Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2025

Miệt quê

Miệt quê

Mùa thu hoạch mía vui lắm. Thường thì bà con đốn mía giằng công nhau chứ không làm mướn, mà chỉ ăn cơm trưa. Người Bến Tre nhiều gia đình tuy nghèo, nhưng bữa ăn cho công làm ngon và nhiều món ăn gần như đám giỗ. Trước và sau bữa ăn đều có bình trà nóng luôn bánh mứt. Chiều nghỉ, cánh đàn ông còn được chủ nhà bày nhậu lai rai đến xẩm tối mới về. 
Trước sân nhà cây so đũa gốc bằng bắp chân người lớn ra nhiều bông trắng muốt chúc cánh xuống đất. Nước lớn lúc nửa đêm. Con đường nhỏ trước sân nhà còn sền sệt ướt, đôi ba chỗ đọng nước. Trời lạnh, gió chướng phân phất từng cơn sau vách nhà. Ông Mười Thinh xách bình trà xuống bếp châm thêm nước sôi. Quay lên, ông không rót nước ra cốc mà để bình trà vào quả dừa khô rỗng ruột úp nắp ủ nóng. Ông Mười Thinh ngồi xuống chiếc ghế đẩu, hai tay để trên mặt bàn tròn lặng lẽ nhìn ra sân. Ông lẩm bẩm: “Mười mấy học mía trồng dặm cả tuần nay. Nước lớn như rày chắc bị ngập chết ráo còn gì?”.
Nhà ông có 4 bờ mía mít trồng gần kênh Rạch Lá. Trước đó, đây là 2 công ruộng để cấy lúa mùa. Nhưng vì bị vịt người ta thả đồng thường vào lội nát lúa nên cha con ông lên bờ trồng mía. Dưới các lòng mương cha con ông Mười Thinh thả cây, thả chà nhử cá tép ngoài kênh rạch vào ở. Hằng năm, cứ vào độ tháng 10 âm lịch là cha con ông kêu công phụ đốn mía. Tính ra thu nhập 4 bờ mía cả năm cao gần hai lần cấy lúa lại không mất công làm cỏ, bỏ phân nhiều. Gần kênh nước vô sớm nên lượng bùn thừa sức bồi bổ mía phát triển. Mỗi bờ mía dài gần 20 tầm đất. Bốn bờ mía mít cây bằng cán phảng, cán dao mác, to hơn cổ tay người lớn, lóng mía bóng, mum múp chồi kín hộc. Những khi rãnh, Ái Thanh lại xách gàu ra bồi bùn thêm vào các hộc mía. Bùn nhão nhoẹt, cô múc đầy nhóc gàu, đứng lên, khum xuống, tay trái cầm vào ngáng cây, tay phải cầm cán vụt lia lên, bùn trong gàu tuột ra xa hơn tầm đất vào các rãnh giữa những hàng mía. Giáp bờ, cô nhảy lên khỏa bùn, bàn chân gạt nhẹ bùn lấp vào gốc mía.
Mùa thu hoạch mía vui lắm. Thường thì bà con đốn mía giằng công nhau chứ không làm mướn, mà chỉ ăn cơm trưa. Người Bến Tre nhiều gia đình tuy nghèo, nhưng bữa ăn cho công làm ngon và nhiều món ăn gần như đám giỗ. Trước và sau bữa ăn đều có bình trà nóng luôn bánh mứt. Chiều nghỉ, cánh đàn ông còn được chủ nhà bày nhậu lai rai đến xẩm tối mới về. Có người làm mệt, không lượng sức lại ham uống rượu nhiều và không ăn chén cơm nào lót bụng, nên khi về qua cây cầu dừa, cầu khỉ bước chân không vững trượt chân rơi xuống rạch. Còn có ông không chịu lên, ngồi lỳ thiếp đi vì say quá. Nên khi con nước đứng, chị em đi mò cá tép, đến đó phát hiện mới lên bờ kêu người nhà đến đưa về.
Bốn bờ mía lứa đốn được gần 20 tấn. Sát kênh, ghe của nhà che đậu sát. Mía đốn bó lại hai đầu, gốc, ngọn, dây bó cũng bằng đọt mía, để đống chuyền lên ghe chở về cho chủ nhà che cân. Không thì mía ép lấy đường thùng hay quay đường cát tinh mang về nhà cất, đợi khi giao mùa, đường, mật có giá chở lên thị xã Bến Tre bán.
Cha con ông Mười Thinh tiếc đứt ruột. Mía đốn xong vụ đầu gốc lên mầm lại. Nhiều mầm mía được bốn, năm lóng lá to đọt xanh mướt. Cứ vài ngày ông Mười Thinh lội ra mấy bờ mía thăm chừng. Con chó luốc lót tót theo sau ông. Ông Mười Thinh đi một vòng quanh 4 bờ mía, cảm giác như thấy lá xanh rung rinh theo gió thầm thỉ. Ông nghe tiếng xôn xao của đồng quê, của con người qua bao thế hệ giữ đất, giữ làng, ngã xuống, đứng lên trên vùng quê kháng chiến này. Trong đó, có vợ ông bị một miểng pháo ghim vào ngực trái và hai đứa cháu nội chăn bò thấy trái M.79 lấy gõ chơi phát nổ.
Ba ngày trước, một trái đạn 105 ly của địch bắn nổ ngay giữa bờ mía ngoài cùng. Mấy hộc mía đang lên xanh bị pháo địch xới lên bùn đất ngổn ngang. Mía trơ gốc lòi rễ trắng mốc. Cha con ông Mười Thinh lấp đất đặt hom mía lại thì gặp nước lớn ngay mùa gió chướng. Mía vừa lên bị nước chụp nằm đơ lại ngọn đỏ hoẹt.
Con chó luốc nằm cạnh chân ông, nó quen hơi chủ không muốn vắng một giây nào. Kể cả khi ông Mười Thinh đến nhà hàng xóm nói chuyện hoặc với công việc nào đó. Ông bảo nó nằm ở sân trông chừng nhà. Nó ngoắt đuôi nghiêng nghiêng đầu nhìn chủ với đôi mắt thân thiện. Bảo vậy, nhưng có bao giờ con chó luốc ở nhà một mình. Ông Mười Thinh đi trước, con chó luốc theo sau. Ra ngõ, nó chạy lên trước như một “trinh sát” dò đường cho ông.
***
Khoảng 2 giờ sáng, nước bắt đầu ròng, Ái Thanh thức dậy ra sau vách bếp lấy xoong và rổ xúc đi mò bắt cá tép. Hôm nay cô đi một mình không rủ bạn theo. Đêm tháng 10, nhìn trời đầy sao, đường đi không tối lắm nên Ái Thanh không cầm theo đuốc lá dừa. Đến rạch Cầu Dừa, Ái Thanh thắt hai mí áo vào nhau ở bụng. Cô bước xuống rạch, nước đang đứng. Khoảng gần hai giờ sau nước mới lớn lại. Cô ngồi xuống, nước ngang bụng, thoạt đầu trong người nghe lạnh, sau mới ấm dần. Ái Thanh lần mò, hai bàn tay nhẹ đưa trong nước úp hờ lên đáy rạch, mặt bùn, hốc bờ, hốc hở giữa những bục lá dừa nước. Gặp cá, tép búng trong tay nhanh nhách, Ái Thanh ép hai bàn tay xuống bùn bụm lại bắt bỏ vào xoong. Trên mặt xoong buộc sẳn cái rế dày có lổ để cá, tép vào xoong. Nếu mò trúng cá to hay cua biển, cô phải mở miệng rế một bên để bỏ vào rồi buộc lại
Trừ những đêm ở lại căn cứ du kích xã, hễ về nhà là đêm Ái Thanh đi mò, xúc kiếm cá tép cho bữa ăn trong ngày. Có hôm cô đi với mấy cô bạn gần nhà. Có hôm chỉ đi một mình vì rủ không có ai. Có bạn đỡ buồn và ít lạnh lẽo, nhất là đến chỗ Trạm quân y dã chiến của Huyện đội trước đây đóng tại cây Cầu Dừa. Lần đầu còn ngại và sợ, sau mấy lần đi mò đến chỗ này Ái Thanh cũng thấy bình thường. Lạ thay, khi đến khu vực cây Cầu Dừa chỗ Trạm quân y dã chiến lại mò trúng cá tôm to, đôi khi bắt được cả cua biển di trú về kênh rạch.
Dù Ái Thanh dậy rất nhẹ nhưng ông Mười Thinh vẫn biết. Nhìn con thức đêm để kiếm thức ăn, ông Mười Thinh cũng thức luôn thể. Ông ngồi đến sáng đợi con gái về. Thường là ông bắc ấm nước nóng cho con pha tắm đỡ lạnh, hay nước đun sôi pha trà cho vào ly ngâm chín lát gừng tươi mỏng. Ông ngồi tẩn mẩn làm từng con cá lòng tong, để Ái Thanh tắm rửa rồi trở lại cứ. Nhìn xoong cá ngon đến tận mắt, nào cá bống cát, bống sệ, cá lòng tong con bằng ngón tay cái, tép bạc đất, tôm càng xanh, lại có cả con cua biển dễ cũng được mấy trăm gờ-ram. Sáng sớm, Ái Thanh lấy một nửa mớ cá tép, trong đó có con cua biển, tôm càng xanh vào chợ Cái Lớn bán mua thêm mỡ heo, bột ngọt, nước mắm. Mua thêm trà, thuốc lá cho ông Mười Thinh. Tới hàng rau, Ái Thanh mua giá đỗ, rau sống, về nhà hái thêm bông so đũa, lá dấm nấu canh chua với tép bạc đất.
Ái Thanh vào sạp bán áo quần mua cho cha mình cái áo ấm. Bà chủ sạp áo quần thấy Ái Thanh đã vồn vã hỏi thăm:
-Con đi chợ…? Cậu Mười có mạnh giỏi hông con? Trời, con nhỏ ngày càng đẹp gái. Có chỗ nào gạ hỏi chưa con? Cô còn thằng Út đó. Con chịu hông …?
Bà chủ sạp áo quần cười tươi. Nước da trắng, khuôn mặt bà trẻ hẳn sau lớp kem phấn và đôi môi đỏ mọng, dù rằng bà đã ngoài tuổi 50.
– Dạ, con chưa có ai chịu vì nhà nghèo mà cô – Ái Thanh cười.
– Chiến tranh tính gì tới chuyện nghèo với giàu con.
– Dạ. Con cảm ơn cô! Cô bán cho con cái áo ấm cho cha con mặc. Mùa này thường có gió chướng trời hay lạnh, nhất là vào ban đêm và sáng sớm, cha con thì già yếu.
– Ờ, phải rồi, để cô lấy cho cậu Mười cái áo này. Áo mặc lạnh cổ cao, tay áo dài nhưng gài nút như kiểu áo bà ba, cậu Mười Thinh mặc hợp.
– Áo đó được. Mấy tiền cô…?
– Cô lấy 5.000 đồng thôi, một nửa tiền còn lại cho cậu Mười. Tội nghiệp, mợ Mười mất, nhà chỉ còn hai cha con.
– Dạ, con cảm ơn cô nhiều.
– Ờ…
Qua đoạn đường cái vào chợ, Ái Thanh mới lột dép xách tay. Con đường rẽ vào xẻo nhà dân nơi Ái Thanh ở đường bờ thấp thường ngập mỗi khi nước lớn. Ái Thanh xắn quần, tay xách dép chân bấm trên đất lầy nhẫy. Qua cây cầu dừa trơn trợt do người qua lại dính bùn đất ướt. Cây dừa lão được hạ xuống cắt bớt phần ngọn còn lại để nguyên bắc cầu. Theo Ái Thanh biết cây cầu dừa đã có từ 20 năm. Nghĩa là người ta bắc cây cầu này trước khi Ái Thanh chào đời. Nó như một nhân chứng thời cuộc và cảm nhận được nhiều điều tốt, xấu. Khi ai đó đi nhậu về đứng trên cầu… tè. Có nhiều ông đi nhậu về say xỉn rớt mương, khi bước sụt bước tới trên cây cầu dừa này… Ái Thanh cẩn thận bước, 10 ngón chân cong xuống bấm trên cây cầu, hai ngón cái hơi rộng ra tỳ chắc qua từng mức bẹ cây dừa. Nan giải nhất là mấy cây cầu khỉ làm bằng cây mù u tươi. Mặc dù đã có tay vịn nhưng những chàng lính miền Trung, miền Bắc vẫn trượt chân rớt xuống kênh, rạch là chuyện thường.
Ái Thanh về đến nhà gần 9 giờ. Ông Mười Thinh đã nạo xong trái dừa khô và hái bông so đũa, lá dấm rửa cho vào rổ sẳn.
– Cha nghỉ đi để đó con làm cho. Hôm nay con gái của cha sẽ làm hai món mà cha thích nhất. Đó là canh chua bông so đũa nấu với tép bạc đất lột vỏ và cá bống cát um gần chín cho nước cốt dừa vào. Con có mua cho cha lít rượu ngon. Chút nữa ăn cơm cha nhâm nhi cho ngon miệng. Cái áo lạnh con mua sáng nay vắt đầu giường của cha. Đêm và sáng sớm cha nhớ mặc vào cho đỡ lạnh. Từ đây tới Tết gió chướng, gió bấc nhiều…
Ông Mười Thinh âu yếm nhìn con gái. Cả tuần nay ông mới ngồi ăn cơm với con. Ông thấy lòng se lại thương con vô hạn. Ngoài sân, bóng nắng trải vàng. Gần trưa, bông so đũa sáng lên màu trắng biếc điểm tím phần chóp bông lung lay trong gió. Trước ruộng, mấy con cò trắng vục đầu trong mặt nước lăn tăn.
Giữa trưa, Ái Thanh không nghỉ. Vừa đi công tác về cô lại tranh thủ làm cỏ ruộng để chuẩn bị cấy lúa mùa. Nước đang rút phải làm nhanh mới kịp. Cái lưỡi liềm bẻ cong cày mặt bùn mới lấy hết bụi cỏ sống dai như đĩa. Thứ giống cỏ mà dân ở đây thường gọi cỏ sông chằng nước mặn. Gió chướng mạnh càng đẩy nước mặn từ biển vào càng nhanh. Có đợt nước mặn đẩy xa hàng chục cây số hòa dòng Hàm Luông bọc lên tới thị xã Bến Tre chạm vào sông Tiền. Nước biển dâng tới đâu con người cực tới đó. Vật nuôi cũng chịu cực lây với người. Cực vì sinh hoạt, tưới tắm, ăn uống phải xài nước lợ. Hết nước mưa chứa vào các máy, chum, lu thì cũng phải dùng nước sông thôi. Nước mặn đến đâu vạn vật cây cỏ hoa màu, cây ăn trái, cây lương thực đều bị ảnh hưởng, bị còi cọc. Thương nhất là cây dừa hoa trái khựng lại vì nước sông nhiễm mặn.
Nước chưa vào ruộng nhiều, mới lấp xấp vẫn còn thấy đám cỏ sông chằng nước mặn trước mặt. Ái Thanh lết theo từng bụi cỏ mọc sát bùn ấn lưỡi liềm cắt ngọt. Thứ giống cỏ chết tiệt này phải bứng hết rễ cây lúa mới phát triển. Thời đó khác với một số tỉnh thuộc miền Tây Nam bộ, nhà nông làm ruộng ở quê hương Bến Tre Đồng Khởi truyền thống cấy lúa miệt đồng gò hay ruộng gần kênh rạch vẫn dùng nọc. Ruộng ở đây ít bùn và có phần chai đất hơn do nước từ kênh rạch lên xuống mỗi ngày. Nên mới cấy lúa bằng nọc cho thân mạ chắc rễ ăn sâu mới trụ lại con nước lớn ròng. Nọc cấy lúa thường làm bằng thứ gỗ cứng, như cây mù u, cây quao… Cây nọc cấy lúa thường đẽo tròn, có cán như cái ngạnh phần giữa có eo nắm mạ. Cây nọc và mạ đều ở bàn tay phải. Nọc cấy lúa từ cán xuống dài hơn.
Cái quần đen bê bết bùn lấm lên cả ngực áo màu tím than cô mặc. Cô đứng dậy ôm đống cỏ đầy nhóc bùn bỏ lên cái mo cau, hai tay cầm chặt đầu cuống gò lưng kéo. Cái mo cau như chiếc xuồng bé tẹo trượt trên mặt ruộng xuôi xuống kênh tạo vệt láng dài. Đến nơi, cô lộn ngược mo cau lại, bùn, cỏ lô nhô thành bờ, thành lũy phần nào cũng hạn chế nước từ rạch vào. Ái Thanh cởi chiếc khăn rằn bịt kín mặt và mở hai bím tóc vo tròn trong ống kẹp, xách lưỡi liềm bước xuống kênh băm trên bục lá. Từ từ ngồi xuống, nước thấm lưng quần, ngập đầu, cô ngụp lặn trong làn nước bàng bạc, trồi lên tay vịn bục lá. Tàu lá dừa nước ngã ra giữa rạch khẽ đung đưa.
Chừng ít phút, Ái Thanh bước lên bờ, áo quần ướt bết vào thân hình nổi lên hai bầu vú căng gọn. Cô cúi mặt nhìn hai núm vú như hai nhũ đầu quả cau màu hồng nhạt, đưa hai tay nâng hai bầu vú khẽ rung cho rũ nước bớt rồi nắm hai nhũ áo kéo ra để lớp áo ít bó sát. Ái Thanh bước lên bờ ruộng, đưa tay vuốt mái tóc ra sau. Cô cúi lấy lưỡi liềm, tay trái cầm hai vạt áo kéo lên. Nước chảy ròng từ áo quần xuống ướt theo dấu chân của cô vào vườn.
Một đêm trăng sáng. Lê Hoàng xuống phụ Ái Thanh cắt lúa. Anh theo sau gom lúa lên bờ vác về nhà. Vác lúa mùa, dài bông nặng trĩu xuống lưng áo anh sẫm ướt mồ hôi. Tiếng liềm cắt gốc lúa nghe xoèn xoẹt trong đêm. Từng mớ lúa chồng lên trải dài ngang theo người cắt. Trăng lên cao sáng mặt ruộng ngời lên bông lúa ken dày. Gốc rạ trơ trên mặt ruộng xâm xấp nước.
Ái Thanh ngưng liềm bước lại bờ nghỉ hơi cũng vừa lúc Lê Hoàng ra. Anh để thau khoai lang xuống:
– Khoai lang cha nấu chín nói mình nghỉ vào nhà ăn. Anh mang ra ruộng khỏi vào nhà rồi lại mất công quay ra.
– Khi Ái Thanh ra ruộng lội xuống cắt lúa rộng chừng 3 tấm đệm thì Lê Hoàng vừa từ trong cứ xuống tới. Ái Thanh ngại. “Anh không ở trển công tác, lỡ có công chuyện đột xuất thì ai thay thế?”. “Anh xin phép thủ trưởng rồi, em yên tâm. Vả lại một sào rưỡi lúa chín này em cắt rồi gom lại đưa vào nhà có mà tới sáng”. Ái Thanh cười, nhìn Lê Hoàng có đôi mắt nhân hậu. Đôi mắt đàn ông đàn ang mà như con gái vậy toàn thấy tròng đen, dìu dịu. Vậy mà anh đã là dũng sỹ diệt hạm địch tại vàm Hàm Luông… “Em ngại gì mà không cho anh biết để phụ. Chúng mình cũng như người trong một nhà. Tranh thủ làm nhanh để em còn về tổ nữ du kích xã. Mấy chị em đêm qua đi tải đạn bên cầu Cá Tra rồi, chiều nay chắc là về tới”. “Vậy à? Sao mấy chị không cho em biết, chắc là sợ em lo lắng rồi bỏ công việc nhà”. “Cha em thì ốm yếu làm sao làm nổi. Mấy chị nói đêm có trăng xuống phụ em đập lúa”. “Vậy nói để cha đóng thêm bồ đập lúa. Em cũng nôn lắm, trông riết làm nhanh để còn về cứ”.
Ái Thanh ngồi bên Lê Hoàng. Cô đưa nhẹ bàn tay ngược lên lưng áo anh. Chiếc áo ướt nhẹp mồ hôi. Hình như lưng áo bị rách? Mấy ngón tay cô co lại chạm vào làn da ướt. Ái Thanh ái ngại nhìn Lê Hoàng. Lưng áo anh bị rách mà không đưa cho em vá. Cha có một cái áo rộng lắm chắc là anh mặc vừa. Lâu nay ông không mặc để em mượn cho anh mặc đỡ. Còn cái áo này để lại em giặt phơi khô rồi vá lại để anh mặc lao động.
Ái Thanh nhìn anh. Cô thương Lê Hoàng chịu khó, chịu làm. Có lần đó, cô đang phát gốc rạ để dọn ruộng chuẩn bị cấy lúa mùa. Đứng trên bờ Lê Hoàng nhìn Ái Thanh làm. Cây phảng trên tay cô phát bập vào mặt ruộng đều đặn từng chém một, gốc rạ đứt ngọt nằm rạp xuống gần như thẳng lối. Tay trái cô cầm cây cù nèo móc rạ ra sau cho trống chỗ để phát. Lê Hoàng chăm chú đứng nhìn. Anh để tâm quan sát động tác của Ái Thanh làm. Hẳn là anh chàng lính đặc công quê Quảng Bình muốn tập làm lắm. Lê Hoàng cởi áo ngoài bỏ trên bờ xắn quần lội xuống ruộng. “Em để anh thử làm xem có được không?”. Ái Thanh cười – một nụ cười nhân từ dung chứa cảm xúc. Cô trao cây phảng và cây cù nèo cho Lê Hoàng rồi ra sau đứng nhìn. Lê Hoàng vung tay, lưỡi và sống lưng phảng bập bằng xuống ruộng, tiếng bẹt bẹt bùn văng lên dính cả người cả mặt anh. Bất giác Lê Hoàng bỏ phảng, bàn tay phải bưng mắt chạy xuống kênh.
– Bùn văng vào mắt phải anh rồi em ơi!
– Anh xuống kênh mở mắt cho bùn ra nghen. Để em coi…
– Ái Thanh cầm tay Lê Hoàng đi xuống kênh. Anh ngụp đầu vào nước căng mắt nín thở, lên xuống mấy lần. Ái Thanh tới đứng bên dùng hai ngón tay trỏ của mình kéo mí mắt Lê Hoàng xem còn bùn không. Hết rồi anh. Thấy vậy chứ mắt mình nhanh lắm, chớp một cái là nhắm lại liền. Lê Hoàng choàng tay ôm hông Ái Thanh. Cô đứng lặng. Quầng nước chao động ngang ngực. Trong màu nước bàng bạc, mờ tỏ phần thân thể hai người.
Sau lần đó, Lê Hoàng được Ái Thanh hướng dẫn tay cầm cán phảng vung ra vừa phải. Lưỡi phảng hơi nghiêng xuống phạt trên mặt ruộng cỏ rạ đứt ngọt. Lê Hoàng không để lưỡi phảng nằm bẹt xuống bùn. Đến cuốc đất đắp bờ, lên liếp trồng cà chua, đậu bắp, trồng khoai lang. Lần đầu cầm cuốc cán ngắn. Lưỡi cuốc lớn hơn cái quạt mo không thẳng mà hơi hơi khum lưỡi vào rất ngộ. Khác ngoài quê anh, toàn dùng lưỡi cuốc “con gà”. Gọi cuốc “con gà” vì ở trong lưỡi cuốc có hình con gà trống đúc luôn vào thép cuốc. Lưỡi cuốc gần như hình chữ nhật có sống gân chịu giữa hai phần lưỡi cuốc trở lên lỗ đai để tra cán. Cuốc “con gà” của Trung Quốc làm bằng thép nên rất cứng. Cuốc lên sỏi đá lưỡi chẳng si nhê gì.
Ở Bến Tre gọi là cuốc tai tượng, lúc đầu Lê Hoàng nhìn lưỡi cuốc và cán ngắn ngũn thì nghĩ chắc rất khó làm. Sợ nhất cuốc gốc mía lưỡi trượt vào chân. Vì lưỡi cuốc bén và được đúc rèn bằng thép hoặc từ mảnh bom pháo. Thấy vậy nhưng khi làm quen cuốc vụt đất rất có thế. Một tay nắm gần chỗ đai cuốc, một tay nắm gần trên đầu cán. Hai chân hơi chạng ra cuốc đất lát nào cũng đầy nhóc lưỡi cuốc vậy mà giụt hất xa mấy mét vẫn thấy nhẹ. Người Bến Tre vẫn dùng cuốc tai tượng để cho đất vào gốc mía, lên liếp trồng hàng bông, trồng hoa màu, đắp bờ mương, khai vũng… Lê Hoàng đều làm được các dụng cụ của người dân nơi đây trong làm ruộng, làm vườn. Cả việc anh lấy bùn bằng len ống để khai sâu mương vũng chỗ đậu ghe xuồng, hay dùng gàu xúc bùn bồi mía, bồi bờ dừa…
Gió chướng thổi ràn rạt trên rặng dừa nước. Mấy tàu dừa đung đưa quẹt trên mái lá nghe xào xạc. Đã quá nửa đêm Ái Thanh vẫn chưa về. Ông Mười Thinh lo lắng. “Giấc này con nhỏ vẫn chưa thấy dìa!”. Ông Mười Thinh lẩm bẩm, thờ dài. Từ hôm con vào đội du kích xã, ông Mười Thinh lớp mừng lớp lo. Mừng vì thấy con gái trưởng thành và mạnh mẽ hơn trước nhiều. Mừng là con ông được học hành thêm và biết nhiều điều mới qua tổ chức, qua các anh chị em trong đội. Tuy vậy ông vẫn thấy canh cánh trong lòng khi mỗi lần Ái Thanh đi công tác, rồi tham gia chống càn. Vợ mất sớm, nhà chỉ có hai cha con cui cút với nhau. Vắng con ông ngồi ăn cơm một mình, có khi nuốt không nổi cơm nước mắt ứ nghẹn.
Ông Mười Thinh vẫn ngồi đó nãy giờ. Bóng ông gầy in lên vách lá chằm lung lay. Ngoài vườn vẫn im phắc, chỉ nghe tiếng gió ù ù, lào xào trên những ngọn dừa. Ông đi lại bàn thờ vặn tim đèn dầu cao hơn, bóng sáng lờ mờ hắt ra sân nơi để cửa hé mở chờ con gái về. Ông Mười Thinh bước ra sân. Con chó luốc ra theo và vểnh tai nghe ngóng. Bỗng nó vẫy đuôi phóng ra bờ mương sau vườn. “Con Ái Thanh dìa…”. Ông Mười Thinh cảm thấy nhẹ lòng.
Ái Thanh bước xuống cầu nước. Cô dạo dạo chân cho trôi bớt bùn rồi cất tiếng:
– Giờ này cha vẫn chưa ngủ. Con đi biết giấc nào dìa mà cha đợi.
– Ngủ gì được con. Thấy con lâu dìa, cha lo.
– Việc cách mạng giao thì mình ráng hoàn thành. Cha không nghĩ ngợi lo lắng nhiều mà hại sức khỏe. Cạnh con còn có các chú các anh chị du kích xã cha ạ.
– Ừ. Con tắm xong rồi vào ăn cơm. Để cha hâm thức ăn lại…
Nói vậy, nhưng ông Mười Thinh vẫn lo. Ông chỉ mình cổ lỡ nay mai có bề gì thì ai hôm sớm bên ông khi tối lửa tắt đền, khi ốm đau gió máy. Ngoài 60 tuổi ông còn gì sợ chết. Ông chỉ lo cho con gái còn quá trẻ. Hai năm vào du kích xã, con gái ông được kết nạp vào Đoàn Thanh niên, được học thêm văn hóa. Nó cũng sáng dạ, giờ đọc được các tin tức trên Báo Quân giải phóng, Báo Đồng Khởi…
Ông xuống bếp rút nắm lá dừa bắc lại ấm nước. Cắt mấy lát gừng tươi cho vào chén. Nước sôi, ông cho vào nửa chén nước bưng lên bàn. “Bớt nóng con uống vào cho ấm. Trà gừng tốt cho cơ thể nhất là với người ngâm mình trong nước nhiều giờ”. “Cha để đó tý con uống. Cha vào ngủ đi gần sáng rồi đó!”.
Ông Mười Thinh lên giường, thả mùng. Ái Thanh hớp ngụm trà gừng cô thấy hơi ấm ở họng lan xuống dạ dày. Bên ngoài, gió thổi từng đợt ù ù tấp vào vách lá. Mấy cây dừa trước sân lá chao đảo như những cánh tay người khổng lồ đang sải bơi trong đêm. Ái Thanh nhớ tới Lê Hoàng, chàng trung sĩ bộ đội đặc công thủy bộ trong đêm văn nghệ giữa đội du kích xã và đại đội đặc công tỉnh Bến Tre tuần trước. Anh mời cô lên ca chung bài hát “Qua sông” của nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn. Trời ạ, lạ là ở chỗ giọng nói của anh nghe nặng là rặt miệt quê người Quảng Bình, thế nhưng khi ca không có, âm điệu và dấu hỏi, nặng rất rõ ràng. Tiếng hát của chàng trai xứ sở gió Lào cát trắng với giọng ca của cô du kích trẻ quê hương Đồng Khởi hòa vào nhau nghe ấm áp nồng nàn.
Hò khoan, chúng em đưa mái chèo
Đưa các anh qua dòng sông lạnh lẽo…
Hàng tràng vỗ tay rầm rập của bộ đội, du kích theo nhịp hát của tổ nữ du kích xã. Sau buổi giao lưu văn nghệ của hai đơn vị. Lê Hoàng tiễn Ái Thanh một đoạn đường về lán du kích nữ. Không khí đêm văn nghệ vẫn tràn dâng niềm cảm xúc trong hai người.
Ái Thanh tiễn người yêu ra đường về lán trại đặc công. Lê Hoàng cầm tay cô lặng lẽ bước. Hai người im lặng khác những lần trước đây gặp nhau là vồn vã hỏi chuyện, tươi cười. Thời gian chỉ còn hai tiếng nữa trận đánh Chi khu Châu Bình mở màn. Lê Hoàng nhận nhiệm vụ đi trinh sát trước và đặt hỏa công vào các điểm đã chọn. Có thể vì thế mà những giây phút hiếm hoi với người yêu anh không tâm sự được nhiều. Sự hoan ca dục ngôn nòng cháy thắm thiết trên thân hình cả hai đêm nay đều vô nghĩa. Chỉ còn lại trận đánh tới sắp bắt đầu… Hai người đứng lại. Màn trời bàng bạc như khoác chiếc áo màu sương mỏng. Cảm giác như đang có từng hạt nước nhẹ bay đậu trên mái tóc hai người. Hướng biển Ba Tri ngời lên ánh trăng mùng 9 óng ánh trên tàu lá dừa. Ái Thanh ngước mắt nhìn lên bầu trời cao xanh. Cô thốt lên:
-Đêm nay sao trời nhiều mây quá anh. Như ai đó tung lên ngàn đám bông gòn màu bạc. Từng vệt mây nối nhau lãng đãng trôi qua vạn tia sao nhấp nháy huyền ảo…
Lê Hoàng nắm chặt hơn bàn tay Ái Thanh. Anh hỏi?
Em thấy lạnh không? Gió bắt đầu lớn hơn. Trăng lên gió lên theo… Em nhìn kìa! Một quầng mây trắng từ đây đang bay về phương Bắc. Giờ này cô của anh và bà nội có còn thức?
Ái Thanh đắm đuối ngước đôi mắt đen láy nhìn Lê Hoàng. Trong đáy mắt người yêu như có nước, tha thiết và nóng hổi áp vào mái tóc cô nao nao thổn thức. Cô ôm anh rất chặt và như thể đây là lần cuối cùng? Nhịp thở hai người như nhanh hơn, gấp gáp hơn mọi khi. Bình tĩnh đi anh. Nhất định trận đánh thắng lợi và chúng ta vẫn vẹn nguyên để thực hiện nguyện vọng từng hẹn ước. Phía sông Giồng Trôm một quầng lửa bừng lên, tiếp đến là tiếng nổ vọng lại. Địch đang bắn pháo rất gần. Xa xa, ánh sao Hôm nhay nháy khi tỏ khi mờ trong màn gió đung đưa… Lê Hoàng đặt nụ hôn lên má Ái Thanh.
– Về thôi em. Anh và hai chiến sĩ trinh sát chuẩn bị làm nhiệm vụ…
– Dạ, anh nhớ cẩn thận nghen!
– Ừa, anh nhớ… Em và đồng đội cũng vậy! Nên nhớ giữ khoảng cách an toàn đi sau bộ đội nghe em. Đừng băng lên trước nguy hiểm lắm.
– Dạ!
Lê Hoàng đi rồi. Ái Thanh nán lại mấy phút. Cô dõi theo bóng Lê Hoàng. Có cái gì đó như đang ngột ngạt ở cuống họng, Ái Thanh nhào theo. Không kịp. Tiếng pháo địch xé rít vào căn cứ nơi miệt vườn du kích ém quân.
14/12/2024
Nguyễn Duy Hiển
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...