Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2024

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 1

Người kể chuyện lúc nửa đêm
và những giấc mộng 1

Trước kia, giấc mộng tôi thường gặp và bạn bè tôi cũng gặp là giấc mộng mà trong đó mình luôn luôn bị một ai đó, một cái gì đó săn đuổi. Những cuộc chạy trốn ấy lúc nào cũng thất bại vì đôi chân cứ ríu lại như chân người bại liệt. Bây giờ thì tôi không gặp giấc mộng ấy nữa. Phải chăng bây giờ tôi không tìm cách chạy trốn nữa. Mà trong cuộc đời, chúng ta càng chạy trốn chúng ta càng bị truy đuổi. Và khi bị truy đuổi thì ít khi chúng ta có thể chạy thoát. Con đường duy nhất để chúng ta thoát khỏi sự truy đuổi là dừng lại, quay về phía kẻ truy đuổi mình, ngẩng cao đầu bước lên và thách đấu. Cuộc chiến đấu này là cuộc chiến đấu với một ai đó, một cái gì đó và đôi khi là chính bản thân chúng ta. Kẻ thù của chúng ta nhiều lúc thật mơ hồ và chính vì thế mà hầu hết chúng ta luôn luôn thất bại.
NGUYỄN QUANG THIỀU
Sinh: 13.2.1957
Quê quán: làng Chùa, Ứng Hòa, Hà Nội (Hà Tây cũ)
Hiện sống ở thị xã Hà Đông
Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1993
Giải thưởng của Hội các nhà dịch giả văn học Quốc gia Mỹ 1998
SÁCH ĐÃ XUẤT BẢN
THƠ
Ngôi nhà 17 tuổi (1990), Sự mất ngủ của lửa (1992), Những người đàn bà gánh nước sông (1995), Trường ca Những người lính của làng (1996), Nhịp điệu châu thổ mới (1997), Thơ Nguyễn Quang Thiều(1997), Thơ cho thiếu nhi (1998), Bài ca những con chim dêm (1999), Cây ánh sáng (2010), Châu thổ (2012)
VĂN
Vòng nguyệt quế cô đơn - tiểu thuyết (1991), Cỏ hoang - tiểu thuyết (1992), Tiếng gọi tình yêu - tiểu thuyết (1993), Người đàn bà tóc trắng - tập truyện ngắn (1994), Kẻ ám sát cánh đồng - tiểu thuyết (1995), Đứa con của hai dòng họ - truyện ngắn (1996), Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều (1996), Người cha - truyện thiếu nhi (1997), Bí mật hồ cá thần - truyện thiếu nhi (1997), Con quỷ gỗ - truyện thiếu nhi (2000), Bí mật ngọn núi bà già mù - truyện thiếu nhi (2002), Người - chân dung văn học (2008, in chung với Lê Thiết Cương), Ba người - chân dung văn học (2005, in chung với Trần Tiến Dũng & Lê Thiết Cương), Nguyễn Quang Thiều: tác phẩm chọn lọc (2006), Có một kẻ rời bỏ thành phố - tạp văn và tiểu luận (2010), Mùa hoa cải bên sông - Tập truyện ngắn (2013)
DỊCH
Chó Đingô - tuyển truyện ngắn Australia thế kỷ XX (1995), Khoảng thời gian không ngủ - thơ Mỹ (1997, in chung), Năm nhà thơ hiện đại Hàn Quốc (2000)
XUẤT BẢN Ở NƯỚC NGOÀI
Petide La Fille Du Fleuve - truyện ngắn in tại Pháp (1997), La Petite Marchande De Vermicelles - truyện ngắn in tại Pháp (1998), The Women Carry River Water - thơ in tại Mỹ (1997).
Ngoài ra đã in thơ và truyện ngắn trên các tạp chí ở Mỹ như AGNI, American Poetry Review, Boston Review, Gulf Coast, Manoa, Ploughshares, Fields, Compost, International Poetry... và trên tạp chí của các nước như: Anh, Na-uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Đài Loan, Nga, Úc, Ai-len, Trung Quốc, Colombia, Nhật, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan, Ai-cập, Yakustia...
MỘT
Đã có lúc tôi không muốn trở về mặt đất
Ngày 5 tháng Tư năm 2003 tôi đến sân bay Chicago. Đây là lần thứ tư tôi đến Mỹ. Vậy là tròn mười năm kể từ chuyến đi đầu tiên. Ngày ấy tôi ba mươi sáu tuổi. Những chuyến đi của tuổi trẻ lúc nào cũng hồ hởi, cũng hấp dẫn và đôi khi liều lĩnh. Nhưng ba mươi sáu tuổi thì không thể gọi là còn trẻ nữa. Có thể mắc nhiều sai lầm, nhưng có một điều không được mắc sai lầm: đó là không được phép hão huyền về chính bản thân mình. Với tuổi ấy, nếu chưa chuẩn bị những gì cần thiết cho đường đời của mình thì khó chuẩn bị kịp nữa.
Ngày ấy, đi Mỹ là một câu chuyện đối với cả người đi và người ở nhà. Trước đó, vào những năm tám mươi, một nhà văn đi Mỹ giống như một “anh hùng”. Lê Lựu là một anh hùng. Và chuyến đi của Lê Lựu đến Mỹ dệt nên bao câu chuyện đầy vẻ huyền thoại. Lê Lựu đã gặp lại kẻ thù cũ của ông ra sao, Lê Lựu đã ứng đối xuất sắc với kẻ thù cũ của ông như thế nào... Lúc đó, người Việt Nam coi ông như một ông Trạng đi sứ. Quả thực là như vậy. Sau chuyến đi Mỹ ông trở về và bắt đầu một “nghề mới”: nghề thuyết trình về nước Mỹ. Ông nói chuyện hay đến mức băng ghi âm cuộc nói chuyện của ông được phát hành không chính thức khắp cả nước. Người ta sao băng, cho mượn băng, bán băng. Lúc đó, băng của ông trở thành một con sốt hơn bất cứ album nào của tất cả các ca sỹ nổi tiếng nhất ở Việt Nam thời ấy. Số lượng tất nhiên có thể không bằng nhưng con sốt băng Lê Lựu thì luôn luôn ở nhiệt độ cao. Bởi tất cả những gì ông đã một mình ứng đối trên đất Mỹ mà ông kể lại hàng trăm lần làm cho không ít người Việt Nam mang khoái cảm thắng Mỹ một lần nữa. Chiến thắng tinh thần hình như là một liều thuốc an thần cho những dân tộc nhỏ bé, nghèo đói và thiếu tự tin.
Sau đó, Lê Lựu xuất bản hai cuốn sách về hai chuyến đi liên tiếp: Một Thời Lầm Lỗi và Trở Lại Nước Mỹ. Đấy thực sự là hai cuốn best-seller ở Việt Nam trong thời gian đó. Tôi cũng đi Mỹ sau chuyến đi của Lê Lựu vài năm, nhưng sau chuyến đi, tôi chẳng biết nói thế nào về đất nước này cho thuận tai những người Việt Nam ngày ấy. Những câu chuyện đầy tính tò mò về nước Mỹ đã bị con bão khẩu khí của Lê Lựu quét sạch. Người đến sau như tôi giống kẻ đứng giữa sa mạc. Và trong lần thứ tư đến Mỹ, đất nước này đối với tôi vẫn là một cái gì đấy vừa tự do vừa đe dọa, vừa khắc nghiệt vừa dễ dãi, vừa khó hiểu vừa giản đơn.
Đi chuyến đi dài này khi tôi đã bước sang tuổi bốn mươi sáu, bởi thế mà tôi mang cảm giác cô đơn hơn, dè dặt hơn và nhiều lúc rơi vào trạng thái thật khó tả. Nhưng những chuyến đi xa lúc nào cũng quyến rũ tôi. Nó luôn luôn hé lộ cho tôi một điều gì đó. Sau mỗi chuyến đi, tôi luôn luôn nhận thấy mình quá nhỏ bé, quá khờ khạo, quá ít hiểu biết trước thế gian này. Bởi thế đối với tôi, những chuyến đi làm cho tôi được sống nhiều hơn thời gian thực cuộc đời mình vốn có. Tôi biết được nhiều hơn những con đường, những ngôi nhà, những cái cây, những con người, những câu chuyện... Và những điều ấy làm tôi bớt đi trong lòng mình những phiền muộn, những tẻ nhạt, những tù đọng...
Chuyến đi đầu tiên kỳ vĩ nhất của tôi là chuyến đi từ bờ bên này sang bờ bên kia sông Đáy. Ấy là khi tôi năm tuổi. Mẹ tôi sang quê ngoại của mẹ ăn giỗ và tôi được đi theo. Ngày ấy, hai bờ con sông chỉ cách nhau chừng hai trăm mét. Nhưng bờ bên kia quả là một thế giới diệu kỳ đối với cậu bé năm tuổi là tôi. Bờ bên kia có những lùm dứa dại chạy miên man dọc bờ sông. Bờ bên kia là một cây đa cổ thụ mọc đối diện với bến đò. Con đường nhỏ chạy từ bến nước lên đến gốc đa luôn mang một vẻ đẹp lạ lùng. Và sau con đường kia, sau những lùm dứa dại, sau cây đa cổ thụ là những ngôi nhà ẩn hiện trong những vòm lá, và sau tất cả những cái đó là dãy núi mờ xa và sau nữa là cái gì. Ngày còn bé, tôi thường ra bờ sông nhìn về phía bên kia sông trong những buổi chiều mùa hạ với trí tưởng tượng và lòng khao khát vô bờ. Tôi thật sự phấn khích khủng khiếp khi bước chân lên mạn đò. Và khi tôi bước đến dưới gốc đa và ngước nhìn lên cây đa cổ thụ thì người tôi run lên bởi một cảm giác lớn lao. Sự vĩ dại của những vòm lá lớn đang vang lên cùng tiếng gió đã trùm phủ tôi và tràn ngập trong tôi. Có một uy lực nào đó trong những vòm lá lớn từ trên cao đang chiếm ngự tôi. Cảm giác ấy và uy lực ấy đến bây giờ vẫn vậy. Có lẽ bởi thế mà sau này trong thơ của mình, tôi thường viết về những cái cây. Những cái cây lúc nào cũng kỳ vĩ, lúc nào cũng đầy uy lực và luôn luôn tỏa sáng cả trong đêm tối.
Chuyến đi nước ngoài đầu tiên là chuyến đi từ thành phố Hồ Chí Minh đến Phnom Penh - Campuchia cuối năm 1979. Ngày ấy, Campuchia mới được giải phóng và lính quân đội Việt Nam có mặt trên đất nước bé nhỏ này. Con đường từ phà Niếc Lương đến Phnom Penh nham nhở dấu vết của những hố chống xe tăng. Chuyến đi ấy người ta cần một người biết tiếng Anh. Thế là người ta chọn tôi. Tôi phải mặc quần áo lính và mang theo súng AK báng gập. Trên đoạn đường ấy, chúng tôi phải ngồi quay mặt về phía sau để quan sát đề phòng bị tàn quân Pol Pot phục kích. Đã có một vài chuyến xe như vậy bị súng chống tăng của tàn quân bắn. Phnom Penh những ngày đó còn tan hoang. Những người dân thành phố này bỏ chạy hoặc bị bắt dời khỏi thành phố trong thời Pol Pot vẫn chưa trở về. Trong vườn của những ngôi biệt thự, cỏ dại mọc tràn lan. Một người lính Việt Nam đã đưa tôi đi lang thang trong thành phố. Và bất chợt, tôi nhìn thấy một quả xoài sót lại trên cây trong một khu vườn.
Quả xoài chín vàng. Màu vàng ấy tỏa sáng rực rỡ trong một thành phố như đã chết. Sự tỏa sáng của quả xoài như niềm hy vọng cuối cùng và đầu tiên sau thời đại đen tối của chế độ diệt chủng. Nó như một đức hạnh còn sót lại của một dân tộc đã có một lúc lầm lạc và rồ dại. Quả xoài như một ngọn đèn, như một ngôi sao, như một gương mặt người ẩn nấp đâu đó giờ xuất hiện. Đêm đấy tôi đã làm một bài thơ ngắn về quả xoài. Đấy là bài thơ đầu tiên tôi làm với một sự ám ảnh. Và sáng sớm hôm sau, tôi đi qua khu vườn ấy. Tôi không còn nhìn thấy quả xoài nữa. Có thể ai đó đã hái. Có thể quả xoài đã rụng trong đêm. Và có thể nó hiện ra cho tôi một lần và chỉ một lần rồi biến mất. Bài thơ tôi làm không thành công. Và tôi chính là kẻ đã không lưu giữ được vẻ đẹp ấy. Khi nghệ thuật không đủ quyền lực thì nó không thể giữ lại được vẻ đẹp. Tôi đã thất bại chỉ vì khả năng thi ca lúc ấy của tôi quá vụng về. Tôi lúc đó là một thi sĩ không đủ quyền lực ngôn ngữ. Có lẽ bởi thế mà cho đến bây giờ, hơn hai mươi năm trôi qua, quả xoài ấy vẫn ẩn hiện đâu đấy trong ký ức tôi. Nó đợi một ngày nào đó, với khả năng ngôn ngữ của thi sĩ, lại hiện ra như một ngọn đèn, như một ngôi sao và như một gương mặt lấp lánh trong bóng tối của cái chết. Đấy là khát vọng của tôi và tôi nghĩ cũng là của mọi thi sĩ trong mọi thười đại.
Tôi quá cảnh ở sân bay Narita - Tokyo trên đường đến Chicago. Tôi ngồi hút thuốc và nhìn qua cửa kính. Tokyo đang mưa. Bầu trời xám nặng. Những giọt mưa rơi vào cửa kính và chảy thành một vệt dài. Thật ý nghĩa khi được ngồi im lặng, một sự im lặng thật sự, ở một nơi mà tôi không biết ai và cũng không ai biết tôi. Khoảng thời gian ấy, tôi đắm chìm trong miên man bao ý nghĩ. Những người đến hút thuốc rồi vội vã ra đi. Tôi nhớ lần đầu tiên tôi đi một mình đến một nước tư bản - Australia. Tôi quá cảnh ở sân bay Singapore. Sân bay rộng mênh mông với hàng bao nhiêu cửa ra máy bay. Chính ở đấy, lần đầu tiên tôi thấy cô đơn vô cùng. Tôi ngồi im lặng ngắm những dòng người của mọi quốc tịch vội vã đi qua và biến mất. Họ là ai? Họ đi về đâu? Ai đang đợi họ? Họ mang trong lòng những nỗi niềm gì? Họ đang hạnh phúc hay đang khổ đau? Họ đang được chờ đợi đón tiếp hay họ đang chạy trốn, đang bị truy đuổi? Sân bay Singapore lúc đó như thế gian với bao số phận không thể sẻ chia, với bao câu hỏi không lời đáp, với bao cuộc hành trình về muôn hướng khác nhau, với bao bí ẩn trong mỗi sinh linh kia, rồi những chiếc máy bay rời mặt đất vào không gian bao la, rồi có thể có những tai nạn xảy ra, rồi biến mất mãi mãi.
Những đêm ngồi chờ máy bay để đi tiếp ở sân bay quá cảnh nước ngoài, tôi thường có cảm giác muốn trở về ngôi nhà của mình ngay lúc đó. Nếu có thể làm được điều đó thì tôi chắc đã bỏ giữa chừng nhiều chuyến đi. Những bữa cơm tối bình dị trong ngôi nhà nhỏ cùng với người thân bỗng hiện lên ấm áp lạ kỳ.
Nhiều lúc tôi nghĩ, vì lí do gì mà mình để lại một chiếc ghế trống trong những bữa tối ấy. Vì lí do gì mà mình lại có thể xa những đứa con bé bỏng yêu dấu của mình để ngồi đơn độc ở một nơi xa lạ mà nếu có chuyện gì xảy ra thì mình không thể về tới ngôi nhà của mình được. Thế nhưng sau mỗi chuyến đi xa trở về thì một chuyến đi xa khác lại lên tiếng gọi mình. Tiếng gọi ra đi cũng quyến rũ như tiếng gọi trở về. Nhưng dù thế nào thì tôi cũng là người may mắn hơn nhiều bạn bè của tôi. Những chuyến đi mỗi lần lại chất thêm vào lòng tôi những kỷ niệm. Tôi thấy mình là một kẻ giàu có. Và tôi cũng thấy mình buồn bã hơn.
Chuyến đi mà bây giờ vẫn còn lại trong tôi một sự lôi cuốn mạnh mẽ và một nỗi buồn da diết là chuyến đi Cuba gần hai mươi năm về trước. Đấy là lần đầu tiên tôi có một chuyến đi xa như thế. Ngày ấy tôi hai mươi bảy tuổi. Vợ tôi lúc đó đang mang thai đứa con đầu lòng tháng thứ tám. Chỉ còn hơn một tháng nửa là con tôi ra đời. Tôi không bao giờ quên được đêm cuối cùng trước khi tôi đi. Tôi mệt quá và ngủ thiếp không hề tâm sự với người vợ trẻ. Gần sáng tôi nghe tiếng khóc và tỉnh giấc. Vợ tôi đang khóc. Thấy tôi tỉnh giấc, vợ tôi cắn môi im lặng. Tôi quờ tay lên mặt vợ và thấy đầm đìa nước mắt. Tôi hỏi vì sao em khóc. Vợ tôi nức nở mãi mới nói: anh ơi, anh đi em biết nuôi con thế nào? Đấy không phải là một câu hỏi. Đấy là một tiếng kêu.
Đúng như vậy. Vợ tôi sẽ nuôi con tôi như thế nào? Tôi không trả lời được câu hỏi ấy. Vì ngày ấy, tôi chẳng có gì trong tay. Không nhà cửa, không cả một chiếc xe đạp cũ để đi làm, không tiền tiết kiệm, không quá ba bộ quần áo. Và vợ tôi lúc ấy mới ra trường, chưa công ăn việc làm. Thời ấy là những năm tháng đói khát vô cùng. Tôi không biết vợ tôi sẽ nuôi con như thế nào. Tôi hoàn toàn không biết. Lúc ấy, tôi muốn ở lại. Nhưng khi ban mai thức dậy thì tôi vẫn quyết ra đi. Có hai người tiễn tôi ra sân bay làm tôi đau lòng cho đến tận bây giờ. Cha tôi và vợ tôi. Cha tôi lúc đó đã về hưu. Người luôn luôn sợ hãi về tôi. Hình như tôi luôn luôn là sự bất trắc trong cuộc đời của ông. Vợ tôi lúc đó, hình ảnh một người phụ nữ trẻ, da trắng xanh, gầy gò, mang một cái thai lớn tiễn tôi trong câm lặng và ngơ ngác làm trái tim tôi tưởng vỡ tan. Khi tôi vào phòng đợi của sân bay, cửa kính đã cách biệt mọi âm thanh từ bên ngoài, tôi quay lại và thấy cha tôi đang đứng đó. Ông đứng bất động nhìn tôi. Tôi chỉ nhìn thấy ông thôi chứ không nghe thấy gì nữa. Cảm giác của tôi lúc đó giống như cảm giác của người đã chết. Linh hồn người ấy vẫn nhìn thấy người thân của họ nhưng không thể nào trò chuyện được nữa. Và lúc ấy, lần đầu tiên tôi mới thấy yêu và thương cha tôi thực sự. Lần đầu tiên tôi thấy gót chân tôi chạy đau trái tim ông suốt hai mươi sáu năm về trước. Sau cha tôi là vợ tôi. Bất động và như vô cảm. Tôi muốn bỏ chuyến đi và quay về. Nhưng tôi đã quay đi. Chuyến bay từ Hà Nội đi Matxcơva phải chậm lại vì trời mưa quá to. Lúc ấy, ý nghĩ quay trở về lại ùa đến. Lẽ nào tôi sẽ đi xa nơi chốn kia và những người thương yêu của tôi. Nhưng tôi đã không quay trở lại. Con người tôi vừa yếu đuối vừa giá lạnh. Và tôi đã xa gia đình bốn năm. Khi tôi trở về, con trai tôi đã bốn tuổi. Cháu gọi tôi là chú xưng con trong mấy tuần đầu sau khi tôi về nước. Bây giờ cháu đã mười chín tuổi. Thế nhưng tiếng kêu của vợ tôi trong đêm gần sáng cách đây gần hai mươi năm vẫn làm lòng tôi đau đớn. Nhiều lúc, tôi nghĩ lúc đó tôi là kẻ nhẫn tâm. Cũng có lẽ vì thế mà sau này trong mỗi chuyến đi xa, tôi không bao giờ cho vợ con tôi và người thân tiễn tôi. Tôi sợ nhìn thấy cảnh chia tay dù là chia tay trong khoảnh khắc.
Chuyến bay đi Mỹ là chuyến bay dài nhất mà tôi từng đi. Trước kia đi Mỹ, tôi thường đi máy bay của hàng không Hàn Quốc. Từ Seoul đi New York thường mất mười bốn tiếng đồng hồ. Từ Tokyo đi Chicago gần hơn hai tiếng. Nỗi sợ hãi nhất khi ngồi trên một chuyến bay dài như thế không phải là một tai nạn. Vì tai nạn có xảy ra thì ngay sau đó người ta chẳng còn biết gì nữa. Mà nỗi sợ hãi lớn nhất chính là mang cảm giác của sự bất động. Người ta không có cảm giác người ta đang bay với tốc độ ghê gớm (khoảng 900 km/h). Tất cả như đứng im. Tất cả như đã chết. Tất cả như đã cách biệt hoàn toàn với thế gian. Lúc đó, tôi thèm được nhìn thấy tán lá si xao động trong gió trên ban công tầng hai nhà tôi. Thèm được nghe tiếng chuông gió vang lên lúc gần sáng khi trời trở gió. Những chuyến đi Mỹ trước đây, hầu hết thời gian tôi ở nhà một người bạn, một nhà thơ Mỹ, Kevin Bowen. Trên mái hiên cổng sau của nhà ông có treo những chiếc chuông gió. Tôi đã có những buổi chiều ngồi đó cho đến khi bóng tối tràn ngập ngôi nhà và nghe tiếng chuông gió vang lên. Và lúc đó, tôi nhận ra tôi thực sự là một kẻ lãng mạn và yếu đuối. Tiếng chuông gió luôn làm tôi thổn thức. Âm thanh giản dị ấy vang lên thật mơ hồ và lan xa, xa mãi. Tiếng chuông gió làm cho không gian trở lên thanh sạch lạ kỳ. Còn trên máy bay, tiếng động cơ rì rì như ở một thế giới khác. Ngồi trên máy bay ở độ cao 10.000 mét như vậy, chỉ có duy nhất một hình ảnh hùng vĩ và bi tráng nhất mà tôi nhìn thấy: ban mai.
Lúc ấy, chiếc máy bay tôi đi đang bay trên một thảo nguyên mây bất tận. Và ban mai thức dậy trên thảo nguyên mây ấy. Một không khí cổ xưa tràn ngập con người tôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn tin đó là hình ảnh chính xác của ban mai khởi nguyên. Hùng vĩ và bi tráng. Đơn độc và tinh khiết. Lúc đó, tôi như một cái cây, như một con thú nhỏ ngước nhìn ban mai với sự quyến rũ vĩ đại mang đầy sợ hãi và bừng tỉnh. Lúc đó, sự rực rỡ của ban mai ùa vào tôi như sự ban phước của Đấng tối cao. Giá lạnh, bóng tối, cô đơn... Vụt tan biến. Thay vào đó là sự hân hoan như một tiếng rống vang bỗng dội lên. Không. Dù có nói thế nào thì tôi cũng không tả hết được hình ảnh ban mai ấy. Cảm giác lúc đó làm con người muốn òa khóc. Nó như ban mai đầu tiên sau bất tận của bóng tối, của giá lạnh và cô độc. Nó không giống bất kỳ ban mai nào trên trái đất mà tôi đã gặp. Bởi trên lưng trời kia tôi chỉ có một mình. Tôi giống như một người cổ đại đứng trên đỉnh đồi trước ban mai và hú lên trong sự cô độc đến kinh hãi và hân hoan thống thiết. Hành khách quanh tôi đang chìm sâu trong giấc ngủ. Mà cho dù họ có thức thì sự hiện diện của những con người xa lạ kia liệu có ý nghĩa gì với tôi không? Ôi ban mai, ban mai, người chảy trong máu thịt tôi với toàn bộ sự tinh khiết, rực ấm, sinh sôi, bất tận, huy hoàng và cả thổn thức. Người đã cứu tôi ra khỏi bóng tối của giá lanh, sợ hãi và cô đơn.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Buồn hơn cái chết
Vào lúc nào đấy trong đêm tối như hốc mắt người chết
Ai đó ghé xuống bên anh thì thào thông báo: ban mai ngươi sẽ ra đi
Băng qua mọi sợ hãi, mọi thách thức anh đến tìm em
Chúng ta ôm nhau im lặng nơi bậc cửa đầy gió
Không còn đâu trên thế gian yên tĩnh như nơi này
Chúng ta trút bỏ áo quần như trút bỏ thống khổ nằm xuống bên nhau
Trong ánh sáng của ngôi sao đã chết một triệu năm
Chúng ta thì thầm những tiếng thường vọng trong mơ
Chợt phép nhiệm mầu lướt qua, ai đó mỉm cười
Chúng ta trở nên tinh khiết và gánh nặng của da thịt tội lỗi
Đã tan biến như chưa bao giờ có cùng những tuyệt vọng của đời sống
Và chúng ta nghe bản chúc phúc của đồ đạc
Vào lúc ban mai anh sẽ ra đi khỏi thế gian này
Em đừng khóc, đừng thay đổi những chiếc ghế chúng ta thường ngồi trong bóng tối
Đừng thay đổi những lí do, đừng thay đổi những sợ hãi
Đừng thay đổi cả những cái cây chết ở góc vườn
Em đừng khóc, đừng bao giờ khóc về chuyến đi này, hãy nhìn ra cửa sổ
Anh sẽ ra đi từ đấy, một ngôi sao lấp lánh từ đêm anh sinh ra
Ngôi nhà còn lại trên thế gian, em hãy đến, gồi xuống chiếc ghế trong bóng tối,
hãy thì thào, hãy gọi
Quần áo cũ của anh vẫn ấm mãi hơi thở ấy, vẫn bụi bặm ấy vã những mẩu thuốc trong túi
Vẫn những cơn ho ấy, vẫn đau đớn ấy và dịu dàng ấy làm em bật khóc vì hạnh phúc
Vào lúc ban mai anh sẽ ra đi khỏi thế gian này, chuyến đi kỳ vĩ
Cờ sẽ rực rỡ biết nhường nào, âm nhạc sẽ tinh khiết đến nhường nào
Giống cậu bé ham chơi trốn cha mẹ ra khỏi giường ngủ, anh đi bằng cách nhón chân của mèo hoang
Và cúi xuống bên em thiếp ngủ, thì thầm anh nối:
Đời sống này đôi lúc buồn hơn cái chết.
Rút từ Cây Ánh Sáng,
NXB Hội Nhà Văn 2008
HAI
Đời sống mi đang sống
Có thực sự là một đời sống?
(Giấc mộng thứ nhất)
Khi càng xa tuổi trẻ, người ta càng gần những giấc mộng. Những năm gần đây, tôi gặp giấc mộng nhiều hơn. Một phần do những biến đổi tâm sinh lý khi người ta ngoài bốn mươi tuổi. Tôi đã sống trên thế gian này gần một nửa thế kỷ rồi. Nhiều chuyện có thể đã biết đúng sai. Ít đau buồn hơn nhưng đau buồn là đau buồn thực. Ít niềm vui hơn nhưng niềm vui là niềm vui thực. Tôi đã biết những hão huyền của đời sống này. Một điều nữa làm tôi những năm gần đây hay có những giấc mộng là vì những giày vò, những suy ngẫm và cả sợ hãi và cô đơn. Những điều ấy vẫn vây bủa tôi, đẩy tôi vào chân tường và bắt tôi trả lời một câu hỏi mà tôi không trả lời được: Đời sống mi đang sống có thực sự là một đời sống? Nhưng bây giờ thì tôi tin giấc mộng chính là khoảnh khắc sống liền mạch của đời sống tôi đang sống.
Chuyến bay từ Tokyo đi Chicago là một chuyến bay quá dài. Trong cái khối kim loại hình thời ấy, người ta để mặc số phận cho Thượng đế. Đối với vũ trụ vô hạn này, thì chiếc máy bay không bằng một hạt bụi. Trong chặng đường bay như thế, người ta mất hết cảm giác và khái niệm về thời gian và không gian. Năm 1993, trong chuyến đi Mỹ cùng tôi có nhà văn Lê Minh Khuê. Và trong chuyến bay mù mịt ấy, Lê Minh Khuê đã thực sự sợ hãi. Chị nói với tôi rằng nếu có mệnh hệ gì thì làm sao mà quay về nhà được. Đúng thế, không thể quay về được.
Chiếc Boeing của hãng hàng không Nhật Bản cứ nâng dần độ cao. Chưa bao giờ tôi thấy máy bay lại tăng độ cao kiểu như thế. Trên độ cao ấy, đôi tai ù dần đi và cuối cùng người ta không còn nghe thấy gì nữa. Không nghe thấy gì nhưng không phải kiểu không nghe được của người điếc. Đôi tai vẫn cảm thấy nhẹ. Nhưng tuyệt nhiên không còn một âm thanh nào nữa. Tất cả tĩnh lặng và mênh mang. Mọi người vẫn gọi hỏi nhau, các tiếp viên vẫn đi lại, nhưng tất cả chỉ như những cái bóng in trên tường.
Hồi tôi còn bé. Một đêm học bài và ngủ gục xuống bàn. Khi tỉnh dậy bỗng thấy một cái bóng người in trên tường. Tôi chết đứng vì kinh hãi. Cả tôi và cái bóng kia đều bất động. Khi tôi biết đó là cái bóng của mình thì tôi hết sợ hãi. Nhưng tôi vẫn đứng im lặng rất lâu nhìn cái bóng và cứ tự hỏi đó có phải là mình không. Bây giờ thì có thể biết đó vừa là mình vừa không phải là mình. Tôi tin rằng cái bóng của chúng ta luôn luôn im lặng nhưng không phải không có cảm xúc gì. Cái bóng vẫn sống như chúng ta đang sống và vẫn tư duy như chúng ta tư duy, nhưng tư duy thế nào thì chúng ta không bao giờ biết được. Tôi nghĩ rằng cái bóng của chúng ta không bao giờ mất đi. Khi chúng ta không nhìn thấy nó là lúc nó tồn tại trên một bức tường khác. Có thể đó là một bức tường thời gian, một bức tường không gian.
Máy bay vẫn lên cao. Tôi không thể nào nhìn thấy trái đất nữa. Những đám mây cũng không còn. Bao quanh tôi là một ánh sáng kỳ lạ. Một thứ ánh sáng không phải của mặt trời. Một thứ ánh sáng mà không một vật cản nào tạo ra được cái bóng của mình. Nó sáng từ đâu? Lúc đầu tôi nghĩ nó sáng từ bên trong chúng ta sáng ra. Nhưng không phải thế. Sáng từ bên trong ra hay từ ngoài vào cũng vậy. Nghĩa là nó vẫn phải chấp nhận một quy luật: nơi xuất phát và nơi đến. Nó cũng không sáng theo một vòng tròn bất tận. Nó sáng bởi tất cả mọi vật đều sáng. Nghĩa là mọi vật đều trở thành ánh sáng. Thứ ánh sáng ấy loại trừ mọi âm thanh phát theo hình sóng. Mặc dù mọi vật đều cất giọng và đều nghe thấy vật đối diện. Khi hiểu ra điều ấy cũng là lúc tôi nhận ra chiếc máy bay cùng chúng tôi đã sang một thế giới khác. Hoặc có thể chúng tôi không nhận biết được đường biên giới ấy. Đường biên giới ấy là điểm không thời gian và không gian. Làng Chùa bé bỏng của tôi lúc ấy hiện lên. Nhưng trong thế giới này, tôi hoàn toàn không có cảm giác gì của thương nhớ, khổ đau mặc dù tôi không hề đánh mất một chút nào của ký ức. Quá khứ lúc đó giống như những ngón tay tôi đang nối liền với bàn tay. Và bàn tay nối liền với cơ thể tôi. Cơ thể tôi là một khối thống nhất. Rồi chỉ ít phút sau, tôi mất đi hoàn toàn cảm giác đang ngồi trong một khối vật chất là chiếc máy bay. Mặc dù, cái ghế vẫn đấy, hành khách bên cạnh vẫn đấy, cái cánh máy bay nhìn qua cửa sổ máy bay vẫn đấy. Chúng tôi đã ở quá xa trái đất. Có lẽ chúng tôi không bao giờ trở về được nữa. Nhưng trở về để làm gì khi mà nơi trở về lại ở ngay trong chúng tôi. Hai không gian này không phải là xếp chồng lên nhau. Không phải lồng vào nhau. Nó đang ở trong một không gian khác: cái này chứa đựng cái kia và ngược lại. Sự chứa đựng ấy tưởng như hoán vị không ngừng nhưng thực ra nó chẳng hề như vậy. Tôi chỉ cảm nhận được khoảnh khắc ấy chứ không nhìn thấy được. Không ai và không cái gì có thể nhìn thấy được.
Và chính ở nơi ấy, tôi thấy có một ai đó nhìn mình và mỉm cười. Cái nhìn không phải từ phía trước, không phải từ phía sau, không từ bên phải, không từ bên trái, cũng không phải ở trên cao, mà ở đâu đấy giống như trong đôi mắt kia tôi không hề hiển diện nhưng lại được nhìn thấu. Và nụ cười cũng vậy. Và trong thế giới ấy, tất cả những bộ phận trên cơ thể con người đã từng đày đọa chính con người từ từ biến mất. Đầu tiên là những cái lưỡi. Những cái lưỡi biến mất và ngôn ngữ con người ở đó cất lên giống như những tia nắng đầu tiên của ban mai ùa lên trái đất. Một thứ ngôn ngữ thông tuệ và ngân vang. Cảm giác như sau mỗi lời thốt ra là nắng sớm ngập tràn và hoa nở rực rỡ. Rồi những cái răng biến mất. Những cái răng biến mất trong vòm miệng chúng tôi tưởng như chưa bao giờ chúng tôi phải mang trong miệng mình những cái răng ấy. Sự mệt mỏi và đau đớn trong chuyển động của những hàm răng không còn. Lúc ấy, ánh sáng tràn qua miệng chúng tôi giống như ánh sáng tuôn chảy lộng lẫy qua các ô cửa thánh đường. Và dạ dày biến mất. Đấy là hành trang nặng nhọc và đau khổ nhất mà chúng ta từng phải mang theo từ lúc sinh ra cho tới khi chết. Nhiều lúc nó đẩy chúng ta vào trong con mê sảng của đói khát. Nó làm chúng ta u mê và không ít kẻ trong chúng ta bỗng trở thành những con thú dữ. Giờ nó tan biến như sự tan biến của một chiếc cùm đá, của một cơn ác mộng. Rồi bộ phận sinh dục tan biến. Nó đã làm cho con người được tận hưởng niềm sung sướng ghê gớm của thể xác nhưng nó lại đày đọa tinh thần con người. Tất cả hành khách trên chiếc máy bay ấy trở nên trong suốt và bồng bềnh trôi trong vũ trụ vô tận. Họ nhìn nhau và mỉm cười. Nụ cười của họ giống như sự mở cánh của một bông hoa trước ban mai trên cánh đồng chưa hề có dấu chân người.

Tôi tỉnh khỏi cơn mộng khi máy bay xuống đường băng. Giấc mộng về một nơi chốn như tôi vừa thấy là mộng hay là thực. Có thể trong lúc tôi ngủ, mà chưa hẳn đó là giấc ngủ, thì một quyền năng kỳ diệu nào đó đã dẫn tôi tới chốn xa xăm kia. Mà tại sao tôi lại phải băn khoăn rằng nơi tôi đến chỉ là giấc mộng. Bởi tôi vẫn còn nhớ tất cả những gì đã diễn ra nơi ấy. Bởi tại sao tôi lại không thể được ban phước đến nơi kia. Và dù giấc mộng ấy chỉ diễn ra trong một phút thì tôi cũng đã sống thực với nơi ấy kia mà. Tất cả những giấc mộng cũng chính là một khoảnh khắc dài hay ngắn của một đời sống có thực mà tôi được sống. Có thể có lúc tôi đã không công nhận đời sống ấy. Nhưng nó vẫn là có thực. Cũng như con người sống trong giấc mộng ấy là chính tôi lúc đó có thể lại nghi ngờ cái khoảnh khắc của một đời sống mà tôi đang ngồi viết đây là một giấc mộng chăng? Và cuối cùng tôi tin, đến một ngày nào đó, với những nỗ lực và khát vọng sống của mình, con người sẽ đi đến một đời sống như vậy. Trong một bài thơ trước đó của tôi mang tên: Linh hồn những con bò, tôi viết về những con bò ra đi từ bóng tối đến ban mai và tan vào ánh sáng. Chúng đã đến được một thế giới như thế giới tôi đã mơ. Chúng đã sinh ra trên thế gian và ra đi. Chúng đã ra đi trong sự kiên nhẫn của cả cuộc đời chúng. Cuộc đời chúng là một sự kiên nhẫn tột cùng với những đường cày bất tận. Và chúng không một lần ngoái lại chiêm ngưỡng hay thỏa mãn với những vụ mùa chúng để lại phía sau. Và cứ thế cho đến một ngày mà chúng không hề biết trước: những chiếc ách nặng nề đeo vào đời sống của chúng bỗng tan biến và chúng đã bay lên. Chúng bay lên và thanh thản như những đám mây trắng trong ban mai rực rỡ và tinh khiết. Và bên dưới những đám mây là cánh đồng của những con bò khác với những chiếc ách và những đường cày bất tận. Bí mật của chúng là không than thở và không được bỏ dở bất cứ một đường cày nào.
Những giấc mộng trong những năm tháng này của tôi hoàn toàn khác những giấc mộng mà trước kia tôi hay gặp. Nhiều năm trước kia có lần tôi mộng tôi được quá nhiều tiền. Và khi tỉnh giấc, tất cả đống tiền trong mơ đã biến mất. Tôi không khóc, nhưng nước mắt giàn giụa. Lúc đó tôi cần và rất cần tiền. Tiền cho tôi và cho những người thân nghèo túng của tôi. Bây giờ có khá giả hơn nhưng đó không phải lí do mà giấc mộng được nhiều tiền không đến nữa. Trước kia, giấc mộng tôi thường gặp và bạn bè tôi cũng gặp là giấc mộng mà trong đó mình luôn luôn bị một ai đó, một cái gì đó săn đuổi. Những cuộc chạy trốn ấy lúc nào cũng thất bại vì đôi chân cứ ríu lại như chân người bại liệt. Bây giờ thì tôi không gặp giấc mộng ấy nữa. Phải chăng bây giờ tôi không tìm cách chạy trốn nữa. Mà trong cuộc đời, chúng ta càng chạy trốn chúng ta càng bị truy đuổi. Và khi bị truy đuổi thì ít khi chúng ta có thể chạy thoát. Con đường duy nhất để chúng ta thoát khỏi sự truy đuổi là dừng lại, quay về phía kẻ truy đuổi mình, ngẩng cao đầu bước lên và thách đấu. Cuộc chiến đấu này là cuộc chiến đấu với một ai đó, một cái gì đó và đôi khi là chính bản thân chúng ta. Kẻ thù của chúng ta nhiều lúc thật mơ hồ và chính vì thế mà hầu hết chúng ta luôn luôn thất bại.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Linh hồn những con bò
Ra đi từ đêm
Và bây giờ, những con bò bóng tối, đã đến
cánh đồng cuối cùng
Suốt đêm tiếng rống đàn bò
rền rĩ những cách đồng câm lặng
Suốt đêm hơi thở đàn bò
phả nóng một đêm mùa hạ
Chúng đã đi hết đường cày cuối cùng
những chiếc ách biến mất gần sáng
dấu chân chúng đã điểm chỉ
trên những cánh đồng thế gian
Trong ban mai đàn bò mỗi lúc vàng rực
và tan vào ánh sáng
Những tiếng rống vọng lại
Dàn kèn đồng trong xóm đạo nhỏ
đang tập buổi cuối cùng để đón lễ Phục sinh
Giờ chỉ còn những đám mây
Linh hồn của đàn bò
bay trên cánh đồng
của những con bò khác.
Rút từ Cây Ánh Sáng,
NXB Hội Nhà Văn 2008
BA
Một hình ảnh của nhân tính
Chuyến bay của tôi từ Chicago về Boston bị lỡ. Tôi đến sân bay Boston chậm ba tiếng đồng hồ. Khi tôi từ phòng đợi bước ra, tôi thấy bạn tôi, Kevin Bowen và cô con gái ông, Lily, đang đứng đợi tôi.
Hầu như lần nào tôi đến Boston, Kevin cũng lái xe ra đón tôi. Lần này thật đặc biệt là có cả cô con gái của ông. Tôi nhớ năm 1993, khi chúng tôi đến Boston thì Lily vừa được mấy tháng. Một ngày chủ nhật, gia đình Kevin đưa chúng tôi ra cảng Boston chơi. Cô bé Lily khóc mãi. Vợ chồng Kevin không làm sao dỗ cô bé nín được. Và ngay lúc đó, nhà thơ già cùng đi với tôi đón cô bé bế vào lòng và ông quay mặt về phía biển xa rồi ông hát ru cô bé. Ông hát một bài hát ru mà những bà mẹ Việt Nam từ bao đời nay đã hát để ru con mình. Lúc ấy, nhìn ông thật cô đơn và thật đẹp. Chỉ sau đó ít phút, như có pháp thuật, ông đã làm cho cô bé Mỹ nín khóc và từ từ ngủ trong vòng tay của ông, vòng tay của một người xa lạ, người trước đó chừng hai mươi năm đã một sống một chết với cha cô ở chiến trường Việt Nam. Tôi nghĩ sau này lớn lên đến cái tuổi cho cô biết suy ngẫm và biết buồn thì câu chuyện ấy chắc sẽ cho cô nhiều cảm xúc và ý nghĩa. Câu chuyện ấy sẽ nói cho cô một điều gì đó thật bình dị mà cũng thật lớn lao. Sau mấy ngày ở nhà cô trong chuyến đi này, tôi đã kể cho cô bé mười tuổi câu chuyện đó như tôi đã kể một câu chuyện nào đó cho con gái tôi nghe. Lily ngồi nghe và mỉm cười. Rồi cô nói cô còn bé quá nên chẳng biết gì.
Chiều ấy bên cảng Boston là một chiều đầy gió. Một người đàn ông xa lạ bế một cô bé mấy tháng tuổi xa lạ và hát ru cho cô bé ấy ngủ luôn luôn hiện lên trong tâm trí tôi như một hình ảnh đầy ý nghĩa và xúc động. Lúc ấy, cuộc sống đã mượn nhà thơ kia và cô bé Lily để nói với thế gian một điều đầy ý nghĩa. Hành động lúc đó của nhà thơ, tôi tin, chỉ là một hành động vô thức. Đấy là hành động bản năng của con người được thức dậy trong hoàn cảnh ấy. Nó không cho phép người ta thờ ơ trước tiếng khóc nức nở như không thể dứt của một đứa trẻ. Chúng ta không thể cầm lòng dù tiếng khóc ấy đôi khi là tiếng khóc sinh lý của một đứa bé hai tháng tuổi. Nhưng khoảnh khắc ấy quá ít trong đời sống chúng ta. Nó như cái đẹp bất chợt hiện ra. Nó xóa đi mọi ranh giới của thù hận và cảnh giác. Có thể nhà thơ già đó chẳng còn lúc nào nhớ lại buổi chiều ấy. Tôi tin rằng, nếu ở giữa thủ đô Hà Nội, trước các quan chức và công chức khác ông không bao giờ đủ bản lĩnh để làm cái điều giản dị và đẹp đẽ kia. Ông sẽ sợ người khác cho ông là một kẻ phi chính trị. Và có thể ông lại lên giọng nỏi những điều tồi tệ về đất nước của cô bé hai tháng tuổi ấy. Nhưng nỗi sợ hãi ấy của ông cũng hoàn toàn dễ hiểu.
Ôi, một đứa trẻ khóc mãi bên bờ biển trong một chiều đầy gió lạnh chẳng lẽ không làm động lòng chúng ta hay sao? Dù nay mai nó là người Mỹ, là nước Mỹ, nó có thể trở thành tổng thống Mỹ và tiến hành một cuộc chiến tranh với hình thức nào đó với dân tộc chúng ta. Nhưng bây giờ nó bé bỏng nhường kia, trông sáng nhường kia, yếu đuối nhường kia, sợ hãi nhường kia. Tiếng khóc của nó không một chút gì khác với tiếng khóc của con ta. Tôi đã kể câu chuyện này cho cô bé. Nhưng Lily chưa đủ lớn để xúc động và tìm thấy ý nghĩa cua buổi chiều ấy. Nhưng buổi chiều ấy thi thoảng lại hiện lên trong tâm trí tôi. Nó giản dị nhưng thật diệu kỳ. Buổi chiều ấy như một hình ảnh chứa đựng chân dung nhân tính của thế gian.
Năm 1997, tôi trở lại Mỹ lần thứ ba, Lily đã năm tuổi. Tôi tìm cách nói chuyện với cô bé nhưng cô luôn luôn tránh mặt. Mỗi lần tôi đưa máy ảnh lên chụp cô thì cô lại quay đi hoặc nấp sau lưng mẹ. Và bây giờ, cô đã mười tuổi. Cô lớn một cách tôi không thể hình dung nổi. Đôi mắt xanh, da trời trong sáng, mái tóc vàng để xõa. Cô bước đến mỉm cười chào tôi như một thiếu nữ thực thụ. Cách đây hai năm, Kevin viết thư cho tôi nói ông vừa làm sinh nhật lần thứ tám cho Lily và ông không ngờ cô bé đã lớn lên nhanh như vậy. Và bây giờ đến lượt tôi không thể hình dung thiếu nữ đứng trước tôi là cô bé hai tháng tuổi trên cảng Boston mười năm về trước, là cô bé năm tuổi thường nấp sau cửa nhìn tôi năm năm về trước. Thời gian thật kỳ diệu. Thời gian làm cho một cô bé hai tháng tuổi với những sợi tóc lơ thơ và hay khóc biến thành một thiếu nữ mười tuổi xinh đẹp và trong sáng đang đứng trước tôi. Nhưng thời gian cũng thật nghiệt ngã. Nó làm tôi từ một chàng trai tóc dày, ria mép rậm trở thành một người đàn ông tóc rụng, ria mép bạc và thường thức khuya để nghe tiếng chuông gió trên ban công hay tiếng mèo gào trên mái nhà hàng xóm. Thời gian đôi lúc tôi nghĩ giống như sự nở của hoa quỳnh. Nó làm cho mọi đời sống đi đến đỉnh điểm của cái đẹp và cũng làm cho tất cả một lúc nào đó rơi vào tận cùng của sự tàn lụi. Mỗi một ngày, tôi nghe được thời gian đang từ từ ra đi khỏi đời sống của tôi. Nhưng trong sự ra đi ấy, nó luôn luôn để lại trên đường đi của nó ánh sáng của những vẻ đẹp kỳ diệu. Thời gian đã ban phước cho mỗi một chúng ta quá nhiều. Chúng ta không thể cản được thời gian. Nhưng chúng ta có thể đồng hành cùng thời gian. Và khi chúng ta đồng hành được cùng với thời gian thì nghĩa là chúng ta tồn tại mãi mãi cùng nó.
Đêm đầu tiên ở Boston, tôi ăn bữa tối cùng gia đình Kevin, và tôi nhớ ngôi nhà của mình vô hạn. Tôi nhớ con gái tôi với một nỗi nhớ riêng biệt không bao giờ có đối với bất cứ ai. Buổi sáng trước khi tôi ra sân bay, tôi vẫn ngồi trước màn hình computer để viết một tiểu phẩm nhỏ cho trường nơi con gái tôi học. Trước đó hai ngày, con gái tôi đến trước tôi và hỏi: “Con muốn nhờ bố một việc có được không?” “Bố sẵn sàng,” tôi nói. Và con gái tôi nhờ tôi viết một tiểu phẩm về bảo vệ môi trường. Tôi nghĩ mãi mà không biết sẽ viết như thế nào. Cuối cùng tôi đã viết về những cái cây trong cuộc rời bỏ mặt đất ra đi. Những cái cây ra đi như một thông điệp gửi lại con người về sự hung bạo của họ. Những đứa trẻ đã khóc mãi về sự ra đi của những cái cây và bầy chim. Mặt đất trở nên hoang vu và câm lặng. Nhưng rồi một đứa trẻ đã phát hiện ra nó có một cái hạt cây giấu trong cặp sách. Cái hạt cây đẹp như một viên ngọc. Và những đứa trẻ quyết định gieo cái hạt cây ấy xuống mặt đất của thế gian.
Đêm qua tôi ngồi nói chuyện với Kevin. Chúng tôi nói chuyện về những đứa trẻ. Có bao nhiêu phần trăm trong những đứa trẻ trong sáng và đáng yêu đang lớn lên quanh chúng ta sẽ trở thành những kẻ giết người có tổ chức? Hoặc nhân danh hòa bình hay công lý? Có bao nhiêu đứa sẽ trở thành những người bệnh tật, đói khát và tuyệt vọng? Có bao nhiêu đứa sẽ trở thành thi sĩ và bao nhiêu đứa sẽ trở thành những tên độc tài có thể hủy hoại tinh thần của cả một dân tộc trong nhiều thế hệ? Sau cuộc nói chuyện ấy, tôi nằm và nghĩ mãi về các con tôi, về những đứa trẻ đang lớn lên trên xứ sở chúng ta.
Những đứa trẻ ở xứ sở chúng ta đang ngày một mất đi tuổi thơ trong chính thời gian ấu thơ của chúng. Chúng học gì ở trường? Tôi cảm thấy chúng là những robot mỗi ngày đến trường để nạp thêm chương trình mới được soạn thảo vào trong ổ cứng. Và những cuộc thi cử giống như chúng ta gõ lệnh bằng con chuột để kiểm tra sự nạp chương trình của chúng ta mà thôi. Và chúng ta đang thỏa mãn. Một sự thỏa mãn đầy tội lỗi. Trong một lần nói chuyện với các giáo viên dạy văn giỏi toàn quốc do trường Đại học Văn hóa tổ chức, tôi có nói với các giáo viên dạy văn rằng, ngay chính tác phẩm bất hủ nhất của văn chương cổ điển Việt Nam là Truyện Kiều thì khi chúng ta đi học, chúng ta cũng không được học những phần nhân văn nhất, đẹp nhất của tác phẩm mà chúng ta chủ yếu học về lòng hận thù. Các giáo viên đã đồng ý với ý kiến của tôi. Chúng ta đã quên việc quan trọng nhất của một nền giáo dục là xây dựng nền mỹ học trong mỗi học sinh. Bởi khi con người có khả nàng nhận biết cái đẹp thì họ biết lựa chọn hành động cho cái đẹp. Khát vọng cuối cùng của chúng ta về con người là vậy. Những sai lầm của giáo dục chúng ta không phải do những cá nhân giáo viên. Những sai lầm ấy thuộc về một hệ thống khác. Có nhiều lúc con gái tôi nhờ tôi giảng cho cháu một bài thơ trong sách giáo khoa. Tôi hoàn toàn hoang mang. Bởi tôi không biết sẽ phải nói như thế nào với con gái tôi. Tôi không thể nói đó là một bài thơ dưới mức trung bình, một bài thơ nhạt nhẽo, càng không thể nói đó là một bài thơ giả dối. Con gái tôi còn nhỏ, cháu sẽ không thể chịu đựng được điều ấy. Vậy thì tôi phải làm gì?
Tôi nhớ khi con gái tôi lên bốn tuổi. Có một lần cháu đã không nghe lời tôi. Cháu ném con búp bê tôi mua cho cháu xuống gầm giường và nói: không cần. Tôi không nói gì. Buổi tối hôm đó tôi đến bên con gái tôi và kể một câu chuyện.
Có một người cha đi vào rừng. Một con hổ hung dữ nhảy ra chặn đường người cha và gầm lên:
- Ta sẽ ăn thịt ngươi. Muốn sống, ngươi hãy quay trở lại.
- Dù chết ta cũng không bao giờ quay lại, - người cha nói. - Ta phải vào rừng để ngắt bông hoa đẹp nhất ở đó mang về cho con gái ta.
- Ngươi không sợ chết ư? - Hổ hỏi.
- Không, - người cha mỉm cười nói.
- Vì sao ngươi lại không sợ chết? - Hổ lại gầm lên.
- Vì ta yêu con gái ta. - Người cha nói. - Vì niềm vui của con gái ta mà ta không sợ chết.
Rồi người cha lại đi ra biển. Một con cá mập hung dữ bơi đến và nói:
- Ta sẽ nuốt ngươi vào bụng ta. Nếu ngươi biết sợ thì hãy mau mau quay lại bờ.
- Ta sẽ không bao giờ quay lại. - Người cha nói. - Ta phải lặn xuống nơi đáy biển sâu nhất để mang về cho con gái ta viên ngọc trai lớn nhất và đẹp nhất của biển cả.
- Ngươi quả là một kẻ không biết sợ chết, - Cá mập nói và nhe hai hàm răng nhọn hoắt. - Cái gì làm cho ngươi không sợ hàm răng nhọn sắc kinh khủng của ta?
- Tình yêu của ta với con gái ta làm cho ta không sợ chết, - người cha hãnh diện nói. - Vì con gái ta mà ta sẵn sàng chết.
Nói xong, người cha cười vang. Tiếng cười của người cha làm cho con cá mập sợ hãi và biến mất.
Khi tôi kể câu chuyện này trong buổi tối ấy, con gái tôi nằm trên giường im lặng lắng nghe. Rồi con gái tôi từ từ úp mặt vào gối. Khi tôi kể xong, con gái tôi vẫn nằm như vậy. Tôi nghĩ con tôi đã ngủ. Tôi khẽ khàng xoay người con tôi lại. Và tôi nhận thấy trên gương mặt tơ non của cô bé bốn tuổi đầm đìa nước mắt từ khi nào. Vâng, tất cả chỉ giản dị như vậy. Câu chuyện chỉ có thế. Năm nay con gái tôi đã ngoài 20 tuổi. Cháu có thể chẳng còn nhớ câu chuyện xưa tôi kể cho cháu nghe. Nhưng một buổi tối của một ngày ấu thơ cô bé bốn tuổi ấy đã nức nở. Cô bé ấy khóc không phải vì sợ hãi, không phải vì cô bé ấy thương người cha của mình, không phải vì cô bé ấy nhận ra khuyết điểm của mình. Cô bé khóc vì một điều gì đó đã xảy ra trong tâm hồn cô dù cô bé ấy chẳng thể nhận ra. Tôi gọi những điều xảy ra trong tâm hồn con người như thế là những sự kiện của tâm hồn. Bây giờ con tôi chẳng còn nhớ câu chuyện ấy giống như muôn vàn bài học đạo đức vụng về chúng ta vẫn dạy cho những đứa trẻ trong những tháng năm qua, nhưng buổi tối ấy có một điều gì đấy mà tôi cũng chưa kịp gọi tên đã nảy mầm trong tâm hồn một đứa trẻ. Tất cả bắt đầu như vậy và đơn giản chỉ là như vậy.
Năm 2007, tôi trở lại nước Mỹ. Lily mười bốn tuổi và đẹp rực rỡ. Sau một chút ngỡ ngàng tôi mới nhận ra cô. Những người hàng xóm của Kevin đã đưa con cái họ đến chào tôi. Đêm ấy, bên cạnh chiếc lò sưởi, tôi đã thức gần tới sáng. Tôi lại nhớ tới lá thư Kevin viết cho tôi cách đó bốn năm: “Thiều thân mến, chiều qua Lily và tôi đã trèo lên đỉnh một ngọn đồi. Từ đó, cha con tôi như nhìn thấy phía bên kia trái đất và chúng tôi nghe thấy tiếng chó sủa ở làng Chùa.” Đấy là lá thư mà tôi không thể nào quên được. Bởi thế, khi trở lại vùng đồi ở ngoại ô Massachusetts, tôi như trở lại quê hương mình sau nhiều năm xa cách. Bởi ở đó có những người vẫn nghe thấy tiếng chó sủa ở làng tôi.
Một tuần sau khi tôi đến Mỹ thì tới sinh nhật của Lily. Tôi đã nói với cha mẹ cô để tôi tổ chức sinh nhật cho cô. Trước đó mấy ngày, tôi hì hụi vẽ một bức sơn dầu những bông hoa tím tặng cô. Và trong buổi tối sinh nhật của Lily, tôi đã nói với những người tới dự sinh nhật của cô: “Tôi tổ chức sinh nhật cho Lily nhưng là để làm nên một buổi tối cho chúng ta, một buổi tối của hòa bình và của cái đẹp trên thế gian này. Rồi sẽ đến một ngày tôi không thể trở lại mảnh đất này được nữa. Con trai tôi sẽ lại đến đây để tổ chức sinh nhật cho một cô bé mười bốn tuổi nào đó. Và nó lại thay tôi làm nên một buổi tối hòa bình và của cái đẹp cho thế gian này.”
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Con gái ơi
Cho con gái Tuyết Ngân
Con mặc chiếc váy mỏng như khâu bằng
những cánh hoa tầm xuân
Con đi đôi giày nhỏ như làm bằng hai chiếc kén
tằm vàng
Trên con đường trước nhà ta đầy đá
Con chạy ra đón cha
Hai bên đường những cánh bướm còn non
Bay như dính vào không gian
Đó là chim bổ câu tí hon
Trong miền riêng của con trong trắng
Niềm xúc động trong cha dâng lên đến tận cùng
Làm buốt chân tóc trên đỉnh đầu cha
Những sợi tóc tơ con ròng ròng từng sợi nước
Mát rượi chảy tràn từng ống xương cha
Con gái của cha ơi
Cha nghe thấy có tiếng cười lạ
Cha nghe thấy có tiếng người lạ
Dẫu không gọi tên con cũng không gọi tên cha
Mà sao cha sợ run lên
Cha mở đời cha như mở một tấm lót
Bọc lấy con và bế con lên
Chỉ như thế cha mới có thể nhắm đôi mắt lại
Hôn dịu dàng lên mái tóc con
Chỉ như thế chiều nay con mới không òa khóc.
BỐN
Thông điệp từ một đêm trăng
Đêm qua tôi chợt tỉnh giấc. Ngay lúc đó tôi nhận ra căn phòng tôi ở tràn ngập ánh trăng. Tôi ngồi dậy đến bên cửa sổ. Đêm nay có lẽ sắp rằm. Trăng tròn quá và trong quá. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn trăng trên bầu trời từ một xứ sở xa lạ. Vầng trăng có gì khác khi tôi nhìn từ nơi này? Không có gì khác cả. Chỉ có nỗi nhớ cố hương từ nơi này trong một đêm trăng im ắng. Và lúc đó, tôi chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ Việt Phương: Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ.
Thật hài hước và thật đau đớn. Nhà thơ đã nói đúng nỗi đau đớn ấy của chúng ta. Tại sao chúng ta lại có những năm tháng như thế? Tại sao? Dù có trả lời được thì tôi vẫn cứ phải hỏi tại sao? Tại sao? Vầng trăng, một biểu tượng của cái đẹp. Cái đẹp không thuộc quyền sở hữu của một quốc gia nào, của một quyền lực nào. Khi một quyền lực nào đó định chiếm hữu cái đẹp thì cái đẹp biến mất. Cái đẹp ấy luôn luôn ở trên mọi quyền lực, tỏa sáng chúng ta, ngự trị chúng ta và cứu rỗi chúng ta. Tôi ngắm trăng khi đang ở trên nước Mỹ. Và những người thân của tôi ngắm trăng từ mảnh đất cố hương tôi. Chúng tôi cùng nhận ra vẻ đẹp ấy và cùng chiêm ngưỡng. Tại sao chúng ta lại có những tháng năm như thế. Và tại sao chúng ta lại không nói như thế về những tháng năm tương tự của chúng ta.
Sau chuyến đi Mỹ đầu tiên trở về, tôi về quê đúng dịp Trung thu, bác gái tôi, một người nông dân hơn tám mươi tuổi, gần như không biết chữ, hỏi:
- Mỹ có rằm Trung thu không hở cháu?
- Không có bác ạ. Nhưng họ cũng có trăng.
- Trăng của họ thế nào?
- Cả thế giới này chỉ có một vầng trăng thôi bác ạ.
- Trăng đang ở giữa làng mình, xa thế mà họ cũng nhìn thấy à?
- Khi trăng đang ở trên đầu mình thì nhiều nơi khác cũng thấy trăng trên đầu họ, bác ạ.
- Lạ nhỉ!
Tôi chỉ nói đến đó với bác tôi thôi. Bởi lúc đó, tôi nhận thấy gương mặt bác tôi vẻ tư lự. Bác tôi đã đang nghĩ tới một điều gì đó. Câu trả lời của tôi như vậy đã hoàn thành.
Tôi có viết một truyện ngắn có tên: Chạy Trốn Khỏi Vầng Trăng. Chuyện kể về một người đàn bà góa chồng bởi chiến tranh. Chị cố trốn chạy khỏi tình yêu của một người đàn ông dành cho chị. Nhưng đêm đêm, vầng trăng lại mọc trên đỉnh đồi trước nhà chị. Trăng đẹp quá và chị không chịu nổi sự cô đơn và một điều gì đó thức dậy trong lòng chị. Chị không thể thờ ơ trước những điều kỳ diệu trong đời sống. Chị lao theo tiếng gọi của tình yêu. Những lời thị phi và cái phẩm hạnh phong kiến như đám mây đen vào khoảnh khắc nào đó lại che khuất vầng trăng trong lòng chị. Nhưng trăng lại hiện ra, lại tỏa sáng lộng lẫy, và chị lại lao ra khỏi nhà, vừa chạy chị vừa khóc trong hạnh phúc, trong đau đớn dằn vặt. Chị muốn có hạnh phúc, nhưng chị sợ hãi. Chị nghĩ: chỉ có một con đường là chị chạy trốn khỏi vầng trăng. Nghĩa là chị phải chạy trốn khỏi cái đẹp. Chị bỏ nhà vào sống trong hang núi tối tăm. Nhưng cái đẹp đã ở trong tâm hồn chị, vầng trăng luôn luôn ngự trị trong tâm hồn chị. Bởi thế, với những người như chị, càng ở trong tăm tối nó càng tỏa sáng rực rỡ.
Trong một đêm mùa hạ ở quê, tôi cùng cha tôi ngồi ngoài sân rất khuya. Làng quê trong đêm trăng yên tĩnh trở nên huyền bí và mênh mang vô tận. Trăng vằng vặc trên sân nhà soi rõ cả những con kiến lang thang trong đêm. Thỉnh thoảng, những ngọn gió mùa hạ từ cánh đồng thổi về làm xôn xao những vòm lá trong vườn. Cả vòm cây lấp lánh như dát vàng. Và trong những con gió thổi về, tôi nghe tiếng cuốc từ cánh đồng xa buồn bã. Lâu lắm rồi tôi mới lại nghe tiếng cuốc. Có những năm tháng dài, những con cuốc không biết đi đâu. Tôi hỏi thì cha tôi bảo người ta săn bắn chim chóc nhiều quá đến chẳng còn một con nào. Nhưng đêm ấy, tôi lại được nghe cuốc kêu. Tiếng cuốc kêu đều đều suốt đêm. Kêu như lời của một kẻ tri âm. Kêu như một nỗi buồn đau dằng dặc. Kêu như đang xé từng mảnh phổi của mình. Kêu như những bước chân tiến dần về cái chết. Kêu như nỗi oan ức của mọi thời đại. Và kêu...
Hai cha con tôi ngồi im lặng trong đêm trăng của làng quê. Cha tôi lúc đó đã tám mươi tuổi. Tôi đã ngoài bốn mươi. Cả hai người đàn ông ấy đã đủ thời gian sống để biết im lặng. Bỗng cha tôi quay về phía tôi và nói: “Nếu hai anh em con có tiền thì xây một chái nhà lên hai ba tầng, thành phố loạn lạc thì vợ chồng con cái về làng mà ở, nếu nước lớn thì có nơi mà chạy nước. Hai anh em cố mà làm sớm, con ạ.” Khi cha tôi vừa nói xong thì tôi cảm thấy một luồng khí lạnh tràn qua người tôi. Cha tôi là một người nông dân, sau này tham gia Cách mạng và về hưu, nhưng bản chất cha tôi vẫn là một người nông dân. Tôi chưa bao giờ nghe cha tôi nói những điều như vậy. Cha tôi không có ngôn ngữ ấy. Cái ông thường xuyên nói, nói cả đời, là đạo làm người. Ông nói một cách đơn giản và cụ thể. Những gì ông nói từ trước tới giờ không ngoài những việc cụ thể hàng ngày và với những người cụ thể trong làng, trong họ và trong gia đình. Câu nói của cha tôi đêm ấy là một thông điệp. Ai đó từ chốn cao xanh đã mượn cha tôi, một người già tám mươi tuổi, để truyền đi thông điệp ấy chăng? Sẽ có một thay đổi lớn lao hay một sự bất trắc khủng khiếp trong đời sống của chúng ta chăng? Có, tôi tin là có. Con người sẽ phải chịu những hậu họa khủng khiếp do chính con người gây ra.
Khi cha tôi đi nằm vì ngồi lâu ông thấy đau lưng, tôi ngồi một mình giữa sân nhà giàn giụa ánh trăng. Những con kiến vẫn đi. Lúc nào những con kiến cũng vội vã. Chúng đi không ngưng nghỉ từ lúc sinh ra cho tới lúc chết. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy lũ kiến ngủ. Ngày còn bé, tôi hỏi mẹ: “Mẹ ơi, những con kiến không ngủ hở mẹ?” Mẹ tôi không trả lời được câu hỏi của tôi. Tôi ngồi im lặng trong tiếng cuốc kêu đều đều từ cánh đồng xa vọng về. Tôi đã kể câu chuyện về cha tôi cho một số người nghe. Nhưng tôi biết chỉ một hai người trong số đó suy nghĩ về câu chuyện ấy. Những người khác nghĩ tôi lãng mạn, nghĩ tôi bị bệnh tâm thần trong một giây khắc nào đó, nghĩ tôi là kẻ tuyệt vọng và có thể là kẻ hão huyền. Tôi không đợi chờ lòng tin của họ vào câu chuyện ấy. Nhưng với tôi, đó hoàn toàn là một thông điệp. Tôi đã nghe được thông điệp ấy và tôi có nghĩa vụ chuyển tiếp thông điệp ấy cho người khác. Tai họa sẽ giáng xuống đầu chúng ta bởi chính tội lỗi của chúng ta. Dù chúng ta vẫn ngày ngày đọc lời biện minh cho những tội lỗi ấy.
Đã một lần cha tôi nói về việc xây dựng nhà cửa. Đó là năm 1986, khi tôi đang học ở Cuba. Tôi nhận được thư cha tôi. Trong thư có đoạn: “Bố vừa mới xây xong được chái bếp, để sau này bố có mất đi thì anh em có chỗ mà đun nấu.” Tôi đã rơi nước mắt khi đọc đến đoạn ấy. Cha tôi đi thoát ly hơn bốn mươi năm rồi về hưu. Ông trở về làng vì đấy là nguyện ước của ông. Nếu ở lại thành phố ông cũng không có một nơi nào để ở. Khi về hưu, ông được tặng một chiếc tủ đựng quần áo đánh vécni vàng như bôi nghệ có lẽ đóng bằng gỗ gạo, một loại gỗ mà tôi gọi là “gỗ giả dối” vì hầu như nó chẳng dùng được vào việc gì. Sau ba năm, chiếc tủ bị mọt gần hết. Cha tôi ngậm ngùi chẻ ra làm củi đun nhưng chỉ có khói mù mịt mà không có lửa. Sau này, những người khác làm quan quá sung sướng. Những người về hưu tay trắng như cha tôi tự an ủi: mình hy sinh làm cách mạng cho thế hệ sau sung sướng mà. Đúng, thế hệ những người cách mạng như cha tôi đã mang lại lòng tin bất diệt cho nhân dân. Tôi khó có thể tìm được những người cách mạng như thế sau thế hệ cha tôi. Vì thế khi về hưu, ông bắt tay nuôi lợn nái và dành dụm tiền nong để tám năm sau ông mới có cơ hội xây được gian bếp tạm tươm tất. Và ông hạnh phúc.
Công việc xây dựng nhà cửa của cha tôi gần hai mươi năm trước là công việc chuẩn bị cho điều kiện sinh hoạt. Còn ý định xây dựng nhà cửa của cha tôi gần hai mươi năm sau là thông điệp về những tai họa của kiếp người một ngày nào đó có thể giáng xuống.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Dưới trăng và một bậc cửa
Tràn đến bậc cửa rồi.
Những chiếc lá non mạ bạc
Đang múc từng thìa trăng
Những bóng cây say đổ vào nhau.
Dạt theo những lớp sóng trăng
Con dế mèn lãng mạn
Con gián khát thèm
Những mối tình đang đến và đang chia xa
Những bối tóc góa bụa xổ tung cười ngất
Những xé rách, những vá liền, những phân tán,
những khô cong và những...
Em đã đến trước trăng
Em chỉ thở được trong khoảng đục của thời gian,
không gian.
Tràn qua bậc cửa rồi.
Không thể nào tìm được người quen trong đêm nay
Tôi bò qua bậc cửa nhà mình
Con gián xòe xòe cánh bay
Chuyển vận hành mông lung mang theo ổ trứng
Vệt chói sáng ghê rợn và kỳ thú
Càng xa... càng gắt... càng tê liệt
Những rễ cây ân ái dưới đất nâu
Sự ân ái phì nhiêu và rụng lá
Nhân loại bày ra trong giấc ngủ mụ mị
Càng mơ càng cuống bước chân
Không có bậc cửa nào cho tôi bò qua.
Những con sâu, những vệt sáng ngắn
chảy từ gốc lên cành
Chúng ngoan ngoãn liếm trăng trên những
thìa lá mạ bạc
Lũ trẻ còng queo ngủ
Những dãy số đánh lừa và phản bội chúng
Trong mơ chúng có liếm trăng trên vòm lá kia không?
Sự cấu tạo trăng, sự cấu tạo côn trùng, sự cấu tạo người
Sự cấu tạo nào nhiều máu hơn, sự cấu tạo nào
nhiều bóng tối hơn
Tội ác khe khẽ bế từ thiện ngủ mệt mỏi
sang giường người khác
Cơn mơ bàn chân trần tướp máu
Đi trên những mảnh chuông vàng thánh thót
Ngân trong cái lưỡi trăng chói sáng và sắc lẻm
Lách vào hư vô nhựa chảy ròng ròng.
Không thể nào tìm được em trong đêm nay
Những ngôi nhà, những ổ đất nghi ngờ đóng cửa
Dưới mái dạ sũng trăng
Con Bống cái chửa hoang ngơ ngác và thường chết ngất
Chỉ còn tiếng nước thánh thiện vang xa
Niềm an ủi cuối cùng là sự kiệt sức
Hai cánh tay tôi - hai vây cá rách tướp
Dìu nỗi sợ chửa hoang đi tìm ổ đất buồn
Chảy ướt nỗi buồn, chảy ướt niềm hạnh phúc
Chảy ướt những gì nhân loại đang do dự
Như một nồi bột bánh
Đặc dần và bốc hơi trên mặt đất đói mềm
Những con chó ngửa mặt tru trăng
Không có chức năng canh giữ, không có cơn sốt dại,
không có...
Những cánh rừng đang khóc
Linh hồn cây vục dậy từ ổ lá mục
Mở ra đêm vũ hội bầy bọ chó
Cố hương buồn rã cánh
Cố hương mê mẩn và lạc đường
Trong những cánh rừng đầy quỷ
Không thể nào tìm được người quen trong đêm nay
Đã tràn qua bên kia
Những bầu vú tươi non trở lại
Những hơi thở được đốt nóng trở lại
Trên mảng tường ẩm mốc
Bầy kiến lang thang theo tri giác của mình
Con đường kiến - miên man cơn sốt
Những con kiến tí hon với cái đầu vĩ đại
Đi về đâu những điều đúng trong trăng
Đi về đâu những điều sai trong trăng
Và ôi, con dế mèn lãng du
Hãy vì đồng loại mày trong đêm mê dại này
mà đừng vuốt râu
Chiếc đàn hình lá cỏ
Bài ca xanh ngập ngụa lối mòn
Không thể nào tìm được người quen trong đêm nay
Tôi đã đánh mất tôi một nửa
Tôi tự sinh cho tôi thêm một nửa
Nửa nào có máu và nửa nào mất máu
Hai bàn tay tôi hai chiếc thìa mạ bạc nham nhở
Đang múc từng thìa trăng
Tôi đói chưa bao giờ đói hơn
Tôi khát chưa bao giô khát hơn
Tôi khóc
Những rễ cây chộp lấy tôi và nghiền tôi thành nước
Tôi lao theo những thớ cây vùn vụt lên cành
Không thể nào tìm được em trong đêm nay
Tôi là bông hoa mướp cuối cùng của mùa hạ
u mê rụng xuống
Con cóc già lơ đễnh và tinh quái
Nó vuốt trăng trên mặt nhìn tôi
Bàn tay nó mềm và lạnh
Sự khởi đầu bao giờ cũng giống sự vuốt ve.
Bay qua... bay qua...
Những đám mây mềm và ướt
Chiếc khăn tay của người đàn bà
Đẹp nhất và buồn nhất của thế gian này
Đang thiêm thiếp ngủ trong sa mạc trăng
Hình như có một bậc cửa cho tôi bò qua
Đó là nơi sóng trăng đang vật vã.
Rút từ Những người đàn bà gánh nước sông,
NXB Văn Học 1995
NĂM
Trong căn phòng một người bại liệt
Năm tôi tám tuổi thì bà nội tôi ốm và nằm liệt giường suốt bốn năm cho tới khi chết. Bốn năm đó, chân tay bà tôi bất động. Nhưng đầu óc bà hoàn toàn minh mẫn. Bà tôi nằm trong một căn phòng có mái gác bằng tre. Cạnh giường bà tôi là một cửa sổ nhỏ mở sang vườn hàng xóm. Một chiếc ghế kê ở đuôi giường để bà tôi đi đại, tiểu tiện. Một chiếc ghế kê gần đầu giường dành cho khách khứa đến chơi.
Lúc đầu, bà tôi còn để tóc dài. Mỗi lúc gội đầu cho bà, mẹ tôi để đầu bà sát mép giường và thả cho mái tóc chảy xuống đầy chiếc chậu thau đồng. Nhiều lần, bà bảo mẹ tôi cắt tóc cho bà. Mẹ tôi không nghe. Nhưng bà tôi hay đau đầu và bị chấy đốt. Và bố tôi quyết định cắt tóc bà. Bố tôi gói tóc bà vào một tấm vải sạch và ra một gò đất ngoài cánh đồng mai táng mái tóc ấy.
Trong những năm tháng nằm bất động, bà tôi - một người đàn bà nông dân không biết chữ - bắt đầu tự ý thức về mình. Trước đó một người như bà tôi không mảy may ý thức về mình. Ý thức về bản thân mình của bà tôi không phải do học vấn dẫn dắt. Ý thức đó sinh ra từ sự biến mất của rất nhiều các hoạt động sống trước đó. Sự biến mất này đẩy con người vào một tâm lý hoảng loạn và đánh mất khả năng kiểm soát chính mình. Và thật kỳ lạ, trong những ngày đó, bà tôi rất muốn được nhìn thấy chính gương mặt mình. Tôi cầm một chiếc gương bé bằng bàn tay giơ lên cho bà tôi soi. Bà tôi nhìn vào gương giống như một con bồ câu soi mình trong chậu nước. Tôi thấy bà tôi thích thú và kinh hãi. Tôi chắc chắn một điều: bà tôi - một người bại liệt với bà tôi - người trong gương không hề quen biết nhau. Bà tôi không mảy may công nhận mình trong cái bản sao ở không gian phẳng của mặt gương. Bà tôi đã đúng. Điều này gần giống một đứa trẻ lên hai không thể xác nhận được nó khi nó nhìn ảnh nó hoặc nhìn nó trong gương. Nó chỉ có thể xác nhận lần thứ nhất hết sức mơ hồ khi trên tay nó cầm một cái kẹo hoặc một thứ đồ chơi quen thuộc. Và nó sẽ xác nhận nó rõ hơn khi một người là mẹ hoặc cha nó xuất hiện trước nó và cất tiếng nói.
Bà tôi đã cố định nghĩa mình bằng dụng cụ - chiếc gương. Và tất nhiên, nó không mang lại kết quả gì. Tôi đã thử nghiệm các định nghĩa cái mà mình đinh ninh là biết quá rõ ràng - chính bản thân mình. Và khi tôi nhìn tôi trong gương, tôi hoàn toàn hoang mang. Sự hoang mang này mỗi lúc một tăng khi tôi cố thử lại nhiều lần nữa. Cũng như các họa sĩ vẽ chân dung chính họ. Và rất ít người thành công khi thực hiện định nghĩa chính bản thân bằng hội họa. Việc đầu tiên họ phải tìm một số nét để làm giống mặt họ. Những nét giống này chỉ là những ký hiệu đơn giản. Nếu họa sĩ tập trung quá nhiều những ký hiệu này và lấy đó làm mục đích, thì khi anh ta kết thúc bức chân dung tự họa, anh ta đã cắt đứt mọi quan hệ sống còn giữa anh ta và tác phẩm.
Bà tôi đã thất bại trong việc kiếm tìm hình ảnh của mình trong chiếc gương. Ngay sau đó, dù chỉ là vô thức, bà tôi đã kiếm tìm sự hiện hữu. Không! Nó đúng là sự tồn tại của bà tôi. Bởi thế, bà tôi bắt đầu nói lan man đủ thứ chuyện từ sáng tới khi đi ngủ. Bà tôi không còn cảm giác gì với cơ thể bại liệt của mình. Nỗi sợ hãi không xác định được sự tồn tại của mình bằng những cảm nhận của thân xác khiến bà tôi phải dùng giọng nói đã trở thành tấm gương để bà tôi soi ký ức và ý thức sống của bà. Bà tôi nhận thấy sự hiển thị của mình trong giọng nói. Sự tồn tại này bây giờ lại đồng nghĩa với chân dung của bà tôi. Sự tồn tại ấy - chân dung ấy đã hiện lên bằng tiếng nói của bà tôi. Và chân dung của bà tôi được xây dựng nên bằng tiếng nói của người, đã tồn tại trong tôi mọi chiều của không gian, thời gian và mọi tầng suy ngẫm của tôi.
Sau khi bà tôi mất đã nhiều năm, tôi vẫn có những buổi tối đứng im lặng trong căn phòng bà tôi nằm trước kia. Mọi đồ đạc đã thay đổi. Nghĩa là, mọi liên hệ mang tính chất giữa tôi và bà tôi và những phụ vật khác mang tính điều kiện đã bị xóa nhòa hoàn toàn. Nhưng tôi vẫn thấy bà tôi hiện hữu. Hiện hữu này không phải là hiện thực của thể xác mà là hiện thực của tinh thần bà tôi. Hiện thực của thể xác là một hiện thực bất động của đời sống. Nó giống như một cái chết được băng hóa. Còn hiện thực của tinh thần thì luôn chuyển động và sinh nở, và biến ảo. Và nó luôn tìm cách trở lại điểm đầu tiên của nó.
Những câu chuyện được bà tôi kể liên miên trên giường bệnh trong suốt bốn năm lại không chỉ kể về bà tôi mà còn kể về những ám ảnh và trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến đời sống tinh thần của người. Bà tôi không hề có ý mù mờ hóa quá khứ của mình. Ngược lại, bà tôi đã dựng nên một cách sống động nhất lịch sử của mình. Hiện thực này, theo tôi, nó giống như hiện thực của một bài thơ.
Năm 1995, tại một lớp tiếng Anh năm cuối cùng của đại học Huế, tôi cùng hai nhà thơ Mỹ đã dự lớp học này. Một sinh viên hỏi tôi thơ xuất hiện khi nào. Tôi đã lấy một ví dụ: Tôi đặt một viên phấn lên bàn và bảo họ hãy nhìn viên phấn. Sau đó tôi lấy một viên phấn khác đè gẫy viên phấn kia. Tôi nói với họ rằng tất cả những gì họ thấy đó là lịch sử.
Sau đó tôi cất viên phấn đi và bảo họ hãy nhìn vào nơi có viên phấn để trước đó và nhớ lại. Nhớ gì cũng được. Và sự nhớ này không bao giờ có thứ tự. Nó luôn luôn có một sự kiện vô can chen vào. Lúc này văn xuôi xuất hiện.
Cuối cùng tôi nói họ hãy nhắm mắt lại và nhìn vào nơi đã có viên phấn từ năm đến mười phút. Bạn hãy thực hiện một ví dụ tương tự và bạn thấy mọi việc xảy ra trong cái nhìn ấy thật kỳ lạ. Bạn không thể nào đoán trước được. Mỗi lần nhắm mắt và nhìn khác nhau thì mọi việc đều xảy ra khác nhau. Mặc dù sự kiện của viên phấn không thay đổi. Chỉ lúc này, thơ ca mới có khả năng xuất hiện.
Tất nhiên, ví dụ trên là một ví dụ nhỏ và đôi lúc nó trở nên thô thiển. Nhưng không ai có thể chối cãi được là có một hiện thực của viên phấn và những sự kiện liên quan đến nó ở trong cái nhìn thứ ba kia.
Trong căn phòng của bà tôi vào những buổi tối ấy, lúc đầu tôi tưởng là tôi nghe thấy tiếng bà tôi và tiếng của toàn bộ những nhân vật mà khi sống bà tôi đã kể. Nhưng sau đó tôi phát hiện ra đó là toàn bộ đời sống của bà tôi và của những mối liên hệ đến bà tôi. Đời sống ấy dựng bằng âm thanh. Văn bản của một tác phẩm giống như một cuộn băng lưu giữ những âm thanh của đời sống. Ý kiến này khó thuyết phục nhiều người nhưng chính lúc này, trong bạn đang vang lên những âm thanh ấy và nó không rời bỏ bạn. Và khi bạn đọc xong một bài thơ (cả trong im lặng) thì âm thanh đã rời bỏ bài thơ đó. Nó bước vào cuộc sống bạn và vang lên ở một không gian khác.
Tôi đã từng nhìn một bức ảnh của một người họ hàng di cư vào Sài Gòn năm 1954. Bức ảnh được chụp với một công nghệ chụp ảnh hiện đại. Nhưng tôi không làm sao lập được mối quan hệ với người họ hàng kia. Năm 1980, tôi vào Sài Gòn công tác. Tôi tìm đến nhà người họ hàng ấy. Người đó đã mất. Anh con trai cả của ông bật ghi âm cho tôi nghe giọng nói của ông. Trong băng, ông kể về quê quán ông với những kỷ niệm. Tôi đã nghe cuốn băng ấy nhiều lần. Và toàn bộ lịch sử về ông được sống dậy. Cao hơn cả lịch sử ấy là số phận ông. Số phận của một đời sống đã xóa hết mọi dấu vết của hình thức. Nó tồn tại trong mọi chiều không gian. Nó giống như âm thanh nổi của các máy hát điện tử bây giờ. Tất nhiên chỉ là giống như thôi. Và tấm ảnh của ông lúc đó đối với tôi như một cái xác được nhập hồn. Giọng nói của bà tôi cũng như giọng nói của người họ hàng đã tạo dựng những mối liên hệ bí ẩn giữa họ và tôi. Giọng nói của họ vang lên dù không có một thông tin hay nội dung cụ thể nào, thì nó vẫn luôn như một quá khứ của đời sống vụt hiện. Khoảnh khắc của sự vụt hiện ấy dù chỉ lóe lên như một tia chớp thì nó cũng phô bày trước chúng ta một đời sống tươi ròng, thở hổn hển, mà chúng ta tưởng nó đã vĩnh viễn mất đi. Không gian chúng ta đang tồn tại bằng hình thể, ở đó như đêm tối dày đặc mà ta không nhìn thấy gì. Và khoảnh khắc của ánh sáng, của tia chớp làm cho chúng ta thấy toàn bộ đời sống và phong cảnh quanh ta. Nỗi cô đơn của ta trong đêm tối đã có nơi nương tựa và nó nhận ra con đường của nó.
Charles Simic (nhà thơ Mỹ) viết: “Mục đích của bài thơ là cố gắng lưu giữ lại cho người đọc cái khoảnh khắc của đời sống mà họ không bao giờ tìm lại được nếu không có thơ.”
Người ta hỏi Joseph Brodsky (giải Nobel Văn học năm 1987) rằng: “Bằng cách gì mà con người của một triệu năm sau hiểu được đời sống của chúng ta bây giờ?” Ông đã trả lời: “Bằng những bài thơ của chúng ta, ngoài ra không còn gì nữa.”
Đúng vậy. Những thành tựu khoa học, những chủ nghĩa, những mối bất hòa xã hội v.v... trở nên ngớ ngẩn và vô nghĩa đối với con người của triệu năm sau. Nhưng linh hồn thì mãi mãi vẫn thế. Một bài thơ dù thế nào cũng phải mang tình thần tôn giáo. Tinh thần của tôn giáo luôn luôn thuộc về vũ trụ và mang tính vũ trụ. Những gì mang phẩm tính ấy đều có mẫu số chung. Vũ trụ đã quy chúng ta về một mà nhiều khi chúng ta không biết.
Và một buổi tối khác lại đến. Tôi ở trong căn phòng bà tôi đã nằm suốt bốn năm bất động trên giường. Những âm thanh mơ hồ nào đấy trong căn phòng lại mang đến những gợi mở về một hình thức nào đó của vật chất đã mất. Tôi cảm thấy tôi đang lướt qua những khoảng tối trong nhà. Tôi ngửi thấy mùi trầu, mùi dầu cao Con hổ bà tôi vẫn thường dùng và mùi nước tiểu tràn ngập căn phòng. Tôi thấy cả một con chấy đang cố lẩn vào đám tóc bạc và dày của bà tôi. Hơn thế nữa, tôi thấy đời sống của bà tôi sau khi chết mà có lúc tôi gọi đó là tương lai của những kết thúc. Một đời sống mà nó không làm tôi ngưỡng vọng như con chiên ngưỡng vọng Chúa. Nó giải tỏa những đau đớn về tinh thần. Nó lập lại quan hệ của bà tôi với tôi - một quan hệ chứa đầy ý nghĩa của bản chất đời sống. Tôi không yêu bà tôi hơn bố tôi, hơn mẹ tôi (người con dâu hiếu thảo một cách kỳ lạ của bà tôi) và hơn cô ruột tôi. Nhưng bố tôi, mẹ tôi, cô tôi không bao giờ thấy bà tôi sau khi chết như tôi thấy. Bởi vì họ đang giữ mối quan hệ với bà tôi bằng những kinh nghiệm. Còn tôi giữ bà tôi bằng trí tưởng tượng vô cùng hoang dại, và bằng những cơn mơ bất tận, đầy nhạc tính bởi sự va chạm của những đồ vật quen biết và gắn bó trong tuổi thơ của tôi.
Có một lần tôi đã nói rằng, bà tôi - một nông dân không biết chữ - là nhà văn đầu tiên và vĩ đại của tuổi thơ tôi. Khi bà tôi chưa bị bại liệt, có một số câu chuyện bà tôi kể cho tôi nghe, tôi không có được ấn tượng dữ dội như khi bà tôi nằm bất động trên giường. Bởi khi nằm bất động trên giường, bà tôi mất đi toàn bộ cảm giác về thể xác mình, nhiều lúc bà tôi không tin mình hiển thị trước mọi người. Bà tôi hoảng sợ với cảm giác mình đã trở thành vô hình. Cùng lúc đó, nhà cửa, đường sá, cánh đồng, dòng sông, trâu bò và những người thân quen, những thứ mà trước đó ngày ngày bà tôi tiếp xúc, trò chuyện và chứng kiến đang có nguy cơ biến mất (không gặp lại) vĩnh viễn.
Trong trạng thái sợ hãi ấy, giọng nói bà tôi cất lên. Giọng nói được cất lên không với ý thức là để lưu giữ những điều kia, mà cất lên như sự kêu cứu trong phút giây tuyệt vọng nhất rằng toàn bộ con người mình sẽ bị hủy hoại. Chính vì trạng thái đó mà những gì bà tôi hỏi, bà tôi kể hiện lên trong một hình ảnh, một sức sống, một khát vọng cuồng dại giống như một cơn hỏa hoạn khổng lồ. Bà tôi nói những lời thật kinh dị về con lợn nái và những con lợn con bị chính lợn mẹ ăn thịt sau khi đẻ ra, về bệnh phù thũng của người chị họ gần 80 tuổi dùng da cóc dán vào những chỗ rỉ nước vàng với hy vọng khỏi bệnh, về những con cá trê trắng bệch trong một ngôi mộ ngập nước ven bờ đầm, về bà cô ruột của tôi chết vì viêm phổi năm 16 tuổi, v.v...
Qua giọng kể của bà tôi, một đời sống khác của những gì tôi đã từng biết hiện lên. Khi còn nhỏ, đời sống khác ấy ám ảnh tôi và đôi lúc nó làm tôi sợ hãi, nhưng sau sự sợ hãi ấy tôi lại khát khao được nhìn thấy, được ở giữa đời sống khác ấy. Còn khi tôi lớn lên, đời sống khác ấy đặt trước tôi một câu hỏi và tôi đi tìm câu trả lời đến kiệt sức mà chưa thấy, hoặc nó chỉ lướt qua như một giấc ngủ trong lúc tôi đang điều khiển xe máy trên đường. Nó lướt qua nhanh đến mức tôi khó lòng thuyết phục nổi rằng mình đã ngủ. Một giấc ngủ sâu, dài nhất và giải tỏa toàn bộ mệt mỏi trong phần đời tôi đã sống. Nhưng nó lại đặt tôi sang một nhận biết khác.
Và qua chính giọng nói ấy của bà tôi, tôi đã lưu giữ trọn vẹn những gì đã qua đời sống này ở làng quê của tôi. Một đời sống mà chẳng bao giờ mất đi như ta tưởng. Một đời sống làm chúng ta hình dung đầy đủ hơn về vũ trụ. Một đời sống đã hóa giải dục vọng của chúng ta. Nó đôi lúc mang đến cho tôi một cảm giác nếu tôi chém vào không gian một nhát dao thì ở đó một cái cây trong suốt bị đổ gục, một ngón tay trong suốt bị đứt lìa... Và kỳ diệu hơn, là trong thế giới trong suốt, hay trong cõi hư vô làm ta có thể chết vì khiếp sợ lại hiện lên một phong cảnh đầy đủ nhất. Phong cảnh ấy, đối với tôi, nó là một cõi. Cái cõi ta vừa làm đầy nó vừa không chiếm lấy dù chỉ là một điểm nhỏ nhất, mà chỉ có trí tưởng tượng kỳ diệu mới có thể lờ mờ nhận ra.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Hồi tưởng tháng Hai
Đó là tháng sực nức mùi thuốc bắc
Những ngón tay xanh nhợt mép giường
Và tháng Hai, đúng là tháng Hai,
tôi nhớ tiếng khóc trong câu chuyện
Những đồng tiền bà tôi giấu dưới chiếu ố vàng
Trong bóng tối ấu thơ, tôi cần giọng nói
Từ góc buồng ẩm mốc của bà tôi
Cây đèn của ký ức ốm đau cạn dầu và sợi bấc
Bò đến sát tai tôi nức nở nguyện cầu
Đó là tháng bà tôi đời cắt tóc
Cha tôi mang tóc bà tôi chôn xuống cánh đồng
Cỏ mộ tóc tốt tươi trong bóng tối
Tôi trốn bà ra khóc tóc bà tôi.
Đó là tháng có tiếng ho vỡ đờm trong cổ họng
Tôi thấy ngôi nhà xưa dựng bóng cuối khu vườn
Mùi thuốc bắc tự tin bay ra từ bếp lửa
Sống lại người đàn bà chết yểu tự ngàn xưa.
Rút từ Bài ca những con chim đêm,
NXB Hội Nhà Văn 1999
SÁU
Một lối đi của thế gian
Lúc nào cũng có một lối đi xuyên qua tất cả mọi lối đi. Nó dẫn chúng ta, chỉ trong chớp mắt, đến được nơi chốn mà hầu hết chúng ta không bao giờ đến được bằng những lối đi thông thường và có vẻ an toàn nhất mà chúng ta thường lựa chọn với một khoái cảm ngu ngốc là chúng ta đã khôn hơn những kẻ khác. Nhưng chúng ta không nhận ra lối đi đó. Và nếu có một lần nào đó, chúng ta bất chợt nhìn thấy nó hiện ra trước mắt thì đôi mắt chúng ta lại chứa đầy sự ngờ vực. Không phải chỉ vì chúng ta thiếu lòng tin mà là chúng ta thật sự không hiểu được nó.
Thuở ấu thơ, tôi sống ở làng quê, nơi có những khu vườn hoang nối nhau từ đầu làng chạy đến cuối làng. Suốt ba năm liền, từ bảy tuổi đến mười tuổi, tôi mắc bệnh mộng du. Đấy là sau này mẹ tôi nói lại với tôi như thế. Suốt ba năm đó, bà nội tôi và mẹ tôi đã lo sợ cho tôi. Cứ đêm xuống, bà và mẹ tôi bắt đầu đóng cửa kĩ lưỡng và canh chừng tôi. Bà tôi để một chiếc thúng đựng đầy tro bếp để tôi đi tiểu vào đó mà không phải ra ngoài. Vì lần nào cũng vậy, hễ tôi ra ngoài đi tiểu là tôi bắt đầu đi xuyên qua khu vườn hoang trong khi mắt tôi vẫn nhắm nghiền. Mẹ tôi bảo lúc đó tôi vẫn đang ngủ.
Trong những khu vườn hoang, cây cối mọc rậm rì. Nhưng chưa một lần nào tôi đâm vào một bụi cây gai hay va vào một thân cây. Thỉnh thoảng, lối đi đó lại chạy sát mép một cái ao hoặc một đầm nước. Tôi đã vừa ngủ vừa đi men theo bờ đầm mà chưa một lần nào rơi xuống nước. Ai đã dắt tôi đi xuyên qua những khu vườn hoang trong đêm tối một cách chính xác như vậy.
Cuối cùng thì bà và mẹ tôi vẫn tìm thấy tôi đang nấp sau một gốc cây, đang ngủ bên một bụi cây gai hoặc đang nhắm nghiền mắt đứng sát mép đầm nước. Tôi được dắt về nhà và bị đánh mấy roi cho tỉnh lại. Lần nào cũng vậy, sau khi tỉnh dậy, tôi cũng không hề biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng một lúc nào đó khi đi qua khu vườn, tôi bất chợt nhìn thấy con đường chạy vòng vèo qua những bụi cây gai và những thân cây. Con đường đó hiện ra rõ nét như tôi đã đi trên đó hàng thế kỷ. Đó chính là con đường tôi vẫn đi trong những đêm tối với một đôi mắt nhắm nghiền.
Tôi không có ý định nhờ các nhà tâm lý học hay các bác sỹ chuyên ngành thần kinh lý giải cho tôi vì sao tôi lại có thể đi trong khi ngủ. Nhưng một hiện thực cho thấy, cho dù khi mộng du, đôi mắt tôi nhắm nghiền thì chắc chắn có một đôi mắt khác mở to và rọi thẳng về phía trước con đường mà những bước chân tôi sẽ tới. Đôi mắt đó có thể là của ký ức. Bởi trước đó, khi thức, tôi đã đi biết bao lần trên lối đi đó và toàn bộ cảnh vật trên lối đi đó đã được ký ức hóa trong tôi. Việc ký ức hóa có phải là sự mã hóa sơ đồ con đường không? Đúng là vậy ở một góc cạnh nào đó. Nhưng nếu chỉ là sự mã hóa sơ đồ con đường một cách máy móc như người ta lập trình cho các máy móc tự động thì tôi sẽ bị rơi xuống hồ nước hoặc đâm vào một bụi cây khi con đường đó thay đổi ở một khúc nào đó và một bụi cây vừa mọc lên. Thực tế con đường chạy qua khu vườn hoang và men theo bờ đầm nước trong những năm tôi mắc bệnh mộng du đã có những thay đổi. Có một điều kỳ diệu đã hiện ra ở đây. Đó là con mắt của ký ức cũng lại chính là con mắt của tương lai - con mắt của trí tưởng tượng phong phú. Chính cái phần tương lai của con mắt ấy đã chỉ dẫn cho đôi chân của tôi đi qua những thay đổi của con đường. Và một điều tối quan trọng giúp tôi hay bất cứ ai đó đi qua con đường một cách kỳ diệu khi đôi mắt thông thường của chúng ta vẫn nhắm nghiền. Điều tối quan trọng ấy chính là sự không sợ hãi và thấm đẫm tinh thần lãng mạn của chúng ta.
Khi đôi mắt trần tục của chúng ta mở ra thì có quá nhiều những trần tục cũng ùa vào và nhiều lúc làm chúng ta rối loạn. Những rối loạn này sinh ra trong chúng ta một điều vô cùng tồi tệ. Đó là nỗi sợ hãi. Chúng ta thật dễ dàng đi qua một tấm ván đặt trên mặt đất chỉ vừa hai bàn chân. Nhưng chúng ta lại không thể nào đi qua nổi một tấm ván rộng một mét hoặc rộng hơn nữa bắc qua hai tòa nhà cao tầng. Nỗi sợ hãi bị rơi xuống đã giết chết toàn bộ khả năng và cảm hứng của chúng ta. Một đứa trẻ chạy vô tư và thích thú dọc mép một ban công trên tòa nhà cao giữa bầu trời rộng lớn đầy gió trong khi chúng ta có thể vỡ tim vì kinh hãi. Bởi đứa trẻ kia không nghĩ tới những nguy hiểm có thể xảy ra với nó, còn chúng ta ngập tràn những sợ hãi và tính toán. Và bởi đứa trẻ kia đang tìm thấy niềm hứng khởi và bao điều lạ lùng đang mở ra theo từng bước chạy của nó. Còn chúng ta rúm mình lại bạc nhược và kinh hãi khi nghĩ mình sẽ bị giết chết.
Nỗi đau đớn và trí tưởng tượng càng lớn thì sự sáng tạo của chúng ta càng kỳ diệu trong khi đó nỗi sợ hãi càng lớn thì cái chết của sáng tạo càng đến nhanh. Và bây giờ, không ít người viết trong chúng ta mang quá nhiều nỗi sợ hãi trong mình. Nỗi sợ hãi ấy làm cho trang viết của chúng ta trở nên tẻ nhạt và xa cách. Ngay cả trong trí tưởng tượng của nhà văn, chúng ta cũng không dám đập cánh một cách quyết liệt và vang dội để bay lên. Bởi chúng ta đang mở quá to, mở đến rách cả khóe mắt đôi mắt trần tục của mình. Chính vì thế, chúng ta nhìn thấy quá nhiều những danh vọng thường ngày, những lợi ích cá nhân, những khó chịu, những ghen ghét, những than thở... Và chính tất cả những điều đó đã làm nên nỗi sợ hãi của chúng ta. Hãy mở một đôi mắt khác trong sáng tạo của mình. Đôi mắt ấy sẽ dẫn chúng ta đi qua những con đường mà chính chúng ta đã từng chùn bước vì sợ hãi.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Hoa tiêu
Hãy nhắm mắt và đặt từng bước chân
như đặt từng quân cờ
nếu mở mắt anh sẽ chẳng thể nào đi qua
cái quảng trường ấy được
chúng sẽ lao vào anh - những kẻ rồ dại của thế kỷ
trên xứ sở chúng ta
Hãy đi thật nhẹ và tự đọc bản thảo cuốn sách
anh viết trong sợ hãi mê dại
một con rắn rúc vào đám tóc anh và
nằm phục cái lưỡi anh lộ ra
nó muốn giết anh khi đơn âm đầu tiên của anh phát nổ
Hãy rẽ sang bên trái. Có nghe thấy tôi nói không.
Nhưng đừng mở mắt
chỉ hé mở một lần anh sẽ suốt đời không dám
bước thêm một bước
anh có nhớ cái cây ở ngã tư đường nơi có một kẻ
đi theo anh
và gã viết một con số vào chiếc sổ nhỏ hơn
lòng tay của gã
Hãy rẽ trái một lần nữa. Anh không nhìn thấy tôi đâu.
Vì thế đừng ngoái lại
và đừng mở mắt. Phía trước có rất nhiều kẻ đang lao tới
nhưng chúng sẽ không đâm vào anh
chúng vẫn nghĩ anh là một gã mù và chúng sẽ
không tức tối vì nghĩ anh cản đường chúng
Hãy rẽ trái một lần nữa.
Chúng nhổ nước bọt trước mặt anh.
Nhưng đừng cho chúng biết anh đã nhìn thấy
Chúng phóng một cú đấm gió về phía mặt anh.
Đừng giật mình. Anh phải làm như là
một gã mù thực sự
Nghĩa là anh không nhìn thấy gì kể cả khi
một người yêu dấu của anh
đang đứng khóc trước anh
Nếu anh mở mắt ra, dù mở giống một cái chớp mắt,
chúng sẽ rú lên
trong sự khoái trá chúng đánh mất từ lâu
giờ tìm lại được
với bằng chứng là anh đã mở đôi mắt của mình
và sự khoái trá ấy chi ăn một thứ thức ăn là máu
Tôi vẫn đứng ở nơi anh xuất phát.
Tôi không hề thay đổi dù một cái nhích chân
Tôi đang dõi theo anh với đôi mắt mở
không được phép nhắm lại
dù cái khoảnh khắc nhắm mắt ấy chỉ bằng 1/1000
thời gian của một cái chớp mắt
khoảng thời gian ấy đủ cho anh bị nghiền nát
Anh lại phải rẽ trái một lần nữa. Đừng dừng lại ngờ vực.
Và chuẩn bị rẽ trái một lần nữa
Tôi đã thấy anh cố giấu bước chân lưỡng lự.
Anh cố giấu sự nghi ngờ
Nhưng tôi vẫn nhận ra bởi cái nuốt nước bọt
của nặng nhọc và khó khăn anh.
Nào, chuẩn bị rẽ thêm lần nữa. Nhưng vẫn là rẽ trái.
Chỉ có rẽ trái. Đấy là lần rẽ trái cuối cùng
Và bây giờ anh hãy mở mắt ra.
Thị xã Hà Đông, đêm 4/10
Rút từ tập Châu thổ, NXB Hội Nhà văn 2012
BẢY
Một người lính vẫn trên đường trở về quê mẹ
Mặc dù người ta đã báo tử anh. Nhưng không có lí do nào khuất phục được ý nghĩ của tôi rằng anh vẫn sống và đang trên đường trở về quê mẹ. Làng quê của anh vẫn còn đó nhưng mẹ anh đã mất. Anh là Lê Xuân Nghiệp. Mẹ anh là cô tôi. Ở quê tôi chị hay em gái của bố đều gọi là cô. Cô tôi chỉ có mình anh. Anh nhập ngũ năm 1967. Năm năm sau người ta báo tử anh. Sau này cô tôi trở thành Bà mẹ Việt Nam anh hùng được Hàng không Việt Nam nhận nuôi dưỡng.
Hồi bé tôi thích nhất là được lẽo đẽo theo anh đi câu sông vào mùa nước. Anh cắm một giàn mười chiếc cần câu. Lúc nào anh cũng cho tôi được quyền canh giữ một chiếc. Trong khi hai anh em tôi đứng trong mưa, dầm chân trong nước sông ngầu đục và mắt không dời những chiếc phao hoa ngô nổi bồng bềnh trên mặt sông thì anh lại kể đủ thứ chuyện cho tôi nghe. Hầu hết là chuyện anh cùng lũ bạn đi ăn trộm chuối, trộm ổi hay mít nhà ai đó trong làng. Mặc dù anh kể chẳng chuyện nào ra chuyện nào nhưng tôi vẫn bị cuốn đi bởi giọng kể của anh. Thỉnh thoảng tôi lại xin mẹ được ngủ với anh một đêm. Những đêm như thế, tôi nằm bên cạnh anh thỏa thuê nghe những câu chuyện trên giời dưới bể. Chốc chốc anh lại ngồi dậy và nói: “Tao sẽ đi bộ đội và trở thành anh hùng cho mà xem.”
Ngày anh nhập ngũ tôi bám theo anh xuống tận huyện đội ở thị trấn Vân Đình nơi bây giờ ngập tràn những quán vịt cỏ nướng. Tôi hạnh phúc như phát điên khi được anh nhờ cầm giúp chiếc mũ cối có ngôi sao vàng gắn trên đó. Rồi anh Nghiệp trèo lên thùng xe tải của quân đội. Anh đứng trên thùng xe nhìn tôi và đưa tay vẫy. Lúc đó, tôi thấy anh uy nghi như một người anh hùng. Khi những chiếc xe tải cài đầy lá ngụy trang rời khỏi thị trấn thì tôi bật khóc. Lúc đó, tôi chẳng bao giờ nghĩ được rằng anh sẽ không bao giờ trở về nữa. Một năm sau ngày anh mất, cô tôi lấy tất cả những chiếc cần câu của anh mà cô vẫn cất kĩ trên gác bếp đưa cho tôi. Nhưng từ ngày anh mất tôi không còn thú câu sông nữa. Vào mùa nước, có lúc tôi cũng mang những chiếc cần câu anh tôi để lại ra sông. Nhưng tôi không nhìn đắm đuối vào những chiếc phao hoa ngô nữa. Tôi nhìn sang bên kia bờ sông và nghĩ lan man về anh Nghiệp.
Một đêm tôi thức giấc bởi tiếng nói chuyện rì rầm. Tôi nhận ra cha tôi mới đi công tác về. Ông nói với mẹ tôi anh Nghiệp không hy sinh mà vẫn còn sống, đang được nuôi dưỡng trong một trại thương binh đặc biệt. Ông nói sẽ đi tìm anh Nghiệp. Sau này, khi tôi bắt đầu đi làm, cha mới kể cho tôi nghe chuyến đi tìm anh Nghiệp của ông. Một người bạn cha tôi đã mách anh Nghiệp còn sống và hiện đang ở một trại thương binh. Nhưng anh cụt hết cả hai tay hai chân và thêm những vết thương khác nữa. Cha tôi đã đến trại thương binh đó và nói chuyện với lãnh đạo trại xin gặp anh. Cha tôi lấy danh dự một Đảng viên hứa sẽ giữ mọi bí mật về anh. Lãnh đạo trại để cha tôi chờ ngoài phòng khách rất lâu. Sau đó họ gặp cha tôi và rất lúng túng thông báo cho ông biết không có ai tên là Nghiệp ở đó. Cha tôi nhận ra sự không bình thường trong khi nói chuyện của họ. Cha tôi vừa năn nỉ vừa nghiêm nghị nói với họ về chuyện gặp anh. Nhưng những người tiếp cha tôi vẫn một mực nói không có anh Nghiệp ở đó trong khi nước mắt họ giàn giụa. Cha tôi phải quay về nhưng ông vẫn tin anh Nghiệp đang ở trại thương binh đó. Năm nay cha tôi đã 87 tuổi và ông vẫn tin anh Nghiệp còn sống.
Tôi biết có một số thương binh đã đề nghị tổ chức báo tử vì họ bị thương quá nặng. Họ không muốn làm đau lòng những người thân khi nhìn thấy họ. Và tôi tin anh Nghiệp cũng là một người như thế. Tôi nghĩ anh đã đề nghị tổ chức báo tử anh. Anh không muốn cô tôi nhìn thấy đứa con trai duy nhất của mình như thế. Thời gian mà lãnh đạo trại để cha tôi đợi lâu có thể là thời gian họ nói chuyện với anh Nghiệp. Và anh quyết không gặp cha tôi. Tôi biết anh vô cùng đau đớn khi phải quyết định vậy. Bởi lúc ấy, mẹ anh vẫn sống mà anh không dám nhìn thấy mẹ và không dám nghe tiếng mẹ. Mẹ anh đã khóc bao ngày bao tháng khi nghe tin anh hy sinh. Nhưng anh sẽ khóc hết cuộc đời khi nghĩ đến mẹ. Nỗi đau đớn ấy còn đau đớn hơn cả khi anh bị bom đạn cắt đứt hết chân tay mình.
Khi còn sống, cô tôi không được biết câu chuyện cha tôi đi tìm anh. Những năm cuối đời cô tôi bị lẫn nhiều. Thỉnh thoảng cô tôi lại hỏi: “Thằng Nghiệp đi đâu mà chưa thấy về ăn cơm?” Lúc đầu mấy đứa cháu họ lại trả lời là chú Nghiệp hy sinh lâu rồi. Nhưng sau này cứ nghe cô hỏi vậy thì mọi người đều trả lời là chú Nghiệp ăn cơm và đi chơi rồi. Cô tôi lại lầu bầu: “Lại đi câu chứ gì. Suốt ngày câu với kéo.” Mỗi lần về quê, tôi lại đến qua thăm cô. Tôi cầm tay cô và xưng tên. Cô nhìn tôi rất lâu mà chẳng nói gì. Nhưng có lúc cô cũng nhận ra tôi và nói: “Tìm anh mày à? Đang ngoài bến sông ấy.” Ngày chính quyền địa phương làm lễ trao danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng cho cô, các cháu phải bế cô đặt cô ngồi lên ghế giữa đình làng. Suốt buổi làm lễ, cô tôi không nói gì. Có lẽ cô không còn nhớ được gì nữa. Sau đó đôi lần tôi thấy xe của Hàng không Việt Nam đỗ trước cửa nhà cô. Tôi biết họ mang tiền trợ cấp và quà về cho cô vì Hàng không Việt Nam nhận nuôi dưỡng cô. Cũng có lúc cô tôi hồi phục trí nhớ. Những lúc ấy, mấy đứa cháu lại lấy tiền trợ cấp Bà mẹ Việt Nam anh hùng đưa cho cô.
Đã 35 năm trôi qua kể từ ngày anh Nghiệp mất. Nhưng thực sự chưa bao giờ tôi nghĩ anh đã chết. Có lẽ bởi câu chuyện anh vẫn sống ở trong trại thương binh đặc biệt mà cha kể lại cho tôi. Và lúc nào nghĩ đến anh, tôi vẫn thấy anh mặc bộ quân phục mới tinh của ngày nhập ngũ ở thị trấn Vân Đình, lưng đeo balô, đầu đội chiếc mũ cối có ngôi sao vàng vẫn đang đi bộ trở về quê mẹ. Trong khi chúng ta hối hả chen nhau với bao nhiêu sự hấp dẫn của danh vọng và vật chất thì bao người lính đã hy sinh và bao người lính như anh tôi không hề nghỉ một chút nào trên con đường hành hương trở về quê mẹ. Và bao giờ thì họ về đến quê mẹ của họ? Tôi không trả lời được câu hỏi này.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Về những đồ vật có trên bàn viết
Trong thầm thĩ mưa đêm, mùa hạ tạ từ
Thức dậy cánh cửa gỗ hơn mười năm mệt mỏi
Hơn mười năm, những viên an thần lăn đi rền rĩ
Tiếng nghiến vọng vào giấc ngủ bỏ hoang
Ngoài kìa, những vòm cây sũng nước
như đàn bà mang thai tháng đẻ
Nhưng tôi gần hơn chiếc kéo bằng inox sáng choang
Tôi đánh cắp con bò tót đất nung, nhưng quên vuông vải
Hai lá phổi tôi có thay thế được trò chơi?
Trong thầm thĩ mưa đêm, mùa hạ bị thương
lê gót trên mái nhà
Tôi đi qua những cánh đồng ngôn ngữ khác nhau
với cùng câu hỏi:
Lông cánh của những con gà bị giết
Có phủi sạch bụi trên những con gà bằng sứ kia không?
Rút từ tập thơ Nhịp điệu châu thổ mới,
NXB Hội Nhà Văn 1997
TÁM
Beua Jack Gilley - một thi sĩ đích thực của nước Mỹ
New York bán tất cả những gì có trên thế gian này. Một trong những sở thích của tôi là đi bộ lang thang dọc các đường phố New York đến khi nào không thể đi được thì bắt taxi về khách sạn. Có thể nói, hầu hết các ngôi nhà mặt tiền của biết bao khu phố ở thành phố khổng lồ nhất thế giới này đều là cửa hiệu. Và trong những cửa hiệu ấy, chúng ta có thể mua được mọi thứ: từ sách thánh đến tạp chí Playboy, từ hiệu sách chỉ bán thơ đến cửa hàng bán súng, từ những tấm bưu thiếp sang trọng đến những dụng cụ tình dục quái đản...
Nhưng có hai thứ người ta bán để lại trong tôi hai cảm giác trái ngược nhau và đều làm cho tôi mất ngủ. Một cảm giác vùi tôi vào vực thẳm của sự kinh sợ. Đó là những cửa hiệu bán tất cả những gì phục vụ cho những người đồng tính. Một cảm giác che chở và đưa tôi thoát nỗi kinh sợ của vực thẳm kia. Đó là hình ảnh một chàng trai ngồi bán thơ của mình cũng trên đường phố ấy: phố Flecker. Đấy là hai mặt của tự do ở thành phố này.
Tôi đã vào một cửa hiệu dành cho đồng tính nam và một cửa hiệu dành cho đồng tính nữ. Một Việt kiều là người quen của tôi hỏi: “Ông viết những chuyện này mà không sợ trong nước nghĩ xấu về ông à?” Tôi trả lời: “Không.” Thực ra cho đến bây giờ tôi mới đủ lòng tin để nói điều này. Mười hay mười lăm năm trước thì không dám viết thật. Thành phố Sidney của Australia có khu Kings Cross nổi tiếng của chủ nghĩa tình dục. Người thành phố Sidney nói: “Tất cả mọi người đều có quyền bước vào khu phố này. Vấn đề là khi từ khu phố đó bước ra người đó là ai và sẽ sống thế nào mới là điều quan trọng.” Đời sống tình dục càng ngày càng thay đổi ngay cả ở những nước theo đạo Phật. Việt Nam thì sao? Xin thưa đã thay đổi quá nhiều. Chúng ta không cần nói ra điều này vì mọi người đều biết cả.
Cửa hiệu đồng tính nữ có tên Quà Sinh Nhật. Thực ra lúc đầu tôi nhìn thấy dòng chữ dễ thương ấy thì bước vào chứ không hề biết trong ấy bán những gì. Nhưng khi vào rồi thì mới kinh hoàng nhận ra người ta bán những gì trong đó. Họ bán tất cả các bộ phận sinh dục nam giới để cho những đồng tính nữ mua về ân ái cùng nhau. Ngoài ra là sách, băng hình, băng nhạc và tất cả những gì có thể phục vụ cho sinh hoạt tình dục của đồng tính nữ. Từng đôi, từng đôi nhân tình đồng tính bước vào. Không hề mặc cảm, không hề e thẹn, họ cùng nhau bàn bạc và cùng nhau chọn lựa đồ dùng cho cả hai chẳng khác gì hai vợ chồng đi mua sắm ngày chủ nhật ở Việt Nam. Cửa hiệu đồng tính nam cũng vậy. Những đôi đồng tính nam dắt tay nhau, ôm eo nhau đi chầm chậm, ngắm từng dãy hàng. Tạp chí đồng tính nam in hình các đôi nam giới khỏa thân ôm ấp nhau, hôn nhau đầy “say đắm”. Tôi thấy có cả những chàng trai châu Á. Và tôi tự hỏi trong những chàng trai châu Á kia có ai là người Việt Nam? Có thể có. Việc chụp ảnh khỏa thân, ảnh quảng cáo cho các tạp chí là một nghề ở Mỹ. Tất nhiên nó không phải là một nghề mà nhiều người chấp nhận. Tôi chỉ có thể đứng ở đó đôi ba phút và vội bước ra ngay.
Hầu hết những người đồng tính ở Mỹ hay nhiều nước trên thế giới là do cách sống. Số người đồng tính từ lúc sinh ra chiếm một tỷ lệ thấp. Với những người ấy, tôi thấy thương cảm và muốn chia sẻ sự cảm thông với họ. Năm 1991, tôi vẫn đi làm trong một thời gian dài bằng xe buýt trên tuyến đường Hà Đông - Bờ Hồ - Bác Cổ. Và trên chiếc xe buýt ấy, tôi đã gặp một người đồng tính. Đấy là một người đẹp trai, lịch sự và hiểu biết. Chúng tôi thường gặp nhau trên xe buýt và trở nên quen nhau. Thỉnh thoảng anh lại cho tôi một bao thuốc nói của một người thân đi công tác nước ngoài về cho. Anh thấy tôi hút thuốc và anh để phần tôi. Rồi một hôm anh mời tôi về nhà chơi. Nhà anh ở phố Nam Đồng. Tôi đã đồng ý. Anh đưa tôi vào phòng anh. Chúng tôi nói chuyện về âm nhạc. Tôi nhớ anh đã mở đĩa hát cho tôi nghe một bản của Beethoven, về âm nhạc thì anh hiểu biết quá nhiều so với tôi. Anh nhìn tôi trìu mến. Rồi anh cầm tay tôi và nói: “Mình nói điều này có lẽ còn sớm và bất ngờ với Thiều, nhưng mình yêu Thiều.”
Tôi nhớ gương mặt anh lúc đó vừa đau khổ, vừa tội nghiệp, vừa lo sợ, vừa chờ đợi. Thực ra tôi cũng không quá bất ngờ. Bởi khi bước vào phòng anh tôi đã bắt đầu nhận ra nhiều sự khác thường. Tôi đã từng biết những người đồng tính trong các quán cafe và quán ăn ở Cuba những năm trước đó. Tôi lặng người một lúc lâu. Tôi không có cảm giác sợ hãi. Nhưng một cảm giác rất lạ xâm chiếm tôi: một chút của căm ghét, một chút của hoang mang, một chút của thương cảm và một chút của buồn bã. Tôi nói với anh rằng tôi rất hiểu và thương anh, nhưng tôi không thể làm cách nào được. Rồi tôi đứng dậy chào anh và bước ra cửa. Tôi bỗng dừng lại khi nghe tiếng anh bật khóc. Ra khỏi nhà anh, tôi đi lang thang mãi về đến tận Bách hóa Thanh Xuân. Và từ ngày đó, tôi không đi xe buýt nữa. Có những lần đạp xe qua phố Nam Đồng, tôi nhìn thấy anh đang đứng đợi xe. Tôi muốn dừng lại để hỏi thăm và nói với anh một điều gì đó. Nhưng tôi đã không đứng lại. Tôi thấy anh chẳng có tội gì. Anh chỉ là nạn nhân của sự nổi giận của Đấng tạo hóa mà thôi. Anh khác những kẻ đồng tính khác. Có nhiều người, có nhiều nghệ sĩ đã lao vào cái trò chơi đồng tính. Họ không phải là nạn nhân như anh. Phần lớn họ là những kẻ thác loạn.
Rời khỏi những cửa hiệu kia, tôi lại lang thang trên phố Becker. Và tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một thanh niên ngồi trên vỉa hè bán thơ. Lúc đầu tôi tưởng anh là một người vô gia cư ngồi bên lề đường để xin tiền lẻ của những người qua lại như những người vô gia cư và nghèo khổ khác ở New York. Nhưng đến gần tôi nhận thấy trước anh là một tấm biển nhỏ có viết một dòng chữ: Poetry (Thơ). Dưới dòng chữ Thơ là giá một bài thơ. 25 cents per one poem (hai mươi lăm xu một bài), khoảng 5000 đồng. Anh sáng tác và chép tay những bài thơ của mình và đựng trong một chiếc giỏ. Tôi chào anh và ngồi xuống nhìn những bài thơ trong giỏ của anh. Một cảm giác thanh sạch dâng lên. Nó tẩy rửa tất cả những gì trong hai cửa hiệu đồng tính mà tôi vừa ra khỏi đó.
Tôi hỏi anh mỗi ngày bán được bao nhiêu bài thơ? Anh nói có ngày anh đã bán được 100 bài và có ngày chỉ bán được dăm bài. Có những người tưởng anh dùng cách đó để ăn xin và họ ném cho anh mấy đồng xu lẻ rồi bỏ đi. Nhưng anh không hề tự ái hay nổi giận. Với anh, mỗi người cúi xuống cầm một bài thơ của anh và ra đi là một người bạn tri kỷ dẫu anh sẽ chẳng bao giờ gặp lại người ấy nữa. Họ là bạn đọc của anh. Bạn đọc của một thi sĩ không ai biết tên tuổi. Và số phận bài thơ không thuộc về anh nữa. Tôi đã từng tâm sự với một vài người bạn thi sĩ rằng: chúng ta đã xuất bản những tập thơ của mình. Những tập thơ của chúng ta có lúc bị một số kẻ nguyền rủa, có lúc bị rơi vào im lặng. Nhưng đấy không phải là nỗi buồn của chúng ta. Chúng ta hãy sống và sáng tạo. Hãy đọc câu thơ của Brosky: Chỉ cần khóc, chỉ cần hát và chỉ cần sống. Tất cả là vậy. Và đến một lúc nào đó, có thể khi chúng ta đã giã từ thế gian, có một cô bé hoặc một cậu bé trong đau buồn, trong tuyệt vọng vô tình rút cuốn sách của chúng ta trong một góc mờ tối và bụi bặm của một thư viện nhỏ, mở ra và đọc. Rồi cô bé ấy hoặc cậu bé ấy gấp cuốn sách lại và ngồi im lặng, ngước nhìn bầu trời qua ô cửa sổ. Một giọt nước mắt lấp lánh trên giương mặt đang sáng dần lên. Tất cả chỉ có thế. Sứ mệnh của chúng ta chỉ có thế. Lặng lẽ như ánh sáng.
Sau một lúc trò chuyện với anh, tôi mua hai bài thơ của anh. Anh đưa chiếc giỏ đựng thơ của mình và bảo tôi tự chọn. Nhưng tôi không chọn. Anh mỉm cười và lấy ra hai bài thơ đưa cho tôi. Tôi mở ví lấy năm đô đưa cho anh và nói với anh không phải trả lại. Năm đôla chỉ mua được một phần tư cái đĩa DVD phim sex trong cửa hiệu đồng tính. Nhưng đấy là lòng tôn trọng của tôi đối với anh. Đấy như là một lễ vật nhỏ nhoi của tôi dâng tạ thi ca. Thi ca, hay nghệ thuật nói chung là vậy, thường bị những hưởng thụ, những tham vọng và những điên loạn của đời sống hiện đại che khuất. Nhưng nó vẫn ẩn khuất ở đâu đấy thật bình dị trong đời sống chúng ta và bất ngờ hiện lên. Nó làm cho chúng ta, như tôi là một ví dụ, thoát khỏi những kinh sợ của đời sống quá nhiều tăm tối, tham lam, độc ác, bạo lực và vô cảm.
Trở về khách sạn, tôi mở hai bài thơ ra để đọc. Một bài có tên là Những Giấc Mơ Thức Dậy và một bài có tên Cửa sổ. Có lẽ chỉ rất ít người ở New York biết anh làm thơ. Và hai bài thơ của anh đã vạch ra một con đường dù vô cùng mỏng manh và mơ hồ nhưng sẽ dẫn ai đó đi qua được không ít nỗi kinh sợ của đời sống hiện đại tại nhiều thành phố trên thế giới như New York. Một thành phố như New York, nếu không mang trong mình một tinh thần như tinh thần của thi ca thì con người không thể nào đi qua được thành phố ấy.
Hôm sau tôi trở lại tìm anh trên đường phố ấy. Tôi không tìm được anh. Anh lại lang thang đến một khu phố nào đó và ngồi xuống vỉa hè với những bài thơ của mình. Ngồi im lặng không mời chào với một tấm biển nhỏ đề một chữ Thơ. Anh làm vậy không phải để kiếm mươi đôla một ngày. Với sức khỏe của mình, anh có thể dễ dàng kiếm một công việc nào đó ở New York với giá ít nhất 8 USD một giờ để nuôi thân. Nhưng anh đã chọn con đường của anh. Đêm đêm anh làm thơ để khi ban mai thức dậy anh lại mang những bài thơ chép trên những tờ giấy mỏng manh, khiêm nhường đến cho những ai đó. Anh giống như một nhà truyền đạo im lặng. Anh tên là Beua Jack Gilley. Và trong tâm trí tôi, Beua Jack Gilley là một thi sĩ đích thực của thành phố New York.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Người thổi kèn rắn
Gửi một nhà thơ
Tựa tường, ngồi ngủ như đã quên thế gian
trên con đường ven biển.
Chiếc kèn nằm bên đôi giày rách.
Những gì đã diễn ra khoảng khắc trước đó
giai điệu cây kèn, điệu múa con rắn,
sự quyến rũ của nỗi sợ hãi?
Không trí tuệ, không pháp thuật,
không phải những đồng xu,
chỉ sự điên rồ chăng? Của cả hai ta, không lời nào để nói.
Không đánh lừa được ai kể cả kẻ đần độn,
chỉ đánh lừa chính mình
Ôi hai ta, những kẻ biết được sự trống rỗng
trong âm nhạc ấy, trong vũ điệu ấy
Cả nỗi hoảng sợ ấy cũng không có thực
Bi kịch đến quá sớm khi ngày chưa tàn
Trong chiếc giỏ nhiều màu không còn con rắn nào
Nhưng không vì thế mà mọi chuyện kết thúc
Vẫn tựa tường ngồi ngủ, hỡi người thổi kèn rắn,
du khách đến rồi đi
Bóng tối phủ lên người tấm vải đen,
người vẫn không thức dậy
Phải chăng chính nọc độc của kẻ trong cuộc
đã tìm cách giải thoát cả hai
khỏi sự trống rỗng, dối lừa từng nhân danh
những điều huyền diệu.
Karachi, tháng 10 năm 2002
Rút từ tập thơ Cây ánh sáng,
NXB Hội Nhà Văn 2010
CHÍN
Giấc mộng tôi kể không phải là một giấc mộng
(Giấc mộng thứ hai)
Một đêm tháng Mười lộng lẫy. Mùa màng đã thu hoạch xong. Thôn quê thanh sạch như chưa từng như vậy. Đó là một đêm trăng kỳ lạ. Chưa bao giờ tôi thấy dòng sông Đáy hiện lên như đêm nay. Hai bờ sông ảo huyền sương khói như chốn thiên thai. Cả dòng sông như một dòng vàng lấp lánh trôi và tỏa hương ngào ngạt. Một đám rước lớn từ mặt đê đi xuống bến sông. Trống chiêng cùng đàn sáo rộn vang. Tất cả những người chơi trong tốp nhạc đi đầu là những người đã từng chơi nhạc trong đội bát âm của làng. Sau tốp nhạc công là tất cả người làng tôi. Cả người sống và người đã chết từ xa xưa mà tôi chưa bao giờ biết. Đêm nay, tất cả trở về đầy đủ. Tôi nhận ra tất cả mọi người đều không mặc quần áo. Thân thể họ như được dát trăng. Cả đàn ông đàn bà đều không có bộ phận sinh dục trên người. Tôi vội nhìn thân thể tôi. Và tôi nhận thấy thân thể tôi cũng vậy. Trăng lấp lánh như nước trên da thịt mọi người. Những sợi tóc lấp lánh như những tia sáng. Tôi thấy bà nội tôi đi trong đám rước. Bà tôi vẫn nhai trầu như ngày xưa. Tôi chạy đến bên bà tôi và hỏi cả làng ra sông làm gì. Bà tôi cười và bảo: “Ngày xưa, từ thời nào chẳng rõ, làng mình có tục tắm sông sau vụ mùa bội thu và không tội lỗi. Vụ mùa năm nay làng bội thu và không có ai mắc tội lỗi gì nên hội tắm sông trăng lại được mở.” Hồi còn bé, đã có lần tôi nghe nói về hội tắm sông trăng. Nhưng tôi đã quên câu chuyện ấy từ lâu lắm rồi.
Khi đám rước xuống đến bờ sông thì tôi nhận thấy từ dưới lòng sông và từ phía nguồn sông chảy ra biển từ từ hiện lên những con thuyền. Bây giờ tất cả thuyền xưa đã trở về. Những con cá cũng lũ lượt trở về. Chúng bơi thành từng luồng và sáng lấp lánh như những mảnh trăng. Người làng ùa xuống dòng sông. Những giọt nước lung linh như những viên ngọc trong chuyện cổ tích tung lên. Dòng sông như cũng dâng cao hơn cùng tiếng đàn tiếng sáo và chiêng trống tưng bừng. Những nhạc công ngồi bên mép nước say đắm chơi nhạc. Bầy trẻ rực rỡ té nước vào nhau và cười vang. Những người đàn bà xõa tóc trong nước. Tóc họ bồng bềnh tỏa sáng trên mặt sông. Những người đàn ông cười sáng lóa hai hàm răng bơi lẫn vào những dòng cá lấp lánh. Một tháng Mười như không phải của thế gian. Thóc vàng rực trên những cánh đồng và trên những sân phơi. Những ngọn gió của tháng Mười cũng như nhìn thấy được. Những ngọn gió giống như những dải lụa mỏng đến mơ hồ bồng bềnh trôi trên những cánh đồng, những ngôi nhà và dọc hai triền sông. Những con chuột đồng lấp lánh như những giọt nước lớn trôi trên những lối mòn ven chân đê. Dòng sông vẫn dịu dàng chảy ra biển cả. Những người làng vừa tắm trên dòng sông vừa hát. Tôi nhận ra những bài hát họ hát phảng phất những làn điệu chèo cổ. Có những lời bài hát tôi không hiểu nổi. Trong khi hát, các cô gái làng nâng trên tay họ những con cá chép vàng rực. Những con cá nhìn họ với đôi mắt lấp lánh. Rồi chúng trườn khỏi vòng tay các cô gái bơi xuống dòng nước. Chúng xòe xòe đôi vây và cái đuôi rực rỡ lượn quanh các cô gái làng thành những vòng tròn theo một điệu vũ. Những con trai từ đáy sông từ từ mở ra và thả những viên ngọc trai. Những viên ngọc trai lóng lánh từ từ nổi lên mặt sông quanh các cô gái. Tôi khỏa đôi tay như một đội vây cá bơi chầm chậm qua những những người làng. Ai ai cũng mỉm cười nhìn tôi. Tôi thấy hương thơm của nước sông tỏa ngào ngạt và thấm vào da thịt tôi. Trăng mỗi lúc như một xuống gần hơn. Vầng trăng hình như cũng mang hương thơm của mùa màng ấm áp.
Bỗng có tiếng kêu thất thanh của một cô gái giữa dòng sông. Các nhạc công ngừng chơi nhạc. Trẻ con ngừng té nước. Những người đàn bà ngừng hát. Bầy cá ngừng bơi. Tất cả vụt trở nên im lặng. Mặt sông hình như chợt mờ đi. Một đám mây đen đang trôi về phía vầng trăng. Mọi người nhìn về phía cô gái vừa kêu. Và tất cả nhận ra một người đàn ông đang tiến về phía cô gái. Từ thân thể người đàn ông lông lá đen cứng đang mọc ra, bộ phận sinh dục đang mọc ra, miệng phát ra tiếng gầm gừ. Lông lá từ từ phủ kín thân thể người đàn ông. Gã đã dùng bạo lực hòng chiếm đoạt cô gái. Đến lúc đó, tôi nhận ra dòng sông đang dần dần đục và sẫm tối. Những người làng tắm sông dần dần biến mất. Đầu tiên là những người già và các nhạc công. Rồi đến những người đàn bà, các cô gái và bầy trẻ. Những con thuyền từ từ chìm xuống nước. Chỉ trong khoảnh khắc tất cả đã biến mất. Dòng sông vụt trở nên hoang vắng. Nước sông từ từ rút xuống. Rác rưởi từ đâu đó nổi lên dọc hai bờ sông. Tôi bị bùn sông chôn chặt đôi chân không thể nào rút ra được. Tôi gọi bà tôi. Nhưng bà tôi đã biến mất từ lúc nào. Tôi hoảng sợ kêu lên.
Tôi tỉnh giấc và lần mò bật công tắc đèn đầu giường. Tôi nhìn đồng hồ thấy đã ba giờ sáng. Tôi ngồi dậy và thở nặng nhọc. Tôi đang ở trong căn phòng của khách sạn có tên là Iowa House Hotel ở thành phố Cedar Rapids. Cedar Rapids là thành phố nhỏ và yên tĩnh nhất ở Mỹ mà tôi được biết nằm trên một vùng đồi. Thành phố này có quá ít nhà cao tầng và phủ kín cây. Sau mấy ngày ở đây, tôi cứ cảm tưởng như thành phố này không bao giờ xảy ra chuyện gì đáng buồn. Tôi chưa gặp một vụ tai nạn giao thông nào, chưa gặp gã say rượu chửi bới lảm nhảm nào, chưa gặp cuộc ẩu đả nào... Bên cạnh khách sạn là sông Iowa. Suốt chiều qua tôi đi lang thang dọc bờ sông Iowa. Hai bờ sông giống như một công viên. Hoa nở rực rỡ khắp nơi. Gió xuân dào dạt thổi. Từng đôi vịt trời và thiên nga đang tắm trên sông. Thi thoảng tiếng kêu của một con thiên nga cất lên như tiếng kèn đồng, dội vào mặt nước và lan rộng dọc hai bờ sông. Trong lúc lang thang dọc bờ sông Iowa, tôi lại nhớ về con sông Đáy làng mình.
Tôi rời giường ngủ đến bên cửa sổ. Ngoài kia sông Iowa lấp lánh trong ánh đèn đêm. Tôi nghe tiếng gió thổi qua những vòm lá của những cái cây bên bờ sông. Có lẽ giấc mơ của tôi sinh ra bởi nỗi nhớ con sông làng mình. Những năm tháng này, tôi thường mơ thấy cố hương và cố nhân. Giấc mơ về một đêm tắm trên dòng sông trăng có phải chính là giấc mơ về một cuộc sống thanh bình nơi thôn dã? Thực ra, đã có những khoảnh khắc thanh bình và lộng lẫy như thế nơi cố hương tôi. Những khoảnh khắc như thế thật ngắn ngủi nhưng có thật. Đã có những buổi chiều tháng Mười kỳ diệu nào đấy ở làng tôi trong ký ức. Tôi lang thang trên cánh đồng sau vụ gặt. Hương lúa mới vẫn còn thoang thoảng trên cánh đồng. Đất đai khô sạch. Tôi đã từng nằm trên một đống rạ khô trên cánh đồng và ngủ thiếp đi cho tới lúc hoàng hôn. Những giây phút ấy, tôi chẳng có gì phải phiền muộn, phải lo âu, chỉ còn lại cảm giác thanh sạch và yên bình bất tận. Đã có những đêm trăng tôi về quê nghỉ hè và ra sông tắm. Dòng nước trong đêm trăng mát rượi chảy qua tôi làm tan đi mọi ưu phiền, mệt mỏi. Nơi cố hương tôi, con sông là hình ảnh kỳ vĩ nhất trong ký ức. Tôi đã sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy. Bên triền sông là những gò đất mọc đầy những bụi hoa tầm xuân. Vào những ngày đầu xuân, khi nắng ấm hừng lên, hoa tầm xuân nở như không thể nào kìm giữ. Con gái làng tôi rất đa tình. Bà tôi bảo: “Vì lũ con gái từ bé đã ngắm sắc hoa tầm xuân, đã ngửi hương tầm xuân, chính thế mà lớn lên chúng đa tình.” Sau này đã lớn, khi nhớ đến câu nói của bà, tôi thường mỉm cười một mình. Tôi không biết câu nói của bà tôi có đúng như thế không. Nhưng tôi biết rằng, khi tôi lang thang trên những gò sông vào mùa hoa tầm xuân nở rộ, tôi không thể cầm lòng. Tôi muốn chạy về làng nói với bất kỳ cô gái làng nào đó rằng tôi yêu làng và yêu cô. Cảm giác ấy là có thật. Đôi khi đến tận bây giờ tôi vẫn mang cảm giác ấy.
Và ngày ấy, tôi nghe nói ở khúc sông phía dưới khúc sông làng tôi có một cô gái trẻ ra sông tắm đêm bị một gã đàn ông cưỡng hiếp và dìm chết. Nghe nói gã đàn ông này từng theo đuổi cô gái nhưng bị cô chối từ. Oan hồn cô gái trẻ vẫn luẩn quẩn ở khúc sông. Người ta nói vẫn nhìn thấy một cô gái khỏa thân tắm giữa sông trong những đêm trăng đẹp. Oan hồn cô gái rủ rê những người đàn ông háo sắc và dìm chết họ. Những năm trước kia, không năm nào là không có những người đàn ông chết đuối ở khúc sông đó. Và thế là người ta không tắm ở khúc sông ấy nữa. Những người sống hai bên bờ của khúc sông ấy đã làm lễ cúng hồn cô gái và thả đồ cúng xuống sông.
Một trong những nơi sinh ra nhiều câu chuyện kỳ bí là những xóm cư dân dọc hai bờ của những dòng sông. Hồi truyện ngắn Mùa Hoa Cải Bên Sông của tôi in ra, có người cho là tôi lấy cốt truyện của một tác giả nước ngoài nào đó và viết lại. Có lẽ họ đã rời bỏ làng quê trong tâm trí họ lâu quá rồi nên không còn nhớ gì về làng quê của họ nữa. Nếu chúng ta nghe và chúng ta nhớ thì chúng ta có cả một kho chuyện về làng quê của mình. Chúng ta không có những nhà văn lang thang và lắng nghe rồi ghi chép hoặc nhớ những câu chuyện như thế để rồi sáng tạo ra một câu chuyện với tư tưởng của mình. Chúng ta mất quá nhiều thời gian đi thực tế để viết về một người chăn bò, chăn lợn hay một giám đốc nông trường đã chăn nuôi hay sản xuất như thế nào. Văn học không bao giờ bỏ qua họ nhưng không phải viết về họ như thế. Khi bà tôi còn sống, bà tôi là một kho những câu chuyện kỳ bí mà tôi chưa hề thấy trong sách bao giờ. Sau cuốn sách này, tôi sẽ bắt tay vào viết cuốn sách về một số những người đã khuất của làng tôi. Họ là ông nội tôi, là bà nội tôi, là một người thợ may lừng danh chốn Hà Thành thuở xưa hiến toàn bộ tài sản cho cách mạng trở về quê sống trong nghèo khó một cách im lặng, là một gia đình Việt kiều ở Thái Lan đã trở về làng sống và chết thật kỳ bí chỉ còn lại một người, là một cô dâu thường mơ thấy người bố chồng đã chết về và nằm xuống chiếc giường của mình đến khi gà gáy sáng lại lặng lẽ trở về nghĩa địa, là người anh con bác tôi đã báo tử những vẫn có tin còn sống không còn chân tay và bị mù ở một trại thương binh... Ôi, đời sống ở thời nào và nơi nào cũng chứa đựng những câu chuyện lớn bi thương.
Gã đàn ông giữa đêm trăng trong dòng sông kia có trong mỗi con người chúng ta. Chúng ta chỉ đi đến cái đẹp khi chúng ta giam cầm được gã bằng chính tâm hồn chúng ta. Gã không bao giờ tự rời bỏ chúng ta. Gã nằm sâu tưởng như thiếp ngủ vĩnh viễn đâu đó trong bóng tối còn vương vãi trong con người chúng ta. Và khi chúng ta để cho bóng tối hoàn toàn chiếm ngự chúng ta thì gã thức dậy và trở thành một Ma Vương trong xứ sở bóng tối trong con người ta và biến ta trở thành nô lệ hung bạo của gã dù chỉ là khoảnh khắc.
Trong bài thơ Đoản Ca về Buổi Tối, tôi viết cứ khi đêm xuống thì những linh hồn người chết và những bóng ma từ nghĩa địa trở về và mượn chúng ta để làm những gì mà chưa làm được khi còn sống. Còn các thiên thần từ những ngôi sao xanh bay về mượn tâm hồn trẻ thơ trú ngụ để bảo vệ và dạy dỗ chúng. Những linh hồn thánh thiện và những bóng ma mượn thân thể, mượn giọng nói, mượn chứng minh thư, mượn phương tiện và mượn cả lí do của người sống để thực hiện khát muốn của họ. Lòng ai nhiều ánh sáng thì những linh hồn thánh thiện mượn, lòng ai nhiều bống tối thì ma quỷ mượn. Tôi thực sự sợ hãi điều này. Bởi có thể một lúc nào đó trên đường đời dài dằng dặc với quá nhiều thử thách nghiệt ngã, quá nhiều cám dỗ, quá nhiều mệt mỏi mà quỵ xuống thì ngay lập tức bóng tối phủ kín lòng mình và ma quỷ bước vào. Không ai đang sống hiển hiện bằng xương bằng thịt trên thế gian này kể cả các vị thượng sư hay Bồ tát có thể nói rằng lòng họ sẽ không bao giờ có bóng tối dù chỉ như là một thoáng mờ lướt qua. Bởi khi chúng ta còn mang theo thân xác nặng nề này thì còn cơ hội cho ma quỷ bước vào. Vì chính thân xác ấy là thức ăn ngon miệng nhất của bóng tối nhục dục. Chúng ta biết được điều ấy và điều ấy phải luôn luôn ngự trị trong lòng chúng ta như chính nhịp đập trái tim thì chúng ta mới có thể thoát khỏi bóng tối ấy. Thiên thần cũng từng mượn chúng ta để song hành liên tục cùng chúng ta trong một đoạn đường dài. Đó là đoạn đường từ lúc ta sinh ra cho hết thời thơ ấu. Khi chúng ta vừa chớm chân qua thời thơ ấu thì các Thiên thần không dắt tay chúng ta đi nữa. Chúng ta phải tự đi một mình trên đoạn đường còn lại. Bởi Thiên thần đã dạy chúng ta biết cái Đẹp và sự Thánh Thiện. Nhưng các thiên thần ngày ngày vẫn đi qua chúng ta như khách thập phương. Chúng ta chỉ được các Thiên thần ghé thăm khi tâm hồn chúng ta phải tự dọn dẹp để trở thành một ngôi nhà tràn ngập ánh sáng giống như tâm hồn của một đứa trẻ. Chính vậy mà cuộc đời chúng ta trên thế gian này là một cuộc hành hương đau đớn nhưng kỳ vĩ. Thế gian vừa là Thiên đường vừa là Địa ngục của chúng ta mà đường đến một trong hai nơi ấy không bao giờ có một biển chỉ đường hiện lộ. Biển chỉ dường ấy chỉ hiện ra trong một nỗ lực phi thường của chúng ta. Nó không bao giờ có sẵn bằng một sự may mắn, bằng một khái niệm hay bằng một giáo lý in trên da hoặc giấy của thời văn minh công nghiệp.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Đoản ca về buổi tối
Khi những ngọn đèn lần lượt tắt và chúng ta đi
Những người chết trở về thành phố
Trà trộn trong những linh hồn thánh thiện,
Những linh hồn ân hận, những linh hồn say đắm
là những bóng ma
Một cánh cửa khẽ rít lên, một cái cây chợt rung xào xạc
Một con chó bị xích bỗng sủa thảng thốt
Những đám mây chầm chậm vắt ngang
ánh sáng vầng trăng
Gió thổi những tấm rèm tung lên rồi đổ xuống bất động
Những người chết trở về đông hơn những người đang sống trong thành phố
Họ trở về và sống trong đời sống chúng ta.
Những người chết đi lại lũ lượt và ngó nhìn mọi nơi
Họ ăn uống, tấm rửa, trò chuyện, làm tình, cười khóc...
Họ tiếp tục sống một đời sống đột ngột bị cắt đứt
Họ tiếp tục mơ những giấc mơ bị tan biến giữa chừng
Và những bóng ma trà trộn trong họ gấp gáp thực hiện
Những mưu mô của chúng, những tội lỗi của chúng
Bởi thế đời sống trong đêm của chúng ta
vốn ngọt ngào và êm ái
Lại chứa đầy những tiếng thét, những câu chuyện
đau buồn và bất trắc
Những người chết trở về mượn thân xác chúng ta,
mượn giọng nói chúng ta
Chợt ai đó trong chúng ta choàng tỉnh trong đêm
và nức nở mãi không thôi
Nức nở và nói về tội lỗi khủng khiếp của mình
không một ai biết đến
Một ai đó nguyên quần áo ngủ bỏ nhà đi ra hồ nước
Trong mắt người ấy chỉ có một con đường từ bờ hồ
chạy xuống đáy hồ
Một góc phố một hiệu kim hoàn bị phá cửa
Và trong quán rượu một người say đâm chết
một người say
Một ai đó mở tủ lạnh chứa đầy thực phẩm,
ăn ngấu nghiến rồi lần ra ngủ tiếp
Một ai đó cất giọng van vỉ bên ngoài cánh cửa
khóa chặt và nói lời xin lỗi
Một ai đó thù hận một ai đó, giờ bò đến bên nhau
Cả hai lảm nhảm như mắc bệnh tâm thần rồi rên rỉ
trong ái ân đến tận khi trời sáng
Trong lúc một ai đó cầm một con dao đi tìm một ai đó
Thì một kẻ giết người đến bên mộ nạn nhân than khóc
Một ai đó đầu tóc rũ rượi bới tung giá sách
tìm một cuốn sách bị lãng quên
Và ai đó thắp một cây nến
Và thì thào mãi trong bóng tối khổng lồ
với những câu thơ
Cánh cửa vẫn rít lên, cái cây bất chợt rung lên
Những người chết trở về mượn nhà cửa, đồ đạc
và phương tiện của người đang sống
Mượn công việc của người sống,
mượn lí do của người sống
Và mượn cả giấy khai sinh của chúng ta
Bởi thế máu vẫn chảy, lời thù hận vẫn vang lên
Cùng lời thú tội và lời xin lỗi
Sự phản bội vẫn diễn ra trong khuya khoắt
Cùng tình yêu đau đớn, thủy chung
Rồi chó ngưng sủa trong các ngõ phố
Những đám mây đã xa khuất
Từ phía những ngôi sao các Thiên thần bay về
Đậu lên trán những đứa trẻ đang say ngủ
Những đứa trẻ lẻn dậy trốn bố mẹ và đi ra khỏi giường
Chúng che kín đèn chỉ để lọt ra một tia sáng nhỏ
Và bí mật mở từng trang sách của một cuốn sách
Đọc đến trang cuối cùng và ngủ gục
Trong mơ chúng mang những gương mặt trong sáng bay lên
Những Thiên thần đã mượn gương mặt chúng,
giọng nói chúng, mượn tâm hồn chúng
Để vừa bay vừa ca hát đêm đêm trên bầu trời thành phố
Và bài hát như những ngọn gió của đêm gần sáng
Xoa dịu những hung hãn, những tội lỗi, những nức nở...
Vào một giấc ngủ như người bệnh sau cơn đau
Như những người điên thiêm thiếp sau những gào thét
Thành phố được chữa cháy,
được hồi sức trong buổi rạng đông
Bầu trời trên những mái nhà yên tĩnh và xanh thẳm
Tất cả cửa đã mở, đã thức dậy những đứa trẻ
với gương mặt ngái ngủ
Những Thiên thần đã mượn gương mặt chúng,
giọng nói chúng và tâm hồn chúng
Để hiển thị và bày tỏ và ở lại
Trong thành phố còn đầy lú lẫn và tội lỗi của chúng ta.
Rút từ Bài ca những con chim đêm,
NXB Hội Nhà Văn 1999
MƯỜI
Người thổi kèn lá dứa
Không hoàng hôn nào tóc chị ngớt bay dọc triền sông Đáy quê tôi. Đây không phải là sự lãng mạn của một nhà văn. Đây là cảm xúc đầy tính hiện thực của một người đàn ông trong suốt ba mươi tám năm nay. Đã nhiều lần tôi có ý định dành ra một thời gian để đi tìm quê chị. Tôi muốn được thắp một nén hương trước mộ chị, được nói một câu mà suốt từng ấy năm tôi đã không nói được. Nhưng tôi vẫn chưa làm được việc đó. Công việc cứ cuốn tôi đi như dòng nước lớn cuốn một cánh lục bình bé nhỏ. Để có những chiều tôi cảm thấy buồn và xấu hổ về ý định chưa thực hiện được của mình.
Chị xuất hiện trước tôi trong một chiều mưa dầm. Đó là ngày chị nhập học năm thứ nhất khoa Lý, Đại học Sư phạm Hà Nội. Ngày đó các trường đại học đều sơ tán về các vùng quê bởi Mỹ ném bom miền Bắc. Chị được bố trí trọ học ở nhà tôi. Năm đó chị 17 tuổi. Chị đứng trước hiên nhà tôi người đẫm nước mưa, tay xách chiếc rương gỗ nhỏ đựng tư trang. Chị mỉm cười nhìn tôi và nói: “Chào em.”
Hình ảnh ấy là hình ảnh duy nhất tôi nhìn thấy từ đó đến nay có khả năng làm cho thời gian trong tôi hồi phục một cách trọn vẹn. Mọi thứ đều thay đổi. Nhưng một cô gái thôn quê giản dị đứng trong mưa mỉm cười với tôi mãi mãi đẹp như một cơn mơ. Năm đó tôi bắt đầu vào học lớp năm trường làng. Vào lớp năm, học sinh phải làm một bài tập làm văn có ba phần: mở bài, thân bài và kết luận. Tôi không hiểu vì sao tôi lại có thể trở thành nhà văn khi mà ngày ấy tôi không sao phân biệt được đâu là mở bài và đâu là kết luận. Tối tối chị vẫn kiên nhẫn dạy tôi học. Nhưng cứ khi bắt tay vào bài tập làm văn tôi lại không nhớ gì nữa. Tôi hoàn toàn lẫn lộn giữa mở bài và kết luận.
Vào những buổi chiều đẹp, chị thường rủ tôi ra đê chơi. Chị và tôi làm những chiếc kèn bằng lá dứa dại ngắt dưới chân đê. Rồi hai chị em tôi ngồi trên mặt đê nhìn về những cánh đồng phía bên kia sông. Lúc nào chị cũng rủ tôi thổi thi xem ai dài hơi hơn. Những chiều như thế, gió sông thổi lồng lộng làm mái tóc dài của chị bay như một dải mây. Và tiếng kèn lá dứa u trầm đổ xuống triền sông và trồi mãi về một bến bờ nào đó. Trước khi rời đê về nhà chị em tôi thường giấu hai chiếc kèn lá dứa trong một bụi cỏ gần đấy. Và lúc nào chị cũng thì thầm: “Đêm nay sẽ có người về thổi những chiếc kèn của chị em mình đấy.” Đến chiều hôm sau, chị em tôi đến nơi giấu những chiếc kèn lá dứa. Và có lúc, chúng tôi chẳng còn thấy chiếc kèn nào ở đó. Tôi hoàn toàn tin có người đã lấy những chiếc kèn đêm qua. Tôi hỏi chị rằng ai đã trở về trong đêm để lấy những chiếc kèn. Chị nhìn rất xa sang bên kia bờ sông và nói như một tiếng thì thầm: “Chị cũng không biết.”
Tuổi thơ của tôi thường hay đau ốm. Một lần tôi bị sốt. Chị hỏi tôi thích ăn gì chị sẽ mua. Tôi nói với chị tôi chỉ thèm được ăn dâu da đất. Hôm đó, ăn cơm trưa xong chị đạp xe từ làng tôi vào tận Miếu Môn để tìm mua dâu da đất cho tôi. Cuối chiều chị trở về, lưng áo ướt đẫm mồ hôi. Chị lấy chiếc bọc bằng khăn mùi xoa buộc ở ghi-đông xe đạp đưa cho tôi và hỏi: “Em cớ biết chị mua gì cho em không?” Trong cơn sốt và trong nỗi thèm muốn, tôi nhận ra mùi dâu da đất chua chua. Chị ngồi bên mép giường nhìn tôi ăn ngấu nghiến cả vỏ, cả hạt những quả dâu da đất. Ăn hết chùm dâu da đất thì đến giữa đêm tôi tỉnh hẳn. Sáng sau tôi đã đòi đi học. Có lẽ tuổi thơ đói khát và quá nhiều thiếu thốn thì chỉ một chùm dâu da đất cũng có thể làm cho tôi khỏi bệnh. Bây giờ những cây dâu da đất hình như không còn nữa. Có lần đi qua vùng đồi Miếu Môn, tôi hỏi thăm người dân ở đấy về cây dâu da đất. Họ nói người ta phá hết rồi vì nó chẳng có gì đáng giá mà phải giữ lại. Mấy năm trước, nghe nói ở vùng rừng Nghệ An, Hà Tĩnh có mọc nhiều cây dâu da đất. Tôi cũng đã nhờ một người bạn trong đó kiếm cho tôi một cây. Tôi muốn trồng một cây dâu da đất trong vườn nhà mình. Tôi không bao giờ quên được một chiều xa xưa tôi đã ăn ngấu nghiến những quả dâu da trong cái nhìn trìu mến và ấm áp lạ lùng của chị như của một nữ thần.
Nhưng rồi tôi cũng chẳng được ở bên chị mãi. Một đêm, tất cả những sinh viên trọ học ở làng tôi trở về Hà Nội. Chiến tranh phá hoại miền Bắc của Không lực Hoa Kỳ tạm ngừng. Đêm ấy là một đêm thu đầy trăng. Tôi tiễn chị trên mặt đê làng. Khi ôm tôi vào lòng. Mái tóc mới gội lá bưởi của chị phủ kín mặt tôi. Tôi ôm chị rất chặt và nói trong nước mắt: “Chị đừng đi, em sợ...” Cho đến tận bây giờ khi đã sang tuổi 50, tôi vẫn không biết được rành mạch tôi sợ điều gì trong đêm trăng của mùa thu ấy. Chị nói chị sẽ về thăm tôi. Chị nhắc tôi cố gắng học để đừng nhầm lẫn mở bài với kết luận. Nhưng chị không bao giờ trở về thăm tôi được nữa. Chị mất sau đó mấy tháng trong một tai nạn giao thông. Nhưng bao nhiêu năm sau này tôi mới biết được tin đau buồn ấy qua lời kể của nhà thơ Đỗ Trung Lai. Anh học khoa Lý cùng chị. Đến lúc đó, tôi mới biết lí do vì sao chị không về như đã hứa. Nhưng suốt từng ấy năm và cho đến bây giờ, tôi vẫn sống trong một sự chờ đợi mơ hồ nhưng nhiều khi khắc khoải và đau đớn.
Hằng năm vào dịp hè, tôi thường đưa các con tôi về quê. Tôi lại lấy những chiếc lá dứa trong những lùm dứa dại mọc dưới chân đê để làm những chiếc kèn. Và khi hoàng hôn đổ xuống, tôi lại giấu một chiếc kèn vào một bụi cỏ đâu đấy. Suốt đêm ấy, tôi chập chờn trong giấc ngủ. Tôi nghe có tiếng u trầm của chiếc kèn lá dứa từ mặt đê vọng về. Và tôi lại thấy chị với mái tóc bay kín cả triền sông Đáy quê tôi. Đến lúc đó, tôi mới tin lời chị thì thầm rằng sẽ có một ai đó đêm đêm trở về lấy những chiếc kèn lá dứa giấu trong cỏ dại và thổi da diết cho tới sáng.
Chị là chị Ty. Quê chị ở Thái Bình. Tại sao tôi lại nhớ về một người con gái ở trọ nhà tôi mấy tháng cho đến tận bây giờ. Tôi biết, tôi sẽ nhớ người con gái ấy suốt đời. Bởi người con gái ấy là một hình ảnh lộng lẫy của đời sống đã hiện ra trên thế gian này như một phép lạ. Nó mang lại cho tôi sự cứu rỗi thực sự trong tâm hồn mình. Chị mất năm mười tám tuổi. Nhưng tôi chưa từng nghĩ chị đã chết bởi một tai nạn. Tôi chỉ mang trong tâm hồn mình hình ảnh chị hiện ra trong mưa và mỉm cười nhìn tôi. Chị là một nữ thần hiện ra, bước đến chạm vào tôi như hành động của sự ban phúc rồi biến mất. Tôi yêu chị với tình yêu của một cậu bé với cô tiên của mình và cũng yêu chị như một chàng trai với một cô gái.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Sau bậc cửa ngôi nhà vô hình
Không còn ngôi nhà ấy những cái cây quanh nhà biến mất.
Tôi đi qua ban mai mơ hồ tiếng mở cửa
và tiếng sủa con chó nhỏ ướt sương đêm
trên cánh đồng phía trước
Tôi đi qua tràn ngập tâm hồn mở ra một đầm nước
lộng lẫy bầy thiên nga
mang gương mặt thiếu phụ đã chết bay lên
vọng tiếng kêu khe khẽ một đêm ân ái đã lâu
trong những tối thu
Ngôi nhà trôi về đâu con đường mòn chìm khuất
tôi đi qua hoàng hôn tiếng cửa dần dần đóng
bầy thiên nga thiếp ngủ trên sóng rì rầm
người thiếu phụ gọi về trong ngày hạ cuối cùng.
Biến mất cánh đồng trong bóng tối bất tận
những ngôi sao dần dần trong dần dần tinh khiết
Hơi ấm bộ lông chó bên bậc cửa, sủa khe khẽ,
khe khẽ trong mơ
người thiếu phụ vẫn thở trong ngôi nhà vô hình
và cái thai dần lớn bởi giấc mơ tôi.
Rút từ Cây Ánh Sáng,
NXB Hội Nhà Văn 2010
MƯỜI MỘT
Có thể chết trong cô độc và trống rỗng
Lần thứ ba sang Mỹ thì tôi không gặp được John Baca nữa. Tôi gọi điện nhưng số điện thoại ấy đã không còn ai sử dụng. John Baca lại lang thang đâu đó trên nước Mỹ. Lòng tôi dâng lên một nỗi buồn và lo lắng. Đấy là một người Mỹ mà tôi đã dành cho anh những lo lắng của tôi. Anh đã hơn năm mươi tuổi. Nhưng với tôi, nhiều lúc anh như một đứa trẻ. Lần này đến Mỹ, một người bạn của tôi hứa sẽ tìm John giúp tôi.
Tôi gặp John Baca năm 1990. Ngày ấy, anh cùng nhóm cựu binh Mỹ sang Gia Lâm, Hà Nội để xây dựng một trạm xá cho xã Yên Viên. Họ là những cựu binh trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Trở về Mỹ, cũng như bao cựu binh khác, họ mang trong mình hội chứng chiến tranh Việt Nam. Và thế là, họ quyên góp tiền của các cựu binh khác để sang Yên Viên xây dựng một trạm xá. Họ biết Yên Viên là một nơi bị bom Mỹ tàn phá khốc liệt trong những năm chiến tranh. Mười cựu binh Mỹ mang 30.000 đôla tiền mặt sang Việt Nam. Tôi đã chứng kiến lễ trao tiền mặt tại UBND huyện Gia Lâm. Và lần đầu tiên tôi thấy một cán bộ của uỷ ban đếm tiền bằng tay như thế nào. Những ngón tay đếm tiền của ông ta thật điệu nghệ. Sau này, chính người đàn ông ấy đã làm chứng từ quyết toán để những cựu binh mang về nước cho những người đóng góp tiền xây dựng trạm xá Yên Viên biết. Tôi thật bất ngờ và xấu hổ vô cùng khi trong tờ quyết toán ghi: Phiên dịch và lái xe: 10.000 đôla. Đấy là một sự lừa dối. Ngày ấy, tôi giúp họ làm phiên dịch và hướng dẫn đoàn. Họ bố trí tôi ngủ trong một nhà trọ chật chội và bẩn thỉu. Tôi ở trong một căn phòng được ngăn bằng ván ép. Những phòng bên cạnh là những cô gái vùng khác đến thuê. Tôi không biết họ làm gì. Nhưng ngày họ ở nhà và đêm thì đi đâu đó cho tới gần sáng mới trở về. Hằng ngày tôi ăn ở một nhà hàng ở Gia Lâm với suất ăn mà người ta đặt trước cho tôi. Ngoài ra không có một đồng nào khác. Nhưng lúc đó, tôi đã không nói gì. Tôi biết dù có nói cũng chẳng có tác dụng gì. Và nếu nói ra, những người cựu binh kia biết thì chúng ta xấu hổ biết nhường nào. Tôi đành im lặng. Một sự im lặng tội lỗi.
John Baca là một người hùng của nước Mỹ. Vào một buổi chiều của năm 1968 tại chiến trường Việt Nam, một tiểu đội lính Mỹ đang ngồi trong một boongke cát thì bị một quả lựu đạn ném vào. Tất cả những lính Mỹ ở đó không còn đường nào chạy thoát. Nhưng ngay lúc đó, John đã lấy mũ sắt của mình chụp quả lựu đạn và nằm đè lên chiếc mũ sắt. Lựu đạn nổ. Bụng John bị xé nát. Quân đội Mỹ đã chở John ra hạm đội Bảy và từ đó đưa đến Nhật để cứu chữa. John đã được cứu sống. Tất cả những người lính trong tiểu đội của anh không nghĩ rằng anh có thể sống. John tin rằng anh sống được là do sự ban phước của Chúa. Sau chiến tích đó, anh trở về Mỹ và trở thành một người hùng. Quốc hội Mỹ đã tặng anh mề đay cao quý nhất của nước Mỹ. Và vì thế mà hầu hết những cựu binh Mỹ tham gia chiến tranh Việt Nam đều biết tên anh.
Nhưng sau đó, anh nhận ra cuộc chiến tranh do chính phủ Mỹ tiến hành ở Việt Nam thật vô nghĩa. Anh đã vứt mề đay vào một góc nhà và xuống đường đi đầu các cuộc biểu tình chống chiến tranh. Rồi anh dành dụm số tiền trợ cấp của chính phủ Mỹ cho anh để sang Việt Nam. John đã sang Việt Nam. Không ai bắt những cựu binh Mỹ phải làm việc này ngoài lương tâm của họ. Họ đã trung thực với lương tâm họ.
Tôi đã gặp John ở Yên Viên. Một tháng ở đó, John đã gánh vôi vữa cùng những công nhân xây dựng Việt Nam để xây dựng trạm xá. Và anh đã yêu một phụ nữ Việt Nam trên công trường. Người phụ nữ ấy tên là Hải. Họ đã yêu nhau dù cả hai không hề biết ngôn ngữ của nhau. Ngày ấy, John và Art James đã bỏ tiền của mình để mua máy may cho những nữ công nhân xây dựng trạm xá Yên Viên. Anh nói với tôi rằng đó là những người phụ nữ nghèo khó. Họ cần có một chiếc máy may để may vá quần áo cho con cái họ.
Một chiều mưa ở Gia Lâm, từ cửa sổ nhà trọ, tôi nhìn thấy John và Hải. John đèo Hải trên một chiếc xe đạp cũ của Hải. Hai người đi trên chiếc xe đạp mỏng manh trong mưa gió. Tình yêu của họ cũng giống như vậy. John lấy hết sức mình đạp xe. Nhưng gió quá to và mưa như trút. Chiếc xe đạp chao đảo trên đường. Đi được một đoạn thì họ phải xuống dắt xe. Tình yêu của họ cũng giống như thế. Hải không dám đi tiếp đoạn đường trong tình yêu của họ. Hải sợ. Chị sợ hãi nhiều điều. Đã có người nhắc nhở chị về mối quan hệ với một lính Mỹ. Chị đã Cứng tuổi nhưng chưa có chồng. Chị có thể mất việc làm. Chị có thể trở thành nạn nhân của những lời xì xào nguy hiểm. Và họ phải chia tay nhau. Cũng trong một buổi chiều ở thị trấn Gia Lâm. Họ đứng với nhau rất lâu. Ngày hôm sau John đã trở về Mỹ. Tôi không biết họ nói gì với nhau. Và chắc họ cũng chỉ có thể hiểu nhau qua ánh mắt. Một người không biết nói tiếng Anh và một người không biết nói tiếng Việt. Trước đó, John đã nhờ tôi dạy cho anh một câu tiếng Việt: Em đẹp lắm, anh yêu em. Tôi biết John học câu đó chỉ để nói với Hải. John đã tập nói câu đó. Và lúc nào nói, anh cũng xúc động. Hải đã nghe được câu nói đó. Tôi tin chị đã khóc. Buổi chiều ấy, bên hè phố trước một khách sạn tư nhân John ở, hai người đứng mãi với nhau. Bóng tối dần dần buông xuống. Rồi họ chia tay nhau. Tôi nhìn thấy Hải cúi người đạp xe khuất dần vào bóng tối trên đường. Họ sẽ không bao giờ gặp nhau được nữa. Tôi biết là như vậy.
Khi chia tay John. Tôi nghĩ chẳng bao giờ gặp lại anh. Một nỗi buồn dâng lên trong lòng tôi. Đã một thời anh là kẻ thù của chúng ta. Nhưng chiến tranh đã qua đi. Tôi mong đừng ai còn giữ trong lòng mình sự thù hận dẫu chúng ta mất mát quá nhiều, đau đớn quá nhiều. Thù hận mãi để làm gì? Chúng ta chỉ một lần sinh ra và sống một cuộc đời thật là ngắn ngủi nhưng đầy đói khát, bệnh tật, đầy sợ hãi và bất trắc. Lẽ nào chúng ta mãi mãi hận thù nhau cho đến khi giã từ thế gian. Hơn thế, John là một kiếp buồn. Hình như lúc nào anh cũng sống lạnh lẽo trong cô đơn. Chúa sẽ mượn một ai đó trong chúng ta để trở thành một ngôi nhà tinh thần cho John trú ngụ. Anh chẳng còn cha mẹ. Anh yêu một cô gái da màu trước khi đến chiến trường Việt Nam. Khi trở về Mỹ, anh không gặp được cô gái ấy. Thế là anh đi tìm cô. Nhưng mãi sau này, anh vẫn chẳng có một mẩu tin về cô. Dẫu anh có gặp cô thì tôi tin hai người cũng sẽ chia tay nhau. Tôi nghĩ, Chúa lại ban phước cho anh một lần nữa. Người đã không cho anh gặp lại cô gái ấy. Để anh mãi mãi mang theo hình ảnh cô. Để anh có thể nhớ cô trong những đêm tuyết đầu mùa rơi xuống. Để chính nỗi nhớ như thế lại trở thành niềm hạnh phúc và an ủi anh.
Năm 1993, tôi được Hội Nhà văn Việt Nam cử đi Mỹ tham gia hội thảo văn học do Trung tâm William Joiner tài trợ. Một lần ngồi nói chuyện về càng ngày càng nhiều các cựu binh Mỹ đang trở lại Việt Nam, tôi đã kể câu chuyện về John Baca. Và thật không ngờ, Kevin biết anh. Ngay ngày hôm sau Kevin đã tìm được điện thoại của Art James bạn John. Tôi gọi điện cho John. Khi nhận ra giọng nói của tôi, John kêu lên và sau đó nghẹn lại.
Trong chuyến đi Washington, tôi đã đến thăm John. John và Art James lái xe từ Maryland đến ga tàu hỏa đón tôi. Mỗi người che mặt bằng một tờ báo và chạy về phía tôi. Nhưng làm sao tôi lại không nhận ra họ. Chỉ nhìn đôi chân của Art James tôi cũng có thể nhận ra. Art James có đôi chân bị gãy và được nối lại. Art James chính là một trong những lính Mỹ thuộc tiểu đội John nằm gần John khi lựu đạn nổ. Có lẽ vì ơn cứu mạng, khi trở về Mỹ, Art James đã không bao giờ rời bỏ John. Chuyển nhà đến đâu, Art James cũng mang John đi theo. Art James nói với tôi: John trông coi bọn trẻ, nhưng chúng tôi lại phải trông coi anh ấy như một đứa trẻ nhiều tuổi.
John đưa tôi về thăm nhà anh ở Maryland nhưng rất gần thủ đô Washington. Trên xe, anh nói với tôi rằng anh đã tiết kiệm được mười ngàn đôla và tôi đừng nói cho ai biết. Anh sẽ cố gắng tiết kiệm để có đủ tiền xây một ngôi nhà bên bờ biển Việt Nam cho các bà mẹ Việt Nam và Mỹ mất con trong chiến tranh có thể đến đó gặp nhau và nhớ về những đứa con yêu dấu của mình. Mười ngàn đôla, một số tiền quá nhỏ đối với những người Mỹ bình thường. Nhưng ước mơ của anh thật xúc động và thật lớn lao.
Ngôi nhà John nằm trên một quả đồi trong một cánh rừng ở Maryland, cạnh ngôi nhà của Art James. Một ngôi nhà mà chúng ta khó nhìn thấy trên đất Mỹ. Ngôi nhà này do Art James giúp anh dựng lên. Ngôi nhà chừng tám đến mười mét vuông. Trong nhà không có giường. John ngủ trên ghế sofa. Sống cùng John là một con chó. John kể, trong những đêm đau ốm bởi vết thương cũ, con chó như hiểu được sự đau đớn của anh, nó liếm dịu dàng lên ngực anh. Cái lưỡi ấm nóng và đầy tình nghĩa ấy đã xoa dịu một phần đau ốm và cô đơn của anh. Và sự dịu dàng của con chó đã nhiều lần làm anh bật khóc.
John cùng Art James trồng dâu tây trên những quả đồi quanh nhà. Khi dâu tây chín, họ hái và để vào những chiếc thùng gỗ tự đóng mang ra chợ bán. Đêm ấy, một đêm mùa hạ năm 1993, tôi ngồi với John trong ngôi nhà ấy. Quanh ngôi nhà đầy đom đóm bay. Tôi hỏi John về Hải. John im lặng rất lâu và nói rằng đã ba năm nay kể từ khi xây dựng xong trạm xá Yên Viên trở về, anh viết thư cho Hải nhiều lần nhưng không thấy trả lời. Anh không hiểu vì sao. Nhưng tôi hiểu. Hải mong thư anh. Hải mong một điều gì đó lớn hơn nữa. Nhưng chị không biết tiếng Anh. Ngày đó thật khó để chị nhờ một ai đó dịch những lá thư cho chị. Chị xấu hổ. Chị sợ. Và chị không bao giờ hy vọng một chút gì vào tương lai của họ. Hai người ở hai đầu trái đất cùng với bao khác biệt. Làm sao họ có thể gặp lại nhau. Chị là một người phụ nữ muộn chồng, khắc khổ và nhẫn nại, và chị chỉ là một công nhân xây dựng. Chị không biết làm gì với những lá thư ấy. Chị không biết. Có lẽ thỉnh thoảng chị chỉ biết đem những lá thư ấy ra vụng trộm ngắm nhìn và nhớ về một chiều mưa trên thị trấn Gia Lâm. Và đến một ngày nào đó, chị sẽ đốt những lá thư ấy đi. Chị không biết được rằng, trong ngôi nhà của một người Mỹ mà chị đã yêu, tôi, người phiên dịch cho những cựu binh Mỹ xây dựng trạm xá Yên Viên ngày ấy, đang ngồi với John và nói về chị. Từng đàn đom đóm vẫn bay quanh nhà. Gió đang thổi qua những rừng cây ven đồi. Tôi nghĩ, lẽ ra người ngồi trong ngôi nhà ấy trước John phải là chị chứ không phải là tôi. Nhưng số phận lại luôn luôn đùa bỡn và đày đọa chúng ta như vậy.
Mấy năm trước tôi có viết một bài báo về John Baca. Sau đó tôi nhận được một số thư của những người phụ nữ Việt Nam. Trong đó có một lá thư tôi rất quan tâm. Đó là thư của một phụ nữ ở một thành phố phía Nam. Chị bày tỏ tình cảm của mình với John và tha thiết nhờ tôi viết thư cho John giới thiệu chị với John. Chị xin tôi địa chỉ của John. Chị muốn an ủi John. Tôi đã cho chị địa chỉ của John. Chị đã viết thư cho John nhiều lần. Sau này, John viết thư cho tôi và nói rằng người phụ nữ ấy muốn cưới John. Chị giục John hãy nhanh chóng cưới chị và đưa chị sang Mỹ. John đã tế nhị từ chối người đàn bà ấy. John đã đúng. John cô đơn và rất cô đơn. Nhưng anh không thể và không bao giờ cưới một người đàn bà như vậy. Sao người đàn bà ấy không phải là Hải? Vẫn là số phận phải không John? Phải không Hải?
Sau này, tôi có nhận được một lá thư của một số chị em là giáo viên một trường phổ thông cơ sở ở Gia Lâm. Các chị viết cho tôi và bảo tôi khuyên John hãy sang Việt Nam. Các chị sẽ tìm Hải hoặc một người phụ nữ Việt Nam nhân ái nào đó cho John. Tôi đã đọc lá thư ấy nhiều lần. Và không lần nào mắt tôi không nhòe ướt. Không chỉ mình tôi thương John mà bao nhiêu tấm lòng nhân ái thương anh. Chúng ta thương cho một kiếp người. Nước Mỹ có thể không để cho John chết đói, chết rét, nhưng nước Mỹ có thể để John chết vì cô đơn và trống rỗng.
Khi chia tay nhau, John lục trong mắc áo lấy một chiếc áo cũ còn mới nhất tặng tôi cùng một tấm biển mà John vẫn thường đeo trên ngực. Tấm biển nhỏ ghi một dòng chữ: Tôi có thể làm thuê. Và trong chuyến đi Mỹ lần ấy, tôi đã mang về Việt Nam rất nhiều kẹo cho các con tôi, những tập thơ và những thứ John tặng tôi. Và bây giờ, chiếc áo cũ của một kiếp cô đơn cùng tấm biển tìm việc làm thay vào tấm mề đay của John vẫn để trong ngăn tủ nhà tôi, nơi tôi cất giữ những kỷ vật của mình.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Cơn mê
Tặng John Baca,
cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam
Con chó liếm mãi, liếm mãi lên ngực anh
Lưỡi nó như ngọn lửa nhỏ mang cái ấm của hơi nước
Sự dịu dàng của chó làm anh bật khóc
Tiếng súng bắn ra từ đầu cơn mê
Cuối cơn mê là Cửu Long Giang
Những người dân chài quấn khăn rằn thả lưới
Hoàng hôn xõa đôi cánh vàng khe khẽ xuống dòng sông
Những viên đạn - bầy chuột cống trụi lông
Chạy rúc vào những ngôi nhà lá dừa
Cắn tung những tấm lưới phơi trên bãi
John Baca sằng sặc
Bóp trong tay những con chuột răng vàng ám khói
Những con chuột trụi lông trơn tuột
Trườn qua kẽ tay run rẩy của anh
John Baca tắt lặng
John Baca đã bóp cò hai mươi năm về trước
Đạn vẫn bay đến bây giờ
Con chó liếm mãi, liếm mãi,
Liếm mãi, liếm mãi, liếm mãi...
Rút từ tập Sự mất ngủ của lừa,
NXB Lao Động 1992
MƯỜI HAI
Người đàn ông đến từ một “thế giới chết”
Với tài trợ của Bộ Ngoại giao Mỹ và sáng kiến của Trung tâm William Joiner, năm 2003, bốn nhà văn của bốn nước khác nhau đã gặp nhau ở Mỹ và cùng tham gia hành trình qua nhiều bang của đất nước này. Trước khi dời Việt Nam chừng một tháng, chị Rose Foley, người trực tiếp theo dõi chương trình này của Trung tâm William Joiner, có email cho bốn chúng tôi và đề nghị hãy làm quen với nhau qua email trước khi đến Mỹ. Nhưng cuối cùng thì chẳng ai viết cho ai cả. Vì chẳng ai biết ai và phải bắt đầu câu chuyện như thế nào. Nhưng tôi nhiều lần đọc tên từng người và cố hình dung ra những người bạn sẽ đồng hành với tôi. Và sau nhiều lần hình dung, ba cái tên kia vẫn xa lạ với tôi. Tôi biết, tên tôi cũng quá xa lạ với họ.
Đầu tháng Tư chúng tôi gặp nhau ở Boston. Jean- Marie Kayishema người Rwanda, kịch tác gia, 56 tuổi, da đen, giáo sư Đại học Quốc gia Rwanda, thông thạo tiếng Anh và Pháp. Christopher Agee, nhà thơ, 47 tuổi, người Bắc Ai-len, da trắng, giáo sư Đại học Quốc gia Bắc Ai-len. Adisa Basic, nữ thi sỹ người Bosnia, 24 tuổi, da trắng, nói giỏi tiếng Anh và Đức, biên tập viên một tạp chí văn học ở Bosnia. Và tôi, Nguyễn Quang Thiều, Việt Nam, lúc đó 46 tuổi, da vàng, biên tập viên Tuần báo Văn Nghệ, nói tiếng Anh trung bình. Ý đồ của người tổ chức là chọn bốn nhà văn từ bốn nước đã trải qua chiến tranh đến Mỹ để nói về con người và xứ sở của họ, nơi chiến tranh và cái chết đã từng đi qua.
Chúng tôi nhanh chóng làm quen nhau và lên đường đi du ngoạn nước Mỹ. Trước đó, chúng tôi chả ai đọc của ai cái gì. Jean-Marie đã viết và dựng bốn vở kịch nhưng chưa xuất bản thành sách. Christopher xuất bản ba tập thơ. Adisa xuất bản một tập thơ. Và tôi đã xuất bản 24 đầu sách (không kể một tiểu thuyết mang tên người khác vì lí do tế nhị không nỏi ra). Khi nghe tôi nói vậy, các nhà văn của ba nước kia kinh ngạc không hiểu tôi viết bằng cách nào. Tôi nói với họ rằng 24 cuốn sách trung bình không bằng một cuốn sách hay. Nhưng tôi đã sống chết với con đường tôi chọn. Có thể cuối đời, tôi mới hoàn toàn nhận ra tất cả những gì tôi viết chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Có thể lúc đó tôi sẽ đủ can đảm đốt đi mọi thứ mình viết.
Trong tuần đầu tiên ở Boston, Trung tâm William Joiner tổ chức chỉếu phim của các nước có nhà văn tham dự chương trình này. Phim Việt Nam đã được chiếu trước đó vì nhà thơ, đạo diễn Đỗ Minh Tuấn sang Mỹ theo một chương trình khác của William Joiner, đã chiếu Vua Bãi Rác chiêu đãi khán giả tại một phòng chiếu của Đại học Harvard. Khủng khiếp nhất là bộ phim 100 Ngày của Rwanda. Cả bộ phim nói về chế độ diệt chủng ở đất nước này. Nhiều lần tôi định đứng lên bỏ ra ngoài vì từ đầu đến cuối bộ phim là cảnh người Tutsi và người Hutu ở Rwanda giết nhau như người ta giết gà ở chợ Việt Nam: lạnh lùng và thản nhiên. Đập một người giãy đành đạch xong lại đập người khác. Có lẽ vì thế mà trong suốt chuyến đi, Jean-Marie, một người đàn ông da đen, người mà tôi gọi là người đàn ông đến từ một “thế giới chết”, như một cái bóng của sự ám ảnh thỉnh thoảng lại lướt qua tôi.
Jean-Marie sống lưu vong nhiều năm nay qua nhiều nước và cuối cùng ông đã trở về tổ quốc ông. Vợ con ông hiện giờ ở Canada. Ông tình nguyện trở về xây dựng tổ quốc mình. Có lẽ màu da vẫn có một sự cách biệt nào đó. Ông nói với tôi: tôi vẫn là một người da đen và họ vẫn là những người da trắng. Tôi không nhận thấy điều ấy. Có lẽ đó cũng là một trong những nỗi ám ảnh của ông. Hai đêm đầu tiên ở Boston trong một ngôi nhà ông và các nhà văn khác thuê của một người Mỹ gốc Đức mới nhập cư chừng mươi năm nay, ông bảo lạnh quá không ngủ được. “Tôi đến ngôi nhà này đầu tiên,” ông nói vẻ bất bình, “nhưng người ta xếp cho tôi ở trong một căn phòng không có giường. Tôi phải ngủ trên sàn với một tấm đệm mỏng. Tôi thuê nhà cơ mà.” Tôi thực sự thông cảm với ông vì tôi được ở một căn phòng đẹp và đầy đủ tiện nghi trong ngôi nhà của một thi sĩ Mỹ. Đến New York, đoàn chúng tôi có bốn người, ba nam một nữ nhưng chỉ đăng ký ba phòng. Vậy là có hai người phải ở chung nhau. Người ta xếp tôi và Jean-Marie ở cùng phòng: một người da vàng và một người da đen. Christopher và Adisa mỗi người một phòng. Jean-Marie không hài lòng. Nhưng tôi lại thấy thích thú vì lần đầu tiên tôi sống chung với một người da đen châu Phi. Tôi thích được quan sát ông. Và đêm nào cũng vậy, trước khi đi ngủ, Jean-Marie ngồi trên giường lấy bơ xoa lên mặt và hai bàn tay. Đấy là một trong những cách dưỡng da của người da đen. Bơ làm nước da đen của ông bóng lên như đồng đen vậy. Có một đêm tôi tỉnh giấc. Tôi thấy ông đang quỳ trên sàn nhà và đầu gục ở mép giường. Tôi sợ ông bị ốm. Ông bảo tôi đừng lo cho ông. Ông cảm thấy một nỗi ám ảnh và đe dọa nào đấy thỉnh thoảng bao vây ông. Rồi ông nói về nỗi kinh hoàng của sự diệt chủng trên đất nước ông. Hơn một triệu người bị giết trong vòng 100 ngày. Dân tộc ông là một dân tộc nghèo đói và nhỏ bé và chỉ có tám triệu người. Ông nói bây giờ mọi chuyện đã lắng xuống. Nhưng ông sợ một lúc nào đó nó sẽ lại xảy ra như đã xảy ra. Tuy vậy nhưng ông vẫn quyết định xa vợ con trở về tổ quốc. Ông tâm sự với tôi là ông muốn trở thành Bộ trưởng Bộ văn hóa. Ông muốn xây dựng nền sân khấu hiện đại cho Rwanda. Ông muốn lập Hội Nhà văn. Ông muốn tiếng nói của nghệ thuật chân chính bay lên trên bóng tối của sự man rợ và chết chóc trên tổ quốc ông. Và lại có một đêm tôi bất chợt tỉnh giấc. Trong bóng tối mờ ảo của căn phòng, tôi thấy một đôi mắt trắng nhìn về phía tôi. Tôi giật mình. Nhưng ngay sau đó tôi trấn tĩnh lại vì nhận ra đó là đôi mắt của người đàn ông da đen khó ngủ. Tôi đọc được nhiều điều trong đôi mắt đó. Đêm đêm, trước khi lên giường, ông thường đi đi lại lại im lặng trong căn phòng. Có lẽ ông là người da đen nên nhiều lúc tôi không biết con người đang đi đi lại lại kia là ông hay cái bóng của ông in trên tường.
Khác với ông, Adisa là một cô gái trẻ sống sót qua cuộc chiến tranh ở Bosnia. Nhưng ký ức về chiến tranh và chết chóc có quá ít trong lòng chị. Cái chị cần nhất là nhiều người biết đến thơ chị. Chị đã in tập thơ đầu tay và được một giải thưởng văn học tại Bosnia. Mỗi khi đọc thơ, chị ăn mặc rất đẹp. Chị kẻ mí mắt và đánh son môi. Chị tươi cười thật rực rỡ trước độc giả. Chị đọc những bài thơ ngắn đầy thông minh cùng với những câu nói hài hước làm bạn đọc Mỹ thi thoảng lại cười ồ lên. Chị mang con mắt của một thế hệ khác. Đời sống trong thơ chị thật đơn giản và luôn luôn rạo rực niềm vui. Chị giống một cô bé chạy trốn những bi kịch trong ngôi nhà của mình để tìm đến một góc vườn yên tĩnh. Trong ngôi nhà ấy, chị không phải nhìn thấy nước mắt của người mẹ và cái dây thòng lọng của sự tuyệt vọng của người cha. Nhưng rồi một ngày nào đó khi chị hiểu được đời sống này thì cái dây thòng lọng mà trước kia chị không nhìn thấy đêm đêm sẽ buông xuống lơ lửng trên đầu giường chị. Còn những vở kịch của Jean-Marie là những cơn ác mộng. Jean-Marie càng ám ảnh bóng tối quá khứ bao nhiêu thì Adisa càng tránh chạm vào nó bấy nhiêu. Jean-Marie không thể nào rời bỏ được quá khứ. Jean- Marie không có con đường tắt nào đến ban mai. Ông phải đi qua bóng tối. Ông không thể nào tách rời được lịch sử đẫm máu của dân tộc ông. Ông có thể bình an sống ở Canada như bao người lưu vong khác với vợ con, với những đêm tuyết bay, với những thảo nguyên bất tận, với những cái cây lộng lẫy trong mùa hạ, với những đầm nước rực rỡ trong ban mai. Nhưng ông đã chọn con đường trở về tổ quốc ông, nơi bóng tối của man rợ, của cái chết có thể ập đến bất kỳ lúc nào. Ông đã không chạy trốn lịch sử, không chạy trốn tổ quốc ông. Ông có thể gục ngã đầm đìa máu trong bóng tối. Nhưng chính lúc ấy, bài ca của sự sống mới vang lên kỳ vĩ nhất. Bởi ông mang theo trong máu thịt mình nỗi đau buồn và giấc mơ đầy ánh sáng về tổ quốc mình.
Sau hơn một tháng lang thang trên nước Mỹ, Adisa, nữ thi sĩ trẻ tưởng không bao giờ biết buồn, lại muốn trở về nhà. Chị bảo chị nhớ mẹ. Chị muốn bay về một hai tuần rồi trở lại Mỹ. Chị bảo tôi là người sưóng nhất đoàn vì sách tôi đã được in ở Mỹ, vì đi đâu tôi cũng gặp những người bạn cũ, vì ở đâu cũng có quán ăn Việt Nam. Ở New York, Christopher đề nghị đến ăn tại quán ăn Việt Nam có tên là Mekong.
Christopher biết đường sá nước Mỹ quá rành rọt. Đến New York, Washington, anh đều biết chỗ nào có quán ăn ngon, chỗ nào là quán cà phê nổi tiếng. Anh sinh ra và lớn lên tại Mỹ, tốt nghiệp Đại học Harvard rồi chuyển sang sinh sống ở Bắc Ai-len. Và bây giờ, anh lại đang tìm cách để hiểu nước Mỹ. Tôi thấy anh hình như bắt đầu mới biết nước Mỹ. Phải chăng anh đã từng mang quốc tịch Mỹ mà bây giờ tôi thấy anh rụt rè hơn chúng tôi trước người Mỹ. Tối hôm đó, tôi đã trả tiền bữa ăn ở nhà hàng Mekong với giá 80 USD. Họ ngạc nhiên lắm. Tôi nói tôi mời họ vì lần đầu tiên họ đến quán ăn Việt Nam. Phong tục của người Việt Nam là thích mời khách ăn cơm.
Hơn ba tuần chu du qua nhiều bang, chúng tôi sống trong không khí thật thân ái, thật thánh thiện. Có lẽ bởi chúng tôi chỉ gặp các trí thức, các nhà thơ và sinh viên. Cứ vài ngày, chúng tôi lại có một cuộc đọc thơ. Mọi người đến những phòng đọc đẹp đẽ, ấm cúng và ngôn ngữ thi ca đã bay lên. Hầu hết các buổi đọc, tôi đều đọc tiếng Việt và một nhà thơ Mỹ giúp tôi đọc bản tiếng Anh. Gần như tất cả người nghe trong những buổi đọc thơ ấy chưa bao giờ nghe một nhà thơ Việt Nam đọc thơ bằng tiếng Việt. Thơ của tôi là thơ không vần. Nhưng tôi vẫn có thể nói rằng nó đã quyến rũ nhiều người nghe bởi sự lãng mạn và nhạc tính của ngôn ngữ chúng ta. Và tôi có thể tự hào rằng: tôi đã mang đến cho bạn đọc Mỹ một phần nhỏ cái đẹp của ngôn ngữ Việt trong giọng đọc của mình. Mỗi khi cất giọng đọc bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, tôi thấy không phải đang đứng trên nước Mỹ mà đang đứng trên miền châu thổ rộng lớn của xứ sở chúng ta. Và tôi đã kể cho họ nghe dù một điều nhỏ bé về những gì mà những người dân bình dị trên xứ sở chúng ta đã gánh chịu, đã vượt qua, đã khổ đau và mơ ước.
Đêm nay tôi muốn viết những dòng này. Bởi đêm nay, trong căn phòng của tôi lúc hai giờ sáng, tôi chợt thấy cái bóng của người đàn ông da đen lướt qua và đôi mắt trắng của ông nhìn về phía tôi. Cho đến lúc này, tôi không còn phân biệt được đâu là người bạn da đen của tôi và đâu là cái bóng của ông. Và tôi lại nhớ đến bộ phim về một lịch sử đẫm máu và điên rồ của dân tộc ông. Tôi thấy không chỉ một cái bóng mà hàng triệu, hàng triệu cái bóng thẫm đen in trên bức tường máu của lịch sử nhân loại. Đêm nay, tôi thấy cái bóng của tôi in trên bức tường trong căn phòng. Tôi biết đâu là tôi và đâu là cái bóng của tôi. Nhưng trên bức tường vĩnh cửu của thời gian, thì đâu là tôi và đâu là cái bóng của tôi?
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Chuyển dịch màu đen
Tặng Kevin Leslei và Kevin Bowen
Màu đen một
Hai màu đen nhìn nhau, chuyển động quanh một màu đen hình cốc.
Đứa bé gái rời cái làng trồng bắp cải ra đi trên lưng mẹ nó mười tám năm về trước. Trong địu nó ngủ, thức, khóc, chảy dãi và đái ướt một vòm đen vĩ đại khốn khó, hay rên khóc, nhưng không nguyền rủa. Ra đi như thiên thần qua bầu trời trắng. Đến xứ sở trắng, nó khóc như thổ huyết trên tuyết. Màu đen vĩ đại của nó cắt bánh mì đứt tay mở ra một cái miệng. Và cái miệng bé xíu chảy dãi đỏ thấm ướt ruột bánh mì. Nó lớn lên trên tuyết và nẩy hai bầu vú. Hai bầu vú lấp lánh như hai cây kim bọc trong vải tối màu.
Hai màu đen bỏ màu đen hình cốc, bò lại gần nhau.
Gã sinh ra và lớn lên từ rơm rạ, tro trấu, từ những giọng buồn. Gã, tóc bùng màu đen, râu dựng màu đen. Những mái rạ đen mục tiếng thạch sùng, bầy chó mực mê man bóng tối. Bánh xe trâu khắc hai nét đen dài suốt con đường qua cánh đồng từ tinh sương đến đổ tối. Không có dấu hiệu gì từ những chữ trắng trên bảng đen. Và gã ra đi từ những ô chữ nhật đen, khi bóng tối lùa kín từng cái miệng. Những con muỗi trộn màu đen của chúng và màu đen ngôi nhà để đánh cắp màu đỏ. Và trăng, màu đen của ánh sáng ngày dứt mình ra khỏi những đám mây bẩn thỉu.
Gã đi, màu đen của mọi màu đen, miết vệt sáng lên những màu đen khác. Và màu đen vĩ đại của gã quờ tay xóa hết những khoảng trắng có thể giết chết gã.
Hai màu đen đã sát nhau như hai cái cây trong đêm và thì thào như khóc. Thì thào, thì thào dẫn lên thành tiếng gào gọi. Ngôn ngữ trắng không giết được những u oa của chúng. Chỉ còn lại thì thào như lá khua, dội lên trong tiếng răng rắc của cây đang đổ.
Chúng, hai mảng đen, đã trộn vào nhau. Những cặp môi xiết vào nhau như thổ dân xiết hai miếng đá. Và máu của cô đơn, khát vọng rỉ ra chảy trên hai bi kịch đen. Hai bi kịch rã rượi, xoải dài và chopứ lên khoảnh khắc cứu vớt.
Chúng lặng lẽ gượng dậy, bọc giấu hai cây kim lấp lánh và bí ẩn khác. Im lặng tràn qua chúng bất tận và bóng tối đã đến.
Những con hải âu bay qua mái nhà khàn khàn gọi. Chúng lặng lẽ cộng thêm những màu đen.
Màu đen hai
Hoàng hôn bọc kín khu vườn, cộng thêm những màu đen.
Cầu thang gỗ đến giờ đau răng, rên rỉ.
Con chó trắng trong ngày thay lông,
bóng tối phủ những mảng da trần đỏ.
Một màu đen khác và một màu trắng đang đi qua vườn,
họ có một chiếc chìa khóa
Ngôi nhà gỗ lặng im, cố tình không thấy họ.
Trên lối nhỏ, họ dạt vào nhau, cố trộn lẫn nhau.
Màu đỏ trong màu đen kia làm đôi vai co lại hoảng sợ.
Màu đen trong màu trắng kia lục cục tiếng quan tài
Trong bóng tối đổ xuống khu vườn có tiếng áo sột soạt
Trong hương hoa hồng trái mùa có mùi thuốc rẻ tiền
Và kí ức - một màu đen - vẫn phủ ngợp những ngọn núi,
cánh rừng và tiếng súng của họ
Gió thổi mạnh, những hồng bạch, hồng nhưng trái mùa,
dạt vào nhau, hương trộn lẫn nhau.
Một người là mu bàn tay, một người là lòng bàn tay và
họ có một chiếc chìa khóa.
Máu đang chia đều trong bàn tay, trong cả những móng tay
Ngôi nhà gỗ cắn môi, ổ khóa hóc chết chẹt một khoảng tối.
Con chó quay đầu tìm những mảng da trần đỏ
đã trộn vào bóng tối
Nhưng cơn ngứa của sự mọc lông không trộn được vào đâu.
Người cựu binh trắng đốt lên ngọn nến
Ánh sáng nến và màu da anh không trộn được vào nhau.
Trong màu trắng kia có một màu đen chuyển động bằng xích,
bằng cánh quạt và thuốc nổ.
Người đàn bà màu đen không làm sao trộn mình
vào ga giường trắng.
Màu đỏ trong màu đen kia mọc lên cái gai cột sống.
Nến vẫn trắng để tắt, ga giường vẫn trắng để nhàu,
và rượu vang vẫn trắng để cạn.
Nhưng họ không thể trộn vào nhau,
hai ám ảnh không thể nào hóa bột
Ngôi nhà gỗ cắn đến nát môi, vẫn cố tình quay mặt
về hướng khác
Họ đã đi qua khu vườn trong bóng tối nhiều gió, những bông hồng trái mùa khóc họ.
Họ dạt vào nhau, dạt mãi... nhưng không thể nào trộn lẫn
Đấy là cái chết của họ. Và bây giờ màu đen lại được cộng thêm.
Màu đen ba
Tiếng đập cánh bầy chim đổ xuống khu vườn
Cơn mưa tối của âm thanh dịu dàng, bền bỉ
Cầu thang gỗ đã ngủ, những răng sâu đã ngủ
Dìu dịu trên đệm ấm, cơn ngứa thay lông
Vọng về từ xa xăm, tiếng mê sảng biển cả
Bầy hải âu, những hạt muối đen, tan trên đầu lưỡi sóng
Biển cộng những con tàu vào biển,
nhưng không cộng được thủy thủ
Vọng về từ xa xăm và dừng lại trước bờ rào.
Dừng lại và khóc, và hát, và nói, và im lặng
Trong tiếng nghiến mềm mại của ghế mây,
những nức nở êm đềm
Những ngón tay bò trong đêm như rắn? Như giun?
Như những kiếp người?
Có thể bại liệt vì cóng trên từng đốt nhỏ
Bò đi, không chịu gục và không chịu sưởi
Bò đi và tự nóng rực lên, quặn xiết vào nhau
Những ngón tay đen như những mẩu củi khô cháy dở
Những ngọn lửa tha phương lầm lụi tìm về
Và bên thềm, chúng, hai màu đen ngóng cố hương thở nặng
Tỉnh giấc trong khuya bởi màu trắng cơn mê
Cố hương xõa tóc đen đi trong gió trắng
Cố hương vật lên như sóng
Cố hương vùi mình như muối triệu năm
Và bên thềm, chúng, hai màu đen ngóng phía vòm cây
Tiếng chuông gió mang than thở của xứ sở
nó ra đi trên đầu chúng
Trong góc phòng, bầy cá vàng đang giấu mình
vào vùng nước tối
Những bức thảm Thổ Nhĩ Kỳ gõ bong móng ngựa
trên đường về xứ sờ, cát bay
Những trà tàu mở mắt lá nhìn bình pha trà xa lạ
Những bò tót Tây Ban Nha đổi mùa khóc rống
Mang cơn mê được chảy máu đầm đìa
Đã thiu ngủ bầy chim trong giá lạnh,
lạnh không mở được mắt
Những mỏ đen ngậm cứng lưỡi đen
Những vòm cây đã trộn vào nhau
Rễ trộn vào thân và lá trộn vào quả
Một bóng đèn chợt sáng, sáng như một tiếng nổ
Tiếng nổ trộn vào bầy chim, bầy chim trộn vào im lặng
Và bây giờ những đôi mắt cố trộn vào giấc ngủ
Lưỡi cố trộn vào rượu và máu cố trộn vào tim
Biên giới cố trộn vào đất đai và cờ cố trộn vào áo
Như đã chết từ lâu, hai mảng đen, tự mình mai táng vào mình
Đấy là con đường sống của chúng. Và bây giờ quanh chúng
Vọng lên trên mênh mông tiếng rên rỉ thống thiết của sự trộn lẫn
Và tiếng ú ớ của sự chối từ trộn lẫn. Và có thể...
Và màu trắng
Lộng lẫy như lời cầu kinh, tuyết, trầm trầm đổ xuống
Miên man không bến bờ - một tiếng kêu câm
Đổ xuống, và không có gì chạy qua kịp, đổ xuống
Đang run lên, tận lưng trời, những đôi cánh tự do
Đổ xuống, và hiện dần lên trong đêm, những đỉnh núi
Đang hiện lên những ngọn cây cao
Đổ xuống, đang hiện lên những ống khói
Những mái nhà tưởng không còn nhớ
và những cửa sổ quên đóng
Đổ xuống, tuyết, như một con mắt đang mở
To dần ra và nhìn thẳng vào ngôi nhà
Không có gì cưỡng lại được cái nhìn của tuyết
Cả một chiếc giày trẻ sơ sinh lọt xuống gầm giường
Đổ xuống và những con cá vàng bất động trong bể nước
Những cái hôn dài mãi và đèn bàn bỏ quên không bao giờ tắt
Đổ xuống, mặt úp mãi vào gối, và cơn mơ vĩnh viễn lơ lửng
Đổ xuống, những bức thư mãi mãi trong hòm thư
Những giọng nói mãi mãi trong dây cáp
Đổ xuống, và hiện lên những hàng rào gỗ ngốc nghếch
Những viên đạn nằm mãi trên đường bay
Đổ xuống, tuyết, từ bất động xa xăm
Xa đến nỗi như đâu đấy ở trong, ngoài lòng bàn tay
Đổ xuống, và tất cả con đường lặng lẽ hiện lên âm bản
Đổ xuống, tất cả những tàu, xe dừng lại giữa cuộc hành trình
Hành khách vĩnh viễn ngồi trên ghế,
và vĩnh viễn hộ chiếu mang theo
Vĩnh viễn không về đến nhà, vĩnh viễn chưa ra khỏi cửa
Đổ xuống, tuyết vẽ lại bản đồ thế giới
Và dưới tấm bản đồ trắng kia, vĩnh viễn viện bảo tàng.
Boston 1994 - Hà Đông 1995
Rút từ tập Cây ánh sáng,
NXB Hội Nhà Văn 2010
MƯỜI BA
Người đầu bếp cho quân đội Pháp
Tôi chợt nhớ về ông trong một không khí không lấy gì làm tôn nghiêm lắm. Lúc đó tôi ngồi trong một quán ăn thịt kangaroo ở quận Một, thành phố Hồ Chí Minh. Mùi vị của món đặc sản xứ Úc Đại Lợi nhưng lại gợi nhớ về một miền đất châu Phi xa xôi. Ký ức đôi khi lại dẫn chúng ta đi một cách lắt léo chứ không thẳng đường rõ lối. Lúc này, nó lại đang dẫn tôi về một ngôi nhà tối thấp. Một căn bếp ám khói quanh năm với một đống rấm hình như không bao giờ tắt. Thời ấy tưởng như của hàng thế kỷ trước. Nhưng thực ra mới là những năm 50 của thế kỷ hai mươi. Trong căn bếp ấy, mùi một món ăn mà cho đến bây giờ tôi cũng chưa bao giờ gặp lại và cũng rất khó gặp lại: mùi thịt thỏ nấu rôti do ông Bếp nấu mà tôi được ngửi duy nhất một lần trong đời. Sau này, người ta bảo nấu thỏ rôti là phải có rượu vang. Nhưng ở một làng quê nghèo nàn đến như thế của thời ấy thì đào đâu ra rượu vang. Nhưng sao cái mùi thỏ rôti ngày ấy lại tuyệt vời đến thế. Ngẫm lại thấy chẳng có gì quá đáng cả, khi trong những năm tháng đói khát ấy ngay cả mùi muối rang ớt cũng hấp dẫn người ta chứ nói gì đến mùi thỏ rôti.
Thực lòng, tôi không nhớ tên họ ông chính xác là gì. Nhưng tất cả họ hàng cũng như làng xóm đều gọi ông là ông Bếp. Lúc đầu, tôi nghĩ đấy là tên ông. Sau lớn lên mới hiểu ra rằng, ông là người bị Pháp bắt đi lính. Vào lính ông làm anh nấu bếp. Sau đó, quân đội Pháp đưa ông sang tận châu Phi, cũng chẳng phải đánh đấm gì mà vẫn chỉ là anh nấu bếp. Thế là người làng gọi ông là ông Bếp. Sau này tôi biết, không chỉ người làng tôi gọi ông như thế mà rất nhiều nơi gọi những người chuyên làm bếp là anh Bếp hay chị Bếp. Ông Bếp làm nghề nấu bếp cho quân đội Pháp bao nhiêu năm, tôi không biết. Nhưng biết ông rất rành tiếng Pháp. Bởi đã có một lần tôi chứng kiến một ông cán bộ người làng đưa cho ông một tờ giấy có in những dòng tiếng Pháp nhờ ông dịch. Lũ trẻ con chúng tôi xúm đen xúm đỏ quanh ông nghe ông dịch những thứ được in trên tờ giấy rất đẹp thời đó nói về một thứ bệnh gì đó từa tựa như bệnh lang ben, hắc lào và cách chữa trị. Nhưng cũng sau lần đó, một ông cán bộ xã đã đến hỏi ông nhiều lần về việc dùng tiếng Pháp của ông. Ông cán bộ này nói ông không được dùng tiếng Pháp nữa. Ngày ấy, những tiếng như Anh, Pháp và sau này cả tiếng Trung không được giảng dạy trong các trường phổ thông cơ sở. Khốn khổ, ở cái làng trồng lúa nước nghèo rớt mùng tơi ấy thì ông dùng tiếng Pháp làm gì. Từ ngày trở về từ châu Phi xa lắc xa lơ, ông chẳng mấy khi ra khỏi làng. Mà thực tế ông cũng chỉ dùng một lần để dịch giúp người ta cái giấy mà tôi cam đoan là cái đơn chỉ dẫn dùng thuốc lang ben hay hắc lào. Nhưng một người đã đi lính cho Pháp dù chỉ là nấu ăn thôi giờ lại to te tiếng Pháp thì thật không chấp nhận được. Mới đấy thôi mà sự đời đã thay đổi tất cả. Ngày nay, đâu đâu người ta cũng nói tiếng Anh, tiếng Pháp nhem nhẻm. Biển hiệu nhiều quán ăn, quán cà phê... cũng dùng ngoại ngữ. Tiêu chuẩn của một cán bộ nhiều ngành muốn được đề bạt cũng phải có cái bằng ngoại ngữ Anh, Pháp hoặc Trung v.v... mặc dù đa số những người có bằng ấy lại chẳng nói được cho ra hồn một hai câu ngoại ngữ.
Mấy năm lang thang ở một xứ sở châu Phi, ông trở về làng. Bà tôi kể: ngày ông về làng, lũ lượt một đám đông đủ người già trẻ nhỏ chạy theo ông. Ông khoác một chiếc áo bađờxuy có hàng cúc mạ vàng và xách một cái vali rất nhỏ bằng da đã sờn các góc. Người làng suốt mấy ngày sau đó xì xào về những chiếc cúc mạ vàng trên chiếc áo khoác của ông. Những người nông dân hoàn toàn tin rằng những chiếc cúc đó là bằng vàng. Họ còn bảo nhau cái vali sờn góc của ông Bếp trông xấu xí cũ kĩ thế thôi chứ đựng toàn của quý có thể sống cả mươi đời. Chính vì thế mà chỉ hơn tháng sau, kẻ trộm đã đột nhập vào nhà ông và lấy trộm chiếc áo. Cái thằng kẻ trộm mang chiếc áo ra cuối làng cắt hết cúc và vứt chiếc áo xuống cái ao. Ông vớt chiếc áo dạ sũng nước nặng như một tấm da trâu mới lột mang về giặt giũ cẩn thận và phơi đến cả một tháng mới khô. Sau đó, ông quyết định đi tìm mấy cái cúc áo. Ông bảo cái áo đó không có những chiếc cúc ấy thì chẳng khác gì tấm bao tải gai. Người làng nghe ông nói đi tìm mấy cái cúc áo thì trố mắt ngạc nhiên. Họ càng tin mấy cái cúc áo đó làm bằng vàng thật. Cả làng tôi lúc bấy giờ không có ai đeo vàng. Tôi biết chỉ có một bà vốn là vợ ba một ông người Hoa làm nghề sản xuất lạc rang húng lìu ở Hải Dương bỏ về quê khi ông chồng người Hoa này chết, có đeo một đôi khuyên vàng ba đồng cân. Nhưng một đêm bà ngủ thì một tay trộm nào đó mò vào dùng dao bổ cau xẻo gần mất cả một bên tai bà để lấy chiếc khuyên vàng. Từ đó bà không bao giờ đeo vàng nữa mà bà cũng chỉ còn một cái tai nguyên vẹn thì có muốn đeo cũng không được.
Cuộc truy tìm mấy cái cúc tưởng là chuyện vô vọng. Thế mà cuối cùng ông Bếp cũng tìm được. Thằng kẻ trộm tưởng mấy cái cúc đó làm bằng vàng thật liền mang ra tận một hiệu vàng thị xã bán. Ông chủ hiệu vàng giảng giải cho gã kẻ trộm kia về công nghệ đồ mỹ ký và mua lại mấy cái cúc vì thấy nó đẹp và bày trong tủ kính cũng là để chơi. Ông Bếp biết được thằng trộm sẽ làm như thế. Bởi cả thị xã lúc ấy chỉ có mỗi một hiệu vàng của ông Thịnh Hói. Ông đến hiệu vàng đó dò la tin tức thì thấy mấy cái cúc áo của mình. Ông Bếp chuộc lại mấy cái cúc mạ vàng mang về đơm lại vào chiếc áo. Vật quý thứ hai ông Bếp mang về là một cái tẩu hút thuốc có phần cán ngậm hút bằng ngà voi. Bọn trẻ chúng tôi đã đôi lần được nghe ông kể về những con voi xứ châu Phi và giá trị cửa những cặp ngà. Nhưng với người làng tôi thì chỉ có vàng là có giá trị chứ lúc đó ngà voi hay kim cương cũng chẳng hơn gì mấy hòn sỏi dưới chân núi Non Nước. Thỉnh thoảng ông Bếp lại mang cái tẩu ra ngồi trên hiên nhà lau chùi cả một buổi sáng và đôi lúc lại đưa lên miệng ngậm và hít hà như là đang hút một loại thuốc ngon lắm. Có người bảo ông lấy thuốc lào cho vào mà hút, ông cười nhếch mép và nói: “Cái này đâu phải là thứ để hút loại thuốc kia.” Ông cán bộ xã, người đã từng truy vấn tại sao ông lại biết tiếng Pháp và tại sao về làng mà ông còn dùng cái tiếng của kẻ thù, nay nhìn thấy ông ngậm cái tẩu thì ghét lắm: “Nhìn lão ta ngậm cái tẩu thật đúng là cái mặt tư sản.”
Ông Bếp về làng hồi còn trẻ nhưng cho đến cuối đời cũng không nghĩ đến chuyện vợ con. Người ta thì thầm với nhau rằng ông có một người vợ Pháp da trắng xinh đẹp vô ngần. Họ đã có một đứa con với nhau. Sau khi giải ngũ, ông không ở lại Pháp với vợ con mà tìm đường về quê vì không sao chịu được khi sống mà không có món mắm rươi ăn với cà pháo muối xổi. Hồi nhỏ, chúng tôi hay lân la bên cạnh những người già và nghe đủ thứ chuyện. Cái chuyện nhớ mắm rươi của ông Bếp làm chúng tôi tin sái cổ. Nhưng khi lớn lên thì biết đấy chỉ là lời đồn. Nhưng món mắm rươi thì chúng tôi thấy ông hay ăn thật. Cứ đến mùa rươi ông nhờ cô em gái mua cho ông có khi cả một rá lớn rươi. Ông tự làm mắm rươi. Ông làm cả các loại mắm khác. Mùa cua thì làm mắm cua. Mùa cá thè be sông thì làm mắm cá thè be. Mùa tôm gạo thì làm mắm tôm gạo. Ông xếp ngay ngắn một dãy hũ sành đựng mắm trong bếp và cứ đôi ba ngày lại lau chùi những chiếc hũ sành rất cẩn thận. Cũng chẳng phải mắm rươi là cái không thể thiếu được trong cuộc sống của ông mà vì ông nghèo quá. Nghèo quá thì người ta hay tìm cách ăn được mọi thứ có thể. Người Việt Nam biết ăn đủ thứ từ châu chấu, cào cào đến củ chuối, củ ráy... Cái gì có thể ăn được là ăn, là chế biến đủ cách để có thể ăn và ăn cho đỡ nhạt miệng. Ông Bếp cứ sống “thanh đạm” như thế cho đến chết.
Khi ông Bếp chết người ta mới hiểu ra rằng ông chẳng có của nả gì như người làng đồn đại. Nhưng hình như lúc nào ông cũng sống như một người khá giả chẳng bận tâm gì đến tiền của. Ông vẫn chải đầu óng mượt bằng nước lã và khoác chiếc áo bađờxuy với hàng cúc vàng chóe đi chơi họ hàng, làng xóm trong những dịp tết nhất. Ông vẫn ngồi trên hiên ngôi nhà tối thấp lau tẩu hoặc đọc một cuốn sách gì đó và bỏ kính ra hơi cúi đầu chào khi có một người làng dắt trâu, bò hay gánh phân bón ruộng đi qua. Từ ngày ở châu Phi trở về, ông chẳng bao giờ nhúng tay vào công việc đồng áng nữa. Ông không được chia ruộng phần trăm. Có bận bà em gái ông gặp cán bộ địa phương xin ruộng phần trăm cho ông thì người ta nói: “Đã đi lính cho Pháp không phải vào tù là phúc bảy đời rồi không biết mà còn nhăm nhe đòi ruộng.” Ông sống bằng nghề làm kẹo bột và trồng trọt trong cái vườn bố mẹ ông còn giữ lại được. Ông cứ sống điềm đạm, lặng lẽ như là một người có tội với một phong thái không giống những người nông dân làng ông cho đến khi chết. Theo lời dặn dò của ông, người nhà ông mặc cho ông chiếc áo bađờxuy có hàng cúc vàng và đặt chiếc tẩu vào tay ông rồi chôn cất ông.
Nhưng sau khi ông mất vài năm thì nổi lên một chuyện. Đó là chuyện người ta xì xào là Chính phủ Pháp sẽ trả lương cho những người Việt Nam đã làm việc cho Pháp trước kia. Một đứa cháu họ ông làm việc ở thành phố biết được cái thông tin này liền về làng tìm ngay người cháu ruột của ông Bếp thông báo và bàn chuyện. Họ nhẩm tính số tiền lương kể từ ngày ông Bếp làm việc cho người Pháp đến giờ quả là không nhỏ. Bao nhiêu người giàu còn thường xuyên nghĩ đến tiền và “chăm sóc” đêm ngày từng đồng một nói gì đến những người nghèo như anh cháu ruột ông Bếp. Rất may là những giấy tờ liên quan đến những năm làm nấu Bếp cho quân đội Pháp ông Bếp vẫn giữ trong cái vali da sờn góc. Có một điều nghe nói là Chính phủ Pháp chỉ trả lương cho những người còn sống chứ không trả cho những người đã chết. Nhưng ông Bếp đã mất rồi. Mà cứ bảo ông còn sống thì ai mà biết được. Người Pháp làm sao mà đến được cái làng xa xôi của ông mà tìm hiểu xem ông còn sống hay đã chết.
Người cháu viết một cái đơn và ký giả tên ông đưa cho chính quyền xã xin chứng thực ông Bếp vẫn còn sống. Mấy ông lãnh đạo cũng bàn luận đôi chút nhưng cuối cùng tặc lưỡi: “Chuyện chẳng có gì nghiêm trọng, cứ chứng cho người ta còn sống.” Người cháu ông mang theo tất cả những giấy tờ liên quan nhảy tàu chợ lên Hà Nội tìm đến Sứ quán Pháp với bao nhiêu là hy vọng. Người cháu đi lại nhiều lần và khá tốn kém vì tiền tàu xe, ăn uống và thuê nhà trọ. Một nhân viên người Việt làm cho Sứ quán đã gặp người cháu và nói gì đấy. Thế là người cháu nổi giận vì chắc hiểu sai gì đó và nói: “Tôi đi đòi tiền cho ông tôi chứ không phải là đi xin.” Nhưng người nhân viên Việt làm cho Sứ quán kia vẫn nhận hồ sơ nói để xem xét.
Việc xem xét kéo dài mấy năm liền. Cuối cùng người cháu họ đành bỏ cuộc vì biết chẳng còn hy vọng gì, lại thêm tuổi mỗi năm một già cùng với bệnh tật luôn, mà cũng chẳng có tiền để cứ đáp tàu mỗi tháng một lần lên Hà Nội chờ đợi mấy ngày chỉ để nghe một câu trả lời vu vơ. Trong thời gian đó, người cháu ruột của ông ra tận thị xã Hà Đông tìm tôi để nhờ việc đó. Anh đưa cho tôi xem một nắm giấy tờ bằng tiếng Pháp. Đó là những giấy tờ chứng thực thời gian ông làm cho quân đội Pháp ở châu Phi với nghề nghiệp đầu bếp. Tôi có một người bạn thân có một người quen hồi đó làm trong Sứ quán Pháp. Thực lòng tôi không muốn anh làm thế nhưng tôi vẫn phải mang nắm giấy tờ đã ố vàng để nhờ bạn tôi giúp. Làm thế thôi chứ tôi không tin có chuyện như vậy. Và tôi càng không tin ông Bếp nếu còn sống sẽ để cho người cháu làm những gì anh đang làm. Ông đâu cần tiền như thế. Ông đã sống ba mươi tám năm trong làng mình mà không một lần đi ra khỏi làng. Ông chẳng có nhu cầu gì ngoài việc thỉnh thoảng ngồi im lặng và nhớ về những miền đất xứ châu Phi ông đã từng sống như tôi nhớ về những miền đất thế gian này mà tôi đã từng đi qua.
Tôi có dịp đi nhiều nơi trên thế gian này nhưng vẫn ao ước có một ngày đến được những miền đất xứ châu Phi kỳ lạ mà ông Bếp đã kể cho chúng tôi. Con người ông tôi biết nhiều chuyện và hiểu ông khá nhiều. Nhưng có một chuyện tôi vẫn không làm sao hiểu được cho tới lúc đang ngồi viết những dòng này là vì lí do gì mà ông không ra khỏi làng mình trong suốt ba mươi tám năm trời (?).
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Bầy kiến qua bàn tiệc
Những bánh xe no nê lăn vào giấc ngủ
Mang theo tiếng cười, tiếng khóc và cái chết của rượu
Mang theo những bàn tay đàn ông
Bò ngược đùi đàn bà như từng chùm chân gián
Chỉ còn trên bàn tiệc
Bát đĩa, cốc chén
Và những cái chai cạn khô
Cùng cơn gió lốc quạt trần
Rền rĩ nỗi buồn đồ vật
Bầy kiến đen đi qua bàn tiệc
Như lang thang qua bãi chiến trường
Đầy mảnh thịt của gia súc
Đầy xác chết của rau thơm
Quả ớt đỏ như lá cờ rách nát
Bầy kỉến ôm lên đắng cay nhòa mắt
Bò qua da
Bò qua xương
Trong rền rĩ cơn lốc quạt
Chiếc bóng điện 1000 oát - vầng mặt trời giả dối
Lặn xuống từ công-tắc màu đen
Con gió lốc quạt trần từ từ chết
Xòe ba xương sắt đen xì
Chỉ còn bầy kiến đen
Đắng cay nhòa mắt
Dìu nhau về thăm thẩm những hang sâu
1991
Rút từ Sự mất ngủ của lửa,
NXB Lao Động 1992
MƯỜI BỐN
Kẻ mang mặt nạ
(Giấc mộng thứ ba)
Kẻ ấy chẳng hề rời bỏ tôi, có lẽ đến tận cuối đời.
Đó là kẻ đeo mặt nạ.
Tôi đã khao khát đến sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để được một lần nhìn thấy cái mặt thật sau cái mặt nạ ấy.
Có một thời gian dài gần hai mươi năm, tôi thường có một cơn ác mộng kinh dị và nặng nề nhiều lúc ngạt thở tưởng mình sẽ chết ngay trong những đêm đó. Trong những cơn ác mộng đó, một kẻ đeo mặt nạ săn đuổi tôi. Săn đuổi nhưng không trực tiếp giết tôi. Săn đuổi với một nụ cười không bao giờ tắt mà lại làm tôi hoảng sợ và mang một cảm giác giống như một người biết chắc trong mình mang một căn bệnh nan y mà không biết phát ra lúc nào.
Một chiếc mặt nạ không thay đổi cảm xúc.
Không phải một chiếc mặt nạ có đôi mắt đỏ lòm hay một cái miệng đầy răng nhọn như răng bọn ma cà rồng.
Không phải một chiếc mặt nạ phừng phừng nổi giận hay xanh lét như một hồn ma.
Mà là một chiếc mặt nạ có vẻ mặt thật nhẹ nhõm với một đôi mắt chỉ có lòng đen, một đôi môi đỏ chót và lúc nào cũng mỉm cười.
Tôi cảm thấy có ai đó đang nhìn tôi từ phía sau. Cái nhìn giống như một mũi khoan máy khoan thẳng vào gáy tôi. Tôi hoảng hốt quay lại và nhận ra một kẻ đứng trước mặt tôi với một chiếc mặt nạ. Một người không quen hay một người quen? Tôi không thể nào biết. Vì vậy, tôi bỏ đi. Và kẻ đeo mặt nạ bắt đầu đi theo tôi. Tôi vội dừng bước và quay lại. Chiếc mặt nạ mỉm cười với tôi. Tôi nghĩ ai đó quen biết mình đang trêu đùa mình. “Người là ai? Có việc gì không?” tôi cất tiếng hỏi. Chiếc mặt nạ không trả lời tôi, cái mặt không hề có một chút gợn đổi thay, chỉ cười và cũng không hề lúng túng hay bỏ đi. Tôi có vẻ cáu: “Thôi đừng đùa nữa, có chuyện gì thì nói đi.” Không trả lời, không nhún vai hay huơ tay. Chỉ mỉm cười. Tôi vừa khó chịu, vừa khó hiểu và vừa sờ sợ.
Tôi rảo bước thật nhanh và rẽ vào một lối ngõ. Kẻ đeo mặt nạ vẫn bám theo tôi với một khoảng cách chính xác không hề thay đổi. Trong khi đi như trốn chạy, tôi nhìn thấy một khoảng tối trong ngõ nhỏ và ẩn mình vào đó. Kẻ đeo mặt nạ bước từng bước từ tốn về phía tôi. Tôi nghĩ hắn sẽ không thể nào biết được tôi đang nấp trong khoảng tối đó. Nhưng khi bước chân hắn vừa đặt xuống ngang nơi tôi ẩn mình thì đột ngột hắn quay người đối diện với tôi. Tôi lạnh người vì kinh sợ. Tôi thở gấp và đầu buốt nhức vì máu không dịp nhồi lên não. Tôi thu mình lại. Tôi cảm thấy kiệt sức và tuyệt vọng khi nghĩ không còn lối thoát nào cho mình nữa.
Tôi từ từ nhắm mắt lại chờ một cái gì đó khủng khiếp xảy đến. Một mũi dao nhọn hoắt đâm xuyên ngực tôi chẳng hạn. Nhưng quanh tôi chỉ có sự im lặng như tất cả sự sống này đã chấm dứt từ lâu rồi. Sau một hồi nghĩ kẻ đeo mặt nạ đã bỏ đi, tôi hé mắt. Kẻ đeo mặt lạ vẫn đứng đó nhìn tôi. Đôi mắt toàn lòng đen và đôi môi đỏ chót mỉm cười làm tôi hoang mang tột độ bởi tôi không làm sao có thể xác định được cảm xúc của hắn và không biết hắn sẽ làm gì với tôi.
Tôi vùng bỏ chạy. Càng chạy tôi lại càng nghe tiếng chân của hắn vang lên ngay phía sau tôi đều đều như không để tôi chạy thoát, nhưng lại không gần hơn và cũng không xa hơn.
Tôi chạy vào phòng và đóng chặt cửa. Tim tôi đang đập bình thường trở lại. Khi yên trí cửa đã khóa chặt, tôi quay vào định nằm xuống giường nghỉ vì quá mệt mỏi và căng thẳng. Và... tôi kinh hoàng tưởng vỡ tim khi nhận ra kẻ đeo mặt nạ đang đứng ở góc phòng nhìn tôi từ lúc nào. Tại sao kẻ đeo mặt nạ lại vào được phòng tôi. Đôi mắt toàn lòng đen, đôi môi đỏ chót và chỉ mỉm cười.
Tôi nghĩ đêm tối sẽ giúp tôi xóa đi cái mặt nạ ấy. Nhưng cả những đêm tối đen nhất và tôi đã trùm chăn kín đầu thì kẻ đeo mặt nạ vẫn đứng trước tôi rõ như ban ngày. Đầu óc tôi bắt đầu có rối loạn và có dấu hiệu của bệnh tâm thần. Tôi nghĩ đến một ngày nào đó mình sẽ phát điên. Giá kẻ đó tháo chiếc mặt nạ ra, tím hay đỏ mặt giận dữ và đe dọa tôi, hoặc kể cả rút một con dao chọc tiết lợn đâm tôi thì có lẽ tôi còn thấy dễ chịu hơn là một bộ mặt như thế.
- Ngươi là ai? Là ai? Là ai? - Tôi gào lên.
Kẻ đeo mặt nạ không hề phản ứng gì, chỉ mỉm cười với đôi môi đỏ chót.
- Sao ngươi không bỏ cái mặt nạ ra? Ngươi sợ à? - Tôi lại gào to hơn.
- Vẫn chỉ mỉm cười. Đôi môi đỏ chót bất động.
- Sẽ có ngày ta lột được cái mặt nạ của ngươi ra. Ta sẽ biết ngươi là ai. Ta sẽ giết ngươi. - Tôi rít lên.
Chẳng có gì làm kẻ đeo mặt nạ thay đổi sắc mặt. Vẫn đôi mắt toàn lòng đen như luôn luôn vô tư và như luôn luôn chẳng có ẩn ý gì, vẫn đôi môi đỏ chót và chỉ mỉm cười ở mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh.
Sau khi gào lên như thế, tôi chợt nhận ra tôi chẳng có lí do gì để tấn công hắn. Hắn đâu có tức giận với tôi, đâu có xỉ vả tôi, đâu có đe dọa tôi và đâu có mang vũ khí gì khi đi theo tôi và chưa lần nào hắn chạm vào tôi. Nhưng tôi khao khát được biết cái mặt thật của hắn sau cái mặt nạ kia đến phát điên lên được. Bởi nếu không biết được sự thật sau cái mặt nạ kia một cách rõ ràng thì còn tồi tệ hơn tất cả.
Cuối cùng, tôi đã thực hiện được khao khát ấy. Tôi đã tiếp cận được kẻ đeo mặt nạ. Tôi chộp lấy cái mặt nạ của hắn để lật tung ra.
Nhưng tôi kinh hãi hơn bao giờ hết khi nhận ra: Cái mặt nạ ấy đã dính liền vào da mặt hắn vì hắn đã đeo cái mặt nạ ấy quá lâu.
Và ngay cả bây giờ, cho dù chính hắn muốn tháo cái mặt nạ ấy ra thì hắn cũng không thể nào tháo được.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Hội giả trang
Tất cả những ngộn đèn tỏa sáng,
tất cả rượu vang chảy và âm nhạc
Vang tên buổi tối này trong phòng khánh tiết
Tất cả nổi cười, chúc tụng và ngợi ca nhau
Ta đi giữa các ngươi quay cuồng và sự hoảng sợ
mỗi lúc một tăng lên
Như hội giả trang. Và hơn thế
như ngày hộí của những gã phù thủy
cao tay nhất thế gian
Nhưng hơn thế, các người không dùng pháp thuật
và các ngươi không cho phép ngọn đèn nào được tắt
Tất cả đều sáng rõ: tên tuổi các ngươi,
danh phận các ngươi
Cả những hàm răng giả của mình các ngươi
cũng không hề giấu giếm
Đôi lúc các ngươi ngừng ăn, đầu cúi bên cạnh
người khác và gương mặt
Như bày tỏ một lương tâm đang dày vò
Giọng nói các ngươi vang lên quanh ta,
mặt các ngươi lướt quanh ta
Các ngươi đấy nhưng ta không thể nào nhận nổi
Hơn cả trò chơi của quỷ, các ngươi không ẩn trong bóng tối
Các ngươi giả trang bằng chính mặt mình.
Rút từ tập Cây ánh sáng,
NXB Hội Nha Văn 2010
MƯỜI LĂM
Thời tương lai của ngôi nhà
Tôi vẫn thường xuyên trở về ngôi nhà ấy. Đó là ngôi nhà của ông nội tôi. Tôi thường nằm rất lâu trong bóng tối và lắng nghe mọi tiếng động quen thuộc trong ngôi nhà. Tiếng muỗi bay miên man, tiếng mọt và tiếng côn trùng rỉ rả suốt đêm trong những khe tường ẩm mốc. Và lúc nào cũng vậy, như một cơn mơ và như một sự thật, ông nội tôi bước ra từ bóng tối giống một pho tượng khắc chìm trong đá hoa cương đen. Ông nội đến nhìn tôi rất lâu rồi nói: “Ta cám ơn con đã giữ ngôi nhà.”
Năm 11 tuổi, ông tôi bỏ nhà ra đi vì không thể sống với người vợ cả của cụ nội tôi. Ông tôi đến cắt lúa thuê cho một gia đình ở một làng gần đó. Một ngày, những người làng đi chợ qua nhìn thấy ông tôi và bảo: “Cháu về nhà đi. Đừng đi làm thuê nữa.” Để người làng không nhìn thấy mình, ông nội tôi bỏ ra tận thị xã Hà Đông rửa bát thuê cho một hàng cơm. Những người làng đi buôn bán xa ghé ăn cơm nhận ra ông tôi và lại bảo ông tôi hãy trở về làng. Ông tôi lại bỏ hàng cơm ở thị xã và đi xa hơn. Ông tôi đến chăn trâu thuê cho một gia đình địa chủ ở Thái Nguyên. Một ngày có một đám thợ mộc đến làm nhà cho gia đình địa chủ đó. Họ thấy ông tôi còn quá bé mà rất chăm chỉ và có ý chí thì hỏi quê quán. Biết ông tôi là người cùng phủ, họ lại càng yêu quý ông tôi hơn. Huyện Ứng Hòa của tôi trước kia tên gọi là phủ Ứng Thiên thuộc tỉnh Hà Đông. Nghe nói vì dùng chữ “Thiên” phạm thượng nên phải đổi thành Ứng Hòa. Sau khi làm xong ngôi nhà cho gia đình địa chủ ở Thái Nguyên, người phó cả đã lấy tiền công chuộc ông tôi và cho đi theo. Từ đó ông tôi trở thành người giúp việc cho đám thợ mộc đó. Ban ngày, ông phó cả dạy ông tôi làm mộc, ban đêm thì lấy than củi viết chữ nho trên những tấm gỗ dạy ông tôi.
Một ngày giáp Tết, ông phó cả sắm một gánh đầy. Một bên là những dụng cụ làm mộc, một bên là gạo nếp đỗ xanh và bảo: “Con đã theo ta mười một năm rồi. Nghề mộc ta dạy con đã đủ cho con làm nghề. Bây giờ thì con hãy về quê.” Lần ấy, ông tôi không bỏ đi xa hơn nữa. Ông tôi gánh mọi thứ ông phó cả sắm cho và đi bộ ba ngày liền về quê. Ông tôi không về nhà ngay mà đến nhà người cô ruột. Ông tôi sợ cha mình vì tội bỏ nhà tha phương hơn mười năm trời bỏ mặc cha già không người nương tựa nên không dám về ngay. Thấy ông tôi, người cô vừa khóc vừa lạy vì nghĩ ông tôi đã chết nay hồn tìm về. Khi nhận ra ông tôi còn sống, người cô mở cửa cho ông tôi vào. Sáng hôm sau, bà đưa ông tôi về tạ lỗi ông cụ thân sinh.
Trở về được hơn một năm thì cụ thân sinh ông tôi mất, ông tôi bắt đầu cuộc đời của một người thợ mộc. Trong suốt thời gian đi làm mộc thuê cho thiên hạ, ông tôi mơ ước xây được một ngôi nhà. Đêm đêm, trong ngôi nhà tồi tàn như một chiếc lều vịt, ông tôi đã mơ về ngôi nhà của mình. Suốt mười năm đi làm thuê, hầu như ông tôi không lấy công bằng tiền mặt mà chỉ xin chủ nhà cho mình một khúc gỗ dài ngắn khác nhau tùy theo công của mình. Đêm đêm, ông tôi đục đẽo những khúc gỗ thành từng bộ phận của ngôi nhà theo giấc mơ của mình chính xác một cách tuyệt vời. Mười năm sau ông tôi dựng lên ngôi nhà mà người thường mơ thấy cả trong những năm tháng đói nghèo tha phương. Một ngôi nhà gỗ mái ngói bảy gian. Đó là một ngôi nhà rất lớn thời đó. Khi cất nhà (ngày nay ta gọi là khánh thành nhà) người anh thúc bá với anh tôi cầm chiếc ba-toong khệnh khạng bước đến đập vào mái nhà ông tôi và nói: “Chúng bay định xây nhà to hơn người khác à. Rồi chúng bay cũng bán nhà và đi ăn mày thôi. Thớ chúng bay không được ở nhà cao cửa rộng.” Ông tôi không nói một câu gì mà chỉ cầm miếng ngói vỡ cài dưới mái nhà nơi ông tôi nằm ngủ. Ông tôi làm vậy để đêm đêm mỗi khi đi ngủ nhìn thấy miếng ngói vỡ mà nhớ đến lời rủa độc của người anh thúc bá để dù chết cũng không bán ngôi nhà.
Đến tuổi 53 thì ông tôi mất. Trước khi mất ông tôi gọi cha tôi đến, chỉ tay lên viên ngói vỡ và nói với cha tôi dù thế nào không được bán ngôi nhà. Cha tôi chỉ biết quỳ bên mép giường ông tôi ứa nước mắt vâng lời. Ông tôi mất khi cha tôi còn rất trẻ. Tất cả những người đàn ông trong gia đình tôi trước thế hệ cha tôi không ai sống được qua tuổi 53. Vì vậy khi đến tuổi 53, cha tôi đã chuẩn bị cho cuộc ra đi cuối cùng của đời người. Cha tôi gọi tôi đến và kể cho tôi cuộc đời của ông nội tôi. Cha tôi nói với tôi dù cuộc đời có thăng trầm thế nào cũng không được bán ngôi nhà. Nhưng cha tôi đã đi qua tuổi 53. Cha tôi là người đàn ông đầu tiên trong gia đình tôi vượt qua được cái mốc đầy đe dọa mà những người đàn ông của những đời trước trong gia đình tôi không vượt qua được. Năm nay(2007) cha tôi 87 tuổi, nhưng cha tôi không bao giờ làm Thượng thọ ở tuổi 70 và 80 mà những người khác vẫn làm. Cha tôi chỉ tổ chức một ngày lễ cho mình khi ông trong 50 năm tuổi Đảng. Năm nay, cha tôi sẽ nhận huy hiệu 60 năm tuổi Đảng. Ông nói với tôi rằng ông cố gắng sống hết năm nay để tổ chức lễ nhận huy hiệu 60 năm tuổi Đảng. Cha tôi là một trong rất ít những người còn lại của thế hệ Cách mạng Vàng. Đấy là những người cách mạng thực sự chân chính. Những người chỉ biết hiến dâng cuộc đời mình cho hạnh phúc của nhân dân mà không hề mưu cầu chút lợi ích gì cho cá nhân mình. Ông đi làm cách mạng cả đời và về hưu với hai bộ quần áo và một chiếc xe đạp Thống Nhất cũ. Ông trở về quê ngay sau khi cầm quyết định về hưu và sống trong ngôi nhà của ông nội tôi xây.
Vào những năm đất nước đổi mới, làng tôi người ta thi nhau phá những ngôi nhà cũ, có thể gọi là những ngôi nhà cổ, để xây những ngôi nhà hai ba tầng bê tông. Bao nhiêu nhóm thợ đến thuyết phục cha tôi phá ngôi nhà của ông nội tôi để xây một ngôi nhà bê tông vài tầng cho bằng thiên hạ. Nhưng cha tôi đã chối từ. Đã hai lần bom ném xuống cạnh nhà tôi. Tường gạch và ngói bay hết. Nhưng khung nhà với bốn chiếc cột bằng gỗ xoan không hề thay đổi. Nhiều đêm, như trong một cơn mơ, tôi thấy bốn cột gỗ vẫn không ngừng mọc lên cao như bốn cái cây tỏa ra những tán lá khổng lồ. Khi ngôi nhà trở thành chốn linh thiêng của tôi thì mọi điều huyền ảo có thể hiện ra mà chúng ta chẳng phải nghi ngờ chút gì.
Hằng năm, trong ngày giỗ ông nội tôi, lúc nào cha tôi cũng kể lại cho con cháu trong nhà câu chuyện về ông nội tôi và về ngôi nhà ông tôi đã xây lên trong khát vọng và giấc mơ trong những năm tháng nghèo đói của mình. Năm 18 tuổi, tôi dời làng đi học. Lúc đó tôi nghĩ sẽ không trở về làng quê nữa. Tôi chưa đủ mọi điều để nhận ra đâu là chốn tôi phải trở về. Nhưng đến 40 tuổi thì tôi nhận ra rằng tôi phải trở về làng mình. Tôi mơ được sống những năm tháng cuối đời trong ngôi nhà của ông nội tôi và được chết yên bình ở đó, trong căn phòng buổi tối đầy tiếng muỗi bay, tiếng mọt nghiến gỗ và tiếng côn trùng rỉ rả trong những khe tường ẩm mốc.
PHỤ LỤC
Bài thơ:
Văn bản ngoài lễ khấn ông nội
Trong bóng tối huyền diệu
ông nội tôi hiện ra
giống pho tượng khắc chìm
trong đá hoa cương đen
Ngôi nhà đang chuyển động
trong vô tận thời gian
và giọng nói của Người
vang chiếc chìa khóa đồng
rơi xuống những bậc thềm thời gian
giấu chiếc rương đựng bộ gia phả
Trí tưởng tượng của Người
về ngôi nhà không ngừng mở rộng
bốn chiếc cột gỗ mọc cao mãi
dâng lên những mùa lá khổng lồ
Đêm đêm tôi trở về ngôi nhà chưa xây xong của Người
Từ đá hoa cương đen Người bước ra
và nói:
“Con mọc ra ngoài trí tưởng tượng của ta.”
Rút từ tập Cây ánh sáng,
NXB Hội Nhà Văn 2010
MƯỜI SÁU
Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len
Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nhà văn đạt giải Nobel Heinrich Boll ở Ai-len mời đến nghỉ và sáng tác trong ba tuần tại khu nhà này. Đó chính là ngôi nhà mà nhà văn Heinrich Boll đã đến vùng này dựng lên và sáng tác trong một thời gian dài. Tại đây, ông đã viết nhiều tác phẩm quan trọng. Bây giờ, hằng năm Ban lãnh đạo khu nhà này mời một số nhà văn trên thế giới đến đó nghỉ và sáng tác. Và hầu như mỗi lần họ chỉ mời một nhà văn. Trước cổng ngôi nhà có một tấm biển với dòng chữ: Nơi đây đang trú ngụ một nghệ sĩ, xin đừng quấy rầy đến sự suy ngẫm và sáng tạo của họ.
Ngôi nhà nằm dưới chân một dãy đồi bên cạnh bờ biển ở Achill, Ai-len. Đây là lần đầu tiên tôi đến đất nước này. Từ sân bay phải đi ô tô mất năm tiếng mới về đến khu sáng tác đó. Khi đến đó tôi mới nhận ra đó là một vùng đồi. Những quả đồi nối nhau bất tận như không bao giờ hết. Ngôi nhà đầy đủ tiện nghi để một nhà văn có thể sinh sống và làm việc. Phòng ngủ, phòng khách, phòng vẽ, bếp... Trong nhà sáng tác có một chiếc xe đạp để nhà văn có thể dùng làm phương tiện đi lại. Đứng từ sân ngôi nhà nhìn ra chỉ thấy những triền đồi liên tiếp và thi thoảng dưới chân đồi xa xa hiện lên một ngôi nhà nhỏ bé. Hình như nơi này chỉ có đồi, những thảo nguyên cỏ bất tận và gió thổi suốt năm tháng. Một cảm giác cô đơn và hoang vu sẽ tràn ngập lòng tôi nếu tôi không nhìn thấy những đàn cừu lớn đi lang thang trên những triền đồi bất tận. Người quản lý nhà sáng tác nói tôi có thể dùng xe đạp đi xuống những làng gần đó mua thực phẩm và trò chuyện với những người nông dân xứ này. Tôi vừa rời nước Mỹ với những thành phố khổng lồ ngạt thở vì người và xe đến một nơi chỉ có tiếng gió. Đêm đầu tiên tôi sống một mình trong ngôi nhà trên vùng đồi ấy, một cảm giác vừa lo sợ mơ hồ vừa phấn kích ùa vào tôi. Gió từ biển suốt đêm thổi qua những quả đồi và rít trên mái nhà và những ô cửa. Sau gần nửa tháng ở đây, tôi thấy chưa bao giờ gió ngừng thổi. Tôi hỏi một người nông dân già và ông nói từ lúc ông sinh ra và lớn lên trên vùng đồi này cho đến bây giờ gió chưa ngày nào ngừng thổi. Và có lẽ vậy mà trên vùng đồi này tôi không hề nhìn thấy một cái cây lớn nào. Cả vùng đồi là cỏ và hoa dại cùng những thứ cây có thể chịu được gió. Cứ lúc nào bước ra khỏi nhà tôi cũng thấy gió thổi như muốn bứt hết tóc của mình. Trong tiếng gió là tiếng cừu kêu như tiếng trẻ con gọi mẹ. Những người nông dân ở đây không làm chuồng cho cừu. Họ thả cừu suốt năm như vậy trên những vùng đồi. Suốt đêm ấy hình như tôi không ngủ. Tôi ngồi trong chiếc ghế rộng bên lò sưởi lửa cháy suốt đêm. Đã sang đầu tháng Bảy nhưng ở đây vẫn lạnh. Suốt ngày sương mù che khuất những đỉnh đồi cao.
Sáng sau tôi đạp xe xuống phố sớm. Người dân ở đây thấy một người châu Á xuất hiện thấy làm lạ. Vì ở vùng này không có người châu Á nào sinh sống. Tôi nói cho họ biết tôi là nhà thơ từ Việt Nam đến và đang ở tại nhà sáng tác Heinrich Boll thì mọi người ồ lên và kết bạn với tôi ngay. Tôi nói với một người nông dân rằng khi ở Việt Nam tôi có đọc một bài báo viết cứ năm người dân Ai-len thì có một nhà thơ. Họ cười và nói lại rằng cứ năm người Ai-len thì trong đó có một người hoặc là nhà thơ, hoặc là nghệ sĩ hát dân ca, hoặc là họa sĩ. Có lẽ vì thế mà Ai-len chỉ có bốn triệu người thì đã có bốn nhà văn nhận giải Nobel.
Những ngày sau đó, tôi thường lang thang xuống một làng gần đấy để trò chuyện với những người nông dân. Nếu không ai nói họ là nông dân thì tôi cũng khó lòng biết được. Họ sống trong những ngôi nhà nhỏ nhưng đầy đủ tiện nghi và rất hiện đại. Hầu hết nhà nào cũng có xe hơi. Làng có khách sạn cho khách du lịch, có siêu thị và có sân chơi gôn. Mọi làng ở đây đều không có chính quyền thôn hay chính quyền xã. Chỉ có hai thứ mang tính tập thể: đó là nhà thờ và bưu điện. Tất cả cứ thế mà sống theo pháp luật. Những người nông dân ở đây hầu như không cấy trồng gì cả. Thu nhập của họ là từ chăn nuôi cừu và một số gia súc khác. Ngoài ra họ có một nguồn thu nhập không lớn lắm nhưng có lẽ không bao giờ cạn. Đó là đất. Trên những thảo nguyên mênh mông tôi nhìn thấy rất nhiều đống bao tải chất cao. Đó là những bao tải đựng đất để bán. Họ bán đất làm chất đốt trong các lò sưởi để chống lại mùa đông như kéo dài cả năm ở vùng này. Đất của toàn bộ vùng này là đất đen. Một thứ đất đen như than. Đất này là do cây rừng của hàng triệu năm về trước để lại. Tôi vô cùng ngạc nhiên trước sự kỳ lạ lần đầu tiên tôi được biết này. Những người nông dân cứ việc đào đất và phơi khô ngay trên đồng. Chỗ đất mỏng chỉ chừng 40cm. Nhưng chỗ dày có thể đào sâu cả hàng mét cũng chưa hết. Loại đất đen này trải mênh mông gần hết cả vùng phía đông Ai-len. Dù cho cả bốn triệu người Ai-len đào đất bán thì đến trăm đời sau cũng không bán hết đất được. Sau khi đào đất lên, những người nông dân ép lại thành từng thỏi như những khúc củi và bán. Mỗi cân đất khô bán được khoảng một phần ba Euro (khoảng sáu đến bảy ngàn đồng tiền Việt Nam vào thời điểm đó). Đất này cháy rất đượm than và khói có mùi rất dễ chịu. Và trên thứ đất này, người ta rất khó trồng các loại ngũ cốc và rau quả, nhưng cỏ thì lại vô cùng tốt tươi và hoa dại nhiều vô kể. Hình như ở đâu cũng thế, cỏ có thể sống và vươn lên trong mọi khắc nghiệt. Có lẽ vì thế mà các nhà thơ thường ví nhân dân như cỏ, im lặng và bền bỉ, mạnh mẽ và bất tận, mọc lên trên tất cả mọi vương quyền.
Buổi tối, những người nông dân thường tụ tập ở các quán bar. Tôi không hề thấy có bất cứ một quán bar nào ở đây giống các quán bar ở Việt Nam. Những người nông dân đến quán bar uống bia tươi và chơi nhạc. Cả bốn triệu người Ai-len đều có thể hát dân ca và thuộc các câu chuyện cổ tích của xứ sở mình. Những ngôi nhà cổ trong làng đều có lịch sử của nó. Lịch sử của ngôi nhà hầu hết cũng giản dị như chính những ngôi nhà ấy. Nhưng mọi đứa trẻ ở đây đều có thể kể cho tôi về ngôi nhà ấy sinh ra như thế nào và những ai đã sống trong ngôi nhà ấy với những câu chuyện về số phận của họ. Trong các quán bar, những người nông dân uống bia, chơi bi-a và ca hát đến khoảng một giờ sáng. Trời ở đây rất lạ, chỉ thực sự tối lúc 11 giờ đêm. Mười rưỡi tối vẫn có thể xâu kim bên cửa sổ được mà không cần đèn. Mùa đông thì trời tối sớm hơn một chút. Nhưng điều ấy đối với người dân ở đây chẳng quan trọng gì. Họ làm và chơi đến khi nào buồn ngủ thì ngủ, đến khi nào muốn thức dậy thì thức dậy. Họ sống nhàn nhã với công việc, với thi ca, với âm nhạc và với thiên nhiên. Ở đây không có trộm cắp và không ai cần khóa cửa bao giờ, gia súc nuôi cứ thả trên đồng suốt tháng này năm nọ, xe hơi cứ vứt ngoài đường, cửa hiệu bao quanh là những cửa kính mỏng chỉ đập một nhát là có thể chui vào. Thực sự cuộc sống của người dân Ai-len không phải là giàu. Họ là dân một nước trung bình và cũng trải qua không ít chiến tranh. Nhưng họ đã sống như thế.
Lúc này nghĩ đến xứ sở chúng ta, tôi thật sự kinh hãi, cứ hở cái gì là mất, hở quần mất đằng quần, hở áo mất đằng áo, hở xe mất đằng xe, thậm chí hở chó mất đằng chó. Ở đây không có say rượu, không có đánh cãi chửi nhau, không họp hành kiểm điểm và họ được quyền tin những gì họ tin, được quyền yêu những gì họ yêu và chẳng có ai bắt họ phải tin cái này hay yêu cái kia. Mấy hôm trước tôi đến đọc thơ ở thành phố Sligo. Tại phòng chính tại Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật thành phố nơi tôi đọc thơ cả một buổi tối có treo một bức tranh chính. Đó là bức tranh vẽ một con bò sữa. Đối với người dân vùng đó thì con bò là biểu tượng của ấm no và nhân hậu. Con bò quá gần gũi, quá cần thiết với người Ai-len vùng này từ xa xưa. Nó không phải là biểu tượng của tín ngưỡng mà nó chỉ là tình yêu. Họ yêu con bò và họ có quyền đặt con bò lên nơi trang trọng. Họ đã được sống đúng con người họ, họ được mơ những giấc mơ của họ, họ được khóc những nỗi buồn đau của họ.
Có lẽ không ở đâu lại yêu các nhà thơ như người của đất nước này. Sau đêm đọc thơ, tôi được một người bạn đưa đi chơi phố. Chúng tôi tạt vào một xưởng làm tượng gỗ của một nghệ nhân trên phố và tôi vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy tờ quảng cáo đêm thơ của tôi treo bên cạnh những thông tin văn hóa khác. Người nghệ nhân kia chưa bao giờ biết tên tôi, chưa bao giờ đọc thơ tôi, ông chỉ cần biết có một nhà thơ từ xa xôi đến đọc thơ ở thành phố của ông thế là ông hãnh diện và quý trọng. Ông nói với tôi, “Tôi chưa bao giờ đọc thơ anh, hay thế nào, dở thế nào tôi không biết, nhưng tôi tin vào hai chữ ‘nhà thơ’. Hai chữ ấy là chứng minh thư quan trọng nhất của tâm hồn anh.”
Mấy hôm trước, tôi vừa đi thăm một nhà thơ, nhà văn rất nổi tiếng của Ai-len: bà Leland Bardwell. Bà đã hơn bảy mươi tuổi và sống trong một ngôi nhà quá giản dị bên bờ biển. Phòng viết của bà thật giống như một cái bếp của một nhà nghèo ở Việt Nam. Bà đã chuyển từ thành phố về và sống ở đó hơn hai mươi năm nay. Ngôi nhà đó cũng giống như ngôi nhà sáng tác tôi đang ở, lẻ loi giữa một vùng đồi và biển cả mênh mông rất ít khi nhìn thấy bóng người. Chiếc bàn để ngoài vườn tiếp khách của bà là một cái khung gỗ tròn để cuộn dây điện cáp. Tất cả đời sống vật chất và phương tiện của một nhà thơ danh giá chỉ như thế, không một chút ham muốn vật chất hay quyền lực. Và chỉ như thế đất nước này mới sinh ra cho thế giới những nhà thơ vĩ đại.
Và lúc này, dù không muốn thì tôi vẫn phải nghĩ về các nhà văn của xứ sở chúng ta. Nhiều người quá giày vò với vật chất và những thứ quyền lực vô nghĩa. Tôi nhớ mỗi lần đại hội nhà văn toàn quốc là cả một chiến dịch của kiện cáo nhau, vu khống nhau, xu nịnh nhau, chửi rủa nhau, có nhà văn viết bài với bút danh khác tự ca ngợi chính bản thân mình, rồi họ nhóm họp nhau để bày đặt các kế hoạch làm sao trở thành uỷ viên Ban chấp hành. Tại sao những người mang danh nhà văn, nhà thơ lại có thể điên rồ với thứ quyền lực này? Ôi, thật nực cười và thật cay đắng. Có lẽ đó chính là lí do mà nền văn chương xứ sở chúng ta kém cỏi như vậy. Một dân tộc có một số phận lớn và đầy bi thương nhưng không có nhiều tác phẩm hiện đại nào chúng ta cúi đầu chiêm ngưỡng. Xin các nhà văn chúng ta đừng tiếp tục ảo tưởng về những gì chúng ta đã viết ra suốt hơn nửa thế kỷ nay. Xin các nhà văn hãy mau mau tỉnh khỏi cơn mộng mị về sự vĩ đại của mình để nhìn thấy sự yếu và thấp của mình. Để chúng ta bắt đầu với những bước đi đầu tiên về sự sáng tạo và tự do. Để một ngày nào đó, một nhà văn Việt Nam trong tương lai xuất hiện và viết những trang sách lộng lẫy và bi tráng về xứ sở chúng ta và chữa nỗi hổ thẹn cho văn học chúng ta. Tôi nói vậy sẽ có không ít các nhà văn sẽ nguyền rủa và căm thù tôi. Hãy nguyền rủa và căm thù tôi để rồi sau đó lặng lẽ ngồi xuống đọc lại những gì mình viết và suy ngẫm thực lòng về nó. Hãy làm điều đó, các anh, các chị và cá nhân tôi, những người đã bị thời gian bỏ quên hình như đã lâu lắm rồi.
Đêm nay, tôi lại ngồi im lặng bên lò sưởi trong ngôi nhà của Heinrich Boll. Xung quanh tôi chỉ có những quả đồi xứ Ai-len bất tận, chỉ có tiếng gió thổi suốt đêm từ biển cả vào, chỉ có mình tôi. Và trong tiếng gió vẳng lên như từ xa xôi tiếng cừu kêu đêm nghe như tiếng trẻ gọi mẹ. Đây là lần đầu tiên tôi sống trong khung cảnh này. Tôi có cảm giác như mình đang sống trên phần đất cuối cùng của thế gian và chỉ cần đi qua bên kia dãy đồi là đến một thế giới khác. Tôi phải cám ơn số phận đã cho tôi được đi qua những năm tháng có đau đớn, có hạnh phúc, có buồn bã, có mệt mỏi và được sống ở nơi đầy sự hoang vắng tưởng như vô tận này. Có những buổi chiều tôi lang thang trên vùng đồi giống như chàng Robinson xưa. Và trên khắp vùng đồi kia bạt ngàn hoa dại nở. Có thể có những bông hoa mà chưa ai nhìn thấy bao giờ. Nhưng nó vẫn nở. Nở cả mấy triệu năm nay trong im lặng và cô độc. Nó nở không phải để cho ai trầm trồ về vẻ đẹp của nó. Nó nở như tự thân nó phải sinh ra như vậy và kiêu hãnh như vậy dưới trời xanh vô tận kia. Nếu nó chỉ nở với mục đích để cho người khác nhìn thấy mà cúi đầu trước nó thì nó đã tàn lụi từ lâu rồi. Bởi nó không đủ kiên nhẫn để đợi trong mấy triệu năm cho tôi hay ai đó một chiều như chiều nao nhìn thấy nó và cúi đầu chiêm ngưỡng. Và tôi chợt nghĩ về số kiếp bé bỏng hình như chẳng có ý nghĩa gì của tôi trên thế gian này. Tôi đang sống không có ai biết đến những ngày ở vùng đồi mênh mông này. Những ngày không thù hận, không đố kỵ, không nguyền rủa, oán trách, không hơn thiệt. Nhưng có một điều tôi nhận thấy rất rõ, khi tôi đứng trên đỉnh đồi một mình với hoa cỏ, với gió, với trời xanh thì lòng tôi dâng lên niềm kiêu hãnh vô cùng vì đã được sinh ra trên thế gian này để được nhìn thấy một bông hoa dại mọc như mơ hồ dưới những lá cỏ mà không ai nhìn thấy và cũng có thể họ không cần nhìn thấy. Và tôi tự hát chỉ mình tôi nghe thấy về sự sinh ra, về sự hiện diện của tôi và của bông hoa dại kia.
Nguyễn Quang Thiều
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...