiseki không phải là một thức ăn cầu kỳ mà chỉ làm nặng bụng một chút, vậy thôi, để cho khỏi bị cồn cào sau đó như đã nói.
Ăn xong, khách được mời ra dạo vườn cho giãn gân cốt, rửa tay, nếu cần, sau đó mới trở lại vào Trà Thất.
Khi nghe tiếng cồng nhỏ vang lần cuối, thì tất cả các vị khách đã vào chổ ngồi của mình. Trước khi ngồi xuống, mỗi người không quên đến nghiêng đầu cúi chào trước cái bệ có đặt bức tranh hay bình hoa cắm theo lối Thiền, đó là điểm trang trí độc nhất của ngôi Trà Thất. Khách cũng không quên đến gần các dụng cụ nhìn kỹ, xa xa, không cầm lên, không sờ mó.
Chờ cho quý khách đã an tọa, trong gian phòng lúc nầy chỉ còn có tiếng nước sôi reo, như tiếng nước suối chảy đâu đây. Ánh sáng dịu dàng mát mẻ, mọi thứ, từ sàn nhà, vách tường mái đều u nhã, ngay cả lối ăn mặc từ chủ đến khách cũng phải nhã nhặn. Chẳng ai dám dùng những mầu sặc sỡ để đi dự một buổi lễ trang trọng nầy.
Khách đã an tọa, tấm cửa ra vào được hạ xuống, từ Thủy Ốc tức là cái chái nhỏ bên cạnh, chổ để rửa và xếp đặt các thứ cần dùng cho buổi trà lễ, lúc nầy chủ nhân mới bước sang Trà Thất để chuẩn bị pha trà.
Nào trà uyển (chén trà) đặc biệt là chỉ dùng có một cái, nào trà khâm (khăn lau), trà tiễn (cái chỗi để quậy trong chén trà sẽ được chủ nhân pha chế). Mọi thứ đều phải tinh khiết sạch sẽ, và riêng cái khăn lau, cái gầu tre múc nước, và cái tiễn đều phải là những thứ tre mới chưa dùng qua một lần nào.
Chủ lễ quỳ xuống, các thứ đặt trước mặt, lúc nầy là lúc quan trọng, ai chưa quen sẽ lúng túng vì tất cả mọi hành động, cử chỉ đều đã được đặt theo thứ tự quy tắc.
Đối với các trà sư thì đây chỉ là những động tác tự nhiên, tuy rất quan trong, không thiếu, không thừa.
Cánh cửa liếp từ thủy ốc cũng đã được kéo lại và sau đây là những động tác của người chủ lễ:
Tay phải đưa ra, cầm lấy cái chén, đặt vào lòng bàn tay trái, rồi tay phải đỡ bên dưới trước khi đặt cái chén xuống phía trái. Cái hộp đựng trà được kéo đến trước nồi nước sôi, mà mỗi phút qua càng reo mạnh hơn. Chủ lễ lại đứng lên, đi qua thủy ốc mang một cái chậu nhỏ để đổ các thứ nước tráng chén, một mắt tre xanh để gác nắp nồi nước sôi. Cái gầu múc nước được đặt ngang miệng chậu. Những vật nầy lúc đưa sang, chủ nhà cố ý hạ thật thấp để mọi người khỏi phải nhìn thấy vì chúng nó chẳng đáng gì.
Cửa liếp ở thủy ốc lại được đóng, khi người chủ lễ trở về, quỳ trước ấm nước sôi. Người chủ lễ dùng tay trái cầm cái gầu nâng lên, tay phải đỡ bên dưới. Người chủ lễ ngưng thần, nhìn xuống cái chén, hình như đó là mãnh gương soi linh hồn. Cái gầu được đặt sang phía trái cạnh cái lò, tay phải nâng gầu rồi lại đặt xuống trà uyển gieo một âm thanh sắc cạnh. Mọi người đều lễ phép cúi mình như để chào buổi lễ sắp bắt đầu. Cũng là giờ phút mà từ chủ đến khách đều phải sửa sang giáng ngồi, tập trung tư tưởng và huy động thần lực.
Lần nầy tay phải lại nâng trà uyển lên, tay trái đở bên dưới để chứng tỏ sự kính cẩn đối với vật thể vừa được nâng lên. Trà uyển lại được đặt xuống, kéo hộp trà tới, mở sợi kim tuyến buộc ngoài, lấy bình trà được nằm gọn trong bao lụa thêu. Chủ nhân lại lấy một chiếc khăn lụa khác đã được xếp sẵn, được gói trong bao giấy mịn, dùng khăn lụa nầy để lau trà uyển, trước khi lau, còn phải nhìn khăn xem có vết nào đáng thắc mắc, mặc dầu tất cả đều mới tinh.
Những cử chỉ lau chùi khám xét nầy đã được đi vào nghi thức không thể bỏ qua. Sau khi dùng khăn lau mọi thứ, chủ nhân lại xếp khăn bỏ vào bao, đợi lúc cần đến mới mở ra, không để bừa bãi ra ngoài.
Chủ nhân dùng tay phải lấy gầu đưa qua tay trái, tay phải mở nắp ấm, đặt xuống cái gác nắp ấm bằng tre. Đây là nắp ấm không phải bằng kim loại, nếu là bằng kim loại thì cần phải có một cái khăn để khỏi bỏng tay.
Bắt đầu múc nước, 3 gầu từ trong ấm ra, đổ vào trà uyển để tráng chén, cả cái tiễn để quấy trà cũng được quấy trong nước nóng. Đặt trà uyển, đã được lau chùi xuống chiếu, tay phải cầm thìa múc trà, tay trái nghiêng bình đựng trà đã được mở nắp. Múc ra 3 thìa trà, đặt thìa vào trà uyển và lấy khăn lau uyển, tức là chén trà mà mọi người rồi sẽ được uống, đậy nắp bình, gõ nhẹ thìa để tất cả bột trà rơi hết xuống uyển. Một gầu nước lã được đổ vào nước đang sôi để nước phục hồi nguyên tính. Một gầu nước khác được múc ra đổ vào trà uyển. Gác gầu ngang lên miệng ấm, lối nầy gọi là định tiễn, có nghĩa là cho mũi tên được nghỉ ngơi.
Lúc nầy giáng ngồi của người chủ lễ hơi cúi ra đằng trước, một tay giữ chén trà, một tay quấy bằng cái tiễn đã được rửa nóng ban nãy. Quấy trà nầy là cả một nghệ thuật phải vừa vững vừa mạnh tay, lúc nó sềnh sệch mới thêm một vài gầu nước nữa cho vừa uống.
Khi nhìn thấy vừa đúng một chén trà, không đặc, cũng không lỏng quá. Chén trà được nâng lên đặt vào lòng bàn tay trái, xoay theo chiều đồng hồ, để cho mặt chén sẽ được ngươc từ phía người chủ lễ ra phía người thượng khách của buổi lễ.
Thượng khách phải biết mà nghiêng mình về chén trà, hai tay kính cẩn nhận lấy, quay mình về phía người khách thứ hai. Mọi người lại phải cúi mình để chào chén trà. Thượng khách, hai tay nâng chén trà lên xoay hướng mặt chén ra ngoài trước khi đưa lên miệng uống một hớp.
Chờ khách vừa uống xong, chủ nhân hỏi thăm:
– Thưa có vừa uống không?
– Thưa vừa vặn, rất ngon.
Khách trả lời khẳng định, sau khi uống xong 3 hụm nhỏ, khách phải nhẹ nhàng và kính cẩn đặt chén trà xuống chiếu trước mặt mình, rút chiếc khăn mới đã mang sẵn theo với mình lúc ra đi, để chùi chỗ miệng mình vừa uống. Mỗi vị khách lúc đi dự buổi trà đạo đều bắt buộc phải có mang theo một chiếc khăn mới, không thể nào quên chiếc khăn mới nầy, nên nhớ nó không phải là cái khăn tay như lệ thường, khăn phải chưa bao giờ dùng, còn mới nguyên. Trà uyển lại được nâng lên, quay ngược chiều đồng hồ, đưa sang cho người đệ nhị thượng khách.
Chủ nhân là người uống chót, sau đó lại chùi miệng chén trao về cho thượng khách để ông nầy ngắm nghía cái chén cho thỏa thích. Khách sẽ đặt câu hỏi về chén trà từ bao nhiêu thế kỷ, xuất sản tại nơi nào. Khi chủ đã hỏi hết các vị khách nhận xét phê bình về chén trà rồi thì mỗi người phải biết khen trà, khen cách pha chế và cảm ơn buổi lễ đã cho mình cái hân hạnh đến dự. Trong câu chuyện cũng phải hỏi tên trà, mọc ở vùng nào…
Uống xong mọi người lại phải cúi mình một lần nữa. Khi đã dọn bớt các thứ lĩnh kĩnh sang thủy ốc rồi, thượng khách lại phải hỏi thăm về cái bình đựng trà, cái bao lụa và cái thìa múc trà, thường lệ phải là bằng ngà hay ngọc. Ai đã xem trước rồi thì phải cúi mình xin lỗi đưa sang cho người thứ hai.
Chờ cho các vị khách ngắm nghía xong, chủ nhân mới lại bước ra để trả lời mấy câu hỏi về lịch sử tông tổ những thứ ấy từ đâu đến, cái bình đựng trà nầy làm tại đâu, bằng thứ đất gì, ai thêu cái bao lụa, tên hiệu của nó gọi là gì… Phần hỏi han còn tiếp diễn sau khi đã được chủ nhân tuyên bố trà lễ đã bế mạc.
Không khí của buổi trà đạo thật trang trọng, lặng lẽ, suy tư nhiều hơn là chuyện trò. Không nên chờ đợi một sự no say mà phải xem đây là một vinh dự mà mình đã được chủ nhân dành cho.
TRIẾT LÝ VÀI MẨU CHUYỆN VỀ TRÀ
Trà Đạo không phải là để giải khát, hoặc muốn giải khát thì phải pha chế cách khác, chẳng hạn như sau khi cái ấm nhỏ đã được đổ nước vào tới lần thứ ba thứ tư rồi thì có thể mang bỏ bã trà nầy vào một cái bình lớn để pha đầy nước cho cả nhà cùng uống và tha hồ mà pha cốc lớn cốc nhỏ, ai muốn uống sao thì uống. Nếu uống trà theo nghi thức, theo đúng với chữ biết uống trà thì phải là người đã hiểu, đã thâu nhận, quán triệt cái triết lý, cái thẩm mỹ của trà, cái gọi là Thiền Tính của trà, sự đối diện giữa con người với tạo hóa, với thiên nhiên.
Thiền tính của trà, quả là không phải dễ giải thích, thiền có nghĩa là tư duy, tĩnh lự theo chữ Phạn Dhyana mà ra, thiền định là một trong 6 ba la mật của nhà Phật, và sự tĩnh lự tức là yên lặng mà suy tư.
Có nhiều bậc thiền mà quan trọng là người thiền phải làm sao hủy diệt hết những xúc cảm của thân xác mới có thể đạt được.
Thiền và trà đòi hỏi một sự tự kỹ giác ngộ mà không phải là những lời giảng dạy từ bên ngoài đưa tới. Sách Giáo Khoa Trung Hoa truy nguyên về các phong tục, tập quán, có chép đến cái nghi thức dâng trà mời khách, bắt đầu là do Quan Duẫn, một đệ tử của Lão Đam, ông là người đầu tiên dâng trà cho Lão Tử. Chén trà nầy được gọi là Linh Dược Trường Sinh Bất Lão. Nước trà mầu Hoàng Kim, ở tại Hàm Cốc Quan. Đây là một trang dẫn chứng kết liên trà với đạo Vô Vi (nhi vô bất vi) của Lão Tử. Ở đây Vô Vi tức là dạy người làm mà không nói (hành bất ngôn chi giáo). Trà với Lão giáo đã có một mối tương quan mật thiết cũng như trà với Phật Giáo.
Ngồi cạnh ấm trà một mình vào buổi sáng tinh sương hay với tri kỷ trong đêm khuya, thì không cần phải dùng đến lời nói. Đọc cho nhau nghe một câu thơ, hay mỗi người nói một mẫu chuyện rồi thả tâm tư suy nghĩ, chẳng cần bàn cãi nhiều lời, khói trà và hương trà đã đưa hai tâm tư đến cùng một điểm. Hai người đã trở thành một người.
Người yêu trà thường có quan niệm khác biệt về nhân sinh, dám bỏ tiền mua trà mà không bỏ tiền ra sắm các thứ trang hoàng nhà cửa khác, khác biệt về vũ trụ, về cả hai chữ Tự Do. Có nhiều định nghĩa về tự do, có sự lên núi làm ẩn sĩ, kết bạn với phong cảnh núi non. Còn có những sự tự do khác, đó là sự tự do ở ngay trong cái gọi là xiềng xích lễ nghi của xã hội.
Dầu ở trên non cao hay ngoài chợ cá, con người vẫn giữ cho mình được thanh thản, chấp nhận, không oán trời trách đất, sợ bị ganh ghét.
Chấp nhận, thích ứng, trầm lặng, đó là ba điểm nói gọn về triết lý của TRÀ.
Người xưa còn dùng khói trà để đoán việc cát, hung. Những ông tướng cướp, nói theo tiếng của chính quyền, có khi là những người bất hợp tác chỉ muốn làm một cuộc cách mệnh, những vị nầy thường nhìn làn khói trà mà định đoạt những điều lành dữ sẽ đến. Nếu chén trà bốc khói lên rồi tan ra thành từng vằn như muốn ngưng lại đó là điềm tốt. Khói trà phân tán ngay ra là có lính tới. Trà khí là điềm đao thương, khói trà bay ra ngoài, xuất quân có lợi, khói bay vào trong, điềm bất thành.
Những ông lái trà, như ông chồng của nghệ sĩ đàn tỳ bà trên sông mà nhà thơ Bạch Cư Dị đã cảm hứng để sáng tác ra thi phẩm Tỳ Bà Hành. Những ông lái nầy đều có tạc tượng Lục Vũ để thờ trong nhà, gọi là Trà Thần, trước ngày đi buôn bao giờ cũng có làm lễ trà đãi Thần. Ngày không buôn bán cũng phải tưới ẩm nước lên tượng, nếu không thì sẽ bị thua lỗ.
Những kẻ yêu trà như Lô Đồng, Lục Vũ, Lý Chi Tài ông nầy là người đời Tống đã có một định nghĩa rất độc đáo được người đời sau nhắc hoài. Ông cho rằng đời có 3 mối hận nhất là những bức tranh giá trị mà mang treo lên tường nhà của các vị tân phú ông, phú bà. Hai là đám thanh niên bị sự hướng dẫn lầm lạc của những chính thể ngu muội, thứ ba là những cánh trà ngon mà bị bàn tay tục tử vọc.
Ngoài những vị trà thánh trên còn có Tô Đông Pha ông vừa mê trà vừa mê trúc. Trong văn thơ ông hay nói đến trà cho rằng trà là thứ mang tính chất tinh khiết nhất.
Để kết thúc chúng ta không thể quên một thứ trà mang tên Thiên Hồng Nhất Quật, ở động Di Hương trên núi Phong Xuân, đó là một thứ trà thiêng liêng, tiên hoa linh diệp, phải hứng sương để nấu nước pha trà.
Thiên sưu tầm về trà tạm ngừng ở đây, còn rất nhiều điểm cần nói, xin hẹn.
3. Tứ quân tử
(Mai - Lan - Cúc - Trúc)
Cây Mai:
Khi nhà thơ Nguyễn Du viết câu: Mai cốt cách, tuyết tinh thần để tả hai chị em cô Kiều, chứng minh rằng nhà thơ không phải chỉ biết làm thơ mà còn là một nhà nghiên cứu. Tại sao không là Mai cốt cách, Cúc tinh thần chẳng hạn, để tả hai chị em Kiều, nhưng ông đã đưa Mai với Tuyết, vì ông biết rằng Mai và Tuyết là hai thứ được người xưa dùng để nói đến cái tinh khí của vũ trụ.
Hoa Mai là thứ hoa nở đầu tiên trong năm, khi đất trời còn đang vào thời kỳ giá buốt và ngày còn được gọi là “Long đông chí nhật”, là ngày lạnh nhất của tiết Đông Chí khi các thứ hoa cỏ khác đều ở trong thời kỳ úa héo, điêu tạ. Chỉ mình hoa Mai, chờ tiếng sấm đất thứ nhất vừa chấn động là mai bắt đầu trổ hoa trên mặt đất.
Thời mà khí của hành Hỏa chưa đủ bao lên không gian, thì Mai đã phát triển cái tinh hoa đầu tiên, cũng là lúc mà Thủy Khí ở trên vừa ban bố giọt tư nhuận thứ nhất, tức là hạt Tuyết đầu tiên rơi xuống đất.
Người xưa gọi là Tuyết vì nó đồng âm với Tiết, từ quãng thời gian được gọi là “Túc Sát” mà ra. Túc Sát có nghĩa là nghiêm túc, suy sát. Đọc Lễ Ký ta thấy ghi câu:”Mãnh Thu, thiên khí thủy túc”, có nghĩa là lúc đầu thu, thiên khí mới bắt đầu, “Trọng Thu sát khí xâm thịnh” có nghĩa là ở giữa mùa thu là lúc mà sát khí thịnh nhất.
Vì Tuyết là tinh hoa thứ nhất của hào Dương báo sự sinh nở và trưởng thành của mùa xuân. Nói kỹ hơn để thấy rằng người xưa đã thấu triệt bước đi của thiên nhiên, ngay từ trong lòng mùa Thu đã là lúc mà thiên nhiên đang chuẩn bị cho mùa Xuân, và lúc mà sát khí đang thịnh nhất cũng là lúc đang chuẩn bị sự tàn lụi.
Ở đây chúng ta thấy rõ cái tinh thần của Dịch Kinh.
Nhìn thấy Tuyết dày đặc, tức là biết thủy khí đầy đủ, mà nếu thấy Mai nở sớm tức là hỏa khí đầy đủ, mà một khi thấy hỏa khí đã đầy đủ tức thị âm sát phải lùi bước, tức là phải kết thúc.
Hoa Mai được thiên nhiên trao cho cái nhiệm vụ thâm trọng nhất, đó là nhiệm vụ báo tin Xuân cho nhân loại. Vì đang lúc Dương Khí mới trở về, chưa ai nhận thấy nhưng nhìn lên cây Mai thì có thể thấy và nhận biết, vì Mai là sứ giả của thiên nhiên.
Cứ nhìn Tuyết thấy hoa có 6 cánh thì trời sẽ rất lạnh mà hoa Mai nếu có 6 cánh và sớm nở thì trời sẽ ấm sớm hơn thường.
Theo sự nghiên cứu của một số sử gia chuyên về hoa cỏ thì Mai là thứ cây được mọc ở miền Nam trước nhất, ở đây lại phải nhìn một lần nữa những điểm đặc biệt về địa lý, nên nhớ rằng ngày xưa Quảng Đông, Quảng Tây là thuộc về Việt Nam. Sử Trung Hoa ghi: “An Nam nhập cống mỗi đại quân hữu Mai” tức là thời mà người An Nam gia nhập vào sự cống hiến, đời nào cũng có cống hoa Mai.
Thời mà xứ ta bắt đầu nhập cống hẳn phải là lúc mà Cù Thị, mẹ của Ai Vương, giòng giỏi họ Triệu, con của Văn Vương và Cù Thị người Tàu. Khi Văn Vương chết, Cù Thị lo sợ Lữ Gia và Triều Thần truất con mình không cho làm vua nên đã chạy nhờ nhà Hán giúp đỡ và xin được triều cống giống như các nước Chư Hầu khác.
Người Tàu nhờ có môn cống phẩm ấy mới bắt đầu biết cái giá trị của cây Mai, trong khi xứ ta đã biết cho Mai là quý mới đặt vào các thứ cống phẩm.
Mai phải được chia ra làm hai thứ, Hoàng Mai và Lạp Mai. Từ thuở trước thời Tiền Lý thì người ta chưa phân biệt được, mãi sau mới có người nghiên cứu, nhận biết nên đã công bố lên, ghi rõ.
Hoàng Mai tức là Hạnh Mai, ta còn gọi là cây Mơ, có quả ăn được, để làm Ô Mai, miền Bắc Việt có cả rừng là giống nầy. Cũng là thứ Mai mà Tào Tháo khi dẫn quân đi đánh, bị vây quân lính khát nước. Tào đã chỉ rừng mơ và nói lên với quân lính hãy nhìn vào đó cho đỡ khát.
Cũng là thứ Mai mà đến mùa hạ thì trái chín vàng, và cùng với thứ Mai nầy mà nông lịch đã ghi những chữ như Nhập Mai hoặc Xuất Mai.
Ngày Nhập Mai là ngày Nhâm hoặc Bính tùy thời tiết và tùy mỗi vùng. Sách Quý Tân Tạp Chí ghi ngày Nhâm sau tiết Mang Chủng là ngày Nhập Mai. Với sách Nguyệt Lệnh Quang Nghĩa, một loại sách về nông lịch khác lại ghi rằng ngày Bính sau tiết Mang Chủng mới là ngày Nhập Mai.
Một sách khác ghi rằng người Việt chúng ta lại chọn ngày Canh sau tiết Lập Hạ làm ngày Nhập Mai và sau Mang Chủng, ngày Nhâm là ngày Xuất Mai. Như thế để biết rằng xứ ta nóng hơn, vì phải Lập Hạ rồi mới đến Tiểu Mãn và Man Chủng theo sau.
Ngày được gọi là Nhập Mai tức là một ngày rất tốt đối với nhà Nông, trồng cây gì cũng sống dầu cây có ngất ngư sắp chết mà được trồng vào ngày ấy thì sẽ tốt tươi.
Nhập Mai tức là nhập mai vũ, quãng thời gian có mưa nhuận làm ấm áp không khí, đại khái có thể tính từ lối tháng tư, tháng năm và hai ngày trước hoặc sau tháng bảy là ngày Xuất Mai.
Mai Vũ hay là Hoàng Mai Vũ là thứ mưa dành cho cây Mai. Người ta nhân đấy mà họp bạn bè ăn uống làm lễ Nghênh Mai và Tống Mai, tức là đưa rước cây Mai.
Để khỏi có sự lẫn lộn nên hoa Mai của ngày tết được gọi là Lạp Mai, vì mầu hoa vàng như sáp ong. Đời nhà Đường xứ ta phải cống cây Mai rất nhiều, hẳn vì đời nầy xứ Trung Hoa thịnh nhất về mặt ăn chơi và cũng là mặt văn hóa.
Mai có nhiều tên, đây chỉ nói riêng về Lạp Mai, mỗi một chữ Lạp Mai cũng có thể cho ta phải đặt câu hỏi. Lạp là mầu vàng của sáp như trên đã nói, hay Lạp là vì mai chỉ bắt đầu nở vào tháng chạp cũng gọi là Lạp Nguyệt là tháng săn bắn cuối năm. Sau cùng có thuyết cho rằng vì Mai xuất sinh từ xứ Chân Lạp nên gọi là Lạp Mai, thuở ấy Mai được gọi là Tiểu Hoàng Hương.
Mỗi năm sứ ta phải đi hằng nghìn dặm để mang đến cho kịp cống, phải giữ nguyên chất tươi. Ban đầu chỉ dành cho các Vương Tôn Hoàng Gia, về sau Mai được đi dần vào trong quần chúng. Người ta biết cách tháp cành Mai và lấy hạt Mai trồng thành từng rừng, trong khi xứ ta vì mất hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây lại thêm vì cứ phải lo chiến tranh giặc giã, chỉ lo trồng cây Hoàng Mai tức cây Mơ mà sao lãng Lạp Mai.
Ngày nay người ta chia ra thứ Mai quý nhất mang tên là Khánh Khẩu, mọc ở núi cao Khánh Khẩu, hạng nhì là Hà Hoa, cánh tựa như cánh hoa Sen, một giống nữa nở trước các thứ Mai khác là Đàn Hương Mai, mầu vàng thẫm, như mầu gỗ Tử Đàn, hoa rất dày và hương khá nồng. Mai quý phải vừa đẹp, vừa thơm, người ta không chuộng hoa quá dày, phải vừa cành vừa hoa, hương nồng quá, có thể làm dứt đầu những ai đứng gần. Trời càng lạnh thì Mai càng nồng. Ngoài ra còn loại cuối được chia ra Ban Khấu Mai là cánh hơi gục xuống, nở mà không mở cánh ra, Cẩu Dăng Mai, hoa nhỏ, hầu như không hương.
Mai bị một điều oan là vì nó đồng âm với chũ Mi và chữ Môi là để nói đến những thứ khí ẩm thấp lại còn có một nghĩa nữa là thứ mưa dằng dai làm hư hoại hết các loại cây cỏ. Điền Gia Ngũ Hành ghi: “Ngày Lập Mai mà buổi sáng sớm có mưa thì báo điềm hạn hán”. Ngạn Ngữ xưa có câu: “Mưa gõ đầu Mai, trâu không nước uống, mưa gõ trán Mai đê điều tràn xuống”. Người ta sợ Mai Vũ vì đó là thứ mưa dầm. Đến nhà thơ Bạch Cư Dị mà cũng phải viết lên 2 câu trong bài Cảm Tình Thi:
Huống kinh Mai Vũ lai
Sắc ám hoa thảo tử
(Sợ mưa mai đến làm chết cây cỏ.)

Sử ghi nàng Thọ Dương Công Chúa con gái của Tống Vũ Đế, một buổi trưa nằm ngủ ở thềm cung Hàm Chương, vào ngày Nhân nhật, tức là mùng 7 tháng giêng, được một bông hoa Mai rụng xuống trán, rồi cứ ở mãi, không làm sao chùi đi. Sau đó các cô gái khác đều bắt chước vẽ lên trán một bông hoa cho như một lối trang điểm.
Một cành Mai nếu muốn được gọi là đẹp thì dầu là Mai vẽ hay Mai lụa mà ta thường thấy ngày nay, đều phải hội đủ những đức tính của Mai.
Thứ nhất phải có sự phân biệt tôn ti cành cao cành thấp. Thứ hai phải có cành lớn cành bé để biểu hiện sự quý tiện. Phải có cái tượng của sự khinh trọng biểu hiện qua sự nhiều hoa hay ít hoa. Ngoài ra còn phải có cành Văn cành Vũ tượng cho sự tương hợp của đức Cương và đức Nhu. Sự đối diện của cành Quân và cành Thần phải cần được chú ý, nhánh có ngắn, có dài tượng cho lễ nghi phép tắc, hiếu thuận của vai Phụ và vai Tử tức là cha và con. Nhị hoa phải có nhị Âm nhị Dương để nói lên sự tương ứng của vợ, chồng. Hoa thuộc Âm và cành thuộc Dương, người họa sĩ cũng như những bàn tay làm hoa giả nên nhớ rõ để lúc tạo hoa không trơ trẽn.
Để kết thúc thiên cây Mai nầy, hẳn chúng ta đều biết bút hiệu của cụ Phan Bội Châu là Phan Sào Nam. Trong Cổ Thi có hai câu:
Hồ mã tê Bắc Phong
Việt điểu sào Nam Chi.
(Có nghĩa là:con ngựa Hồ hí lên khi nghe gió Bắc thổi tới,
và con chim Việt chỉ đậu ở cành phương Nam.)
Nam Chi còn là một tên nữa của Mai, hai câu thơ nghe đơn giản nhưng mang một tầm quan trọng lịch sử và tâm lý không nhỏ. Ngày nay để nói đến lòng nhớ nước người ta hay mang câu thứ hai ra dùng làm thí dụ.
Mai được gọi là Nam Chi vì cành Mai bao giờ cũng nở hoa ở phương Nam trước, và con chim Việt rất thích đậu trên cành Mai. Chỉ có Việt Điểu mới biết chọn cành ở phương Nam mà đậu chứ những loại chim khác đều không biết đến, cành nào cũng đậu được.
Sau đây xin ghi hai câu thơ cụ Phan Bội Châu để gọi là xin độc giả nhớ lại:
Phủ kiếm nguyện thành thiên vạn tí
Dân gian ma chướng nhất thời sư.
(Tạm dịch: Vỗ kiếm nguyện có ngàn vạn cánh tay,
để giết sạch loài ma trên đời).
Lan:
Nói đến Lan hẳn từ Á sang Âu chẳng ai là không biết. Hằng năm ở các nước Âu Châu có những cuộc triển lãm Lan và có những bông hoa trị giá tới cả nghìn mỹ kim.
Từ xưa Lan được gọi chung là Vương Giả Chi Hoa và kể khi Khổng Tử gọi là Vương Giả chi Hương. Câu chuyện kể khi Khổng Tử từ nước Vệ trở về quê hương mình là nước Lỗ, sau khi đã chu du trong 14 năm khắp các nước chư hầu chỉ mong mang cái tài, cái đạo, cái học thức của mình để giúp người đời. Nhưng đi đến đâu ông cũng bị các nịnh thần dèm pha, ai cũng sợ ông đến thì sẽ chói sáng hơn vì người nào cũng biết mình bất tài, hay là không thể nào tài bằng Khổng Tử.
Cuối cùng khi cảm thấy quá chán chường Khổng Tử nhất định thôi, không thèm đi quảng bá cái Đạo của mình rong ruổi trên các nước người nữa, trở về chỉnh đốn Xuân Thu và làm Tố Vương, chữ nầy dành để nói đến người có thể làm vua thiên hạ bằng cái đạo đức của mình chứ không bằng chức tước, áo mão, ngai vàng, cung điện.
Chuyện kể khi xe đi ngang qua một gốc rừng, nhìn thấy mấy đóa Lan nở chung trong bầy cỏ dại, ông đã cảm thương hoa, so sánh với thân phận mình mà than rằng: “Ôi Lan là thứ Vương Giả Chi Hương, thế mà phải bị nở chung với đám cỏ tạp, cũng như người hiền không gặp thời, so với thân phận ta có khác gì Lan hôm nay”.
Nói xong ông bảo ngừng xe, xuống ngồi cạnh khóm Lan và tức cảnh làm nên khúc Ỷ Lan Thảo, vừa tự đánh đàn vừa ca. Đây là một bài Từ, hậu thế gọi là “Ỷ Lan Tháo”.
Ỷ Lan Thảo, tập tập phong, dĩ âm, dĩ vũ, chi tử vu quy, viễn tống vu giả.
Hà bỉ thương thiên.
Bất đắc kỳ sở, tiêu dao cửu châu.
Vô sở định xứ, thời nhân ám tệ, bất tri hiền giả, niên kỷ triệt mại.
Nhất thân tương lão…
Đại ý bài Từ nầy đã được giải ở đoạn trên.
Người xưa yêu Lan đã chia ra nhiều loại. Nào Trúc Lan, Thạch Lan, Di Lan, Sùng Lan, Phong Lan, Phượng Lan, Vỹ Lan, Quế Lan, Trân Châu Lan… Sau đó còn chia ra Thảo Lan là thứ một cành một hoặc hai hoa, và Huệ Lan một cành nhiều hoa, ngoài ra còn Tố Tâm Lan rất được chuộng mà chúng ta sẽ nói nhiều về giống hoa nầy ở đoạn sau.
Một lần phân chia khác nữa là Ôn Đới Tính và Nhiệt Đới Tính. Thứ gọi là Ôn Đới Tính còn được gọi là Dã Sinh vì giống nầy từ khí sinh tức là từ thiên nhiên mà tự mọc chứ không do bàn tay người tìm kiếm gây nên.
Có nhiều giống Dã Sinh đã bị tuyệt chủng vì không thể tự mình sinh sản, ngày nay người ta mang hai thứ ghép lại với nhau ra nhiều thứ hoa vừa đẹp, vừa bền, vừa to vừa nhiều hoa, nhưng không có hương.
Cả 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông đều có thể tìm thấy Lan, nhất là với những phương pháp ghép hoa và nhà kính cùng với những chất phân hóa học. Muốn giống gì trên trời dưới bể đều có.
Vì sách vở ngày nay đã nói quá nhiều nên chúng ta không cần nhắc đến những gì mà mọi người đã biết, chúng ta chỉ đưa ra vài điểm hơi khác, so người xưa với người nay mà thôi. Người xưa quan niệm là dĩ hoa vi chủ, dĩ diệp vi phụ. Tức là lấy hoa làm chủ lá làm phụ. Tuy cũng có một số người rất chuộng lá lan, người ta còn chơi cả cái chậu trồng Lan xem đó như là cái áo của Lan.
Từ trước có 4 thứ mang danh Tứ Đại Thiên Vương là Tống Mai, Vạn Tự, Tập Viên và Long Tự. Đây là những thứ hoa mầu lục thủy, hương rất thơm. So cả 4 thứ thì tối thượng là Tố Tâm, trong suốt không chen một điểm mầu nào, thứ nhì là lục sắc, rồi đến hồng sắc, sau đó là loài pha lẫn nhiều mầu mà chúng ta rất thường được thấy.
NHÌN MỘT BÔNG HOA LAN
Phải biết nhìn để thấy hoa đẹp chỗ nào và kém chỗ nào. Trước hết phải chia ra mỗi thứ, Xác tức là cái bao hoa ở bên ngoài. Biện là cánh hoa, Kiên là cái đường chỉ chạy trong nhị ra tới hai bên hoa, Thiệt là cái lưỡi ở giữa cánh hoa, Điểm là những chấm mầu trong lòng hoa, sau đó mới nhìn đến Nha là mầm và Diệp là lá.
Xác còn được gọi là áo hoa, khi hoa mới chớm xuất hiện, chỉ cần nhìn các xác tức là bao ngoài, có thể đoán định được sẽ là hoa như thế nào. Vì lắm khi mua về chưa có hoa nên ta không thể biết được.
Nếu bao hoa mầu trắng sáng tươi, có vài đường gân xanh qua lại thì có thể chắc hết 9 phần mười sẽ là Tố Tâm. Nếu bao hoa mầu lục chen những sợi lông hồng tơ, vài sợi gân hồng, tím, thì không thể là Tố Tâm. Nếu bao hoa mầu trắng, trong sáng như đã nói, mà chen vài đường gân lục tức sẽ là Mai Biện Tố Tâm, có nghĩa là giống Tố Tâm mà cánh giống hoa mai.
Người ta đã phân tích loại các hình giáng của cánh hoa, nào Mai biện, cánh giống hoa Mai, Hà biện cánh giống hoa Sen, Thủy Tiên cánh giống hoa Thủy Tiên, Trúc biện, giống lá Trúc, Liễu biện, giống lá Liễu, Thiệt biện, giống cái lưỡi của người ta.
Lá Lan cũng được chia ra nào là Thùy, nào Trực, nào Hoằng tức là rũ xuống, thẳng và giăng tỏa ra, sau đó còn có trung thùy chỉ rũ một nửa, trung hoằng…
Bông Hoa phải có Chủ Biện tức là cánh lớn nhất, sau đó có Phó Biện là hai cánh hai bên nếu hoa chỉ có 3 cánh mà hầu hết Lan chỉ có 3 cánh. Nếu hai cánh phó biện mà không đều nhau, cái to cái nhỏ hoặc là mọc lệch tức thị đóa hoa sẽ bị hạ giá.
Kiên là cái sợi chỉ nằm ngang ở giữa hai cánh phó biện, đường chỉ nầy phải chạy thành như chữ nhất thì mới được khen nếu không thẳng sẽ bị gọi là Phi Kiên, hạng nhì.
Thiệt là cái lưỡi ở giữa, phải mang mầu trắng xanh bé nhỏ mới quý, thiệt to quá không thanh, nếu là mầu âm thẩm, thô tạp thì cố nhiên, hoa bị giáng xuống hạng nhì.
Điểm là những nét chấm ở trong lòng hoa. Riêng Tố Tâm thì chẳng có chấm nào trừ một giọt sương trong gọi là Lan Cao, chỉ hiện ra vào buổi sáng sớm. Còn thì hoa nào ở trong tâm cũng có hoặc chấm, hoặc vằn. Chấm có đậm có nhạt, mà sáng rõ là quý, chấm mầu hồng là đẹp nhất, càng ít chấm càng tốt.
Lá Lan phải được nhìn từ gốc, bé nhỏ, lá mềm mại mướt xanh là quý, lá vàng chứng tỏ bị nhiều quang độ tức là ánh sáng, nếu loại Trực diệp thì lá phải đứng thẳng, nếu loại Thùy diệp thì lá phải thanh đừng có thô tạp.
Có vài khi hoa năm nay cánh Mai Biện mà qua năm sau lại đổi thành Thủy Tiên, nhưng chẳng sao, vì sang năm nữa hoa sẽ trở lại với hình giáng cũ, không nên để ánh nắng chiếu thẳng tới phải mang đặt dưới bóng cây hoặc để trong nhà, lan mới chịu nỗi.
Trong cả trăm thứ Lan thì sách Lan Huệ Sử ghi rằng Tố Tâm có 6 loại: Lục Thái Tố, Bạch Thái Tố, Hoàng Thái Tố, ba thứ nầy thuộc về loại Tịnh Tố Tâm. Lưỡi hoa trắng nhưng hai bên mép hơi nhuốm sắc hồng gọi là Đào Thái Tố.
TỐ là chất lụa trắng, và TÂM là tim, TỐ TÂM để nói chung loại hoa Lan có cái phần giữa, cái Tâm trắng, nếu cả những cánh chung quanh cũng đều trắng nữa thì lại càng quý. Dầu là cánh hoa thuộc loại cánh Mai hay Sen hay lá trúc lá liễu, nếu hoa trắng trong, thật thanh khiết là được chuộng. Người ta thường hay gặp thứ Hoàng Thái Tố nhiều hơn cả, và sau đó lại còn phải kể thêm những tên như Thái Tiêu Tố, Ngọc Mai Tố, Ngưu Đầu Tố..v…v…
Ngọc Mai lá hơi rũ xuống dài quãng 20 phân, cánh hoa ngắn và cánh giống cánh hoa Mai, hoa nở sớm, cánh dày, kiên chữ nhật, lưỡi hoa được gọi là Tiểu Như Ý Thiệt. Thái Tiên Tố, do một người họ Thái tìm thấy, lá hơi rũ, gọi là trung thùy diệp, hay là bán thùy diệp, dài lối 26 phân hoa có ba cánh, dày, kiên thẳng, lưỡi hoa tròn, thuần bạch, cánh hoa nhỏ, sắc lục, loại hoa nầy hiện nay rất nhiều. Lão Vân Đoan Tố, rễ nhỏ, lá hơi to, cao lối 26, 27 phân, cánh hoa dày và dài, lưỡi hoa lớn, uốn vào, hơi pha mấy đường gân lục, cuống hoa dài 5, 6 phân, kiên chữ nhất, có những hoa phi kiên (tức là kiên không thẳng hình chữ nhất như đã nói ở đoạn trên). Hoa đột xuất từ lá mà ra.
Đặc biệt nhất là Ngưu Đẩu Tố Tâm, giống hoa quý, thuộc giòng Tố Tâm, mầu hoa trắng hơi ngã lục, rất tinh khiết. Hoa chỉ nở vào ngày mùng 7 tháng 7 là ngày mà chim Ô Thước bắc cầu cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau, cánh hoa cũng dày, lòng hoa có một cánh nhỏ mầu trắng tuyền.
Lan còn nhiều nhưng biết kể đến bao giờ cho hết. Để chấm dứt xin ghi một câu dài của Khoáng Thức được đưa vào Cách Ngôn:
Chi Lan sinh ư thâm lâm, bất dĩ vô nhân nhi bất hương. Quân tử tu đạo lập đức bất vi cùng khốn nhi cãi tiết. Có nghĩa là cỏ Chi, cỏ Lan ẩn ở trong rừng sâu, dẫu không ai tới gần vẫn thơm, người quân tử lo về đạo đức, không vì sự nghèo khổ mà thay đổi tiết tháo.
Cúc: Hoa Cúc như mọi người đã biết là một loài hoa được dân tộc Á Đông tôn trọng nhất, cho rằng hoa mang khí tiết của người quân tử. Không thèm nở cùng một lúc với các thứ hoa khác mà chỉ đợi khi gió lạnh vào thu mới ưng chịu trổ nụ khai hoa.
Nhân đó mà người ta cho là tính Cúc kiêu hãnh, ưa biệt lập, không thích chung đụng với các thứ cỏ cây phàm phu khác. Hoa cỏ cũng có thứ quân tử, tiểu nhân cũng có phàm phu, tao nhã chẳng riêng gì giống người.
Vào tiết sương giáng (lối giữa tháng chín) tháng chín còn mang tên là Cúc Nguyệt, người ta lo ươm hoa. Có sách bảo rằng Cúc là cùng, là lối cùng của hoa sự, tức là công việc trồng tỉa trong năm. Cúc trổ hoa vào tháng chạp, có thể trổ sớm hơn, tùy giống và cũng là tùy sự chăm bón để hãm chờ ngày tết hay là thúc dục cho đúng ngày phải đưa hoa ra chợ.
Ngày nay với các thứ phân bón hóa học và cách thức gieo trồng được nghiên cứu kỹ, người ta còn tìm ra được các thứ Hạ Cúc, Thu Cúc và Đông Cúc.
Cúc còn mang tên là Tiết Hoa hay là Nữ Tiết. Cúc chờ lạnh đến mới nở, ở đâu lạnh sớm hoa sẽ nở sớm. Giống Cúc vàng lại càng chuộng khí lạnh hơn. Người ta cho rằng ở những nơi ấm trời hoa cỏ nở một cách bừa bãi chỉ riêng Cúc là biết giữ kỷ luật.
Cúc có rất nhiều loại, ít nhất cũng gần hai trăm loại, trước khi nói đến các loại hoa đã được chia có những giống Cúc chưa có ai biết đến, xin được đưa ra trước.
Đào Hoa Cúc là giống cúc hoa mầu phấn hồng, Vạn Linh Cúc, hoa trắng nhị như nhị hoa Sen, Mộc Hương Cúc cánh hoa trắng mà lòng hoa mầu gỗ Đàn. Cánh vàng, hoa tròn như cái chuông là Kim Linh Cúc. Toàn hoa mầu trắng to cánh là Hỹ Dung Cúc.
Chân Cúc có hai giống, cánh mầu tím, thơm ngát mà vị hoa ngọt, lá giống nầy có thể nấu canh ăn được. Giống thứ hai cánh to mầu lục, hương hăng hắc như Ngãi, vị đắng rất khó ăn, tên gọi là Khổ Ý. Ngoài ra còn một giống nữa mang tên Chân Tú Câu chỉ mọc ở phương Bắc, chịu khí rất lạnh, phương Nam nhất là xứ ta không thấy.
Cúc có mấy mầu chính sắc là: vàng, trắng, tím và hồng. Chữ gọi là Hoàng, Bạch, Tử, và Hồng, hoàng thì có thâm hoàng tức vàng đậm, thiển hoàng, vàng nhạt, nha hoàng, vàng ngà, giả hoàng, vàng đỏ, phiêu hoàng, vàng mầu da ngựa, và huyết nha hoàng, ngã đỏ mầu máu quạ.
Hồng cũng được chia ra thâm hồng, thiển hồng, chi hồng (mầu hồng của mỡ) và chu hồng là mầu hồng đỏ.
Tím cũng có thâm tử, thiên tử, thành tử là mầu tím xanh và mặc tử là mầu tím đen.
Trắng có tĩnh bạch là mầu trắng trong, thiển bạch trắng nhạt, tức là trắng đấy nhưng không cho cảm giác trong như hạt sương. Ngoài ra còn những mầu được gọi là vi lục, vi hoàng, vi giả, là những mầu phơn phớt lục, phơn phớt vàng hay phơn phớt đỏ.
Sau cùng, còn phải nói đến những thứ tạp sắc, cánh hoa đằng trước một mầu đằng sau một mầu khác nhau hoặc cánh trong và ngoài hai mầu khác nhau, hoặc một nửa bên trái một nửa bên phải khác nhau gọi là Uyên Ương Cúc, mà chúng ta sẽ có dịp bàn đến.
Lá Cúc cũng được chia ra lá to, nhỏ, dày, mỏng, nhọn, tròn, mang mầu thiển lục, thâm lục nộn lục (lục non), thanh lục, mặc lục (lục đen), lão lục, lục già, giả lục là mầu lục ánh đỏ.
Hoa được chia ra cánh kép, cánh đơn, hữu tâm, vô tâm, hữu tử, vô tử. Tử đây không phải là trái nhưng có vài giống Cúc mà người ta chỉ cần lấy hoa khô đem cất vào một chỗ đất ẩm, không cần lấp đất lên, đến năm sau tự nó cũng đâm thành chồi gọi là Hữu Tử.
Vị hoa có thứ ngọt, có thứ đắng, cay, nhạt mà chỉ có vị ngọt mới được đưa vào làm thuốc chữa được rất nhiều chứng bệnh, nhất là chứng mắt mờ và dứt đầu. Giống Cúc được chọn vào làm thuốc là thứ cúc thưa cánh và hoa đơn.
Sau đây là một vài giống Cúc và đặc điểm của mỗi giống, đưa ra để người đọc có một khái niệm để rồi tự tìm thêm và kiểm điểm xem sách vở nói có đúng.
- Kim Trản, hoa như cái chén vàng, cánh hoa mỏng như giấy, phía trước mầu vàng nhạt (thiển kim hoàng), phía sau ưng ửng hồng, không phải loại cánh rỗng ống như có một số cúc đại đóa khác. Nhị hoa tròn, bên ngoài vàng ở giữa cánh, pha chút đỏ tím, lá già đổi sang mầu thẫm lục.
- Dạ Quang Châu: mầu phấn vàng, cánh hoa đặc biệt ở chổ hơi lóng lánh sáng, còn tên là Dạ Quang Ngọc. Đầu cánh hoa nhọn, cánh bên ngoài nhạt, khác hẳn mầu cánh trong, lúc nở tròn thì không nhìn thấy nhị hoa, nên còn được đặt vào giòng Vô Tâm, xin đừng lẫn với Vô Tình.
- Lạc Hà Hoàng: Còn tên là Đạo Nhân Y, mầu vàng đỏ tựa như mầu rán chiều, hay là mầu áo của Đạo Sĩ, lúc nở tròn cũng lấp cả nhị. Cành ngắn, lá to, mập, giống Cúc nầy được đưa từ đất Dương Châu nên còn được gọi là Duy Dương chủng.
- Ngự Bào Hoàng: mầu áo nhà vua, vàng thật đậm, cánh hoa nhọn, trước sau cùng mầu, khi mới nở thì ở ngay trong tâm có một hạt sương xanh, lá mầu lục đậm, cánh hoa mảnh mai thanh tú, hơi pha tím.
- Trầm Hương Quản: Giống Cúc rỗng cánh như từng cái ống nhỏ ghép lại, mầu vàng như mầu lúa chín, phía sau cánh hoa đậm hơn đằng trước, hơi pha đỏ ở đằng trước, có những đường gân hồng.
- Ngoài ra còn những tên như Đế Quốc Long, Kim Câu Câu, Phượng Hoàng Diệp. Đại Minh Cầm, Hai thứ nầy hơi thô, cánh thưa hơn những thứ vừa kể trên.
- Cúc mầu hồng có những thứ như Cẩm Y, Cung Bào Tây Thi Thổ Thiệt (Lưỡi của nàng Tây Thi), Chu Y, Diễm Vân, San Hô Ngọc Hoàng. Kim Uyên Câu, Mặc Tử, Đại Ưu Cẩm, Cửu Trùng Cẩm, ba thứ hoa cuối nầy có hai mầu, cánh hoa đằng trước hồng đằng sau lại vàng.
- Cúc trắng có những thứ như Tương Phi Lệ, Bạch Ngân Câu, Sư Tử Phát, Bạch Tố Tố, Bạch Liên Đài, Thanh Sơn Quải Vân, Túy Nguyệt.
- Mầu phấn hồng có Uyên Ương Cúc, Phấn Trảo, Lạc Hà (Hồng Tịch Dương), Liêm Quyển Tây Phong, Nghê Thường Vũ Y, Vân Quyển Thư, Quý Phi Chi Tiếu.
- Cúc mầu tím có những tên như Tử Hà Thương, chữ Thương ở đây dành để nói chung những chén uống rượu. Anh Đào Lộ, Đoạt Châu, Tử Y Vân, Thảo Thượng Sương.
Những tên kể trên đều để tả một phần nào hoặc hình dáng hoặc mầu sắc của bông hoa. Hoặc là cảm giác của người yêu hoa khi nhìn thấy lần đầu tiên hoa nở trong vườn nhà mình. Cũng là người đầu tiên gầy được giống Cúc ấy. Mỗi lần hoa nở người xưa không quên báo tin cho các bạn thân đến cùng ngắm hoa và uống rượu mừng hoa.
Hình như cỏ hoa cũng có nghiệp, có kiếp, hoa nào ít tội thì được sinh làm giống hoa quý ở vườn ngự uyển, hoa nào tội lỗi thì sinh làm bìm bìm, hoa dại bên đường cho bánh xe ngựa, xe trâu cán lên.
Riêng hoa cúc, có phúc được sinh ở Á Châu, nếu vô phúc thì bị sinh ở tại các nước Âu Châu, chỉ được vào nghĩa trang, dịp lễ Mồ tháng mười một. Chẳng ai dám tặng nhau và cưới nhau bằng hoa cúc.
Thiên Dị Lý Hán Thư có nói đến Cúc Thủy tức là nước Cúc, tương truyền tại vùng Nam Hạ, huyện Nội Hương, có cái hang tên là Tịch Cốc, trong hang mọc những cây Cúc có hoa thật to, nước từ hang chảy lướt ngang mặt hoa, thấm nhuần được chất “Từ Dịch” nôm na ta gọi là mồ hôi của hoa, nên nước mang mùi thơm, vị ngọt, uống vào còn được khỏe mạnh sống lâu.
Chúng ta còn nghe nói đến rượu Cúc, tức là Cúc Hoa Tửu, rượu được ủ với cánh hoa cúc, khi hoa sắp tàn, người ta mang nhặt bỏ những cành lá mà chỉ lựa toàn những cánh hoa, ủ với men rượu và chút nước trong. Năm sau vào đúng ngày tiết Trùng Dương, tức là mùng 9 tháng 9 mới đưa ra uống. Có sách còn ghi rằng đến ngày ấy nên đi lên đỉnh núi cao để tránh tai nạn theo một truyền thuyết xưa, muốn tránh nạn cho chắc còn phải dắt trong mình mấy hạt Thù Du, một thứ giống cây hạt tiêu, cũng có vị cay giống tiêu. Uống rượu Cúc và ăn trái Bồng Nhĩ, là một loại Dâu Núi, theo được như thế mỗi năm thì sẽ tránh được mọi tai nạn và sống lâu.
Người yêu Cúc không nỡ vứt hoa khi hoa tàn nên thường nhặt cánh hoa phơi khô mang nhồi vào gối, gọi là Cúc Chẩm. Sẽ có giấc ngủ yên và mộng hiền.
Để kết thúc người xưa hay gọi thỏ vàng là Cúc Đạo Nhân vì ngày xưa có con thỏ vàng cứ đi vào chùa nghe một vị sư tụng kinh Hoa Nghiêm, nhà sư ở đâu thỏ cũng theo và thỏ chỉ ăn hoa cúc uống nước suối trong nên được đặt tên là Cúc Đạo Nhân.
Trúc:
Để mở đầu thiên Trúc mà xứ ta gọi là Tre, xin được lấy hai câu thơ của Tô Đông Pha, một thi sĩ đời xưa ra, gọi là chứng minh lòng yêu tre của thi nhân:
Cư gia bất khả vô Trúc
Vô trúc sử nhân đọa tục
Có nghĩa là:  sống trong nhà không thể không có cây trúc, vì thiếu cây trúc sẽ làm cho con người rơi xuống chỗ phàm tục. Nói thế vì người xưa cho trúc là một thứ cây tượng trưng cho bậc chính nhân quân tử.
Các chuyên gia về cỏ cây định nghĩa Trúc là một thứ “Phi Thảo, phi mộc, bất cương bất nhu, tiểu dị không thực, đại đồng tiết mục. Có nghĩa là không phải cỏ mà cũng chẳng phải cây gỗ, không cứng chẳng mềm, điểm khác nhau là có thứ rỗng có thứ chắc ruột, và điểm giống nhau lớn nhất là cây trúc nào cũng có đốt, có mắt.”
Lá trúc có gân đối nhau, hoa trúc nhỏ, sắc trắng, cách mỗi một hơn nửa thế kỷ từ 60 đến 80 năm mới trổ một lần hoa, rất hiếm khi kết thành quả. Mỗi lần trổ xong một lứa hoa là cây tre phải chết, phải đến 4 năm sau mới hồi sinh. Măng mọc vào mỗi cuối đông, vì vậy Tre còn được mang tên là Đông Sinh Thảo, nhờ mọc măng vào mùa đông nên lá xanh tươi trong lúc các thứ cây khác đều trơ trụi. Lá tre rụng lại có lá khác mọc lên không để cho cây trụi lá, thi nhân và triết nhân đều yêu trúc, đồng ý rằng trúc mang phong cách thoát tục. Được tôn làm đệ nhất quân tử trong tứ quân tử Mai, Lan, Cúc, Trúc.
Trúc được chia ra nhiều loại, có thể gọi Trúc là một món quà quý báu của thiên nhiên dành cho con người, và con người cũng đã không phụ lòng thiên nhiên mà đã biết tận dụng.
Từ những vật thanh cao, như làm bút, làm đàn, làm sáo, từ vật bé như cây tăm, đến to như làm cột nhà, cột buồm, làm thuyền bè, làm cầu, làm cung tên. Tuy rằng trúc là thứ cung xấu nhất, gỗ tốt nhất để làm cung phải là gỗ dâu. Nhưng tên thì lại toàn làm bằng tre. Ngoài ra tre còn dùng để đan thúng rổ gầu, lạc buộc, làm bàn ghế,…
Cây trúc làm tất cả mọi sự ích lợi cho một số người (hẳn phải là số người nghèo có các vùng Đông Nam Á) và làm một số ích lợi cho tất cả mọi người (kể cả nhà giàu cũng cần cây tăm xỉa răng).

Với cái định nghĩa nầy, chúng ta mỗi người tự nhìn và tìm thấy xem cây trúc đã làm gì cho mình, ta đã nhờ cây trúc những gì đây, thử tính xem?
Ngay cả thời buổi văn minh nầy, khoa học đã tìm ra bao nhiêu thứ qua dầu hỏa và các khoáng chất khác, người ta vẫn thấy khi cất những tòa cao ốc, thì các giàn tre để thợ trèo lên vẫn hay hơn giàn bằng gỗ hay bằng sắt. Sự chắc vững không kém gì các thứ kia mà lại hơn ở điểm dẽo và dai, gió có thể đong đưa nhưng không gãy.
Lá trúc là một thứ thuốc uống để chửa chứng đau tim và ruột, trừ táo bón, riêng về phương diện thuốc thì rễ cây tre còn giải được chứng nhiệt, khát, nhưng khi dùng phải sắc lấy nước cốt mà uống. Các bà bị chứng lồi dạ con sau khi sinh xong, thường phải dùng rễ tre và lá tre nấu để rửa. Rễ tre còn làm tiêu đàm, giải chứng mê man.
Măng tre là món ăn mỗi ngày của nhà nghèo, lợi tiểu tiện, ích khí, nhưng người ta khuyên nên kiên hái măng vào những lúc trời nắng và gió to. Bẻ măng vào lúc gió lớn thì măng sẽ cứng, kỵ nhất là ăn măng sống, và kỵ nữa là ăn chung măng nấu với gan dê, có thể làm mờ mắt.
Đông y còn một thứ thuốc mang tên Trúc Lịch,lấy nước cốt của cây tre, chữa được bệnh trúng phong, méo miệng, trợn mắt. Cách làm hơi phiền phức.
Trúc không phải chỉ làm có những thứ vừa kể trên, trúc còn làm giấy, người xưa viết ngay trên những thanh trúc, hoặc khắc lên thân trúc, do đó mới có chữ đao bút và sử xanh. Đao bút vì lấy đao khắc thế bút và sử xanh vì tre mầu xanh, chỉ cần chặt vể chẻ ra từng mãnh mang phơi khô, viết lên rồi dùi lỗ lấy giây da buộc vào nhau thành những quyển sách. Khi Khổng Tử đọc Kinh Dịch đến tam tuyệt (ba lần đứt giây) tức là ông cũng đã phải dùng loại sách bằng tre nầy chăng.
Ngày nay khoa học còn biết nấu tre để lấy diesel, fuel mà chạy máy, chuẩn bị cho sự cạn khô trong lòng đất một ngày nào đó, hoặc là khi các ông vua Ả Rập trở chứng.
Có một giống chim chỉ ăn tre để sống mà không phải bất cứ giống tre nào cũng ăn được, phải là thứ tre chặc ruột, loại Hàn Trúc, sẽ đề cập đến, chim nầy mang tên là Trúc Phượng, cũng như có giống gấu Panda hiện chỉ còn lối 1000 con, các chính phủ đang tìm đủ cách để giữ giống, kể cả sự đợi mùa rồi lấy tinh trùng của con đực bỏ vào tử cung của con cái, hệt như đang làm với loài người để mong giữ lại cái giống gấu dễ thương và hiền lành nầy. Giống gấu nầy sản sinh ở Trung Hoa vùng Tứ Xuyên là nơi mọc giống tre Tản Trúc hay Tuyên Trúc, thức ăn duy nhất của loài gấu nầy. Cứ mỗi bảy tám chục năm, tre ra hoa rồi chết mất mấy năm, gấu không có thức ăn cũng phải chết theo với tre. Chẳng biết bây giờ các vị khoa học gia đã tìm ra thứ gì hoặc đóng tre vào hộp, hay đông lạnh để dành cho gấu.
Người xưa khi nói đến trúc là nói đến tình bạn thân thiết, vì trúc rất có tình với nhau, luôn luôn tụ họp. Các cung nhân, khi muốn được quân vương tìm đến mình, thì thường lấy tre rãi xuống lối đi, mang nước muối vẫy lên, lũ dê kéo xe cho vua, vốn ưa thích ăn thứ tre có mùi nước muối ấy nên cứ theo con đường đó mà dẫn xe tới, nhà vua ngồi trên xe đâu có biết gì, tưởng là dê đã chọn thay mình. Vì cung phi quá nhiều, nhà vua không thể tự chọn nên để sự kiện tình cờ nầy, hay là để cho dê chọn hộ mình.
Hơn 2000 năm trước, Sái Luân đã biết nấu tre, lấy bã trãi ra đặt vào khung, cán thật mỏng rồi mang phơi ra nắng, làm giấy, thủy tổ của giấy viết là từ đó.
Người Trung Hoa đã giữ bí mật cái kỹ nghệ làm giấy nầy, không để ra cho ai biết, nhưng gặp mấy ông Ả Rập xứ Ba Tư cũng chẳng kém, họ đã bắt cóc luôn mấy người thợ làm giấy, từ đó dân Ả Rập cũng biết làm giấy và mới bắt đầu truyền sang Âu Châu.
Giấy hạng nhất được mang tên là Diêu Hoàng, hạng nhì là Học Sĩ và hạng ba là Thiệu Công.
Không những Trúc được gọi là đệ nhất quân tử trong tứ quân tử Mai, Lan, Cúc, Trúc đã nói ở trên, mà còn được liệt vào hạng năm người bạn, ngũ hữu đó là Sen, Mai, Lan, Cúc và Trúc. Trong năm người bạn, dùng chữ người vì chúng tôi xem thảo mộc cũng như người, cũng có tình cảm cũng biết vui buồn, mà hơn người ở chỗ không ác và không nhiều chuyện. Trong số ngũ hữu nầy riêng mình Trúc là không nở hoa, nhưng lá cũng đủ thay hoa, Trúc còn được xem như người bạn quý vì không đòi hỏi chăm bón như những thứ cây khác mà vừa có thể nhìn lại nghe được cả âm thanh: Phong vũ lục minh, thanh văn u viễn, câu nầy để nói lên rằng khi mưa gió thì giọng trúc được vang rất ra.
Sau đây xin đưa một số tên và giống trúc xếp theo thứ tự, để chúng ta dễ nhớ và dễ nhận mỗi khi có hoàn cảnh gặp.
- ÁM TRÚC: không phải là một loại trúc nhưng để chỉ tất cả nhưng bụi trúc mọc chen chúc không lối đi cũng như chữ Ám Duẫn để chỉ những măng còn nằm ẩn dưới đất.
- BẠC TRÚC: còn được gọi là tre Bương, thân to, dày thịt, mọc thành từng ôm, rắn chắc, ít mọt, có thể dùng làm cột nhà tranh và sườn nhà, giàn cây.
- BAN TRÚC: Thứ tre có nhiều vân, mầu nâu đỏ, cây nào vân đỏ thẫm được gọi là Phượng Nhãn Trúc, vì người xưa nhìn cho là giống mắt chim Phượng, cây nào chỉ lác đác từng chấm như nét tuyết sa, được gọi là Giáng Tuyết Ban Trúc.
- BÁI TRÚC: Giống trúc mọc ở phương Nam, thường chỉ chọn những đám đất hoang dài cả trăm trượng, tròn 3 trượng, bề dày 8, 9 thốn, có thể dùng một thân tre mà làm thành chiếc thuyền con. Sách Sơn Hải Kinh có ghi về thứ trúc nầy, nhưng ngày nay không còn thấy nên bị người đời cho là huyễn thoại. Sơn Hải Kinh một loại cổ thư còn được gọi là Hoang Kinh, tác giả không biết rõ là ai, có người cho là vua Vũ đã sáng tác ra, nhưng có thuyết không tin như thế.
- BÍCH NGỌC Trúc, mang tên Bích Ngọc, đáng lẽ phải là một thứ ngọc xanh, tức mầu trúc phải xanh, nhưng đây lại là một thứ trúc mầu vàng. Xin đừng lầm với Hoàng Trúc mà chúng ta sẽ đề cập đến ở những trang sau.
- CAN TRÚC: Trúc mầu da trắng, chắc thịt, cứng mà đốt tre ngắn. Lớn có thể làm thuyền, nhỏ có thể làm nhạc khí, ống tiêu, ống địch đều tốt. Làm thuyền tức rà chẻ ra mà đan giống như từ trước đến nay mọi người vẫn làm.
- CÔ TRÚC: Một thứ tre đặc biệt chỉ mọc ở Giới Sơn, 3 năm mới mọc ra măng và khi măng lớn thì tre chết, do đó mà người đời đặt cho cái tên Cô Trúc, một thứ tre cô đơn, không có gia đình.
- ĐAN TRÚC: Lá trúc thưa mà mắt lớn, cách xa nhau đến năm, sáu xích mỗi mắt, người ta vẫn dùng để đan các thứ rổ rá, nong tầm, bồ phơi lúa.
- ĐÊ TRÚC: Giống trúc nầy nghe như đã tuyệt giống cũng như một số cây cỏ khác, nhưng sách vẫn ghi lại rằng thân trúc to, cứng như loại Bái Trúc kể trên, có thể chẻ đôi khi đúng tuổi để làm thành một chiếc thuyền con.
- ĐÀO SINH TRÚC: thân tre có đốt dài, da nhuyễn, cạo vỏ xanh ra bỏ đi thì có thể đan làm chiếu, một thứ chiếu đặc biệt là ngủ sẽ không bị nóng, không bắt ra mồ hôi như các thứ chăn đệm khác. Các xứ nóng rất chuộng.
- ĐÀO TY TRÚC: Còn được gọi ngắn là Đào Trúc, mọc nhiều ở đất Giao Chỉ và Lưỡng Quảng, tức là vùng Quảng Đông và Quảng Tây mà ngày xưa thuộc về Việt Nam ta nên vua Quang Trung mới cho Sứ sang đòi.
- ĐIỂM TRÚC: Một giống trúc lớn, mỏng thịt, dài một trượng, hơi giống cây Tùng.
Tranh Mặc Trúc của họa sĩ Vương Phất
Xin ngừng ở đây để nói về bức tranh Mặc Trúc số 1, tranh nầy là của họa sĩ Vương Phất, còn tên là Mãnh là Hữu Thạch Sinh (bạn của đá). Là một họa gia rất nổi tiếng về lối vẽ trúc độc đáo, ông còn tên là Cữu Long Sinh vì có một thời sống ở núi Cữu Long.
Vương Phất hay chữ, hay thơ, biệt tài về sơn thủy họa và Trúc họa. Là học trò của Nghê Tãn, nhưng ông đã biết tự tạo lấy riêng cho mình một tác phong độc đáo. Phẩm cách cao ngạo, nếu ai không phải là tao nhân, nhã sĩ thì ông không thèm biết tới.
Sau đây một nét độc đáo của ông mà sử sách vẫn còn nhắc. Chuyện một đêm đi dạo ngoài đường, nghe tiếng tiêu thổi rất hay, quá hay đến nỗi đã gợi hứng bắt ông phải về nhà, mang bút mực ra vẽ ngay một bức Mặc Trúc, đến ngày mai ông tự thân mang lại nhà người thổi tiêu để tặng, tỏ lòng tri ân người nghệ sĩ. Người thổi tiêu mừng quá, lập tức hô vợ lấy mau ra mấy xích lụa đưa cho Vương Phất để ông nầy về nhà vẽ thêm cho mình một vài bức trúc khác nữa.
Vương Phất lặng người lắc đầu nói: “Ta nghe ông thổi tiêu, tưởng ông là người cao nhã nên mới về nhà vẽ ngay bức mặc trúc nầy trong cơn hứng thú để biếu ông, ai ngờ, ông cũng chỉ là một thứ Tục Vật… thật đáng tiếc”, nói xong mang bức tranh xé nát vứt đi rồi buồn rầu bỏ ra về. Từ đó chữ tục vật để dành khi gọi những người nào mình tưởng là cao quý, là tốt đẹp mà sự thật chỉ là một thứ giá áo túi cơm. Tục Vật mà thôi.
- GIANG NAM TRÚC: Thân cao từ 2 tới 3 trượng trở lên, lá nhọn, mỗi mắt tre có một vòng tròn, đây là một trong những giống trúc cao. Có những cành nhỏ rỗng ruột, mọc thẳng từ dưới đất, tức là từ rễ bên dưới trồi lên chứ không mọc từ mắt ra như lệ thường. Tương truyền giống trúc nầy thời Xuân Thu đã được chọn làm sáo cho Lộng Ngọc.
Hẳn mọi người yêu thơ mấy ai quên hai câu của Ngô thi sĩ trong thời tiền chiến:
Và nàng Lộng Ngọc lấy Tiêu Lang
Cưỡi hạc một đêm bay lên trời
Lộng Ngọc là con gái của Tần Mục Công, một trong số Chư Hầu của nhà Chu được mang tước Bá. Ngày cô bé vừa sinh thì có người dân trong xứ mang đến dâng một phiến đá nhỏ rất quý, đập đá ra thấy có một mẫu bích ngọc, đưa thợ chuốt thành hình tròn, rất đỗi quý giá. Cô gái vừa được một tuổi, trong cung chẳng thiếu món gì để chơi, nhưng cô bé chỉ chơi với viên ngọc mà không làm rơi vỡ. Do đó được mang tên là Lộng, chữ lộng có nghĩa là đùa chơi và lộng ngọc là đùa chơi với ngọc, không thèm đùa với ngói như lệ thường người xưa sinh con gái cứ bảo đưa mãnh ngói cho mà chơi, chỉ con trai mới được chơi với ngọc Chương.
Lớn lên Lộng Ngọc vừa thông minh lại vừa xinh đẹp tuyệt trần, chẳng học với ai bao giờ mà tự dưng cũng biết thổi sáo. Tần Mục Công sai người chuốt cho con gái một chiếc sáo ngọc, ngoài những chiếc sáo trúc Giang Nam mà chúng ta vừa nói đến.
Một đêm cô gái đang ngồi ngắm trăng ở Phượng Đài, cao hứng cô gái mang tiêu ra thổi, bỗng có tiếng tiêu họa lại, rồi nàng nhìn thấy một người con trai xinh đẹp hiện đến nói chuyện nhân duyên tiền định. Nàng giật mình tỉnh lại tuy rằng ban nãy không ngủ, tiếng tiêu nghe còn vang bên tai. Đưa câu chuyện ra thưa với cha, Tần Mục Công ngạc nhiên không tin hẳn, nhưng biết rằng con gái không hề biết nói dối, bèn cho người tìm đến Thái Hoa Sơn, để theo lời người trong mộng của con gái.
Vị quan được lệnh sai đi tìm bèn thẳng đường lên núi, hỏi thăm người trong thôn xóm, đến ngay chổ ở của Tiêu Sứ, mời ông về gặp Tần Mục Công. Ban đầu Tiêu Sứ nhất quyết không nhận, bảo rằng mình là người dân tầm thường không biết lễ nghi cung cách. Vị quan phải nài nỉ mãi ông mới chịu theo về.
Tần Mục Công vừa nhìn thấy Tiêu Sứ đã biết ngay đây là một người phi phàm, Tiêu Sứ đã bị chất vấn và ông đã trả lời về ống tiêu. Xứ ta còn gọi chung là sáo. Tiêu Sứ giảng kỹ cho Tần Mục Công và người đời sau biết rằng bà Nữ Oa là người chế ra ống Sinh, Sinh là một thứ nhạc khí do 13 ống trúc được kết lại. Phục Hy chế ra ống tiêu, ống tiêu nầy được chia ra Nhã Tiêu và Tụng Tiêu. Tiêu cần phải có 23 ống trúc kết lại, dài 1 xích, 4 thốn, gọi là Nhã Tiêu, Tụng Tiêu chỉ cần 16 ống trúc mà thôi, bề dài 1 xich 2 thốn, gọi chung một tiếng là tiêu quãn, không có đáy dưới thì được gọi là Động Tiêu, tất cả đều mang hình cánh phượng, lúc thổi lên nghe hệt như tiếng phượng ca. Đến thời Hoàng Đế, sai Linh Luân chặt tre ở Côn Khê để chế ra ống địch (đã nói qua ở bài sưu tầm cổ nhạc). Địch có 7 lỗ, lúc thổi lên nghe cũng chẳng khác gì tiếng phượng ca mà lại đơn giản hơn, từ đó người ta bỏ dần không dùng Tiêu, chỉ dùng Địch. Ống Địch dài gọi là Tiêu, ngắn gọi là Quản.
Sau khi Lộng Ngọc và Tiêu Sứ làm lễ cưới vào đêm Trung Thu ấy rồi, Tiêu Sứ dạy cho vợ thổi tiêu để cùng hòa tấu, lần nào cũng có chim Phượng chim Hoàng đến múa theo, thật là đẹp mắt, không có vị hầu, bá nào được cái may mắn của Tần Mục Công.
Một đêm khuya bỗng có Rồng và Phượng đỗ cánh xuống đón hai vợ chồng Tiêu Sứ về trời. Rước đi không một lời từ giả cha mẹ, mặc dầu Lộng Ngọc đã xin phép nhưng Tiêu Sứ gạt đi bảo rằng những sự bịn rịn nhớ nhung ấy là vô nghĩa đối với người tiên.
- GIẢI TRÚC: Tre Càng Cua, mọc dễ dàng và rất nhiều, đất nào cũng có thể mọc, không cần chăn sóc như một vài loại tre khác. Đốt tre khẳng khiu có thể dùng làm gậy cho các bô lão.
- GIÁC TRÚC: Thân tre dưới to trên nhỏ, trông tựa như cái sừng trâu, càng ngày càng hiếm.
- HÀN TRÚC: Giống tre nầy chỉ cao độ 5,6 xích, lá to gần như lá gừng, lá mọc đứng thẳng chứ không nằm dài, nằm ngang, hoặc rũ xuống như những lá tre khác, mắt tre ngắn, nhỏ, có thể dùng làm trượng.
- HÂN TRÚC: Mọc nhiều ở Vĩnh Xương có thể dùng làm đồ chứa, lớn thì mỗi mắt chứa được một đấu, bé thì chỉ chứa được một thăng hoặc vài thăng (các thứ đo lường).
- HẠC TẤT TRÚC: Chỉ mọc ở Linh An Sơn, núi còn tên là Linh Uyển Sơn, hay là Tiên Cư Sơn, nơi cư trú của các bậc tiên, người trần tục không được bén mãng tới. Đốt tre gần nhau, mỏng gỗ, còn một tên nữa là Dương Công Trúc, vì hình mỗi mắt tựa như đầu gối con chim Hạc nên mang tên là Hạc Tất.
- HUÂN TRÚC: Một thứ trúc của chiến tranh, gỗ chắc cứng, người xưa dùng để làm tên bắn, chỉ cần nhúng đầu mũi tên vào thuốc độc, không bao giờ mất chất thuốc.
- HOÀN BỘI TRÚC: Đây là một giống tre quý, thể rất nhẹ, da láng như được phủ một lớp sơn, mỗi khi được gió đến lay động cả cành, thân uyển chuyển lã lướt, trong rất đẹp mắt. Thời Hán Thành Đế cho trồng giống trúc nầy ở trong vườn cung Đại Hành quanh ven hồ làm nơi thưởng ngoạn. Một hôm nhà vua gặp được nàng Triệu Phi Yến. Trông thấy nàng ca, vũ, vì nàng được học từ tấm bé, là con gái của một vị đại thần Thành Dương Hầu. Nhà vua đẹp ý, đẹp lòng, nhất định đòi đưa vào cung, phế bà Hứa Hoàng Hậu, nhờ có múa dẽo, ca hay nên nhà vua hay ví nàng với thứ trúc Hoàn Bội nầy và luôn dặn nàng phải mãi mãi giữ gìn tấm thân cho được mềm dẽo giống cành trúc. Suốt 10 năm vui chơi, nhưng cũng vì sự vui chơi quá độ, nhà vua phát bệnh và chết. Được con trai phong làm Hoàng Thái Hậu, nhưng đến đời Hán Bình Đế, nàng bị đuổi ra làm thứ dân. Bà phải tự tử chết cho đỡ nhục.
- HỒ LÔ TRÚC: Thứ Trúc khác hẳn loại anh em, mỗi mắt tre giống hình quả bầu, cũng trên nhỏ dưới to, ở giữa thắt lại, đặc biệt hơn nữa là mùa xuân nở hoa vàng như loại dã cúc, có quả chua, còn tên là Thập Tuế Trúc.
- HỒ MA TRÚC: Có nhiều ở phương Đông Trung Hoa, da Tre mang sắc nâu nhạt, có những chấm nâu đậm như hạt mè. Được chọn để làm các đồ vật trang trí, thịt cứng chắc hơn các thứ tre khác. Người ta cũng dùng làm trượng.
- HOÀNG TRÚC: Ta gọi là tre tầu, sắc vàng, có đường vân dọc, gỗ nhuyễn, không bền, măng đắng hơn các thứ tre khác chỉ trồng làm cảnh cho lạ mắt, muốn ăn măng tre nầy phải nấu rồi đổ hai ba lần nước, tốn củi nên nhà nghèo không ưa, trái lại thi nhân lại yêu vô cùng. Bạch Cư Dị nhà thơ Đường, có hai câu nói đến Hoàng Trúc:
Yếm lục tài Hoàng Trúc
Hiềm hồng, chủng Bạch Liên
Có nghĩa là: thi nhân đã chán mầu xanh nên trồng thứ tre vàng và ghét mầu đỏ nên trồng sen trắng.
Lý Thường Ẩn cũng có hai câu khác nói đến thứ tre vàng nầy:
Hảo vi Ma Cô đáo Đông Hải
Khuyến tải Hoàng Trúc mạc tải Tang.
Có nghĩa là: khuyên vì Ma Cô đến Đông Hải thì chỉ nên chở giống Hoàng Trúc chứ đừng chở cây Tang về.
- HÓA LONG TRÚC: Cho tre mang tên nầy vì thấy rễ tre bò dài ngầm dưới đất đi khắp nơi, đào lên gặp từng khúc uốn và có vảy giống như thân con rồng lượn, rễ lan rất xa, không ai ngờ tới. Lệ thường rễ trúc đã đi xa mà rễ thứ Hóa Long nầy còn xa hơn. Trúc được mọc thành bụi, gỗ trúc cứng, chắc, người Việt ở phương Bắc dùng để làm ống điếu, cho các người hút thuốc trà, có thứ được mang tên là Điếu Cân Trúc, cũng chỉ dùng để làm ống điếu như thứ Hóa Long nầy.
- HỒ TRÚC: Cao gần 100 trượng, ít người biết tới, chỉ có đặc điểm là cao hơn những thứ tre khác, ngoài ra gỗ cũng không chắc để làm những gì ích lợi như cột nhà, cột buồm, giàn trồng hoa trồng bầu bí,…
Tranh của Trịnh Bản Kiều
Xem hình II chúng ta có bức tranh của Trịnh Bản Kiều, ông nầy xuất thân rất nghèo, mồ côi từ năm lên 4 tuổi, nhờ người vú nuôi mà học đỗ đến Tiến Sĩ (ngày nay có còn được những tấm lòng như thế nầy không?). Tính người ông liêm khiết, ghét xu nịnh, đến đây phải nghiêng mình phục người đàn bà vú đã nuôi ông ấy, vì học mà không có hạnh cũng vô ích.
Từ thuở bé đã rất thông minh, giỏi thơ phú, có chí muốn kinh quốc, tế dân, nhưng với cái tính khí khái ấy nên chẳng bao giờ được lòng quan trên, nên đành phải từ bỏ mộng lớn. ( Hẳn đời nào cũng chẳng có gì khác, bây giờ và ngay trong xứ ta đang thấy). Ông đã gửi hết tâm tình vào thi phú và hội họa.
Ông thường phổ biến cái tư tưởng của mình rằng một nghệ sĩ, họa sĩ, viết chữ đẹp, hội họa giỏi cũng là kẻ thanh đó, mà tục đó. Vì đã sinh làm trai, đại trượng phu mà không có thể “Lập Công Thiên Địa” giúp nước giúp dân, lại chỉ có ngồi một chỗ để vẽ, để viết. Ngày xưa, người ta cần đến những người viết chữ đẹp để làm trướng liễn đi tặng, phúng hoặc trang trí nhà cửa, đó là một lối chơi rất tao nhã dành cho những tao nhân mặc khách hiểu biết, có khi cũng là những người trưởng giả học làm sang. Theo ông thì sự mua vui cho thiên hạ chỉ là một điều “không phải là Tục đó sao?”.
Ông có một lối vẽ trúc rất độc đáo, là đợi ánh trăng hoặc ánh nắng mặt trời đến mang giá vẽ đặt trước cành trúc hoặc sau cành trúc, canh làm sao cho bóng trúc in lên khung rồi dò theo để lấy cái giáng cho thật linh động, sau đó mới tô điểm thêm do phần sáng tác của mình. Trịnh Bản Kiều ghét học hệt theo phái cổ, mà chỉ làm cái gì mình muốn và phải có sự sáng tạo của cá nhân.
- KHUẨN TRÚC: Còn tên là Khuẩn Lô Trúc, là một thứ tre không có mắt, dùng làm tên bắn rất tốt. Thời Chiến Quốc, tất cả những trận chiến chỉ dùng cung nỏ để đánh nhau chứ chưa dùng tới các thứ súng đạn khác, giống Khuẩn Trúc nầy vì thế đã rất được chuộng. Chẳng thế mà trong Chiến Quốc Sách có ghi câu: “Khuẩn Lô chi kinh, bất năng quá”, có nghĩa là sức mạnh của những mũi tên Khuẩn Lô không thể vượt qua được.
- KHỔ TRÚC: Giống trúc có rễ rất to, mọc lan dưới đất, thân cao 5, 6 trượng (mỗi trượng là 141 phân Anh), mỗi mắt tre có hai vòng tròn, măng mọc vào đầu mùa hạ, đầu măng có những vằn đen, thường không mấy khi trổ hoa, nhưng lúc trổ hoa thì kéo dài hằng 6, 7 tháng. Hoa nhỏ mà dày, giống nầy mọc rất nhiều nơi.
Theo Bản Thảo Trúc thì trúc nầy có nhiều giống mà chỉ có 3 giống được đưa vào làm thuốc, là Can Trúc, Thiển Trúc và Khổ Trúc. Can Trúc như đã nói ở trên, là một thứ tre tròn thân, gỗ cứng, da trắng như sương, nếu mang chuốt nhọn có thể đâm thủng thuyền cần dùng trong những trận thủy chiến như trận Bạch Đằng của tổ tiên ta. Thiển Trúc, sẽ được nói đến ở những trang sau, riêng Khổ Trúc được chia hai thứ, trắng và tím, ngoài ra lại còn được chia thêm một lần nữa là Khổ Trúc Thô, măng rất đắng, và một thứ lá dài, gỗ dày, chắc, măng ít đắng hơn, gọi là Điềm Khổ Trúc. Lại còn có Thiển Khổ, Hoàng Khổ, Bạch Khổ, Cao Khổ, cùng một giống với nhau.
- KHÁNH TRÚC: Không phải là tên của một giống Trúc nhưng đặc biệt xin đưa ra để cho những ai đã đọc bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi nên biết rõ hơn khi thấy ông viết câu: “Khánh Nam Sơn chi Trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác” (chặt hết tre của núi Nam cũng không đủ để ghi tội ác của quân nhà Minh). Chữ Khánh đây có nghĩa là khánh tận, là hết cả, chứ không phải chữ khánh ở bộ tâm là khánh chúc. Câu nầy Nguyễn Trãi lấy ở 4 chữ Khánh Trúc Nan Thư của Lý Mật, khi Lý Mật viết: Khánh Nam Sơn chi Trúc, thư tội vô cùng. Quyết Đông Hải chi ba, lưu ô nan tận”. Hai câu của Nguyễn Trãi hay hơn gấp mấy.
- LONG TRÚC: Cao 7 xích, mỗi mắt dài 2 thốn, lá hình như lá chuối, mọc nhiều ở La Phù Sơn là một ngọn núi do cát bể bồi lên cao thành núi. Có sách ghi La Phù Sơn là một ngọn núi từ phương khác được đẩy đến nên trên núi còn có những giống cây và giống thú hoàn toàn không phải sinh trưởng thổ sản của địa phương.
- LẶC TRÚC: Trúc thật to, da sần sùi, có những cành nhỏ cũng làm được dao cắt dưa. Người xưa vẫn tin rằng cắt bằng dao tre bao giờ mùi vị cũng ngon hơn dao sắt, thức ăn ngọt ngào hơn, nhất là hoa quả.
- LAO TRÚC: Còn tên là Tư Lao Trúc, giống tre nầy mỏng gỗ, rỗng ruột, cây thấp da cũng sần sùi mà cứng chắc hơn cả sắt. Đâm thủng được cả giáp khi ra trận, làm tên bắn trúng ai thì người ấy sẽ bị thương và chết ngay vì trong gỗ tre đã mang sẵn chất độc, khỏi phải tẩm thuốc độc thêm như các thứ tên khác. Quả là một thứ cây trời làm để cho người đi đánh nhau.
- LAN CAN TRÚC: Trúc nầy đặc biệt vì nó là của tiên, chỉ mọc ở Côn Lôn Sơn, quanh vườn của bà Tây Vương Mẫu. Theo Thủy Kinh thì Côn Lôn Sơn có suối rượu lễ, ngọt ngào và ngát thơm. Núi có nhiều cẩm thạch ngọc, đá quý. Núi được chia ra 3 tầng, thấp nhất gọi là Phàn Đồng, có nghĩa là cái lồng bàng bằng thứ gỗ Đồng, tầng thứ hai là Huyên Phố, vườn có đầy kỳ hoa dị thảo và tầng thứ ba là Thiên Đình, Lan Can Trúc và Chung Long Trúc mọc rất nhiều ở đây.
- LŨNG TRÚC: Một giống trúc rất tầm thường dễ mọc, dễ trồng, mỗi mắt tre chỉ cách xa nhau lối 8, 9 thốn, người ta dùng để làm lạc buộc, đan các thứ rổ rá. Nhà thơ Đỗ Phũ có câu: “Lũng trúc hoa yên trích lộ sao” có nghĩa là Lũng trúc, hoa trong khói từng giọt sương từ trên ngọn tre rơi xuống…
- LY TRÚC: Trúc có gai, thân cây bé nhỏ, người xưa dùng chữ Ly để nói đến sự Phân ly xa cách, và khi nói đến cái hàng rào ngăn cách cũng dùng chữ Ly, mà vì hàng rào bao giờ cũng được làm bằng tre nên cho chữ Ly của hàng rào mang bộ trúc. Không biết trong hai chữ Ly chữ nào được ra đời trước.
- LÂN TRÚC: Trúc nầy rất hiếm, không còn mấy ai được trông thấy, gỗ cứng, chắc, đường kính 5, 6 thốn, to như cái kích, chặc ruột. Một giống với Phiêu Trúc, cứng và mạnh, sử chép người dân Giao Chỉ mỗi khi ra trận hay sử dụng thứ trúc nầy, chuốt thành mâu, đâm vào các xa, giáp rất sắc bén và rất đáng sợ.
- MAO TRÚC: Trúc mọc nhiều nhất ở núi Vũ Di, một ngọn núi nổi tiếng nhờ giống trà ngon thượng hạng, trúc mọc bên trong động, nhờ lá trà rụng xuống đất, bón cho cây cỏ nên hoa quả rau dậu ở vùng nầy đều thơm và ngon. Tại Nam Linh cũng có giống tre nầy.
- MÃ TIÊN TRÚC: Tre ngắn đốt, không có cành, chặt xuống là có thể dùng làm roi nhất là roi đánh ngựa, lừa, rất tốt vì không có gai.
-  MẶC TRÚC: Lá lục, cành thanh, gầy, mầu thân ngã nâu, càng về già mầu da trúc càng thẫm hơn nên được đặt tên là Mặc Trúc, vì ban đêm tối không đèn, đi sẽ không thể trông thấy. Người xưa cho là đen như mực nên đặt tên.
- MÃNH TÔNG TRÚC: Giống tre lớn, đường kính hơn một xích, măng tre rất được chuộng vì ngon hơn các thứ măng khác. Có sách còn gọi là Giang Nam Trúc, thứ trúc được chọn làm sáo cho Lộng Ngọc, nhưng hình như chỉ trùng tên, vì người Nhật đã viết sách cãi lại.
Đời Tam Quốc có người tên Mãnh Tông, chăm học có bà mẹ rất hiền, ngày ông còn đi học xa, vì ở gần không có trường, cũng như bây giờ, ở một vài địa phương. Mẹ ông may cho con trai một cái bao đệm, để chui vào ngủ, bà cố ý may thật rộng. Người ta hỏi lý do tại sao mà may rộng, bà mẹ trả lời con trai tôi nghèo, chẳng có gì để giúp đỡ mọi người mà đa số học trò cũng nghèo. Nếu nó có gặp ai không có chăn thì cùng nằm chung để lấy hơi mà ủ nhau tiếp sức cho nhau.
Sau lớn Mãnh Tông làm quan ở một vùng có cá ngon và đặc biệt hơn mọi nơi, một hôm ông cho người mang đến dâng mẹ, bà trả lại, bảo rằng con không sợ mang tiếng hay sao. Bà chỉ thích ăn măng, gặp mùa đông, măng chưa trổ lên mặt đất. Mãnh Tông thương mẹ, vào rừng than với gốc tre, bỗng tự nhiên có một nụ mặng trồi từ dưới đất lên. Ông vui mừng, cắt lấy mang về nấu cho mẹ. Người trong vùng đều cho rằng nhờ lòng chí hiếu của ông đã làm cảm động cả cây trúc và cây trúc đã trồi măng lên để làm vui lòng ông.
- MÃ ĐỀ TRÚC: Mỗi mắt tre có những hình giống như móng ngựa, mầu xanh đậm.
- NGƯU GIÁC TRÚC: Mắt tre giống sừng trâu, dưới to trên nhỏ, một loại với Giác Trúc đã kể trên nhưng hẳn vì được gọi ngắn lại, tùy nơi.
- NHÂN DIỆN TRÚC: Thân cao hơn trượng, rễ trồi lên mặt, mỗi mắt tre nhìn quanh bốn phía đều có chỗ lồi lõm như mặt người với đủ mắt, mũi, miệng. Chẳng thiếu gì thường được trồng ở các đình, miếu cho đẹp mắt khách đến viếng, thân tre dùng làm cán, gậy, cần câu, đều rất tốt. Tre mọc nhiều ở Viêm Sơn.
- NAM THIÊN TRÚC: Tuy mang tên trúc vì có mắt, có đốt nhưng mỗi mùa hạ lại có hoa và quả sau đó, nên có thể gọi là một giống Phi Trúc, chỉ bà con xa mà thôi.
- NGUYỆT NGUYÊN TRÚC: Giống tre nầy mỗi tháng sinh một lần măng, mỗi năm 12 lần trổ măng. Cứ đến ngày Sóc, tức ngày mùng một âm lịch thì măng trổ, đến ngày Hối tức ngày ba mươi cuối tháng thì măng thành tre, có đủ cành lá, người nhà nông cứ theo đó mà biết ngày tháng, khỏi cần xem lịch.
- NGÂN MINH TRÚC hay là NGÂN TRÚC, bên ngoài mầu da xanh nhạt, bên trong, khi tre già lại mang mầu bạc rất đẹp mắt. Do đó mới được mang tên. Mỗi lần trời mưa lớn, cũng được người xưa gọi là Ngân Trúc, nhìn những giòng mưa đan qua dệt lại trong không gian, tưởng chừng như đó là một thứ trúc bằng bạc. Nhà thơ Lý Bạch có hai câu:
Bạch Vũ ánh hàn sơn
Sâm sâm tự ngân trúc.
Hai câu nầy lấy hứng ở một hôm trời mưa.
- NHƯỢC TRÚC: Giống trúc chỉ cao lối bốn, năm xích, mắt cách quãng khá xa, lá tre rộng và dài, quanh lá viền trắng, hơi giống lá lau sậy, măng có thể ăn được Người phương Nam dùng lá nầy để gói trà, bánh, xôi, lót rổ rá, có rất nhiều thứ bánh được gói bằng lá Nhược Trúc nầy, trúc mọc nhiều ở huyện Vũ Ninh.
- Ô TRÚC: Giống Thiển Trúc mà lá mỏng hơn, cao hai trượng, chu vi bốn năm thốn mỗi ống trúc, sau vài năm sẽ trở thành mầu tím đen, có một loại khác lại còn điểm thêm những chấm nâu đậm, gọi là Hồ Ma Trúc, tre hạt mè có thể làm được nhiều thứ đồ dùng trang trí nhất là kệ, gác sách và những chiếc ghe nhỏ.
- PHẤN TRÚC: Tre nầy có nhiều phấn, sờ vào tay là bị dính bụi phấn. Sách của Lý Thời Trân, cho rằng Phấn Trúc là Thiên Trúc mà mỏng thịt hơn, thứ phấn nầy còn được dừng vào ngành thuốc, rất tốt.
- PHƯỢNG TRÚC: Cao lối hai trượng, lá dài bốn, năm thốn, chắc gỗ, mầu xanh lục đậm, ít rỗng ruột, có hai giống, một giống mắt tre dài, lá mềm, thứ nầy chắc ruột hơn thứ kia, và mỗi mắt không cách nhau xa lắm.
- PHẬT DIỆN TRÚC: Mỗi mắt tre đều giống như hình mặt đức Phật nên được mang tên, thân cao một hai trượng, hơi thô, không phải là Nhân Diện Trúc như đã kể ở trên, vì Phật Diện Trúc hơi thô hơn, có đủ mắt, mũi, miệng, dùng làm trượng rất tốt, được gọi là Đinh Quang Phật Trượng.
- PHÙ TRÚC: Giống trúc nầy đặc biệt khác với các thứ trúc khác là lá trúc có những đường nét ngoằn ngoèo, hệt như những đạo bùa của các thầy vẫn cho tín đồ, mỗi lá hình vẽ đều khác hẳn nhau, làm hình tượng như có triện, có lá chỉ đơn sơ vài nét nhưng cũng có nhiều là rối ren, phức tạp. Dầu lá đến lúc già khô mà vân sắc vẫn không thay đổi. Đường vằn mầu trắng nổi bật trên nền lá, thân cây không cao lớn như những thứ tre khác chỉ độ một vài xích mà thôi.
- PHƯỢNG VỸ TRÚC: Đừng lẫn với Yến Vỹ, vì Phượng Vỹ cao hơn, lá to hơn, lá hệt như đuôi chim, mùa hạ trổ măng, ăn được.
- LA PHÙ TRÚC: Có nơi gọi là Phù Trúc, nhưng không phải thứ Trúc bùa đã kể ở trên. Còn tên là Long Ông Trúc, chim Loan và chim Phượng rất thích đậu ở đây, lá to như lá chuối, còn một tên nữa là Long Phượng lâu, xem cây trúc như lâu đài của long và phượng.
- QUÂN TRÚC: Da xanh, chắc gỗ và nhuận sắc.
- QUẾ TRÚC: Sinh sản ở đất Quế Dương, theo Sơn Hải Kinh một thứ sách được gọi là Hoang Thư mà chúng ta đã có dịp nhắc ở trên, sách nầy ghi Văn Sơn không có thảo mộc gì khác mà chỉ có thứ Quế Trúc nầy thôi, một thứ tre rất độc, ai động đến là chết, thân cao bốn, năm trượng.
- QUAN ÂM TRÚC: Tức Phượng Hoàng Trúc, một trong năm thứ trân quý của Nhạn Sơn, thân hình nhỏ nhắn, lá dài, mầu xanh lục, thường mọc chen chúc với đá trông rất đẹp mắt, họa sĩ ưa đi tìm để vẽ, mùa đông không có một chiếc lá vàng.
- SA MA TRÚC: mầu lục rất đẹp, mắt tre to, rễ uốn éo, một năm trổ ba lần măng, ngay ở mắt tre cũng trổ măng. Muốn trồng chỉ cần chặt một vài mắt chôn ngang dưới đất là măng trồi lên. Ba năm sau có thể cao tới hai ba trượng, còn được gọi là tre đuôi ngựa.
- TƯ TRÚC: Một giống tre chỉ để làm sáo là tốt nhất.
- TÚ QUÝ TRÚC: Còn một tên nữa là Tứ Thời, cao hơn trượng, mầu lục nhạt, lá nhỏ dài và nhọn, bao măng mầu tím, không có vằn, bé nhỏ có thể chiếc ra trồng ở chậu, dùng làm sáo cũng rất được chuộng.
- TƯ MÃ TRÚC: Gần như Sa Ma Trúc có thể dùng làm cung nỏ, được gọi là Khê Tư nỏ, thân nhỏ, gỗ dày, măng cũng hay mọc ở mắt tre như Sa Ma nên có người lầm. Sang xuân thì trở thành tre, rồi lại bắt đầu sinh măng.
- TƯƠNG TƯ TRÚC: Còn một tên nữa là Nhị Ban Trúc, cành chia ra giống hệt cái nĩa, lại còn một tên khác nữa là Liên Lý Trúc. Hình như ngày nay cũng đã bị mất giống như một số trúc đã kể trên. Có sách ghi rằng Trúc mang tên Tương Tư mọc nhiều ở một sườn đồi mang tên Tương Tư. Trai gái trong vùng nhớ nhau thường tìm đến đấy, hái lá, chặt cành mà gửi tặng nhau. Giống tre dần dần bị tuyệt chủng vì không được ngăn cấm và không ai nghĩ đến sự bồi bổ hoặc mang trồng thêm ở những nơi khác.
- THỦY TRÚC: Tre có nhiều nước trong mắt, uống vào thấy ngọt ngào, theo Trúc Thảo bản thì Thủy Trúc là một giòng với Thiển Trúc, có hai thứ, một thứ mọc dưới nước, to và cứng để người ta có thể dùng làm chèo, nước sông và thời gian không làm mục nát.
- THÍCH TRÚC: Tre gai, trồng quanh nhà để làm hàng rào chống trộm rất tốt, mọc dày không cần chăm sóc vẫn biết giữ lề lối.
- TƯƠNG TRÚC: còn tên là Tương Phi Trúc, Lệ Trúc, Ban Trúc, tương truyền vua Nghiêu, khi nghe tiếng vua Thuấn là người hiền, ngày ấy ông Thuấn chưa làm vua, đang chỉ là một người thường, vua Nghiêu bèn mời đến, gã hai con gái để điều tra bên trong và cho 9 con trai đến hầu hạ làm việc để xem sự đối xử bên ngoài.
Sau khi các con về báo cáo, biết Thuấn là một người hiền quả như lời đồn, ở trong nhà thì tề gia khéo, hai bà rất thuận thảo không có một sự chênh lệch bất công, ra với xã hội bên ngoài thì đối xử trên dưới rất lễ độ, nghiêm túc. Một người đã tề gia được thì có thể trị quốc được nên vua Nghiêu mới nhường ngôi gọi là Thiền Nhượng. Sau khi lên làm vua nhiều năm, một hôm nhà vua mở cuộc Nam chinh đi đánh rợ Tam Miêu, thất bại, vua chết trên đường về hai bà đi theo, khi nhà vua chết hai bà đã ngồi khóc cạnh gốc tre, nước mắt hai bà vấy vào thân tre, từ đó tre có từng ngấn mà người xưa tin là vì thế. Sau một lần khóc cuối, khi đã an táng vua xong, cả hai chị em Nga Hoàng và Nữ Anh tức là vợ của vua Thuấn đã cùng nhảy xuống sông để được chết theo chồng. Giòng Sông Tương từ đó được đi vào lịch sử cũng như giống Tương Trúc nầy vậy. Bạch Cư Dị có hai câu thơ để nhớ hai bà:
Đỗ Quyên thanh tự khốc
Tương Trúc ban như huyết
Có nghĩa là: tiếng hót của chim Đỗ Quyên mà nhà Phật gọi là Vô Thường điểu, nghe như khóc, và những nét ngấn của Tương Trúc nhìn như những giọt máu.
- THỪA TƯỚNG TRÚC: Còn tên là Chúc Trúc, Tri Trúc, mọc nhiều ở Quan Sơn, da có vân, dùng làm sáo cũng rất tốt.
- THẠCH TRÚC: Thân cây bé nhỏ, mọc thành bụi, lá nhỏ và nhọn, tuy mang họ trúc vì nó có từng đốt nhưng cũng lại thuộc vào một loại Phi Trúc, mùa hạ ra hoa, có nhị đực và nhị cái, hoa mầu hồng và tím.
- THỰC TÂM TRÚC: Trái với Thông Tâm, đây là thứ trúc chắc ruột, trong khi Thông Tâm thì lại rỗng ruột, Thông Tâm được dùng làm máng xối để chờ nước mưa mỗi khi cần, Thực Tâm để làm cột buồm.
- THIỂN TRÚC: Cao hơn Ô Trúc, rỗng ruột, mỗi mắt tre có một vòng tròn, hơi giống khổ trúc nhưng bao và măng không có lông. Tre già cũng chắc, có thể dùng để cất nhà, gỗ chưa già lắm có thể đan các thứ dụng cụ như rổ rá, nơm cá, giỏ cá,… măng không đắng. Người ta cho rằng tre có thứ măng được chọn làm thuốc là Thiển Trúc.
- THƯƠNG TRÚC: mầu xanh đậm, được thi nhân rất chuộng, gần như loại Thanh Bì Trúc là thứ tre cũng có mầu da rất xanh mà không có gai như Thanh Bì Trúc.
- THẬP NHỊ THỜI TRÚC: Đây là một loại tre rất lạ, sách chép có người tên Chu Tuân Thức, nhận thấy một giống Trúc có 12 chữ chỉ giờ bèn mang về trồng nơi mình sinh sống. Mấy năm liền không lên lá, khi ra măng thì gầy guộc tiều tụy. Phải 10 năm sau mới bắt đầu trổ 3 cành, mỗi mắt sinh vòng quanh 12 chữ đọc rõ như chữ tý, sửu, dần, mão, thìn,… Người ta tin rằng không phải vì đất đai mà vì phong khí, nhất là đối với giống trúc, có thể ở vùng nầy mọc, vùng khác không mọc, nhưng nếu là người có đức độ, phong chất cao thâm thì sẽ ảnh hưởng đến Trúc. Phân bón cũng như đất đai, lắm khi giống nhau và ai cũng có thể tìm ra, nhưng cái phong chất của mỗi người thì khác hẳn.
- TIỄN TRÚC: Cao gần một trượng, mỗi tiết cách nhau đến 3 xích, gỗ có thể dùng làm qua, làm mũi tên, đao, vì gỗ của Tiễn Trúc rất cứng, chắc. Còn một tên nữa là Mâu Trúc.
- TƯỢNG NHA TRÚC, mỗi đốt như ngà voi, mầu trắng bạc. Ngày xưa, người ta dùng làm cái hốt cho các quan cầm, hay đúng hơn là đầu tiên để dành cho nhà vua cầm để ghi chú những gì cần phải ban chiếu lúc ra triều. Về sau, các quan cũng phải cầm để ghi những gì cần phải tâu với nhà vua lúc vào triều. Dần dần người ta không cần đến vì có giấy bút để ghi, nhưng cái hốt vẫn được giữ và chia ra cấp bực. Nhà vua cầm hốt bằng châu ngọc, chư hầu bằng ngà voi thứ thật. Các đại phu bằng Trúc, và cố nhiên là đi tìm cho được thứ Tượng Nha trúc nầy mà có lẽ ban đầu là vì bắt chước mầu trắng ngà của trúc nên mới dùng ngà voi.
- TƯ TRÚC: Trúc nầy chỉ dùng làm ống địch vì thân bé nhỏ, không thể dùng làm gì khác.
- TỪ MẪU TRÚC: Còn một tên khác là Hiếu Trúc, sách Thuật Dị Ký ghi rằng ở vùng Nam Trung có một thứ tre mang tên Từ Mẫu, giống tre quý, sinh từng bụi, cành lớn mọc ở giữa để các cành bé chi chít mọc chung quanh, cành to như bảo vệ thân cành nhỏ, chỉ hướng về phía mặt trời mới xanh tốt, thích mọc ở những nơi cao. Loại tre rỗng ruột. Nhìn bụi tre, cho người cảm tưởng một người mẹ đang có thế đứng để bảo vệ các con.
Thời Hán Chương Đế, tre nầy không ai trồng mà bỗng dưng mọc ở Bạch Hổ Điện, một cung điện trong Vị Ương cung. Tre nầy vì không trồng mà mọc, mọi người đều cho là điềm lạ. Nhà vua bắt phải giữ gìn săn sóc, không cho bứng đi nơi khác.
- TỪ HIẾU TRÚC: Còn tên là Nghĩa Trúc, loại tre chỉ tụ lại mới sống. Cây mẹ cây con nương tựa vào nhau, mọc nhiều ở miệt Triết Giang. Cao độ 2 trượng mỗi bụi có cả trăm thân. Rễ tre quanh tròn dưới gốc không lan ra các nơi như những thứ tre khác. 4 mùa đều sinh măng từ đầu năm đã bắt đầu mọc măng, quấn quýt lấy nhau.
- TRỨ TRÚC: Dài mỗi đốt hơn một xích, trong lòng trắng như xương, người ta hay dùng để làm đũa rất tốt, loại tre nầy thích mọc ở những vùng có nhiều cát nên còn một tên nữa là Sa Trứ Trúc. Muốn chặt tre cần phải đi thật nhẹ, đừng cho tre nghe bước chân động, nếu nghe có tiếng động mà không phải là tiếng gió mưa, tre sẽ trốn, trụt chui xuống dưới cát, không còn biết đâu mà tìm.
- VÂN TRÚC: Cành nhỏ, lá nhọn chỉ mọc trên miệt núi, vùng Cao Bình có ngọn núi mọc nhiều trúc nầy, nên được gọi là Vân Trúc Sơn. Giữa núi có cái giường bằng đá, chung quanh tre mọc bao vây, mỗi lần gió thổi tre uốn lượn quanh giường có người cho đó là giường của tiên, mỗi khi xuống trần chơi, đến đó ngủ tạm.
- VIỆT VƯƠNG TRÚC: Tre rắn vô cùng, lì, khó chặt khó chẻ, rễ có thể chui qua đá, thích những chỗ cằn cội đá, khắc khổ như người Việt, con cháu của Câu Tiễn.
- VÔ TIẾT TRÚC: Đó là Thông Tâm Trúc mà vì không có mắt nên được mang thêm một tên. Các bà không dám trồng sợ bị người ta hiểu lầm. Vì chữ Tiết còn có nghĩa là Tiết Tháo. Ngay nhà các bậc sĩ phu cũng không ai trồng trước nhà.
- YẾN LAI TRÚC: Một giống trúc lá nhỏ, mỗi năm chờ chim yến bay về mới mọc măng, măng của trúc nầy rất ngọt, ăn ngon mà dễ mọc, có nơi mọc thành rừng. Dân trong vùng thấy chim yến bay về là đợi vài hôm sau đi hái măng, đưa ra chợ.
Trúc còn dài nhưng cũng phải có một lúc cần chấm dứt để sang chuyện khác, có giống trúc mang tên Thanh Ty mà thân cây lại mầu vàng, cũng như có thứ mang tên Hoàng Kim lại xanh mướt, có thứ lá to như lá chuối, có thứ lá như lá liễu hay bé hơn…
Người xưa có câu:
Vô nhục lệnh nhân sậu
Vô trúc sử nhân tục
Nhân sậu thượng khả phi
Nhân tục bất khả y
Có nghĩa là không ăn thịt làm cho con người gầy, không có cây tre làm cho con người trở nên tục. Gầy còn có thể làm cho béo ra nhưng tục thì không làm sao mà trị được, thầy thuốc nào cũng xin chịu.
Hơn 2000 năm trước có ông Hán Vũ Đế, vua nhà Hán, đã biết dựng ngay một cái Trúc Cung ở điện Can Tuyền, chỉ chọn toàn các giống tre quý để làm vật liệu. Ông vua nầy rất nhiều chuyện, ông là người mê Lý Phu Nhân vì bà vừa đẹp vừa ca vũ giỏi. Lý Phu Nhân là em gái của Lý Diên Niên, nhờ có bà chị của nhà vua là Bình Dương Công Chúa giới thiệu nên nhà vua yêu ngay. Suốt ngày đêm vui chơi ở Trúc Cung, về sau bà bị rận cắn chết. Nhà vua buồn, nhớ bắt vẽ hình bà treo ở điện Can Tuyền để ngồi nhìn mà khóc. May nhờ có Đông Phương Sóc tặng cho một cành cỏ, Hoài Mộng Thảo ôm thứ cỏ nầy vào thì tha hồ gặp người mình yêu, đó là thứ cỏ chỉ mọc ở núi lửa, ban ngày lặn trốn, ban đêm mới trồi lên mặt đất, ôm lá ấy vào lòng thì có thể biết được việc lành dữ sẽ xảy ra. Hoài Mộng Thảo giống như cỏ Bồ mầu hồng. Hán Vũ Đế còn có nhiều chuyện khác nhưng trong khuôn khổ Trúc chỉ biết rằng ông là người rất kính trọng cây trúc.
Trúc đi vào đời người từ thuở còn bé thơ làm cái nôi đong đưa giấc ngủ cho đến lên bảy tám chơi cởi ngựa tre là trò chơi đã được đi vào ca dao thi phú. Chữ Thanh Mai Trúc Mã dùng để nói đến cái tình giữa trẻ em gái và trai khi tuổi mới lên bảy lên tám.
Lý Bạch có hai câu trong Trường Ca Hành:
Lang kỵ Trúc mã lai
Nhiễu sàng lộng Thanh Mai
(chàng cưỡi ngựa tre đến, vòng quanh giường của em, nghịch với cành mai xanh).
Suốt đời người hỏi mấy ai không mang ơn cây tre, nhất là đối với người Á Đông.
Để chấm dứt câu chuyện về trúc, chúng ta cũng nên biết rằng Trúc sinh vào mùa Đông. Theo Dịch Kinh là quẻ Phục, nhất Dương sơ phục, đó là quẻ hạ Chấn thượng Khôn. Đây là quãng thời gian mà Hỏa ẩn tàng ở dưới đất, sấm động. Nhờ có hỏa ẩn tàng ở dưới, nên Trúc được ấm áp, và bắt đầu trổ măng, nhưng vì măng gặp hỏa nên đắng. Người xưa còn gọi măng là long nha tức là răng rồng.
Trúc có Thư, có Hùng, Thư là cái mà Hùng là Đực, nhìn kỹ cây trúc nào lên mà ngay từ dưới gốc đã mọc thành là trúc cái. Trúc đực to hơn và bao giờ cũng đến đốt thứ 9 kể từ dưới, có khi dưới cả mặt đất, đốt thứ 9 mới bắt đầu trổ cành, tức là măng đực để sinh cây tre đực. Trúc cái có nhiều măng hơn, còn được gọi là duẫn dựng (thai măng). Măng là sơ khí của trúc, lớn rất nhanh, người ta có thể ngồi nhìn măng lớn dần. Ăn măng, theo đông y thì sẽ được bổ khí, mà cần phải chọn thứ măng ngọt mới quý.
Măng trổ trong năm không tốt bằng măng đầu mùa Đông, là thứ măng còn giữ được cái nguyên khí chưa bị mưa gió sấm sét phá hại.
Chúng ta còn gọi tre với trúc để phân biệt giống nhỏ và giống lớn. Việt Nam chúng ta còn có tre Mai mà hẳn ai cũng chưa quên hai câu trong bài học thuộc lòng:
Miệng ăn măng Trúc măng Mai
Những Giang cùng Nứa lấy ai bạn cùng
Mai là tre Bương, hay tre Bè, ngoài ra chúng ta còn nghe nói đến những tên như tre Càng Cua, tre Làng Ngà, tre Cán Giáo,…
Đến đây chấm dứt câu chuyện Trúc.
4. Những vì sao trên trời
Nói đến Sao là cả một vấn đề to lớn, dài giòng, bắt phải do dự, chẳng biết nên đưa đoạn nào ra, bàn đến vì sao nào, nhiều hơn, ít hơn. Làm sao để người đọc đừng gập sách kêu buồn ngủ. Cần cả chục quyển sách cũng không thể nói hết, chuyện trên trời bao giờ cũng nhiều. Thiên Văn, là văn ở trên trời, chúng tôi sẽ cố thu gọn. Người chịu đọc mục nầy hẳn sẽ như lá mùa thu lá xanh, chứ không phải lá vàng. Với những người yêu thích thì sẽ là quá ít ỏi thiếu thốn, xin mời ra thư viện.
SAO VỚI NGƯỜI THƯỢNG CỔ
Đề cập đến Sao, người Á Đông nói chung, và người Việt Nam ta đều biết, thường nhắc đến Nhị Thập Bát Tú. Người xưa xem sao để biết sự chuyển hướng của gió mưa, trước khi bàn đến việc cát, hung, tức là nhìn sao để đoán điềm lành điềm dữ. Sao là hướng đạo cho người thủy thủ, là thầy của bác nông phu, là bạn tâm tình của những người yêu nhau mà không được gần, phải nhờ sao chuyển tình mình đến người ấy, sao là thi hứng của thi nhân.
Người nông dân ở thời nào, xứ nào, cũng biết nhìn sao, đoán định thời tiết, chẳng hạn như tháng 7 sao Đại Hỏa hạ xuống thấp hơn, tức là báo hết mùa hè, trời sẽ bớt oai nồng, chuôi sao Bắc Đẩu quay về tháng thân tức tháng 7 ta. Sao Đại Hỏa là sao Tâm, vào đầu tháng 6, sao nầy ở phương Nam, đầu tháng 7 hạ xuống phía Tây.
Người phụ nữ Á Đông xưa tảo tần làm việc để nuôi những ông chồng dài lưng tốn vải, với niềm hy vọng được ngựa anh đi trước võng nàng theo sau, các bà nầy cũng đã nhìn sao để biết rằng trời sắp sáng, hay chưa, khi chòm sao Tam Tinh hiện ở cửa là đêm đã khuya, nên dẹp khung cửi, nong nia, để vào ngủ lấy vài giờ ngày mai còn đi chợ sớm. Khi trăng đứng cùng một vị trí với sao Tất, trời sẽ chuyển mưa, nếu có đi chợ thì dặn người nhà lo cất dấu những nong ngô khoai đang phơi ngoài sân.
Người xưa lấy mặt trăng, mặt trời và Ngũ Hành tức là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, (sắt, gỗ, nước, lửa, đất) hợp lại gọi là Thất Chính, hay Thất Diệu, cũng xem Ngũ Hành như 5 vì sao gọi là Ngũ Vỹ.
Ngũ Vỹ là:
1-Mộc Tinh (Jupiter) còn tên là Tuế Tinh.
2-Hỏa Tinh (Mars) còn tên là Huỳnh Hoặc,
3-Kim Tinh còn tên là Minh Tinh hoặc Thái Bạch (Venus) Vì mầu ánh sáng của sao nầy mang sắc ngân bạch và độ ánh sáng đặc biệt cao. Sao nầy lúc nhìn thấy ở phương Đông còn gọi là Khải Minh, vào lúc hoàng hôn lại được gọi là Trường Canh.
4-Thủy Tinh (Mercure) còn gọi là Thần Tinh
5-Thổ Tinh (Saturne) còn tên là Trấn Tinh hoặc Điền Tinh.
Các hành tinh khác như Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh, và Minh Vương Tinh là về sau nầy, thời thượng cổ chưa đủ sức nhìn thấy. Không bàn đến ở đây.
Người xưa nhìn sự luân chuyển của mặt trăng, mặt trời cùng với các hằng tinh, tức là định tinh (những vì sao không biến chuyển) nhân đó mà đặt vị trí cho sự vận hành của các vì sao. Sau bao nhiêu thế hệ quan sát, bổ túc lâu dài, người ta đã chọn Hoàng Đạo và Xích Đạo phụ cận với 28 hằng tinh làm hoa tiêu (coordination) mang tên nhị thập bát tú.
Đông phương: Thanh Long có 7 sao là:
Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.
Bắc phương: Huyền Vũ có 7 sao:
Giác, Khương, Đê, Phòng, Tâm, Vỹ, Cơ.
Tây phương: Bạch Hổ có 7 sao:
Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm.
Nam phương: Chu Tước có 7 sao:
Tĩnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.
Bốn con thú, Thanh Long, Huyền Vũ, Bạch Hổ, và Chu Tước nầy còn được gọi là tứ tượng.
Cho Đông phương mang tên Thanh Long hay Thương Long vì nhận thấy nó hơi giống con rồng. Từ sao Giác đến Khương là đôi sừng của đầu rồng, sao Đê và sao Phòng là mình rồng, sao Tâm, Vỹ, Cơ là đuôi rồng.
Phương Nam, Chu Tước cũng vậy. Từ sao Tĩnh đến sao Chẩn người xưa cho rằng nó mang hình con chim, vì thế mới gọi là Chu Tước, sao Liễu là cái mỏ, sao Trương là cổ chim, và sao Dực là đôi cánh. Tuy gọi một tên nhưng mỗi tên là cả một chòm sao, có những chòm sao tổng hợp đến gần hai chục vì sao khác.
Huyền Vũ tượng hình con rùa lai rắn, Quy xà hợp thể (rồng rắn hợp một thân).
Bạch Hổ tượng hình con hổ.
Nhị Thập Bát Tú còn là những chòm sao để cho người ta dùng làm đối tượng, để trắc định năm tháng và ngày giờ. Mới chập tối mà sao Sâm đóng tại chính phương Nam là tháng giêng, mùa Xuân, sao Tâm tại chính phương Nam lại là tháng năm, mùa Hạ…
Ngoài Nhị Thập Bát Tú ra, người xưa còn chia ra Thập Nhị Thứ, và Tam Viên.
Tam Viên là Tử Vi Viên, Thái Vi Viên và Thiên Thị Viên. Vì ở từ lưu vực Hoàng Hà nhìn thấy Bắc Cực, nên người ta lấy sao nầy làm tiêu chuẩn, tập hợp với các sao chu vi, lập thành một khu, gọi là TỬ VI VIÊN.
Ở ngoài vùng Tử Vi Viên nầy bắt đầu từ các sao Trương, Dực, và Chẩn tới khu vực phương Bắc gọi là THÁI VI VIÊN.
Từ các sao Phòng, Tâm, Vỹ, Cơ đến phương Bắc của vùng nầy gọi là THIÊN THỊ VIÊN.
Nhị Thập Thứ để chia vị trí của mặt trời trong một năm theo 4 mùa, và tiết khí thay đổi ra sao. Thí dụ như, lúc mặt trời tại Tinh ký thứ nhất có sao Đẩu, sao Ngưu, sao Nữ tức là thời tiết bắt đầu giao Đông Chí. Tại huyền hiêu thứ hai có sao Nữ, sao Hư và sao Nguy, giao Đại Hạn.
LIÊN HỆ GIỮA NGƯỜI VÀ SAO
Vì có sự tin tưởng rằng mỗi người, mỗi nhân vật đặc biệt, quan trọng, nắm vận mệnh quốc gia hoặc là có ảnh hưởng đến quốc gia đều có một vì sao trên trời. Người ta tin rằng Thiên Văn, và Nhân Văn có liên hệ mật thiết với nhau, muốn biết nhân sự sẽ có gì, và đang có gì xảy ra thì, với người biết thiên văn chỉ việc nhìn lên trời vào lúc nửa đêm, đọc văn trên trời cũng chẳng khác gì đọc văn của người ở cõi đất.
Do đó mới đặt ra cái gọi là THIÊN VĂN HỌC (Độ tinh đẩu nhi tri nhân sự). Những nhà Thiên Văn lớn như Gia Cát Khổng Minh, Tư Mã Ý, Lý Thuần Phong, Thiệu Khang Tiết, Lưu Bá Ôn… đều là những người có thể nhìn sao mà biết có những gì sẽ xảy ra và đã xảy ra ở nơi nào.
Lấy Bắc Đẩu làm điểm cơ bản như trên đã nói, dọc hai bên Ngân Hà để định phương vị. Người ta đã vạch ra 9 châu để có thể đối chiếu, có thể biết vùng nào thuộc sao nào, và sao nào sẽ ảnh hưởng đến người nào. 
Ngoại trừ Thái Dương Hệ là vị Hành Tinh lớn, Nam Đẩu có 6 sao, Bắc Đẩu có 7 sao và Nhị Thập Bát Tú. Sau đó là những tiểu tinh khác, không tên hay chưa có tên, và với những tiểu tinh nầy người ta cho rằng nó có liên hệ với những nhân vật của các vùng. Tra rõ người xuất sinh ở nơi nào, tháng, năm, ngày, giờ nào thì có thể biết là họ thuộc về ngôi sao nào. Người sắp chết sao sẽ dao động, nếu người ấy bị vận xui, sao sẽ hắc ám.
Sử chép, Tư Mã Ý, một đêm ra xem sao mà biết là Gia Cát Khổng Minh sắp chết, mừng lắm, đó là do sự hiểu biết về Thiên Văn. Người xưa cho Thiên Văn và Địa Lý là môn học cao nhất, phải bậc Đế Vương chi sư thì mới hiểu biết về những môn nầy. Ngày nay môn học đã bị thất truyền vì các triều vua sau nhận thấy nó quá quan trọng mà để cho thứ dân biết ắt sẽ dễ bề làm loạn nên đã cấm chỉ rất khắc nghiệt ai dám nhìn trời ban đêm cũng có thể ghép vào tội tử hình vì trái phép vua.
Sử sách còn ghi thêm câu chuyện Lưu Bá Ôn một thiên văn gia, trong lúc đi chơi ban đêm ngước mắt lên trời, bỗng thấy có một vì sao thuộc Tử Vi Viên, và miệt giữa Giang Hà Văn lại có Thiên Tử Khí Nhìn đường không xa, ngày mai, ông khăn gói lên đường đi tìm, và tìm ra được Chu Nguyên Chương, mời vào phòng riêng bái mà nói: Trong 10 năm nữa ngài sẽ là chân mệnh Thiên Tử. Chu Nguyên Chương sợ hãi trả lời tôi chỉ là một tiểu tướng, sao lại bảo vậy. Chu Bá Ôn hẹn trong 10 năm. Về sau kết quả đã xảy ra y như thế, Nguyên Chương tức Minh Thái Tổ, dùng Chu Bá Ôn làm cố vấn cho mình.
Từ sau thời Tam Quốc, triều đình biết Thiên Văn Học là một môn học nguy hiểm, ra lệnh cấm ngặt, không cho dân gian được học nên môn học bị mất dần. Cũng ở trong cổ thư ghi lại khi Tư Mã Ý nhìn trời mà biết rằng Gia Cát Lượng sắp chết, ông mừng lắm vì trong đời làm tướng ông đã bị Khổng Minh lừa mấy lần mà vụ Không Thành kế là một trận chiến làm ông tức tối nhất. Trong khi ấy thì nơi quê nhà, Gia Cát ông cũng biết rằng mệnh mình đã mãn, tự làm lễ Nhưỡng để chuộc tội, cầu xin sự bình yên cho con người trước khi chết.
Đế Vương tinh bao giờ cũng đóng ở Tam Viên, mỗi viên có 5 sao chính cố định, nếu nhìn thấy một vì sao thứ 6 hiện ra thì đó là Đế Vương Tinh. Khi thiên văn quan nhìn thấy trên trời xuất hiên một tân binh thì phải tìm xem nó hợp với một nhân vật nào ở cõi đời, sau khi so đủ ngày tháng năm giờ sinh của sao và người có phù hợp thì phải báo cáo ngay, nếu có sự tương hợp thì triều đình hoặc là thủ tiêu, hoặc là đày đi xa. Nếu là một vì sao sáng rực rỡ, đó là Thụy Tinh, sẽ có một vị vua xứng đáng, nếu chỉ là một vì sao nhấp nháy lúc tỏ lúc mờ thì đó là yêu tinh, là Khách tinh hay là dị tinh.
Là yêu tinh thì không phải là một đấng minh quân sẽ ra đời, nhờ sao để biết thời vận của con người, cũng từ đó mà những ai không nộp ngày sinh tháng đẻ, quê quán rõ ràng thì theo pháp xưa không được làm quan, có thi đỗ cũng không được bổ nhiệm.
BẮC ĐẨU
Dành nói riêng về Bắc Đẩu vì đây là Vì sao được trọng dụng nhất. Bắc Đẩu thuộc Tử Vi Viên gồm có 7 sao là: Thiên Xu, Thiên Tuyền, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hoành, Khai Dương và Dao Quang. Người ta nhìn thấy hình 7 vì sao nầy hợp lại giống cái đấu rượu, 4 sao Thiên Xu, Thiên Tuyền, Thiên Cơ, Thiên Quyền hợp thành cái đấu, và 3 sao Ngọc Hoành, Khai Dương, Dao Quang thành cái cán đấu.
Người ta dùng Bắc Đẩu làm điểm tựa để quy định phương hướng. Lấy hai vì sao Tuyền và Xu kéo thẳng ra 5 bội thì sẽ gặp sao Bắc Cực, xem Bắc Cực Tinh là Tiêu Chỉ của phương Bắc.
Vì Bắc Đẩu tinh xuất hiện không đều, từ thời tiết, ngày đêm và vị trí, nên người xưa cho rằng vì sao nầy đã quay chung quanh Bắc Cực mà trong thời thượng cổ người ta lấy chuôi sao Bắc Đẩu để chỉ phương hướng và định quý tiết.
Chuôi Bắc Đẩu quay chỉ về phương đông, thì dưới trời phải là mùa Xuân (Đẩu bính chỉ đông, thiên hạ giai xuân). Đuôi sao chỉ phương Nam thuộc mùa Hạ, chỉ phương Tây thuộc mùa Thu và chỉ phương Bắc thuộc mùa Đông.
Sử ký, thiên Quan Thư viết: “Thiên tắc hữu liệt tú địa tắc hữu châu vực” (Trên trời có sao dưới đất có châu vực), chứng tỏ sự liên hệ giữa trời và đất dưới mắt người xưa. Thời Xuân Thu, Chiến Quốc người ta căn cứ các châu vực ở mặt đất để phân hoạch các vị tinh tú trên trời cũng như dùng các tinh tú trên trời để phân biệt, chi phối các châu vực dưới đất. Đôi bên đối ứng, do đó lúc nói đến vì sao nào thì biết là ở xứ nào, châu vực nào, gọi là sự phân dã, tức là phân chia từ trên xuống dưới.
Thí dụ như sao Giác, sao Khương (cang) ở nước Trịnh, và Giác, Khương, Đê ở Duyện Châu. Sao Đê, sao Phòng, sao Tâm thuộc Tống, và sao Phòng, Tâm ở Dự Châu, sao Dực, sao Chẩn thuộc Sở, Kinh Châu.
Sỡ dĩ cổ nhân chia khu vực cho các vì sao như vậy là để quan sát sự cơ tường của những hiện tượng trên trời, theo đó mà chiêm bốc, đoán điềm cát hung xảy ra trên một xứ nào. Trong sách Luân Hoành, thiên Biên Hư có nói đến Huỳnh Hoặc khi nhập vào vùng sao Tâm đã ghi: “Huỳnh Hoặc, Thiên phạt dã, Tâm, Tống phận dã, họa đương quân” có nghĩa là sao Huỳnh Hoặc biểu hiệu sự phạt của Thượng Đế, sao Tâm thuộc nước Tống, vì vua đương thời sẽ mắc họa.
Cũng như người ta nhìn Nhật Thực với niềm lo ngại cho rằng bất lợi cho xứ ấy, Tả truyện ghi ngày có Nhật Thực là ngày trời cảnh cáo cho vị vua xứ ấy biết cũng như Tuệ Tinh là điểm sẽ có nạn đao binh ác liệt sẽ xảy ra. Các chiêm tinh gia (thứ nhật) còn biết nhìn sao nào hiện ra ở vùng nào mà đoán định sẽ có lụt, hạn, hoặc được mùa, dịch tật, đói kém, trộn cướp. Chính trị cũng theo đó mà dự liệu để cho dân bớt khổ.
Sự biến đi hoặc hiện ra của một vì sao là điều quan trọng dưới tầm mắt người xưa, cũng như chú ý đến mầu sắc thay đổi của mỗi vì sao trong công việc chiêm nghiệm.
Đọc sách Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo ta sẽ thấy vị Tướng nầy đặc biệt chú ý đến Thiên Văn và ngài đã để dành cả một thiên để nói tới.
Sau đây xin trích ra vài hàng của Binh Thư Yếu Lược và Thái Bạch:
Thái Bạch và mặt trăng cùng chiếu sáng thì có cuộc binh đao đại nhiễu loạn.
Thái Bạch mọc trong vầng trăng mà có hiện tượng nguyệt thực xảy ra thì bậc tướng lãnh bị chết.
Thái Bạch mọc trên mặt trăng, trong thời hạn 5 ngày có cuộc binh đao nổi dậy.
Mùng 3 tháng 8 sao Thái Bạch chuyển động bất thường về hướng Bắc thì có trận đánh xảy ra.
Thái Bạch chuyển động sang hướng Bắc thì nước nhỏ loạn, chuyển động sang hướng Nam thì nước lớn loạn.
Thái Bạch mọc trong mặt trăng gọi là Nguyệt Thực Thái Bạch, điềm xấu cho nhà vua.
Thái Bạch mọc bên trái mặt trăng thì vương quốc bị loạn, bên phải thì chư hầu bị loạn.
Thái Bạch đi ngang qua mặt trăng thì có việc binh đao trong 3 năm, đất đai bị mất.
Thái Bạch lu mờ, tướng soái sẽ gặp điều hung.
Mặc dầu ở vào thời đại nguyên tử nầy con người hết cần dùng đến sao để làm chiến tranh, chúng tôi vẫn xin đưa ra để quý vị đọc cho biết sự mê tín của người xưa nếu gọi đó là mê tín.
Người ta quan niệm rằng trời vốn động và đất vốn tĩnh. Mặt trăng, mặt trời và các vì sao đều xuất tại Mão, nhập tại Dậu, Mão là phương Đông của quả đất và Dậu là phương Tây. Sao là tán khí của Kim Loại, Kim với Thạch tương sinh, người với sao tương ứng.
SAO VÀ ĐIỀM CÁT HUNG
Xin đừng cho đoạn nầy là những sự mê tín, dị đoan, không xứng với những con người cách mệnh, đây chỉ là phần tài liệu và đã muốn tìm hiểu về người xưa thì tưởng cũng nên hiểu cho đủ.
Vì những suy luận ấy mới có sự sao nào di chuyển thì mang triệu tường gì. Mỗi vì sao lại còn được chia ra 4 cung là Đông cung, Tây cung, Nam cung Bắc cung và Trung cung. Bắc Đẩu còn được gọi là Đế Xa, xe của nhà vua. Bắc Đẩu ở Trung cung, vận vào Trung Ương, có thể lâm chế 4 phương, phân biệt âm dương, kiến lập 4 mùa, chia độ cho ngũ hành, thời tiết, quy định chu kỳ. Tất cả đều do Bắc Đẩu quyết định hay nói lại một lần nữa, con người đã dùng sao Bắc Đẩu để làm điểm tựa mà quyết.
Đông cung với các sao Phòng, Tâm, hướng về Tông miếu, chủ bệnh tật, sao Đê chủ dịch tã, sao Vỹ chủ quần thần, sao Cơ chủ tân khách và hậu phi.
Nam cung Chu Tước, sao Tĩnh chủ vấn đề sông nước, mưa móc, lụt lội, cạn sông, hạn hán.
Sao Quỷ chủ việc Tế Tự, sao Liễu là mở chim, Chu Tước chủ về thảo mộc, sao Trương chủ quan khách, sao Dực cũng chủ Tân khách từ phương xa, sao Chẩn chủ về gió, cạnh sao Chẩn còn một vì sao nữa, nhỏ hơn gọi là Trường Sa. Nếu Trường Sa nhập vào vị trí của Chẩn tức sẽ có sự binh đao.
Tây cung sao Tất cũng chủ về binh đao ác liệt, một vì sao nhỏ bên cạnh, tên Phụ Nhĩ, khi Phụ Nhĩ dao động lại cũng sẽ có sàm loạn.
Bắc cung, với sao Hư, Nguy, chủ sự tang chế thương khóc.
Ngoài năm cung kể trên bây giờ xin trở lại với năm vì sao lớn để nói kỹ hơn về những sự tin tưởng, độc tính và sát hại hay sự an lành của mỗi vị sao khi hiện ra.
Năm vì sao lớn đó là Huỳnh Hoặc, Thái Bạch, Thần Tinh, Điền Tinh, Thái Tuế hay là Tuế Tinh.
HUỲNH HOẶC: Huỳnh Hoặc hay Hỏa Tinh thuộc Nam phương, mùa Hạ, chủ Hỏa, có ảnh hưởng đến các vị Thần Linh, vô phép với thần tức là trái nghịch Hạ lệnh, làm tổn thương Hỏa Khí. Bị trừng phạt bằng cách cho sao Huỳnh Hoặc hiện ra. Tinh thư (sách viết về sao) đã ghi: Huỳnh Hoặc là loạn tặc, tang tóc, đói khổ, binh đao, sao nầy xuất hiện sẽ có đại binh, nhập thì binh tán, đi nhanh về hướng nào thì binh tụ tại hướng ấy.
Ngạn ngữ có câu: Huỳnh Hoặc nhập Nam đẩu, Thiên tử hạ điện tẩu. Có nghĩa là sao Huỳnh Hoặc nhập vào sao Đẩu thì vua phải bỏ cung điện mà chạy. Theo lời các thiên văn gia thì năm 1976 Huỳnh Hoặc đã nhập vào sao Đẩu nên Trung Hoa lục địa mất một thời 3 ông lớn Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông và Chu Đức, mầu trắng là mầu tang tóc, người ta còn thấy sau đó thì ở sao Vỹ có một đường trắng chạy qua.
THÁI BẠCH: Thuộc Tây phương, mùa Thu, chủ Nghĩa và Ngôn Từ. Tức lời ăn tiếng nói. Nếu để mất Nghĩa và ăn nói hồ đồ, xấc láo với Thánh Thần, với người trên là nghịch Thư Lệnh, làm tổn thương kim khí. Thái Bạch sẽ hiện ra, là một sự trừng phạt. Đoạn trên đã nói về Thái Bạch. Sao nầy biến đi, hoặc xuất hiện không đúng tiết đúng thời, lúc đáng xuất hiện mà không xuất, đáng nhập mà không nhập, tức là điềm mất nước, chết vua. Thái Bạch ở đến quá ngọ (12 giờ trưa) gọi là kinh thiên. Sách Thiên Văn ghi: Thái Bạch kinh thiên, dân canh vương, loạn kỹ, nhân dân lưu vong, thiên hạ cách, có nghĩa là sao Thái Bạch ở đến quá ngọ thì dân phải thay vua, kỷ cương đảo loạn, nhân dân phải bỏ xứ ra đi lưu vong, thiên hạ chịu cuộc cải cách thay đổi. Vì Thái Bạch là binh tượng, lúc hiện ra cao mà đi nhanh thì dụng binh cũng phải nhanh, Thái Bạch là Binh mà Huỳnh Hoặc là ưu tư lo lắng, nếu Huỳnh Hoặc đi theo Thái Bạch là quân lính ưu, rời Thái Bạch là quân được nhàn, khỏi hạn đao binh, được cởi giáp, buông gươm.
THẦN TINH: Thuộc Bắc phương, mùa Đông, chủ Thủy, biểu hiệu cho sự nghe ngóng, hiểu biết, cũng là vì sao chủ sát phạt và chiến đấu. Nếu hai sự nghe và hiểu không đúng là nghịch Đông lệnh, thương tổn Thủy Khí, tức Thần Tinh hiện ra. Nhưng nếu Thần Tinh vắng bóng lâu thì cũng sẽ xảy ra những sự bất hòa, nạn đói lớn, nếu lại xuất hiện không đúng lúc cũng có sự trở trời, đang nóng hóa lạnh, hoặc ngược lại. Cần xuất hiện mà không xuất, sẽ có sự khởi binh, nếu Thần Tinh tranh chỗ với một vì sao khác thì thiên hạ đại loạn, nếu xuất hiện với hai sao Phòng và Tâm thì sẽ có động đất.
ĐIỀN TINH: Cũng thuộc Mộc, thuộc mùa Hạ, chủ niềm tin và sự suy tư của tâm trí. Sao nầy ở đâu thì nơi ấy được yên ổn. Nếu làm mất Nhân, Nghĩa, Trí, Tín, tức thì 4 sao trên cũng biến mất.
TUẾ TINH: Người xưa nhìn trời mà biết ngày tháng là nhờ thấy Tuế tinh đang ở tại hằng tinh nào của nhị thập bát tú, Tuế tinh thuộc Đông phương, Tuế tức là Thái Tuế. Nếu trong nước mà từ trên xuống dưới không còn biết trọng, kính luân thường đạo lý, tức sẽ làm tổn thương cái Khí của hành Mộc, sao Thái Tuế hiện ra, sẽ có những sự kiện như mất đất, chết tướng, và sẽ có nhiều sự lo âu cho cấp lãnh đạo. Sách Thiên Văn của Hoài Nam Tử ghi: Tuế Tinh sở tại, ngũ cốc phong xương, kỳ đối vi xung, Tuế nãi kỳ ương tức là Tuế Tinh ở nơi nào thì nơi ấy ngũ cốc được thịnh vượng, phong phú mà vùng đối diện sẽ gặp tai ương. Sách Hán Thư cũng ghi: Tuế Tinh sở tại, quốc bất khả phạt, khả dĩ phạt nhân. Có nghĩa là nước nào có Tuế đóng thì ta không thể gây chiến mà chính nước ấy lại có thể đánh ta.
Trong những vì sao lớn vừa kể trên, nếu Thái Tuế hợp với Điền Tinh thì có nội loạn, với Thần Tinh thì cần mưu cơ, với Huỳnh Hoặc thì đói, với Thái Bạch thì phải tùy theo sao nầy ở Nam hay Bắc là được mùa hay mất vì Thái Bạch là âm mà Tuế Tinh là dương.
Huỳnh Hoặc hợp với Thái Bạch là điềm tang chế, không nên động binh, Huỳnh Hoặc hợp với Điền Tinh là âu lo, với Thần Tinh là thất trận, dụng binh sẽ đại bại, nếu cả 4 sao lớn trên cùng đấu với Thần Tinh thì đều có chiến tranh không tại ngoại mà tại nội, tức là nội loạn.
Tinh thư ghi: Hỏa hợp với Thủy là “THÔI” (nhúng chất Kim vào cho thêm cứng). Hỏa sẽ hợp với Kim là “THỤC” (nung cho cháy).
Thổ hợp với Kim là “VONG” (mất), hợp Mộc là “CƠ” (đói). Hợp với Thủy là “Ủng Trở” (chướng ngại).
Mộc Hợp Kim là “ĐẤU” nổi loạn.
Nếu mặt trăng ăn 5 sao nầy là mất nước, mầu trắng là tang tóc, hạn hán, mầu đỏ là binh đao, mầu xanh là ưu tư, mầu đen là tàn tật chết nhiều, chỉ mầu vàng là điềm lành và mầu tím cũng được gọi là tường, thụy khí.
Nếu cả 5 vì sao trên đồng mầu thì bình an, có thể ca vũ mà không bị tai ương, bệnh tật, ngũ cốc cũng được xanh tốt, chẳng có gì đáng lo ngại.
Ngoài ra còn những vì sao khác, mỗi sao mang một triệu tượng khác nhau, những sao mang tên Lục Tặc, Quốc Hoang, Quy Xà, Thiên Cơ,… Quy Xà được giải thích là như tinh phi tinh, như vân phi vân, như sao mà chẳng phải sao, như mây mà chẳng phải mây. Thiên Cơ là tiếng trống, nghe như tiếng sấm mà chẳng phải sấm.
Mỗi vì sao trong Nhị Thập Bát Tú cũng ảnh hưởng vào từng người, dưới đây chỉ xin lượt trích, độc giả tự tìm lấy thêm nếu cần.
Đông phương có 7 vì sao Giác, Khương, Đê, Phòng, Tâm, Vỹ, Cơ.
Giác: Người sinh gặp Giác từ lúc trẻ lận đận về gia đình, già mới thoát.
Khương: Kém phúc lộc, càng già càng khổ, phải tu tĩnh bớt xa xỉ thì già mới đỡ khổ.
Đê: Phúc lộc hậu hĩ, nguyện vọng như ý, càng già lại càng sung túc mãn nguyện.
Phòng: Người sinh ra gặp sao nầy sướng từ thuở lọt lòng me, sinh ra đã có kẻ hầu người hạ, uy thế, phúc lộc, nhưng nếu không biết giữ gìn, nghĩ đến người khác đói khổ tu tạo phúc đức thì về già sẽ mất hết.
Tâm: Đời nhất định sẽ có một lần bị lửa cháy nhà, trộm cướp, nhưng rồi cũng qua và chẳng đến nổi nào.
Vỹ: Phải cẩn thận luôn vì trong đời thế nào cũng gặp hỏa hoạn và trộm cướp.
Cơ: Cuộc đời bất định, về già còn có thể gặp tai họa, cần bố thí thật nhiều mới thoát.
Chấm dứt ở 7 vì sao nầy vì đây không phải muốn độc giả mất thì giờ, nếu ai tò mò hơn thì xin hẹn vào một loạt bài khác. Chỉ ghi những vì sao ở đông phương mà thôi. Không thể ghi hết cả 28 vì sao.
NGŨ HÀNH
Trước khi nói đến Ngũ Hành, xin nói về ông Cơ Tử, mà nói đến Cơ Tử lại phải bước sang Trụ Vương, Vũ Vương, sách Hồng Phạm, Lạc Thư, Hà Đồ,… và có thể kéo dài không biết đến bao giờ mới chấm dứt. Vì vậy, chỉ xin nói một phần có dính líu đến lúc ban sơ của Ngũ Hành mà thôi, mong được cảm thông.
Người ta bắt đầu biết đến Ngũ Hành khi nghe Cơ Tử giảng về Lạc Thư cho Vũ Vương. Vì Vũ Vương là người có công diệt Trụ, một vị vua vô đạo, giải phóng cho Cơ Tử. Ông nầy tên thật là Tử Dư, chú của Trụ Vương, được phong tước ở đất Cơ nên mới gọi là Cơ Tử. Thấy vua Trụ tàn ác ông ngăn cản, bị giáng chức làm người ở, phải giả vờ điên mới yên thân. Vũ Vương diệt Trụ rồi, biết ông là bậc Thánh Hiền nên mới ra phục chức cho ông.
Trong cuộc đối thoại giữa hai người, Vũ Vương hỏi:
“Lẽ huyền bí của trời đất bao phủ, ta chẳng biết gì về sự thưởng phạt, đạo lý, xin được giảng dạy?”
Cơ Tử đáp:
“Tôi nghe bảo xưa ông Cổn lấp Hồng Thủy, làm tổn thương NGŨ HÀNH, trời giận nên phạt, sau đó khi Hạ Vũ hưng, chế ngự được Hồng Thủy mà không hại Ngũ Hành nên được thưởng sách Hồng Phạm Cửu Thư “.
“Thế còn Lạc Thư thì sao, xin nói về Lạc Thư.”
Cơ Tử bèn giảng về Lạc Thư…
“Hà xuất Đồ, Lạc xuất Thư, thánh nhân tác chi”. Hà Đồ là Bát Quái, khi Phục Hy làm vua, từ dưới sông hiện ra một con Long Mã, nhà vua bèn cho theo những vết vằn trên Long Mã mà vạch ra Bát Quái nên được gọi là Hà Đồ.
Lạc Thư là Quy Văn chi ngữ, nhưng vết vằn trên lưng con rùa được Thánh nhân y theo. Cơ Tử nói tiếp “Sơ nhất của Lạc Thư là ngũ hành, khi nói đến Ngũ Hành trước hết là hành Thủy (nước) rồi mới đến Thổ (đất), hành Mộc (gỗ), hành Kim (sắt), và hành Hỏa (lửa).
Thủy nhuận bên dưới, Hỏa nóng bên trên, mộc thì khúc trực, có cong có thẳng, Kim là tòng cách, bóng láng và Thổ thì phải dựa theo bông lúa.
Như trên có nói đến sự liên hệ mật thiết giữa Sao và phương hướng, thí dụ như sao nào, thuộc mùa nào tức là phải chủ hành nào. Có sao chủ Mộc, có sao chủ Kim, Thổ. Sau đây xin giải thích rõ hơn.
Người xưa cho rằng sự săn bắn phi thời, ăn uống thiếu lễ nghi, không hiến tiên tổ trước, ra vào không tiết độ, chiếm đoạt thì giờ của nhà nông, lập mưu gian để hại kẻ khác, tất cả những sự ấy đều làm thương tổn cho hành Mộc, mất sự thăng bằng, khúc trực của Mộc.
Mộc chủ phương Đông, ở trên mặt đất, thuộc Dương thuộc quẻ Tốn trong Dịch Kinh, thuộc Phong (gió). Đối với sự liên hệ của bậc Đế Vương có trách nhiệm giữa thiên hạ, trong trời đất thì cần có sự uy nghi dung mạo, gọi là QUAN, là những gì mà người ta có thể nhìn thấy.
Nói săn bắn cần phải đúng thời, không nên phi thời, vì ngày xưa vua và chư hầu đi săn phải được chia ra 3 kỳ. Thứ nhất để dâng lễ Càn Đậu (lấy thịt phơi khô mà cúng) các bậc Thánh Thần, Tông Miếu. Thứ nhì để đãi tân khách, thứ ba mới đưa vào bếp nhà vua để phân phát cho người hầu kẻ hạ. Nếu ăn uống mà không có lễ hiến dâng trước gọi là Ẩm thực bất hưởng hiến. Phải tội, tổn thương Mộc là do từ đó.
Đoạt ngày giờ của nhà nông  tức là bắt dân tuyển mộ lính, gây chiến tranh khi mùa màng chưa gặt hái phơi cất xong, cũng làm tổn thương cho hành Mộc.
Sao nhãng pháp luật, đuổi bỏ công thần, giết Thái Tử, đưa vợ bé lên dành chổ của vợ lớn, đều là những sự kiện làm tổn thương hành Hỏa, Hỏa nộ, sinh tai họa, hành Hỏa thuộc Nam Phương.
Thích chiến tranh, khinh bách tính, xây đắp tu sửa cung điện, thành trì, xâm lược biên cương, làm thương tổn hành Kim. Hành Kim thuộc phương Tây, vạn vật bắt đầu từ đấy và sát khí cũng bắt đầu từ hành Kim nầy.
Sử chép thời Tấn Bình Công xây lâu đài cung điện đã tiêu phí rất nhiều tiền của dân gian, có kẻ đi ngang qua vùng Ngụy Du, nghe tiếng đông người tụ họp từ dưới núi, thì thầm về tình hình chính sự nước Tấn. Kẻ ấy đến gần để nghe và nhìn kỹ chỉ thấy chung quanh có độ vài chục khối đá chứ chẳng có bóng người nào cả. Bỏ đi vài chục thước lại nghe tiếng người xào xạc trở lại như trước, quay đầu lại nhìn thì biết tiếng bàn tán phát từ những khối đá ấy mà ra.
Người nầy sợ hãi chạy tìm dân trong vùng để hỏi thăm thì những người dân trong vùng cũng nói là đã có nghe từ nhiều ngày rồi, nghi đó là quái sự nên chẳng ai dám nói ra. Câu chuyện đồn về Giang Châu, Tấn Bình Công triệu sư Khoáng vào hỏi (xem đoạn nầy ở mục Âm Nhạc để biết về sư Khoáng).
Sư Khoáng trả lời: Đá không thể biết nói, nhưng đá là tai nghe của Quỷ Thần, mà Quỷ Thần bao giờ cũng theo lòng dân. Oán khí tích tụ trong dân gian thì Quỷ Thần làm sao có thể yên tâm. Một khi Quỷ Thần không yên tâm thì yêu quái sẽ hưng thịnh. Ngày nay nhà vua xây cất đền đài làm kiệt quệ tài lực của dân cho nên mới xui ra sự đá biết nói đó thôi,…
Giãn Tông miếu, tức là lạnh lẽo đối với Tông Miếu, không cúng tế lễ bái, cũng như những người con làm nên mà không nghĩ đến công cha mẹ ông bà,dầu đã chết, không thèm kỵ giỗ nhớ thương. Nghịch thời tiết của trời đất thì Thủy sẽ không nhuận. Hành Thủy thuộc phương Bắc, vạn vật khi chung mệnh đều sẽ về ẩn tàng tại đó.
Khi tinh thần đã xa lìa thể xác, hồn phách đã được tông miếu của Thánh Nhân hậu nhận, cần được sự cúng tế cho trọn đạo Hiếu.
Một vì vua mới lên phải biết cúng tế, trời đất, thần linh, sông núi, với tất cả tấm lòng chí thành, nghiêm kính. Nếu 12 tháng mà con người không hành động những gì trái lễ, thì âm dương điều hòa, sẽ làm vui lòng và thâu nhận được THỦY TÍNH. Nếu để mất Thủy Tính thì sẽ sinh tai ương, tràn sông, lỡ núi, ngập lụt, thôn làng chìm đắm con dân. Mưa dầm sẽ kéo dài cho đất rung nền, mất mùa và đói kém bệnh tật, dân chúng ốm đau như thế gọi là Thủy Sát Nhân.
Trang sức lâu đài đình tạ cung thất, nội cung xẩy ra điều dâm loạn, hỗn hào với cha mẹ, vũ phu với anh chị em là những điều làm tổn thương đến hành Thổ, Thổ là Trung Ương, vạn vật sinh ra từ đó.
Đối với bậc Đế Vương thì hành thổ ứng về Nội Cung, chuyện vợ chồng, thân thuộc. Ngày xưa, theo lễ nghĩa thì mọi sự đều có tiết độ, phép tắc.
Sách Luận Ngữ có đoạn Khổng Tử khen vua Vũ đã khinh dễ cung thất để tận lực mà lo trị thủy, xây đắp đê điều, ngăn cản nước. Đi ngang qua nhà 3 lần, nghe tiếng con khóc mà nhất quyết không ghé thăm vì lo chưa xong nhiệm vụ. Văn Vương thì lấy lễ Phát mà tiếp đãi vợ… Tất cả đó là sự thuận hòa cho Thổ không bị thương tổn. Trái lại nếu có sự xa xỉ, dâm loạn thì Thổ bị tổn thương, mà Thổ bị tổn thương thì ngũ cốc đều bị thiệt hại.
Theo sách Hồng Phạm, Hành là lời nói thuận ý trời hợp với khí tiết. Theo ý nghĩa của buổi đầu, xét ngũ hành để nhìn xem sự được mất trong vạn vật chứ không chỉ để đoán họa phúc mà tìm cách lẫn trốn như người đời nay vẫn làm.
Người đời sau đã dần dần làm mất mác tất cả ý nghĩa của thuở ban đầu, biến Ngũ Hành thành một thứ số lý tà thuật. Tuân Tử cho Ngũ Hành là NHÂN, NGHĨA, LỄ, TRÍ, TÍN, theo Phật ngữ thì Ngũ Hành là: BỐ THÍ, TRÌ GIỚI, NHẪN NHỤC, TÍNH TẤN và CHỈ QUÁN.
Để kết thúc xin nhắc lại lời các Thiên Văn Gia Trung Hoa của thế kỷ 20 nầy họ đã xem thiên văn và nhất quyết từ thuở ấy rằng Mao Trạch Đông chỉ là một vì sao nhỏ thuộc sao Chẩn, một loại yêu tinh, dị tinh vì không ở trong khu vực tam thiên Đế tòa, lại lúc sáng lúc mờ mầu đỏ không phải là Thụy Tinh. Không phải là một đấng minh quân. Vì Mao thị sinh ở Giang Nam mà khu vực nầy thuộc Kinh Châu trên trời thuộc sao Chẩn.
Sự phân chia về Sao và khu vực đã nói qua ở đoạn trên. Trên sao di chuyển một độ thì bên dưới là 250 dặm lý. Đại khái người ta chia Nhị Thập Bát Tú ra cho 3 khu vực Hoàng Hà lưu vực, Trường Giang lưu vực và Châu Giang lưu vực. Việt Nam chúng ta theo sự phân chia thuộc Thiên Thị Viên tức là thuộc vùng sao Tâm, Vỹ, Cơ, Đẩu, tinh danh là Nam Hải, đến tiết hạ chí lối nửa đêm ra nhìn sẽ thấy. Ngày chúng ta mất quê hương vào tay Cộng Sản các Thiên văn gia ấy cũng đã nhìn và nhận thấy nạn đao binh còn dài rất nhiều lưu tinh lướt qua, và ở Bắc Việt hãm khí còn rất dữ dằn, chẳng biết đến bao giờ mới tan được cái khí hãm ấy. Theo các nhà chân sư thì cần phải có nhiều đức độ ở những cấp lãnh đạo… may ra.
4. Những vì sao trên trời
Nói đến Sao là cả một vấn đề to lớn, dài giòng, bắt phải do dự, chẳng biết nên đưa đoạn nào ra, bàn đến vì sao nào, nhiều hơn, ít hơn. Làm sao để người đọc đừng gập sách kêu buồn ngủ. Cần cả chục quyển sách cũng không thể nói hết, chuyện trên trời bao giờ cũng nhiều. Thiên Văn, là văn ở trên trời, chúng tôi sẽ cố thu gọn. Người chịu đọc mục nầy hẳn sẽ như lá mùa thu lá xanh, chứ không phải lá vàng. Với những người yêu thích thì sẽ là quá ít ỏi thiếu thốn, xin mời ra thư viện.
SAO VỚI NGƯỜI THƯỢNG CỔ
Đề cập đến Sao, người Á Đông nói chung, và người Việt Nam ta đều biết, thường nhắc đến Nhị Thập Bát Tú. Người xưa xem sao để biết sự chuyển hướng của gió mưa, trước khi bàn đến việc cát, hung, tức là nhìn sao để đoán điềm lành điềm dữ. Sao là hướng đạo cho người thủy thủ, là thầy của bác nông phu, là bạn tâm tình của những người yêu nhau mà không được gần, phải nhờ sao chuyển tình mình đến người ấy, sao là thi hứng của thi nhân.
Người nông dân ở thời nào, xứ nào, cũng biết nhìn sao, đoán định thời tiết, chẳng hạn như tháng 7 sao Đại Hỏa hạ xuống thấp hơn, tức là báo hết mùa hè, trời sẽ bớt oai nồng, chuôi sao Bắc Đẩu quay về tháng thân tức tháng 7 ta. Sao Đại Hỏa là sao Tâm, vào đầu tháng 6, sao nầy ở phương Nam, đầu tháng 7 hạ xuống phía Tây.
Người phụ nữ Á Đông xưa tảo tần làm việc để nuôi những ông chồng dài lưng tốn vải, với niềm hy vọng được ngựa anh đi trước võng nàng theo sau, các bà nầy cũng đã nhìn sao để biết rằng trời sắp sáng, hay chưa, khi chòm sao Tam Tinh hiện ở cửa là đêm đã khuya, nên dẹp khung cửi, nong nia, để vào ngủ lấy vài giờ ngày mai còn đi chợ sớm. Khi trăng đứng cùng một vị trí với sao Tất, trời sẽ chuyển mưa, nếu có đi chợ thì dặn người nhà lo cất dấu những nong ngô khoai đang phơi ngoài sân.
Người xưa lấy mặt trăng, mặt trời và Ngũ Hành tức là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, (sắt, gỗ, nước, lửa, đất) hợp lại gọi là Thất Chính, hay Thất Diệu, cũng xem Ngũ Hành như 5 vì sao gọi là Ngũ Vỹ.
Ngũ Vỹ là:
1- Mộc Tinh (Jupiter) còn tên là Tuế Tinh.
2- Hỏa Tinh (Mars) còn tên là Huỳnh Hoặc,
3- Kim Tinh còn tên là Minh Tinh hoặc Thái Bạch (Venus) Vì mầu ánh sáng của sao nầy mang sắc ngân bạch và độ ánh sáng đặc biệt cao. Sao nầy lúc nhìn thấy ở phương Đông còn gọi là Khải Minh, vào lúc hoàng hôn lại được gọi là Trường Canh.
4-Thủy Tinh (Mercure) còn gọi là Thần Tinh
5-Thổ Tinh (Saturne) còn tên là Trấn Tinh hoặc Điền Tinh.
Các hành tinh khác như Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh, và Minh Vương Tinh là về sau nầy, thời thượng cổ chưa đủ sức nhìn thấy. Không bàn đến ở đây.
Người xưa nhìn sự luân chuyển của mặt trăng, mặt trời cùng với các hằng tinh, tức là định tinh (những vì sao không biến chuyển) nhân đó mà đặt vị trí cho sự vận hành của các vì sao. Sau bao nhiêu thế hệ quan sát, bổ túc lâu dài, người ta đã chọn Hoàng Đạo và Xích Đạo phụ cận với 28 hằng tinh làm hoa tiêu (coordination) mang tên nhị thập bát tú.
Đông phương: Thanh Long có 7 sao là:
Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.
Bắc phương: Huyền Vũ có 7 sao:
Giác, Khương, Đê, Phòng, Tâm, Vỹ, Cơ.
Tây phương: Bạch Hổ có 7 sao:
Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm.
Nam phương: Chu Tước có 7 sao:
Tĩnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.
Bốn con thú, Thanh Long, Huyền Vũ, Bạch Hổ, và Chu Tước nầy còn được gọi là tứ tượng.
Cho Đông phương mang tên Thanh Long hay Thương Long vì nhận thấy nó hơi giống con rồng. Từ sao Giác đến Khương là đôi sừng của đầu rồng, sao Đê và sao Phòng là mình rồng, sao Tâm, Vỹ, Cơ là đuôi rồng.
Phương Nam, Chu Tước cũng vậy. Từ sao Tĩnh đến sao Chẩn người xưa cho rằng nó mang hình con chim, vì thế mới gọi là Chu Tước, sao Liễu là cái mỏ, sao Trương là cổ chim, và sao Dực là đôi cánh. Tuy gọi một tên nhưng mỗi tên là cả một chòm sao, có những chòm sao tổng hợp đến gần hai chục vì sao khác.
Huyền Vũ tượng hình con rùa lai rắn, Quy xà hợp thể (rồng rắn hợp một thân).
Bạch Hổ tượng hình con hổ.
Nhị Thập Bát Tú còn là những chòm sao để cho người ta dùng làm đối tượng, để trắc định năm tháng và ngày giờ. Mới chập tối mà sao Sâm đóng tại chính phương Nam là tháng giêng, mùa Xuân, sao Tâm tại chính phương Nam lại là tháng năm, mùa Hạ…
Ngoài Nhị Thập Bát Tú ra, người xưa còn chia ra Thập Nhị Thứ, và Tam Viên.
Tam Viên là Tử Vi Viên, Thái Vi Viên và Thiên Thị Viên. Vì ở từ lưu vực Hoàng Hà nhìn thấy Bắc Cực, nên người ta lấy sao nầy làm tiêu chuẩn, tập hợp với các sao chu vi, lập thành một khu, gọi là TỬ VI VIÊN.
Ở ngoài vùng Tử Vi Viên nầy bắt đầu từ các sao Trương, Dực, và Chẩn tới khu vực phương Bắc gọi là THÁI VI VIÊN.
Từ các sao Phòng, Tâm, Vỹ, Cơ đến phương Bắc của vùng nầy gọi là THIÊN THỊ VIÊN.
Nhị Thập Thứ để chia vị trí của mặt trời trong một năm theo 4 mùa, và tiết khí thay đổi ra sao. Thí dụ như, lúc mặt trời tại Tinh ký thứ nhất có sao Đẩu, sao Ngưu, sao Nữ tức là thời tiết bắt đầu giao Đông Chí. Tại huyền hiêu thứ hai có sao Nữ, sao Hư và sao Nguy, giao Đại Hạn.
LIÊN HỆ GIỮA NGƯỜI VÀ SAO
Vì có sự tin tưởng rằng mỗi người, mỗi nhân vật đặc biệt, quan trọng, nắm vận mệnh quốc gia hoặc là có ảnh hưởng đến quốc gia đều có một vì sao trên trời. Người ta tin rằng Thiên Văn, và Nhân Văn có liên hệ mật thiết với nhau, muốn biết nhân sự sẽ có gì, và đang có gì xảy ra thì, với người biết thiên văn chỉ việc nhìn lên trời vào lúc nửa đêm, đọc văn trên trời cũng chẳng khác gì đọc văn của người ở cõi đất.
Do đó mới đặt ra cái gọi là THIÊN VĂN HỌC (Độ tinh đẩu nhi tri nhân sự). Những nhà Thiên Văn lớn như Gia Cát Khổng Minh, Tư Mã Ý, Lý Thuần Phong, Thiệu Khang Tiết, Lưu Bá Ôn… đều là những người có thể nhìn sao mà biết có những gì sẽ xảy ra và đã xảy ra ở nơi nào.
Lấy Bắc Đẩu làm điểm cơ bản như trên đã nói, dọc hai bên Ngân Hà để định phương vị. Người ta đã vạch ra 9 châu để có thể đối chiếu, có thể biết vùng nào thuộc sao nào, và sao nào sẽ ảnh hưởng đến người nào. 
Ngoại trừ Thái Dương Hệ là vị Hành Tinh lớn, Nam Đẩu có 6 sao, Bắc Đẩu có 7 sao và Nhị Thập Bát Tú. Sau đó là những tiểu tinh khác, không tên hay chưa có tên, và với những tiểu tinh nầy người ta cho rằng nó có liên hệ với những nhân vật của các vùng. Tra rõ người xuất sinh ở nơi nào, tháng, năm, ngày, giờ nào thì có thể biết là họ thuộc về ngôi sao nào. Người sắp chết sao sẽ dao động, nếu người ấy bị vận xui, sao sẽ hắc ám.
Sử chép, Tư Mã Ý, một đêm ra xem sao mà biết là Gia Cát Khổng Minh sắp chết, mừng lắm, đó là do sự hiểu biết về Thiên Văn. Người xưa cho Thiên Văn và Địa Lý là môn học cao nhất, phải bậc Đế Vương chi sư thì mới hiểu biết về những môn nầy. Ngày nay môn học đã bị thất truyền vì các triều vua sau nhận thấy nó quá quan trọng mà để cho thứ dân biết ắt sẽ dễ bề làm loạn nên đã cấm chỉ rất khắc nghiệt ai dám nhìn trời ban đêm cũng có thể ghép vào tội tử hình vì trái phép vua.
Sử sách còn ghi thêm câu chuyện Lưu Bá Ôn một thiên văn gia, trong lúc đi chơi ban đêm ngước mắt lên trời, bỗng thấy có một vì sao thuộc Tử Vi Viên, và miệt giữa Giang Hà Văn lại có Thiên Tử Khí Nhìn đường không xa, ngày mai, ông khăn gói lên đường đi tìm, và tìm ra được Chu Nguyên Chương, mời vào phòng riêng bái mà nói: Trong 10 năm nữa ngài sẽ là chân mệnh Thiên Tử. Chu Nguyên Chương sợ hãi trả lời tôi chỉ là một tiểu tướng, sao lại bảo vậy. Chu Bá Ôn hẹn trong 10 năm. Về sau kết quả đã xảy ra y như thế, Nguyên Chương tức Minh Thái Tổ, dùng Chu Bá Ôn làm cố vấn cho mình.
Từ sau thời Tam Quốc, triều đình biết Thiên Văn Học là một môn học nguy hiểm, ra lệnh cấm ngặt, không cho dân gian được học nên môn học bị mất dần. Cũng ở trong cổ thư ghi lại khi Tư Mã Ý nhìn trời mà biết rằng Gia Cát Lượng sắp chết, ông mừng lắm vì trong đời làm tướng ông đã bị Khổng Minh lừa mấy lần mà vụ Không Thành kế là một trận chiến làm ông tức tối nhất. Trong khi ấy thì nơi quê nhà, Gia Cát ông cũng biết rằng mệnh mình đã mãn, tự làm lễ Nhưỡng để chuộc tội, cầu xin sự bình yên cho con người trước khi chết.
Đế Vương tinh bao giờ cũng đóng ở Tam Viên, mỗi viên có 5 sao chính cố định, nếu nhìn thấy một vì sao thứ 6 hiện ra thì đó là Đế Vương Tinh. Khi thiên văn quan nhìn thấy trên trời xuất hiên một tân binh thì phải tìm xem nó hợp với một nhân vật nào ở cõi đời, sau khi so đủ ngày tháng năm giờ sinh của sao và người có phù hợp thì phải báo cáo ngay, nếu có sự tương hợp thì triều đình hoặc là thủ tiêu, hoặc là đày đi xa. Nếu là một vì sao sáng rực rỡ, đó là Thụy Tinh, sẽ có một vị vua xứng đáng, nếu chỉ là một vì sao nhấp nháy lúc tỏ lúc mờ thì đó là yêu tinh, là Khách tinh hay là dị tinh.
Là yêu tinh thì không phải là một đấng minh quân sẽ ra đời, nhờ sao để biết thời vận của con người, cũng từ đó mà những ai không nộp ngày sinh tháng đẻ, quê quán rõ ràng thì theo pháp xưa không được làm quan, có thi đỗ cũng không được bổ nhiệm.
BẮC ĐẨU
Dành nói riêng về Bắc Đẩu vì đây là Vì sao được trọng dụng nhất. Bắc Đẩu thuộc Tử Vi Viên gồm có 7 sao là: Thiên Xu, Thiên Tuyền, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hoành, Khai Dương và Dao Quang. Người ta nhìn thấy hình 7 vì sao nầy hợp lại giống cái đấu rượu, 4 sao Thiên Xu, Thiên Tuyền, Thiên Cơ, Thiên Quyền hợp thành cái đấu, và 3 sao Ngọc Hoành, Khai Dương, Dao Quang thành cái cán đấu.
Người ta dùng Bắc Đẩu làm điểm tựa để quy định phương hướng. Lấy hai vì sao Tuyền và Xu kéo thẳng ra 5 bội thì sẽ gặp sao Bắc Cực, xem Bắc Cực Tinh là Tiêu Chỉ của phương Bắc.
Vì Bắc Đẩu tinh xuất hiện không đều, từ thời tiết, ngày đêm và vị trí, nên người xưa cho rằng vì sao nầy đã quay chung quanh Bắc Cực mà trong thời thượng cổ người ta lấy chuôi sao Bắc Đẩu để chỉ phương hướng và định quý tiết.
Chuôi Bắc Đẩu quay chỉ về phương đông, thì dưới trời phải là mùa Xuân (Đẩu bính chỉ đông, thiên hạ giai xuân). Đuôi sao chỉ phương Nam thuộc mùa Hạ, chỉ phương Tây thuộc mùa Thu và chỉ phương Bắc thuộc mùa Đông.
Sử ký, thiên Quan Thư viết: “Thiên tắc hữu liệt tú địa tắc hữu châu vực” (Trên trời có sao dưới đất có châu vực), chứng tỏ sự liên hệ giữa trời và đất dưới mắt người xưa. Thời Xuân Thu, Chiến Quốc người ta căn cứ các châu vực ở mặt đất để phân hoạch các vị tinh tú trên trời cũng như dùng các tinh tú trên trời để phân biệt, chi phối các châu vực dưới đất. Đôi bên đối ứng, do đó lúc nói đến vì sao nào thì biết là ở xứ nào, châu vực nào, gọi là sự phân dã, tức là phân chia từ trên xuống dưới.
Thí dụ như sao Giác, sao Khương (cang) ở nước Trịnh, và Giác, Khương, Đê ở Duyện Châu. Sao Đê, sao Phòng, sao Tâm thuộc Tống, và sao Phòng, Tâm ở Dự Châu, sao Dực, sao Chẩn thuộc Sở, Kinh Châu.
Sỡ dĩ cổ nhân chia khu vực cho các vì sao như vậy là để quan sát sự cơ tường của những hiện tượng trên trời, theo đó mà chiêm bốc, đoán điềm cát hung xảy ra trên một xứ nào. Trong sách Luân Hoành, thiên Biên Hư có nói đến Huỳnh Hoặc khi nhập vào vùng sao Tâm đã ghi: “Huỳnh Hoặc, Thiên phạt dã, Tâm, Tống phận dã, họa đương quân” có nghĩa là sao Huỳnh Hoặc biểu hiệu sự phạt của Thượng Đế, sao Tâm thuộc nước Tống, vì vua đương thời sẽ mắc họa.
Cũng như người ta nhìn Nhật Thực với niềm lo ngại cho rằng bất lợi cho xứ ấy, Tả truyện ghi ngày có Nhật Thực là ngày trời cảnh cáo cho vị vua xứ ấy biết cũng như Tuệ Tinh là điểm sẽ có nạn đao binh ác liệt sẽ xảy ra. Các chiêm tinh gia (thứ nhật) còn biết nhìn sao nào hiện ra ở vùng nào mà đoán định sẽ có lụt, hạn, hoặc được mùa, dịch tật, đói kém, trộn cướp. Chính trị cũng theo đó mà dự liệu để cho dân bớt khổ.
Sự biến đi hoặc hiện ra của một vì sao là điều quan trọng dưới tầm mắt người xưa, cũng như chú ý đến mầu sắc thay đổi của mỗi vì sao trong công việc chiêm nghiệm.
Đọc sách Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo ta sẽ thấy vị Tướng nầy đặc biệt chú ý đến Thiên Văn và ngài đã để dành cả một thiên để nói tới.
Sau đây xin trích ra vài hàng của Binh Thư Yếu Lược và Thái Bạch:
Thái Bạch và mặt trăng cùng chiếu sáng thì có cuộc binh đao đại nhiễu loạn.
Thái Bạch mọc trong vầng trăng mà có hiện tượng nguyệt thực xảy ra thì bậc tướng lãnh bị chết.
Thái Bạch mọc trên mặt trăng, trong thời hạn 5 ngày có cuộc binh đao nổi dậy.
Mùng 3 tháng 8 sao Thái Bạch chuyển động bất thường về hướng Bắc thì có trận đánh xảy ra.
Thái Bạch chuyển động sang hướng Bắc thì nước nhỏ loạn, chuyển động sang hướng Nam thì nước lớn loạn.
Thái Bạch mọc trong mặt trăng gọi là Nguyệt Thực Thái Bạch, điềm xấu cho nhà vua.
Thái Bạch mọc bên trái mặt trăng thì vương quốc bị loạn, bên phải thì chư hầu bị loạn.
Thái Bạch đi ngang qua mặt trăng thì có việc binh đao trong 3 năm, đất đai bị mất.
Thái Bạch lu mờ, tướng soái sẽ gặp điều hung.
Mặc dầu ở vào thời đại nguyên tử nầy con người hết cần dùng đến sao để làm chiến tranh, chúng tôi vẫn xin đưa ra để quý vị đọc cho biết sự mê tín của người xưa nếu gọi đó là mê tín.
Người ta quan niệm rằng trời vốn động và đất vốn tĩnh. Mặt trăng, mặt trời và các vì sao đều xuất tại Mão, nhập tại Dậu, Mão là phương Đông của quả đất và Dậu là phương Tây. Sao là tán khí của Kim Loại, Kim với Thạch tương sinh, người với sao tương ứng.
SAO VÀ ĐIỀM CÁT HUNG
Xin đừng cho đoạn nầy là những sự mê tín, dị đoan, không xứng với những con người cách mệnh, đây chỉ là phần tài liệu và đã muốn tìm hiểu về người xưa thì tưởng cũng nên hiểu cho đủ.
Vì những suy luận ấy mới có sự sao nào di chuyển thì mang triệu tường gì. Mỗi vì sao lại còn được chia ra 4 cung là Đông cung, Tây cung, Nam cung Bắc cung và Trung cung. Bắc Đẩu còn được gọi là Đế Xa, xe của nhà vua. Bắc Đẩu ở Trung cung, vận vào Trung Ương, có thể lâm chế 4 phương, phân biệt âm dương, kiến lập 4 mùa, chia độ cho ngũ hành, thời tiết, quy định chu kỳ. Tất cả đều do Bắc Đẩu quyết định hay nói lại một lần nữa, con người đã dùng sao Bắc Đẩu để làm điểm tựa mà quyết.
Đông cung với các sao Phòng, Tâm, hướng về Tông miếu, chủ bệnh tật, sao Đê chủ dịch tã, sao Vỹ chủ quần thần, sao Cơ chủ tân khách và hậu phi.
Nam cung Chu Tước, sao Tĩnh chủ vấn đề sông nước, mưa móc, lụt lội, cạn sông, hạn hán.
Sao Quỷ chủ việc Tế Tự, sao Liễu là mở chim, Chu Tước chủ về thảo mộc, sao Trương chủ quan khách, sao Dực cũng chủ Tân khách từ phương xa, sao Chẩn chủ về gió, cạnh sao Chẩn còn một vì sao nữa, nhỏ hơn gọi là Trường Sa. Nếu Trường Sa nhập vào vị trí của Chẩn tức sẽ có sự binh đao.
Tây cung sao Tất cũng chủ về binh đao ác liệt, một vì sao nhỏ bên cạnh, tên Phụ Nhĩ, khi Phụ Nhĩ dao động lại cũng sẽ có sàm loạn.
Bắc cung, với sao Hư, Nguy, chủ sự tang chế thương khóc.
Ngoài năm cung kể trên bây giờ xin trở lại với năm vì sao lớn để nói kỹ hơn về những sự tin tưởng, độc tính và sát hại hay sự an lành của mỗi vị sao khi hiện ra.
Năm vì sao lớn đó là Huỳnh Hoặc, Thái Bạch, Thần Tinh, Điền Tinh, Thái Tuế hay là Tuế Tinh.
HUỲNH HOẶC: Huỳnh Hoặc hay Hỏa Tinh thuộc Nam phương, mùa Hạ, chủ Hỏa, có ảnh hưởng đến các vị Thần Linh, vô phép với thần tức là trái nghịch Hạ lệnh, làm tổn thương Hỏa Khí. Bị trừng phạt bằng cách cho sao Huỳnh Hoặc hiện ra. Tinh thư (sách viết về sao) đã ghi: Huỳnh Hoặc là loạn tặc, tang tóc, đói khổ, binh đao, sao nầy xuất hiện sẽ có đại binh, nhập thì binh tán, đi nhanh về hướng nào thì binh tụ tại hướng ấy.
Ngạn ngữ có câu: Huỳnh Hoặc nhập Nam đẩu, Thiên tử hạ điện tẩu. Có nghĩa là sao Huỳnh Hoặc nhập vào sao Đẩu thì vua phải bỏ cung điện mà chạy. Theo lời các thiên văn gia thì năm 1976 Huỳnh Hoặc đã nhập vào sao Đẩu nên Trung Hoa lục địa mất một thời 3 ông lớn Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông và Chu Đức, mầu trắng là mầu tang tóc, người ta còn thấy sau đó thì ở sao Vỹ có một đường trắng chạy qua.
THÁI BẠCH: Thuộc Tây phương, mùa Thu, chủ Nghĩa và Ngôn Từ. Tức lời ăn tiếng nói. Nếu để mất Nghĩa và ăn nói hồ đồ, xấc láo với Thánh Thần, với người trên là nghịch Thư Lệnh, làm tổn thương kim khí. Thái Bạch sẽ hiện ra, là một sự trừng phạt. Đoạn trên đã nói về Thái Bạch. Sao nầy biến đi, hoặc xuất hiện không đúng tiết đúng thời, lúc đáng xuất hiện mà không xuất, đáng nhập mà không nhập, tức là điềm mất nước, chết vua. Thái Bạch ở đến quá ngọ (12 giờ trưa) gọi là kinh thiên. Sách Thiên Văn ghi: Thái Bạch kinh thiên, dân canh vương, loạn kỹ, nhân dân lưu vong, thiên hạ cách, có nghĩa là sao Thái Bạch ở đến quá ngọ thì dân phải thay vua, kỷ cương đảo loạn, nhân dân phải bỏ xứ ra đi lưu vong, thiên hạ chịu cuộc cải cách thay đổi. Vì Thái Bạch là binh tượng, lúc hiện ra cao mà đi nhanh thì dụng binh cũng phải nhanh, Thái Bạch là Binh mà Huỳnh Hoặc là ưu tư lo lắng, nếu Huỳnh Hoặc đi theo Thái Bạch là quân lính ưu, rời Thái Bạch là quân được nhàn, khỏi hạn đao binh, được cởi giáp, buông gươm.
THẦN TINH: Thuộc Bắc phương, mùa Đông, chủ Thủy, biểu hiệu cho sự nghe ngóng,hiểu biết, cũng là vì sao chủ sát phạt và chiến đấu. Nếu hai sự nghe và hiểu không đúng là nghịch Đông lệnh, thương tổn Thủy Khí, tức Thần Tinh hiện ra. Nhưng nếu Thần Tinh vắng bóng lâu thì cũng sẽ xảy ra những sự bất hòa, nạn đói lớn, nếu lại xuất hiện không đúng lúc cũng có sự trở trời, đang nóng hóa lạnh, hoặc ngược lại. Cần xuất hiện mà không xuất, sẽ có sự khởi binh, nếu Thần Tinh tranh chỗ với một vì sao khác thì thiên hạ đại loạn, nếu xuất hiện với hai sao Phòng và Tâm thì sẽ có động đất.
ĐIỀN TINH: Cũng thuộc Mộc, thuộc mùa Hạ, chủ niềm tin và sự suy tư của tâm trí. Sao nầy ở đâu thì nơi ấy được yên ổn. Nếu làm mất Nhân, Nghĩa, Trí, Tín, tức thì 4 sao trên cũng biến mất.
TUẾ TINH: Người xưa nhìn trời mà biết ngày tháng là nhờ thấy Tuế tinh đang ở tại hằng tinh nào của nhị thập bát tú, Tuế tinh thuộc Đông phương, Tuế tức là Thái Tuế. Nếu trong nước mà từ trên xuống dưới không còn biết trọng, kính luân thường đạo lý, tức sẽ làm tổn thương cái Khí của hành Mộc, sao Thái Tuế hiện ra, sẽ có những sự kiện như mất đất, chết tướng, và sẽ có nhiều sự lo âu cho cấp lãnh đạo. Sách Thiên Văn của Hoài Nam Tử ghi: Tuế Tinh sở tại, ngũ cốc phong xương, kỳ đối vi xung, Tuế nãi kỳ ương tức là Tuế Tinh ở nơi nào thì nơi ấy ngũ cốc được thịnh vượng, phong phú mà vùng đối diện sẽ gặp tai ương. Sách Hán Thư cũng ghi: Tuế Tinh sở tại, quốc bất khả phạt, khả dĩ phạt nhân. Có nghĩa là nước nào có Tuế đóng thì ta không thể gây chiến mà chính nước ấy lại có thể đánh ta.
Trong những vì sao lớn vừa kể trên, nếu Thái Tuế hợp với Điền Tinh thì có nội loạn, với Thần Tinh thì cần mưu cơ, với Huỳnh Hoặc thì đói, với Thái Bạch thì phải tùy theo sao nầy ở Nam hay Bắc là được mùa hay mất vì Thái Bạch là âm mà Tuế Tinh là dương.
Huỳnh Hoặc hợp với Thái Bạch là điềm tang chế, không nên động binh, Huỳnh Hoặc hợp với Điền Tinh là âu lo, với Thần Tinh là thất trận, dụng binh sẽ đại bại, nếu cả 4 sao lớn trên cùng đấu với Thần Tinh thì đều có chiến tranh không tại ngoại mà tại nội, tức là nội loạn.
Tinh thư ghi: Hỏa hợp với Thủy là “THÔI” (nhúng chất Kim vào cho thêm cứng). Hỏa sẽ hợp với Kim là “THỤC” (nung cho cháy).
Thổ hợp với Kim là “VONG” (mất), hợp Mộc là “CƠ” (đói). Hợp với Thủy là “Ủng Trở” (chướng ngại).
Mộc Hợp Kim là “ĐẤU” nổi loạn.
Nếu mặt trăng ăn 5 sao nầy là mất nước, mầu trắng là tang tóc, hạn hán, mầu đỏ là binh đao, mầu xanh là ưu tư, mầu đen là tàn tật chết nhiều, chỉ mầu vàng là điềm lành và mầu tím cũng được gọi là tường, thụy khí.
Nếu cả 5 vì sao trên đồng mầu thì bình an, có thể ca vũ mà không bị tai ương, bệnh tật, ngũ cốc cũng được xanh tốt, chẳng có gì đáng lo ngại.
Ngoài ra còn những vì sao khác, mỗi sao mang một triệu tượng khác nhau, những sao mang tên Lục Tặc, Quốc Hoang, Quy Xà, Thiên Cơ,… Quy Xà được giải thích là như tinh phi tinh, như vân phi vân, như sao mà chẳng phải sao, như mây mà chẳng phải mây. Thiên Cơ là tiếng trống, nghe như tiếng sấm mà chẳng phải sấm.
Mỗi vì sao trong Nhị Thập Bát Tú cũng ảnh hưởng vào từng người, dưới đây chỉ xin lượt trích, độc giả tự tìm lấy thêm nếu cần.
Đông phương có 7 vì sao Giác, Khương, Đê, Phòng, Tâm, Vỹ, Cơ.
Giác: Người sinh gặp Giác từ lúc trẻ lận đận về gia đình, già mới thoát.
Khương: Kém phúc lộc, càng già càng khổ, phải tu tĩnh bớt xa xỉ thì già mới đỡ khổ.
Đê: Phúc lộc hậu hĩ, nguyện vọng như ý, càng già lại càng sung túc mãn nguyện.
Phòng: Người sinh ra gặp sao nầy sướng từ thuở lọt lòng me, sinh ra đã có kẻ hầu người hạ, uy thế, phúc lộc, nhưng nếu không biết giữ gìn, nghĩ đến người khác đói khổ tu tạo phúc đức thì về già sẽ mất hết.
Tâm: Đời nhất định sẽ có một lần bị lửa cháy nhà, trộm cướp, nhưng rồi cũng qua và chẳng đến nổi nào.
Vỹ: Phải cẩn thận luôn vì trong đời thế nào cũng gặp hỏa hoạn và trộm cướp.
Cơ: Cuộc đời bất định, về già còn có thể gặp tai họa, cần bố thí thật nhiều mới thoát.
Chấm dứt ở 7 vì sao nầy vì đây không phải muốn độc giả mất thì giờ, nếu ai tò mò hơn thì xin hẹn vào một loạt bài khác. Chỉ ghi những vì sao ở đông phương mà thôi. Không thể ghi hết cả 28 vì sao.
NGŨ HÀNH
Trước khi nói đến Ngũ Hành, xin nói về ông Cơ Tử, mà nói đến Cơ Tử lại phải bước sang Trụ Vương, Vũ Vương, sách Hồng Phạm, Lạc Thư, Hà Đồ,… và có thể kéo dài không biết đến bao giờ mới chấm dứt. Vì vậy, chỉ xin nói một phần có dính líu đến lúc ban sơ của Ngũ Hành mà thôi, mong được cảm thông.
Người ta bắt đầu biết đến Ngũ Hành khi nghe Cơ Tử giảng về Lạc Thư cho Vũ Vương. Vì Vũ Vương là người có công diệt Trụ, một vị vua vô đạo, giải phóng cho Cơ Tử. Ông nầy tên thật là Tử Dư, chú của Trụ Vương, được phong tước ở đất Cơ nên mới gọi là Cơ Tử. Thấy vua Trụ tàn ác ông ngăn cản, bị giáng chức làm người ở, phải giả vờ điên mới yên thân. Vũ Vương diệt Trụ rồi, biết ông là bậc Thánh Hiền nên mới ra phục chức cho ông.
Trong cuộc đối thoại giữa hai người, Vũ Vương hỏi:
“Lẽ huyền bí của trời đất bao phủ, ta chẳng biết gì về sự thưởng phạt, đạo lý, xin được giảng dạy?”
Cơ Tử đáp:
“Tôi nghe bảo xưa ông Cổn lấp Hồng Thủy, làm tổn thương NGŨ HÀNH, trời giận nên phạt, sau đó khi Hạ Vũ hưng, chế ngự được Hồng Thủy mà không hại Ngũ Hành nên được thưởng sách Hồng Phạm Cửu Thư “.
“Thế còn Lạc Thư thì sao, xin nói về Lạc Thư.”
Cơ Tử bèn giảng về Lạc Thư…
“Hà xuất Đồ, Lạc xuất Thư, thánh nhân tác chi”. Hà Đồ là Bát Quái, khi Phục Hy làm vua, từ dưới sông hiện ra một con Long Mã, nhà vua bèn cho theo những vết vằn trên Long Mã mà vạch ra Bát Quái nên được gọi là Hà Đồ.
Lạc Thư là Quy Văn chi ngữ, nhưng vết vằn trên lưng con rùa được Thánh nhân y theo. Cơ Tử nói tiếp “Sơ nhất của Lạc Thư là ngũ hành, khi nói đến Ngũ Hành trước hết là hành Thủy (nước) rồi mới đến Thổ (đất), hành Mộc (gỗ), hành Kim (sắt), và hành Hỏa (lửa).
Thủy nhuận bên dưới, Hỏa nóng bên trên, mộc thì khúc trực, có cong có thẳng, Kim là tòng cách, bóng láng và Thổ thì phải dựa theo bông lúa.
Như trên có nói đến sự liên hệ mật thiết giữa Sao và phương hướng, thí dụ như sao nào, thuộc mùa nào tức là phải chủ hành nào. Có sao chủ Mộc, có sao chủ Kim, Thổ. Sau đây xin giải thích rõ hơn.
Người xưa cho rằng sự săn bắn phi thời, ăn uống thiếu lễ nghi, không hiến tiên tổ trước, ra vào không tiết độ, chiếm đoạt thì giờ của nhà nông, lập mưu gian để hại kẻ khác, tất cả những sự ấy đều làm thương tổn cho hành Mộc, mất sự thăng bằng, khúc trực của Mộc.
Mộc chủ phương Đông, ở trên mặt đất, thuộc Dương thuộc quẻ Tốn trong Dịch Kinh, thuộc Phong (gió). Đối với sự liên hệ của bậc Đế Vương có trách nhiệm giữa thiên hạ, trong trời đất thì cần có sự uy nghi dung mạo, gọi là QUAN, là những gì mà người ta có thể nhìn thấy.
Nói săn bắn cần phải đúng thời, không nên phi thời, vì ngày xưa vua và chư hầu đi săn phải được chia ra 3 kỳ. Thứ nhất để dâng lễ Càn Đậu (lấy thịt phơi khô mà cúng) các bậc Thánh Thần, Tông Miếu. Thứ nhì để đãi tân khách, thứ ba mới đưa vào bếp nhà vua để phân phát cho người hầu kẻ hạ. Nếu ăn uống mà không có lễ hiến dâng trước gọi là Ẩm thực bất hưởng hiến. Phải tội, tổn thương Mộc là do từ đó.
Đoạt ngày giờ của nhà nông  tức là bắt dân tuyển mộ lính, gây chiến tranh khi mùa màng chưa gặt hái phơi cất xong, cũng làm tổn thương cho hành Mộc.
Sao nhãng pháp luật, đuổi bỏ công thần, giết Thái Tử, đưa vợ bé lên dành chổ của vợ lớn, đều là những sự kiện làm tổn thương hành Hỏa, Hỏa nộ, sinh tai họa, hành Hỏa thuộc Nam Phương.
Thích chiến tranh, khinh bách tính, xây đắp tu sửa cung điện, thành trì, xâm lược biên cương, làm thương tổn hành Kim. Hành Kim thuộc phương Tây, vạn vật bắt đầu từ đấy và sát khí cũng bắt đầu từ hành Kim nầy.
Sử chép thời Tấn Bình Công xây lâu đài cung điện đã tiêu phí rất nhiều tiền của dân gian, có kẻ đi ngang qua vùng Ngụy Du, nghe tiếng đông người tụ họp từ dưới núi, thì thầm về tình hình chính sự nước Tấn. Kẻ ấy đến gần để nghe và nhìn kỹ chỉ thấy chung quanh có độ vài chục khối đá chứ chẳng có bóng người nào cả. Bỏ đi vài chục thước lại nghe tiếng người xào xạc trở lại như trước, quay đầu lại nhìn thì biết tiếng bàn tán phát từ những khối đá ấy mà ra.
Người nầy sợ hãi chạy tìm dân trong vùng để hỏi thăm thì những người dân trong vùng cũng nói là đã có nghe từ nhiều ngày rồi, nghi đó là quái sự nên chẳng ai dám nói ra. Câu chuyện đồn về Giang Châu, Tấn Bình Công triệu sư Khoáng vào hỏi (xem đoạn nầy ở mục Âm Nhạc để biết về sư Khoáng).
Sư Khoáng trả lời: Đá không thể biết nói, nhưng đá là tai nghe của Quỷ Thần, mà Quỷ Thần bao giờ cũng theo lòng dân. Oán khí tích tụ trong dân gian thì Quỷ Thần làm sao có thể yên tâm. Một khi Quỷ Thần không yên tâm thì yêu quái sẽ hưng thịnh. Ngày nay nhà vua xây cất đền đài làm kiệt quệ tài lực của dân cho nên mới xui ra sự đá biết nói đó thôi,…
Giãn Tông miếu, tức là lạnh lẽo đối với Tông Miếu, không cúng tế lễ bái, cũng như những người con làm nên mà không nghĩ đến công cha mẹ ông bà,dầu đã chết, không thèm kỵ giỗ nhớ thương. Nghịch thời tiết của trời đất thì Thủy sẽ không nhuận. Hành Thủy thuộc phương Bắc, vạn vật khi chung mệnh đều sẽ về ẩn tàng tại đó.
Khi tinh thần đã xa lìa thể xác, hồn phách đã được tông miếu của Thánh Nhân hậu nhận, cần được sự cúng tế cho trọn đạo Hiếu.
Một vì vua mới lên phải biết cúng tế, trời đất, thần linh, sông núi, với tất cả tấm lòng chí thành, nghiêm kính. Nếu 12 tháng mà con người không hành động những gì trái lễ, thì âm dương điều hòa, sẽ làm vui lòng và thâu nhận được THỦY TÍNH. Nếu để mất Thủy Tính thì sẽ sinh tai ương, tràn sông, lỡ núi, ngập lụt, thôn làng chìm đắm con dân. Mưa dầm sẽ kéo dài cho đất rung nền, mất mùa và đói kém bệnh tật, dân chúng ốm đau như thế gọi là Thủy Sát Nhân.
Trang sức lâu đài đình tạ cung thất, nội cung xẩy ra điều dâm loạn, hỗn hào với cha mẹ, vũ phu với anh chị em là những điều làm tổn thương đến hành Thổ, Thổ là Trung Ương, vạn vật sinh ra từ đó.
Đối với bậc Đế Vương thì hành thổ ứng về Nội Cung, chuyện vợ chồng, thân thuộc. Ngày xưa, theo lễ nghĩa thì mọi sự đều có tiết độ, phép tắc.
Sách Luận Ngữ có đoạn Khổng Tử khen vua Vũ đã khinh dễ cung thất để tận lực mà lo trị thủy, xây đắp đê điều, ngăn cản nước. Đi ngang qua nhà 3 lần, nghe tiếng con khóc mà nhất quyết không ghé thăm vì lo chưa xong nhiệm vụ. Văn Vương thì lấy lễ Phát mà tiếp đãi vợ… Tất cả đó là sự thuận hòa cho Thổ không bị thương tổn. Trái lại nếu có sự xa xỉ, dâm loạn thì Thổ bị tổn thương, mà Thổ bị tổn thương thì ngũ cốc đều bị thiệt hại.
Theo sách Hồng Phạm, Hành là lời nói thuận ý trời hợp với khí tiết. Theo ý nghĩa của buổi đầu, xét ngũ hành để nhìn xem sự được mất trong vạn vật chứ không chỉ để đoán họa phúc mà tìm cách lẫn trốn như người đời nay vẫn làm.
Người đời sau đã dần dần làm mất mác tất cả ý nghĩa của thuở ban đầu, biến Ngũ Hành thành một thứ số lý tà thuật. Tuân Tử cho Ngũ Hành là NHÂN, NGHĨA, LỄ, TRÍ, TÍN, theo Phật ngữ thì Ngũ Hành là: BỐ THÍ, TRÌ GIỚI, NHẪN NHỤC, TÍNH TẤN và CHỈ QUÁN.
Để kết thúc xin nhắc lại lời các Thiên Văn Gia Trung Hoa của thế kỷ 20 nầy họ đã xem thiên văn và nhất quyết từ thuở ấy rằng Mao Trạch Đông chỉ là một vì sao nhỏ thuộc sao Chẩn, một loại yêu tinh, dị tinh vì không ở trong khu vực tam thiên Đế tòa, lại lúc sáng lúc mờ mầu đỏ không phải là Thụy Tinh. Không phải là một đấng minh quân. Vì Mao thị sinh ở Giang Nam mà khu vực nầy thuộc Kinh Châu trên trời thuộc sao Chẩn.
Sự phân chia về Sao và khu vực đã nói qua ở đoạn trên. Trên sao di chuyển một độ thì bên dưới là 250 dặm lý. Đại khái người ta chia Nhị Thập Bát Tú ra cho 3 khu vực Hoàng Hà lưu vực, Trường Giang lưu vực và Châu Giang lưu vực. Việt Nam chúng ta theo sự phân chia thuộc Thiên Thị Viên tức là thuộc vùng sao Tâm, Vỹ, Cơ, Đẩu, tinh danh là Nam Hải, đến tiết hạ chí lối nửa đêm ra nhìn sẽ thấy. Ngày chúng ta mất quê hương vào tay Cộng Sản các Thiên văn gia ấy cũng đã nhìn và nhận thấy nạn đao binh còn dài rất nhiều lưu tinh lướt qua, và ở Bắc Việt hãm khí còn rất dữ dằn, chẳng biết đến bao giờ mới tan được cái khí hãm ấy. Theo các nhà chân sư thì cần phải có nhiều đức độ ở những cấp lãnh đạo… may ra.
6. Bệnh Huyễn Vựng của Vua Quang Trung
Có thật nhà vua mắc phải cái bệnh huyễn vựng nầy không? Hôm nay xin lại đưa vấn đề ra thảo luận.
Huyễn Vựng tiếng Anh gọi là Vertigo, Giddiness, là chứng xây xẩm mặt mày. Y học bảo vì làm việc nhiều mà ăn uống thất thường, sinh ra thất huyết, có nơi gọi là bần huyết. Tiểu não bị tổn hại, tiểu não (cerebellum) nằm sau đại não.
Người bình thường thì ai bảo sao hay vậy, nhưng có những người không chịu, và đặt nhiều nghi vấn. Đành rằng nhà vua say mê công việc, có tài cả văn lẫn vũ, mỗi khi có việc thường ở đêm lại cung Vị Ương để giải quyết cho xong. Nhưng nhà vua rất mạnh khỏe, dại gì mà làm việc đến bệnh hoạn, để phải mắc chứng bệnh ấy.
Sau khi chiến thắng cả bên trong lẫn quân Mãn Thanh, Vua Càn Long phải chịu phong làm An Nam Quốc Vương, nhà vua nhận thấy nước ta đã đi đến thời có thể đương đầu với nhà Thanh về cả hai mặt quân sự và chính trị. Chỉ trong vòng mấy năm trời mà nước Việt Nam ta đã được xây dựng với một quy chế độc lập, về Quân Sự, Chính Trị, Kinh Tế cùng Văn Hóa.
Biết dùng chữ Nôm thay chữ Hán để khỏi lệ thuộc người Trung Hoa. Năm 1791, nhà vua gửi sứ bộ sang Trung Quốc đòi lại hai tỉnh Lưỡng Quảng mà sử gia ghi rằng đó chỉ là một lối thăm dò đường lối, có thể là chưa phải lúc thực hiện, một mặt khác còn xin cưới Công Chúa con gái vua nhà Thanh.
Sứ đi vừa đến nơi thì nghe tin nhà vua Băng. Cái chết bất ngờ nầy đã làm thay đổi toàn diện nước Việt Nam. Chúa Nguyễn Ánh ở trong Nam, nhờ sự giúp của các vị truyền giáo đã được người Pháp tiếp sức nên đã thắng quân Tây Sơn lúc ấy như rắn mất đầu, mặc dầu có Nguyễn Nhạc. Chúa Nguyễn Ánh đã xây cơ đồ nhà Nguyễn hơn một trăm năm dưới sự đô hộ của người Pháp.
Vào thời Bảo Hộ cũng như dưới triều Nguyễn chẳng mấy ai dám đặt câu hỏi về cái chết của vua Quang Trung có thuyết bảo người của nhà Thanh đầu độc, có thuyết bảo không phải.
Lịch sử Việt Nam xưa ghi rằng nước Việt Nam đông giáp bể Nam Hải, tây giáp nước Ba Thục, bắc giáp Hồ Động Đình, và nam giáp nước Hồ Tôn, vì lý do ấy nên vua Quang Trung mới muốn đòi lại một phần đất đai.
Một thuyết thứ hai bảo rằng thời ấy, quãng 1765-1777, có một vị thầy địa lý người Trung Hoa, hay lang thang ở vùng Hoành Sơn, đi tìm Long Mạch, vì biết rằng đất đai miền Nam rất nhiều núi non, có thể có những thứ vương khí lạ lùng.
Khi tìm được Long Mạch, ông thầy về xứ bốc mộ tổ sang, tưởng để cho con cháu sau nầy sẽ được làm vua thiên hạ. Nguyễn Nhạc đã theo rõi và biết được, mang hài cốt của cha là Nguyễn Phi Phúc chôn vào lòng huyệt.
Khi biết tin Nguyễn Huệ chiến thắng quân Mãn Thanh, xưng Vương ở Nam Việt, ông thầy địa lý giận lắm, tìm cách xúi dục vua Càn Long chọn những thầy cao tay về thuật Phong Thủy tức là môn Địa Lý, đưa sang Việt Nam để tìm cách trấn áp, tiêu diệt cái vương khí của xứ Nam Việt nầy. Cố nhiên là trong các thầy Địa Lý được cử đi có cả ông thầy Tàu nầy nữa.
Đến Quy Nhơn, khi biết chắc là anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đã nhờ ngôi đất do mình tìm ra, mà phát được Đế Vương, ông thầy bắt con trai trá hình đến dụ Nguyễn Nhạc cải tạo thiên nhiên. Cho đào nhánh sông bên phải, từ cây Muỗng chảy xuống Đông Nam, và đào nhánh bên trái từ Đá Hàng chảy thẳng ra Đông Bắc. Long Mạch bị trọng thương, mặc dầu nhìn phong cảnh rất đẹp. Hoành Sơn ngó xuống điểm giao thủy.
Theo thuật Phong Thủy ai cũng biết rằng Vương Khí đi từ Tây Bắc xuống Đông Nam, mặc dầu xét ở Trung Nguyên Thiên Thị, thì tuy xứ Nam Việt không nhận nhiều như những vùng tại khu vực Hoàng Hà, và Trường Giang nhưng, các vị Thiên Văn và Địa Lý gia của Trung Quốc đều phải công nhận rằng đất đai miền Nam có nhiều Vương Khí lạ lùng.
Ngày xưa Cao Biền cũng đã làm nhiều công việc trấn ếm trừ khử nhưng ông mới chỉ làm ở miền Bắc, vì sự thực thì hồi ấy nước Ta cũng chưa mở mang vào xa, mặc dầu là Nam giáp nước Hồ Tôn, mà giáp tức là cũng rất xa với đất Kinh Đô. Vì Cao Biền đã trấn ếm nhiều ở đất Bắc vì vậy mà người ta nhận thấy đất Bắc có lắm ngôi mộ phát Văn hơn là phát Vũ.
Hầu như những người Việt Nam nào thật sự yêu quê hương, vì quê hương (không phải yêu vì mình, cho mình, có hai loại yêu, xin nhận xét kỹ), đều mang chung một mối ưu tư, đó là vấn đề giữa người Việt Nam với nhau.
Có thuyết cho rằng, vì bị đô hộ quá lâu, mà những tên thực dân đi đô hộ, thì Á hay Âu cũng đều có những lề lối cai trị giống nhau, tìm cách chia rẽ, phân cắt cho dễ trị, dễ chỉ huy, điều khiển, gõ đầu.
Nhắc lại Cao Biền, là một người rất giỏi về thuật Phong Thủy cháu của Sùng Văn, ông ta ham đọc sách, lấy bút hiệu là Thiên Lý, giỏi cả văn lẫn vũ. Năm Bính Tuất 866 được vua Đường Hàm Thông, gửi qua làm Tiết Độ Sứ Giao Châu, Cao Biền nhờ giỏi Phong Thủy, Thiên Văn nên biết rằng đất đai miền Nam rất đặc biệt, có những thứ khí rất kỳ lạ, và bổn phận của Cao Biền thời ấy là phải làm sao ếm cho hết tất cả những ngôi đất có thể phát Đế Vương, sợ phản lại với Thiên Triều.
Qua mấy lần khởi nghĩa của các bậc anh hùng nước Nam, người Tàu đã ý thức được thế nào là sự có thể mất ngôi, Cao Biền hay giả vờ đi thăm đất nước nhưng cứ thấy nơi nào có khí mạch là trấn ếm hết.
Ngày nay các vị Thiên Văn, Phong Thủy thường phàn nàn rằng Núi Non ở xứ Việt có mạch mà không có khí, hoặc có khí thì khí nhược, bất túc. Họ có bao giờ nghĩ rằng lỗi của Cao Biền rất nhiều.
Nói đến phương Nam đây là phương Nam của xứ Trung Hoa, và xin nhắc lại một lần nữa rằng thời ấy, nước ta Bắc giáp tới Hồ Động Đình là còn trên cả Quảng Châu.
Cũng theo các sách vở về Thiên Văn, Địa Lý, cho rằng địa khí suy nhược thì chỉ có thể sản sinh ra được những người thông minh, có tài về văn mà thiếu về vũ, nhất là không thể phát Đế Vương được lâu dài.
Do ở sự trấn ếm để cố ý làm cho thổ bạc thủy thiển nầy, nên mới nghe nói đến những sự phá tướng, sự thông minh trở thành khôn lanh, nhưng lòng dạ thường chật hẹp khí độ thấp bé, giỏi âm mưu xảo trá, thủ đoạn có dư mà lòng chân thành không đủ.
Hãy xét lại mấy chục năm nay và nhất là từ mươi năm qua nầy, tình trạng đất nước như thế nào, khỏi cần nói dài.
Người xưa còn tin rằng ai sinh trưởng ở đâu thì đều tùy thuộc ở phong thủy địa phương ấy. Lắm khi chỉ cách nhau có hai bờ sông, hoặc vài chục dặm mà tính nết khác hẳn nhau.
Đoạn trên có nhắc đến Thiên Thị Viên. Theo sách Cam Chu, quyển Thiên Đạo, chia ra Tam Nguyên, ở trên trời gồm có các Hành Tinh, Hằng Tinh và Nhị Thập Bát Tú. Tam Nguyên được chia ra Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Thượng Nguyên là Thái Vi Viên với mươi vì sao. Trung Nguyên là Tử Vi Viên với mười lăm vì sao và Hạ Nguyên là Thiên Thị Viên với hai mươi vì sao.
Thái Vi thuộc phía Nam của sao Bắc Đẩu và phía Bắc của 2 vì sao Chẩn và Dực. Trong Thái Vi có Ngũ Đế Tòa. Tử Vi ở về phía Đông Bắc của sao Bắc Đẩu có Đại Đế Tòa và Hạ Nguyên Thiên Thị là nơi chợ trời, chư vị anh hùng vua chúa đều tụ họp ở đây.
Thiên Thị ở phía Đông Bắc của hai sao Phòng và Tâm, theo tên Âu là vùng Scorpii. Đế Tòa ở Trung Khu, ngày nay,với những sự đổi dời, muốn nói ra thì phải thật dài giòng với bao nhiêu dẫn chứng.
Tiếng Anh không dịch ra được chữ NGUYÊN, như chúng ta đọc lên là hiểu được ngay, có sách dịch là Enclosure, có sách dịch là Screen.
Scorpion hay Scorpii ta dịch là Thiên Yết, con Bò Cạp, trong tòa sao nầy có sao Orion sáng mà sắc hơi ngã hồng, năm 1975, các Thiên Văn Gia ở tại Á châu đã xem nhân ngày 30 tháng tư năm ấy. Họ nhận thấy nước Việt Nam đang còn nhiều hãm khí, chắc phải lận đận dài dài. Cần phải có một áp lực hoặc một nhân vật kỳ tài nào hoặc phải có một sức mạnh của khí thiêng sông núi hun đúc để gây thành một mối đoàn kết thế nào thì mới có cơ giải tỏa.
Trở lại với bệnh Huyễn Vựng của vua Quang Trung. Nếu chịu khó đọc kỹ lịch sử về những trận chiến ở vùng Hạ Hồi, Ngọc Hồi, Khương Thượng. Xét lại cái chết của tướng Tàu Sầm Nghi Đống, nhất là sau vụ bỏ chạy của Tôn Sĩ Nghị qua sông Nhị Hà, quân lính chạy theo, chen chúc đến nổi cầu đứt rơi xuống sông và xác chết làm nghẽn cả sông.
Nhục nhã hơn nữa cho quân nhà Thanh là khi vua Quang Trung vào thành Thăng Long khao quân, đúng ngày mùng 7 tháng giêng như lời nhà vua hứa với quân lính trước ngày lên đường ra Bắc.
Đối với đám tàn quân nhà Thanh còn sót lại, không chạy kịp, nhà vua hạ lệnh cho ra đầu thú, sẽ không giết mà còn đối xử tử tế, cung cấp cơm ăn áo mặc… Không phải như ngày nay, người một xứ mà trả thù nhau.
Sử ghi chỉ trong vòng 10 ngày, số tàn quân ra thú có tới vài vạn người, không kể những đống xác Kình Nghê dưới sông. Những trang sử ghi lại đoạn khi 20 vạn quân của Tôn Sĩ Nghị xuất binh, với bao nhiêu lời giả trá, huyênh hoang, tụ tôn và khinh địch, nhất quyết quân ta không thể nào đủ sức để kháng cự.
Hẳn vì sau mấy thế kỷ những trang sử trước đã phai mờ theo thời gian họ đã quên mất những trận đánh đuổi quân nhà Nguyên, năm 1284-88 cũng đã có cả mấy chục vạn quân sang xứ Đại Việt, và đã bị thất trận chôn xác trên sông Bạch Đằng, Ải Chi Lăng, Vạn Kiếp.
Những sự nhục nhã kể trên đã làm cho quan quân nhà Thanh không nuốt xuống, và sự trả thù cũng như sự lo sợ rằng nếu để yên nước Việt nầy thì có ngày, chắc người Tàu phải học chữ Nôm, phải theo tất cả những lề lối, phong tục của người Việt chăng.
Theo đạo đức của Phong Thủy thì chỉ khi nào mình trấn ếm để phá người thì mới phải chịu tội với trời đất. Đây ta thấy Nguyễn Nhạc chỉ có dành cái công đi tìm ra được ngôi đất của ông thầy Tàu thôi, hơn nữa, ngôi đất nầy lại ở trên xứ ta, thế mà nước Việt Nam đành chịu mất một cơ hội để trở thành cường thịnh. Trời say rượu đấy chăng?
Một lần nữa kẻ viết bài nầy nhất định rằng vua Quang Trung không bị mắc bệnh Huyễn Vựng.
7. Mạnh Thường Quân và chữ Nghĩa
Đọc sử xưa, vào thời Chiến Quốc, có đoạn thấy Phùng Hoan một thực khách của Mạnh Thường Quân hỏi rằng: “Đòi nợ xong rồi, ngài muốn tôi mua gì ở chợ mang về?”
Mạnh Thường Quân trả lời: “Xem trong nhà tôi có thiếu thứ gì thì mua về.” nguyên văn là: “Thị ngô gia sở quả hữu giả”.
Đến đây xin nói qua về 2 nhân vật nầy, những nhân vật chỉ có thể sinh ra ở thời Chiến Quốc: Mạnh Thường Quân và Phùng Hoan.
Mạnh Thường Quân họ Điền, tên Văn, con trai của Tịch Quách Quân, tức là Điền Anh và là cháu của Tề Uy Vương. Vì con cháu nhà vua nên cả bố lẫn con đều được phong tước. Điền Anh được phong ở đất Tiết, và Điền Văn được phong ở đất Mạnh Thường, do đó mới lấy tên Mạnh Thường Quân, cả bố lẫn con đều làm đến chức Tể Tướng.
Thời Chiến Quốc là một thời nhiễu nhương nhất của nước Trung Hoa, tiếp nối sau thời Xuân Thu. Tại sao lại gọi là Chiến Quốc (403-352) trước công nguyên. Vì thời nầy nước Trung Hoa chia ra 7 nước nhỏ là Tấn, Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Nguỵ. Nhà Chu suy bại nên nước nào cũng chỉ chực muốn dành làm Vương làm Bá, vì đó mà đánh nhau không ngừng nên mới được gọi là Chiến Quốc.
Gia đình của Mạnh Thường Quân là người nước Tề, nhà lúc nào cũng có hàng nghìn thực khách, cũng với mục đích chiêu hiền đãi sĩ để đến lúc cần thì những người mắc món nợ miệng nầy phải trả bằng hình thức nầy hay hình thức khác. Có sách còn ghi rằng Mạnh Thường Quân rất khôn ngoan đã biết cách lấy tin tức từ người nước nầy mang bán cho nước khác, vì thực khách từ tất cả các nước đến chứ không riêng nước Tề, chỉ cần hỏi những mâu thuẫn nội bộ, những nhu cầu, địa điểm tình hình quân sự, chính trị của mỗi nước là có thể trao đổi.
Đời sau còn thấy những cái vạc, cái nồi to nấu được cho cả 100 người ăn ở chùa Thành Châu, Nam Thành. Được người ta gọi đó là Mạnh Thường Hoạch, tức là những cái hoạch của nhà Mạnh Thường Quân.
Đa số thực khách là những người bị thất sủng, cũng có khi là người bị can phạm ở các nước chư hầu khác phải bỏ xứ trốn đi, tất cả đều đến đó để có chổ dung thân chờ một ngày mai hội đủ điều kiện mà trở về trả thù hoặc chuộc tội…
Trong nhà của Mạnh Thường Quân vì quá đông người nên ông đã tùy theo tài cán mà chia ra làm mấy hạng khách. Hạng nhất được trọng đãi đủ mọi điều kiện, kể cả sự đi hài cũng phải là thứ hài thêu ngọc.
Hạng nhì có cá thịt trong bữa ăn, mỗi khi đi ra đều có xe đưa đón, hạng ba chỉ có ăn cá thịt mà không có xe. Đến hạng tư thì cơm không có cá thịt chỉ có rau cỏ và đi đâu, cố nhiên cũng chẳng có xe.
Chỉ thức ăn mới chia ra mấy hạng chứ cơm thì tất cả đều ăn một nồi giống nhau, sử có chép một mẩu chuyện để nhấn mạnh sự kiện nầy. Chuyện rằng, một hôm có người đến xin làm thực khách tá túc, gặp trời tối nhá nhem, chẳng nhìn rõ, cho là có sự cách biệt về bát cơm không cùng một thứ gạo. Mạnh Thường Quân phải mang bát cơm mình đang ăn đưa ra so sánh với bát cơm của khách. Khách xấu hổ bỏ trốn ngay đêm ấy, cũng vì cái tiếng đồn bát cơm ấy mà thực khách càng kéo đến đông đảo hơn.
Một hôm khác, đặc biệt nhất, ảnh hưởng đến vận mệnh của họ Điền mà không ai biết. Đời chỉ cần có thế, mà chỉ những nhà giỏi khoa lý số mới biết, cũng hệt như hôm Văn Vương đi săn, trước khi đi, ông bói một quẻ, nói rằng hôm nay ra đường sẽ gặp một nhân vật “Phi hùng, phi bi, phi lân, phi ly nhi khả dĩ trợ nhữ vương thiên hạ”, và nhân vật đó là Lã Vọng, hai người chở thuyền đưa nhau về nói chuyện Lục Thao với nhau.
Trở lại với cái hôm đặc biệt ấy tại nhà họ Điền, có một người nghèo nàn xin vào làm thực khách. Được hỏi có biết làm gì không? Có tài cán gì không? Thưa không tài cán gì? Thế là được xếp vào hạng tư, không có hài thêu, cơm ăn không cá, thịt và đi đâu cũng chẳng có xe đưa đón.
Mấy hôm sau, mọi người đều nghe tiếng ca của vị thực khách mới vào mang tên Phùng Hoan:
Trường kiếm quy lai hề, thực vô ngư.
(Kiếm dài ơi, ta về đi thôi cơm ăn không có cá).
Mạnh Thường Quân nghe tiếng ca, hỏi của ai, người nhà bảo của tên thực khách mới vào được xếp hạng tư nên y coi bộ không hài lòng. Mạnh Thường Quân bảo xếp vào hạng ba. Ngày mai, tưởng Phùng Hoan đã chịu không ngờ ăn xong lại nghe ông vỗ kiếm ca:
Trường kiếm quy lai hề, xuất vô xa.
(Kiếm dài ơi ta về đi thôi, đi đâu không có xe).
Mạnh Thường Quân lại cho lên một bậc nữa, được vào hạng nhì. Người nhà tức lắm, cho rằng tên nầy không biết thân phận mình. Mọi người đều tưởng thế là yên, nhưng ngày mai tới vẫn nghe ông ăn xong lại vỗ kiếm.
Trường kiếm quy lai hề, vô dỉ vi gia.
(Kiếm dài ơi ta về đi thôi, chẳng có gì mang về).
Lần này thì mọi người đều bực mình nhưng Mạnh Thường Quân sau khi gọi lên hỏi thăm nghe bảo còn mẹ già ở nhà đang đói, ông lại cho mang thức ăn về mỗi ngày.
Một hôm khác, Mạnh Thường Quân cần người đi đòi nợ, hỏi các thực khách có ai chịu đi, mọi người đều không ai nhận lời chỉ có Phùng Hoan xin được đi để trả ân. Mạnh Thường Quân cho ông đủ các thứ xe cộ, cơm ăn đường, đưa danh sách con nợ và văn tự ra trao cho Phùng Hoan.
Trở lại đoạn trên, Phùng Hoan, trước khi đi đòi nợ đã hỏi Mạnh Thường Quân rằng muốn mua gì mang về, và như đã biết Mạnh Thường Quân trả lời xét xem trong nhà thiếu gì thì mua về.
Phùng Hoan vừa đến, cho người đi đánh mõ khua chiêng rao ầm lên rằng ai có nợ với Điền Văn thì mang giấy tờ đến sẽ được tha nợ. Mọi người mừng rỡ mang giấy nợ đến. Phùng Hoan cho chất lên một đống rồi châm lửa đốt sạch. Chỉ trong một thoáng đã hóa ra tro. Mọi người reo hò ca ngợi Mạnh Thường Quân không tiếc lời.
Chỉ có mấy hôm sau, thấy người thực khách trở về, lệ thường mỗi khi đi đòi nợ là phải cần đến hằng tháng mới có thể đòi được ít nhiều, lần này sao mà tài tình. Hỏi Phùng Hoan mua gì ở chợ mang về. Thực khách trả lời:
“Ngài bảo tôi xem trong nhà thiếu thứ gì thì mua. Tôi xét thấy trong nhà chẳng còn thiếu món gì chỉ có thiếu mỗi một thứ, đó là NGHĨA, nên tôi đã mang về cho ngài rất nhiều”.
Mạnh Thường Quân mới nghe chưa kịp hiểu, nhưng khi vỡ lẽ ra rồi thì ông chỉ yên lặng không nói năng gì tuy trong lòng rất tức giận. Thứ nhất là bị mất hết một số tiền rất lớn, thứ hai là bị một tên thực khách nghèo nàn dám chê rằng nhà mình thiếu Nghĩa, thứ ba là giận tím gan mà chẳng biết phải làm sao vì sợ tiếng lành đồn xa…
Mục đích bài này không phải để nói đến con người họ Điền mà ai cũng biết. Chúng ta vẫn dùng chữ Mạnh Thường Quân để ca ngợi một người nào có lòng tốt, hay giúp đỡ anh em. Ba chữ này đã trở thành một tính từ dành ca ngợi kẻ có lòng.
Chúng ta chỉ nói đến chữ NGHĨA, nhưng trước khi nói đến chữ Nghĩa, xin được nói qua về chữ QUẢ, chữ quả tức là ít, không nhiều. Sách Luận Ngữ còn định nghĩa chữ Quả là Lão vô nhi vô phu, đàn bà già mà không có ông chồng bên cạnh, để đối với chữ Quan là lão nhi vô thê, ông già mà không có vợ.
Ở đây chúng ta thấy Phùng Hoan đã dạy cho Mạnh Thường Quân một bài học, khi được hỏi gì thì phải trả lời rõ ràng, không bao giờ nên nói giọng lơ lững đó, rất có thể bị xuyên tạc. Hẳn Phùng Hoan cũng để ý thấy Mạnh Thường Quân hay trả lời như thế, có vậy mới cho cơ hội mà đi mua Nghĩa cho nhà họ Điền.
Cố nhiên, Phùng Hoan không phải là không biết rõ về cái độ tốt của họ Điền đến đâu, và khi đã xin vào làm thực khách tức là cũng có ý nghĩ rằng có thể cứu vãn được, ông mới thèm vào.
NGHĨA là gì? Có nhiều lối giải thích dành cho chữ Nghĩa, thứ nhất là chữ Nghĩa đã được đặt vào trong Ngũ Thường tức là năm phép tắc để quy định nếp sống của con người nhất là cho người quân tử: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín.
Nhân là lòng nhân, tức là sự đối xử với người, mà Nghĩa là Ta, là cái uy tín của ta, tự trong lòng ta, trong cách ăn ở, suy tư của ta mà phát ra. Sách Hiếu Kinh ghi rằng Hiếu là Kinh của trời và là Nghĩa của Đất.
Theo Thái Huyền Kinh, “Thi Ân là NGHĨA”, thi ân tức là cho, khi ta cho tức là ta làm Nghĩa. Chữ Nghĩa được viết ra theo lối Hội Ý, mang một giòng tư tưởng với chữ Thiện và Mỹ.
Một thí dụ khác để nói rõ hơn, thời xưa khi Vũ Vương hưng binh phạt Trụ. Bá Di cúi đầu xuống ngựa mà can rằng: “cha chết chưa chôn mà lo đánh nhau là bất hiếu, Thần giết Quân sao gọi là Nhân”.
Trong lúc ấy thì từ dân gian đến binh lính đều một lòng đòi tiến lên. Thái Công Vọng nói rằng: “Vũ Vương là người đã làm theo chữ NGHĨA”.
Về sau có thời người ta đổi chữ Nghĩa ra chữ Tín, và nghĩa sĩ gọi là Tín Sĩ.
Âm nhạc đặt NGHĨA vào cung Thương, cung của mùa thu.
Có người hỏi tại sao Phùng Hoan không bảo rằng thiếu Đức mà lại bảo thiếu Nghĩa, chữ Đức được phổ biến về sau nầy khi đạo Phật truyền vào Á Châu, ngày trước chữ Đức ít được dùng, vì thuở ấy người ta đặt vào chữ Đức một tầm quan trọng hơn, to tát hơn, gồm cả Nhân cả Nghĩa và cả Đạo.
Người ta còn chia ra Thiên Đức, Địa Đức, và Nhân Đức. Thiên Đức là cái Đức hóa dục vạn vật của Trời.
Địa Đức là cái Đức sinh sản bách vật, dưỡng dục nhân dân của Đất.
Nhân Đức là cúi nhìn địa lý, mà chế định độ lượng nhìn mực nước sông cao thấp để lập sự phòng ngừa tai ương, đói lạnh, khảo cái đức của người để chế lễ nhạc, thực hành đạo Nhân Nghĩa để trị cái luân thường cho con người, tránh cái họa của sự bộc loạn.
Xem thế thì đủ biết chữ Đức không thể dùng cho cá nhân dầu là một bậc Đế Vương.
Mải về sau mới có thuyết nói hẹp về chữ Đức, thi ân là Đức.
Trở về với hai nhân vật nước Tề, khi bảo Mạnh Thường Quân không vui lòng vì cái hành động mua Nghĩa của Phùng Hoan đó là đã chứng tỏ sự thiếu Nghĩa nơi con người ấy. Nuôi thực khách với mục đích rõ rệt như người nuôi binh lính chứ không phải vì lòng tốt.
Khi ông bị Tần Chiêu Vương muốn giết, chạy trốn về, đi ngang qua đất Tiết, nơi mà Phùng Hoan đã đốt giấy nợ, được dân chúng bồng bế trẻ cõng già, lớn bế nhỏ ra tận nơi địa đầu mà chào mừng  hò reo, lúc ấy ông mới quay lại bảo với Phùng Hoan rằng: “Bây giờ tôi mới thấu rõ ý của Tướng Quân”.
Sự đổi giọng gọi Phùng Hoan bằng Tướng Quân cũng chứng tỏ một điểm thiếu Nghĩa.
Có người ca ngợi Mạnh Thường Quân, nhưng cũng có một số khác bảo rằng con người ấy chẳng có gì đáng đề cao, chỉ có bầu bạn với thứ giả tiếng chó, tiếng gà (Vì lúc trốn ra khỏi nước Tần, có người giả tiếng gà để lũ gà trong vùng bắt chước gáy theo, người gác quan ải ngỡ trời sắp sáng nên cho mở cửa quan sớm hơn, nhờ vậy Mạnh Thường Quân mới thoát. Một lần khác cần đánh cắp chiếc áo Hồ Cừu trong kho nhà vua để làm món quà tặng, có người phải giả tiếng chó để lũ chó canh kho lầm tưởng có con chó lạ lạc vào mải lo đi tìm, để cho kẻ có bổn phận vào kho đánh cắp áo có thể hoàn thành nhiệm vụ).
Mạnh Thường Quân đã được cái may mắn gặp Phùng Hoan, tuy không có mắt để nhìn người ngay từ lúc ban đầu nhưng đã chịu nhượng bộ cất ông lên đến cấp Nhì của hạng thực khách, lại chịu đựng bài học của Phùng Hoan cho, tức giận mà không đuổi đi, đó là một điểm đáng khen.
Sau khi tiền bạc, danh vị mất, thì bao nhiêu thực khách đã bỏ ra đi, đợi khi ông có danh vọng lại xin trở về. Lúc bấy giờ mới thấy ai “Tửu nhục bằng hữu” (bạn rượu thịt) và ai là người có thể trông cậy được.
Hẳn lúc này Mạnh Thường Quân mới thấy sự nhận định của Phùng Hoan là đúng, nhà ông có đủ tất cả mà chỉ thiếu Nghĩa.
Mạnh Thường Quân cũng như nước Tề không làm nên cơ nghiệp mà là nước Tần với sự đánh dẹp tàn khốc của Tần Thủy Hoàng để thống nhất nước Trung Hoa.
Một phần lớn của tất cả mọi sự thất bại đều do cái tệ không biết nhìn người của những kẻ có đủ phương tiện nắm quyền hành trong tay. Điểm quan trọng nhất của những ai muốn dựng sự nghiệp là biết đánh giá con người đúng mức, và đừng nghe những lời tâng bốc của kẻ được đi hài thêu.
8. Cây Đàn của Bá Nha
Bá Nha gặp Tử Kỳ sau khi đã thử thách nhau, sau khi đã xin lỗi vì ân hận, khi biết rằng “thạch trung khả tàng Mỹ Ngọc” (trong đá có dấu ngọc) và sau khi đã thốt lên một câu tâm sự: “Tri thức mãn thiên hạ, tri kỷ vô nhất nhân” (dưới bầu trời quen hết mà người hiểu mình thì chẳng có một ai).
Tri kỷ là gì? Định nghĩa của người xưa, tri kỷ là khi đã có sự giao du hữu nghị rất thâm sâu với nhau. Chữ Kỷ tức là ta để ngược lại với chữ Nhân là người khác. Tri kỷ tức là người biết ta, hay là biết ta, mà thôi.
Khi con người đã biết rằng mình chẳng có ai đáng gọi là tri kỷ, tức là chấp nhận cái nghiệp cô đơn mà mình đã tạo lấy từ một kiếp nào trước, ở đây, Bá Nha vì cô đơn nên phải chọn cây đàn làm tri kỷ. Chỉ ở với cây đàn tức là lúc đánh đàn con người mới thấy rằng mình không còn cô đơn nữa.
Y gia ghi nhận rằng sự âu lo làm cho ngày tháng ngắn hơn, mà đánh đàn lại làm cho tháng ngày dài ra, cũng như làm cho con người sống lâu, trẻ lâu, so với những người có cuộc sống không âm nhạc.
Người quân tử, thường hay tìm đến với thi ca, âm nhạc, cây cỏ, những thú vui tao nhã, không hại mình mà cũng chẳng hại ai.
Bá Nha và Tử Kỳ, xét theo thuyết Phật thì tuy cách xa nhau, một người là quan Đại Phu nước Tấn, một người chỉ là ẩn sĩ nghèo, ở Hán Dương nước Sở. Hẳn kiếp trước có duyên nợ, có hò hẹn nhau nên kiếp nầy mới được gặp nhau dù chỉ là trong một đêm.
Nếu nói là duyên nợ thì người gặp Duyên là Tử Kỳ mà người thiếu Nợ chính là Bá Nha. Bá Nha chỉ đàn cho Tử Kỳ nghe có mấy bản, sau đó là tàn đêm hai người phải giả từ nhau, Bá Nha về Tấn, Tử Kỳ chết, và Bá Nha là người sống để trả món nợ nhớ thương.
Con người Bá Nha mới đáng được mang ra phân tách chứ Tử Kỳ chết là hết nợ, chỉ người còn lại mới bị đọa đày trong sự khổ đau kỷ niệm, thương nhớ. Bá Nha đáng phải là một người sinh ra để hưởng thụ, nếu ông tầm thường hơn, kém chất quân tử hơn, vì ông có đủ mọi điều kiện để sung sướng.
Mới 28 tuổi đã làm đến chức Đại Phu nước Tấn, gia đình phải dư dả mới được ăn học đầy đủ, một mình mà có ba nơi Cầm Đài mà ngày nay còn tên tuổi. Cầm Đài chỉ là nơi ghé qua vài hôm đánh đàn, không phải là một ngôi nhà to lớn, một Cầm Đài ở Lô Sơn, một cái ở Chiết Giang và một cái ở Hán Dương, cái thứ ba hẳn là làm sau khi Tử Kỳ mất để ngồi tưởng đến bạn chứ đàn đâu nữa mà đánh.
Bá Nha đàn hay đến nổi ngựa đang ăn mà cũng phải ngẩng đầu lên nghe (Bá Nha cổ cầm nhi lục mã ngưỡng mạc).
Muốn đàn hay ngoài cái tài thiên phú, còn phải có thì giờ để tập dượt, phải tìm được thầy, lắm khi phải đi xa bao nhiêu đường đất tốn kém bao nhiêu công của để học ra được một chút gì chứ không phải một sáng một chiều mà có thể trở thành cầm sĩ, bất cứ là đàn gì.
Đàn Cầm tên gọi là Huyền Cầm, hay Cổ Cầm vì nó được tạo từ đời thượng cổ. Nhạc khí tục truyền do Phục Hy chế ra bằng 3 thứ gỗ độc đáo là cây Ngô Đồng, cây Tử và cây Tử Đàn.
Gỗ rất quan trọng khi cấu tạo một cây đàn, không phải bất cứ gỗ nào, gỗ gì cũng đóng được đàn tốt, thứ đàn xứng với tâm hồn và bàn tay của nghệ sĩ, nhất là khi nghệ sĩ còn là một bậc quân tử.
Gỗ Ngô Đồng nhẹ nên được chọn làm mặt đàn, Ngô Đồng không những chỉ nhẹ mà còn tạo nên được âm thanh vừa dài, vừa ấm, sử chép, do một sự tình cờ, có người đốt gỗ Ngô Đồng trong lúc va chạm nghe âm thanh vang rất kỳ lạ, bèn lấy thử làm một cây đàn. Đàn lên rất hay, đến đời nhà Hán, có Thái Ung là một nhân vật rất uyên bác, ông còn là một tay thiện đàn, ông đã bắt chước theo, thấy kết quả nên người đời sau cứ thế mà theo.
Ngô Đồng có thứ hoa trắng gọi là Bạch Đồng, hoa tím gọi là Cang Đồng hay Ngô Đồng, quả Ngô Đồng lúc già nứt làm đôi, còn một tên khác nữa là Cầm Mộc vì được chọn làm nhiều thứ đàn.
Cây Tử gỗ nặng hơn, dùng để làm đáy đàn, lá cây Tử giống lá cây Ngô Đồng nhưng bé hơn, gỗ Tử được gọi là Mộc Vương, dùng để làm hòm rất quý, theo kinh nghiệm người ta cho rằng nhà làm bằng gỗ Tử không bao giờ bị sét đánh, hòm không mục nát, sâu mọt không ăn, có cây sống trên nghìn năm.
Tử đàn lại là thứ gỗ mọc ở vùng nhiệt đới, gỗ non mầu hồng nhưng lúc già đổi sang mầu tím, do đó mới được mang tên Tử Đàn. Gỗ trắng là Bạch Đàn gỗ vàng là Hoàng Đàn, gỗ nầy thả xuống nước sẽ chìm, mang mùi hương tự nhiên dùng làm trục đàn rất tốt.
Đàn Cầm dài 3 xích, 6 thốn, 6 phân để tượng cho 366 ngày của một năm. Trên tròn vun như bầu trời, dưới vuông như mặt đất lòng rỗng, dưới có 4 chân nhỏ, trên mặt đàn có hai lỗ gọi là Long Trì, Phượng Chiếu, tức là hồ của Rồng, ao của Phượng.
Gọi là Cầm vì nó đồng âm với chữ Cấm, tức là đánh đàn sẽ làm ngưng cấm những ý nghĩ dâm tà, bắt tâm người dừng lại ở chỗ trinh chính.
Cầm được chia ra 5 thứ, nhất huyền, tam huyền, ngũ huyền, thất huyền và cửu huyền. Cả 5 cây đàn đều mang dương số, tức là số lẻ. Đàn của Bá Nha phải là thứ Ngũ Huyền, 13 phím đàn để tượng cho 13 tháng trong một năm, vì có tháng nhuận, cũng như Ngũ Huyền tượng cho Ngũ Hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và cho ngũ cung là Cung, Thương, Giác, Trưng, Vũ.
Âm sắc của Huyền Cầm vốn u trầm, sâu xa và trang trọng. Thanh âm không vang, chát chúa, nhưng người xưa đánh đàn là để tu thân dưỡng tính, làm tan biến những ý nghĩ xấu xa hèn kém, đưa tâm trí đến chỗ thanh cao thoát tục. Tùy tâm mà tạo nên âm thanh. Cổ Cầm không dễ, cần có sự tập luyện, nhẹ nhàng hơn so với đàn sắt, đi đâu cũng có thể mang theo, bạn của người quân tử.
Vì xem đàn như tri kỷ, như bạn nên người xưa vẫn thường đặt tên cho đàn. Cổ Cầm có những tên như: Băng Thanh, Xuân Lôi, Ngọc Chấn, Hoàng Hộc, Thu Tiêu là những tên người xưa ưa chọn để đặt cho đàn.
Sử chép một hôm Bá Nha đi chơi ở phía Bắc núi Thái Sơn, gặp buổi trời mưa to gió lớn, phải ngưng thyền ở dưới chân núi. Tâm trạng u buồn, mang đàn ra dạo khúc Lâm Vũ (Lâm Vũ còn dùng để gọi thứ mưa dầm quá 3 ngày). Qua tiếng nhạc, Chung Tử Kỳ đã nghe trộm và đoán biết tâm trạng u ẩn của người đánh đàn mà chưa biết là ai.
Tử Kỳ chỉ là một ẩn sĩ, họ Chung, nhà nghèo, tuy có kiến thức rộng nhưng không muốn trầm mình vào vòng danh lợi, không thi cử, không ra làm quan. Một phần vì chữ hiếu, cha mẹ già, chỉ muốn ở gần để phụng dưỡng, vì giao cho ai cũng không thể bằng chính mình.
Phải nhận rằng cái vốn liếng trí thức và đạo đức của Tử Kỳ là do nơi cha mẹ đã truyền lại, thêm với sự đọc sách để rồi suy tư, tự tìm cho mình một con đường lối sống. Sau một đêm nói chuyện, Ba Nha mời cùng sang Tấn với mình, dọn con đường tiến thân cho Tử Kỳ nhưng Tử Kỳ từ chối, bảo còn cha mẹ già không thể bỏ đi xa, thà chịu cuộc sống nghèo nhưng thanh sạch và được gần cha mẹ, ở Tập Hiền Thôn cách không xa bến sông.
Ở đây xin không đề cập đến những gì mà mọi người đều đã nghe, đã biết, những cái gọi là Cao Sơn Lưu Thủy của đôi bạn ấy, mà chỉ đưa câu chuyện ra để phân tích con người của Bá Nha và cây đàn của ông mà thôi.
Bá Nha, một người thiện Cổ Cầm và Tử Kỳ là một người thiện thính. Sách chép như thế, người đánh đàn nầy không phải là thứ nghệ sĩ đã dùng cây đàn để làm kế mưu sinh, không cần thính giả, không cần ánh đèn sân khấu, cũng không thiết những tràng vỗ tay,cũng như một chút hư danh do cây đàn đưa tới.
Bá Nha chỉ đàn cho mình, hẳn trên cây đàn của ông cũng có khắc những chữ “Tu thân lý tính” như của Khổng Tử, hoặc loại thơ “Duy sa đào ngõa, Chí tòng hồng mông” như tất cả những cây đàn của các vĩ nhân xưa.
Bối cảnh xã hội của thời Xuân Thu nhiểu nhương nên mới sinh ra một số dị nhân, ẩn sĩ, những người chỉ muốn giữ mình cho thanh sạch nên cố tình xa lánh những cảnh phồn hoa, đô thị sang giàu.
Điểm đặc biệt của câu chuyện là sự “Thâu Thính” tức là nghe đàn trộm. Nghe trộm đàn mà làm cho đàn phải đứt giây “liệt huyền” thì đủ biết là người nghe không phải tầm thường. Biết nghe, biết thưởng thức đến làm rung cảm dao động đến Thần Nhạc, bắt đàn phải “liệt huyền” để báo cho người đánh đàn biết đang có sự hiện diện của tri âm, xin đừng so sánh với hoàn cảnh của những sự đứt giây đàn mà hằng ngày vẫn xẩy ra, do bàn tay vụng về không biết vặn trục, ngược xuôi, những bàn tay nhấn phím quá độ, hoặc những sợi giây đàn đã rĩ mục, thì sự đứt giây đàn nầy không phải để nói lên sự hiện diện của tri âm, thâu thính như hoàn cảnh Bá Nha và Tử Kỳ.
Âm nhạc là một ân huệ của Thượng Đế đã dành cho loài người, và loài người từ xưa đã thấu triệt điều ấy nên mới có câu rằng biết thanh mà không biết âm tức là cầm thú (tri thanh bất tri âm giả, cầm thú dã).
Thanh là những tiếng phát từ môi răng, nếu, lưỡi họng, mà âm là do từ tâm người đưa ra.
Thanh là những tiếng được mang tên Cung, Thương, Giác, Trưng, Vũ. Thanh hợp với Khí thành Âm, và Âm là những sự Cương, Nhu, Thanh, Trọc, hòa lại với nhau, uống lấy nhau như rượu với bình để rồi hòa thành Âm.
Từ đời thượng cổ người ta đã biết dùng những mắt tre thổi lên thành âm thanh, làm chủ chốt nền móng của âm nhạc (xem phần Cổ Nhạc ở tập II). Mỗi âm thổi lên do những ống sáo dài hay ngắn, và những phù hiệu Cung, Thương, Giác, Trưng, Vũ đã được dùng để ghi làn nhạc, ngũ âm nầy đã biểu tượng cho Quân, Thần, Dân, Sự và Vật.
Cung được gọi là Âm của Trung Ương, của đất đai của hướng Tây.
Thương thuộc hành Kim trong Ngũ Hành, là tiếng của mùa Thu, tiếng buồn thương oán nộ.
Giác là âm của hành Mộc, của tiếng gỗ, tiếng cỏ hoa, tiếng của mùa Xuân.
Trưng, hay Chùy là âm của Lửa, hành Hỏa, của mùa Hạ, tượng cho sự vật, dương khí ngưng đọng ở âm nầy, và cũng với âm Trưng để gạn lóng mọi sự.
Vũ là âm của nước, của hành Thủy, của phương Bắc nếu Giác là của phương Đông Cũng như Trưng là âm phương Nam, thì Vũ là âm của phương Bắc, trầm và thâm sâu, đi thẳng vào lòng người.
Người biết phẩm Thanh tức có thể tri Âm.
Âm nhạc thuở ban sơ mang nhiều chiến đấu tính,về sau khi vào tay các văn nhân nghệ sĩ, nhạc trở thành một thứ Tĩnh Lực, người đời chỉ còn biết dùng nhạc để vui chơi giải trí, yến ẩm, dâm loạn mà thôi.
Đến một quốc gia nào, chỉ cần nghe tiếng nhạc, thì người biết “Phẩm Thanh” có thể nhận định được cái làn sóng chính trị đương thời, sẽ đưa đến chỗ thịnh hay suy. Âm nhạc của một nước thịnh trị thì nghe bình tĩnh, vui vẻ, mà hòa nhã. Âm nhạc của một nước sắp loạn, thường có giọng oán nộ, một nước sắp mất nghe có giọng buồn rầu và âu lo, quằn quại, đau xót.
Những vùng có đất đai đơn bạc mà sông lớn thì khí huyết con người cũng nông nỗi, đất đai thấp mà bằng phẳng thì tâm tính người cũng nhu nhược, đất phì nhiêu thì tính người hay lười biếng… Tất cả những thứ ấy đều phản ảnh vào âm nhạc, mà người biết “Phẩm Thanh” đều nhận thấy, cảm thấy.
Trở về với Bá Nha, ông là loại người đại diện cho một nền văn hóa thuần túy, chưa bị ô nhiễm vì những đảo điên của xã hội. Hẹn với Tử Kỳ năm tới cũng ngày tháng ấy, trên bến sông ấy sẽ gặp lại nhau, suốt một năm đợi, để rồi đến nơi không thấy tri âm chờ mình.
Dùng tiếng đàn để gọi nhau cũng không nghe hồi đáp, sáng ngày mai gọi tiểu đồng cùng đi tìm, ngỡ rằng Tử Kỳ vì có cha mẹ già như ngọn đèn trước gió.
Trên đường vào Tập Hiền Thôn, gặp một ông cụ già tay xách hương hoa, hỏi thăm nhà Tử Kỳ. Khi người già ấy biết đây là Bá Nha, bạn của con trai mình thì oà khóc mà báo tin rằng Tử Kỳ đã chết đúng 100 ngày, trước khi chết có dặn cha mẹ phải chôn mình ở ngay bến vì có hẹn với Bá Nha là sẽ gặp nhau.
Bá Nha ngất đi sau khi nghe tin bạn đã chết, lúc tỉnh dậy, ông đàn một bài điếu Tử Kỳ, người trong làng lúc nghe tiếng khóc thì cảm động đến đứng chung quanh có vẻ thành kính nhưng, đến lúc nghe tiếng đàn lại khúc khích cười, cười trong khi lòng nghệ sĩ đang tang tóc. Hẳn vì bị những tiếng cười của lũ người chỉ hiểu được tiếng khóc mà không hiểu được cái đau thương thể hiện qua tiếng đàn, đối với người nghệ sĩ còn cay đắng hơn muôn nghìn tiếng khóc tầm thường, Bá Nha biết rằng từ nay không còn ai có thể hiểu mình nữa nên đã “Tuyệt Huyền Phá Đàn” tức là cắt giây và đập đàn, thề không đàn cho ai nghe nữa.
Đến đây xin mở vòng ngoặc để nói đến sự khác biệt của phàm phu thanh, và thánh nhân thanh. Người đời tầm thường làm sao hiểu được thế nào là thánh nhân thanh, cố nhiên là thấy đứng trước mộ thì khóc là phải lẻ, ai lại đàn thì phàm phu  làm sao hiểu được tiếng khóc của cây đàn, hay của người nghệ sĩ đã nhờ cây đàn khóc hộ mình.
Trong hai người bạn thì quả Bá Nha mắc nợ và là kẻ đáng thương nhất, đã mất tri âm lại chịu vì tri âm mà mất cả cây đàn là tri kỷ, cuộc sống rồi sẽ cô đơn biết  mấy. Trái lại, Tử Kỳ là con người ít mang nợ, kiếp trước không tạo nghiệp, kiếp nầy cũng hiền hòa hiếu thuận, sống cuộc sống của một bậc ẩn sĩ, nếu không là thánh nhân. Chết sớm là một sự thoát tục sớm… Hơn nữa, chết rồi còn có kẻ vì mình mà đập đàn, và hẹn sẽ trở về thu xếp công việc để đón cha mẹ về phụng dưỡng thay cho mình.
Người như Bá Nha và tình bạn của Bá Nha sẽ không bao giờ ai còn tìm thấy. Nhưng, với cuộc sống cô đơn không tri kỷ, không tri âm, liệu cuộc sống có còn đáng sống?.
Minh Đức Hoài Trinh
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hắn 0000

Hắn 1. Hắn Hắn còn nhớ rõ cái ngày cha hắn bán bộ sách quý với giá ba chục nghìn bạc để lấy tiền cho hắn đi Pháp. Ngày ấy lòng hắn như nở ...