Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2024

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm
và những giấc mộng 2

MƯỜI SÁU
Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len
Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nhà văn đạt giải Nobel Heinrich Boll ở Ai-len mời đến nghỉ và sáng tác trong ba tuần tại khu nhà này. Đó chính là ngôi nhà mà nhà văn Heinrich Boll đã đến vùng này dựng lên và sáng tác trong một thời gian dài. Tại đây, ông đã viết nhiều tác phẩm quan trọng. Bây giờ, hằng năm Ban lãnh đạo khu nhà này mời một số nhà văn trên thế giới đến đó nghỉ và sáng tác. Và hầu như mỗi lần họ chỉ mời một nhà văn. Trước cổng ngôi nhà có một tấm biển với dòng chữ: Nơi đây đang trú ngụ một nghệ sĩ, xin đừng quấy rầy đến sự suy ngẫm và sáng tạo của họ.
Ngôi nhà nằm dưới chân một dãy đồi bên cạnh bờ biển ở Achill, Ai-len. Đây là lần đầu tiên tôi đến đất nước này. Từ sân bay phải đi ô tô mất năm tiếng mới về đến khu sáng tác đó. Khi đến đó tôi mới nhận ra đó là một vùng đồi. Những quả đồi nối nhau bất tận như không bao giờ hết. Ngôi nhà đầy đủ tiện nghi để một nhà văn có thể sinh sống và làm việc. Phòng ngủ, phòng khách, phòng vẽ, bếp... Trong nhà sáng tác có một chiếc xe đạp để nhà văn có thể dùng làm phương tiện đi lại. Đứng từ sân ngôi nhà nhìn ra chỉ thấy những triền đồi liên tiếp và thi thoảng dưới chân đồi xa xa hiện lên một ngôi nhà nhỏ bé. Hình như nơi này chỉ có đồi, những thảo nguyên cỏ bất tận và gió thổi suốt năm tháng. Một cảm giác cô đơn và hoang vu sẽ tràn ngập lòng tôi nếu tôi không nhìn thấy những đàn cừu lớn đi lang thang trên những triền đồi bất tận. Người quản lý nhà sáng tác nói tôi có thể dùng xe đạp đi xuống những làng gần đó mua thực phẩm và trò chuyện với những người nông dân xứ này. Tôi vừa rời nước Mỹ với những thành phố khổng lồ ngạt thở vì người và xe đến một nơi chỉ có tiếng gió. Đêm đầu tiên tôi sống một mình trong ngôi nhà trên vùng đồi ấy, một cảm giác vừa lo sợ mơ hồ vừa phấn kích ùa vào tôi. Gió từ biển suốt đêm thổi qua những quả đồi và rít trên mái nhà và những ô cửa. Sau gần nửa tháng ở đây, tôi thấy chưa bao giờ gió ngừng thổi. Tôi hỏi một người nông dân già và ông nói từ lúc ông sinh ra và lớn lên trên vùng đồi này cho đến bây giờ gió chưa ngày nào ngừng thổi. Và có lẽ vậy mà trên vùng đồi này tôi không hề nhìn thấy một cái cây lớn nào. Cả vùng đồi là cỏ và hoa dại cùng những thứ cây có thể chịu được gió. Cứ lúc nào bước ra khỏi nhà tôi cũng thấy gió thổi như muốn bứt hết tóc của mình. Trong tiếng gió là tiếng cừu kêu như tiếng trẻ con gọi mẹ. Những người nông dân ở đây không làm chuồng cho cừu. Họ thả cừu suốt năm như vậy trên những vùng đồi. Suốt đêm ấy hình như tôi không ngủ. Tôi ngồi trong chiếc ghế rộng bên lò sưởi lửa cháy suốt đêm. Đã sang đầu tháng Bảy nhưng ở đây vẫn lạnh. Suốt ngày sương mù che khuất những đỉnh đồi cao.
Sáng sau tôi đạp xe xuống phố sớm. Người dân ở đây thấy một người châu Á xuất hiện thấy làm lạ. Vì ở vùng này không có người châu Á nào sinh sống. Tôi nói cho họ biết tôi là nhà thơ từ Việt Nam đến và đang ở tại nhà sáng tác Heinrich Boll thì mọi người ồ lên và kết bạn với tôi ngay. Tôi nói với một người nông dân rằng khi ở Việt Nam tôi có đọc một bài báo viết cứ năm người dân Ai-len thì có một nhà thơ. Họ cười và nói lại rằng cứ năm người Ai-len thì trong đó có một người hoặc là nhà thơ, hoặc là nghệ sĩ hát dân ca, hoặc là họa sĩ. Có lẽ vì thế mà Ai-len chỉ có bốn triệu người thì đã có bốn nhà văn nhận giải Nobel.
Những ngày sau đó, tôi thường lang thang xuống một làng gần đấy để trò chuyện với những người nông dân. Nếu không ai nói họ là nông dân thì tôi cũng khó lòng biết được. Họ sống trong những ngôi nhà nhỏ nhưng đầy đủ tiện nghi và rất hiện đại. Hầu hết nhà nào cũng có xe hơi. Làng có khách sạn cho khách du lịch, có siêu thị và có sân chơi gôn. Mọi làng ở đây đều không có chính quyền thôn hay chính quyền xã. Chỉ có hai thứ mang tính tập thể: đó là nhà thờ và bưu điện. Tất cả cứ thế mà sống theo pháp luật. Những người nông dân ở đây hầu như không cấy trồng gì cả. Thu nhập của họ là từ chăn nuôi cừu và một số gia súc khác. Ngoài ra họ có một nguồn thu nhập không lớn lắm nhưng có lẽ không bao giờ cạn. Đó là đất. Trên những thảo nguyên mênh mông tôi nhìn thấy rất nhiều đống bao tải chất cao. Đó là những bao tải đựng đất để bán. Họ bán đất làm chất đốt trong các lò sưởi để chống lại mùa đông như kéo dài cả năm ở vùng này. Đất của toàn bộ vùng này là đất đen. Một thứ đất đen như than. Đất này là do cây rừng của hàng triệu năm về trước để lại. Tôi vô cùng ngạc nhiên trước sự kỳ lạ lần đầu tiên tôi được biết này. Những người nông dân cứ việc đào đất và phơi khô ngay trên đồng. Chỗ đất mỏng chỉ chừng 40cm. Nhưng chỗ dày có thể đào sâu cả hàng mét cũng chưa hết. Loại đất đen này trải mênh mông gần hết cả vùng phía đông Ai-len. Dù cho cả bốn triệu người Ai-len đào đất bán thì đến trăm đời sau cũng không bán hết đất được. Sau khi đào đất lên, những người nông dân ép lại thành từng thỏi như những khúc củi và bán. Mỗi cân đất khô bán được khoảng một phần ba Euro (khoảng sáu đến bảy ngàn đồng tiền Việt Nam vào thời điểm đó). Đất này cháy rất đượm than và khói có mùi rất dễ chịu. Và trên thứ đất này, người ta rất khó trồng các loại ngũ cốc và rau quả, nhưng cỏ thì lại vô cùng tốt tươi và hoa dại nhiều vô kể. Hình như ở đâu cũng thế, cỏ có thể sống và vươn lên trong mọi khắc nghiệt. Có lẽ vì thế mà các nhà thơ thường ví nhân dân như cỏ, im lặng và bền bỉ, mạnh mẽ và bất tận, mọc lên trên tất cả mọi vương quyền.
Buổi tối, những người nông dân thường tụ tập ở các quán bar. Tôi không hề thấy có bất cứ một quán bar nào ở đây giống các quán bar ở Việt Nam. Những người nông dân đến quán bar uống bia tươi và chơi nhạc. Cả bốn triệu người Ai-len đều có thể hát dân ca và thuộc các câu chuyện cổ tích của xứ sở mình. Những ngôi nhà cổ trong làng đều có lịch sử của nó. Lịch sử của ngôi nhà hầu hết cũng giản dị như chính những ngôi nhà ấy. Nhưng mọi đứa trẻ ở đây đều có thể kể cho tôi về ngôi nhà ấy sinh ra như thế nào và những ai đã sống trong ngôi nhà ấy với những câu chuyện về số phận của họ. Trong các quán bar, những người nông dân uống bia, chơi bi-a và ca hát đến khoảng một giờ sáng. Trời ở đây rất lạ, chỉ thực sự tối lúc 11 giờ đêm. Mười rưỡi tối vẫn có thể xâu kim bên cửa sổ được mà không cần đèn. Mùa đông thì trời tối sớm hơn một chút. Nhưng điều ấy đối với người dân ở đây chẳng quan trọng gì. Họ làm và chơi đến khi nào buồn ngủ thì ngủ, đến khi nào muốn thức dậy thì thức dậy. Họ sống nhàn nhã với công việc, với thi ca, với âm nhạc và với thiên nhiên. Ở đây không có trộm cắp và không ai cần khóa cửa bao giờ, gia súc nuôi cứ thả trên đồng suốt tháng này năm nọ, xe hơi cứ vứt ngoài đường, cửa hiệu bao quanh là những cửa kính mỏng chỉ đập một nhát là có thể chui vào. Thực sự cuộc sống của người dân Ai-len không phải là giàu. Họ là dân một nước trung bình và cũng trải qua không ít chiến tranh. Nhưng họ đã sống như thế.
Lúc này nghĩ đến xứ sở chúng ta, tôi thật sự kinh hãi, cứ hở cái gì là mất, hở quần mất đằng quần, hở áo mất đằng áo, hở xe mất đằng xe, thậm chí hở chó mất đằng chó. Ở đây không có say rượu, không có đánh cãi chửi nhau, không họp hành kiểm điểm và họ được quyền tin những gì họ tin, được quyền yêu những gì họ yêu và chẳng có ai bắt họ phải tin cái này hay yêu cái kia. Mấy hôm trước tôi đến đọc thơ ở thành phố Sligo. Tại phòng chính tại Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật thành phố nơi tôi đọc thơ cả một buổi tối có treo một bức tranh chính. Đó là bức tranh vẽ một con bò sữa. Đối với người dân vùng đó thì con bò là biểu tượng của ấm no và nhân hậu. Con bò quá gần gũi, quá cần thiết với người Ai-len vùng này từ xa xưa. Nó không phải là biểu tượng của tín ngưỡng mà nó chỉ là tình yêu. Họ yêu con bò và họ có quyền đặt con bò lên nơi trang trọng. Họ đã được sống đúng con người họ, họ được mơ những giấc mơ của họ, họ được khóc những nỗi buồn đau của họ.
Có lẽ không ở đâu lại yêu các nhà thơ như người của đất nước này. Sau đêm đọc thơ, tôi được một người bạn đưa đi chơi phố. Chúng tôi tạt vào một xưởng làm tượng gỗ của một nghệ nhân trên phố và tôi vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy tờ quảng cáo đêm thơ của tôi treo bên cạnh những thông tin văn hóa khác. Người nghệ nhân kia chưa bao giờ biết tên tôi, chưa bao giờ đọc thơ tôi, ông chỉ cần biết có một nhà thơ từ xa xôi đến đọc thơ ở thành phố của ông thế là ông hãnh diện và quý trọng. Ông nói với tôi, “Tôi chưa bao giờ đọc thơ anh, hay thế nào, dở thế nào tôi không biết, nhưng tôi tin vào hai chữ ‘nhà thơ’. Hai chữ ấy là chứng minh thư quan trọng nhất của tâm hồn anh.”
Mấy hôm trước, tôi vừa đi thăm một nhà thơ, nhà văn rất nổi tiếng của Ai-len: bà Leland Bardwell. Bà đã hơn bảy mươi tuổi và sống trong một ngôi nhà quá giản dị bên bờ biển. Phòng viết của bà thật giống như một cái bếp của một nhà nghèo ở Việt Nam. Bà đã chuyển từ thành phố về và sống ở đó hơn hai mươi năm nay. Ngôi nhà đó cũng giống như ngôi nhà sáng tác tôi đang ở, lẻ loi giữa một vùng đồi và biển cả mênh mông rất ít khi nhìn thấy bóng người. Chiếc bàn để ngoài vườn tiếp khách của bà là một cái khung gỗ tròn để cuộn dây điện cáp. Tất cả đời sống vật chất và phương tiện của một nhà thơ danh giá chỉ như thế, không một chút ham muốn vật chất hay quyền lực. Và chỉ như thế đất nước này mới sinh ra cho thế giới những nhà thơ vĩ đại.
Và lúc này, dù không muốn thì tôi vẫn phải nghĩ về các nhà văn của xứ sở chúng ta. Nhiều người quá giày vò với vật chất và những thứ quyền lực vô nghĩa. Tôi nhớ mỗi lần đại hội nhà văn toàn quốc là cả một chiến dịch của kiện cáo nhau, vu khống nhau, xu nịnh nhau, chửi rủa nhau, có nhà văn viết bài với bút danh khác tự ca ngợi chính bản thân mình, rồi họ nhóm họp nhau để bày đặt các kế hoạch làm sao trở thành uỷ viên Ban chấp hành. Tại sao những người mang danh nhà văn, nhà thơ lại có thể điên rồ với thứ quyền lực này? Ôi, thật nực cười và thật cay đắng. Có lẽ đó chính là lí do mà nền văn chương xứ sở chúng ta kém cỏi như vậy. Một dân tộc có một số phận lớn và đầy bi thương nhưng không có nhiều tác phẩm hiện đại nào chúng ta cúi đầu chiêm ngưỡng. Xin các nhà văn chúng ta đừng tiếp tục ảo tưởng về những gì chúng ta đã viết ra suốt hơn nửa thế kỷ nay. Xin các nhà văn hãy mau mau tỉnh khỏi cơn mộng mị về sự vĩ đại của mình để nhìn thấy sự yếu và thấp của mình. Để chúng ta bắt đầu với những bước đi đầu tiên về sự sáng tạo và tự do. Để một ngày nào đó, một nhà văn Việt Nam trong tương lai xuất hiện và viết những trang sách lộng lẫy và bi tráng về xứ sở chúng ta và chữa nỗi hổ thẹn cho văn học chúng ta. Tôi nói vậy sẽ có không ít các nhà văn sẽ nguyền rủa và căm thù tôi. Hãy nguyền rủa và căm thù tôi để rồi sau đó lặng lẽ ngồi xuống đọc lại những gì mình viết và suy ngẫm thực lòng về nó. Hãy làm điều đó, các anh, các chị và cá nhân tôi, những người đã bị thời gian bỏ quên hình như đã lâu lắm rồi.

Đêm nay, tôi lại ngồi im lặng bên lò sưởi trong ngôi nhà của Heinrich Boll. Xung quanh tôi chỉ có những quả đồi xứ Ai-len bất tận, chỉ có tiếng gió thổi suốt đêm từ biển cả vào, chỉ có mình tôi. Và trong tiếng gió vẳng lên như từ xa xôi tiếng cừu kêu đêm nghe như tiếng trẻ gọi mẹ. Đây là lần đầu tiên tôi sống trong khung cảnh này. Tôi có cảm giác như mình đang sống trên phần đất cuối cùng của thế gian và chỉ cần đi qua bên kia dãy đồi là đến một thế giới khác. Tôi phải cám ơn số phận đã cho tôi được đi qua những năm tháng có đau đớn, có hạnh phúc, có buồn bã, có mệt mỏi và được sống ở nơi đầy sự hoang vắng tưởng như vô tận này. Có những buổi chiều tôi lang thang trên vùng đồi giống như chàng Robinson xưa. Và trên khắp vùng đồi kia bạt ngàn hoa dại nở. Có thể có những bông hoa mà chưa ai nhìn thấy bao giờ. Nhưng nó vẫn nở. Nở cả mấy triệu năm nay trong im lặng và cô độc. Nó nở không phải để cho ai trầm trồ về vẻ đẹp của nó. Nó nở như tự thân nó phải sinh ra như vậy và kiêu hãnh như vậy dưới trời xanh vô tận kia. Nếu nó chỉ nở với mục đích để cho người khác nhìn thấy mà cúi đầu trước nó thì nó đã tàn lụi từ lâu rồi. Bởi nó không đủ kiên nhẫn để đợi trong mấy triệu năm cho tôi hay ai đó một chiều như chiều nao nhìn thấy nó và cúi đầu chiêm ngưỡng. Và tôi chợt nghĩ về số kiếp bé bỏng hình như chẳng có ý nghĩa gì của tôi trên thế gian này. Tôi đang sống không có ai biết đến những ngày ở vùng đồi mênh mông này. Những ngày không thù hận, không đố kỵ, không nguyền rủa, oán trách, không hơn thiệt. Nhưng có một điều tôi nhận thấy rất rõ, khi tôi đứng trên đỉnh đồi một mình với hoa cỏ, với gió, với trời xanh thì lòng tôi dâng lên niềm kiêu hãnh vô cùng vì đã được sinh ra trên thế gian này để được nhìn thấy một bông hoa dại mọc như mơ hồ dưới những lá cỏ mà không ai nhìn thấy và cũng có thể họ không cần nhìn thấy. Và tôi tự hát chỉ mình tôi nghe thấy về sự sinh ra, về sự hiện diện của tôi và của bông hoa dại kia.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Bầy cừu
Như những đám mây nhỏ trôi trên những triền đồi
từ ban mai đến đêm tối
Những con cừu vùng Achill không hề than thở
về số phận của chúng
Không đau khổ, không tuyệt vọng,
chỉ im lặng thực hiện sứ mệnh vô thức
Đi từ chân đồi lên đỉnh đồi trong gió lạnh
không bao giờ ngừng thổi trên vùng đảo.
Đi và đi, thi thoảng kêu lên, chợt nhớ điều gì đó
Tiếng buồn bã tan trong sóng biển vỗ chân đồi
Vào lúc ban mai thêm một con cừu trong đàn biến mất
Những mảnh thân xác tản mát đâu đấy
Những con cừu khác vẫn im lặng tiếp tục thực hiện
sứ mệnh của chúng
đi từ chân đồi lên đỉnh đồi,
những ngọn đồi...
nhũng ngọn đồi...
những ngọn đồi...
bất tận.
Achill, 11/07/2003
Rút từ tập Cây ánh sáng,
NXB Hội Nhà Văn 2010
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Bầy cừu
Như những đám mây nhỏ trôi trên những triền đồi
từ ban mai đến đêm tối
Những con cừu vùng Achill không hề than thở
về số phận của chúng
Không đau khổ, không tuyệt vọng,
chỉ im lặng thực hiện sứ mệnh vô thức
Đi từ chân đồi lên đỉnh đồi trong gió lạnh
không bao giờ ngừng thổi trên vùng đảo.
Đi và đi, thi thoảng kêu lên, chợt nhớ điều gì đó
Tiếng buồn bã tan trong sóng biển vỗ chân đồi
Vào lúc ban mai thêm một con cừu trong đàn biến mất
Những mảnh thân xác tản mát đâu đấy
Những con cừu khác vẫn im lặng tiếp tục thực hiện
sứ mệnh của chúng
đi từ chân đồi lên đỉnh đồi,
những ngọn đồi...
nhũng ngọn đồi...
những ngọn đồi...
bất tận.
Achill, 11/07/2003
Rút từ tập Cây ánh sáng,
NXB Hội Nhà Văn 2010
MƯỜI BẢY
36 ngày trong thế giới Hồi giáo
Năm 2002, Quân đội Mỹ mở cuộc tấn công chính quyền Taliban ở Afghanistan. Đó chính là cuộc chiến mở màn chống chủ nghĩa khủng bố sau vụ 11/9.
Có hai nhà báo Việt Nam đã lên đường đến vùng đất ấy để viết về cuộc chiến tranh này: nhà báo, nhà văn Như Phong và tôi. Lúc đó, tôi đang giúp phụ trách nội dung tờ An ninh Thế giới cuối tháng.
Đúng đêm không quân Mỹ tấn công thủ phủ Taliban ở Kabul thì chúng tôi đang ở trong một ngôi nhà của người Hồi giáo ở biên giới Pakistan và Afghanistan.
PHẦN MỘT:
Visa Hồi giáo và Kinh Koran
Sau sự kiện 11/9 kinh hoàng, nước Mỹ không còn cách nào khác là tiến hành một cuộc chiến tranh tấn công Kabul, thủ đô đất nước Hồi giáo Afganistan, nơi mà người Mỹ cho đó là sào huyệt của chủ nghĩa khủng bố. Bin Laden không trú ngụ ở đó sau sự kiện 11/9. Đương nhiên là vậy. Nhưng đó là thủ phủ của Chính quyền Taliban mà Bin Laden là một phần không thể tách rời của nó.
Tôi nhớ một buổi chiều, Tổng biên tập báo An ninh Thế giới, nhà văn Hữu ước, hỏi tôi có thể đi cùng nhà báo Như Phong đến Pakistan rồi sau đó tìm cách đến Afganistan để viết phóng sự về cuộc chiến sắp nổ ra không. Ông dự báo cuộc chiến sẽ xảy ra trong vài ngày tới. Lúc đó, tôi đang giúp nhà văn Hữu ước tổ chức và thực hiện tờ An ninh Thế giới cuối tháng. Tôi đã đồng ý mà không một giây suy nghĩ. Tại sao lại là tôi chứ không phải ai khác? Vì tôi biết một chút tiếng Anh và vì tôi đã từng lang thang ở nhiều nơi trên thế giới. Chuyến đi này cần người có kinh nghiệm.
báo An ninh Thế giới gấp rút chuẩn bị tất cả những gì có thể cho chuyến đi của chúng tôi. Đây là một trong những sự kiện lớn nhất của báo từ ngày thành lập. Bộ phận hành chính trị sự của báo mua balô, chuẩn bị máy vi tính xách tay, máy ảnh, tiền mặt đôla, thuốc men, mỳ tôm... rồi lo công văn giấy tờ, lo xin visa. Trong khi đó, nhà báo Như Phong phải tập huấn cấp tốc cách sử dụng Internet để gửi bài và gửi ảnh. Tôi không tham dự khóa học ngắn giờ ấy vì nhân vật chính của chuyến đi ấy là nhà báo Như Phong và chúng tôi cũng chỉ có một cái máy vi tính xách tay. Hơn nữa, nhiệm vụ của tôi là phiên dịch và có viết được gì thì viết chứ không bắt buộc. Bởi thế mà tôi chỉ mang theo một chiếc máy ảnh du lịch, dăm cái bút bi và một xấp giấy. Có lẽ tôi là phóng viên chiến tranh duy nhất trong thế kỷ 21 đã lên đường tác nghiệp với trang bị như thế.
Trong ngày đầu tiên chúng tôi đến sứ quán Pakistan ở khách sạn Daewoo để xin visa, một nhân viên lãnh sự sứ quán Pakistan tiếp chúng tôi hờ hững. Ông tên là Moinuddin. Đó là người đàn ông da ngăm đen, cao to nhưng giọng nói và đôi mắt rất buồn. Phải chăng lúc đó ông đang mang mặc cảm về những người Hồi giáo của ông sau sự kiện 11/9. Tôi đoán thế. Sau này chúng tôi trở thành bạn thân của nhau nhưng tôi cũng không một lần hỏi ông rằng phỏng đoán của tôi có đúng hay không. Ngày đầu tiên, ông không hứa hẹn gì với chúng tôi rằng chúng tôi sẽ có visa. Ông bảo chúng tôi cứ về và trở lại vào ngày hôm sau.
Chiều hôm sau chúng tôi trở lại sứ quán Pakistan. Tôi rất bất ngờ khi thấy nhà báo Như Phong rút trong túi khoác một cuốn Kinh Koran còn mới tinh khi bước vào cầu thang máy. Moinuddin bước ra tiếp chúng tôi. Ông sững sờ khi thấy trên bàn trước mặt chúng tôi là cuốn Kinh Koran. Rồi ông bước tới, cúi xuống và nâng cuốn kinh lên. Ông xúc động hôn lên cuốn kinh. Một nụ cười như quả trái mùa hiện lên trên đôi môi ông. Tôi thấy mắt ông rơm rớm. Rồi như sực tỉnh điều gì đó, ông vội pha trà mời chúng tôi. Ông nói đó là loại trà đặc biệt nhất của người Pakistan. Rồi ông hỏi tôi muốn hút thuốc cứ hút. Và tôi, một kẻ nghiện ngập đầy thói xấu đã được lời như cởi tấm lòng. Tôi lấy thuốc ra hút trong chính căn phòng có một tấm biển nhỏ: Không hút thuốc. Khi thấy tôi liếc mắt ngượng ngùng nhìn tấm biển đó, Moin Uddin mỉm cười và đứng dậy cất cái biển đi.
Điều gì đã đổi thay thái độ của ông? Cuốn Kinh Koran hay là sự chia sẻ từ những người không cùng tôn giáo là chúng tôi trong lúc lòng ông đang hoang mang trống trải. Bởi lúc đó, dù chẳng ai nói ra điều gì thì những người Hồi giáo chân chính vẫn cảm thấy một nỗi đau buồn đôi lúc phủ ngập đôi mắt họ sau sự kiện 11/9. Họ nghĩ gì về Chính phủ Mỹ tôi không can thiệp và không bàn luận. Nhưng cái chết của hàng ngàn người trong Tòa tháp đôi đã làm chúng ta và những người Hồi giáo chân chính nổi giận và đau đớn.
Moinuddin đã làm visa cho chúng tôi. Ông mang hộ chiếu cho chúng tôi nhưng đặt ở một góc bàn xa chỗ chúng tôi ngồi và nói bao giờ chúng tôi uống hết cốc trà đặc biệt tự tay ông pha thì ông mới cho chúng tôi nhận visa. Chúng tôi ngồi uống trà và nói chuyện về Pakistan. Ông dặn dò chúng tôi nhiều điều. Đặc biệt là những hành xử thông thường để chúng tôi khỏi bỡ ngỡ và tránh được những phiền phức không cần thiết. Ông còn dặn chúng tôi mỗi khi vào tiệm ăn ở Pakistan thì phải nói cho người nấu ăn biết để cho ít ớt thôi vì người Pakistan ăn rất cay. Ông có biết đâu rằng: những người mà ông đang lo sẽ phải ăn những món cay của xứ sở ông lại là những kẻ ăn ớt như ăn rau ghém. Quả thực là như thế. Sau này ở Pakistan khi thấy tôi gọi thêm ớt thì những người ở đó tròn mắt nhìn tôi. Họ không nghĩ lại có một xứ sở khác ăn cay nhiều hơn cả họ.
Trước khi rời sứ quán Pakistan, Moinuddin hỏi tôi có thể chuyển giúp ông một gói quà về cho vợ và hai cô con gái ông được không. Tôi nhận lời. Đó là một bọc xà phòng thơm ông mua ở Việt Nam. Khi biết tôi có nhận mang gói quà đó đã có người khuyên tôi phải cắt từng bánh xà phòng ra không nhỡ trong đó có thuốc nổ hay ma túy gì thì làm sao. Tôi bật cười và phẩy tay. Nhưng suốt thời gian trước khi rời Việt Nam, người bạn kia không chịu từ bỏ lời khuyên ấy lại làm tôi có một lúc lúng túng. Tôi cầm những bánh xà phòng thơm và thoáng một chút ngờ ngợ. Sau này tôi rất xấu hổ về sự ngờ ngợ ấy cho dù nó chưa phải là sự nghi ngờ. Sự thiếu lòng tin sẽ giết chết con người. Sau này ngẫm lại chuyện ấy dù là chuyện nhỏ mà cứ thấy lòng phảng phất nỗi buồn về chính bản thân mình. Khi chia tay, Moinuddin đưa chúng tôi ra tận cầu thang máy của khách sạn. Ông ôm chúng tôi rất chặt và nói: “Hãy cẩn thận, người anh em. Thánh Allah sẽ phù hộ cho người anh em.”
Chuyến đi đó tôi đã giấu cha mẹ và các anh chị em tôi. Bởi chắc chẳng người thân nào của tôi lại muốn tôi đến nơi bom rơi đạn lạc như thế. Một đồng nghiệp lớn tuổi có vị trí đã ghé tai tôi và nói, “Thà chết bên cạnh một người đàn bà còn hơn chết ở một nơi vớ vẩn.” Lời khuyên ấy là thực lòng. Nhưng tôi đã quyết định thực hiện chuyến đi ấy. Và chúng tôi lên đường. Chỉ sau khi báo chí và Truyền hình Việt Nam đưa tin về chuyến đi của chúng tôi thì cha mẹ, anh chị em và rất nhiều bè bạn của tôi mới biết. Tất cả đều lo lắng cho đến lúc chúng tôi trở về lành lặn.
Kể từ năm 1975, tôi đã có nhiều chuyến đi xa, nhưng chưa có chuyến đi xa nào lại có đông người tiễn như thế. Những đồng nghiệp của tôi ở báo An ninh Thế giới đã tiễn chúng tôi và dúi cho chúng tôi nhiều thứ mà họ thấy chúng tôi sẽ rất cần khi đi một chuyến đi như thế. Có người đã khóc. Cùng lúc đó, một đồng nghiệp ở Hà Nội ngồi uống bia hơi và cam đoan chúng tôi sẽ khó mà trở về được. Anh ta tin cuộc chiến lần đó là một cuộc chiến tàn khốc hơn bất cứ cuộc chiến nào kể từ thế kỷ hai mươi. Và những người đi vào cuộc chiến đó cầm chắc một sống chín chết. Họ nghĩ tôi là kẻ dại dột.
Sau khi chúng tôi đi, có người hỏi Tổng biên tập Hữu Ước rằng nếu chúng tôi trúng đạn không về được thì ông sẽ làm gì. Nhà văn Hữu Ước nói nếu nhỡ có chuyện gì thì báo An ninh Thế giới sẽ nuôi những đứa con chúng tôi đến lúc có công ăn việc làm và đề nghị Nhà nước công nhận chúng tôi là liệt sĩ. Những chuyện như thế chúng tôi được nghe kể lại sau khi trở về. Nếu chúng tôi nghe được những dự báo bi đát về số phận của chúng tôi trước khi đi thì liệu chúng tôi có dám đi không? Tôi phải xin thú thực rằng: tôi không biết mình sẽ quyết định như thế nào. Vì không ai bắt chúng tôi phải đi chuyến đi này. Vì lúc đó đất nước chúng ta đã sống trong hòa bình được gần 30 năm rồi. Vì đời sống của chúng ta đã được cải thiện rất nhiều. Vì chúng ta đã và đang bắt đầu có thói quen hưởng thụ. Nhưng nghề và nghiệp là như thế. Hơn nữa, tôi là kẻ luôn luôn khát vọng những chuyến đi xa. Tôi chưa bao giờ đắn đo hay từ chối một chuyến đi xa nào. Với tôi, đó cũng là một cách chống lại sự tẻ nhạt của một đời sống quá nhiều sáo mòn. Điều gì mà trái tim tôi hối thúc và vẫy gọi thì tôi làm. Được sống như thế thì có thất bại cũng chẳng có gì phiền muộn và ân hận.
Đến sân bay Nội Bài, nhiều nhân viên hàng không đã nhận ra chúng tôi. Họ được thông báo về hai hành khách đặc biệt này. Họ vô cùng ân cần giúp chúng tôi làm thủ tục. Lần đầu tiên tôi được các nhân viên hàng không tận tình giúp đỡ như thế. Họ tiễn chúng tôi với giương mặt nhiều ái ngại và cảm thông. Hình như trong họ lúc đó có thấp thoáng một ý nghĩ rằng: hai hành khách này ra đi có thể mãi mãi không trở về.
PHẦN MỘT:
Visa Hồi giáo và Kinh Koran
Sau sự kiện 11/9 kinh hoàng, nước Mỹ không còn cách nào khác là tiến hành một cuộc chiến tranh tấn công Kabul, thủ đô đất nước Hồi giáo Afganistan, nơi mà người Mỹ cho đó là sào huyệt của chủ nghĩa khủng bố. Bin Laden không trú ngụ ở đó sau sự kiện 11/9. Đương nhiên là vậy. Nhưng đó là thủ phủ của Chính quyền Taliban mà Bin Laden là một phần không thể tách rời của nó.
Tôi nhớ một buổi chiều, Tổng biên tập báo An ninh Thế giới, nhà văn Hữu ước, hỏi tôi có thể đi cùng nhà báo Như Phong đến Pakistan rồi sau đó tìm cách đến Afganistan để viết phóng sự về cuộc chiến sắp nổ ra không. Ông dự báo cuộc chiến sẽ xảy ra trong vài ngày tới. Lúc đó, tôi đang giúp nhà văn Hữu ước tổ chức và thực hiện tờ An ninh Thế giới cuối tháng. Tôi đã đồng ý mà không một giây suy nghĩ. Tại sao lại là tôi chứ không phải ai khác? Vì tôi biết một chút tiếng Anh và vì tôi đã từng lang thang ở nhiều nơi trên thế giới. Chuyến đi này cần người có kinh nghiệm.
báo An ninh Thế giới gấp rút chuẩn bị tất cả những gì có thể cho chuyến đi của chúng tôi. Đây là một trong những sự kiện lớn nhất của báo từ ngày thành lập. Bộ phận hành chính trị sự của báo mua balô, chuẩn bị máy vi tính xách tay, máy ảnh, tiền mặt đôla, thuốc men, mỳ tôm... rồi lo công văn giấy tờ, lo xin visa. Trong khi đó, nhà báo Như Phong phải tập huấn cấp tốc cách sử dụng Internet để gửi bài và gửi ảnh. Tôi không tham dự khóa học ngắn giờ ấy vì nhân vật chính của chuyến đi ấy là nhà báo Như Phong và chúng tôi cũng chỉ có một cái máy vi tính xách tay. Hơn nữa, nhiệm vụ của tôi là phiên dịch và có viết được gì thì viết chứ không bắt buộc. Bởi thế mà tôi chỉ mang theo một chiếc máy ảnh du lịch, dăm cái bút bi và một xấp giấy. Có lẽ tôi là phóng viên chiến tranh duy nhất trong thế kỷ 21 đã lên đường tác nghiệp với trang bị như thế.
Trong ngày đầu tiên chúng tôi đến sứ quán Pakistan ở khách sạn Daewoo để xin visa, một nhân viên lãnh sự sứ quán Pakistan tiếp chúng tôi hờ hững. Ông tên là Moinuddin. Đó là người đàn ông da ngăm đen, cao to nhưng giọng nói và đôi mắt rất buồn. Phải chăng lúc đó ông đang mang mặc cảm về những người Hồi giáo của ông sau sự kiện 11/9. Tôi đoán thế. Sau này chúng tôi trở thành bạn thân của nhau nhưng tôi cũng không một lần hỏi ông rằng phỏng đoán của tôi có đúng hay không. Ngày đầu tiên, ông không hứa hẹn gì với chúng tôi rằng chúng tôi sẽ có visa. Ông bảo chúng tôi cứ về và trở lại vào ngày hôm sau.
Chiều hôm sau chúng tôi trở lại sứ quán Pakistan. Tôi rất bất ngờ khi thấy nhà báo Như Phong rút trong túi khoác một cuốn Kinh Koran còn mới tinh khi bước vào cầu thang máy. Moinuddin bước ra tiếp chúng tôi. Ông sững sờ khi thấy trên bàn trước mặt chúng tôi là cuốn Kinh Koran. Rồi ông bước tới, cúi xuống và nâng cuốn kinh lên. Ông xúc động hôn lên cuốn kinh. Một nụ cười như quả trái mùa hiện lên trên đôi môi ông. Tôi thấy mắt ông rơm rớm. Rồi như sực tỉnh điều gì đó, ông vội pha trà mời chúng tôi. Ông nói đó là loại trà đặc biệt nhất của người Pakistan. Rồi ông hỏi tôi muốn hút thuốc cứ hút. Và tôi, một kẻ nghiện ngập đầy thói xấu đã được lời như cởi tấm lòng. Tôi lấy thuốc ra hút trong chính căn phòng có một tấm biển nhỏ: Không hút thuốc. Khi thấy tôi liếc mắt ngượng ngùng nhìn tấm biển đó, Moin Uddin mỉm cười và đứng dậy cất cái biển đi.
Điều gì đã đổi thay thái độ của ông? Cuốn Kinh Koran hay là sự chia sẻ từ những người không cùng tôn giáo là chúng tôi trong lúc lòng ông đang hoang mang trống trải. Bởi lúc đó, dù chẳng ai nói ra điều gì thì những người Hồi giáo chân chính vẫn cảm thấy một nỗi đau buồn đôi lúc phủ ngập đôi mắt họ sau sự kiện 11/9. Họ nghĩ gì về Chính phủ Mỹ tôi không can thiệp và không bàn luận. Nhưng cái chết của hàng ngàn người trong Tòa tháp đôi đã làm chúng ta và những người Hồi giáo chân chính nổi giận và đau đớn.
Moinuddin đã làm visa cho chúng tôi. Ông mang hộ chiếu cho chúng tôi nhưng đặt ở một góc bàn xa chỗ chúng tôi ngồi và nói bao giờ chúng tôi uống hết cốc trà đặc biệt tự tay ông pha thì ông mới cho chúng tôi nhận visa. Chúng tôi ngồi uống trà và nói chuyện về Pakistan. Ông dặn dò chúng tôi nhiều điều. Đặc biệt là những hành xử thông thường để chúng tôi khỏi bỡ ngỡ và tránh được những phiền phức không cần thiết. Ông còn dặn chúng tôi mỗi khi vào tiệm ăn ở Pakistan thì phải nói cho người nấu ăn biết để cho ít ớt thôi vì người Pakistan ăn rất cay. Ông có biết đâu rằng: những người mà ông đang lo sẽ phải ăn những món cay của xứ sở ông lại là những kẻ ăn ớt như ăn rau ghém. Quả thực là như thế. Sau này ở Pakistan khi thấy tôi gọi thêm ớt thì những người ở đó tròn mắt nhìn tôi. Họ không nghĩ lại có một xứ sở khác ăn cay nhiều hơn cả họ.
Trước khi rời sứ quán Pakistan, Moinuddin hỏi tôi có thể chuyển giúp ông một gói quà về cho vợ và hai cô con gái ông được không. Tôi nhận lời. Đó là một bọc xà phòng thơm ông mua ở Việt Nam. Khi biết tôi có nhận mang gói quà đó đã có người khuyên tôi phải cắt từng bánh xà phòng ra không nhỡ trong đó có thuốc nổ hay ma túy gì thì làm sao. Tôi bật cười và phẩy tay. Nhưng suốt thời gian trước khi rời Việt Nam, người bạn kia không chịu từ bỏ lời khuyên ấy lại làm tôi có một lúc lúng túng. Tôi cầm những bánh xà phòng thơm và thoáng một chút ngờ ngợ. Sau này tôi rất xấu hổ về sự ngờ ngợ ấy cho dù nó chưa phải là sự nghi ngờ. Sự thiếu lòng tin sẽ giết chết con người. Sau này ngẫm lại chuyện ấy dù là chuyện nhỏ mà cứ thấy lòng phảng phất nỗi buồn về chính bản thân mình. Khi chia tay, Moinuddin đưa chúng tôi ra tận cầu thang máy của khách sạn. Ông ôm chúng tôi rất chặt và nói: “Hãy cẩn thận, người anh em. Thánh Allah sẽ phù hộ cho người anh em.”
Chuyến đi đó tôi đã giấu cha mẹ và các anh chị em tôi. Bởi chắc chẳng người thân nào của tôi lại muốn tôi đến nơi bom rơi đạn lạc như thế. Một đồng nghiệp lớn tuổi có vị trí đã ghé tai tôi và nói, “Thà chết bên cạnh một người đàn bà còn hơn chết ở một nơi vớ vẩn.” Lời khuyên ấy là thực lòng. Nhưng tôi đã quyết định thực hiện chuyến đi ấy. Và chúng tôi lên đường. Chỉ sau khi báo chí và Truyền hình Việt Nam đưa tin về chuyến đi của chúng tôi thì cha mẹ, anh chị em và rất nhiều bè bạn của tôi mới biết. Tất cả đều lo lắng cho đến lúc chúng tôi trở về lành lặn.
Kể từ năm 1975, tôi đã có nhiều chuyến đi xa, nhưng chưa có chuyến đi xa nào lại có đông người tiễn như thế. Những đồng nghiệp của tôi ở báo An ninh Thế giới đã tiễn chúng tôi và dúi cho chúng tôi nhiều thứ mà họ thấy chúng tôi sẽ rất cần khi đi một chuyến đi như thế. Có người đã khóc. Cùng lúc đó, một đồng nghiệp ở Hà Nội ngồi uống bia hơi và cam đoan chúng tôi sẽ khó mà trở về được. Anh ta tin cuộc chiến lần đó là một cuộc chiến tàn khốc hơn bất cứ cuộc chiến nào kể từ thế kỷ hai mươi. Và những người đi vào cuộc chiến đó cầm chắc một sống chín chết. Họ nghĩ tôi là kẻ dại dột.
Sau khi chúng tôi đi, có người hỏi Tổng biên tập Hữu Ước rằng nếu chúng tôi trúng đạn không về được thì ông sẽ làm gì. Nhà văn Hữu Ước nói nếu nhỡ có chuyện gì thì báo An ninh Thế giới sẽ nuôi những đứa con chúng tôi đến lúc có công ăn việc làm và đề nghị Nhà nước công nhận chúng tôi là liệt sĩ. Những chuyện như thế chúng tôi được nghe kể lại sau khi trở về. Nếu chúng tôi nghe được những dự báo bi đát về số phận của chúng tôi trước khi đi thì liệu chúng tôi có dám đi không? Tôi phải xin thú thực rằng: tôi không biết mình sẽ quyết định như thế nào. Vì không ai bắt chúng tôi phải đi chuyến đi này. Vì lúc đó đất nước chúng ta đã sống trong hòa bình được gần 30 năm rồi. Vì đời sống của chúng ta đã được cải thiện rất nhiều. Vì chúng ta đã và đang bắt đầu có thói quen hưởng thụ. Nhưng nghề và nghiệp là như thế. Hơn nữa, tôi là kẻ luôn luôn khát vọng những chuyến đi xa. Tôi chưa bao giờ đắn đo hay từ chối một chuyến đi xa nào. Với tôi, đó cũng là một cách chống lại sự tẻ nhạt của một đời sống quá nhiều sáo mòn. Điều gì mà trái tim tôi hối thúc và vẫy gọi thì tôi làm. Được sống như thế thì có thất bại cũng chẳng có gì phiền muộn và ân hận.
Đến sân bay Nội Bài, nhiều nhân viên hàng không đã nhận ra chúng tôi. Họ được thông báo về hai hành khách đặc biệt này. Họ vô cùng ân cần giúp chúng tôi làm thủ tục. Lần đầu tiên tôi được các nhân viên hàng không tận tình giúp đỡ như thế. Họ tiễn chúng tôi với giương mặt nhiều ái ngại và cảm thông. Hình như trong họ lúc đó có thấp thoáng một ý nghĩ rằng: hai hành khách này ra đi có thể mãi mãi không trở về.
PHẦN HAI:
Bay vào vùng chiến địa
Chúng tôi bay trên một chuyến bay của hãng Hàng không Pakistan từ Bangkok đi Lahore, thành phố miền trung Pakistan vào lúc 8 giờ tối. Từ một tuần trước, tất cả các hãng hàng không nước ngoài đã hủy bỏ mọi chuyến bay đến Pakistan. Hầu hết các sứ quán nước ngoài ở Pakistan cũng đã nhận lệnh di tản. Họ đều biết cuộc chiến tranh đã đến rất gần. Tàu chiến của quân đội Mỹ đã trực chiến ở những vùng biển áp sát Pakistan cùng một số vùng lân cận và sẵn sàng phóng tên lửa vào những mục tiêu có dấu hiệu nghi ngờ. Nước Mỹ đang đau đớn, đang bị sỉ nhục, đang hừng hực máu trả thù và sẵn sàng làm tất cả để nguôi đi một phần nào những cảm giác ê chề đó.
Hình như an ninh Mỹ đã đặt những trạm kiểm soát của mình ở tất cả những cửa khẩu nước ngoài vào Pakistan. Chưa bao giờ hành khách bị kiểm tra kỹ như vậy ở sân bay. Nhân viên an ninh ở sân bay Bangkok đông hơn những lần trước tôi qua. Tất cả hành khách trên chuyến bay đó đều bị kiểm soát hết sức kỹ lưỡng. Nhân viên an ninh lần từng cổ áo, dây lưng, đế giày, đũng quần, các góc và đáy vali, các hộp kem đánh răng, máy vi tính xách tay, máy ảnh, bao thuốc lá... Và hỏi cặn kẽ về nhân thân và mục đích chuyến bay.
Trên chuyến bay tối đó, chỉ có nhà báo Như Phong và tôi là người nước ngoài. Còn lại là những người Hồi giáo Pakistan. Đây là chuyến bay gây cho tôi một cảm giác mạnh nhất từ trước đến nay. “Một chuyến bay Hồi giáo” - tôi đã gọi chuyến bay ấy như thế. Trước đó, tôi không biết gì về người Hồi giáo. Moinuddin là người Hồi giáo đầu tiên tôi tiếp xúc. Nhưng đó là một người Hồi giáo làm ở Bộ Ngoại giao Pakistan, ông mang cho tôi một cảm giác đơn giản. Còn những người Hồi giáo trên chuyến bay đó quả là rất Hồi giáo với râu tóc, quần áo và nói một thứ ngôn ngữ tôi không hề quen với một từ vựng nào cả. Hơn nữa, một không khí của chiến tranh và những bí ẩn từ những cái nhìn của những người Hồi giáo xa lạ trên chuyến bay bủa vây và kích động cảm xúc của tôi.
Máy bay cất cánh muộn hơn so với giờ ghi trên vé. Chắc là vì việc kiểm tra của an ninh sân bay Bangkok quá lâu. Có những hành khách Hồi giáo cầu nguyện. Tôi không dám quan sát họ. Nhưng chỉ nhìn lướt qua họ như một sự vô tình. Và tôi phát hiện ra sự thành kính và bí ẩn trên gương mặt họ. Chính điều này làm tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Tôi nhìn ra cửa sổ máy bay và chỉ thấy một bầu trời tối đen. Cảnh ấy không có gì xa lạ với tôi trong những chuyến bay đêm. Vì những chuyến bay của tôi đi Mỹ và châu Âu thường bay đêm. Nhưng bầu trời đêm lúc này dựng lên một thế giới khác. Bởi nơi tôi đến là một vùng đất mà có thể ngay đêm đó một cuộc chiến tranh sẽ bùng nổ. Đó cũng là chuyến bay tôi không lấy sách ra đọc. Tôi muốn im lặng quan sát và cảm nhận không khí của một chuyến bay đặc biệt ở giữa những hành khách đặc biệt.
Từ khi bước vào phòng đợi, tôi đã cố tình chào hỏi với một vài hành khách Hồi giáo và mỉm cười với họ. Nhưng có lẽ sự bắt quen và nụ cười của tôi là những thứ xa lạ và khó giải thích với họ nên họ chỉ nhìn tôi hoặc miễn cưỡng gật đầu chào lại hoặc không nói gì. Một số người khách quan sát chúng tôi với đầy vẻ cảnh giác. Có lẽ họ tự hỏi vì sao hai kẻ xa lạ này lại bay đến vùng đất mà mọi thứ khủng khiếp đang sắp ập tới. Từ sân bay Bangkok, nhà báo Như Phong bắt đầu bỏ cuốn Kinh Koran ra khỏi túi xách và ôm khư khư trên tay. Khi Như Phong tìm được ghế ngồi của mình trên máy bay, anh đã chỉ chỉ tay vào cuốn kinh như giới thiệu với một hành khách Hồi giáo ở ghế bên cạnh. Ông ta gật gật đầu và nói một câu gì đó rồi cầm cuốn kinh lên hôn. Như Phong bèn ôm lấy vai ông ta với những cử chỉ đầy cảm thông và chia sẻ. Nhưng chỉ ngay sau đó, vị hành khách Hồi giáo lại rơi vào im lặng cho đến hết cuộc hành trình.
Có lẽ chặng đường bay dài nhất trong tất cả các chuyến bay quốc tế mà tôi đã đi là chuyến bay từ Bangkok đi Lahore. Tôi đã từng xem phim và thấy những cảnh máy bay chở các nhóm biệt kích hoặc tình báo bay trong đêm lặng lẽ đến một vùng rừng núi nào đó để thả các nhóm công tác đặc biệt đó xuống. Một sự căng thẳng và nặng nề kéo dài suốt chặng bay. Và trong chuyến bay đêm ấy, tôi đã mang đầy đủ cảm giác đó. Bởi có thể vô tình một quả tên lửa từ một tàu chiến nào đó của quân đội Mỹ sẽ lao thẳng vào chiếc máy bay có tôi trong đó. Đơn giản chỉ vậy. Và sau đó, tất cả sẽ được xóa sạch. Nếu như thế, đố ai tìm thấy tôi ở đâu. Tuy có lúc ý nghĩ đó vụt hiện trong óc tôi trong tiếng ù ù đều đặn của động cơ máy bay nhưng tôi không hề thấy sợ hãi hay ân hận về việc quyết định chuyến đi này. Thay vào đó là một cảm giác lạ kỳ đầy phấn khích. Tôi thấy cuộc sống thật vĩ đại. Nó chứa trong nó tất cả những câu chuyện mà ngồi một mình chúng ta cũng không thể sáng tạo hay bịa đặt được.
Máy bay hạ cánh xuống sân bay thành phố Lahore khoảng gần nửa đêm. Hoàn toàn khác với cảnh nhộn nhịp thường thấy ở các sân bay là một không khí vắng vẻ đầy căng thẳng. Sân bay Bangkok ngập tràn các cửa hàng miễn thuế và rực rỡ ánh đèn còn sân bay Lahore đầy cảnh sát và quân đội. Một số boongke cát được dựng ngay trong sân bay. Những khẩu súng máy với những băng đạn lắp sẵn. Chúng tôi như lạc vào một ổ phục kích. Một đợt khám xét mới bắt đầu. Quanh chúng tôi có đến một chục nhân viên cảnh sát và quân đội với vẻ mặt căng thẳng và tay lăm lăm súng tiểu liên. Khi vừa mở túi xách của nhà báo Như Phong thì cuốn Kinh Koran hiện ra. Viên cảnh sát súng ống đầy người vội nâng cuốn kinh bằng hai tay và cúi xuống hôn như một nghi lễ đầy vẻ sùng tín.
Rồi anh ta đặt cẩn thận cuốn kinh sang một bên và bắt đầu lục soát hành lý của chúng tôi. Trước khi để cho chúng tôi nhập cảnh, viên cảnh sát nói với chúng tôi không được để cuốn kinh trong túi xách như thế mà phải ôm vào ngực. Viên cảnh sát vừa nói vừa làm động tác như hướng dẫn chúng tôi.
Lahore chỉ là nơi chúng tôi nhập cảnh và chúng tôi sẽ trở lại sân bay này vào sáng mai để bay đi Islamabad, thủ đô Pakistan. Vì không có khách sạn ở sân bay, chúng tôi phải vào thành phố nghỉ qua đêm. Khi chúng tôi ra khỏi phòng khám xét và làm thủ tục thì sân bay Lahore như chẳng còn hành khách nào nữa. Chỉ còn lại hai ba chiếc taxi tróc sơn nham nhở như cố gắng đợi những hành khách cuối cùng là chúng tôi. Những người lái taxi quây lấy chúng tôi và hỏi chúng tôi bằng một thứ tiếng Anh rất khó nghe. Cuối cùng, một chiếc taxi với hai tài xế đưa chúng tôi rời sân bay. Đó là một chiếc taxi bẩn thỉu, ọp ẹp và nồng nặc mùi thuốc lá. Họ nói sẽ đưa chúng tôi đến một khách sạn gần đó. Họ dựng ngón tay cái lên làm hiệu cho chúng tôi hiểu rằng đó là một khách sạn tuyệt vời. Chúng tôi chỉ còn biết đi theo họ. Chúng tôi không biết gì về thành phố này. Bởi thế, chúng tôi không có một lựa chọn nào khác.
Lahore tối tăm vì quá ít đèn đường. Chiếc xe chạy loanh quanh qua nhiều khu phố vắng lặng rồi cuối cùng đưa chúng tôi vào một ngõ sâu và dừng lại trước một ngôi nhà hai tầng xấu xí và cũ kĩ. Đó chính là một khách sạn ghi rõ bên ngoài: Khách sạn quốc tế ba sao. Những người lái xe và một nhân viên khách sạn bàn tán gì đó rất lâu. Tôi tranh thủ đi loanh quanh trước cửa khách sạn để quan sát nơi vừa đến. Biết rằng chúng tôi sẽ có một đêm khó khăn trong cái khách sạn ba sao kì dị kia nhưng tôi thấy vô cùng có cảm hứng. Với tôi, một đêm ngủ ở khách sạn năm sao ở Brisbane, Australia, năm 1992 làm cho tôi luôn mang cảm giác quần áo mình rất bẩn và cái khách sạn ba sao ở Lahore mang cảm giác cái gì ở khách sạn này cũng làm cho tôi dính bẩn đều kích thích tính tò mò của tôi như nhau. Trong những chuyến đi như thế này, sự khám phá những điều mới mẻ, khác lạ là hứng thú chủ đạo trong tôi.
Sau khi bàn bạc khá lâu với nhau, người lái xe taxi nói chúng tôi sẽ ở chung một phòng và giá mỗi chúng tôi phải trả là 70 USD. Nếu lúc đó, họ bắt chúng tôi phải trả 200 USD mỗi người thì chúng tôi cũng phải trả. Vì chúng tôi biết đi đâu trong cái thành phố xa lạ, vắng vẻ, khuya khoắt và không một người quen này. Trước khi bỏ chúng tôi lại với cái khách sạn ba sao kì dị này, người lái taxi hỏi chúng tôi có muốn họ đón chúng tôi ra sân bay vào năm giờ sáng mai không. Đương nhiên chúng tôi phải gật đầu đồng ý. Thực sự, cho đến lúc đó, người mà chúng tôi cần bám chặt ở cái chốn xa lạ này lại chính là người lái xe taxi. Ông ta bỗng trở thành người thân của chúng tôi. Tôi lấy thuốc lá mời ông. Ông bắt tay tôi rất chặt và dặn chúng tôi không được đi ra khỏi khách sạn trong đêm. Ông ta đưa tay lên làm động tác xoẹt ngang cổ họng và lè lưỡi ngoẹo đầu sang một bên. Tôi không nghĩ có chuyện gì xấu xảy ra. Nhưng động tác của người lái taxi đã đẩy không khí u uẩn và bí hiểm của cái khách sạn bã sao ấy vào sâu hơn bóng tối của đêm đang phủ quanh nó.

Khi nhận phòng, tôi thực sự choáng váng. Một căn phòng tồi tệ mà tôi chưa gặp ở bất cứ loại khách sạn nào. Những chiếc gối màu tối, ga giường nhợt nhạt, tường loang lổ vết ố, cửa kính bị vỡ, một chiếc quạt trần loạng choạng quay, bồn rửa mặt cũ kĩ và xám... Nhưng chúng tôi vẫn phải chuẩn bị cho giấc ngủ sau chặng bay không dài nhưng nhiều ám ảnh. Lúc đó, chúng tôi mới sực nhớ đồ dùng cá nhân như khăn tắm, bàn chải và thuốc đánh răng đã để tất cả trong vali gửi ở sân bay quá cảnh. Chúng tôi hỏi nhân viên khách sạn nếu họ có thể mua giúp chúng tôi bàn chải và thuốc đánh răng không. Chúng tôi rất cần những thứ đó vì sau chặng bay, miệng chúng tôi cảm giác như khó thở. Người nhân viên khách sạn gật đầu và bỏ đi. Nửa tiếng sau ông mang về cho chúng tôi hai chiếc bàn chải và một hộp kem. Hai chiếc bàn chải không bao bì và hình như đã được dùng. Nhưng dù mang cảm giác ghê ghê thì chúng tôi vẫn phải sử dụng. Trước khi đánh răng, chúng tôi phải đánh sạch chiếc bàn chải bằng một cục xà phòng trong toilet nhỏ như một chiếc kẹo ngậm.
Chúng tôi không ngủ được dù rất mệt. Nhà báo Như Phong quyết định tắt quạt trần vì ông cảm thấy nếu nó chỉ quay thêm một chút nữa thì mỗi cánh sẽ văng ra một nơi. Bởi thế căn phòng càng thêm ngột ngạt và bầy muỗi tràn vào. Tôi ngồi thu lu ở góc giường hút thuốc và quan sát một góc khách sạn qua cửa sổ. Đêm ở Lahore vắng lặng lạ thường. Lúc đó chúng tôi lại thấy cần tiếng gầm rú như điên như khùng của các loại xe máy ở Hà Nội. Và thỉnh thoảng, một cái đầu tóc rối bù và giương mặt đầy râu của nhân viên bảo vệ khách sạn lại thò vào nhìn chúng tôi. Tôi hỏi anh ta có việc gì không. Anh ta nói với tôi một tràng tiếng mẹ đẻ của anh. Nhưng tôi không hiểu được gì. Nhà báo Như Phong để cả quần áo mặc từ Hà Nội mà nằm và ôm khư khư chiếc máy ảnh mà báo An Ninh Thế Giới mua cho chuyến đi của chúng tôi với giá ngày đó đã là 2.500 USD và chiếc vi tính xách tay. Nếu một trong hai thứ này mà bị mất thì chuyến đi của chúng tôi chẳng còn tác dụng gì nữa.
Một đêm mất ngủ đầy ấn tượng. Năm giờ sáng, chiếc taxi chở chúng tôi từ sân bay về khách sạn đã đến và đưa chúng tôi trở lại sân bay Lahore. Trên đường ra sân bay, người lái taxi hỏi tôi có phải là Hồi giáo không. Tôi trả lời tôi là một người Hồi giáo Việt Nam. Nhà báo Như Phong bèn lấy cuốn Kinh Koran đưa cho hai người lái taxi xem. Một người cầm lấy và cúi xuống hôn. Khi chia tay họ, dù đã bị bắt chẹt giá trong cả hai lượt đi, chúng tôi vẫn lấy một tờ 5 USD cho họ. Họ ôm lấy chúng tôi và nói: “Cẩn thận nhé, người anh em. Thánh Allah phù hộ cho người anh em.”
Trong khu vực làm thủ tục, chúng tôi lại bị khám xét vô cùng kỹ lưỡng. Và nhà báo Như Phong lại mang cuốn Kinh Koran ra. Ngay lập tức, cái người với bộ mặt lạnh, bí ẩn và đầy vũ khí quanh người lại cúi xuống hôn cuốn kinh. Rồi lại nở nụ cười và xin thánh Allah phù hộ cho chúng tôi.
PHẦN BA:
Hai lần giáp gặp Taliban
Lần thứ nhất
Ngay sau khi đến Islamabad, chúng tôi đã tìm đến Sứ quán Taliban ở Pakistan. Thủ đô Pakistan khá rộng và nhiều cây. Buổi sáng ở đây quạ kêu inh ỏi. Nếu ở Việt Nam thấy quạ bay đầy trời và kêu thảm thiết như thế thì tôi ắt nghĩ đến một điều gì đó chẳng lành. Trước khi đến Sứ quán Taliban, chúng tôi lướt qua Sứ quán Mỹ. Người Mỹ đã cho đặt một hàng rào trạm gác cách tòa nhà sứ quán của họ chừng 500m. Người phiên dịch của chúng tôi trổ hết tài láu lỉnh và khôn ngoan của một ông già 63 tuổi đã đi và sống gần 50 nước trên thế giới để xe chúng tôi lướt qua. Nhưng cảnh sát đã lạnh lùng đuổi chúng tôi đi. Quá nhiều sứ quán của các nước đã đóng cửa ngay sau ngày 11/9.
Sứ quán Taliban nằm ở một đường phố nhỏ. Đúng ra phải gọi là Sứ quán Afghanistan, nhưng các phóng viên nước ngoài ở đây quen gọi là Sứ quán Taliban. Trước cổng Sứ quán Taliban chỉ có một cảnh sát đứng gác. Nhưng ngay cạnh đó có một bộ bàn ghế giống bộ bàn ghế của một quán nước chè tại Việt Nam. Ở đó là những nhân viên an ninh của sứ quán đang ngồi nói chuyện với mấy phóng viên người nước ngoài. Bên cạnh cổng sứ quán có một túp lều bạt, bên trong tối om. Tôi hỏi viên cảnh sát gác cổng mới biết đó là nơi nghỉ của các nhân viên cảnh sát bảo vệ sứ quán. Tôi thò đầu vào túp lều bạt và thấy hai nhân viên cảnh sát đang trùm chăn nằm ngủ bên cạnh những đồ đạc bừa bộn và bẩn thỉu. Tôi định chụp ảnh nhưng bị viên cảnh sát giữ lại.
Ở cổng sứ quán không hiểu tại sao lại không có biển. Bên trong vắng vẻ. Đó là một ngôi nhà của một người nghèo chứ không phải sứ quán của một đất nước. Một đất nước nghèo nhưng lại có quá nhiều quan chức gửi tiền vào các nhà băng ở châu Âu. Tờ Dawn của Pakistan đã đăng một danh sách dài các quan chức Afghanistan có tiền gửi nhà băng nước ngoài và quyết định của Hội đồng Ngân hàng Thế giới niêm phong vô thời hạn số tiền nói trên. Theo dư luận thì số tiền này có thể là tiền tham nhũng của các quan chức. Một dư luận khác cho số tiền này đứng tên các quan chức nhưng chính là quỹ hoạt động của các tổ chức của Bin Laden ở nước ngoài.
Khác với Sứ quán Mỹ được bảo vệ chặt chẽ, Sứ quán Taliban trống trải. Một thực tế cho thấy rằng, Sứ quán Taliban được bảo vệ bởi hàng triệu người Hồi giáo ở Pakistan. Tôi nhìn vào bên trong và có cảm tưởng không có ai trong đó. Sứ quán hé mở, một nhân viên sứ quán râu dài và rậm im lặng nhìn chúng tôi. Người ta cho rằng Sứ quán Taliban lúc này như một hòn đảo hoang vắng giữa đại dương. Các nhân viên sứ quán không thể nào liên lạc được với nhà cầm quyền Taliban ở trong nước. Một lúc sau, nhân viên sứ quán đóng cánh cửa sổ ở tầng hai. Và mọi điều trong ngôi nhà đó cũng khép lại. Sau khi Mỹ tấn công bốn thành phố của Afghanistan, chúng tôi lao đến Sứ quán Taliban. Chỉ có vài ba ngọn đèn bảo vệ lờ mờ sáng. Tất cả im lặng. Chỉ duy nhất có một ô cửa sổ sáng đèn.
Lần thứ hai
Sau vài ngày im lặng kể từ khi Mỹ tấn công Afghanistan, Đại sứ quán Taliban quyết định mở cửa sứ quán để tiếp các nhà báo quốc tế. Thông báo này như một luồng gió mạnh thổi qua các khách sạn có phóng viên nước ngoài ở. Khoảng 1 giờ chiều ngày 9 tháng Mười, một đội quân phóng viên báo chí rầm rộ lao đến Sứ quán Taliban. Cả khu vườn trước tòa nhà sứ quán đông nghịt phóng viên. Hơn một chục cảnh sát súng lăm lăm và các nhân viên an ninh của sứ quán đi lặng lờ quanh các phóng viên. Tôi nhanh chóng đặt ghi âm trên bàn, nơi Đại sứ Taliban sẽ ngồi để tiếp các nhà báo. Tất cả các nhà báo im lặng chờ đợi. Máy ghi âm chồng chất lên nhau như một đống gạch vỡ. Có những phóng viên nước ngoài mở điện thoại di động để trên bàn, treo cạnh loa phát thanh để phát trực tiếp toàn bộ cuộc họp báo của Đại sứ Taliban về nước.
2 giờ chiều, Đại sứ Taliban từ trong nhà bước ra. Đi bên cạnh có một trợ lý. Đại sứ Taliban ngồi xuống ghế và cất tiếng chào các nhà báo. Và ngay sau đó ông ta đọc một bài diễn văn tố cáo Mỹ. Ông ta là một người đàn ông có giọng nói giống giọng một phụ nữ, và mang một gương mặt không hề có biểu cảm gì. Người ta thật khó xác định được tình cảm của ông ta.
Tôi xin trích dịch bài phát biểu của ông:
“Thưa các nhà báo!
Nước Mỹ mới chính là một đất nước của khủng bố. Cách đây mấy ngày, nước Mỹ đã tấn công Tổ quốc chúng tôi. Afghanistan là một đất nước nghèo và đã phải chịu đau thương bởi chiến tranh trong hai thập kỷ qua. Mỹ tấn công đất nước chúng tôi bởi đất nước chúng tôi là một đất nước Hồi giáo. Mỹ muốn nghiền nát những người Hồi giáo và hệ thống Hồi giáo. Mỹ, một siêu cường, một đất nước có nguồn kỹ thuật lớn, đã tấn công một dân tộc nghèo như Afghanistan. Mục đích thực của cuộc tấn công này không phải để nghiền nát chủ nghĩa khủng bố mà để thâu tóm Afghanistan và rồi đến biến Afghanistan thành một đất nước bù nhìn của họ. Mỹ khát vọng giành lấy vị trí của họ ở Trung Á để kiểm soát nguồn dầu ở đây và để khống chế Trung Quốc.
Chúng tôi, những người Afghanistan, là những chiến sĩ với truyền thống và nguồn cội của mình, chúng tôi có thể chống lại Mỹ và đồng minh của họ cho đến cùng. Để bảo vệ Tổ quốc mình, chúng tôi không hề sợ hãi. Chúng tôi đã hy sinh hàng triệu người trong hai thập kỷ vừa qua. Và bây giờ chúng tôi vẫn mang lòng dũng cảm để chiến đấu đến người lính cuối cùng.
Osama bin Laden không chỉ có một mình mà ông ta có cả một mạng lưới ở nhiều nước. Vì vậy, giết Osama, Mỹ cũng không thể nào thực hiện được mục đích của họ. Bởi vì những tổ chức của ông ta sẽ tấn công nước Mỹ và sẽ không bao giờ để cho nước Mỹ sống yên ổn.
Pakistan bây giờ đã đứng về phía Mỹ, chúng tôi không thể nói tất cả. Mỗi nước hãy quyết định những chính sách của mình. Cuộc chiến tranh này sẽ kéo dài và chúng tôi tin tưởng rằng, những người Hồi giáo trên thế giới sẽ cùng chúng tôi chống lại Mỹ và Anh. Chúng tôi tin vào Đấng tối cao và tin vào lòng dũng cảm của chúng tôi. Bởi thế, trước những cuộc tấn công của Mỹ, chúng tôi không quá sợ hãi.”
Trong khi Đại sứ Taliban đọc thông điệp của mình, có một phóng viên nữ vừa nghe điện thoại di động vừa đi lối vườn vào phía sau của tòa nhà sứ quán. Một nhân viên an ninh sứ quán đã theo dõi nữ phóng viên này. Khi cô vừa chớm đến sân sau Tòa đại sứ thì một nhân viên an ninh từ sau ngôi nhà bước ra đứng im lặng trước mặt rồi cất tiếng: “Đứng lại!” Nữ phóng viên giật mình và quay ra.
Sau khi kết thúc bản thông điệp, Đại sứ Taliban trả lời phỏng vấn. Có một câu hỏi được đặt ra nhiều lần trên báo chí của các nước khu vực và nay được các nhà báo hỏi lại. Câu hỏi đó là: “Sứ quán có còn liên lạc được với Taliban không? Nếu được thì bằng cách nào?” Đại sứ Taliban trả lời là vẫn liên lạc được với Taliban, nhưng bằng cách nào thì ông ta không nói. Hiển nhiên là ông ta không liên lạc bằng điện thoại với Taliban. Nếu ông ta liên lạc với Taliban bằng điện thoại thì Mỹ sẽ phát hiện ra ngay sau đó nửa phút. Tất cả mọi người đều biết rằng: mọi đường điện thoại hay bất kỳ phương tiện thông tin nào bằng điện tử từ Sứ quan Taliban ra ngoài và từ ngoài vào đều bị Mỹ kiểm soát 24/24. Vì trong lúc này, những phương tiện hiện đại nhất để phát hiện nơi phát sóng của Taliban hay bin Laden đều được Mỹ sử dụng.
Người ta cho rằng, đường dây liên lạc giữa Sứ quán Taliban ở Pakistan và Taliban là con người. Vậy những người đó là ai? Đó là người của Taliban đi từ Afghanistan đến Islamabad chỉ mất ba tiếng chạy xe. Và từ Kabul đến biên giới mất chừng bảy tiếng. Vậy chỉ mất nửa ngày là người của Taliban có thể gặp được đại sứ của họ. Hơn nữa, việc qua lại biên giới đối với họ thật dễ dàng. Một nguồn tin đáng tin cậy của các nhà báo cho biết, chính những người của Cơ quan Tình báo Pakistan là đường liên lạc của Taliban với sứ quán của họ. Điều này thật dễ hiểu và đầy tin cậy, bởi các nhân viên tình báo của Pakistan là những người Hồi giáo. Mà sự gắn kết của những người Hồi giáo là sự gắn kết ghê gớm nhất mà chúng ta được biết.
Trả lời khoảng mươi câu hỏi xong, Đại sứ Taliban nói, “Đây là câu hỏi cuối cùng” và ông ta kết thúc cuộc gặp các nhà báo ngoại quốc không thêm một lời nào. Ông ta đứng dậy và đi vào trong. Người trợ lý đứng dậy và đi theo. Đây là người luôn luôn bên cạnh ông ta để nhắc ông ta những câu hỏi tiếng Anh mà ông ta chưa hiểu kỹ. Tại Sứ quán Taliban, tôi cũng nhận ra một người của Sứ quán Taliban mà tôi đã gặp ở Trường đào tạo các Chiến sĩ thánh chiến của Taliban ở gần biên giới Afghanistan. Chỉ một thoáng, các nhà báo nước ngoài đã đi hết. Sứ quán Taliban trở lại hoang vắng. Tất cả các cửa của tòa nhà đã khép lại. Và ngôi nhà lại giấu bên trong nó những bí ẩn không ai lường trước được, giống như cuộc tấn công vào nước Mỹ ngày 11/9. Nhưng đó có phải là những bí mật của Kinh Koran không? Tất nhiên là không phải.
PHẦN BA:
Hai lần giáp gặp Taliban
Lần thứ nhất
Ngay sau khi đến Islamabad, chúng tôi đã tìm đến Sứ quán Taliban ở Pakistan. Thủ đô Pakistan khá rộng và nhiều cây. Buổi sáng ở đây quạ kêu inh ỏi. Nếu ở Việt Nam thấy quạ bay đầy trời và kêu thảm thiết như thế thì tôi ắt nghĩ đến một điều gì đó chẳng lành. Trước khi đến Sứ quán Taliban, chúng tôi lướt qua Sứ quán Mỹ. Người Mỹ đã cho đặt một hàng rào trạm gác cách tòa nhà sứ quán của họ chừng 500m. Người phiên dịch của chúng tôi trổ hết tài láu lỉnh và khôn ngoan của một ông già 63 tuổi đã đi và sống gần 50 nước trên thế giới để xe chúng tôi lướt qua. Nhưng cảnh sát đã lạnh lùng đuổi chúng tôi đi. Quá nhiều sứ quán của các nước đã đóng cửa ngay sau ngày 11/9.
Sứ quán Taliban nằm ở một đường phố nhỏ. Đúng ra phải gọi là Sứ quán Afghanistan, nhưng các phóng viên nước ngoài ở đây quen gọi là Sứ quán Taliban. Trước cổng Sứ quán Taliban chỉ có một cảnh sát đứng gác. Nhưng ngay cạnh đó có một bộ bàn ghế giống bộ bàn ghế của một quán nước chè tại Việt Nam. Ở đó là những nhân viên an ninh của sứ quán đang ngồi nói chuyện với mấy phóng viên người nước ngoài. Bên cạnh cổng sứ quán có một túp lều bạt, bên trong tối om. Tôi hỏi viên cảnh sát gác cổng mới biết đó là nơi nghỉ của các nhân viên cảnh sát bảo vệ sứ quán. Tôi thò đầu vào túp lều bạt và thấy hai nhân viên cảnh sát đang trùm chăn nằm ngủ bên cạnh những đồ đạc bừa bộn và bẩn thỉu. Tôi định chụp ảnh nhưng bị viên cảnh sát giữ lại.
Ở cổng sứ quán không hiểu tại sao lại không có biển. Bên trong vắng vẻ. Đó là một ngôi nhà của một người nghèo chứ không phải sứ quán của một đất nước. Một đất nước nghèo nhưng lại có quá nhiều quan chức gửi tiền vào các nhà băng ở châu Âu. Tờ Dawn của Pakistan đã đăng một danh sách dài các quan chức Afghanistan có tiền gửi nhà băng nước ngoài và quyết định của Hội đồng Ngân hàng Thế giới niêm phong vô thời hạn số tiền nói trên. Theo dư luận thì số tiền này có thể là tiền tham nhũng của các quan chức. Một dư luận khác cho số tiền này đứng tên các quan chức nhưng chính là quỹ hoạt động của các tổ chức của Bin Laden ở nước ngoài.
Khác với Sứ quán Mỹ được bảo vệ chặt chẽ, Sứ quán Taliban trống trải. Một thực tế cho thấy rằng, Sứ quán Taliban được bảo vệ bởi hàng triệu người Hồi giáo ở Pakistan. Tôi nhìn vào bên trong và có cảm tưởng không có ai trong đó. Sứ quán hé mở, một nhân viên sứ quán râu dài và rậm im lặng nhìn chúng tôi. Người ta cho rằng Sứ quán Taliban lúc này như một hòn đảo hoang vắng giữa đại dương. Các nhân viên sứ quán không thể nào liên lạc được với nhà cầm quyền Taliban ở trong nước. Một lúc sau, nhân viên sứ quán đóng cánh cửa sổ ở tầng hai. Và mọi điều trong ngôi nhà đó cũng khép lại. Sau khi Mỹ tấn công bốn thành phố của Afghanistan, chúng tôi lao đến Sứ quán Taliban. Chỉ có vài ba ngọn đèn bảo vệ lờ mờ sáng. Tất cả im lặng. Chỉ duy nhất có một ô cửa sổ sáng đèn.
Lần thứ hai
Sau vài ngày im lặng kể từ khi Mỹ tấn công Afghanistan, Đại sứ quán Taliban quyết định mở cửa sứ quán để tiếp các nhà báo quốc tế. Thông báo này như một luồng gió mạnh thổi qua các khách sạn có phóng viên nước ngoài ở. Khoảng 1 giờ chiều ngày 9 tháng Mười, một đội quân phóng viên báo chí rầm rộ lao đến Sứ quán Taliban. Cả khu vườn trước tòa nhà sứ quán đông nghịt phóng viên. Hơn một chục cảnh sát súng lăm lăm và các nhân viên an ninh của sứ quán đi lặng lờ quanh các phóng viên. Tôi nhanh chóng đặt ghi âm trên bàn, nơi Đại sứ Taliban sẽ ngồi để tiếp các nhà báo. Tất cả các nhà báo im lặng chờ đợi. Máy ghi âm chồng chất lên nhau như một đống gạch vỡ. Có những phóng viên nước ngoài mở điện thoại di động để trên bàn, treo cạnh loa phát thanh để phát trực tiếp toàn bộ cuộc họp báo của Đại sứ Taliban về nước.
2 giờ chiều, Đại sứ Taliban từ trong nhà bước ra. Đi bên cạnh có một trợ lý. Đại sứ Taliban ngồi xuống ghế và cất tiếng chào các nhà báo. Và ngay sau đó ông ta đọc một bài diễn văn tố cáo Mỹ. Ông ta là một người đàn ông có giọng nói giống giọng một phụ nữ, và mang một gương mặt không hề có biểu cảm gì. Người ta thật khó xác định được tình cảm của ông ta.
Tôi xin trích dịch bài phát biểu của ông:
“Thưa các nhà báo!
Nước Mỹ mới chính là một đất nước của khủng bố. Cách đây mấy ngày, nước Mỹ đã tấn công Tổ quốc chúng tôi. Afghanistan là một đất nước nghèo và đã phải chịu đau thương bởi chiến tranh trong hai thập kỷ qua. Mỹ tấn công đất nước chúng tôi bởi đất nước chúng tôi là một đất nước Hồi giáo. Mỹ muốn nghiền nát những người Hồi giáo và hệ thống Hồi giáo. Mỹ, một siêu cường, một đất nước có nguồn kỹ thuật lớn, đã tấn công một dân tộc nghèo như Afghanistan. Mục đích thực của cuộc tấn công này không phải để nghiền nát chủ nghĩa khủng bố mà để thâu tóm Afghanistan và rồi đến biến Afghanistan thành một đất nước bù nhìn của họ. Mỹ khát vọng giành lấy vị trí của họ ở Trung Á để kiểm soát nguồn dầu ở đây và để khống chế Trung Quốc.
Chúng tôi, những người Afghanistan, là những chiến sĩ với truyền thống và nguồn cội của mình, chúng tôi có thể chống lại Mỹ và đồng minh của họ cho đến cùng. Để bảo vệ Tổ quốc mình, chúng tôi không hề sợ hãi. Chúng tôi đã hy sinh hàng triệu người trong hai thập kỷ vừa qua. Và bây giờ chúng tôi vẫn mang lòng dũng cảm để chiến đấu đến người lính cuối cùng.
Osama bin Laden không chỉ có một mình mà ông ta có cả một mạng lưới ở nhiều nước. Vì vậy, giết Osama, Mỹ cũng không thể nào thực hiện được mục đích của họ. Bởi vì những tổ chức của ông ta sẽ tấn công nước Mỹ và sẽ không bao giờ để cho nước Mỹ sống yên ổn.
Pakistan bây giờ đã đứng về phía Mỹ, chúng tôi không thể nói tất cả. Mỗi nước hãy quyết định những chính sách của mình. Cuộc chiến tranh này sẽ kéo dài và chúng tôi tin tưởng rằng, những người Hồi giáo trên thế giới sẽ cùng chúng tôi chống lại Mỹ và Anh. Chúng tôi tin vào Đấng tối cao và tin vào lòng dũng cảm của chúng tôi. Bởi thế, trước những cuộc tấn công của Mỹ, chúng tôi không quá sợ hãi.”
Trong khi Đại sứ Taliban đọc thông điệp của mình, có một phóng viên nữ vừa nghe điện thoại di động vừa đi lối vườn vào phía sau của tòa nhà sứ quán. Một nhân viên an ninh sứ quán đã theo dõi nữ phóng viên này. Khi cô vừa chớm đến sân sau Tòa đại sứ thì một nhân viên an ninh từ sau ngôi nhà bước ra đứng im lặng trước mặt rồi cất tiếng: “Đứng lại!” Nữ phóng viên giật mình và quay ra.
Sau khi kết thúc bản thông điệp, Đại sứ Taliban trả lời phỏng vấn. Có một câu hỏi được đặt ra nhiều lần trên báo chí của các nước khu vực và nay được các nhà báo hỏi lại. Câu hỏi đó là: “Sứ quán có còn liên lạc được với Taliban không? Nếu được thì bằng cách nào?” Đại sứ Taliban trả lời là vẫn liên lạc được với Taliban, nhưng bằng cách nào thì ông ta không nói. Hiển nhiên là ông ta không liên lạc bằng điện thoại với Taliban. Nếu ông ta liên lạc với Taliban bằng điện thoại thì Mỹ sẽ phát hiện ra ngay sau đó nửa phút. Tất cả mọi người đều biết rằng: mọi đường điện thoại hay bất kỳ phương tiện thông tin nào bằng điện tử từ Sứ quan Taliban ra ngoài và từ ngoài vào đều bị Mỹ kiểm soát 24/24. Vì trong lúc này, những phương tiện hiện đại nhất để phát hiện nơi phát sóng của Taliban hay bin Laden đều được Mỹ sử dụng.
Người ta cho rằng, đường dây liên lạc giữa Sứ quán Taliban ở Pakistan và Taliban là con người. Vậy những người đó là ai? Đó là người của Taliban đi từ Afghanistan đến Islamabad chỉ mất ba tiếng chạy xe. Và từ Kabul đến biên giới mất chừng bảy tiếng. Vậy chỉ mất nửa ngày là người của Taliban có thể gặp được đại sứ của họ. Hơn nữa, việc qua lại biên giới đối với họ thật dễ dàng. Một nguồn tin đáng tin cậy của các nhà báo cho biết, chính những người của Cơ quan Tình báo Pakistan là đường liên lạc của Taliban với sứ quán của họ. Điều này thật dễ hiểu và đầy tin cậy, bởi các nhân viên tình báo của Pakistan là những người Hồi giáo. Mà sự gắn kết của những người Hồi giáo là sự gắn kết ghê gớm nhất mà chúng ta được biết.
Trả lời khoảng mươi câu hỏi xong, Đại sứ Taliban nói, “Đây là câu hỏi cuối cùng” và ông ta kết thúc cuộc gặp các nhà báo ngoại quốc không thêm một lời nào. Ông ta đứng dậy và đi vào trong. Người trợ lý đứng dậy và đi theo. Đây là người luôn luôn bên cạnh ông ta để nhắc ông ta những câu hỏi tiếng Anh mà ông ta chưa hiểu kỹ. Tại Sứ quán Taliban, tôi cũng nhận ra một người của Sứ quán Taliban mà tôi đã gặp ở Trường đào tạo các Chiến sĩ thánh chiến của Taliban ở gần biên giới Afghanistan. Chỉ một thoáng, các nhà báo nước ngoài đã đi hết. Sứ quán Taliban trở lại hoang vắng. Tất cả các cửa của tòa nhà đã khép lại. Và ngôi nhà lại giấu bên trong nó những bí ẩn không ai lường trước được, giống như cuộc tấn công vào nước Mỹ ngày 11/9. Nhưng đó có phải là những bí mật của Kinh Koran không? Tất nhiên là không phải.
PHẦN BỐN:
Thánh chiến và bin Laden
Khi chúng tôi vừa rời sân bay thủ đô Islamabad về khách sạn thì phía ngoài sân bay bị đánh bom. Lúc chúng tôi quay lại nơi bị đánh bom thì chỉ còn nhìn thấy vài ba chiếc xe bị xé nát, cháy đen và đầy rẫy nhân viên cảnh sát và quân đội. Những nạn nhân của vụ đánh bom đó đã được đưa đi. Máu vẫn còn đọng trên nền xi măng. Lúc đó, tôi cảm thấy mùi của một cuộc chiến tranh đã bắt đầu khét lẹt như mùi dây cháy chậm của một quả mìn.
Đêm đầu tiên ở trong một khách sạn nhỏ ở Islamabad, chúng tôi bồn chồn khó ngủ. Hầu hết các kênh truyền hình của Pakistan đều nói về cuộc chiến sắp xảy ra. Mới đây, bin Laden đã gửi một thông điệp nói rằng: “Có hai phe trên thế giới này. Đó là phe của Thiên Chúa giáo và phe của Hồi giáo. Phe của Thiên Chúa giáo bao gồm một số tôn giáo khác đứng đầu là Mỹ, Anh và Israel. Phe thứ hai là thế giới Hồi giáo. Chúng ta phải đuổi người Mỹ ra khỏi thế giới Hồi giáo của chúng ta và không cho phép họ được cai trị chúng ta. Chúng ta tin tưởng rằng, cuộc chiến đấu của chúng ta chính là một nghĩa vụ tôn giáo để giữ mãi hành động của chúng ta với tất cả sức mạnh mà chúng ta có, để trừng phạt những kẻ chống lại chúng ta bằng những cách như chúng ta đã làm.”
Một thực tế cho thấy rằng quá đông những người Hồi giáo ở Pakistan, nơi mà quân đội Mỹ sẽ tập trung ở đó để tấn công Taliban và bin Laden, lại đứng về phía Afghanistan. Những chuyên gia phân tích tình hình của Mỹ và Pakistan lại nhận định: vũ khí hạt nhân của Pakistan đã lọt vào tay những người giấu mặt. Pakistan là một đất nước còn nghèo nhưng đã có tới 7 điểm nghiên cứu và sản xuất năng lượng hạt nhân ở Kahuta, Islamabad, Lahore, Chagai Hills, Rawalpindi, Khushab và Multan.
Và Afghanistan và Pakistan sẽ trở thành bãi thử vũ khí hạt nhân lớn nhất trên thế giới từ trước tới nay. Hơn nữa, kẻ thù của Mỹ là những người Hồi giáo có mặt ở mọi nơi trên thế giới mà nguy cơ lớn nhất là họ ở ngay trong lòng nước Mỹ. Họ là những người “tử vì đạo”. Ngay ở Pakistan, chính phủ không thể kiểm soát nổi những người Hồi giáo ủng hộ Taliban và bin Laden. Những người Hồi giáo đang chuẩn bị để thực hiện những điều răn trong Kinh Koran. Nguy cơ một cuộc chiến tranh toàn cầu đang đến gần. Phải chăng người ta chỉ còn đợi vào cuộc đàm phán cuối cùng giữa Thiên chúa Giêsu và Thánh Allah mà thôi.
Cả thủ đô Islamabad của Pakistan ngập tràn những cuộc biểu tình. Mỗi cuộc biểu tình có hàng ngàn người Hồi giáo. Họ giương cao chân dung trùm khủng bố bin Laden và những khẩu hiệu kêu gọi Thánh chiến. Cả đất nước Pakistan sôi sục cơn khát chiến tranh. Boongke cát của quân đội dựng khắp nơi trong thành phố. Những người lính Pakistan với súng đứng im lìm, vô cảm. Thực sự tôi không biết họ thuộc về ai lúc đó? Họ ủng hộ những người Hồi giáo chống lại Mỹ hay họ ủng hộ Mỹ chống lại những người Hồi giáo của họ? Tại những nơi có biểu tình, cảnh sát Pakistan trang bị vũ khí đầy đủ: súng, dùi cui điện, lựu đạn cay... nhưng lại vui vẻ tiếp nước cho những người biểu tình. Thỉnh thoảng trên đường phố thủ đô có những chiếc xe tải bịt kín đầy bí ẩn chạy ra khỏi thành phố về phía biên giới. Một nhà báo Pakistan nói với tôi đó có thể là những chiếc xe chuyển vũ khí cho những người Hồi giáo Afghanistan. Trong khi đó, rất nhiều những chiếc xe khách chở đầy người Hồi giáo từ biên giới về. Đó là những người Hồi giáo Afghanistan sơ tán để tránh cuộc chiến tranh sắp xảy ra. Cửa khẩu biên giới Pakistan - Afghanistan mở cửa tự do. Đã từ lâu, công dân của hai nước này tự do qua lại biên giới như người ta từ làng này đến làng khác.
Chúng tôi lướt xe qua các nhà thờ Hồi giáo trong thành phố. Và ở hầu hết các nhà thờ, những người bảo vệ nhà thờ mặc áo thụng với một đôi mắt giá lạnh và đầy cảnh giác với khách nước ngoài. Tôi nghe nói sau lớp áo thụng đó là súng. Hàng trăm đến hàng ngàn người đang quỳ sụp cầu nguyện trong và ngoài nhà thờ. Các giáo chủ đang kêu gọi những người Hồi giáo chuẩn bị cho một cuộc Thánh chiến theo ý nguyện của Thánh Allah. Và một sự thật là: bin Laden là linh hồn của cuộc Thánh chiến. Sự kiện tấn công vào tòa tháp đôi đã làm hả hê thế giới Hồi giáo và họ cho rằng bin Laden là người được Thánh Allah cử đến để trừng phạt người Mỹ. Những người Hồi giáo ghét Mỹ thực sự tin tưởng rằng bin Laden sẽ giúp họ đánh gục nước Mỹ. Trên khắp đất nước Pakistan là hình ảnh bin Laden. Ảnh bin Laden trên các áp phích biểu tình, ảnh bin Laden trên áo phông, ảnh bin Laden trên tường ở các khu thương mại, ở xung quanh các nhà thờ Hồi giáo...
Tôi hỏi một số người Hồi giáo rằng họ có biết bin Laden giờ đang ở đâu. Tất cả những người Hồi giáo được hỏi đều trả lời rằng bin Laden đang đi lại theo một con đường bí mật giữa Afghanistan và Pakistan để chỉ đạo cuộc Thánh chiến. Một giáo chủ của một nhà thờ Hồi giáo mà tôi đã có cuộc tiếp kiến phỏng vấn nói rằng: “Tại sao ông lại không tin rằng bin Laden đang ở trong chính nhà thờ Hồi giáo này và có thể nghe được cuộc trò chuyện của tôi và ông.” Tôi muốn nói thêm là để có được cuộc tiếp xúc và phỏng vấn vị giáo chủ nhà thờ Hồi giáo này, chúng tôi phải chứng minh được mình là người Hồi giáo Việt Nam. Có hai lí do mà vị giáo chủ tin chúng tôi: thứ nhất chúng tôi là người Việt Nam mà vị giáo chủ biết rõ rằng người Việt Nam đã chiến đấu chống lại nước Mỹ, thứ hai là đi đâu chúng tôi cũng mang theo cuốn Kinh Koran bằng tiếng Việt bên mình.
Nhưng gần một năm kể từ sau ngày 11/9, tình báo Mỹ cùng tình báo một số nước đồng minh đã tìm mọi cách săn lùng bin Laden. Nước Mỹ hiểu rằng một khi bin Laden còn thì tinh thần Thánh chiến còn. Nhưng mọi thông tin về bin Laden vẫn mơ hồ như những gì mà người Hồi giáo thêu dệt hoặc tin tưởng.
Ngoài những nguồn tin chính thức của mạng lưới CIA thì CIA lưu ý cả đến những nguồn tin không chính thức thậm chí như một lời đồn thổi như các nguồn tin cho rằng bin Laden đã di chuyển đến vùng núi Tây Tạng. Có nguồn tin cho rằng, bin Laden vẫn ở thành phố trong khi CIA tin rằng bin Laden đã dời thành phố từ lâu. Một nguồn tin trong dân chúng ở Pakistan đậm tính huyền thoại cho rằng, bin Laden đang ở trong một lâu đài sang trọng trong lòng núi. Lâu đài này bin Laden đã xây dựng từ lâu dưới hình thức khai thác mỏ. Vì bin Laden là một người vô cùng giàu có nên cửa vào lâu đài này được xây dựng giống cửa của hang núi trong truyện Alibaba và 40 tên cướp. Không ai có thể phát hiện ra lối vào lâu đài và không loại vũ khí nào kể cả vũ khí sinh học có thể ảnh hưởng đến tính mệnh ông ta. Bin Laden có thể ở trong lâu đài này như một vị chúa tể với thời gian chừng mười năm. Có không ít người Pakistan tin câu chuyện này. Còn thực tế Mỹ đã dùng các máy bay do thám để săn lùng bin Laden và kết hợp các hình thúc tình báo để xác minh sự di chuyển của quân đội Taliban trên mặt đất. Mỹ vẫn chưa có cơ sở nào chắc chắn để xác định nơi cư trú của Bin Laden. Các máy bay do thám của Mỹ bắt mọi tín hiệu của sóng điện phát đi trên mặt đất, kể cả sóng radio, từ đó giải mã và xác định mục tiêu tìm kiếm của mình.
Những ngày chúng tôi ở Pakistan là những ngày nóng bỏng của vùng Trung Á. Nói thật là tôi cứ có cảm giác sau những tấm áo thụng của những người đàn ông hồi giáo kia là vũ khí và tất cả họ là những kẻ sẵn sàng tử vì đạo cho cuộc Thánh chiến ấy. Và một ngày, đi ngược những dòng người sơ tán bằng mọi phương tiện từ phía biên giới về, chúng tôi đi về phía biên giới Pakistan - Afghanistan, nơi chỉ cách thủ đô Kabul không xa lắm. Càng đến gần biên giới, tôi càng cảm nhận được hơi nóng của chiến tranh. Ngay đêm hôm đó, cuộc chiến tranh đã nổ ra mà không có gì có thể ngăn được.
PHẦN NĂM:
Cuộc vượt biên bất thành
Một nữ nhà báo Anh bị quân đội Taliban bắt khi bà đang trên đường đến Kabul. Bà bị giam giữ một thời gian và cuối cùng được thả tự do sau khi chính quyền Taliban tin rằng bà không phải là một “gián điệp” của Mỹ. Cơ hội duy nhất để bà, một phụ nữ da trắng, có thể lẫn vào những người Hồi giáo Afghanistan trên đường từ biên giới giáp Pakistan đến Kabul là cách ăn mặc của người phụ nữ Hồi giáo. Họ mặc quần áo rộng, trùm khăn và che kín mặt chỉ để hở đôi mắt.
Bà đã cải trang thành một phụ nữ Hồi giáo và vượt biên. Bà lẫn vào những người Hồi giáo khác nhưng có một thứ không thể lẫn được. Đó là tiếng mẹ đẻ của bà. Những người Hồi giáo nhận tiền và tổ chức chuyến đi cho bà đã dặn bà rất kĩ là tuyệt đối không được nói cho đến khi có thể. Chuyến đi tưởng chừng trót lọt thì một chuyện không may xảy ra. Khi bà trèo lên lưng lạc đà để rời trạm kiểm soát quân sự trên đất Afghanistan sau khi đã được phép đi qua thì bà bị hất ngã xuống. Bà buột miệng kêu lên bằng tiếng mẹ đẻ - tiếng Anh. Và những người lính Taliban phát hiện ra bà.

Câu chuyện của bà làm tôi nhớ tới một câu chuyện cổ tích tôi nghe từ khi còn nhỏ. Câu chuyện cổ tích nói về một cây cầu bằng cát bắc qua một vực sâu để đến một hồ nước có tên là Hồ nước Trường sinh ở trong lòng núi. Một nguyên tắc duy nhất để đi qua cây cầu cát đó là không được sợ hãi và không được cất tiếng. Nếu người đi qua sợ hãi hay có bất cứ tiếng nói nào phát ra thì cây cầu sụp đổ. Tuy biết được câu chuyện của nữ nhà báo Anh, chúng tôi vẫn quyết định tìm đường đi Kabul. Không có nỗi đe dọa nào đối với chúng tôi. Chúng tôi có một lí do rất tự tin là chúng tôi không phải người da trắng. Hơn nữa, chúng tôi lại là người Việt Nam và mang theo một vật như Thần hộ mệnh: cuốn Kinh Koran. Trong một chuyến đi trước đó của chúng tôi đến biên giới Afghanistan và Ấn Độ, chúng tôi dừng lại bên đường để mua thêm nước uống và chụp ảnh một làng bên đường. Thấy chúng tôi, một số người dân đã bước đến với vẻ tò mò. Sau khi biết chúng tôi là người Việt Nam, một người già nói một tràng tiếng mẹ đẻ của ông. Khi ông nói xong, người phiên dịch của chúng tôi định dịch cho chúng tôi nghe thì tôi xua tay ra hiệu cho ông không cần dịch. Tôi nói với người phiên dịch là tôi hiểu ông già Hồi giáo kia nói gì. Người phiên dịch cười vẻ không tin. Nhưng người phiên dịch vô cùng ngạc nhiên khi tôi nói lại với ông ta nội dung ông già Hồi giáo kia nói với chúng tôi. Người phiên dịch kêu lên với vẻ nghi ngờ: “Có phải ông biết tiếng của chúng tôi không? Sao ông im lặng suốt bao ngày nay và không nói gì với tôi.” Tôi đâu có biết tiếng mẹ đẻ của ông. Nhưng khi ông già Hồi giáo nói tôi đã nghe được hai từ: Việt Nam và America cùng cách diễn đạt của ông. Và tôi biết ông già Hồi giáo nói gì với chúng tôi. Ông nói về cuộc chiến tranh ở Việt Nam và người Việt Nam đã thắng người Mỹ trong cuộc chiến tranh đó. Ông tỏ ra rất khâm phục. Những người Hồi giáo lúc đó không cần biết người Mỹ đúng hay sai nhưng họ không thích người Mỹ. Tôi hiểu đúng những gì ông già Hồi giáo nói vì sự thật là hầu hết những người dân ở mọi quốc gia trên thế giới chỉ biết đến Việt Nam thông qua cuộc chiến tranh với người Mỹ trong thế kỷ 20 mà thôi. Ngoài ra họ không biết gì về Việt Nam cả. Một sự thật mà chúng ta phải thừa nhận là: nhiều năm sau chiến tranh, cái tên Việt Nam bị lu mờ trên bản đồ thế giới.
Chính câu chuyện đó cho chúng tôi lí do tự tin để thực hiện chuyến đi Kabul đầy phiêu lưu nhưng cũng đầy phấn khích. Hãy bước vào đời sống khắc nghiệt và hãy rời xa kiểu nhà báo sa lông xem sao. Nhưng ai sẽ là người đưa đường cho chúng tôi? Chúng tôi bắt đầu kiếm tìm người đưa đường. Người phiên dịch đã tìm cho chúng tôi một hai đầu mối với một giá không đắt lắm. 2.000 USD cho mỗi người. Buổi trưa, chúng tôi cùng hai nhà báo nước ngoài ăn trưa trong một quán ăn nồng nặc mùi thịt cừu ở gần biên giới Pakistan - Afghanistan. Chúng tôi đã nói chuyện với một thanh niên Hồi giáo làm nghề lái xe chở hoa quả ngày ngày vẫn qua lại biên giới này. Cho đến hôm nay, đường biên giới vẫn mở cho những người Hồi giáo chuyên chở hoa quả. Tất cả những người nước ngoài đều không được phép bước một nửa bước chân qua biên giới. Đối với quân đội và lực lượng an ninh Afghanistan thì những người Hồi giáo là “hộ chiếu” có giá trị nhất. Chúng tôi ngỏ ý nhờ anh ta dẫn chúng tôi qua biên giới. Người lái xe nhìn chúng tôi ngạc nhiên. Anh bảo chúng tôi không sợ chết hay sao mà muốn vượt qua biên giới vào đất Afghanistan trong thời điểm đó. Chúng tôi nói với anh, chúng tôi cần vào Afghanistan và nhờ anh đưa chúng tôi đi một con đường an toàn nhất và sẽ trả 2.000 USD cho phi vụ này.
Người thanh niên Hồi giáo nghĩ một lúc lâu rồi nói với chúng tôi rằng chỉ có một con đường duy nhất là nhờ một người nông dân dẫn đi qua núi vào buổi tối. Trong một đêm chúng tôi phải vượt qua núi. Sáng hôm sau, chúng tôi sẽ phải giấu mình trong các đống cây ngô khô. Đợi đêm xuống thì tiến sâu hơn nữa vào lãnh thổ Afghanistan. Sau hai đêm, chúng tôi có thể ẩn náu trong một địa điểm sát thị trấn gần nhất ở đoạn biên giới đó. Từ nơi ẩn náu, chúng tôi có thể quan sát và chụp ảnh. Cuối cùng, anh ta nói thêm rằng, nếu chúng tôi bị quân đội của Taliban phát hiện thì chúng tôi sẽ rất khó có cơ hội trở lại Pakistan nữa. Số tiền để trả cho người dẫn đường đã thỏa thuận xong. Nhưng sự sống và cái chết trong chuyến đi mạo hiểm này không thể thỏa thuận được. Hơn nữa, chúng tôi nghĩ, đi theo cách đó cũng chẳng làm được gì đáng giá. Chẳng qua nó chỉ là một chuyến du lịch chết người mà thôi. Thấy chúng tôi lưỡng lự, người thanh niên Hồi giáo nói với chúng tôi hãy ở lại Pakistan đến khi cuộc Thánh chiến nổ ra thì những người lính Afghanistan sẽ không có thời gian để kiểm tra kĩ lưỡng những người đi qua biên giới. Lúc ấy, chúng tôi ăn mặc như một người Hồi giáo và có thể sẽ dễ dàng cùng anh ta sang đất Afghanistan. Nhưng chúng tôi cảm thấy không tin tưởng lắm vào những người đưa đường đó. Nếu họ bỏ rơi chúng tôi thì chúng tôi sẽ xoay xở ra sao. Chúng tôi có gợi ý người phiên dịch có thể cùng chúng tôi đi Kabul được không? Ông lè lưỡi và hỏi: “Các anh có một cuộc đời khác để trả cho tôi không?” Trong phần sau, tôi sẽ viết về người phiên dịch mang hai quốc tịch Pakistan và Pháp nhưng không theo đạo Hồi này.
Đêm đó, sự kiện không đáng mong chờ đó đã xảy ra. Nước Mỹ chính thức bắt đầu cuộc chiến tranh tàn phá Afghanistan. Và như thế có nghĩa là những người Hồi giáo đã bắt đầu cuộc Thánh chiến chống lại kẻ thù. Chúng tôi trở về Islamabad để tìm kiếm người đưa đường. Cuối cùng với 100 USD thù lao, nhà báo Như Phong đã được một nhà báo Pakistan giới thiệu với một Bố già Hồi giáo người Afghanistan nhưng đã định cư từ lâu ở Pakistan. Người này trạc 60 tuổi và được những người lính Taliban ở các trạm gác biên phòng dọc biên giới Afghanistan và Pakistan gọi là Papa. Chúng tôi không biết tầm cỡ Bố già này như thế nào. Nhưng đó là một người trong nhiều năm chuyên cung cấp xe hơi và một số phương tiện khác cho chính quyền Taliban ở Kabul. Ông ta chơi thân với nhiều quan chức cao cấp trong chính quyền Taliban. Nghe nói, ông ta đã có lần gặp bin Laden ở Kabul nhiều năm trước kia và nói chuyện về xe hơi. Chuyện này cũng có thể tin được. Vì chỉ sau sự kiện 11/9 bi thương, bin Laden mới phải sống trong bí mật với nhiều đồn đại như một bóng ma trong các câu chuyện kinh dị ở châu Âu thế kỷ mười bảy. Và tôi gọi ông là Papa Hồi giáo.
Lần đầu tiên chúng tôi tiếp xúc với Papa Hồi giáo cũng thật li kỳ. Ăn tối xong, người lái xe đưa chúng tôi ra khỏi thành phố. Người môi giới nói Papa Hồi giáo sẽ gặp chúng tôi trong căn nhà ở ngoại ô thủ đô Islamabad. Xe chạy lầm lũi trong đêm. Hình như có một chút căng thẳng từ gương mặt của người phiên dịch luôn luôn mặc comlê và tóc chải gôm. Tôi thì cảm thấy rất thú vị với chuyện này. Nó có một chút gì đó phiêu lưu và bí ẩn. Tôi muốn ngồi trong xe đi trong đêm tối ở một xứ sở xa lạ mà tôi không hề biết trước một điều gì. Số phận đã định sẵn rồi. Có một người đưa đường bí ẩn luôn dắt ta đi. Chúng ta luôn luôn gặp những khúc ngoặt không biết trước trong cuộc đời mình. Và chúng ta không hề biết được sau khúc ngoặt kia điều gì hiện ra.
Tôi chợt nhớ đến một câu chuyện kỳ bí mà người làng tôi vẫn kể. Đó là cái chết của một người đàn ông làng tôi. Một ngày, có một người ăn mày đi qua và vào nhà ông xin nước uống, ông khó chịu và đuổi người ăn mày đi. Người ăn mày bước ra đến cửa ngõ nhà ông và quay lại nói: “Ông sẽ chết vì nước.” Một số người làng ở gần đó nghe được thì cười và bảo rằng cả đời ông ấy chẳng đi ra khỏi làng thì nước nôi ở đâu mà chết. Ông là người làng tôi nhưng làm nghề buôn bán ở thành phố. Hòa bình lập lại, ông bán nhà cửa ở phố Hàng Đào về quê sinh sống. Ông chỉ quanh quẩn ở nhà lau chùi những đồ cổ và chăm mấy cây cảnh chứ chẳng mấy khi ra khỏi làng. Một buổi sáng ông thức dậy rửa mặt. Ông thường dùng một chiếc thau đồng lớn đựng nước. Và khi đang ngồi rửa mặt thì ông ngã sấp mặt vào chậu nước và chết. Từ đó, người làng tôi rất kinh sợ những người ăn mày đi qua làng. Và cứ thấy người ăn mày là họ vội lấy gạo, ngô, khoai hay cơm nguội cho người ăn mày. Có lẽ vì thế mà người ăn mày đến làng tôi lúc nào cũng đông.
Xe dừng lại ở một đoạn đường vắng vẻ. Phía trước thấp thoáng ánh đèn. Người môi giới nói chúng tôi chờ ở xe. Rồi anh ta biến mất vào đêm tối. Tôi không nghĩ việc đi gặp người đưa đường lại diễn ra như thế này. Phải chăng Papa Hồi giáo cảnh giác với chúng tôi. Có lẽ ông ta không hiểu chúng tôi là những nhà báo lạ mặt đầy phiêu lưu hay là những kẻ muốn tìm hiểu những gì đó của ông ta. Hay thế giới của ông ta thực sự là một thế giới nhiều bóng tối bí ẩn. Tôi ngồi hút thuốc và hít thở thật sâu để xem trên những cánh đồng rộng lớn ngoại ô Islamabad người ta trồng gì. Nhưng hình như chỉ có mùi đất hoang, khô cằn sau một ngày nắng nóng. Khoảng hơn nửa tiếng sau, người môi giới trở lại và nói gì đó với người phiên dịch. Rồi người phiên dịch nói chúng tôi lên xe đi tiếp. Chúng tôi lại dừng xe và chờ đợi trên con đường chạy qua cánh đồng gần một khu dân cư. Người môi giới lại biến vào đêm. Một lúc sau, anh ta trở lại với mấy người khác. Chúng tôi chào hỏi và bắt tay nhau. Người ta chỉ vào một bóng đen trước mặt và nói với chúng tôi đó là Papa Hồi giáo. Một người đàn ông thấp, đậm. Trong ánh sáng của đầu thuốc lá lóe lên, tôi nhận ra đó là một người đàn ông râu dài và một đôi mắt thẫm tối. Chúng tôi nói với ông về chuyến vượt biên để đến Kabul. Papa Hồi giáo nhận lời và sẽ vạch kế hoạch để đưa chúng tôi đi một cách an toàn nhất. Nhưng ông chưa trả lời chúng tôi chắc chắn được. Ông nói ông cần bàn với những người giúp việc của ông, những người sẽ trực tiếp đưa chúng tôi vượt biên giới đi Kabul. Ông hẹn chúng tôi đến văn phòng của ông vào hai ngày sau.
Trên đường trở về khách sạn, tôi nói với nhà báo Như Phong cuộc gặp gỡ với Papa Hồi giáo vừa rồi giống như một vụ buôn ma túy. Hai ngày sau, theo hẹn, chúng tôi đến ăn phòng của Papa Hồi giáo. Quả là giống văn phòng của một Bố già mà tôi đã xem trong các bộ phim. Xin đừng cười tôi. Có lẽ do trí tưởng tượng của tôi và do một chút li kỳ của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Papa Hồi giáo trên cánh đồng ngoại ô trong đêm tối đã làm tôi nghĩ vậy. Đó là một salon xe hơi lớn. Hai nhân viên tiếp chúng tôi. Đó là hai người đàn ông lực lưỡng đeo kính đen nhưng rất hồ hởi và hiếu khách. Chúng tôi uống cà phê Brazil chính hiệu. Papa Hồi giáo không tiếp chúng tôi được. Mặc dù hai nhân viên nói chuyện rất xởi lởi với chúng tôi nhưng tôi vẫn cảm giác rằng Papa Hồi giáo không muốn lộ diện quá rõ ràng trước chúng tôi. Hai nhân viên nói cho chúng tôi biết kế hoạch chuyến đi của chúng tôi. Chúng tôi sẽ đi bằng một chiếc xe hơi lớn. Sẽ có năm người có trang bị vũ khí đi cùng chúng tôi. Chúng tôi sẽ đi men theo một con đường nhỏ dọc biên giới và từ đó đi một đường tắt an toàn và gần hơn để đến Kabul. Tất cả quần áo cho một người đàn ông Hồi giáo, Papa Hồi giáo đã chuẩn bị cho chúng tôi. Họ sẽ bảo đảm sự an toàn cho chúng tôi đến Kabul và trở về Islamabad bằng mối quan hệ lâu nay của họ với các đồn lính biên phòng và các trạm kiểm soát an ninh khác của Afghanistan trên đường. Đặc biệt là với tên tuổi của Papa Hồi giáo. Papa Hồi giáo nhắn lại với chúng tôi qua hai nhân viên của ông là: khi ông ta hay bất cứ một người Hồi giáo nào đã nhận chúng tôi là người anh em thì chúng tôi không còn phải lo lắng gì nữa. Họ sẽ chăm sóc chu đáo chúng tôi, sẽ phục vụ chúng tôi như một người giúp việc và sẵn sàng bảo vệ chúng tôi bằng mọi giá. Điều ông lo lắng nhất là làm sao chúng tôi tránh được những đợt không kích của Không quân Mỹ vào Kabul hoặc trên đường đi. Vì Không quân Mỹ sẵn sàng phóng tên lửa vào bất cứ chiếc xe nào di động dưới mặt đất khi đến gần thủ đô Kabul.
Chúng tôi bắt đầu gấp rút chuẩn bị cho chuyến đi: tiền nong, thuốc men, phim chụp ảnh, giấy bút, mua sắm toàn bộ quần áo, giày dép, khăn tắm, bàn chải, thuốc đánh răng sản xuất tại Pakistan hoặc Afghanistan. Chúng tôi muốn Hồi giáo hóa. Giữa tôi và nhà báo Như Phong thì tôi giống người Hồi giáo hơn cả. Nước da ngăm đen, với bộ ria mép rậm và đen chứ không như bây giờ, chỉ cần khoác bộ quần áo Hồi giáo vào là tôi nghiễm nhiên đi giữa thành phố Islamabad hay giữa đám đông những người biểu tình Hồi giáo là chẳng ai nhận ra. Trong thời gian ở Pakistan, tôi đã vài lần mặc quần áo và đội mũ của những người đàn ông Hồi giáo đi ra phố và vào quán thịt cừu nướng. Có những người Hồi giáo đã bắt tay tôi, nói hàng tràng tiếng mẹ đẻ của họ vì họ nghĩ tôi là người hồi giáo Pakistan. Tôi chỉ biết gật gật đầu và cười. Nhưng cũng như nữ nhà báo người Anh, có một thứ chúng tôi không thể nào hóa trang được. Đó là tiếng mẹ đẻ của mình. Những đêm chờ đợi, tôi thường hình dung về chuyến đi và thử nghĩ ra tất cả những gì có thể xảy đến với chúng tôi. Chẳng có gì đáng sợ. Mọi việc tôi tin chúng tôi sẽ vượt qua. Chỉ có một chuyện là bất khả kháng nếu xảy ra. Đó là một viên đạn bay thẳng vào trán của mình. Có một thứ mà tôi chuẩn bị rất kĩ. Những người có kinh nghiệm đã dặn tôi từ trong nước. Họ nói tôi phải mang theo. Càng nhiều càng tốt. Đó là muối và ớt. Họ nói nếu chúng tôi bị bắt và giam giữ hay bị lạc trong rừng thì muối và ớt sẽ là một thứ thần dược. Hai thứ đó giúp người ta chống lại nhiều thứ bệnh tật. Thế là tôi tích trữ muối và sấy khô ớt. Ba ngày sau, chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng tất cả. Một nhân viên của Papa Hồi giáo thường xuyên gọi điện cho chúng tôi để kiểm tra xem chúng tôi đã chuẩn bị như thế nào để lên đường, đặc biệt là tâm lý chúng tôi.
Nhưng cuối cùng, chuyến đi đã không thực hiện được. Vì nhà báo Như Phong là cán bộ của Bộ Công an nên anh phải viết thư về nhà xin phép. Còn tôi lúc đó hoàn toàn là một người tự do. Sát đến ngày chúng tôi chuẩn bị lên đường theo dự định thì nhà báo Như Phong nhận được lệnh từ báo An Ninh Thế giới là không được thực hiện chuyến đi này. Và nhà báo Như Phong, thiếu tá công an lúc đó, phải chấp hành mệnh lệnh của cấp trên. Tất cả đều kết thúc. Kết thúc trí tò mò, sự hồi hộp, kết thúc cả nỗi sợ hãi mơ hồ đã lướt qua như một cái chớp mắt lúc nào đó. Và kết thúc cả một viên đạn biết đâu đang bay về phía vầng trán của chúng tôi khi chúng tôi mò vào vùng chiến địa ấy.
PHẦN SÁU:
Những người giúp việc
Thực tình tôi không còn nhớ tên họ. Nhưng nhiều lúc tôi nhớ họ và không nhầm lẫn về họ. Đó là hai người đã theo cùng chúng tôi trong suốt thời gian chúng tôi rong ruổi ở một vùng đất Trung Á. Một người là phiên dịch tiếng Anh và một người là lái xe. Có lẽ bây giờ họ không nghĩ rằng sau từng ấy năm tôi lại ngồi viết về họ. Có thể chẳng bao giờ tôi gặp lại họ nữa. Và nếu trời cho tôi gặp lại họ thì cũng không phải gặp họ trong một bối cảnh như trước.
Trước khi lên đường đi Pakistan, một vấn đề khó khăn đặt ra là ai sẽ giúp chúng tôi trong thời gian chúng tôi ở đó. Những người ở báo An Ninh Thế Giới đã vào Google hay Yahoo gì đó tìm kiếm một công ty du lịch nào đó ở Pakistan. Họ đã tìm thấy. Công nghệ thông tin quả là tuyệt vời. Ngay sau lá thư đầu tiên gửi đến cái công ty du lịch mà không một ai trong chúng tôi biết nó hư thực ra sao thì chúng tôi nhận được thư phúc đáp. Và chúng tôi đã trở thành khách hàng của họ.
Giám đốc công ty du lịch trực tiếp lái xe ra sân bay thủ đô Islamabad đón chúng tôi. Một người đàn ông cường tráng với bộ ria mép dày và đen tôn thêm chất đàn ông của ông. Đó là người đàn ông đã có ba vợ. Ông nói người đàn ông Hồi giáo được phép lấy bốn vợ. Tôi thật không thể nghĩ rằng một người đàn ông có đến ba người đàn bà chính thức mà vẫn phong độ như Từ Hải. Vị giám đốc của công ty du lịch tư nhân này chỉ xuất hiện trong ngày đầu tiên rồi sau đó biến mất cho đến trước ngày chúng tôi rời Islamabad bay đến thành phố Karachi để về nước.
Khi ông đưa chúng tôi về một khách sạn nhỏ ở xa trung tâm thành phố thì đã có hai người đàn ông Pakistan chờ chúng tôi ở đó: người phiên dịch và người lái xe. Đấy chính là hai người giúp việc của chúng tôi. Và bây giờ tôi đang nhớ về hai người giúp việc đó.
Người giúp việc thứ nhất
Vì không còn nhớ tên ông cho nên tôi gọi ông là ông phiên dịch. Khác với hầu hết những người đàn ông Pakistan mà chúng tôi nhìn thấy, người phiên dịch không bao giờ mặc quần áo truyền thống của những người Hồi giáo. Lúc nào ông cũng mặc đồ vét, giày da đánh xi bóng lộn và tóc chải gôm như một doanh nhân. Ông thông thạo nhiều thứ tiếng. Và tiếng Anh, tiếng Pháp là hai ngoại ngữ thông thạo nhất của ông. Đấy là một người Pakistan không theo đạo Hồi. Ông nói ông ghét đạo Hồi. Ông nói oang oang với chúng tôi như thế khi chúng tôi đang ngồi uống cà phê trong khách sạn. Tôi bảo ông nói nhỏ kẻo những người Hồi giáo nghe thấy thì nguy đến ông. Ông bĩu môi và nói: “Họ yêụ đạo Hồi là quyền của họ. Tôi ghét đạo Hồi là quyền của tôi.” Sau này tôi mới biết, ông có hai quốc tịch: Pakistan và Pháp.
Ông sống chủ yếu ở Pháp và thường trở về Pakistan khi có công việc và khi mùa chơi gôn ngựa ở Pakistan bắt đầu. Bởi ông là Chủ tịch Câu lạc bộ Gôn ngựa của thành phố Islamabad. Hơn 60 tuổi, nhưng ông có một sức khỏe dẻo dai và lúc nào cũng hiếu động như một cậu bé. Trong suốt thời gian giúp việc chúng tôi, lúc nào ông cũng gọi nhà báo Như Phong và tôi là ngài một cách trân trọng. Có lẽ ông là người chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp hơn là văn hóa Hồi giáo Pakistan. Tôi đã để ý ông rất kĩ, nhưng tôi chẳng thấy ở ông mang một chút gì trong cách ăn, cách mặc, cách nói của người Pakistan.
Một trong nhiều lí do ông ghét đạo Hồi là đạo Hồi cấm tất cả mọi người uống rượu, nhất là trong các quán ăn ở Pakistan. Nhưng ông đã tìm được cách uống rượu trong các quán ăn mỗi lần đi ăn cùng chúng tôi. Ông lấy một vỏ chai nước và đổ rượu Vodka vào đó. Ông điềm nhiên đặt cái chai nước... rượu kia lên bàn ăn và đàng hoàng cầm chai lên uống. Mỗi lần như thế, tôi lại nhìn ông và cười. Ông bảo với tôi rằng thứ tiếng Pháp ông nói là tiếng Pháp của tầng lớp quý tộc ở Paris, còn cách uống rượu của ông là trò láu cá của những kẻ vô gia cư và vô nghề nghiệp trong những khu dân nghèo ở đó.
Một hôm, tôi thấy ông khoác một bao tải nặng vào phòng chúng tôi ở khách sạn. Ông đặt bao tải xuống và nói: “Tôi kiếm được cái này rất đặc biệt cho các ngài.” Chúng tôi ngạc nhiên nhìn chiếc bao tải và không hiểu trong đó là cái gì. Rồi ông mở bao tải và lôi trong đó ra hai két bia. Chúng tôi đâu có nhờ ông mua bia. Và chúng tôi cũng không hề có nhu cầu dùng thứ đó. Cho dù tất cả các nhà máy sản xuất bia trên thế giới đóng cửa vĩnh viễn thì cũng không ảnh hưỏng một chút gì đối với nhà báo Như Phong và tôi. Tôi nói vậy và xin lỗi tất cả những “con chiên” của vị thánh men này. Tôi không hề biết bia rượu từ bé. Đấy là một khiếm khuyết của con người tôi. Trai vô tửu như cờ vô phong mà. Không sành bia rượu là sự thiệt thòi lớn của tôi. Nhưng ai nhìn tôi cũng nghĩ tôi là một tay bợm rượu. Chẳng thế mà nhiều năm trước kia có một người viết về tôi trên một tờ báo đã mở đầu bài viết như thế này: “Vừa nhìn thấy chúng tôi, Thiều đã hất cằm và nói, ‘Nhậu chứ?’” Tôi đã nhiều lần chiêm ngưỡng những người uống bia. Họ nâng cốc bia lên và uống với một sự mê lú thực sự. Cách họ uống bia làm tôi nghĩ đó là thứ giải khát của Chúa Trời.
Chúng tôi không nhờ ông mua bia và chúng tôi cũng chưa bao giờ kêu ca vì việc cấm bia rượu trong các quán ăn ở Pakistan. Nhưng ông đã ranh mãnh tìm được cái thứ nước giải khát kia và mang đến khách sạn cho chúng tôi. Sau này, tôi phát hiện ra đó là trò láu cá mà như ông nói là ảnh hưởng từ những kẻ vô gia cư và vô nghề nghiệp ở các khu dân nghèo ở Paris tráng lệ. Và thế là, hằng ngày ông lại vào phòng chúng tôi hút thuốc lá mù mịt và lại hỏi một câu quen thuộc: “Tôi có thể dùng một chai bia của các ngài được không?” Đương nhiên là được, được quá đi chứ. Vì chúng tôi không uống và vì chúng tôi làm sao lại có thể từ chối ông Chủ tịch Câu lạc bộ Gôn ngựa, người mà lúc nào cũng đặt chúng tôi vào một đại từ nhân xưng của tầng lớp thượng lưu. Thú thực, nhiều lúc nghe ông gọi thế, tôi cũng thấy mình khang khác.
Rồi sau cái bao tải bia, ông tìm được cả một hai chai rượu ở cái xứ sở hiếm hoi này nữa. Ông giấu những chai rượu rất giỏi trong áo vét và đàng hoàng bước vào khách sạn đến phòng chúng tôi. Ông đặt chai rượu lên bàn và nói: “Tôi vừa kiếm được thứ này cho các ngài. Tôi biết các ngài chuộng nó.” Ông biết thừa là chúng tôi không uống rượu mà, phải không? Nhưng ông cứ nói thế. Ông nói một cách thản nhiên và rất lịch sự. Tất nhiên chúng tôi cũng phải dùng những lời lịch sự để đáp lại sự nhiệt thành và cách chăm sóc của ông. Nhưng khi ông về rồi thì cả hai chúng tôi bắt đầu mới thấy choáng váng vì giá rượu bia ở Pakistan rất đắt. Hơn nữa, số tiền của chúng tôi mang theo đã cạn vì chúng tôi không thể trở về Việt Nam theo dự kiến. Tất cả các hãng hàng không quốc tế đã cắt đứt các chuyến bay tới Pakistan từ trước khi cuộc chiến nổ ra. Sau này, chúng tôi đã phải nhờ công ty du lịch tư nhân mà chúng tôi là khách hàng mua vé của hãng Hàng không Pakistan với giá chợ đen. Chúng tôi đã phải tìm cách vay tiền của một người Hồi giáo. Tôi sẽ kể chuyện đó sau.
Nhưng hơn tất cả, ông phiên dịch của chúng tôi là một người rất hiệu quả trong công việc. Ông có quan hệ rất rộng với nhiều tầng lớp ở Islamabad. Khi chia tay nhau, ông nói khi nào sang Pháp hãy gọi điện cho ông. Và cho dù chúng tôi ở bất nơi nào trên đất Pháp thì ông cũng đến để hướng dẫn miễn phí cho chúng tôi đi thăm nước Pháp. Và với giọng rất nghiêm nghị ông nói: “Tôi sẽ giới thiệu với các ngài loại rượu vang đúng nghĩa nhất của nước Pháp. Tôi biết các ngài ưa thứ đó.” Ông cứ nói vậy mặc dù ông thừa biết chúng tôi chẳng hề quan tâm đến thứ đó. Ông cứ nói như thế đến mức làm cho tôi nghĩ hay là mình thích thứ đó thật mà mình lại không chịu thừa nhận.
Người giúp việc thứ hai
Và cũng vì không nhớ tên ông mà tôi gọi ông là ông lái xe. Đấy là một người Hồi giáo đích thực và chân chính. Ngược lại với ông phiên dịch nói suốt ngày chứ không phải là do công việc của một phiên dịch, ông lái xe hầu như lại không nói gì. Ông lái xe có một thân hình rắn chắc và gương mặt hơi lạnh như một vệ sĩ. Đi vào giữa đám biểu tình hay chạy xe qua những đoạn phố vắng trong đêm ở Islamabad, tôi luôn cảm thấy yên tâm vì có ông bên cạnh. Trong khi ông giám đốc công ty du lịch tư nhân có đến ba vợ và vẫn có ý lấy đủ bốn vợ như đạo của ông cho phép thì ông lái xe chỉ có một vợ. Khi tôi hỏi bao giờ ông lấy người vợ thứ hai thì ông nghiêm mặt nói, “Không.” Rồi ông nói một câu gì đó bằng tiếng mẹ đẻ của ông. Tôi không hiểu ngôn ngữ ấy. Nhưng tôi hiểu thái độ khó chịu và kiên quyết của ông.
Một lần, trong phòng khách sạn của chúng tôi, ông phiên dịch mời ông lái xe uống rượu. Ông lái xe lắc đầu với gương mặt rất nghiêm nghị. Khi ông phiên dịch đi ra ngoài thì ông lái xe nói gì đó với chúng tôi với một sắc mặt rất nghiêm trọng. Chúng tôi cũng đoán được ý ông lái xe định nói gì. Ông lái xe hiện lên rất rõ chân dung của một người giúp việc. Chúng tôi bảo đi đâu là ông đi. Ông làm công việc của mình một cách cẩn trọng và chu đáo. Nhiều ngày, vì công việc mà chúng tôi ăn trưa lúc ba giờ chiều. Nhưng ông vẫn thản nhiên và mẫn cán làm theo những yêu cầu của chúng tôi. Ông hoàn toàn khác với rất nhiều những người làm nghề lái xe ở Việt Nam.
Có lần tôi đi công tác xa với một cơ quan. Có một người trong xe buồn đi tiểu đã đề nghị lái xe dừng lại để giải quyết việc riêng ấy. Nhưng lái xe làm như không nghe thấy gì. Anh ta chỉ dừng lại khi anh ta muốn. Và khi anh ta đói, anh ta nói: “Đói lắm rồi. Dừng lại đây ăn trưa.” Rồi anh ta dừng lại ở bất kỳ quán ăn nào mà anh ta muốn. Những người mà anh ta phải phục vụ lại trở thành những người phục vụ ý muốn của anh ta. Nước mình nó thế, nhiều người làm việc chẳng theo một nguyên tắc nào cả. Hết sức tùy tiện và ngẫu hứng, hay hống hách theo cách của người không hiểu về nguyên tắc.
Ông lái xe của chúng tôi không hút thuốc, không uống bia rượu, không cả thích vào những nhà hàng đắt tiền. Ông chỉ có một thói quen là ngậm trong miệng suốt ngày một thứ lá cây tươi giã nát lầy nhầy. Trong cốp xe cạnh tay lái của ông luôn luôn có một cái túi nilon nhỏ đựng thứ lá cây ấy. Một lần, tôi chỉ vào thứ lầy nhầy đó ý hỏi là ông ngậm thứ đó suốt ngày để làm gì. Ông chỉ vào cái túi nilon đó rồi chỉ vào đỉnh đầu và sau đó chỉ vào hạ bộ của ông. Tôi không hiểu ông nói gì. Phải chăng thứ lầy nhầy đó để chữa bệnh đau đầu, bệnh thần kinh, bệnh mất trí nhớ hay bệnh “yếu thận” của cánh đàn ông. Một lần, ông đưa cái túi nilon ấy về phía tôi và ra hiệu cho tôi hãy thử dùng xem sao. Tôi cám ơn ông và vội làm hiệu cho ông rằng đầu óc tôi và cái “của nợ” kia không có vấn đề gì cả.
Cứ mỗi khi đưa chúng tôi trở về khách sạn thì công việc ngay sau đó của ông là chăm sóc chiếc xe. Ông dọn dẹp, lau chùi xe. Bất cứ lúc nào chúng tôi cần lên đường là ông đã đứng sẵn bên xe để xếp đồ cho chúng tôi và mở cửa xe cho chúng tôi lên. Ông luôn luôn túc trực ở bên chiếc xe kể cả khi chúng tôi ngủ trưa. Lại nhớ đến nhiều thủ trưởng ở Việt Nam làm việc xong ra tìm mãi chẳng thấy lái xe đâu. Bây giờ có điện thoại di động còn đỡ. Chứ ngày trước khi chưa có điện thoại di động thì biết tìm lái xe ở đâu. Chỉ còn cách thủ trưởng ngồi chờ nhân viên mà thôi. Chán chê mới thấy lái xe khụng khiêng về. Biết vậy, nhưng thủ trưởng chẳng dám nói gì. Có giỏi thì nói xem, thằng này có mà cho xóc mửa mật hoặc tè ra quần khi đi đường xa mà xem.
Mới thế mà đã hơn mười năm rồi. Tôi không biết ông giám đốc công ty du lịch tư nhân đã cưới người vợ thứ tư chưa, không biết ông phiên dịch đang ở Paris hay Islamabad, ông có còn đủ sức khỏe để tiếp tục làm Chủ tịch Câu lạc bộ Gôn ngựa nữa hay không và ông lái xe có còn ngậm cái thứ lá cây giã nát lầy nhầy nữa không. Và họ có biết tôi đang ngồi viết những dòng lan man về họ không. Họ có biết rằng, chỉ từng đó ngày làm việc cùng nhau nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ quên được họ. Tôi yêu họ cho dù họ và tôi có quá nhiều khác biệt về văn hóa, về tôn giáo và cả những thói quen hay ý thích cá nhân. Và tôi lại có một mong ước giản dị là một ngày nào đó tôi lại được gặp họ. Gặp có khi chẳng để làm gì mà chỉ để lại được nhìn thấy những thói xấu đáng yêu của nhau mà thôi.
PHẦN BẢY:
Những chuyện nhặt dọc đường ở Pakistan
1. Nhà báo Như Phong không thể chịu nổi khi đêm đầu tiên ở Lahore thấy trên truyền hình chiếu phim sex. Tất nhiên không phải là sex 100%. Nhưng vì đây là một nước đạo Hồi cho nên đó là việc lạ. Tại các nước đạo Hồi việc mua bán dâm bị kiểm soát gắt gao bởi chính quyền nhưng quan trọng hơn là bởi chính người dân đạo Hồi. Tuy vậy, ở vườn hoa thủ đô Islamabad buổi tối vẫn có những cô gái trùm khăn kín mặt đứng trong bóng tối và chỉ mở ra cho khách làng chơi xem để chọn mà thôi.
2. Khi chúng tôi nói với những người đàn ông Pakistan rằng họ quả là sướng vì được lấy những bốn vợ thì tất cả đều kêu lên rằng đấy chính là cách mà Thánh Allah trừng phạt họ. Tình hình kinh tế của Pakistan rất khó khăn, thế mà những người đàn ông ở đây thường có hai vợ và bảy, tám đứa con thì việc kiếm tiền đối với họ quả là một việc quá sức. Hơn nữa, phụ nữ Trung Á tuy rất kín đáo trước đám đông nhưng lại là những người có khả năng tình dục rất mạnh. Có lẽ vì thế mà những người đàn ông Pakistan thường gầy quắt, còn đàn bà thì to béo phi thường. Người bị Thánh Allah trừng phạt nặng nhất là bin Laden. Ông ta có bốn vợ và 15 đứa con cùng một số người tình và những đứa con ngoài giá thú khác.
3. Người Hồi giáo Pakistan có cách bán ngô luộc rất đặc biệt. Khác với những người bán ngô luộc ở Việt Nam là để ngô trong xoong trên một cái bếp than giữ nóng ngô, người hồi giáo Pakistan lại vùi ngô vừa vớt trong xoong ra vào trong một chiếc thùng xe đầy cát. Cát cùng với cái nóng ở xứ sở này đã giữ ngô luộc nóng rất lâu mà lại khô ráo.
4. Thịt cừu là món ăn truyền thống ở Pakistan. Đâu đâu cũng thấy bán thịt cừu. Tại khách sạn tôi ở cũng thường xuyên có món cơm nấu với thịt cừu và hành tây. Có một lần tôi gọi món thịt cừu nướng. Nhưng chờ mãi không thấy người hầu bàn mang ra món thịt cừu mà chỉ thấy mang ra hai cốc nước chanh. Tôi nói với anh ta là tôi gọi thịt cừu chứ không phải gọi nước chanh. Và hôm sau tôi gọi nước chanh và nhấn mạnh rằng nước chanh chứ không phải thịt cừu thì người hầu bàn lại mang ra hai xiên thịt cừu nướng. Nhà báo Như Phong chứng kiến chuyện này cười rũ rượi và ghi ngay vào nhật ký. Tôi nói với nhà báo Như Phong rằng, đến lúc này tôi không biết tiếng Anh của người hầu bàn quá kém hay là tiếng Anh của tôi quá kém.
5. Chúng tôi phải trả 70 USD mỗi ngày để thuê một chiếc xe hơi xấu xí. Thêm vào nữa chúng tôi hầu như ngày nào cũng trả tiền ăn trưa và tối cho người lái xe vì chúng tôi không biết được các điểm ăn uống trong thành phố mà phải nhờ ông đưa đi. Chẳng lẽ mình ngồi ăn mà để người ta ngồi chầu chực à. Thấy chiếc xe của chúng tôi xấu hơn những chiếc xe của các hãng CNN, BBC... (lẽ đương nhiên) người lái xe bèn nói với chúng tôi rằng chiếc xe của ông ta không đẹp lắm nhưng có biển đặc biệt của nhà nước vì thế cảnh sát không hỏi. Quả là đúng như thế thật. Tìm hiểu ra mới biết công ty du lịch mà chúng tôi thuê đã không còn một chiếc xe nào. Chính vì thế mà họ huy động cả phương tiện của một số cơ quan nhà nước làm dịch vụ.
6. Trước khi rời Hà Nội đi Pakistan, một người bạn của tôi dặn đi dặn lại là không được bắt tay những phụ nữ Hồi giáo vì đấy là điều cấm kị. Đến Pakistan, tôi luôn luôn nhớ lời dặn của người bạn ở Hà Nội. Nhưng trong buổi họp báo của Liên đoàn Hồi giáo Pakistan, một trong những người lãnh đạo ở đó là một phụ nữ đẹp đã chìa tay ra bắt tay tôi khi tôi đưa số tiền của báo An ninh Thế giới gửi cho trẻ em tị nạn Afghanistan sau khi cuộc họp báo kết thúc. Tôi hơi rụt tay lại và hỏi: “Tôi có được chạm vào một người phụ nữ Hồi giáo không?” Chị ta nói, “Được chứ.” Tôi lại hỏi: “Vậy tôi bắt tay một chính khách hay cầm tay một phụ nữ đẹp?” Bà cười và nói: “Ông chọn cách nào?” Tôi nói nhỏ: “Tôi chọn cách thứ hai: cầm tay một phụ nữ đẹp.” Rồi chúng tôi bắt tay nhau nhưng cả hai đều đỏ mặt.
7. Người quản lý công ty du lịch ở Islamabad kể với chúng tôi rằng: có một khách sạn nhỏ nhưng trong thời gian này chật ních các nhà báo nước ngoài. Vì quá ít người phục vụ nên việc kiểm soát ăn uống của các nhân viên hầu bàn trở lên túng túng. Họ không thể biết ai đã trả tiền ăn và ai chưa. Cuối cùng họ nghĩ ra một kế là ngoắc vào cổ tay khách ăn một cái phiếu giống phiếu hàng hóa ở sân bay có ghi chữ: Chưa trả tiền. Và thế là cả phòng ăn nhìn các nhà báo như là những bệnh nhân tâm thần. Nhà báo nào trả tiền rồi thì được tháo phiếu ra. Các nhà báo nhìn nhau vừa giận vừa cười chảy nước mắt. Họ đã kiến nghị lên giám đốc khách sạn và kiểu quản lý khách ăn này phải hủy bỏ. Nghe nói có nhà báo phương Tây đã viết về chuyện khôi hài này.
8. Nhiều lúc tôi nghĩ nếu cho tôi làm đại sứ ở một nước nào đó thì tôi cũng xin chịu vì những những thói quen ăn uống cố hữu của mình. Mặc dù báo An ninh Thế giới chuẩn bị tiền nong cho chuyến đi của chúng tôi quá chu đáo, tôi vẫn mang theo một thùng mì tôm để phòng khi làm việc khuya đói thì có cái cầm hơi. Hơn nữa khẩu vị của tôi đã quá quen với những món ăn nhiều nước và gia vị. Một hôm nhà báo Như Phong phát hiện ra một cây húng quế cổ thụ trong vườn cây cảnh của khách sạn. Và thế là món mì tôm trở nên hấp dẫn hơn khi ăn kèm rau húng quế. Trước khi định ăn mì tôm tôi lang thang trong vườn cây cảnh như người đi dạo và bẻ một cành húng quế bỏ vào túi cho bữa ăn của mình. Nếu tôi ở đây thêm một tháng thì chắc chắn cây húng quế sẽ biến mất khỏi khu vườn.
PHẦN BẢY:
Những chuyện nhặt dọc đường ở Pakistan
1. Nhà báo Như Phong không thể chịu nổi khi đêm đầu tiên ở Lahore thấy trên truyền hình chiếu phim sex. Tất nhiên không phải là sex 100%. Nhưng vì đây là một nước đạo Hồi cho nên đó là việc lạ. Tại các nước đạo Hồi việc mua bán dâm bị kiểm soát gắt gao bởi chính quyền nhưng quan trọng hơn là bởi chính người dân đạo Hồi. Tuy vậy, ở vườn hoa thủ đô Islamabad buổi tối vẫn có những cô gái trùm khăn kín mặt đứng trong bóng tối và chỉ mở ra cho khách làng chơi xem để chọn mà thôi.
2. Khi chúng tôi nói với những người đàn ông Pakistan rằng họ quả là sướng vì được lấy những bốn vợ thì tất cả đều kêu lên rằng đấy chính là cách mà Thánh Allah trừng phạt họ. Tình hình kinh tế của Pakistan rất khó khăn, thế mà những người đàn ông ở đây thường có hai vợ và bảy, tám đứa con thì việc kiếm tiền đối với họ quả là một việc quá sức. Hơn nữa, phụ nữ Trung Á tuy rất kín đáo trước đám đông nhưng lại là những người có khả năng tình dục rất mạnh. Có lẽ vì thế mà những người đàn ông Pakistan thường gầy quắt, còn đàn bà thì to béo phi thường. Người bị Thánh Allah trừng phạt nặng nhất là bin Laden. Ông ta có bốn vợ và 15 đứa con cùng một số người tình và những đứa con ngoài giá thú khác.
3. Người Hồi giáo Pakistan có cách bán ngô luộc rất đặc biệt. Khác với những người bán ngô luộc ở Việt Nam là để ngô trong xoong trên một cái bếp than giữ nóng ngô, người hồi giáo Pakistan lại vùi ngô vừa vớt trong xoong ra vào trong một chiếc thùng xe đầy cát. Cát cùng với cái nóng ở xứ sở này đã giữ ngô luộc nóng rất lâu mà lại khô ráo.
4. Thịt cừu là món ăn truyền thống ở Pakistan. Đâu đâu cũng thấy bán thịt cừu. Tại khách sạn tôi ở cũng thường xuyên có món cơm nấu với thịt cừu và hành tây. Có một lần tôi gọi món thịt cừu nướng. Nhưng chờ mãi không thấy người hầu bàn mang ra món thịt cừu mà chỉ thấy mang ra hai cốc nước chanh. Tôi nói với anh ta là tôi gọi thịt cừu chứ không phải gọi nước chanh. Và hôm sau tôi gọi nước chanh và nhấn mạnh rằng nước chanh chứ không phải thịt cừu thì người hầu bàn lại mang ra hai xiên thịt cừu nướng. Nhà báo Như Phong chứng kiến chuyện này cười rũ rượi và ghi ngay vào nhật ký. Tôi nói với nhà báo Như Phong rằng, đến lúc này tôi không biết tiếng Anh của người hầu bàn quá kém hay là tiếng Anh của tôi quá kém.
5. Chúng tôi phải trả 70 USD mỗi ngày để thuê một chiếc xe hơi xấu xí. Thêm vào nữa chúng tôi hầu như ngày nào cũng trả tiền ăn trưa và tối cho người lái xe vì chúng tôi không biết được các điểm ăn uống trong thành phố mà phải nhờ ông đưa đi. Chẳng lẽ mình ngồi ăn mà để người ta ngồi chầu chực à. Thấy chiếc xe của chúng tôi xấu hơn những chiếc xe của các hãng CNN, BBC... (lẽ đương nhiên) người lái xe bèn nói với chúng tôi rằng chiếc xe của ông ta không đẹp lắm nhưng có biển đặc biệt của nhà nước vì thế cảnh sát không hỏi. Quả là đúng như thế thật. Tìm hiểu ra mới biết công ty du lịch mà chúng tôi thuê đã không còn một chiếc xe nào. Chính vì thế mà họ huy động cả phương tiện của một số cơ quan nhà nước làm dịch vụ.
6. Trước khi rời Hà Nội đi Pakistan, một người bạn của tôi dặn đi dặn lại là không được bắt tay những phụ nữ Hồi giáo vì đấy là điều cấm kị. Đến Pakistan, tôi luôn luôn nhớ lời dặn của người bạn ở Hà Nội. Nhưng trong buổi họp báo của Liên đoàn Hồi giáo Pakistan, một trong những người lãnh đạo ở đó là một phụ nữ đẹp đã chìa tay ra bắt tay tôi khi tôi đưa số tiền của báo An ninh Thế giới gửi cho trẻ em tị nạn Afghanistan sau khi cuộc họp báo kết thúc. Tôi hơi rụt tay lại và hỏi: “Tôi có được chạm vào một người phụ nữ Hồi giáo không?” Chị ta nói, “Được chứ.” Tôi lại hỏi: “Vậy tôi bắt tay một chính khách hay cầm tay một phụ nữ đẹp?” Bà cười và nói: “Ông chọn cách nào?” Tôi nói nhỏ: “Tôi chọn cách thứ hai: cầm tay một phụ nữ đẹp.” Rồi chúng tôi bắt tay nhau nhưng cả hai đều đỏ mặt.
7. Người quản lý công ty du lịch ở Islamabad kể với chúng tôi rằng: có một khách sạn nhỏ nhưng trong thời gian này chật ních các nhà báo nước ngoài. Vì quá ít người phục vụ nên việc kiểm soát ăn uống của các nhân viên hầu bàn trở lên túng túng. Họ không thể biết ai đã trả tiền ăn và ai chưa. Cuối cùng họ nghĩ ra một kế là ngoắc vào cổ tay khách ăn một cái phiếu giống phiếu hàng hóa ở sân bay có ghi chữ: Chưa trả tiền. Và thế là cả phòng ăn nhìn các nhà báo như là những bệnh nhân tâm thần. Nhà báo nào trả tiền rồi thì được tháo phiếu ra. Các nhà báo nhìn nhau vừa giận vừa cười chảy nước mắt. Họ đã kiến nghị lên giám đốc khách sạn và kiểu quản lý khách ăn này phải hủy bỏ. Nghe nói có nhà báo phương Tây đã viết về chuyện khôi hài này.

8. Nhiều lúc tôi nghĩ nếu cho tôi làm đại sứ ở một nước nào đó thì tôi cũng xin chịu vì những những thói quen ăn uống cố hữu của mình. Mặc dù báo An ninh Thế giới chuẩn bị tiền nong cho chuyến đi của chúng tôi quá chu đáo, tôi vẫn mang theo một thùng mì tôm để phòng khi làm việc khuya đói thì có cái cầm hơi. Hơn nữa khẩu vị của tôi đã quá quen với những món ăn nhiều nước và gia vị. Một hôm nhà báo Như Phong phát hiện ra một cây húng quế cổ thụ trong vườn cây cảnh của khách sạn. Và thế là món mì tôm trở nên hấp dẫn hơn khi ăn kèm rau húng quế. Trước khi định ăn mì tôm tôi lang thang trong vườn cây cảnh như người đi dạo và bẻ một cành húng quế bỏ vào túi cho bữa ăn của mình. Nếu tôi ở đây thêm một tháng thì chắc chắn cây húng quế sẽ biến mất khỏi khu vườn.
PHỤ LỤC:
Hai bài thơ viết trong chuyến đi
Bài thứ nhất:
Người thổi kèn rắn
Gửi một nhà thơ
Tựa tường ngồi ngủ như đã quên thế gian
trên con đường ven biển.
Chiếc kèn nằm bên đôi giày rách.
Những gì đã diễn ra khoảnh khắc trước đó
giai điệu cây kèn, điệu múa con rắn,
sự quyến rũ của nỗi sợ hãi?
Không trí tuệ, không pháp thuật,
không phải những đồng xu,
chỉ sự điên rồ chăng?
Của cả hai ta, không lời nào để nói.
Không đánh lừa được ai kể cả kẻ đần độn,
chỉ đánh lừa chính mình
Ôi hai ta, những kẻ biết được sự trống rỗng
trong âm nhạc ấy, trong vũ điệu ấy
Cả nỗi hoảng sợ ấy cũng không có thực
Bi kịch đến quá sớm khi ngày chưa tàn
Trong chiếc giỏ nhiều màu không còn con rắn nào
Nhưng không vì thế mà mọi chuyện kết thúc
Vẫn tựa tường ngồi ngủ, hỡi người thổi kèn rắn,
du khách đến rồi đi
Bóng tối phủ lên người tấm vải đen,
người vẫn không thức dậy
Phải chăng chính nọc độc của kẻ trong cuộc
đã tìm cách giải thoát cả hai
khỏi sự trống rỗng, dối lừa từng nhân danh
những điều huyền diệu.
Karachi, tháng 10 năm 2002
Bài thứ hai:
Những con quạ thành phố Karachi
Mang theo bóng tối của đêm trước trên đôi cánh,
bay lên,
Trên bầu trời thành phố không bóng cây,
một ban mai từ cát
Bay lên và kêu vang, dội vào ám ảnh những cái chết
Những con quạ ban mai vùng Karachi,
những công dân danh dự của thành phố
Một ban mai tháng Mười, chết chóc cận kề,
và những lời cầu nguyện
trong những vòm Thánh đường Trung Á
bên những con đường chuyên chở vũ khí
Cửa hiệu thực phẩm, đầu cừu xếp thành một dãy,
chân cừu xếp thành một dãy
Lưỡi rìu sắc chém dọc thân cừu,
máu chảy lúc gần sáng trong lò mổ
vẫn chảy trên những thân cừu đã lột da hiển hiện
trước ban mai.
Những con quạ không ăn thịt xác chết ngủ trên mái nhà
Karachi, hơi nóng tháng Mười, cái chết cận kề,
Thánh đường, lời nguyện cầu, thực phẩm
Bay lên lúc ban mai, vang dộỉ tiếng kêu,
khuất phục những câm lặng phía dưới
Bay cao về phía chóp Thánh đường bởi sức đẩy
của của nguồn máu nóng vô tận
Đôi cánh đập kiên nhẫn rũ đi bóng tối đêm trước
để vươn về ban mai
Và vượt qua ám ảnh của cái chết từng làm
chúng ta sợ hãi
Chúng trở thành sứ giả tin cậy của sự sống.
Rút từ tập Cây ánh sáng,
NXB Hội Nhà Văn 2010
MƯỜI TÁM
Người đàn bà trong Mùa hoa cải bên sông
Đấy là một cô gái còn rất trẻ. Năm cô mất cô mới 23 tuổi. Cô mất cùng với một thai nhi trong bụng. Cô mất trong chính lòng của con sông Đáy mà cô đã gắn bó từ khi vừa sinh ra. Bởi cô đã có con, một thai nhi, mặc dù chưa có chồng. Cho nên tôi coi cô đã là một người đàn bà.
Trong truyện ngắn Mùa hoa cải bên sông tôi viết gần 20 mươi năm trước có một nhân vật nữ tên là Chinh. Chinh sống cùng gia đình trên một chiếc thuyền. Họ không được phép lên bờ vì lời nguyền của cha cô. Nhưng cuối cùng cô đã lên bờ vì tiếng gọi của màu hoa cải vàng quyến rũ và bởi tiếng gọi của tình yêu với một chàng trai sống trong một xóm trại ven sông. Khi biết cô có thai, cha cô đã trừng phạt cô và đưa cả gia đình đi mất tích. Truyện ngắn này được đạo diễn Khải Hưng làm thành phim Lời nguyền của dòng sông và giành huy chương Vàng Liên hoan Phim truyền hình Quốc tế tại Bỉ năm 1993. Đấy là bộ phim truyền hình Việt Nam đầu tiên giành được một giải lớn như vậy. Đạo diễn Khải Hưng đã hỏi ông Chủ khảo Liên hoan phim vì sao ông trao giải cao nhất cho bộ phim đó thì ông ta trả lời: “Vì nó rất Việt Nam. Nó là của dân tộc anh.” Khi truyện ngắn này ra đời, nhiều người thích nhưng không tin trên đời lại có câu chuyên như vậy. Xin thưa, bảy mươi phần trăm của truyện ngắn này là sự thật. Và Chinh là một cô gái có thật và được tôi giữ nguyên tên của cô. Khi phim này chiếu trên truyền hình, tôi về quê và sang sông thăm một người bạn học cũ. Bố Chinh đã già lắm nhưng vẫn chèo đò cho khách sang ông. Con đò mà Chinh thường chở tôi sang sông đi học đã quá cũ nát. Ông nói với tôi ông đã được xem bộ phim đó. Lúc đó tôi rất lo bị ông mắng vì đã mang chuyện gia đình ông lên phim. Nhưng ông chỉ nói thế và rồi lặng lẽ đưa tôi sang sông.
Tôi có hai năm học phổ thông ở trường cấp in III ở An Mỹ bên kia sông thuộc huyện Mỹ Đức, Hà Tây. Bởi thế mà hằng ngày tôi phải đi đò sang bên kia sông đi học. Người lái đò Chinh là một cô gái không nhan sắc, mắt cô bị kém thị lực từ lúc sinh ra. Mỗi khi tôi cất tiếng gọi đò thì dù đang làm gì cô cũng xuống bến chèo đò chở tôi sang. Cô ngước đôi mắt kém thị lực nhìn về phía bờ bên kia và chèo đò. Nhiều lúc tôi lo cô sẽ không đưa tôi đúng bến và con đò có thể trôi đi cách bến rất xa. Nhưng ngay cả những chiều tối hoặc những ngày mưa cô vẫn cập đò đúng bến. Có lẽ cô chèo bằng một giác quan khác. Lúc nào xuống bến chèo đò, cô cũng mang cho tôi một thứ gì đó. Lúc thì bắp ngô, lúc thì củ khoai, lúc thì những trái cây trong vườn nhà cô. Cô đã quen giọng của tôi. Ngay cả những chiều mưa, đứng từ bên kia bờ sông, tôi chỉ cần cất tiếng “ơi” là cô đã nhận ra tôi và vội vàng xuống bến chèo đò sang sông đón tôi. Và lúc nào cũng vậy, khi thấy bóng cô xuất hiện từ đầu con đường phù sa chạy từ xóm trại xuống bến là tôi thấy lòng rạo rực.
Gia đình cô từng sống lênh đênh trên đò dọc sông Đáy mấy đời. Họ bắt cá, cào hến và lấy cát bán cho những cư dân hai bên bờ sông để sinh sống. Mãi đến ngày hòa bình họ mới cập lại bến làng tôi và xin định cư trong một xóm trại nhỏ bên sông và làm nghề chèo đò ngang đưa khách qua sông. Thực sự tôi không biết quê quán họ ở đâu. Thường là vừa chèo đò cô vừa hỏi việc học hành của tôi. Cô bảo cô thèm được đi học nhưng nhà cô nghèo nên phải bỏ dở để cào hến, thả lưới bắt cá và chèo đò kiếm tiền nuôi gia đình. Có một lần trời mưa, khi chèo đò ra giữa sông cô bảo tôi chui vào lòng đò có mái che. Cô bảo tôi ngồi chơi và để mặc đò trôi đi đâu thì trôi. Nhưng tôi sợ và đã chối từ. Sau đó, tôi thấy cô không nói gì và chèo đò rất mạnh như tủi thân và như giận dữ. Mưa chảy tràn trên mặt cô. Sau này tôi nghĩ có lẽ cô đã khóc. Cho đến bây giờ tôi cũng không dám nghĩ đó là tình cảm của cô dành cho tôi. Sau này tôi đi học xa, mỗi khi vào làng bán cá hay bán hến gặp mẹ tôi, cô lại hỏi: “Thiều có viết thư về không cô giáo?” Và lần nào mẹ tôi mua hến, cô cũng đong bơ hến đầy hơn đong cho những người khác trong làng. Nếu lần đó mà tôi về nghỉ thì cô thường biếu thêm cho mẹ tôi một bơ hến và nói: “Cô giáo nấu hến với canh bầu cho Thiều ăn.” Cô biết tôi là người thích ăn canh hến nấu với bầu trắng trồng ngoài bãi sông. Những lúc về quê nghỉ hè, tôi thường ra xóm trại để mong gặp lại cô. Nếu không thấy cô ngoài bến sông, tôi lại gọi đò và hy vọng cô xuống chèo đò để tôi được gặp cô. Thấy tôi cô hỏi có phải tôi sang bên kia sông thăm bạn học cũ không. Tôi đã nói dối cô. Tôi không dám nói với cô rằng tôi gọi đò để lấy cớ gặp cô mà thôi.
Sau khi học xong, tôi vào thành phố Hồ Chí Minh làm việc. Hai năm sau tôi về thăm quê. Và mẹ tôi nói cho tôi biết cô đã mất. Mẹ tôi là người biết rất nhiều chuyện ở quê. Có lẽ mẹ tôi là một bà giáo già nên mọi người hay đến kể chuyện cho mẹ tôi nghe. Nhiều truyện tôi viết là từ lời kể của mẹ. Chuyện cô mất là một câu chuyện làm tôi đau đớn mãi. Một ngày, bố cô phát hiện cô có thai. Ông đã trói cô vào cột nhà và đánh cô để tìm ra ai là cha của thai nhi trong bụng cô. Nhưng cô không nói cho ông bố biết. Cô xin bố mình để cho cô nuôi giữ cái thai đó. Bố cô không chấp nhận lời cầu xin của cô. Ông bắt cô uống thuốc lá của người Mường bên kia sông để phá thai. Vì một cô gái không chồng thời đó mà có thai là một chuyện khủng khiếp đối với gia đình họ. Nhiều đêm, cô quỳ xuống bên mép giường của người bố cho đến sáng để xin ông hãy thương cái thai trong bụng cô mà cho cô sinh nở. Nhưng cô đã không thay đổi được sự tức giận và đau đớn của người bố. Người bố đã cưỡng bức cô uống thuốc phá thai.
Một buổi sáng thức dậy, gia đình cô không thấy cô. Họ đã đi tìm cô nhưng không thấy. Năm ngày sau, người ta thấy xác cô nổi ở đoạn sông cách bến sông làng tôi chừng dăm cây số. Có người nghĩ bố cô đã đẩy cô xuống sông. Nhưng đó là chuyện của người độc miệng, ác ý. Người làng tôi không tin chuyện đó. Mẹ tôi bảo là cô tự tử sau khi phải phá thai. Trong những ngày về thăm quê lần đó, tôi đã đạp xe đến đoạn sông mà người ta vớt xác cô. Lòng tôi buồn bã và trống rỗng vô cùng.
Mấy năm sau, một người em trai của cô đã có vợ nhưng lại có con với một cô gái mắc bệnh tâm thần ở làng tôi. Gia đình cô gái tâm thần mang đưa bé trả lại cho gia đình cô. Và cứ ngày ngày cô gái tâm thần đó đến ngồi trước cửa gia đình cô, lúc cười lúc khóc. Có người nói cô gái tâm thần đó bị hồn của Chinh nhập vào để trả thù bố cô đã không cho cô sinh con và làm cô phải tự tử. Rất nhiều người làng tin câu chuyện đó. Khi tôi đưa Nghệ sĩ nhân dân Bạch Diệp về quê tôi chọn cảnh làm bộ phim Thời gian của dòng sông chuyển thể từ truyện ngắn Hai người đàn bà xóm trại của tôi, tôi đã kể câu chuyện về Chinh cho bà nghe và đưa bà đến xóm trại để chỉ cho bà ngôi nhà của Chinh.
Thời gian cứ trôi đi, tôi đã bắt đầu già. Con sông Đáy chưa một ngày ngừng chảy ra biển. Nước sông cũ không bao giờ trở lại trên bến sông làng tôi. Nhưng con đò và Chinh vẫn thi thoảng trở về trong ký ức tôi. Trở về như một ngọn gió vừa ngân vang, vừa buồn bã và vừa thương nhớ.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Sông Đáy
Sông Đáy chảy vào đời tôi
Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi buổi chiều
đi làm về vất vả
Tôi dụi mặt vào lưng người đẫm mồ hôi
mát một mảnh sông đêm
Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt
Cơn mơ vang lên tiếng cá quẫy tuột câu
như một tiếng nấc
Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn
Tỏa mát xuống cơn đau tôi là tóc mẹ bến mòn đứng đợi
Một cây ngô cuối vụ khô gầy
Suốt đời buồn trong tiếng lá reo.
Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên
ngang trời cho tôi được nhìn thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ,
nơi những chú bống đến làm tổ
được giàn giụa nước mưa sông.
Sông Đáy ơi! Chiều nay tôi trở lại
Những cánh buồm cổ tích đã bay xa
về một miền tức tưởi
Em đã mang đôi môi màu dâu chín sang đò
một ngày sông vắng nước
Tôi chỉ gặp những bẹ ngô trắng trên bãi
Tôi nhớ áo em tuột rơi trên bến kín một trăng xưa.
Sông Đáy ơi, sông Đáy ơi... chiều nay tôi trở lại
Mẹ tôi đã già như cát bên bờ
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi
Tôi quỳ xuống vốc cát ấp vào mặt
Cát từ mặt tôi chảy xuống ròng ròng.
Sông Đáy, 1991
Rút từ tập Sự mất ngủ của lửa,
NXB Lao Động 1992
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Sông Đáy
Sông Đáy chảy vào đời tôi
Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi buổi chiều
đi làm về vất vả
Tôi dụi mặt vào lưng người đẫm mồ hôi
mát một mảnh sông đêm
Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt
Cơn mơ vang lên tiếng cá quẫy tuột câu
như một tiếng nấc
Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn
Tỏa mát xuống cơn đau tôi là tóc mẹ bến mòn đứng đợi
Một cây ngô cuối vụ khô gầy
Suốt đời buồn trong tiếng lá reo.
Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên
ngang trời cho tôi được nhìn thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ,
nơi những chú bống đến làm tổ
được giàn giụa nước mưa sông.
Sông Đáy ơi! Chiều nay tôi trở lại
Những cánh buồm cổ tích đã bay xa
về một miền tức tưởi
Em đã mang đôi môi màu dâu chín sang đò
một ngày sông vắng nước
Tôi chỉ gặp những bẹ ngô trắng trên bãi
Tôi nhớ áo em tuột rơi trên bến kín một trăng xưa.
Sông Đáy ơi, sông Đáy ơi... chiều nay tôi trở lại
Mẹ tôi đã già như cát bên bờ
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi
Tôi quỳ xuống vốc cát ấp vào mặt
Cát từ mặt tôi chảy xuống ròng ròng.
Sông Đáy, 1991
Rút từ tập Sự mất ngủ của lửa,
NXB Lao Động 1992
MƯỜI CHÍN
Giống như một cái chết
(Giấc mộng thứ ba)
Thế là tôi đã xa cố hương một triệu năm. Có một ai đó cho đến bây giờ tôi không làm sao nhớ nổi đã đưa tôi trở lại làng. Nếư không có người ấy thì có lẽ tôi không bao giờ tìm lại được làng tôi sau một triệu năm. Khi người ấy chỉ vào sa mạc đá mênh mông và nói làng của ngươi đấy thì tôi vội nói, “Không phải, không phải làng tôi.” Người ấy khẽ mỉm cười và bảo, “Ngươi xa làng đã một triệu năm rồi.” Nghe vậy, tôi giật mình kinh hãi.
Tất cả đã không còn gì nữa. Dòng sông Đáy, con đường làng, những ngôi nhà và những người thân đã biến mất. Quanh tôi là một miền đất hoang vu đầy những tảng đá lớn nhỏ chạy triền miên như đến tận chân trời. Tôi bàng hoàng đau đớn và bỗng òa lên khóc. Tại sao tất cả lại biến mất không đợi tôi trở về? Tại sao tôi lại có thể bỏ cố hương đi từng ấy năm? Tại sao đã từng ấy năm trôi đi mà tôi lại đinh ninh nghĩ rằng tôi vừa mới rời xa cố hương mấy tháng? Tôi đã trở về nơi chôn rau cắt rốn của tôi mà sao như đang ở một hành tinh khác. Tại sao tôi có thể sống đến từng ấy năm? Bao câu hỏi dâng lên trong lòng tôi trong buổi chiều ấy. Gió đang thổi miên man quanh tôi. Gió thổi qua những hốc đá thành những tiếng u trầm như tiếng tù và chăn trâu thuở xa xưa. Những cái cây cũng chẳng còn quen thuộc với tôi nữa. Bên cạnh những tảng đá là những cái cây xa lạ. Tôi chưa bao giờ gặp những cái cây ấy.
Tôi đi lang thang trên sa mạc đá. Tôi nhận ra những tảng đá khổng lồ giống những ngôi nhà của làng tôi. Hình như đó là những ngôi nhà đã hóa đá chứ không phải những tảng đá bình thường. Đúng vậy, tất cả không mất đi. Đến lúc này tôi mới nhận ra tất cả vẫn như xưa và đã biến thành đá. Dòng sông đá vẫn chảy và những con cá đá vẫn bơi. Bến sông con thuyền đá vẫn chống sào đợi khách. Cánh đồng đá vẫn những con trâu đá kéo cày. Vẫn những người nông dân đá cúi mặt trên cánh đồng cấy lúa. Những con chó đá vẫn ngửa mặt lên trời sủa trăng. Tất cả đã hóa đá từ khi nào và sao tất cả vẫn đói nghèo đau khổ thế kia?
Mặt trời đang chìm xuống. Mặt trời thì vẫn vậy. Hoàng hôn bắt đầu đổ xuống. Những ngôi sao đã hiện lên. Tôi ngước nhìn những ngôi sao và nhận thấy chúng sà xuống quá thấp ngay phía trên đầu tôi. Tôi giơ tay về phía những ngôi sao. Năm đầu ngón tay tôi được ánh sáng một ngôi sao gần đó tỏa sáng. Bóng đêm đã trùm phủ khắp nơi. Và gió thổi bất tận. Tôi chưa bao giờ thấy một đêm nhiều gió như vậy. Tôi ngồi xuống một tảng đá nhỏ và cúi đầu đau khổ. Tôi biết đi đâu bây giờ. Tôi chợt ngửa mặt kêu lên: Sao không còn ai ở đây thế này?
Tôi nghe có tiếng động sau tôi. Một âm thanh giống tiếng chìa khóa tra vào ổ. Và tiếng rít lên khe khẽ của một cánh cửa có những bản lề đã gỉ. Tôi vội quay lại. Tảng đá khổng lồ giống ngôi nhà của tôi xưa từ từ hé mở và một người đàn bà bước ra. Đấy là một bà già, tóc trắng phau, da đồi mồi, nhưng đôi mắt thì lại quá trẻ. Tôi nhìn vào đôi mắt ấy và thấy một cái gì đó vô cùng quen thuộc. Bà già mở to đôi mắt kinh ngạc nhìn tôi. Và bất chợt bà khóc. Một lúc sau, bà hỏi tôi trong thổn thức:
- Sao đến bây giờ anh mới về?
- Bà là ai? - Tôi ngơ ngác hỏi.
- Em đây. - Bà vẫn nức nở. - Trang đây.
Tôi kinh hoàng khi nghe vậy. Tôi không thể nào tưởng tượng nổi bà già đứng trước mặt và gọi tôi lại chính là vợ tôi. Như hiểu được ý nghĩ của tôi, vợ tôi nói:
- Anh xa nhà đã một triệu năm rồi.
- Một triệu năm thật ư? - Tôi hỏi lại như mê sảng.
- Một triệu năm. Em và các con đợi anh mãi.
Rồi các con tôi cũng từ ngôi nhà đó bước ra. Tôi không làm sao nhận ra con gái tôi ngoài đôi mắt và giọng nói của con bé. Khi tôi đi, con gái tôi mười bốn tuổi. Trong chiếc vali của tôi lúc này vẫn có một con búp bê tôi mua cho con tôi. Tôi đâu có ngờ món quà ấy tôi đã mua từ một triệu năm trước đó. Tôi không biết nói gì về sự trở về quá muộn màng của tôi. Tôi cũng không hiểu được vì sao. Tôi vẫn gặp lại tất cả. Nhưng tất cả đã khác ngày tôi đi. Vợ tôi có còn đợi tôi về và thì thầm, “Em nhớ anh” nữa không? Con gái tôi có còn ríu rít hỏi, “Bố mua quà cho con không” nữa không? Con trai tôi có còn bước vội ra xách vali cho tôi nữa không? Tất cả đang đứng trước tôi đây. Nhưng tất cả đang nhìn tôi xa lạ.
Đêm ấy, tôi ngủ trong ngôi nhà đã hóa đá của tôi. Nhưng tôi không thể nào nâng được chiếc chăn trên giường vợ chồng tôi vì nó đã hóa đá. Tôi cầm tay vợ tôi và kéo ngồi xuống mép giường. Khi tôi định cúi xuống hôn vợ tôi thì vợ tôi vội đứng dậy và lùi lại. Nàng khóc. Nàng không thể ân ái với tôi được nữa. Nàng đã hơn tôi gần một triệu tuổi. Tôi kinh hãi và đau đớn kêu lên.
Tôi tỉnh giấc. Người tôi đầm đìa mồ hôi. Tôi bàng hoàng ngồi mãi trên giường. Một lúc sau tôi mới nhận ra tôi vừa qua một giấc mộng. Ngoài trời đang mưa. Tiếng mưa gõ đều đều trên mái nhà. Những ngày xuân thực sự đã đến. Lúc ấy tôi nhớ nhà vô hạn. Tôi thấy may mắn và hạnh phúc vô cùng vì tất cả những gì diễn ra chỉ là một giấc mộng. Tôi đang ở trong khu nhà của các nhà thơ xứ Ai-len bên bờ biển và mấy ngày nữa tôi sẽ trở về nhà.
Giấc mộng ấy diễn ra trong bao lâu? Tôi nghĩ chỉ chừng dăm phút. Có thể chỉ là một phút. Và có thể ít hơn nữa. Giấc mộng đã cho tôi được sống khoảng thời gian bằng hàng vạn kiếp của tôi. Ôi, đôi khi chỉ một giác mộng mà người ta đã sống qua cả triệu năm. Hình như, đến một tuổi nào thì người ta mới có nỗi nhớ cố hương như thế và mới có những giấc mộng như thế. Tôi nhớ hai câu thơ của một nhà thơ Hàn Quốc tôi đã dịch: Cố hương là nơi ngươi không thể rời xa/ Cố hương là nơi ngươi không thể trở về. Tôi nhớ đến bộ phim Từ Bỏ Thế Giới Vàng. Bộ phim nói về những người tìm vàng vùng Alaska. Hanrich, một kẻ tìm vàng đã trở nên giàu, đến thành phố để sống cuộc sống đô thị. Một trong những người thân cận nhất của ông, một người bạn tìm vàng, tên là Bill, đã theo ông lên thành phố thành phố. Nhưng cuộc sống xa hoa chốn đô thị đã không giữ nổi Bill. Ông quyết định trở về vùng Alaska băn tuyết của ông. Bill đã nói với Hanrich: “Đêm đêm tôi nghe tiếng băng vỡ và tiếng sói hú, tôi đã già rồi, tôi phải trở về Alaska.” Đấy là nơi Bill đã sinh ra và lớn lên. Sự giàu có và những thú vui chốn đô thị không thể nào giữ được ông.
Năm ba mươi tuổi, nhà thơ Nga vĩ đại Joseph Brodsky bị trục xuất khỏi nước Nga. Ông đã đau đớn biết nhường nào. Ông không được chấp nhận ở lại trên mảnh đất cố hương ông. Ông phải ra đi. Và khi bước bước chân cuối cùng dời xa đất mẹ, ông đã nói trong đau đớn và kiêu hãnh về tình yêu của mình với cố hương ông: “Thơ ca tôi sẽ làm cho ngôn ngữ Nga trở nên vinh quang.” Và ông đã làm được điều đó. Ông đã làm cho ngôn ngữ Nga trở nên vĩ đại. Mặc dù sống ở Mỹ với biết bao điều kiện và sự vinh quang của một nhà thơ vĩ đại, nhưng ông vẫn luôn luôn mang trong mình cơn đau ốm không hề nguôi của một kẻ phải sống lưu vong. Sau bao nhiêu năm sống tha hương, ông muốn trở về cố hương ông, nhưng chính quyền Liên Xô đã chối từ ông. Họ đã chối từ một trong những người con ưu tú nhất của nước Nga. Họ đã chối từ một trong những nhà thơ vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi của thế gian. Họ đã sai lầm. Và họ đã sụp đổ. Và cho đến khi chết, ông vẫn không có lần nào có thể trở về Saint Petersburg, thành phố cố hương của ông.
Tôi thường có dịp đi xa. Và những ngày sống xa nhà tôi thường thức giấc trong đêm. Ngay trong một khách sạn năm sao ở Queensland nước Úc bất chợt tôi thấy sực mùi rơm mốc trong mưa. Tiếng ếch kêu trong những đêm tháng Bảy. Tiếng nhái râm ran buổi hoàng hôn ven chân đê. Mùi cám lợn nồng ngái. Tôi đã đến cái tuổi không thể nào sống xa cố hương mình cả đời được nữa. Năm 1992, trong chuyến sang Úc đầu tiên theo lời mời của Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc, một người bạn đã khuyên tôi ở lại. Lúc đó tôi ba mươi sáu tuổi. Nhưng tôi đã không thể ở lại. Tôi không thể sống xa mảnh đất này được nữa rồi. Việc quyết định không ở lại của tôi không hề có vấn đề chính trị gì. Đó chỉ là con người tôi không thể tách rời những gì tôi đã sống cùng suốt mấy chục năm từ thuở tôi sinh ra. Tôi may mắn không phải sống lưu vong mặc dù trên xứ sở của mình hằng ngày tôi vẫn phải chứng kiến những chuyện buồn đau và không phải không có một lúc nào đó tôi muốn ra đi.
Nhưng, phải rời bỏ cố hương là một điều bất hạnh. Đôi khi, đối với một số người, nó giống như một cái chết.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Bài hát về cố hương
Kính dâng làng Chùa của tôi
Tôi hát bài hát về cố hương tôi
Khi tất cả đã ngủ say
Dưới những vì sao ướt át
Và những ngọn gió hoang mê dại tìm về
Đâu đây có tiếng nói mê đàn ông bên mái tóc đàn bà
Đâu đây thơm mùi sữa bà mẹ khe khẽ tràn vào đêm
Đâu đây những bầu vú con gái tuổi mười lăm
như những mầm cây đang nhoi lên khỏi đất
Và đâu đây tiếng ho người già khúc khắc
Như những trái cây chín mê ngủ tuột
khỏi cành rơi xuống
Góc vườn khuya cỏ thức trắng một mình
Tôi hát bài hát về cố hương tôi
Trong ánh sáng đèn dầu
Ngọn đèn đó ông bà tôi để lại
Đẹp và buồn hơn tất cả những ngọn đèn
Thuở tôi vừa sinh ra
Mẹ đã đặt ngọn đèn trước mặt tôi
Để tôi nhìn mặt đèn mà biết buồn, biết yêu và biết khóc
Tôi hát bài hát về cố hương tôi
Bằng khúc ruột tôi đã chôn ở đó
Nó không tiêu tan
Nó thành con giun đất
Bò âm thầm dưới vại nước, bờ ao
Bò quằn quại qua khu mồ dòng họ
Bò qua bãi tha ma người làng chết đói
Đất đùn lên máu chảy ròng ròng
Tôi hát, tôi hát bài ca về cố hương tôi
Trong những chiếc tiểu sành đang xếp bên lò gốm
Một mai đây tôi sẽ nằm trong đó
Kiếp này tôi là người
Kiếp sau phải là vật
Tôi xin ở kiếp sau là một con chó nhỏ
Để canh giữ nỗi buồn - báu vật cố hương tôi.
1991
Rút từ tập Sự mất ngủ của lửa,
NXB Lao Động 1992
HAI MƯƠI
Ngôi nhà gỗ màu đỏ
Bạn đã bao giờ được chứng kiến người ta chuẩn bị cho cái chết của mình chưa? Còn tôi, tôi đã được chứng kiến cảnh đó trong một buổi tối với quá nhiều ánh sáng.

Mấy năm trước, trong một lần ngồi ăn cơm với con gái mình, tôi hỏi: “Nếu bây giờ thần thánh cho bố một món quà là được chọn một trong những người thân yêu của bố đã mất sống lại thì con có biết bố sẽ chọn ai không?” Con gái tôi trả lời: “Bố chọn cụ nội.” Nghe vậy, tôi ứa ước mắt vì hạnh phúc.
Lúc đó, tôi vẫn chưa hết sầu thương cha mẹ tôi mới mất cách đó vài năm. Nhưng tôi đã chọn bà nội tôi. Tại sao con gái tôi lại hiểu đúng ước mong của tôi? Bởi con gái tôi đã biết tôi thương nhớ bà nội tôi như thế nào. Trong rất nhiều câu chuyện tôi kể cho con gái tôi nghe suốt tuổi ấu thơ của con bé là chuyện về bà nội tôi. Hơn nữa, tôi được sống với cha mẹ tôi nhiều hơn và cũng làm được một hai điều nhỏ bé tỏ lòng đáp đền công dưỡng dục của cha mẹ. Còn đối với bà nội mình, tôi chẳng làm được một việc gì cho bà nội tôi cả.
Năm 12 tuổi, 13 tuổi mụ, tôi ốm liệt giường. Tôi không ăn được gì mà chỉ thèm nhai chiếu rách và quần áo cũ. Người tôi lúc đó chỉ bé bằng con mèo. Bà nội tôi đã đặt tôi vào chiếc thúng cái, úp cái nón lên và đội tôi trên đầu đi mấy chục cây số đến hết thầy lang này rồi thầy lang khác để chữa bệnh cho tôi. Một lần, vừa đội cái thúng cái tôi đang nằm trong đó ra khỏi ngõ thì gặp một người làng. Ông ta vô tư hỏi: “Bà đi bán gì đấy?” Bà tôi nổi giận: “Thủi thui cái mồm ông, tôi đưa cháu đi chữa bệnh mà bảo đi bán gì à. Cháu tôi mà có mệnh hệ nào thì ông chết với tôi.”
Một đêm, khi thấy tôi đã lịm đi, chỉ còn thoi thóp thở như một con cá bị ném lên bờ đã lâu, cha tôi và các chú bác đã đóng một chiếc áo quan nhỏ cho tôi vì nghĩ tôi không thể nào sống qua được đêm ấy. Chính đêm ấy, bà tôi ôm một chiếc áo cũ của tôi ra cánh đồng. Bà tôi vừa đốt chiếc áo vừa khóc vừa gọi vía tôi trở về. Bà sợ nếu vía tôi đi qua sông Đáy sẽ không thể quay trở về được nữa. Và tôi đã sống đến bây giờ. Một ngày sau trận ốm thập tử nhất sinh, tôi đi lang thang trong khu vườn và nhìn thấy chiếc áo quan nhỏ son màu đỏ gác trên mái gác chuồng trâu ở góc vườn. Tôi hỏi em tôi đó là cái gì. Em tôi bảo đó là ngôi nhà gỗ đỏ mà những người trong họ đóng cho tôi. Tôi hỏi bà vì sao lại làm ngôi nhà gỗ đỏ cho tôi bé như thế, thế thì sao tôi ở được. Bà nhìn tôi và nói: “Đấy là chiếc áo quan nếu cháu chết họ sẽ cho cháu vào đó và đem chôn.” Tôi nhắm mắt rùng mình vì khiếp sợ. Ngay sau đó, bà tôi vội mang chiếc áo quan ra bờ sông đốt và xúc tất cả tro đổ xuống sông Đáy cho trôi ra biển để ma quỷ không còn tìm được tôi nữa.
Khi bà tôi mất, tôi còn trẻ quá. Những ngày bà tôi ốm nằm trên giường, có lúc tôi mải chơi và để bà khát nước. Những ngày tháng đó, hễ có ai mang biếu bà tôi bánh trái là chúng tôi lại ùa đến bên giường bà để đợi bà cho ăn. Nhiều lúc bà tôi không ăn lấy một mẩu bánh mà chia cho anh em chúng tôi. Bà nhìn chúng tôi ăn và ứa nước mắt. Nhưng chúng tôi không mảy may biết gì. Chúng tôi quá trẻ, quá thơ ngây và quá đói khát. Bây giờ tôi vẫn không hết ân hận. Tôi cứ ao ước bà sống lại dù chỉ một giờ để tôi mang nước cho bà, mua thật nhiều bánh trái ngon biếu bà và nói anh em tôi yêu bà đến nhường nào. Khi bà tôi hấp hối, tôi đang chơi bóng ở ngoài bãi sông. Một người trong họ bấm độn thấy bà tôi khó đi nói rằng do bà tôi đợi tôi về mới đi. Nếu tôi không về bà tôi sẽ không đi được. Một người trong họ chạy đi tìm tôi. Khi tôi bước đến bên giường bà, một người nào đó nói: “Mày cầm lấy tay bà để cho bà đi.” Tôi rụt rè cầm tay bà tôi. Bà tôi vẫn nằm bất động và thở khẽ nhưng tôi cảm nhận bà tôi biết tôi đang cầm tay bà. Tôi cảm thấy bà tôi mỉm cười. Hai khóe mắt bà tôi chợt ứa ra hai giọt lệ. Rồi bà tôi nấc nhẹ và ra đi.
Có một người đàn bà hàng xóm của tôi đã liên quan một phần đến sự sống của tôi. Bà thỉnh thoảng đi đò qua sông Đáy vào những bản người Mường giáp tỉnh Hòa Bình buôn bán lặt vặt đã mang về cho mẹ tôi hai nắm lá thuốc của người Mường. Bà đã nói với một bà lang Mường về tôi. Bà lang Mường nhìn bà rất lâu với đôi mắt ái ngại. Nhưng người đàn bà hàng xóm của tôi tha thiết xin bà cắt cho cậu bé hàng xóm đang ốm nặng mấy thang thuốc. Bà lang Mường thở dài kín đáo và lấy hai nắm lá đưa cho người đàn bà hàng xóm. Đấy là những ngày vía tôi đã không qua sông Đáy mà vẫn ở lại. Nhưng tôi vẫn nằm trên giường. Mẹ tôi sao vàng hai nắm lá cho tôi uống. Uống hết hai nắm lá, tôi ngồi dậy và bắt đầu đòi ăn. Mẹ tôi khóc vì mừng. Người đàn bà hàng xóm vội qua sông lấy thêm ba nắm lá thuốc nữạ cho tôi. Uống hết ba nắm lá thuốc ấy, tôi ra ngõ chơi. Người đàn bà ấy tôi gọi là mợ Các.
Mấy năm sau, mợ Các đổ bệnh, da vàng như nghệ, tóc rụng hết. Cho đến giờ tôi cũng không biết mợ bị bệnh gì. Thỉnh thoảng tôi ghé qua nhà mợ xem mợ có nhờ tôi giúp gì không. Trong ngôi nhà vách đất, lợp rạ tan hoang như một túp lều, mợ mở đôi mắt bàng bạc trên khuôn mặt vàng như nghệ nhìn tôi. Không phải mợ nhìn tôi mà mợ đang quan sát tôi. Rồi mợ Các ra đi vĩnh viễn. Lúc ấy tôi còn nhỏ, cho nên việc mợ Các ra đi chỉ làm tôi chông chênh một thời gian ngắn. Nhưng bây giờ, những buổi tối về quê ngồi một mình trong tiếng chó sủa, tôi không lúc nào không nghĩ về mợ. Mợ chỉ có một người con trai tên là Các nên gọi là mợ Các. Tên của mợ là gì tôi không biết.
Năm 1954, chồng mợ di cư vào Nam. Ông là lính của quân đội Pháp. Lúc ấy mợ còn rất trẻ, nhưng ở vậy và không đi bước nữa. Bao nhiêu người đàn ông đến xin cưới mợ. Lần nào mợ cũng chỉ nói: “Tôi là gái có chồng. Chồng tôi đi vắng. Chồng tôi sẽ trở về. Sao lại dám hỏi tôi làm vợ.” Nói có vẻ cứng rắn vậy nhưng khi những người đàn ông quay đi thì mợ khóc. Mợ cứ vừa cúng rắn vừa khóc âm thầm như thế và biến mất trên cõi đời này.
Sau khi mợ mất thì anh Các bỏ nhà đi làm công nhân cầu đường. Ba năm sau anh Các trở về làng lấy vợ và ở lại làng làm ruộng và sinh sống. Rồi anh bị bệnh tâm thần. Họ hàng anh phải xích chân anh lại vì sợ anh bỏ đi không biết đường về. Nhưng một ngày vợ anh cởi xích để tắm cho anh. Anh bỏ trốn và từ đó đến giờ không ai còn thấy anh nữa. Vợ con và họ hàng anh đã từng đến nhiều nhà thương điên để tìm anh nhưng anh vẫn biệt tăm. Và sau gần hai mươi năm chiến tranh kết thúc, chồng mợ trở về. Tôi đã ngồi ăn cơm cùng ông với cha mẹ tôi. Ông trở về và gần như chẳng còn gì nữa ở nơi ông sinh ra và lớn lên. Vợ ông đã mất và con trai ông bị bệnh tâm thần bỏ nhà đi. Trong một đêm mùa hạ nhiều muỗi, cha tôi đã kể lại cuộc đời của mợ cho người chồng nghe. Người đàn ông trở về nhưng không hé lộ một chút gì về cuộc đời mình trong mấy chục năm lưu lạc. Ông đi thăm họ hàng làng xóm rồi trở về Nam. Không biết bây giờ ông còn sống hay đã mất. Những câu chuyện như thế chẳng bao giờ nguôi trong lòng tôi. Những câu chuyện ấy thi thoảng lại vang lên trong căn buồng ẩm tối trong ngôi nhà của ông bà tôi để lại như những tiếng thì thầm không bao giờ dứt.
Trong nhiều năm sau ngày anh Các bỏ nhà, đi đâu thấy một người đàn ông điên bẩn thỉu lang thang trên đường hay trần truồng nằm ngủ dưới một gốc cây, tôi đều đến gần nhìn xem có phải anh Các không. Biết rằng bệnh anh không thể chữa khỏi nhưng trong lòng tôi vẫn khao khát làm một việc gì đó dù rất nhỏ cho anh. Tôi muốn nói với người mẹ sinh ra anh - mợ Các - rằng, tôi mang ơn bà. Đã có lúc tôi nghĩ, bà cứu mạng tôi và bà phải gánh chịu khổ đau. Tôi không làm được điều bé nhỏ mà tôi khao khát. Nhưng tôi luôn mang trong lòng mình khát vọng ấy. Lúc nào nghĩ vậy, đầu tôi cũng lóe lên hình ảnh mợ nhìn tôi cười mãn nguyện. Có một buổi chiều giá lạnh sau ngày mợ mất, anh Các bắt được một con cá diếc ngoài đầm cá của ao Hợp tác xã nông nghiệp. Anh ôm con cá chạy về nhà. Những người bảo nông phát hiện và đuổi theo anh. Họ đạp anh ngã xuống sân và lấy lại con cá. Tôi lẻn vào nhà anh và thấy anh không áo quần đang nằm trong một cái ổ rơm. Quần áo anh bị ướt hết khi lội xuống đầm bắt cá. Người anh gầy giơ xương đang run lên bần bật. Anh nhìn tôi. Đôi mắt của một chàng trai mới mười tám, mười chín tuổi như hai ngọn đèn dầu vừa bị thổi tắt. Tôi òa khóc.
Cho đến lúc này, khi viết những dòng chữ về chiều mùa đông xa xăm ấy, nước mắt tôi lại giàn giụa chảy. Nhưng ngày đó tôi chỉ là một cậu bé. Tôi không làm gì để có thể giúp anh. Mẹ tôi kể trong những ngày anh Các bị bệnh tâm thần, thỉnh thoảng anh lại rú lên, hai tay ôm chặt đầu sợ hãi. Người làng bảo anh nhìn thấy ma dọa đánh anh. Tôi không nghĩ đến ma. Lúc nào nghe chuyện đó tôi cũng thấy trong tôi hiện lên những người bảo nông của Hợp tác xã đạp anh ngã xuống đất và đòi lại con cá. Một con cá diếc dù sống quá lâu trong ao đầm thì cũng không to hơn bàn tay. Những năm tháng đói khát, đau buồn và tội nghiệp đã đi qua làng tôi và bao làng quê khác. Cái đói giờ hầu như không còn. Nhưng hình ảnh bi thương ấy mãi mãi như ngọn gió của những ngày đông giá thổi qua lòng tôi. Và tôi vẫn không làm sao dứt ra khỏi máu thịt mình hình ảnh bi thương đó.
Từ ngày anh Các bỏ nhà ra đi có lẽ đã hơn mười lăm năm. Mọi người tin anh đã mất. Vợ con anh lấy ngày anh ra đi làm ngày giỗ. Nhưng sao tôi vẫn không nghĩ anh đã chết cho dù tôi chẳng có căn cứ nào cho lòng tin ấy. Mặc dù tôi mong anh đừng sống thêm ngày nào nữa. Bởi sống như thế chắc chắn là một sự đày đọa. Nhưng liệu anh có biết đó là sự đày đọa không. Hay anh là người thực sự mộng du không thể hồi tỉnh. Hay anh là người được ban cho cơn mộng du vô tận ấy để đi qua những đau buồn của cõi đời này. Bởi đối với những người mang cơn mộng du ấy thì đói không phải là đói, khát không phải là khát và đau không phải là đau. Hay anh là kẻ lạc đường và không bao giờ tìm thấy lối trở về như nhiều người không bao giờ tin rằng họ đã lạc đường.
Gần một nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày bà tôi ra đi, mỗi khi trở về quê, tôi lại ngồi xuống chiếc ghế trong căn buồng thuở xưa bà tôi nằm rất lâu trong im lặng hồi tưởng về bà. Ngay lập tức, tất cả những gì thuộc về bà tôi lại tràn ngập căn phòng: mùi trầu cay, mùi thuốc bắc, mùi cao hổ, mùi nước tiểu của bà trong những năm tháng bà tôi đau ốm, mùi lá bưởi bà gội đầu, mùi ngải cứu bà buộc trên trán bằng một chiếc khăn khi bị đau đầu hay cảm cúm... Và mỗi khi đi qua cánh đồng, lúc nào trong tôi cũng hiện lên bóng bà đang gọi vía tôi trở về trong cái đêm buồn bã và đầy sợ hãi thuở xưa. Tôi luôn luôn nghĩ rằng, mẹ tôi sinh ra tôi lần thứ nhất còn bà đã tái sinh tôi. Nếu không có tiếng bà sợ hãi và đau đớn gọi vía tôi trong cái đêm ấy chắc vía tôi đã đi qua sông Đáy và không bao giờ trở về nữa. Và hình ảnh mợ Các cũng chẳng bao giờ nhòe đi trong tôi cho dù một chút. Cả hai người đàn bà ấy giờ đã thiên thu. Nhưng đâu đấy trong cuộc sống này tôi vẫn thỉnh thoảng cảm thấy họ vừa đi qua tôi nồng ấm hơi thở. Cuộc sống thực sự là một chuỗi những ký ức buồn bã, da diết, khổ đau đầy những suy tưởng nhưng lúc nào cũng ngân vang cả trong bóng tối.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Âm nhạc
Những chiếc kèn bụi bặm và méo mó là của con
Những chiếc trống da mặt đã bơ phờ là của con
Những chiếc nhị còng lưng từ năm một tuổi là của con
Tất cả dâng lên thẳm xa, mê đắm
Mẹ ơi, con nhìn thấy bà nội con sau khói mỉm cười
Cỗ xe tang trôi mãi vào cơn mê
Những con rồng gỗ vảy vàng bay lên trong tiếng kèn,
tiếng trống
Con nhón gót, cỏ may biền biệt trắng
Có ai khẽ khàng bế mãi con lên
Con muốn lẩn vào khăn áo đám ma quê
Con muốn đắp lên cơn ho của con tàn hương thơm
và ấm
Con nhìn thấy bà nội mặc áo tơ tằm
ngồi giữa ngàn ngọn nến
Bà rót một bình nước mưa trong để đợi con về
Chiếc xe tang rực rỡ - cái đồ chơi của con
Con đang mê mải chơi, mẹ có nghe thấy không,
con đang cười khúc khích
Nỗi cô đơn và con là hai đứa trẻ chán mọi trò dụ dỗ
Chúng con đuổi nhau dưới vòm cong của cỗ xe tang
Chứng con bay theo những lá cờ đuôi nheo
và những lá phướn
Về gò đất cuối làng ta trong tiếng hát cầu hồn
Nơi con sẽ mặc áo lụa vàng ngủ trên một lá trầu cay thơm ngát
Nhưng nơi ấy chẳng bao giờ mẹ rửa mặt được cho con
Con yêu những chiếc kèn, những chiếc trống
và những chiếc nhị kia thổn thức
Tất cả cũng yêu con buồn bã, lo âu
Giai điệu cuối cùng của tình yêu này ngân lên
và khẽ khàng đặt con vào mặt đất
Rồi dắt con theo con đường hoa cỏ may nở trắng
Trở về nhà mẹ rửa mặt cho con.
Cuối đông, 1991
Rút từ Sự mất ngủ của lửa,
NXB Lao Động 1992
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Âm nhạc
Những chiếc kèn bụi bặm và méo mó là của con
Những chiếc trống da mặt đã bơ phờ là của con
Những chiếc nhị còng lưng từ năm một tuổi là của con
Tất cả dâng lên thẳm xa, mê đắm
Mẹ ơi, con nhìn thấy bà nội con sau khói mỉm cười
Cỗ xe tang trôi mãi vào cơn mê
Những con rồng gỗ vảy vàng bay lên trong tiếng kèn,
tiếng trống
Con nhón gót, cỏ may biền biệt trắng
Có ai khẽ khàng bế mãi con lên
Con muốn lẩn vào khăn áo đám ma quê
Con muốn đắp lên cơn ho của con tàn hương thơm
và ấm
Con nhìn thấy bà nội mặc áo tơ tằm
ngồi giữa ngàn ngọn nến
Bà rót một bình nước mưa trong để đợi con về
Chiếc xe tang rực rỡ - cái đồ chơi của con
Con đang mê mải chơi, mẹ có nghe thấy không,
con đang cười khúc khích
Nỗi cô đơn và con là hai đứa trẻ chán mọi trò dụ dỗ
Chúng con đuổi nhau dưới vòm cong của cỗ xe tang
Chứng con bay theo những lá cờ đuôi nheo
và những lá phướn
Về gò đất cuối làng ta trong tiếng hát cầu hồn
Nơi con sẽ mặc áo lụa vàng ngủ trên một lá trầu cay thơm ngát
Nhưng nơi ấy chẳng bao giờ mẹ rửa mặt được cho con
Con yêu những chiếc kèn, những chiếc trống
và những chiếc nhị kia thổn thức
Tất cả cũng yêu con buồn bã, lo âu
Giai điệu cuối cùng của tình yêu này ngân lên
và khẽ khàng đặt con vào mặt đất
Rồi dắt con theo con đường hoa cỏ may nở trắng
Trở về nhà mẹ rửa mặt cho con.
Cuối đông, 1991
Rút từ Sự mất ngủ của lửa,
NXB Lao Động 1992
HAI MƯƠI MỐT
Người đàn bà lạ trên sông Đáy
Trên xứ sở chúng ta có biết bao làng quê có sông chảy qua. Và nơi con sông chảy qua làng đều có một triền bãi, một bến đò. Nếu tất cả chúng ta cùng nhau kể những câu chuyện diễn ra nơi triền bãi ấy, bến đò ấy thì chúng ta sẽ có một pho sách khổng lồ và lý thú.
Sông Đáy chảy qua làng tôi. Ở đó có một triền bãi rộng và một bến đò chở khách qua sông. Bây giờ bến đò vẫn còn. Nhưng hầu như chẳng mấy khi có khách sang sông nữa. Một con đò cũ và đã nứt nẻ nhiều. Con đò ấy tuổi đời có lẽ cũng bằng tuổi tôi. Khi còn bé, mỗi lần ra sông nhìn con đò, tôi thấy con đò lớn như một con tàu. Và rất nhiều năm tôi đã mơ được một lần bước lên con đò đó để sang bờ bên kia. Quả thực, có một tiếng gì đó thường xuyên réo gọi tôi trong những năm tháng ấy. Chỉ mới năm tuổi, tôi đã thường ra bờ sông vào những buổi chiều và nhìn sang bờ bên kia. Trẻ con bây giờ khác chúng tôi quá nhiều. Bằng tuổi tôi hồi ấy thì bọn trẻ bây giờ được cha mẹ giữ gìn quá cẩn thận trong những ngôi nhà khóa kín cửa. Mỗi khi chúng ra khỏi nhà là phải có người đi theo với nhiều loại phương tiện, đồ dùng chăm sóc. Còn chúng tôi thuở ấy gần như được “thả hoang”. Khi chưa đi học hay đi học rồi thì vào những lúc không đến lớp là chúng tôi lang thang mọi nơi chốn trong làng, ngoài bến sông với đủ trò nghịch ngợm. Tôi còn nhớ những đêm lũ trẻ con bơi qua sông sang làng bên cạnh xem phim. Bây giờ không một bậc cha mẹ nào dám cho con họ tự do như thế. Một thanh niên làng dẫn đầu đám trẻ con lau nhau chúng tôi bơi qua sông. Anh thanh niên chỉ việc đếm xem có bao nhiêu đứa trước khi chúng tôi nhảy xuống sông và bơi kiểu bơi chó sang sông. Đến bờ bên kia, anh lại đếm xem đã đủ chưa. Rồi sau đó chúng tôi vừa đi vừa chạy đến bãi chiếu phim. Có những đêm đang chiếu phim thì trời nổi mưa dông. Lũ trẻ chúng tôi phải về giữa chừng buổi chiếu. Đến bờ sông, chúng tôi ùa xuống sông trong mưa gió mù mịt như một đàn vịt. Bây giờ nhớ lại lại giật mình. Thế mà hồi đó, chưa một đứa trẻ nào bị nước sông cuốn đi.
Vào một chiều tôi đang lang thang dọc bờ sông để tìm những hang dế thì có một chiếc thuyền nan cập bến trước tôi. Một người đàn bà đứng nhìn tôi. Bà mỉm cười và gọi đúng tên tôi. Sau này tôi mới biết vì sao bà biết được tên tôi. Bởi chúng tôi hay gọi tên nhau khi chơi bên bến sông vào lúc tắm sông. Người đàn bà đó là một người sống nghề chài lưới và hay qua khúc sông làng tôi và vì thế bà biết tên tôi. Khi thấy tôi mở to mắt nhìn bà, bà lấy từ trong chiếc túi áo nâu ra những viên bi ve xanh đỏ đưa cho tôi. Nhìn thấy những viên bi mắt tôi sáng rực lên thèm muốn nhưng tôi không dám nhận món quà ấy từ một người xa lạ. Nhìn tôi một lúc, bà cho thuyền vào sát bờ hơn nữa và bỏ những viên bi lên trên mép nước rồi nói: “Mẹ mua quà cho con đấy. Của con đấy.” Nói xong bà chèo thuyền đi. Khi chiếc thuyền nan đã khuất phía dòng sông, tôi mới rụt rè bước đến và cúi xuống chạm tay vào những viên bi huyền ảo ấy. Cuối cùng, sự thèm muốn của tôi đã chiến thắng nỗi sợ hãi mơ hồ, tôi chộp lấy những viên bi bỏ vào túi và chạy thẳng về nhà. Tôi giấu những viên bi ở góc vườn. Tôi không dám nói với mẹ tôi về người đàn bà xa lạ và những viên bi ve xanh đỏ. Ngày ngày, khi thấy vắng bóng người ở nhà, tôi lại ra vườn và lấy những viên bi ra xem. Rồi tôi thường gặp lại người đàn bà chèo thuyền trong những giấc mơ của mình. Có lúc tôi thấy bà chở cả một thuyền nan đầy ắp những viên bi lấp lánh. Sáng sau tỉnh dậy, tôi nhớ đến người đàn bà. Và tôi đi ra bờ sông.
Tôi nhận thấy chiếc thuyền nan của bà đang đậu trên sông. Thấy tôi, bà từ từ chèo thuyền về phía tôi. Bà cập thuyền sát bờ nhìn tôi mỉm cười và hỏi tôi có thích những viên bi không. Tôi đã gật đầu. Nghe vậy, bà rất vui. Bà quay vào mui thuyền và mang ra cho tôi nhiều những viên bi hơn. Những viên bi lần này lộng lẫy hơn nhiều những viên bi bà cho tôi lần trước. Đó là những viên bi thủy tinh. Những viên bi đối với tôi ngày ấy hấp dẫn hơn cả những viên ngọc bây giờ. Bà bỏ những viên bi thủy tinh nhiều màu vào một chiếc túi vải nhỏ và đưa cho tôi. Như lần trước, tôi không nói gì và không dám bước thêm một bước về phía bà. Nhưng lòng tôi thì thèm muốn những viên bi đến có thể chết đi được. Như hiểu được tôi, bà đặt cái túi đựng những viên bi lên bờ trước nơi tôi đứng và lặng lẽ chèo thuyền ra đi. Và khi chiếc thuyền đã mờ dần trên mặt sông phía cuối nguồn, tôi lại chộp lấy chiếc túi đựng bi, chạy một mạch về nhà và giấu vào góc vườn.
Đến lần thứ ba tôi gặp bà thì bà không còn mang những viên bi cho tôi nữa. Bà nhìn tôi với đôi mắt trìu mến và buồn bã và nói: “Con lên thuyền với mẹ đi.” Tôi im lặng. Tôi không hiểu sao người đàn bà ấy lại gọi tôi là con. Khi bà nhắc lại câu nói ấy lần thứ ba thì tôi hỏi: “Lên thuyền làm gì?” Bà vội nói: “Mẹ sẽ đưa con về phía cuối sông.” Tôi hỏi: “Đến đó làm gì?” Bà nói: “Ở đó mẹ có một kho báu to đựng biết bao thứ đẹp. Của con tất cả. Con tha hồ lấy.” Rồi bà kể cho tôi những thứ có trong cái kho báu của bà ở cuối nguồn sông như diều giấy vàng, bi đá ngọc, những con chim bằng bạc biết đập cánh, những con trâu bằng đồng có cặp sừng đen bóng biết đi, những chiếc tàu thủy chạy được trên mặt sông... Nghe bà kể, người tôi mê đi như bị bỏ bùa. Tôi thấy trong đầu mình một kho báu hiện lên. Tôi buột miệng hỏi: “Thế đi bao giờ về?” Bà mỉm cười nói: “Chỉ đến tối là về thôi.”
Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ lúc đó bàn chân tôi đã nhấc lên. Nhưng ngay lúc ấy, có tiếng gọi tên tôi vang lên. Đó là tiếng mẹ tôi. Thấy mẹ tôi, người đàn bà chợt biến sắc mặt và vội vàng chèo thuyền đi khuất. Mẹ tôi chạy đến ôm lấy tôi và hỏi tôi người đàn bà trên thuyền đã nói gì với tôi. Tôi kể lại cho mẹ chuyện người đàn bà rủ tôi đến kho báu cuối nguồn sông. Nghe đến đó, mẹ ghì chặt tôi vào lòng. Tôi thấy mẹ tôi run lên bần bật. Đêm đó, mẹ ôm tôi suốt đêm như chẳng rời ra. Đêm đó, tôi thấy mẹ tôi khóc và nói: “Chỉ chút nữa là mẹ mất con.” Lúc đó, tôi không thể nào hiểu vì sao mẹ lại nói như thế. Lớn lên tôi mới hiểu. Và tôi hiểu vì sao mẹ đã run lên bần bật khi ôm ghì lấy tôi. Từ hôm đó, mẹ không cho tôi ra bờ sông nữa. Nhưng chiều chiều mẹ lại ra bờ sông. Mẹ muốn gặp người đàn bà xa lạ đó. Mẹ căm thù người đàn bà đó. Mẹ nghĩ rằng nếu mẹ chỉ chậm một chút thôi, mẹ sẽ không bao giờ gặp lại tôi nữa.
Khi lớn lên, mỗi lần về quê tôi thường ra bờ sông. Tôi đến chỗ bờ sông mà mấy chục năm trước tôi đã đứng đó. Nơi ấy, tôi đã nhận những viên bi nhiều màu lộng lẫy. Nơi ấy, tôi đã nhón chân chuẩn bị bước lên chiếc thuyền nan của người đàn bà có đôi mắt buồn bã để đến với kho báu của tôi ở cuối nguồn sông. Nếu ngày ấy tôi bước chân lên chiếc thuyền ấy thì bây giờ tôi đã ở một thế giới khác. Và khi lớn lên, tôi sẽ buồn đau như thế nào khi tôi không thể nào trở về cố hương của mình, không thể nào gặp lại mẹ tôi. Nếu như vậy, cuộc đời tôi sẽ khác cuộc đời tôi bây giờ không? Và như thế thì mẹ tôi sẽ sống như thế nào? Tôi sẽ hận thù người đàn bà ấy đến nhường nào. Nhưng số phận đã không dẫn tôi lên con thuyền ấy. Số phận đã giữ tôi lại bờ bên này của con sông và tôi đã sống một cuộc sống như của tôi bây giờ.
Nhưng có một điều lạ lùng. Mỗi khi ra bến sông làng, tôi đều nhớ đến người đàn bà ấy. Nhớ đến mà không căm ghét, không nguyền rủa, nhớ đến với một sự thương cảm khó tả và một sự chia sẻ nào đó mà tôi cũng không xác định được rõ ràng. Đến bây giờ, tôi tin rằng tôi cảm nhận được nỗi cô đơn, buồn bã và bất hạnh của người đàn bà kia. Cuộc đời của người đàn bà ấy sau khi rời khỏi khúc sông làng tôi đã như thế nào? Có đứa trẻ lên năm tuổi nào như tôi đã nhón chân lên con thuyền để đến với kho báu cuối nguồn sông không? Có những bà mẹ nào với linh cảm kỳ lạ của mình đã xuất hiện trước khi đứa con mình biến mất không? Và lúc này, tôi phải thú thật rằng: trong tình yêu thương vô hạn mẹ tôi có lòng thương cảm của tôi dành cho người đàn bà kia, người mà một chút nữa đã trở thành kẻ bóp vỡ trái tim mẹ tôi, người chỉ một chút đã làm cho mẹ con tôi ly biệt mãi mãi. Và có lúc tôi ước chiếc thuyền xưa trở lại bến sông làng tôi. Tôi sẽ bước lên chiếc thuyền nan bé nhỏ ấy. Tôi sẽ ngồi xuống trước người đàn bà và nói một câu gì đó để trái tim cô độc của bà được một chút hơi ấm. Còn giờ đây, khi viết những dòng này, lòng tôi mang một nỗi buồn rất lạ. Và tôi biết nỗi buồn ấy không bao giờ rời bỏ tôi.
PHỤ LỤC
Bài thơ: Nhân chứng của một cái chết
(Khúc 3)
Thuở ấu thơ tôi thường ra bờ sông. Tâm hồn bé nhỏ của tôi vang lên tiếng nước chảy. Tôi hỏi sao đôi bờ không theo nước ra đi? Tôi hỏi sao những cái cây cứ quẫy lên trong gió muốn giã từ chùm rễ của mình?
Tôi đứng bên bờ sông như đứng bên bờ của thế gian. Những con thuyền trôi trước tôi như ở một thế giới khác. Tôi nhìn thấy những đàn bà từ nước đi lên. Hai bàn tay họ giữ chặt hai bầu vú và biến vào bãi dâu. Và từ ngút ngàn dâu xanh những người đàn bà khốn khổ đi ra. Họ quảy những chiếc thùng và cất lên những tiếng nằng nặng như giọng nói từ trong ngôi mộ.
Có một chiều, một chiếc thuyền ghé bờ nơi tôi đứng. Từ trên thuyền người đàn bà kỳ dị nhìn tôi và thở dài. Bà rủ tôi lên thuyền đi sang bến bờ bên kia. Tôi hỏi bà sang đó làm gì? Và ở đó có gì? Người đàn bà không trả lời câu hỏi của tôi và chèo thuyền đi khuất
Người đàn bà ấy không con và thường qua khúc sông làng tôi. Đến bây giờ, những năm cuối thế kỷ, mẹ tôi vẫn nhớ rõ người đàn bà ấy. Đêm đêm mẹ tôi vẫn sợ hãi và vẫn nguyền rủa người đàn bà ấy. Hình dáng bà trong tôi như câu chuyện cổ. Lúc nào nhớ đến bà tôi lại tin chiều ấy chỉ có trong mơ.
Vì thế đêm nay tôi vẫn đứng ở bến bờ này. Tóc tôi giờ đã rụng, râu tôi giờ đã bạc. Nếu ngày ấy tôi lên thuyền tôi đã ở bến bờ khác.
Nhưng tôi đang ở bến bờ này với những người đàn bà đã còng lưng vẫn giữ chặt hai bầu vú từ nước đi lên. Bến bờ này trên những bãi dâu xanh bạt ngàn tiếng khóc. Bến bờ này làm đêm đêm tôi cầm đèn soi những căn phòng. Tôi nghe thấy tiếng lớp lớp bụi phủ lên những mặt người bất động. Tôi nghe tiếng rạn vỡ của đồ gốm và tiếng giãn nở của gỗ. Bến bờ này tôi đặt bao câu hỏi và trả lời bao câu hỏi. Bến bờ này tôi cày cuốc và tôi gieo hạt. Có bao con thuyền ghé bến sông làng tôi nhưng tôi không gặp lại người đàn bà xưa.
Đêm nay, trên bờ sông chảy qua thị xã, một bến bờ xác thực của thế gian. Xác thực như ngón tay thứ năm của bàn tay. Xác thực đến mức tôi nghi ngờ bàn tay lành lặn của mình. Và tôi thấy bến bờ bên kia năm tháng những ngọn gió thổi suốt đêm. Bến bờ này, tháng ngày đất sụp đổ nơi tôi đứng.
Và đêm nay, trong những chiếc thuyền phờ phạc đang tránh gió mưa, nép sát bờ đất, tôi đi tìm chiếc thuyền xưa. Và tôi lại cất lên nhũng câu hỏi tôi đã hỏi thuở ấu thơ:
Sao đôi bờ đất không theo nước chảy đi?
Sao những cái cây cứ quẫy lên trong gió để giã từ chùm rễ của mình?
Rút từ tập Bài ca những con chim đêm,
NXB Hội Nhà Văn 1999
HAI MƯƠI HAI
Trò chuyện về những cái cây đã chết
“Họ đã từng sống với chúng ta.” Một ai đó đã ghé vào tai tôi và thì thầm như thế. Họ - những cái cây - chứa đựng những phẩm hạnh tốt dẹp mà chúng ta đang đánh mất từng ngày và trỗi dậy trong sự tìm kiếm nhiều lúc lạc đuờng.
Năm 2001, trên đuờng trở về tù biên giới Pakistan - Afghanistan sau một tháng chứng kiến một phần cuộc tấn công của Quân đội Mỹ vào thủ đô Kabul, tôi dừng lại tại thành phố Karachi của Pakistan để bay về Việt Nam. Lần đầu tiên tôi chứng kiến một thành phố tưởng chừng chưa bao giờ mọc lên một cái cây nào. Karachi có hơn 12 triệu người và một số lượng quạ khổng lồ. Trong hoàng hôn của thành phố, tôi nhìn thấy chúng đậu kín những mái nhà và tôi cảm tưởng như những mái nhà được lợp bằng quạ. Thật vô cùng khó khăn cho chúng có thể kiếm được một vòm cây để đậu xuống. Đây là thành phố ít cây nhất trong hàng chục thành phố trên thế giới mà tôi đã đi qua. Một công dân của thành phố này nói họ có thể đổi một mạng người để lấy một cái cây cho thành phố này. Câu nói ấy làm cho tôi rùng mình. Có gì đó như vô cảm, như độc ác nhưng lại là một sự thật. Một sự thật của khát vọng như mê dại.
Chúng ta cần những cái cây như cần một con người có tâm hồn đẹp trên thế gian này. Một ai đó đã từng nói: Con người trước kia vốn là những cái cây. Tôi đã tin điều ấy. Những cái cây đã hiện lên quanh tôi thuở ấu thơ mãi mãi vẫn còn trong trí nhớ tôi như những người thân đã sống cùng tôi trong những năm tháng ấy. Và không phải mộng mị, cũng không phải do bệnh hoang tưởng, mà là sự thật khi tôi đã thấy những cái cây thở ấu thơ mọc trên những con đường chốn thôn quê hiện về trong một đêm thành phố oi bức và ngạt thở. Những cái cây hiện về giống linh hồn của những người thân đã khuất. Hiện về xanh biếc và lấp lánh ánh sáng của những phiến lá và rực rỡ của những chùm quả. Chúng đứng cạnh chúng ta và tỏa tỏa xuống chúng ta tinh thần của những vẻ đẹp mà chúng ta không hề biết.
Trong một trận bão năm trước, người ta thông báo có quá nhiều cây cổ thụ ở Vũng Tàu bị đổ. Những nhân viên của một cơ quan ăn lương Nhà nước làm nhiệm vụ trông coi môi trường của thành phố đã mang những chiếc cưa máy đến và vô cảm cắt xẻ những cái cây cổ thụ. Hành động này làm tôi chợt nhớ đến những câu thơ tôi viết về những gã thợ xẻ đeo mặt nạ, một cái mặt vô cảm, trong những giấc mộng đầy nỗi sợ hãi và sự đe dọa nào đấy:
Chúng ta nằm bên nhau cắt chéo chiếc giường
Những cái cây bị quật đổ sau bão
Và trong mơ những gã thợ xẻ đeo mặt nạ
Đang bật những dây mực dọc thân thể chúng ta
Trong im lặng tuyệt đỉnh những gã thợ
Xẻ chúng ta thành những tấm thẫm đỏ
Lưỡi cưa đi qua chúng ta lóe lên ánh chớp
Máu phun lên từng đám mùn cưa.
Và tôi luôn luôn mang nỗi ám ảnh sợ hãi như vậy khi thấy những nhân viên mang cưa máy cắt và xẻ những cái cây đẹp trong thành phố mà tôi từng nhìn thấy. Tôi không hiểu vì sao chính quyền thành phố lại không chỉ đạo chống bão cho những cái cây cổ thụ. Quá nhiều người chúng ta không bao giờ nghĩ đến điều ấy. Và tôi tin sẽ không ít người cho tôi là kẻ tâm thần khi nói đến những cái cây như nói đến những con người. Việc chống bão cho những cái cây cổ thụ không phải điều mới lạ. Rất nhiều thành phố trên thế giới đã làm việc này từ lâu. Những cái cây cổ thụ đối với họ là một di sản thiên nhiên. Còn đối với chúng ta chỉ là một đống củi. Sự khác biệt của đẳng cấp văn hóa là ở chỗ này. Sự khác biệt ấy cho thấy khả năng hưởng thụ văn hóa của con người. Ai có khả năng hưởng thụ văn hóa sâu sắc hơn thì người đó tìm thấy ý nghĩa của đời sống tinh thần hơn. Và những người như thế được sống nhiều hơn những kẻ khác trong một cuộc sống mà thời gian sống và điều kiện sống bằng nhau.

Khi một cái cây biến mất thì nó để lại nơi đó một lỗ thủng. Nó để lại một sự trống rỗng không bù đắp được. Một ngôi nhà bị đổ có thể xây lại trong hai, ba năm. Nhưng một cái cây 100 năm tuổi biến mất chúng ta phải đợi 100 năm nữa mới được nhìn thấy. Nhiều năm trước kia, người ta đã cho lấp những hồ nước ở Hà Nội để xây nhà. Khi biết chuyện này, tôi vô cùng ngạc nhiên. Tôi kể chuyện đó với một người bạn nước ngoài và không chỉ ngạc nhiên, ông kinh hoàng, ông không tin điều đó. Rồi ông nổi giận. Ông thấy chính ông bị xúc phạm. Ông không phải là người Hà Nội và có một ngôi nhà ven hồ nước bị lấp đó. Nghĩa là quyền lợi của cá nhân ông không bị ảnh hưởng. Nhưng hành động lấp hồ nước, đối với ông, là một hành động điên rồ không thể tha thứ được.
Tôi đã dừng lại rất lâu ở một góc phố nơi nhiều năm trước có một cái cây đẹp như cái cây trên Thiên đường. Nhưng một ngày, những gã thợ xẻ ăn lương không đeo mặt nạ như những gã thợ xẻ tôi gặp trong một cơn ác mộng nhưng lại mang những gương mặt vô cảm hơn những chiếc mặt nạ đến và hạ đổ cái cây. Tôi thường dừng lại nơi cái cây bị đốn gục. Có một khoảng trống rỗng không đáy ở nơi đó thật. Những điều tôi đang viết đây không phải là văn chương. Đó là sự thật. Nhưng quá nhiều người đã không biết đến sự thật này. Tôi đã dừng lại và nuối tiếc khôn nguôi. Nơi cái cây bị hạ gục bây giờ mọc lên một tòa nhà nặng nề và quái gở như một căn bệnh.
Vào một đêm khuya khoắt, tôi đi bộ trong thành phố vắng người. Lúc này, những cái cây hiện ra như những công dân chính thức của thành phố và sống một cuộc sống đích thực của họ. Tôi dùng từ HỌ để gọi những cái cây. Bởi họ luôn luôn mang một tâm hồn lộng lẫy. Họ luôn dịu dàng, nhân ái và che chở chứng ta. Họ đã thực sự cứu rỗi chúng ta trong nhiều cách mà chúng ta không nhận ra. Họ chỉ mang một ngôn ngữ khác ngôn ngữ chúng ta đang sử dụng hằng ngày. Nếu chúng ta hiểu được ngôn ngữ ấy, chúng ta sẽ thấy họ luôn luôn dạy bảo chúng ta nhiều điều: sự kiên nhẫn, lòng nhân ái, sự dâng hiến và những vẻ đẹp của tâm hồn giản dị với sự nồng ấm từ thân mộc và tiếng xào xạc của những vòm lá.
Mỗi cái cây trong thành phố bị hạ gục bởi cưa máy sẽ mãi mãi ra đi như những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta hãy tưởng tượng một ngày tỉnh giấc, chúng ta không còn nhìn thấy một cái cây nào nữa ở trong vườn, trước cửa nhà hay dọc con phố của mình. Có thể chúng ta không nhận thấy sự cần thiết vô cùng của họ trong một thời gian dài. Nhưng tâm hồn chúng ta sẽ giống như người ủ bệnh nhiều năm. Chúng sẽ ta đau ốm, mệt mỏi và thấy trống vắng. Và đến lúc này, trong tôi lại hiện lên những gã thợ xẻ đeo mặt nạ đến và bật những dây mực dọc thân thể chúng ta. Tôi đã nhìn thấy cảnh tượng đó. Và có bao nhiêu người cũng nhìn thấy như tôi.
HAI MƯƠI HAI
Trò chuyện về những cái cây đã chết
“Họ đã từng sống với chúng ta.” Một ai đó đã ghé vào tai tôi và thì thầm như thế. Họ - những cái cây - chứa đựng những phẩm hạnh tốt dẹp mà chúng ta đang đánh mất từng ngày và trỗi dậy trong sự tìm kiếm nhiều lúc lạc đuờng.
Năm 2001, trên đuờng trở về tù biên giới Pakistan - Afghanistan sau một tháng chứng kiến một phần cuộc tấn công của Quân đội Mỹ vào thủ đô Kabul, tôi dừng lại tại thành phố Karachi của Pakistan để bay về Việt Nam. Lần đầu tiên tôi chứng kiến một thành phố tưởng chừng chưa bao giờ mọc lên một cái cây nào. Karachi có hơn 12 triệu người và một số lượng quạ khổng lồ. Trong hoàng hôn của thành phố, tôi nhìn thấy chúng đậu kín những mái nhà và tôi cảm tưởng như những mái nhà được lợp bằng quạ. Thật vô cùng khó khăn cho chúng có thể kiếm được một vòm cây để đậu xuống. Đây là thành phố ít cây nhất trong hàng chục thành phố trên thế giới mà tôi đã đi qua. Một công dân của thành phố này nói họ có thể đổi một mạng người để lấy một cái cây cho thành phố này. Câu nói ấy làm cho tôi rùng mình. Có gì đó như vô cảm, như độc ác nhưng lại là một sự thật. Một sự thật của khát vọng như mê dại.
Chúng ta cần những cái cây như cần một con người có tâm hồn đẹp trên thế gian này. Một ai đó đã từng nói: Con người trước kia vốn là những cái cây. Tôi đã tin điều ấy. Những cái cây đã hiện lên quanh tôi thuở ấu thơ mãi mãi vẫn còn trong trí nhớ tôi như những người thân đã sống cùng tôi trong những năm tháng ấy. Và không phải mộng mị, cũng không phải do bệnh hoang tưởng, mà là sự thật khi tôi đã thấy những cái cây thở ấu thơ mọc trên những con đường chốn thôn quê hiện về trong một đêm thành phố oi bức và ngạt thở. Những cái cây hiện về giống linh hồn của những người thân đã khuất. Hiện về xanh biếc và lấp lánh ánh sáng của những phiến lá và rực rỡ của những chùm quả. Chúng đứng cạnh chúng ta và tỏa tỏa xuống chúng ta tinh thần của những vẻ đẹp mà chúng ta không hề biết.
Trong một trận bão năm trước, người ta thông báo có quá nhiều cây cổ thụ ở Vũng Tàu bị đổ. Những nhân viên của một cơ quan ăn lương Nhà nước làm nhiệm vụ trông coi môi trường của thành phố đã mang những chiếc cưa máy đến và vô cảm cắt xẻ những cái cây cổ thụ. Hành động này làm tôi chợt nhớ đến những câu thơ tôi viết về những gã thợ xẻ đeo mặt nạ, một cái mặt vô cảm, trong những giấc mộng đầy nỗi sợ hãi và sự đe dọa nào đấy:
Chúng ta nằm bên nhau cắt chéo chiếc giường
Những cái cây bị quật đổ sau bão
Và trong mơ những gã thợ xẻ đeo mặt nạ
Đang bật những dây mực dọc thân thể chúng ta
Trong im lặng tuyệt đỉnh những gã thợ
Xẻ chúng ta thành những tấm thẫm đỏ
Lưỡi cưa đi qua chúng ta lóe lên ánh chớp
Máu phun lên từng đám mùn cưa.
Và tôi luôn luôn mang nỗi ám ảnh sợ hãi như vậy khi thấy những nhân viên mang cưa máy cắt và xẻ những cái cây đẹp trong thành phố mà tôi từng nhìn thấy. Tôi không hiểu vì sao chính quyền thành phố lại không chỉ đạo chống bão cho những cái cây cổ thụ. Quá nhiều người chúng ta không bao giờ nghĩ đến điều ấy. Và tôi tin sẽ không ít người cho tôi là kẻ tâm thần khi nói đến những cái cây như nói đến những con người. Việc chống bão cho những cái cây cổ thụ không phải điều mới lạ. Rất nhiều thành phố trên thế giới đã làm việc này từ lâu. Những cái cây cổ thụ đối với họ là một di sản thiên nhiên. Còn đối với chúng ta chỉ là một đống củi. Sự khác biệt của đẳng cấp văn hóa là ở chỗ này. Sự khác biệt ấy cho thấy khả năng hưởng thụ văn hóa của con người. Ai có khả năng hưởng thụ văn hóa sâu sắc hơn thì người đó tìm thấy ý nghĩa của đời sống tinh thần hơn. Và những người như thế được sống nhiều hơn những kẻ khác trong một cuộc sống mà thời gian sống và điều kiện sống bằng nhau.
Khi một cái cây biến mất thì nó để lại nơi đó một lỗ thủng. Nó để lại một sự trống rỗng không bù đắp được. Một ngôi nhà bị đổ có thể xây lại trong hai, ba năm. Nhưng một cái cây 100 năm tuổi biến mất chúng ta phải đợi 100 năm nữa mới được nhìn thấy. Nhiều năm trước kia, người ta đã cho lấp những hồ nước ở Hà Nội để xây nhà. Khi biết chuyện này, tôi vô cùng ngạc nhiên. Tôi kể chuyện đó với một người bạn nước ngoài và không chỉ ngạc nhiên, ông kinh hoàng, ông không tin điều đó. Rồi ông nổi giận. Ông thấy chính ông bị xúc phạm. Ông không phải là người Hà Nội và có một ngôi nhà ven hồ nước bị lấp đó. Nghĩa là quyền lợi của cá nhân ông không bị ảnh hưởng. Nhưng hành động lấp hồ nước, đối với ông, là một hành động điên rồ không thể tha thứ được.
Tôi đã dừng lại rất lâu ở một góc phố nơi nhiều năm trước có một cái cây đẹp như cái cây trên Thiên đường. Nhưng một ngày, những gã thợ xẻ ăn lương không đeo mặt nạ như những gã thợ xẻ tôi gặp trong một cơn ác mộng nhưng lại mang những gương mặt vô cảm hơn những chiếc mặt nạ đến và hạ đổ cái cây. Tôi thường dừng lại nơi cái cây bị đốn gục. Có một khoảng trống rỗng không đáy ở nơi đó thật. Những điều tôi đang viết đây không phải là văn chương. Đó là sự thật. Nhưng quá nhiều người đã không biết đến sự thật này. Tôi đã dừng lại và nuối tiếc khôn nguôi. Nơi cái cây bị hạ gục bây giờ mọc lên một tòa nhà nặng nề và quái gở như một căn bệnh.
Vào một đêm khuya khoắt, tôi đi bộ trong thành phố vắng người. Lúc này, những cái cây hiện ra như những công dân chính thức của thành phố và sống một cuộc sống đích thực của họ. Tôi dùng từ HỌ để gọi những cái cây. Bởi họ luôn luôn mang một tâm hồn lộng lẫy. Họ luôn dịu dàng, nhân ái và che chở chứng ta. Họ đã thực sự cứu rỗi chúng ta trong nhiều cách mà chúng ta không nhận ra. Họ chỉ mang một ngôn ngữ khác ngôn ngữ chúng ta đang sử dụng hằng ngày. Nếu chúng ta hiểu được ngôn ngữ ấy, chúng ta sẽ thấy họ luôn luôn dạy bảo chúng ta nhiều điều: sự kiên nhẫn, lòng nhân ái, sự dâng hiến và những vẻ đẹp của tâm hồn giản dị với sự nồng ấm từ thân mộc và tiếng xào xạc của những vòm lá.
Mỗi cái cây trong thành phố bị hạ gục bởi cưa máy sẽ mãi mãi ra đi như những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta hãy tưởng tượng một ngày tỉnh giấc, chúng ta không còn nhìn thấy một cái cây nào nữa ở trong vườn, trước cửa nhà hay dọc con phố của mình. Có thể chúng ta không nhận thấy sự cần thiết vô cùng của họ trong một thời gian dài. Nhưng tâm hồn chúng ta sẽ giống như người ủ bệnh nhiều năm. Chúng sẽ ta đau ốm, mệt mỏi và thấy trống vắng. Và đến lúc này, trong tôi lại hiện lên những gã thợ xẻ đeo mặt nạ đến và bật những dây mực dọc thân thể chúng ta. Tôi đã nhìn thấy cảnh tượng đó. Và có bao nhiêu người cũng nhìn thấy như tôi.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Hồi tưởng tháng Bảy
Chúng ta nằm bên nhau cắt chéo chiếc giường
Những cái cây bị quật đổ sau bão
Trong giấc mơ anh thấy những gã thợ xẻ đeo mặt nạ
Đang bật những dây mực dọc thân thể chúng ta
Trong im lặng tuyệt đỉnh, những gã thợ
Xẻ chúng ta thành những tấm thẫm đỏ
Lưỡi cưa chạy qua chúng ta lóe lên ánh chớp
Và mùn cưa phun lên từng chùm pháo hoa
Chiếc giường biến thành xưởng gỗ,
những mảnh đời sống chúng ta la lỉệt
Rồi biến thành giường tủ, bàn ăn và những cỗ áo quan
Chúng ta hiển thị mọi nơi, những cái cây
không nhận ra chúng ta
Và bản thân chúng ta lúc đó chỉ còn là
một ký ức câm điếc
Những gã thợ xẻ không bao giờ nghĩ
Chúng ta có thể sống lại trong mùn cưa,
phoi bào và những đoạn gỗ thừa
Và thế chúng ta được ném vào lửa, chúng ta bốc cháy
Trong cuộc hỏa hoạn này đời sống chúng ta phô bày
Rồi trong chiếc áo quan gã thợ xẻ
được đưa đi khỏi xưởng gỗ
Dọc con đường dựng lên bởi những hàng cây
Chấp nhận lời cầu xin của gã trong bản di chúc
Chúng ta không tháo chiếc mặt nạ ra.
Rút từ Bài ca những con chim đêm,
NXB Hội Nhà Văn 1999
HAI MƯƠI BA
Chúng ta đi qua Thiên đường với đôi mắt mù
Nhà thơ giải Nobel văn chương J. Brodsky nói khi ông không làm thơ, thế gian chỉ là một địa ngục.
Đã có một thời gian dài tôi từng nghĩ như ông. Và chính thế đã có lúc ngồi trên máy bay, tôi không muốn trở về mặt đất nữa. Tôi đã từng tuyệt vọng. Và tôi đã từng lấy mọi thứ có thể để chống lại sự trống rỗng khổng lồ trong tôi. Cũng chính thế mà tôi từng rồ dại, từng sai lầm, từng đi như một kẻ mù lòa, từng căm thù chính tôi. Có một nhà văn nước ngoài viết ông thực sự kinh hãi con người. Khi đang ở tuổi mười tám, đôi mươi, tôi đã không tin điều ấy. Nhưng rồi tôi là nhân chứng của sự kinh hãi ấy. Tôi đã kinh hãi con người. Và đôi lần, tôi đã kinh hãi chính tôi. Tôi là một con người với một linh hồn và một thân xác. Linh hồn tôi vô hình còn thân xác tôi hiện hữu. Cái vô hình thường làm chúng ta vô trách nhiệm với nó. Trong khi đó chúng ta quá mải mê chăm sóc hay nói chính xác hơn là hầu hạ cái hiện hữu. Chúng ta đã để cho cái hiện hữu đày đọa chúng ta. Sự hiện hữu này là một hiện thực mà chúng ta phải chấp nhận. Thân xác chúng ta là thách thức lớn nhất của chúng ta. Có một lần tôi hỏi mấy người bạn nhà văn rằng họ đang sống với lí do gì? Những người được hỏi bắt đầu nhìn lại phần đời sống họ đã đi qua trong nhiều năm và nhận thấy rằng: họ đã sống như một bản năng. Những điều tôi đang nói và câu trả lời của những người bạn là một hiện thực. Mặc dù, hầu hết chúng ta luôn luôn tìm cách chống lại hiện thực đó. Bởi chúng ta sợ hãi sự vô nghĩa do chính chúng ta làm ra. Chúng ta đã bị hiện thực giết chết. Bởi chúng ta không bao giờ chấp nhận hoặc chấp nhận với đầy ngờ vực một đời sống tinh thần kỳ diệu như ở Thiên đường ngay trên thế gian này. Chúng ta biện minh cho cái hiện thực tồi tệ của chúng ta bằng quá nhiều giá trị của đạo đức, của nghĩa vụ và của ý thức.
Ngày ngày, chúng ta thức dậy nặng nề và vội vã. Chúng ta vội vã ăn sáng, vội vã đến công sở và làm những công việc với một sự gắng gượng. Rồi chúng ta nhòm ngó nhau, chúng ta mưu mô, chúng ta tranh giành nhau, chúng ta thù hận nhau, chúng ta hạ bệ nhau, đàn áp nhau và giam cầm nhau. Rồi chúng ta vội vã ăn trưa. Rồi chúng ta ngạo mạn một cách ngu xuẩn. Rồi chúng ta tự mãn một cách đê tiện. Chúng ta vội vã mua sắm. Chúng ta vội vã xây dựng nhà cửa. Chúng ta vội vã tích lũy tiền, vàng. Rồi chúng ta vội vã từ công sở trở về nhà. Vội vã ăn tối và lăn ra ngủ với đầy khát thèm của ý thúc chiếm đoạt trong ngày mai. Cái vòng quay ghê tởm này đã không tha bất cứ một kẻ nào. Nhưng có những kẻ nhận ra điều ấy và tìm cách thoát khỏi nó. Nhưng không ai dám nói anh ta hoàn toàn thoát khỏi cái vòng quay ấy khi anh ta vẫn mang trên mình một hiện hữu: thân xác. Thân xác ở đây chính là sự hiện hữu của dục vọng. Nhưng đó lại không phải là điều hệ trọng nhất. Điều quan trọng nhất là anh ta luôn luôn ý thức được điều đó và hành động cho sự tự do của tâm hồn mình.
Đã có một lần tôi mơ thấy mình bay lơ lửng trên cao và nhìn xuống thế gian. Tôi chắc không chỉ mình tôi đã mơ như thế. Và từ trên cao tôi nhìn thấy chính tôi đang cùng biết bao người khác chen chúc trên những con đường trên mặt đất. Một cảnh tượng hỗn loạn và thật tội nghiệp hiện ra trước mắt tôi. Khi chúng ta thoát ra khỏi chúng ta để quay đầu nhìn lại chính chúng ta, chúng ta mới thật sự kinh hãi về những năm tháng chúng ta đã sống và đang sống. Chẳng lẽ chúng ta, những kẻ được quyền cất giữ những giấc mơ đẹp, lại hiện ra thật tồi tệ và đầy đọa đến như thế kia. Và trong đám đông bất tận đang chen chúc, đang nguyền rủa nhau, đang mưu mô, đang độc ác, đang lầm lạc, đang tuyệt vọng, tôi thấy những đôi mắt ngước lên. Họ đang cầu xin và mơ ước được đến Thiên đường một ngày nào đó. Và trong những người ngước mắt lên mơ đến một Thiên đường đã có quá nhiều người gục xuống bởi tuyệt vọng về chính điều họ mơ đến. Họ không đủ kiên nhẫn đợi chờ cái ngày họ được đến Thiên đường. Họ đã gục ngã trong bóng tối của vô vọng. Họ đã mắc một sai lầm lớn nhất khi họ nghĩ đến Thiên đường như một nơi chốn kỳ diệu ở phía thẳm xa kia.
Nhưng với tôi, Thiên đường ở ngay cạnh chúng ta, chỉ cách một lớp áo, một làn da và nói cho đúng hơn thì Thiên đường ở ngay trong lòng bàn tay của chúng ta. Nhưng chúng ta đã không tin và không nhìn thấy điều ấy. Tôi đã có lần nói chuyện với một linh mục về Thiên đường. Tôi nói với ông rằng, nếu Thiên đường chỉ là nơi trong suốt, nơi chúng ta một màu xanh lơ lửng trôi, nơi chúng ta không cần đến giọng nói và ánh mắt, nơi không có những cái cây và những hồ nước... thì có lẽ tôi phải xem lại rằng tôi có muốn về nơi ấy hay không? Bởi tôi, cụ thể con người tôi, càng ngày càng thấy rằng ở chính nơi làng quê tôi, nơi thành phố tôi ở, tôi đã thấy Thiên đường hiện ra và tôi đã được sống trong cảnh huy hoàng kỳ vĩ ấy. Tôi đã từng có những chiều đi chân trần trên cánh đồng rực vàng của lúa chín với cõi lòng thanh sạch vô cùng. Lúc ấy, tôi được chìm đắm trong hương lúa, trong gió từ những chân trời vô tận thổi về và trong bầu trời trong vắt. Và lúc ấy, một giai điệu ngọt ngào từ đâu đó dâng lên mãi tràn ngập tâm hồn và thể xác tôi. Và tôi tin hơn bao giờ hết đấy là một hình ảnh đích thực của Thiên đường.
Tôi nói với một người bạn rằng khi bạn cúi xuống bên người thân yêu của bạn và nói, “Anh hạnh phúc biết nhường nào”, thì lúc đó một hình ảnh của Thiên đường xuất hiện. Khi bạn đốt những ngọn nến lên vào một buổi tối trong ngôi nhà của bạn và rót rượu vang đỏ vào những chiếc cốc pha lê cùng âm nhạc, cùng lời thì thầm kỳ diệu về những điều kỳ diệu nào đấy với bạn bè quanh bạn thì đấy là một hình ảnh của Thiên đường. Khi bạn thức dậy trong buổi sáng mùa xuân, bạn nhìn qua ô cửa và thấy hoa mận nở trắng trong vườn, bạn ngửi thấy mùi hương quyến rũ và tinh khiết vô tận của hoa mộc, bạn khẽ khàng bước vào khu vườn của bạn, lòng bạn vang lên giai điệu của đất trời và ngập tràn ánh sáng dương gian thì đó là một hình ảnh của Thiên đường. Bạn thử hỏi những hình ảnh kia, màu sắc kia, giai điệu kia, ánh sáng kia và những gương mặt thân yêu kia có phải là những hình ảnh lộng lẫy nhất và yên bình nhất không? Bạn thử hỏi bạn có mong ước nào hơn là được sống, được mở tâm hồn mình trước tất cả những điều kia không? Không. Không còn gì đẹp và yên bình hơn thế. Tất cả những cái đó không phải ở trên chín tầng mây. Tất cả những cái đó đang hiển lộ trước bạn kia ngay từ khi bạn sinh ra, nói đúng hơn là từ khi bạn hiện lộ trên thế gian này. Nhưng bạn và bao người khác và cả tôi đã từng đi qua những hình ảnh ấy mà chúng ta không biết. Dục vọng quá lớn làm chúng ta mù quáng. Chúng ta không tìm được một hình ảnh lộng lẫy, một khoảnh khắc yên bình, một giai điệu diệu kỳ ngay trong thế gian chúng ta đang sống. Thiên đường không phải là một thửa ruộng bên cạnh một thửa ruộng khác là Địa ngục. Khi một con người nhận biết được vẻ đẹp tuyệt đỉnh của đời sống thì Thiên đường lại được mở rộng ra với một “thể tích” bằng thể tích của người đó. Thiên đường chỉ không hiển hiện ở những nơi nào không có sự nhận biết vẻ đẹp của thời gian ấy và không gian ấy. Khi chúng ta nhận biết được những vẻ đẹp của thiên nhiên và của sự sống thì nghĩa là chúng ta nhận biết được Thiên đường. Thiên đường không phải là nơi chốn chúng ta được đến đó sau khi chết. Nó hiển hiện mọi nơi mọi lúc, trừ nơi u tối và lú lẫn của con người.
Trong buổi nói chuyện ở Trung tâm Giao lưu Văn hóa Quốc tế tại Hà Nội năm 2005, Thiền sư Thích Nhất Hạnh nhìn các thính giả và nói, “Tôi thấy các quí vị ở đây đều là những người thành đạt, có quyền lực và có tiền của, nhưng tôi không nhìn thấy những gương mặt mang sự yên bình. Sự yên bình, nói một cách đơn giản nhất, chính là Thiên đường. Khi sự yên bình tràn ngập lòng ta thì mọi đói khát, mọi bệnh tật, mọi mưu mô, mọi ngờ vực, mọi tăm tối, mọi tham lam, mọi độc ác... trong ta biến mất. Thiên đường là nơi chốn làm cho con người được sống như thế. Nhưng chúng ta đã không nhận ra được điều ấy. Chúng ta đã lao vào những trò chơi tồi tệ của quyền lực và dục vọng. Và trò chơi ấy đã lôi chúng ta đi một đoạn đường bằng cả cuộc đời mình. Chúng ta kết thúc cuộc đời chúng ta trong lú lẫn, trong hoang tưởng, trong giày vò, trong tính toán, trong đày đọa và trong tuyệt vọng. Và ngay cả đến lúc đó, chúng ta vẫn cầu nguyện để được bước vào lãnh địa của Thiên đường. Đấy là sai lầm ngớ ngẩn nhất của chúng ta. Và bởi vậy, chúng ta là những kẻ đi qua Thiên đường với đôi mắt mù lòa. Những gì tôi nói một cách đơn giản nhất trong những dòng chữ đơn giản này không mang tính tôn giáo hay thần học. Tất cả chỉ là sự chiêm ngưỡng của tôi, của chúng ta trong đời sống mà chúng ta đang sống mà thôi. Và tôi tin sau khi được trút bỏ thân xác nặng nề và đau đớn, chúng ta đều được ban phước, kể cả kẻ lầm lạc cho tới những vị thiền sư. Chúng ta sẽ được phép thiêng cho thấy Thiên đường. Và chúng ta sẽ kêu lên kinh ngạc: ‘Đó là nơi chốn tôi đã từng đi qua trong cuộc đời mình. Bởi ở đó vẫn là những cái cây ấy, dòng sông ấy, ao đầm ấy, hoa cỏ ấy, ánh lửa ấy, những con cá ấy, những cánh chim ấy và những gương mặt người ấy.’ Chỉ có điều tất cả những cái đó đều ngập tràn ánh sáng, ngập tràn âm nhạc và sự yên bình mà những khoảng khắc ấy chúng ta ít nhất một lần đã gặp trên thế gian mà chúng lại bước qua vì không nhận ra.”
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Sự chuyển động của cái đẹp
Đâu đấy, một cánh bướm run rẩy,
trong hơi thở tháng Giêng
Một cánh bướm như không có bởi mỏng hơn cả sự mơ hồ
Nhưng đã mở ra, ở đâu đó, một cánh bướm có thật
Không bồi màu sắc rực rỡ mà bởi như hơi nước đang tỏa
Chúng ta đổ ra quảng trường, chen lấn và xô đẩy
Một số ai đó gào thét và nhiều lúc đập phá
Và chúng ta quên đi, đâu đấy,
trong những lùm cây bé bỏng
đang rộn rã mùa sinh nở côn trùng
Đâu đấy ánh sáng không bao giờ tắt
trong cả những đêm
Và sự chuyển động mỗi lúc một mãnh liệt
trong cái kén bất động
Rồi đột ngột xuất hiện, trong sự chờ đợi của đất đai,
của cây cỏ và bầu trời, một sự sống diệu kỳ
với vẻ đẹp mong manh
Đâu đấy, không chỉ một đâu đấy, mà tràn ngập bất tận
Từ bóng tối đến ánh sáng, mở ra những cánh bướm
Và theo luồng hơi thở ấm áp và rộng lớn của tháng Giêng
Chúng mang vẻ đẹp của đời sống đi khắp thế gian
Mà không để lại một tiếng động nhỏ.
Rút từ Cây Ánh Sáng,
NXB Hội Nhà Văn 2008
HAI MƯƠI TƯ
Dương cầm của Tự do
Có thể là một chương tiểu thuyết? Một câu chuyện? Một giấc mộng khi đang thức? Nhưng lúc nào nó cùng làm đau đớn. Nó bắt đầu với những rời rạc...
Lần đầu tiên ông đưa Dung xuống hầm rượu là một buổi tối mùa đông mưa dầm dề.
Chị đi xích lô đến nhà ông. Hai người đứng áp vào nhau sau cánh cửa gỗ đã tróc hết sơn. Lần đầu tiên họ đứng gần nhau như vậy. Cả hai nghe rõ hơi thở và tiếng đập của trái tim trong lồng ngực. Ông chậm rãi lau những hạt mưa giá lạnh trên mặt chị. “Em run quá phải không?” chị hỏi. Ông vòng tay ôm chị. Chị thấy run hơn. Đã một năm nay kể từ ngày đầu tiên họ biết nhau, họ thường xuyên gặp nhau nhưng chưa bao giờ ông ôm chị. Họ đã yêu nhau. Nhưng hình như có một cái gì đó vẫn ngăn cách họ. Ông đã từng mơ cả hai người không quần áo nằm bên nhau, xung quanh họ chất đầy những hoa trên một con tàu rời bỏ thế gian. Thế nhưng khi gặp chị, ông lại như thấy cách xa. Có quá nhiều lí do cho sự cách xa ấy. Nhưng có lẽ lí do lớn nhất là ông luôn mang cảm giác chị là một thiên thần mà ông không có quyền chạm vào chị. Ông cảm giác da thịt ông là một sự thô bạo. Nhưng với Dung thì không. Dung đã bước đến với ông đầy tự tin và cuồng nhiệt. Sự tự tin và tình yêu nồng cháy của chị có lúc làm ông thấy xấu hổ. Bây giờ, chị đang ở trong vòng tay ông. Gần gũi và xa xôi. Yếu đuối và mạnh mẽ. Sợ sệt và tự tin. Còn ông lúc này đang ngây ngất, đang ngạt thở và đầy hoang mang.
Dung: Đừng bao giờ xa em nữa.
Minh: Anh không để em đi.
Dung: Tại sao em hay nghe thấy tiếng thở dài của anh? Tại sao đôi mắt anh lúc nào cũng buồn?
Minh: Em cũng buồn, tại sao vậy?
Cả ông và Dung không ai trả lời câu hỏi ấy. Cả hai chỉ biết mỗi ngày họ im lặng và buồn bã hơn. Tất cả những khát khao dâng hiến của ông cho một cái gì đó đang dần dần lụi tắt. Ông đã chờ đợi một sự thay đổi. Và khi sự thay đổi đến thì ông lại rơi vào một thất vọng khác. Thất vọng lần này đào một cái hố sâu hơn trong tâm hồn ông. Một người đầy tri thức, đầy khát vọng dâng hiến như ông bây giờ lại trở thành một người đàn ông ngồi lẩn mẩn đóng lại bìa cho những cuốn sách cũ. Nhưng những cuốn sách cũ có lẽ là những thứ còn lại ít ỏi trong cái thành phố cổ kính này làm ông có một chút ý nghĩa và chút niềm vui. Đã có nhiều lúc ông nghĩ ông sẽ ra đi khỏi thành phố này để đến một nơi nào đó. Nơi chỉ có thiên nhiên dịu dàng sẽ cứu rỗi được ông.
Tiếng đập cửa ầm ầm. Chị ngừng chơi. Nhưng những ngón tay vẫn run rẩy mãi trên những phím đàn. Cha mẹ chị và cậu em trai thức dậy bởi tiếng đập cửa gấp gáp. Tổ bảo vệ khu phố đang đập cửa. Cha chị lập cập bật đèn và mở cửa. Những người bảo vệ lầm lầm bước vào. Tất cả đứng nhìn chị như nhìn một vật lạ. Tóc chị xổ tung. Chị vẫn ngồi cúi đầu bất động. Gương mặt chị nhợt nhạt. Một người bảo vệ nói, “Có phải cô ta mắc bệnh thần kinh không?” Một người bảo vệ khác nói, “Tịch thu cái của nợ này lại. Làm náo loạn cả thành phố.” Chiếc piano không bị tịch thu. Nhưng ngày sau đó, những người lạ kia mang đến một tờ giấy có dấu đỏ và dán lên trên những phím đàn. Đó là một tờ giấy niêm phong với dòng chữ: “Không được chơi đàn vào buổi tối và cấm chơi những bản nhạc nước ngoài.” Ông chú chị biết chuyện đó nói với cha mẹ chị, “Nó muốn chơi đàn thì xung phong vào đội văn nghệ xung kích.” Cha mẹ chị đã van xin chị làm theo lời ông chú. Sáng hôm sau chị quyết định đi tàu điện lên chợ Đồng Xuân mua những chiếc lọ thủy tinh. Chị quyết định bỏ khát vọng dạy nhạc và bắt đầu một nghề mới: làm ô mai.
Bên ngoài gió lạnh vẫn thổi và mưa vẫn rả rích. Bóng tối trùm lên thành phố tưởng đã như thế ngàn năm nay. Đã có nhiều đêm ông đi bộ một mình trên phố trong những đêm mưa gió lạnh này. Ông đi và tự hỏi: Có thực là tôi đang sống không?
Dung đã nghe ông kể về cái “Thế giới tự do” này của ông nhưng chị vẫn ngạc nhiên khi bước chân xuống. Ngày đó chính là ngày mà trước đó một năm họ gặp nhau trên chuyến tàu điện. Ông đã nói cho chị nghe và chị như tưởng ông đang nói về một thiên đường có thật trên mặt đất. Nơi tràn ngập âm nhạc, tràn ngập những cuốn sách kỳ diệu và rượu vang và nến và tự do. Mỗi khi nghe ông kể về nơi đó của ông, chị thấy ông trẻ trung như một chàng trai mười tám tuổi. Những lúc như thế, chị ngồi im lặng trước ông và cảm xúc của chị trôi về một miền tràn ngập ánh sáng.
Ông chọn một chai vang và lau rất kĩ trước khi mở nút chai. Tiếng nút chai bật một tiếng quyến rũ. Ông luôn luôn xúc động vì tiếng bật ra của nút chai. Mùi rượu vang mơ hồ lan tỏa. Nó không bao giờ là hương vị của đồ uống. Nó là hương của những cánh đồng nho mà ông đã từng đón nhận vào máu thịt ông trong những năm tháng trước kia. Ông từng nói say đắm về những cánh đồng nho nước Pháp đến nỗi có người bạn ông đã phải kêu lên: “Kiếp trước cậu là người Pháp.” Ông chưa bao giờ là người Pháp và sẽ chẳng bao giờ là người Pháp. Nhưng những cánh đồng nho nước Pháp và những ngôi nhà gỗ nơi đó mãi mãi sống động và đẹp đến nao lòng trong ông. Đó là vẻ đẹp, đó là sự thanh bình, đó là báu vật của trời đất tặng cho con người. Ông đã đi qua đó, đã dừng lại và đã đón nhận. Đó cũng là món quà trời đất trao tặng cho ông. Tất cả những thứ đó đang hiển hiện trên thế gian và ông dù mang quốc tịch nào đi nữa cũng vẫn có quyền đón nhận như chính thứ rượu vang kia, như chính những bản nhạc kia. Tất cả những vẻ đẹp thuộc về tất cả những ai nhận biết ra chúng.
Ông rót rượu vào hai chiếc ly. Tiếng rượu chảy vào lòng ly pha lê vang lên như tiếng một dòng suối trên thiên đường chảy qua những tảng đá vàng. Ông đã từng nghỉ cả mùa hè ở một làng làm rượu nho nước Pháp. Người ta đã cho ông tham gia công việc kỳ diệu đó. Cho đến tận lúc này, ông vẫn thấy da thịt mình mê đi khi ông nghe tiếng vỡ của những quả nho chín chạm vào da thịt ông trong bể gỗ. Không biết có bao giờ ông được trở lại cái làng ấy. Nhiều lúc ông tự hỏi, tại sao mình lại yêu những cánh đồng nho nước Pháp đến như vậy? Mình có thiên vị không? Mình có bị cái nền văn minh phương Tây mê hoặc không? Nhưng đó đâu phải là nền văn minh phương Tây. Đó đâu phải là sản phẩm của những người Pháp trong toà nhà của phủ Toàn quyền. Đó là vẻ đẹp của thế gian này. Và mình có quyền được đón nhận như mọi người Pháp.
Ông đưa ly vang cho Dung.
Minh: Kỷ niệm một năm chúng ta gặp nhau.
Dung: Chúc mừng ngày đầu tiên em đặt chân lên Thế giới tự do.
Minh: Ừ... một thế giới tự do... ừ...
Tiếng ly pha lê vang lên như ai đó gõ một phím đàn. Tiếng pha lê chạm nhau vang mãi trong căn hầm nhỏ bé đầy bóng tối. Họ im lặng. Cả hai nghe đến tận cùng âm thanh của pha lê trong bóng tối. Con chuột xuất hiện.
Minh: Xin chào, khỏe chứ?
Ông đặt miếng biscốt vào một chiếc đĩa sứ nhỏ và đặt lên sàn hầm. Dung ngạc nhiên nhìn con chuột. Nó bò một cách thanh thản từ giá rượu xuống sàn hầm như một vị khách lịch sự nhất. Đến trước miếng bánh, nó dừng lại, vuốt râu và từ tốn ăn miếng bánh.
Dung: Anh nuôi nó à?
Minh: Chúa gửi ông ấy xuống cho anh.
Dung: Chúa gửi nó xuống cho anh trước hay gửi em xuống trước?
Minh: Người gửi em xuống trước.
Dung: Anh khéo nói lắm.
Minh: Anh gặp em trước ông ấy mà.
Dung: Chúa gửi nó xuống làm gì?
Minh: Để làm nhân chứng cho chúng ta.
Dung: Dù sao em cũng không thích chuột.
Minh: Con chuột này khác. Chúa gửi những con chuột xuống nhưng một số đã phản bội lại lòng tin yêu của Người. Đó là những con chuột em không thích. Cũng như Người gửi xuống thế gian những con người và một số kẻ biến thành quỷ dữ.
Dung: Có vẻ cậu ta thích món này.
Minh: Ông ấy nghiện rồi. Mời món khác ông ấy không xơi.
Dung: Anh đặt tên nó là gì?
Minh: Anh chưa nghĩ. Em giúp anh đi.
Dung: Ngài Biscốt.
Minh: Quá hay. Ngài Biscốt.
Minh cười.
Con chuột ngừng ăn nhìn Minh.
Minh: Xin lỗi Ngài Biscốt, tôi thật bất lịch sự.
Dung: Em không thể nào tưởng tượng nổi rằng anh lại có một chốn như thế này. Hơn cả thiên đường đấy.
Minh: Anh mê rượu vang mà.
Dung: Không chỉ là rượu vang.
Minh: Anh thèm đọc sách và làm thơ.
Dung: Cũng không chỉ thế.
Minh: Vậy là cái gì?
Dung: Tất cả và hơn thế. Em không nói rõ ràng ra được. Những ai đã được anh mời xuống đây?
Minh: Hai người. Em và Ngài Biscốt.
Dung: Tại sao một luật sư lại có thể làm thơ được?
Minh: Luật là sự công bằng của xã hội còn thơ là sự công bằng của tâm hồn.
Dung: Em yêu anh.
Họ chạm ly. Tiếng pha lê chạm nhau ngân mãi như không bao giờ dừng lại. Họ đợi cho âm thanh kỳ diệu đó như tan sâu vào bóng tối loang lổ trong hầm rượu thì mới nâng ly lên uống.
Dung: Em say mất.
Minh: Say thì em ngủ lại trong Thế giới tự do này.
Dung: Em mơ ước vậy, nhưng em vẫn chưa hoàn toàn thuộc về cái thế giới ấy.
Minh: Em hãy chơi một bản gì đó đi...
Dung: Anh say rồi... đàn đâu nào?
Minh: Dưới những ngón tay của em đấy.
Dung xòe hai bàn tay ra. Trong ánh sáng chập chờn của nến, mười ngón tay chị trải dài như những vệt sáng từ một ô cửa của một Thánh đường trong buổi hoàng hôn. Chị nhìn mãi vào những ngón tay của mình như lần đầu tiên chị khám phá ra những ngón tay đó. Mười ngón tay cứ xòe ra như thế trong ảo mờ tối, sáng và như trải dài bất tận. Và Minh lại nhớ đến con tàu đưa họ rời bỏ thế gian buồn bã và u tối. “Em hãy ngồi xuống và chơi đi...” Minh thì thào. Ông lấy chiếc ghế mây và đặt giữa phòng. Dung bước từng bước đến bên chiếc ghế và ngồi xuống. Hai bàn tay như đang đặt trên những phím đàn.
Một nhà hát kỳ vĩ hiện ra. Tất cả nến được thắp sáng. Minh đặt chiếc ghế vào trong góc tối của căn hầm và ngồi xuống. Chưa bao giờ ông cảm thấy một điều kỹ vĩ như buổi tối này đang xảy ra. Ông nhìn chị chờ đợi. Im lặng thật lâu. Thế gian như chưa bao giờ im lặng như thế. Đầu chị hơi cúi xuống. Nến hắt một vầng sáng lên gương mặt xanh xao và huyền bí của chị. Một tiếng đàn vang lên. Những ngón tay của chị bắt đầu chuyển nhẹ như những gọn sóng khi có một làn gió mỏng lướt qua mặt hồ nước phăng lặng. Rồi những ngón tay mềm như những sợi nước chuyển động không ngừng. Minh nhắm mắt lại. Máu trong thân thể ông chuyển động kỳ lạ. Những giai điệu kỳ lạ tràn qua ông. Những đường phố trống rỗng. Những ngọn gió của mùa đông. Những ngôi nhà đầy bóng tối. Tiếng người khóc đâu đấy trong bóng tối mênh mông này. Tiếng đổ vỡ của một cái gì đó. Và tiếng bật mở của những ô cửa. Và ánh sáng. Và con tàu đã đến. Và họ đã bước lên con tàu đó, trút bỏ những thống khổ như trút bỏ áo quần trên cánh đồng ngập tràn hương ngũ cốc và ánh sáng. Và họ ra đi. Và những dòng sông vang lên nhịp chảy của nước. Và những vòm cây rung những hồi chuông lớn. Những ngón tay lộng lẫy của chị lướt trong bóng tối trên những phím đàn của khát vọng tự do và tình yêu. Chưa bao giờ ông được nghe một bản nhạc nào như thế. Mái tóc của chị được búi gọn giờ xổ tung đổ xuống hai vai. Gương mặt chị hắt một ánh sáng xanh. Nước mắt ngập tràn trên gương mặt chị. Lúc này, những ngón tay tung lên như những con sóng lớn của biển cả và đổ xuống những ghềnh đá. Chưa bao giờ ông lại được nghe một bản nhạc kỳ lạ như thế. Ông đã từng đến những nhà hát ở Paris. Nhưng không có một nhà hát nào trên thế gian này kỳ vĩ và linh thiêng như nơi ông đang ngồi. Bởi ông đang ngồi dưới bầu trời bất tận và đang nghe một bản nhạc của máu, nước mắt, của tiếng sấm ái tình và những hơi thở đau đớn và rực nóng của khát vọng tự do.
Dung ngừng chơi. Hai cánh tay chị buông thõng. Một phần hai cánh tay chị ngập trong bóng tối bởi ngọn nến để trên bàn không đủ ánh sáng tỏa sáng cả căn hầm. Mặt chị ngửa lên, đầm đìa mồ hôi, hai mắt nhắm lại như ngủ. Minh ngồi như gục trên ghế. Im lặng kéo dài bất tận.
Con chuột trốn đâu đó trong bóng tối căn hầm đã xuất hiện trở lại từ lúc nào. Nó ngồi im lặng trên giá gỗ bên cạnh một chai rượu.
Minh bước lại bên Dung. Ông cầm lấy hai bàn tay chị và từ từ dâng lên. “Anh đã nghe được tất cả.” Ông áp hai bàn tay chị vào mặt. Chợt hai người ôm lấy nhau. Họ hôn nhau. Thế gian chưa từng có cảnh tượng nào như thế. Quần áo Dung trút xuống. Tiếng thì thầm vang lên bên Minh: “Em dâng hiến cho anh.” Căn hầm mỗi lúc một sáng lên và ngập tràn tiếng thở của hai người. Cả thành phố nơi họ sống không một ai biết được rằng: dưới lòng đất có một khoảng không bé nhỏ đầy bóng tối, âm nhạc đã rền vang và ánh sáng của da thịt họ đã rạng ngời như những ban mai. Máu chảy mạnh hơn mọi con sông trong thân thể họ.
Chỉ có Ngài Biscốt vẫn mở hai đôi mắt tròn đen láy nhìn họ. Ngài là nhân chứng duy nhất cho những điều kỳ diệu đã xảy ra. Đến một ngày nào đó, râu tóc Ngài bạc trắng, Ngài sẽ kể lại cho con cháu sau này của Ngài về những gì đã hiển lộ trong căm hầm đầy bóng tối này. Một đứa cháu Ngài chỉ thích cắn những hạt đỗ đỏ luôn miệng nói: “Cháu chẳng tin những chuyện ông kể. Chẳng có gì hơn những hạt đỗ đỏ tròn căng này. Đã qua rồi cái thời của những câu chuyện lãng mạn.”
Nhưng đó là lời ngây thơ của một con chuột nhỏ dễ thương. Nó phải được tha thứ. Và nó sẽ lớn lên. Nó sẽ hiểu tất cả.
Gần sáng có mưa. Tiếng mưa trong thành phố đêm tĩnh lặng làm ông tỉnh giấc. Ông thấy tâm hồn vang lên một bản nhạc dịu dàng và thẳm sâu. Ông nhớ Dung. Trong giấc mơ lúc gần sáng, ông thấy Dung nằm trên cánh đồng đầy nắng. Và từ thân thể chị, những bông hoa vàng mọc lên rực rỡ. Những bông hoa lan mãi trên cánh đồng và sau đó tràn ngập cả chân trời. Lúc đó, ông thấy Dung như từ trong bức sơn dầu bước ra. Trong căn hầm chật chội thì bức sơn dầu đã mở ra một thế gian bất tận và một bầu trời mênh mông. Mỗi lúc nhìn bức tranh, ông lại thấy thế gian biến ảo lạ kỳ. Bốn mùa đã đi qua vòm lá của cái cây trong bức tranh kia. Lá non. Hoa nở. Mùa quả chín. Những tổ chim. Tiếng lá khua vang. Những cành cây trong mùa đông vạch vào nền trời như những con đường lên trời. Và cái con người đứng dưới gốc cây kia là ai? Một thiền sư, một kẻ cô đơn, một ái nữ, một người già đã sống mấy trăm năm trên thế gian, người cuối cùng còn sót lại trên thế gian hay đó là toàn bộ nhân loại? Đã có những buổi tối, ông và Dung ngồi im lặng rất lâu uống rượu vang, ngắm nhìn bức tranh và không ai nói với nhau ai một câu gì. Họ tận hưởng sự yên tĩnh và mênh mông ở chính căn hầm chật chội. Và mỗi người đều thấy cái con người trong bức tranh kia là chính mình.
Ông ngồi dậy trong đêm và lần mò trong bóng tối ra mở cửa sổ. Những hạt mưa bay qua những song cửa sổ thấm mát trên mặt ông. Ông đứng như thế rất lâu. Mặt ông hướng về ô cửa để đón những hạt mưa. Rồi ông quay vào thắp một ngọn nến. Ông nhớ Dung da diết. Và ông viết.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Lò mổ (chương 14)
Như một đứa trẻ vừa sinh ra, không tã lót,
chàng chạy trên cánh đồng.
Chàng chạy như một ngọn gió đầu hạ. Dội vang.
Một ban mai lộng lẫy, tự do.
Tóc chàng cuồn cuộn. Lá cờ của bình minh.
Hai cánh tay chàng đập vang bầu trời.
Cặp chân chàng, chân ngựa hoang phi nước đại
trên thảo nguyên.
Hàm răng chàng, hai chuỗi ngọc đẹp nhất thế gian.
Mắt chàng, hai ngôi sao rực sáng cả ban ngày.
Da thịt chàng, đất đai giàu phù sa trên những
cánh đồng dọc đôi bờ con sông lớn.
Chàng chạy, trái tim đập những dàn trống khổng lồ.
Chàng chạy, hơi thở phả nóng những quả đồi.
Chàng chạy, bộ phận sinh dục rung lên đầu
một con tuấn mã.
Chàng chạy, ánh sáng rẽ hai bên hông như sóng
Của một con tàu lớn rời bờ bến ra khơi.
Chàng không phải kẻ điên rồ.
Chàng - kẻ thèm khát tự do.
Chàng, trần trụi chống lại một thế giới che đậy
phù phiếm và giả dối.
Chàng đây, hai lá phổi căng phồng rộng lớn
hai lá buồm gặp bão.
Chàng đây, thân thể tỏa hơi nóng rừng rực
một dòng nham thạch.
Chàng đây, được quyền sinh ra được quyền cất giọng.
Chàng đây, được quyền sống, được quyền chết.
Chàng đây, tài sản vô giá của ban mai.
Chàng đây, kẻ thù của những phù phiếm.
chàng đây, tử tù của bóng tối.
Chàng đây, con tin của những giấc mơ.
Giờ đây chàng đang chạy, chàng đang bay lên.
Chàng không rời bò thế gian nhưng chàng đang
rời bỏ đám đông.
Chàng tìm thấy đất đai của chàng.
Chàng tìm thấy bầu trời của chàng.
Chàng tìm thấy tự do trong tất cả những nhà tù
của quyền lực, trong tất cả mọi giới hạn của tăm tối.
Tự do, Thượng đế ban cho đồng loại cửa chàng
ở khắp nơi.
Như Người làm ra nước cho những con cá.
Làm ra bầu trời cho những cánh chim.
Làm ra ngôn ngữ cho những đôi môi.
Làm ra tình yêu cho người đàn ông và người đàn bà.
Một ngọn cỏ tự do làm thành thảo nguyên.
Một cái cây tự do làm thành cánh rừng.
Một con cá tự do làm thành biển cả
Một con chim tự do làm thành bầu trời.
Một con người tự do làm thành vũ trụ
Thân thể chàng giờ đây một phẩm vật vô giá của tự do.
Trên thế gian mênh mông, dưới bầu trời vô tận
chỉ mình chàng.
Chỉ mình chàng giữa cỏ, giữa cây, giữa nước,
giữa không khí, giữa ánh sáng.
Tất cả là của chàng. Chàng của tất cả.
Tự do làm cho chàng bơi được trong nước như cá.
Tự do làm cho chàng bay trên bầu trời như chim.
Tự do làm cho chàng tỏa sáng trong lửa
mà không bị thiêu cháy.
Tự do làm chàng tan trong đất mà không phải mục nát.
Tự do làm cho chàng đã chết vẫn trò chuyện được
với thế gian.
Tự do chính là phép thiêng.
Giờ đây giữa mặt đất mênh mông và bầu trời bất tận
Chàng ca hát và chàng nhảy múa.
Hai cánh tay chàng vung lên những vòng ánh sáng
Rực rỡ và lấp lánh những cầu vồng.
Đôi chân chàng lướt đi, ngọn gió băng qua
những cánh đồng.
Chàng mở rộng hai hàm răng căng ra
hai chuỗi ngọc đẹp nhất.
Hắt sáng vào bóng tối những lùm cây và hoa bắt đầu nở.
Tóc chàng tung lên tận lưng trời cây cỏ mọc theo.
Những dãy đồi chuyển dịch từ Đông sang Tây.
Đầu chàng lắc lư, đại ngàn trong bão.
Lưng chàng uốn lượn, con sông mùa lũ.
Thân thể chàng trong ban mai
như một thác nước khổng lồ
Đổ xuống thế gian từ thăm thẳm trời cao.
Tất cả hát theo chàng, tất cả múa theo chàng.
Tất cả phụ họa cho âm vang giọng chàng,
phụ họa cho chuyển động thân thể chàng.
Chàng chính là vũ khúc diệu kỳ của vũ trụ
Trong Ánh Sáng và Tự Do.
Rút từ bản thảo Trường ca Lò Mổ
HAI MƯƠI LĂM
Những cái chết
(Giấc mộng thứ tư)
Thế là tôi đã rời bỏ thế gian này ra đi. Những người thân yêu và bạn bè quây quanh chiếc giường tôi đang nằm. Lúc đó, tôi đứng ở cách xa mọi người và quan sát tất cả. Tôi nằm trên chiếc giường cạnh ô cửa sổ lớn mở ra vườn. Bên cạnh tôi một cuốn sách đọc dở. Tôi không nhớ đó là cuốn sách gì. Nhưng là một cuốn sách mỏng. Có lẽ là một tập thơ của một nhà thơ nào đó.
Một người bạn đã già của tôi từ từ mở hai cánh cửa sổ để ánh sáng mùa thu lùa vào nơi tôi nằm. Tôi thấy ngoài vườn gió đang reo vang trong những vòm lá. Một con chim có cái đuôi đỏ quét đất đang nhìn về phía tôi và hót vang. Tiếng hót của nó giống tiếng tiêu mà khi sống tôi vẫn thổi. Trên cành cây hồng trứng ở góc vườn rực rỡ những chùm quả. Tôi gọi những quả hồng chín là những ngọn đèn của mùa thu.
Tôi không nhớ rõ mặt người bạn mở cánh cửa sổ cạnh giường tôi. Có thể là Lương Tử Đức, Trịnh Hữu Sỹ, Lê Phương Chung, Đỗ Văn Hiểu hay Chu Lượng. Chắc chắn không phải A Sáng vì A Sáng còn trẻ mà người mở cửa sổ râu tóc bạc phơ. Còn Nguyễn Quyến thì không phải rồi. Vì lúc đó Nguyễn Quyến đang đọc một bài thơ của tôi viết như một lời chào cuối cùng để ra đi.
Tôi mỉm cười mãn nguyện. Vì khi còn sống, tôi ước sẽ được ra đi vào một ngày mùa thu trong ngôi nhà ông nội tôi xây đã 150 tuổi và tôi muốn Nguyễn Quyến là người đọc bài thơ tôi viết về ngày tôi ra đi. Giọng Nguyễn Quyến đọc thơ quả là quyến rũ vẫn như thời Nguyễn Quyến 20 tuổi. Tôi vô cùng mãn nguyện vì đã cầu được ước thấy. Người ta có thể xin được nhiều thứ nhưng xin được ra đi vào một ngày mình muốn và có những người thân yêu cùng bạn bè bên cạnh quả là một lời cầu xin quá xa xỉ và ít được chấp nhận.
Khi Nguyễn Quyến vừa đọc bài thơ xong thì một đoàn người đi vào sân nhà tôi. Đó là những nhạc công phường bát âm làng Chùa. Toàn là những người thân quen. Một trong những loại nhạc tôi mê đắm chính là những bản nhạc của phường bát âm. Tôi đã viết hai bài thơ về âm nhạc này. Mỗi lần tiễn đưa những người trong làng, tôi thường đi cạnh phường bát âm. Tiếng nhạc vang lên làm cho tôi nhìn thấy con đường vô hình từ thế gian về tới cõi Thiên thu. Đẹp, da diết, mênh mang và lộng lẫy.
Mọi người trong nhà tất bật chuẩn bị mọi thứ cho tôi. Một ai đó nhấc chiếc túi hành lý cho chuyến đi cuối cùng của tôi rồi nói: “Nhẹ quá, sao lại mang ít thế nhỉ?” Một người khác: “Ông ấy mang cái gì thế?” Tôi mỉm cười thích thú vì biết rằng chẳng ai đoán được tôi mang gì theo đâu. Bí mật mà.
Một số người khóc nức nở bên tôi. Tôi không thích như thế. Chuyến ra đi của tôi đẹp như thế sao lại khóc. Tôi ra đi ở cái tuổi không có gì phải nuối tiếc. Ra đi trong một ngày thu đẹp. Người thân và bạn bè đông đủ. Thơ chào tạm biệt đã viết xong cả một năm trước đó. Và còn gì thú vị hơn khi được nằm thanh thản trên chiếc giường cạnh cửa sổ mở ra vườn và mùa thu đang tràn ngập khắp nơi và nghe bài thơ của chính mình.
Bất chợt, có tiếng điện thoại réo vang và như không chịu ngừng. Tôi tự hỏi: “Mình chết rồi mà vẫn có ai gọi thế nhỉ?” Vì tiếng điện thoại kéo dài quá nên tôi quờ tay tìm điện thoại.
Tôi tỉnh giấc. Tôi vừa qua một giấc mộng. Tỉnh dậy rồi thấy luyến tiếc. Sao giấc mộng không kéo dài thêm để mình được xem cuộc ra đi của mình tiếp tục như thế nào. Nếu giấc mộng tiếp tục thì điều sợ nhất là phải nghe điếu văn của một ai đó của cơ quan, đoàn thể hay khối phố gì gì đó. Chính thế mà mấy lần tôi nói nửa đùa nửa thật với bạn bè rằng khi tôi mất thì các ông phải viết điếu văn chứ không để người khác. Và tốt nhất là không có điếu văn mà chỉ đọc bài thơ của tôi viết cho chuyến đi của tôi cùng thơ của bạn bè viết về một điều gì đó.
Có một điều khác biệt vô cùng trong giấc mộng này là tôi không còn cảm thấy sợ hãi khi tinh khỏi mộng về cái chết của mình nữa cho dù đó chỉ là giấc mộng.
Rất nhiều người nói với tôi rằng: họ đã mơ thấy họ chết. Tôi không chỉ gặp giấc mộng thấy mình chết một lần mà tôi nhớ chính xác là ba lần. Tôi không nhớ rõ giấc mộng đầu tiên vào khi nào. Nhưng chắc lúc đó tôi còn rất nhỏ. Bởi thế mà tỉnh khỏi giấc mộng, tôi đã ôm chặt mẹ tôi và khóc nức nở vì sợ hãi. Vừa khóc, tôi vừa nói với mẹ: “Con chết rồi u ạ, con chết rồi.” Mẹ ôm chặt tôi vào lòng và nói,” Đấy chỉ là mơ ngủ thôi, con chết thế nào được, làm sao mẹ lại để con chết.” Mẹ tôi nói vậy nhưng sau này tôi biết mẹ sợ hãi giấc mộng ấy của tôi hơn chính tôi. Tôi tin rằng: nỗi sợ hãi lớn nhất của những người mẹ là mất con.
Vào một đêm mùa hạ trong những năm cuối đời của mẹ tôi, hai mẹ con tôi ngồi trong vườn trò chuyện dưới ánh trăng như dát vàng. Chợt mẹ tôi nói: “Sau này mẹ mất đi rồi có còn ai thương con như mẹ không?” Đêm ấy, nước mắt chảy giàn giụa trên mặt tôi. Cũng như mọi người, tôi vẫn có bao người thương yêu như anh chị em tôi, vợ con tôi và bạn bè tôi. Nhưng không ai có được tình thương giống mẹ. Bây giờ mỗi khi về quê vào những đêm mùa hạ có trăng, tôi vẫn ra vườn ngồi xuống nơi mẹ con tôi đã ngồi. Lúc nào tôi cũng cảm thấy hơi ấm từ mẹ tỏa vào tôi.
Khi 20 tuổi, tôi lại mộng thấy tôi chết. Sau khi tỉnh giấc, tôi đã rời khu cư xá sinh viên và đi lang thang trong trường. Tôi thực sự sợ hãi. Lúc đó, hình ảnh hài cốt ngả sang màu đen thẫm như sừng của bà nội tôi lại hiện ra. Tôi không thể nào chịu nổi cái ý nghĩ một ngày nào tôi chỉ còn là một bộ hài cốt như thế. Khi tôi còn nhỏ, cha mẹ tôi thay áo cho bà nội tôi. Vì là cháu trai nên anh cả tôi và tôi phải tham gia việc rửa ráy hài cốt bà tôi. Lúc đó, em trai tôi còn quá nhỏ nên không tham gia. Khi nhìn thấy hài cốt của bà nội, tôi đã òa nên khóc. Có lẽ lúc đó, nỗi nhớ thương bà mới tràn ngập toàn bộ con người tôi. Và lúc đó, cái chết của bà nội tôi mới thực sự ám ảnh tôi. Còn ba năm trước đó, tôi vẫn mơ hồ nghĩ bà tôi đi vắng đâu đó ít ngày rồi sẽ trở về. Những năm tháng ở tuổi đôi mươi tôi bị cái chết ám ảnh. Tôi sợ đến mức nhiều đêm không ngủ được. Nhưng đến bây giờ, khi tôi đã gần 60 tuổi thì giấc mộng về cái chết không còn làm tôi khiếp sợ nữa. Tôi cảm thấy bình thản hơn cho dù tôi chưa biết cảm giác thật ra sao khi cái chết cận kề. Nhưng tôi vẫn tin, những lần chết trong mộng giống như những lần thực tập về cái chết bởi trước sau ai cũng chết. Tôi cũng nhận thấy tôi đã trưởng thành trong cả chính những giấc mộng của mình. Những giấc mộng mà chúng ta không tin đó là một phần của đời sống thật đã thật sự mang cho tôi những trải nghiệm. Nó dẫn tôi đi từ nỗi sợ hãi kinh hoàng đến sự chấp nhận thanh thản. Nó dạy tôi phải biết cách hòa vào cuộc sống tự nhiên và đồng hành cùng cái tự nhiên ấy.
Và lúc này tôi muốn nói rằng: tôi đã truởng thành qua những cái chết của tôi trong mộng. Nhưng thực tế chúng ta đâu có chỉ chết một lần. Mỗi ngày trôi đi tôi cảm thấy là một lần chúng ta đã chết một cái chết ngắn. Đôi khi, bằng một khả năng điều khiển cảm giác, chúng ta quay lại căn phòng ngày hôm qua chúng ta đã làm việc hay sống trong đó, chúng ta có thể cảm thấy một thân xác chúng ta còn vương lại ở đó. Đó là sự thật. Chỉ có điều chúng ta không đủ khả năng để nhận ra điều ấy hoặc cố gắng một cách tối cực đoan để chối từ điều ấy.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Thay lời nguyện cầu
Chúng ta thường chăm sóc những ngôi mộ
bằng nỗi sợ hãi và tiếc thương
Nhưng ít người chúng ta nhìn thấy
cỗ xe tang lộng lẫy
Trong tiếng trống tưng bừng
Làm thần chết cũng hết phiền muộn
Và tên tuổi chúng ta được khắc
Trên phiến đá lặng im
Lấp lánh và uy nghiêm
Như tên các vị thánh
Ít hơn nữa những người chứng ta
Tìm thấy âm nhạc tinh khiết trong buổi cầu hồn
Và gương mặt những nhạc công phường bát âm
Đắm say trong thế giới bí ẩn
Và càng ít hơn những người
Sau chén trà buổi tối
Ngồi trên tràng kỷ
nghe bài điếu văn viết cho mình
Vang lên với một giọng trầm
Trong một tối mùa thu tuyệt đẹp
Và lúc đó ở bên ngoài cửa sổ
Khu vườn giàn giụa trăng
Họ đã nhìn thấy vẻ đẹp diệu kỳ
Trong những gì luôn đe dọa người khác.
Rút từ tập Cây ánh sáng,
NXB Hội Nhà Văn 2010.
Nguyễn Quang Thiều
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...