Vần thơ Tạ Ký
Tạ Ký sinh năm 1928 (Mậu Thìn) tại làng Trung Phước, huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam. Làng Trung Phước nằm trên hữu ngạn con sông Thu Bồn, là một vùng có nhiểu núi non, từ đây càng tiến về phía tây thì càng đi vào vùng
thượng du. Phong cảnh vùng này hữu tình, đồi núi quê anh là nơi
Bùi Giáng đã đi chăn dê, hai chàng thi sĩ đất Quảng xuất thân cùng một làng, thậm chí nhà ở cùng một xóm với nhau.
Làm thơ tử
thuở
còn học
tiểu
học
cho mãi đến
những
năm cuối
của
đời
mình, cuộc
đời
của
Tạ
Ký gắn
liền
với
thơ,
cũng như với
việc
dạy
học.
Năm 1970 ông xuất
bản
tập
thơ Sầu Ở Lại, đã đoạt
giải
thơ của
VNCH sau đó. Tập thơ
thứ
nhì Cô Đơn
Còn Mãi ra đời
năm 1973. Từ 1975, ông đi tù cải tạo
trong hai năm, đã làm nhiều thơ
trong tù, rất
tiếc
hiện
chỉ
còn một
số
ít trong trí nhớ của
các bạn
đồng
tù.
Cuối
năm 1978 Tạ
Ký từ
Sài Gòn đi về sống
ở
An Giang, và đã qua đời trong cô độc tại
đây vào tháng Ba năm 1979. Hai mươi
hai năm sau, vào ngày 5 tháng Tư năm 2001, gia đình và bạn bè đã dời
mộ
ông từ
Chợ Mới,
An Giang về cải
táng tại
nghĩa trang Gò Dưa,
Thủ Đức,
bên cạnh
mộ
phần
của
Bùi Giáng, với ước
mong đặt
để
trở lại
chỗ nằm
và chỗ đứng
xứng
đáng cho ông, trong cuộc
đời
cũng như
trong lòng người.
Thi sĩ Tạ Ký
Từ
Hội Đạp thanh
Một
vó câu từ hội Đạp thanh
Làm đau luôn cả khách biên đình
Bên cầu tơ liễu duyên e ấp
Giữa chốn ba quân nhạc rập rình
Vườn Thúy mở ra trang lệ sử
Châu Thai khép lại chuyện u tình
Bình rơi trâm gãy còn chi nữa
Vời bãi sông Tiền nấm cỏ xanh
Làm đau luôn cả khách biên đình
Bên cầu tơ liễu duyên e ấp
Giữa chốn ba quân nhạc rập rình
Vườn Thúy mở ra trang lệ sử
Châu Thai khép lại chuyện u tình
Bình rơi trâm gãy còn chi nữa
Vời bãi sông Tiền nấm cỏ xanh
Nhớ
thêm
Em
có về trong khói thuốc say?
Em có về trong ly rượu đầy?
Em có về trong thương với nhớ?
Em có về trong mộng đêm nay?
Em có về trong ly rượu đầy?
Em có về trong thương với nhớ?
Em có về trong mộng đêm nay?
Em
đâu về vì em quên anh!
Em đâu về hoang vu kinh thành..
Tại em nên thức nhiều đêm trắng,
Khói thuốc che mờ mái tóc xanh
Em đâu về hoang vu kinh thành..
Tại em nên thức nhiều đêm trắng,
Khói thuốc che mờ mái tóc xanh
Anh
đi tìm em qua cánh chim,
Anh đi tìm em qua bao đêm,
Cánh chim đã lướt theo chiều gió,
Hơi rượu càng làm anh nhớ them.
Anh đi tìm em qua bao đêm,
Cánh chim đã lướt theo chiều gió,
Hơi rượu càng làm anh nhớ them.
Hay như bốn câu này, nhạc sĩ Y Vân đã mượn tứ thơ để phát triển và soạn bài hát “ Buồn” nổi tiếng.
Sầu ở lại
“…Đời
lỡ nhúng sầu bên cốc rượu,
Mượn vui bè bạn sống qua ngày,
Đoạn trường hơn cả thân ca kỹ
Cơm áo làm nên chuyện nước mây…
Năm cùng tháng tận đời hoang vắng
Bên quán ngờ đâu gặp lại mày
Gọi để mừng nhau khi hội ngộ
Thì xin hãy cạn chục ly đầy
Quàng vai tìm chút dư hương cũ
Nhắc đến hàng trăm chuyện đổi thay…
Nhắc đến những thằng… nay đã chết
Những thằng đang sống kiếp trâu cày
Bạn ơi, nước mắt minh tuôn đấy…
Ngồi nhậu bên đường…ta khóc đây…. “
Mượn vui bè bạn sống qua ngày,
Đoạn trường hơn cả thân ca kỹ
Cơm áo làm nên chuyện nước mây…
Năm cùng tháng tận đời hoang vắng
Bên quán ngờ đâu gặp lại mày
Gọi để mừng nhau khi hội ngộ
Thì xin hãy cạn chục ly đầy
Quàng vai tìm chút dư hương cũ
Nhắc đến hàng trăm chuyện đổi thay…
Nhắc đến những thằng… nay đã chết
Những thằng đang sống kiếp trâu cày
Bạn ơi, nước mắt minh tuôn đấy…
Ngồi nhậu bên đường…ta khóc đây…. “
Và hai câu thơ gần như là thơ tuyệt mệnh, khắc trên bia mộ do
thân hữu và gia đình lập:
“Thân cát bụi chẳng còn chi nuối
tiếc
Nhưng lòng riêng khao khát chút tình thương…”
Nhưng lòng riêng khao khát chút tình thương…”
TẠ KÝ, THÊ PHÁCH VÀ TINH ANH
Phạm Phú Minh
Tạ Ký
sinh năm 1928, đến năm 1945 có thể coi anh vừa vào
tuổi thanh niên. Một số thanh niên thuộc thế hệ
1945, trong cuộc kháng chiến chống Pháp phải đối diện với hai
chọn lựa. Nếu ở vùng “tự do” tức vùng Việt Minh kiểm
soát thì ở lại với kháng chiến hay là “nhảy đồn” để về vùng
quốc gia; hoặc đang ở vùng
quốc gia cũng có một số nhấp nhỏm thoát ly về vùng
kháng chiến. Từ sau 1950, khi phía cộng sản bắt đầu chương trình cải
cách ruộng đất và đấu tố thì phong trào về thành phố ngày
càng nhiều.
Tháng Sáu
năm 1952, Tạ Ký cùng Lê Trọng Nguyễn,
Nguyễn Sum, Nguyễn Viết Tường “nhảy”
vào đồn Xuân Đài, thuộc Gò Nổi, phủ Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam, sau khi lội qua con sông Thu Bồn
nhánh phía nam, nước rất cạn vào mùa hè. Từ đó các anh được đưa dần về Đà Nẵng,
và sau một thời gian làm thủ tục an ninh với ty
Công An và phòng nhì Pháp, tất cả được gia nhập vào cuộc sống bình thường của vùng quốc
gia. Nhưng trước khi hội nhập hẳn vào đời sống mới, cả đám bị phòng nhì Pháp bắt trở lại, và chuyện này
có thể là một giai thoại vui vui, nên mở một dấu ngoặc để kể lại. Nhạc sĩ
Lê Trọng Nguyễn khi về có mang theo mình một cây đàn ghi-ta Ý mà anh rất
quý, và khi khai ở phòng nhì Pháp bằng cách thế nào
để qua sông Thu Bồn, anh đã dùng chữ Pháp
nager (lội bơi). Đám phòng nhì xem lại hồ sơ thì
thấy có điều không ổn: lội bơi qua sông thì làm sao đem cây đàn theo? Thế là cả bọn bị bắt lại cho
đến khi làm sáng tỏ chuyến vượt sông chỉ là một cuộc lội bộ qua
một dòng nước rất cạn.
Thời bấy giờ, đối với một
thanh niên, việc bỏ vùng này vượt qua vùng khác là một
chuyện rất trọng đại. Chế độ thay đổi, chí hướng thay đổi, tương lai thay đổi.
Chuyến ra đi ấy của Tạ Ký càng trọng đại vì anh chỉ đi
có một mình, tất cả người thân và gia đình ở lại bên
kia hết. Vừa chớm vào đời đã làm lại tất cả từ con số
không, từ hai bàn tay trắng. Điều này
ảnh hưởng không nhỏ lên sáng tác của
anh, có thể là khởi điểm mới cho toàn bộ thi ca của
anh. Mặc dù Tạ Ký làm thơ rất sớm, từ đầu thập niên 40 thời còn
học tiểu học, tất cả thơ của anh mà chúng ta được biết hôm nay đều là
thơ làm từ khởi điểm mới ấy. Anh là nối dài âm hưởng
thi ca tiền chiến, mà Huy Cận và Nguyễn
Bính có lẽ là hai nhà thơ ảnh hưởng anh nhiều nhất.
Tính chất lãng mạn của những chuyến giang hồ thời trước nay chính anh đã thực hiện để xoay
chuyển đời mình. Và nỗi nhớ, nỗi đau của
chia ly, xa cách với mẹ già, với làng mạc – những nỗi niềm đã trở thành cổ điển trong thơ ca của chúng ta một thời – hằn khá
rõ nét trong thơ anh trong những năm đầu về
thành.
Và dĩ
nhiên tình yêu. Tình yêu không chiếm một tỉ lệ đáng kể
trong thơ Tạ Ký, không có nét say mê đắm đuối của tuổi trẻ mà luôn luôn nhuốm vẻ ngần ngừ như chạm vào
một mặc cảm. Đó không phải là những lời
giao tình của tuổi hai mươi, lúc “tình xanh không lo sợ,” mà
của năm, mười năm sau đó, khi “tôi chín chắn như thủy thủ già
vượt biển, đọc mây sao tìm hướng của phong ba, mùa lỡ xuân
mà ngày cũng sắp tà.” Vào tuổi hai mươi Tạ Ký
có làm thơ tình không? Chắc chắn là phải có
dù không còn lại một dấu vết nào, nhưng những bài thơ tình
của anh mà chúng ta đang có là những ly
rượu lâu năm, rất thắm, rất đượm, nhưng không còn màu xanh lung linh
ngan ngát của buổi tâm hồn mới mở.
Thơ tâm
sự với bạn bè thì nhiều. Tâm tình chính yếu của anh
có lẽ là ưu tư về đất nước, về cuộc đời, về vai trò của lứa tuổi mình. Nói với người đồng hội đồng
thuyền là tiện nhất. Chuyến về thành vừa như một vụ tỵ nạn chính trị vừa là một
chuyến đi tìm một lý tưởng mới. Nhưng
cái chính nghĩa quốc gia còn mờ nhạt bên cạnh sự hiện diện của
quân đội viễn chinh Pháp có lẽ chưa đáp ứng được, chưa cả biện
minh nữa, cho quyết định đổi đời của chàng thanh niên. Ở bên
kia, bức màn bức bối của đấu tố và kiểm soát tư tưởng bắt đầu buông xuống làm tối đi
sự trong sáng của những năm đầu
kháng chiến, hàng loạt người đã quyết định
thoát đi. Nhưng khát vọng của những tâm hồn nặng lý tưởng thì chắc chắn sẽ ít nhiều bị hụt hẫng với bên
này. Đó là nỗi khổ của lớp người như Tạ Ký.
Và nỗi khổ ấy sẽ kéo
dài theo đời sống, theo thời cuộc, với đất nước chia đôi, với chế độ mới ở miền
Nam, rồi với cuộc chiến ngày càng nhấn chìm mọi hy
vọng xây dựng một đời sống no đủ và tự do dân chủ mong ước. Tạ Ký
là một tổng hợp điển hình của một mẫu loại đời sống của miền Nam. Ưu tư, bất mãn với rất nhiều cảm giác bất lực, nhưng vẫn làm việc, vẫn sống, thậm chí vui chơi với cuộc sống, kết
giao, nhậu nhẹt, sáng tác… cho đến ngày miền Nam
sụp đổ.
Trong buổi họp mặt của Hội Thơ Tài
Tử hồi tháng Chín năm ngoái (2000) tại quận
Cam, một người không quen đến gặp tôi. Người ấy là
nhà thơ Đạm Thạch, kéo tôi ra một nơi, đưa cho tôi coi bức thư của
Đynh Trầm Ca viết từ Sài Gòn, trong đó có một đoạn nhắc đến tên tôi, nhưng về chuyện một người
khác: anh Tạ Ký. Đoạn ấy như sau:
Mới đây tôi có gặp Cung Tích Biền để nói chuyện mộ anh Tạ Ký ở Chợ Mới An Giang có người cho biết gần như mất dấu, nếu không có ai lo di dời. CT Biền bảo sẽ báo Tường Linh và anh em khác để lo nhưng rồi… cũng chỉ nói chơi cho vui!… Không biết Đạm Thạch có biết Tạ Ký không nhỉ? Đ.Thạch hỏi dùm T.Y.Hòa có biết ai là thân nhân ông Tạ Ký còn sống ở Mỹ hay ở Sài Gòn để báo cho họ biết nhé! Cũng nên báo cho anh Phạm Phú Minh (tức Phạm Xuân Đài) vì anh Minh người Quảng Nam có khi anh ấy sẽ có ý kiến gì đó giúp cho nắm xương anh Tạ Ký có chỗ yên ổn (…).
Mới đây tôi có gặp Cung Tích Biền để nói chuyện mộ anh Tạ Ký ở Chợ Mới An Giang có người cho biết gần như mất dấu, nếu không có ai lo di dời. CT Biền bảo sẽ báo Tường Linh và anh em khác để lo nhưng rồi… cũng chỉ nói chơi cho vui!… Không biết Đạm Thạch có biết Tạ Ký không nhỉ? Đ.Thạch hỏi dùm T.Y.Hòa có biết ai là thân nhân ông Tạ Ký còn sống ở Mỹ hay ở Sài Gòn để báo cho họ biết nhé! Cũng nên báo cho anh Phạm Phú Minh (tức Phạm Xuân Đài) vì anh Minh người Quảng Nam có khi anh ấy sẽ có ý kiến gì đó giúp cho nắm xương anh Tạ Ký có chỗ yên ổn (…).
Đây là một điều tôi
trông đợi đã nhiều năm, nó đã đến với tôi vào một lúc
không ngờ nhất, vì tôi đã không còn hy vọng gì
việc tìm biết thêm tin tức về anh Tạ Ký.
Khoảng những năm đầu thập niên 80 khi còn trong trại cải tạo ở Thanh Hóa, tôi đã nghe loáng
thoáng tin những người thăm nuôi nói anh Ký đã mất ở Long
Xuyên, nhưng đến khi tôi được về Sài Gòn thì chuyện đó
đã thành chuyện đời xưa, hỏi đến chẳng ai biết nữa. Tôi buồn vì anh Ký là một
trong những người thân của tôi, mà đến một lúc cuộc đời
xiêu tán đến độ chỉ trong một không gian không rộng lớn lắm – Sài Gòn, Long Xuyên – mà hỏi mãi cũng
không biết được những ngày cuối cùng của anh
đã xảy ra như thế nào, mồ mả hiện ở đâu.
Qua đến Mỹ thì
đôi khi tình cờ cũng được nghe tin tức về anh, nhưng chỉ thêm
hoang mang. Ít nhất anh đã chết tại ba nơi
khác nhau là Long Xuyên, Rạch Giá và Cà Mau, vì ba nguyên nhân cũng hoàn
toàn khác nhau là bệnh gan, bị công an đánh, và… trúng gió. Nhớ lại những
ngày thân thiết hồi xưa, tôi chỉ biết mặc niệm anh trong lòng.
Tạ Ký
là một nhà thơ sáng tác rất sớm, ngay từ những
ngày còn ngồi ghế nhà trường, và vào giữa thập niên 50 thì được nhiều người biết đến khi
thơ anh bắt đầu xuất hiện trên báo chí Sài Gòn như các tờ Đời Mới,
Văn Nghệ Tiền Phong v.v… Sau khi bỏ vùng Việt
Minh năm 1952 thì anh về Huế để học nốt những năm cuối của bậc trung học ở trường Khải Định. Đậu tú
tài xong anh vào Sài Gòn năm 1956, theo học Văn Khoa và Luật.
Anh dạy văn chương tại trường Petrus Ký, Sài Gòn, từ những năm cuối thập
niên 50, có cung cách một giáo sư – nghệ sĩ. Anh vẫn tiếp tục làm thơ, cuối thập
niên 60 in tập Sầu Ở Lại, và được trao giải Tổng thống
VNCH vào đầu thập niên 70. Anh có in một tập thơ thứ nhì, Cô Đơn Còn
Mãi, nhưng có lẽ gần ngày sụp đổ miền Nam nên ít người biết đến. Từ 1975 anh đi tù cải tạo vì
tội “giáo chức biệt phái,” ra khỏi tù
hai năm sau. Năm 1978 anh đi về miền Tây, và đã qua đời tại đó
vì bệnh gan ngày 19 tháng Ba năm 1979. Việc anh
Tạ Ký qua đời tại một nơi xa xôi như thế đã
khiến phần lớn bà con bạn bè không biết rõ
về cái chết của anh, do đó đã có nhiều đồn đoán lung tung. Cho mãi đến gần đây
nhờ anh Đynh Trầm Ca có lòng tìm kiếm,
báo động, mọi việc mới được rõ ràng, như sẽ được trình bày ở một phần
sau.
Tạ Ký
người làng Trung Phước, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng
Nam. Làng anh nằm trên hữu ngạn con sông Thu Bồn, là một
vùng bắt đầu có nhiều núi non, từ đây càng tiến về phía
tây thì càng đi vào vùng thượng du. Mỏ than Nông Sơn nằm bên kia sông, hơi chếch về phía
thượng nguồn. Phong cảnh vùng này hữu
tình, đồi núi quê anh là nơi Bùi Giáng đã đi chăn dê, hai
chàng thi sĩ đất Quảng xuất thân cùng một làng, thậm chí
nhà ở cùng một xóm với nhau.
Khoảng đầu thập
niên 40, gia đình anh gởi anh vào Quảng Ngãi ở trọ học
ngay tại nhà tôi, vì thầy tôi thời ấy
đang làm hiệu trưởng trường tiểu học phủ Bình Sơn. Dạo ấy tôi còn quá nhỏ, không có ký ức gì
về sự hiện diện của anh
trong nhà, chỉ nhớ nhà tôi đông đúc vì anh chị em
tôi vốn đã đông, lại thêm một số học trò
trọ học từ Quảng Nam vào. Mặc dù ở Quảng Nam cũng có nhiều trường học, bà
con hoặc bạn bè của gia đình thích gởi con cái trọ học với thầy
tôi, tuy phải đi xa. Chắc họ nghĩ được ăn
học nơi một nhà mô phạm thì chắc ăn
hơn, dễ “thành người” hơn. Một người bà con, cùng quê lại
cùng trọ học một thời với Tạ Ký, nhà thơ Tú Lắc hiện ở San Jose đã nhớ lại thời xa
xưa đó như sau:
Theo bà cô ruột tôi, thân mẫu của Tạ Ký, thì bà hiếm con nên cô dượng tôi đến chùa Non Nước – tức Ngũ Hành Sơn – để cầu tự. Sau đó Tạ Ký được sinh ra nên trong thân tộc tôi bảo Tạ Ký là con cầu. Tôi tuy ít tuổi hơn nhưng là vai anh, anh em cô cậu ruột. Thuở bé, chúng tôi thường qua lại chơi với nhau, đến khi đi học cũng lại học chung một trường, trường làng. Trong mấy mươi học trò nhà quê, Tạ Ký học giỏi nhất.
Theo bà cô ruột tôi, thân mẫu của Tạ Ký, thì bà hiếm con nên cô dượng tôi đến chùa Non Nước – tức Ngũ Hành Sơn – để cầu tự. Sau đó Tạ Ký được sinh ra nên trong thân tộc tôi bảo Tạ Ký là con cầu. Tôi tuy ít tuổi hơn nhưng là vai anh, anh em cô cậu ruột. Thuở bé, chúng tôi thường qua lại chơi với nhau, đến khi đi học cũng lại học chung một trường, trường làng. Trong mấy mươi học trò nhà quê, Tạ Ký học giỏi nhất.
Những
năm cùng nhau học ở trường Bình Sơn, Quảng Ngãi, Tạ Ký
đã thích thơ. Một tập vở đóng bằng giấy manh, Tạ Ký vẽ vời ngoài bìa trông cũng khá “hoa
lá cành” và nắn nót hai chữ “Vườn Thơ” bằng bút chì màu. Tập
này, Tạ Ký dùng chép những bài thơ ưa
thích. Tôi còn nhớ bài “Chợ tết miền quê” của Đoàn Văn Cừ được chép ở
trang nhất. Một tập vở khác là những bài thơ của Tạ Ký
sáng tác tên là Tạ Tập Tò. Rất tiếc tôi không còn nhớ được bài nào.
Ngoài sở
thích thơ, Tạ Ký cũng rất ưa đá bóng. Đọc “Đội Ban
Quê” (hình như là của Thanh Tịnh) trong tập
Truyền Bá Quốc Ngữ thời bấy giờ, Tạ Ký thích quá bèn đứng ra lập một đội
banh của lớp Nhì đệ nhị, thời ấy gọi là lớp Moyen première année, lấy tên là đội
Thanh Xuân. Đội thường hay tập dượt với những quả banh tennis xin được của người lớn. Tạ Ký giữ
“gôn” rất khá, cũng có những pha nhào lộn để bắt
bóng rất ư là “ngoạn mục.” Đầu gối vào cùi tay cũng do những pha này mà trầy trụa tùm
lum.
… Trong khoảng thập niên 70, tôi phụ trách mục thơ “Ngông” cho nhật báo Dân Luận ở Sài Gòn do anh Thinh Quang làm chủ nhiệm. Một hôm Tạ Ký đến tìm tôi, anh Thinh Quang bảo rằng tôi cùng anh Mộng Đài và ký giả Hồng Thu đi Long An chơi rồi. Nghe xong Tạ Ký bèn nói to lên rằng: “Thật chán cho cái ‘thằng’ anh của tôi. Ký thiệt đây mà hổng đi chơi, đi làm chi với mấy tay… ký giả ấy!”
… Trong khoảng thập niên 70, tôi phụ trách mục thơ “Ngông” cho nhật báo Dân Luận ở Sài Gòn do anh Thinh Quang làm chủ nhiệm. Một hôm Tạ Ký đến tìm tôi, anh Thinh Quang bảo rằng tôi cùng anh Mộng Đài và ký giả Hồng Thu đi Long An chơi rồi. Nghe xong Tạ Ký bèn nói to lên rằng: “Thật chán cho cái ‘thằng’ anh của tôi. Ký thiệt đây mà hổng đi chơi, đi làm chi với mấy tay… ký giả ấy!”
Từ miền
Trung, Tạ Ký vào Sài Gòn, và như nhiều lớp người Quảng Nam có học trước đây
đã đến miền Nam, “gia nhập” vào đời sống
Sài Gòn đối với họ gần như có nghĩa tuyệt đối là làm nghề dạy học và
viết báo. Phan Khôi, Vương Gia Cần,
Phan Ngô, Vũ Ký… đã làm như thế, đến phiên mình Tạ Ký lại gia nhập vào
cái thế giới chữ nghĩa ấy. Anh dạy trường công và vô số trường tư, rồi lại viết báo, làm thơ, như một cái nghiệp đã
định sẵn cho một lớp người. Nhưng Tạ Ký không thuộc giới mở trường tư, cũng không phải một người hoạt động
chính trị — mặc dù ưu tư chính trị vẫn là một nét
đặc biệt của những người từ xứ Quảng vào đây, và Tạ Ký cũng không ra ngoài thông lệ ấy —
anh mang cung cách một nghệ sĩ. Giao du, đàm luận, nhậu nhẹt với bạn bè là một sở
thích không thể thiếu với anh, và trước 1975, chợ Đủi được coi
là “giang sơn” của anh với các bạn, mỗi buổi chiều. Chính đám bạn bè ghiền
nhau trong thế giới riêng ấy của họ đã tô đậm thêm nét cá tính của thầy giáo và nhà thơ Tạ Ký.
Nhà thơ Hà Thượng Nhân nhớ lại mấy nét vừa
ngông ngông vừa cảm khái về anh:
Tạ Ký là một thi tài. Anh hình như có một tâm sự u uất nào đó, không thể nói ra lời. Cho nên cố quên bằng rượu. Ngày nào cũng uống la-de, không phải một hai chai mà cả “két.” Lại phải uống ở chợ Đủi mới “đã”. Uống ở đâu rồi rốt cục cũng phải về chợ Đủi uống thêm.
Tạ Ký là một thi tài. Anh hình như có một tâm sự u uất nào đó, không thể nói ra lời. Cho nên cố quên bằng rượu. Ngày nào cũng uống la-de, không phải một hai chai mà cả “két.” Lại phải uống ở chợ Đủi mới “đã”. Uống ở đâu rồi rốt cục cũng phải về chợ Đủi uống thêm.
Một buổi chiều về nhà,
xe tôi chạy qua chợ Đủi. Tạ Ký ra giữa đường chặn đầu xe
lại. Rồi lôi tôi vào quán và đuổi tài xế về. Tôi
uống một chai rồi định rút lui. Tạ Ký ấn vai tôi ngồi xuống:
“Không được! Anh phải uống mười chai.”
Tôi đang
ngồi với Chu Tử ở nhà Đằng Giao (con rể Chu Tử) thì
Tạ Ký đến. Gặp tôi anh hung hăng nói lớn:
“Em phải đánh Phạm Thiên Thư.” –
“Sao đánh?” – “Vì nó hỗn.” – “Hỗn sao?” – “Nó dám viết Đoạn Trường Vô Thanh.” – Rồi Tạ Ký đọc:
“Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.” (Tì Bà Hành) (1). Nó dám
cho nó là hơn Nguyễn Du. Thơ của nó đã đi đến đâu mà dám láo vậy?”
Có hôm tôi
bảo Tạ Ký: “Cậu dạy kiểu gì
mà năm, sáu mươi giờ một tuần? Uống rượu kiểu gì mà hàng ‘két’ mỗi tối? Cậu định tự tử đấy à?” Tạ Ký hỏi lại: “Bộ cuộc đời đáng sống lắm hở anh?”
mà năm, sáu mươi giờ một tuần? Uống rượu kiểu gì mà hàng ‘két’ mỗi tối? Cậu định tự tử đấy à?” Tạ Ký hỏi lại: “Bộ cuộc đời đáng sống lắm hở anh?”
Sau khi đi
tù cải tạo về, trong khung cảnh xác xơ của xã hội sau
75, Tạ Ký vẫn gặp gỡ bạn bè, trong những quán nhậu
nghèo nàn hơn, uống những thứ rượu độc hại hơn. Và đến một ngày năm 1978 anh quyết định ra đi về miền
Tây. Buổi tối trước khi đi anh uống rượu với Võ Hồng Lạc, một người bạn
giáo chức, thổ lộ ý định ấy và đọc cho
Lạc bài thơ như sau:
Đời lỡ nhúng sầu bên cốc rượu
Mượn vui bè bạn sống qua ngày
Đoạn trường hơn cả thân ca kỹ
Cơm áo làm quên chuyện nước mây
Năm cùng tháng tận, đời hoang vắng
Bên quán ngờ đâu lại gặp mầy
Quàng vai tìm chút dư hương cũ
Nhắc đến hàng trăm chuyện đổi thay
Nhắc đến những thằng nay đã chết
Những thằng đang sống kiếp trâu cày
Bạn ơi, nước mắt mình tuôn đấy
Ngồi nhậu bên đường, ta khóc đây.
Đời lỡ nhúng sầu bên cốc rượu
Mượn vui bè bạn sống qua ngày
Đoạn trường hơn cả thân ca kỹ
Cơm áo làm quên chuyện nước mây
Năm cùng tháng tận, đời hoang vắng
Bên quán ngờ đâu lại gặp mầy
Quàng vai tìm chút dư hương cũ
Nhắc đến hàng trăm chuyện đổi thay
Nhắc đến những thằng nay đã chết
Những thằng đang sống kiếp trâu cày
Bạn ơi, nước mắt mình tuôn đấy
Ngồi nhậu bên đường, ta khóc đây.
“Có thể chẳng
bao giờ tao với mầy còn gặp lại nhau nữa.” Đó là câu cuối cùng trước khi chia tay.
Mấy tháng sau, Lạc được Tôn Thất Trung Nghĩa cho hay: “Tạ Ký bị người ta đập chết ở Long Xuyên rồi. Tôi lập bàn thờ Ký tại nhà tôi, anh em đến đó tưởng niệm.”
Mấy tháng sau, Lạc được Tôn Thất Trung Nghĩa cho hay: “Tạ Ký bị người ta đập chết ở Long Xuyên rồi. Tôi lập bàn thờ Ký tại nhà tôi, anh em đến đó tưởng niệm.”
Thì ra cái
thời cuối thập niên 70 thông tin ở Việt Nam bị sai
lạc ghê thật. Những người bạn
thân thiết nhất của Tạ Ký đang ở Sài Gòn, thân đến độ lập bàn
thờ thờ anh, cũng chẳng biết đích xác về cái
chết của anh. Xã hội Việt Nam lúc bấy giờ khó
khăn và bị kềm hãm quá sức, hình như
không ai đủ sức đi tìm hiểu một sự thật nào. Sự thật về cái chết ấy,
cho đến gần đây, với sự giúp sức của Đynh Trầm Ca mới được
sáng tỏ.
Sau khi đọc đoạn thư của
Đynh Trầm Ca gửi cho Đạm Thạch trích dẫn trên đây, tôi đã liên lạc với ĐT
Ca, cố gắng tạo điều kiện để anh có thể tìm hiểu tường tận về cái
chết của anh Tạ Ký. Cuối tháng Mười năm ngoái tôi nhận được bức thư đầu
tiên của anh, đề ngày 16.10.2000, có những đoạn:
Từ sau 1975 tôi trở thành người không nhà cửa (…) sống lang thang khắp mọi nơi… Những ngày tôi trôi giạt khắp miền Tây Nam bộ và về sống ở Long Xuyên ba năm. Tôi gặp năm gia đình Quảng Nam sống gần nhau, trong đó anh Nguyễn Quí Trượng, quê Quế Sơn là người cưu mang anh Tạ Ký khi sống và chôn cất ảnh khi chết. Anh Trượng có kể cho tôi nghe một vài điều về những ngày cuối đời của anh Tạ Ký, cũng như đã ghi cho tôi ngày giờ anh Tạ Ký qua đời cùng nơi chôn cất ảnh như sau:
Thi sĩ TẠ KÝ
Từ sau 1975 tôi trở thành người không nhà cửa (…) sống lang thang khắp mọi nơi… Những ngày tôi trôi giạt khắp miền Tây Nam bộ và về sống ở Long Xuyên ba năm. Tôi gặp năm gia đình Quảng Nam sống gần nhau, trong đó anh Nguyễn Quí Trượng, quê Quế Sơn là người cưu mang anh Tạ Ký khi sống và chôn cất ảnh khi chết. Anh Trượng có kể cho tôi nghe một vài điều về những ngày cuối đời của anh Tạ Ký, cũng như đã ghi cho tôi ngày giờ anh Tạ Ký qua đời cùng nơi chôn cất ảnh như sau:
Thi sĩ TẠ KÝ
Mất lúc
13 giờ, thứ Hai, ngày 19-3-1979, tức ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mùi,
tại bệnh xá huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, do bệnh
gan tái phát (từ trại giam đem đi đến bệnh xá thì chết).
An táng tại nhị tì Chợ Mới (gần sân vận động).
Những người
chôn cất và lập mộ: Anh Nguyễn Quí Trượng và
người cháu (con ông Cả Triêm, anh cả của chị Trượng).
Cùng giúp việc này có anh Nguyễn Tấn Hiến, người Duy Xuyên.
Cuối
tháng 11, tôi lại được bức thư thứ hai của ĐT Ca, đề ngày 16-11-2000, thư này
viết sau khi đi Long Xuyên tìm mộ Tạ Ký
trở về.
Tôi đã đi
xuống Long Xuyên hôm 11.11. Từ long Xuyên qua phà đi Chợ Mới hơn 30
km, tìm được cháu Nguyễn Hoàng Anh (con trai anh Cả
Triêm). Cháu Anh kể:
Năm 1975, anh Tạ Ký đi cải tạo diện sĩ quan biệt phái ngành giáo dục thời gian là hai năm. Khi về vẫn được dạy lại theo diện giáo viên lưu dung. Năm 1978 vợ con đi vượt biên nên anh bị cho thôi việc. Khoảng ngày rằm tháng Chín âm lịch thì anh đi xuống Chợ Mới để tìm anh Cả Triêm (ba của cháu Anh) là bạn đồng hương của anh. Trên đường đi anh đã bị tên xe ôm đập ngất xỉu để cướp tiền bạc. Tuy vậy, nó không lục đến vớ giày nên anh cũng còn chút đỉnh. Anh được người giữ chòi chăn vịt ở Lộ Tẻ (Rạch Giá – Long Xuyên) cứu sống và hướng dẫn đường về Chợ Mới. Anh ở đó cho đến ngày 25-12-1978 thì bị Công an huyện và xã xét nhà bắt anh về tội cư trú bất hợp pháp. Khi vào trại anh khai tên là Nguyễn Đình Tư quê Bình Định (có lẽ cho hợp với một cái giấy nào đó mà anh có trong người). Vì vậy mà anh bị nghi ngờ và giữ lâu ở trại. Đến ngày 19-3-79 thì bịnh xơ gan cổ chướng của anh tái phát nặng. Vì cháu anh là người vào ra thăm nuôi suốt thời gian anh ở trại, nên trại nhắn tin cho cháu lo tiền chích thuốc, rút nước trong gan… cho đến trưa thì anh mất. Cháu Anh đã mua quan tài bằng gỗ gòn và xin trại khâm liệm rồi chôn ở nhị tì gần sân vận động và sau thánh thất Cao Đài.
Năm 1975, anh Tạ Ký đi cải tạo diện sĩ quan biệt phái ngành giáo dục thời gian là hai năm. Khi về vẫn được dạy lại theo diện giáo viên lưu dung. Năm 1978 vợ con đi vượt biên nên anh bị cho thôi việc. Khoảng ngày rằm tháng Chín âm lịch thì anh đi xuống Chợ Mới để tìm anh Cả Triêm (ba của cháu Anh) là bạn đồng hương của anh. Trên đường đi anh đã bị tên xe ôm đập ngất xỉu để cướp tiền bạc. Tuy vậy, nó không lục đến vớ giày nên anh cũng còn chút đỉnh. Anh được người giữ chòi chăn vịt ở Lộ Tẻ (Rạch Giá – Long Xuyên) cứu sống và hướng dẫn đường về Chợ Mới. Anh ở đó cho đến ngày 25-12-1978 thì bị Công an huyện và xã xét nhà bắt anh về tội cư trú bất hợp pháp. Khi vào trại anh khai tên là Nguyễn Đình Tư quê Bình Định (có lẽ cho hợp với một cái giấy nào đó mà anh có trong người). Vì vậy mà anh bị nghi ngờ và giữ lâu ở trại. Đến ngày 19-3-79 thì bịnh xơ gan cổ chướng của anh tái phát nặng. Vì cháu anh là người vào ra thăm nuôi suốt thời gian anh ở trại, nên trại nhắn tin cho cháu lo tiền chích thuốc, rút nước trong gan… cho đến trưa thì anh mất. Cháu Anh đã mua quan tài bằng gỗ gòn và xin trại khâm liệm rồi chôn ở nhị tì gần sân vận động và sau thánh thất Cao Đài.
Tất cả các
di vật của Tạ Ký đều được người cháu giữ gìn đầy đủ,
trong đó quý nhất có lẽ là tập nhật ký gồm 11 trang anh Ký viết vào những
tháng cuối cùng, mà anh Đynh Trầm Ca đã gửi cho
tôi được một bản sao photocopy. Tập nhật ký có tựa đề là
“Một Cuộc Bể Dâu…” bắt đầu viết vào ngày 14-9-1978, và kết thúc vào 24-12-78, một
ngày trước khi tác giả bị bắt. Tâm trạng một người vào
con đường cùng, bệnh hoạn, buồn bã, trầm uất nhưng vẫn hy
vọng ”Thế nào rồi cũng yên. Hết bĩ
đến thái, cơ trời là vậy.
Mình mong những người thân thuộc khuất mắt che chở,
giúp đỡ mình qua cơn nguy biến
này.”
Những
dòng chót của trang 11 ghi ngày 24-12-78:
”Hỡi Thượng đế! Suốt đời con đơn chiếc
Đi lang thang như lạc nẻo Thiên đường!”
”Hỡi Thượng đế! Suốt đời con đơn chiếc
Đi lang thang như lạc nẻo Thiên đường!”
Noel ở quận lỵ hẻo
lánh thật buồn. Nhà thờ nhỏ, người đi lễ thưa thớt.
Mình kỷ niệm ngày Chúa ra đời bằng một xị đế với phá lấu. Về nằm ngủ, thấy
chiêm bao lung tung. Đêm Noel lạnh quá.
Ngày hôm
sau, 25-12 công an đến bắt đi. Gần ba tháng sau, Tạ Ký qua đời. Bữa nhậu và
những dòng chữ cuối cùng của một đời tài
hoa, vào đêm Giáng sinh 1978.
Một mất mát
lớn cho chúng ta là toàn bộ thơ của Tạ Ký làm sau 1975, phần lớn
trong trại cải tạo, nay đã thất lạc. Năm 1978, khi gia đình của anh
đã đi vượt biên, anh gọi người cháu là Đỗ Ngọc Anh
đến nhà và dặn: “Tất cả thơ của bác giấu
trong chiếc ghế xoay này.” Nhưng rồi anh đi bất ngờ, khi
Ngọc Anh hay tin đến nhà thì một số đồ đạc đã
bị người ta lấy đi, trong đó có chiếc ghế xoay… Âu cũng là số mạng.
Thời gian đi tù cải tạo, Tạ Ký
có lúc ở chung trại với Lê Đình Điểu,
Mai Chửng, Anh Thành, Trịnh Cung. Tháng Ba 2001 vừa
qua, Trịnh Cung phải mổ nằm ở bệnh viện Fountain Valley (Quận
Cam), tôi đến thăm và anh đã đọc cho tôi chép bài thơ duy
nhất của Tạ Ký làm trong trại cải tạo mà anh nhớ được.
Theo Trịnh Cung, Tạ Ký làm bài này vào khoảng
năm 1976 tại trại Xuân Lộc.
RUỒI VÀ
EM
Ruồi từ hố tiêu bay lên
Tiếng ruồi lao xao như sóng gợn
Mắt ruồi nâu làm nhớ tóc Tây phương.
Ruồi đậu trên giây thép gai như chuỗi hạt huyền
Anh tặng em ngày cưới.
Ruồi đậu trên giây thép gai như những nốt nhạc
Giây thép gai kẽ nhạc không đều
Làm sao em hát.
Có bầy én về không phải để báo tin Xuân
Vì anh biết mùa Xuân đã chết
Có bầy én về tìm ruồi trên giây thép
Chuỗi hạt huyền vỡ tan
Anh gọi tên em mấy lần.
Ruồi từ hố tiêu bay lên
Tiếng ruồi lao xao như sóng gợn
Mắt ruồi nâu làm nhớ tóc Tây phương.
Ruồi đậu trên giây thép gai như chuỗi hạt huyền
Anh tặng em ngày cưới.
Ruồi đậu trên giây thép gai như những nốt nhạc
Giây thép gai kẽ nhạc không đều
Làm sao em hát.
Có bầy én về không phải để báo tin Xuân
Vì anh biết mùa Xuân đã chết
Có bầy én về tìm ruồi trên giây thép
Chuỗi hạt huyền vỡ tan
Anh gọi tên em mấy lần.
Người thứ nhì
còn nhớ thơ Tạ Ký trong trại cải tạo là Anh Thành, nhưng
anh chỉ nhớ… có ba câu:
Anh đã nhận được
gói quà ba ký
Quà tuy nhỏ nhưng cột giây rất kỹ
Như sợi tơ tình em đã cột đời anh.
Anh đã nhận được
gói quà ba ký
Quà tuy nhỏ nhưng cột giây rất kỹ
Như sợi tơ tình em đã cột đời anh.
Hơn hai
mươi năm qua, vì nằm xuống ở một chỗ xa xôi khuất nẻo trong một hoàn cảnh
quá hiu hắt, anh hầu như bị lãng quên bởi những người từng biết anh, những đồng
nghiệp, giới nhà văn, nhà báo, học trò và cả bạn bè
của anh. Sau khi Đynh Trầm Ca “đặt vấn đề,” ai
cũng thấy cần phải phục hồi chỗ đứng – và chỗ nằm – của một người suốt đời đã đóng góp công sức của
mình trong việc giáo dục môn quốc văn và nhất là đóng góp thi tài của
mình vào khu vườn văn nghệ Việt Nam. Sau mấy
tháng vận động của gia đình, bạn bè, bà con trong nước và
ngoài nước, cuối cùng hài cốt của anh đã được
mang về cải táng tại nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức, cạnh mộ Bùi Giáng, vào đúng ngày Thanh
Minh năm Tân Tị (5 tháng Tư 2001). Linh hồn anh
từ lâu chắc đã tìm thấy sự yên ổn, sau khi thoát khỏi cuộc đời với nhiều bệnh hoạn, sầu muộn, sợ hãi.
Và chúng ta, sau khi đã tìm lại được anh, đặt anh lại vào một chỗ tương xứng trong cuộc đời cũng như
trong lòng người, chúng ta cũng thấy yên ổn. Bậc tài
hoa thường cho đời nhiều hơn là nhận lãnh về phần mình, vậy đời, về phía mình, cũng phải biết trân trọng phần thể
phách lẫn phần tinh anh của bậc tài hoa.
Chú thích:
(1) Thử thời vô thanh thắng hữu thanh (Lúc ấy, cái không có tiếng hay hơn cái có tiếng). Tập thơ của Phạm Thiên Thư có nhan đề là “Đoạn Trường Vô Thanh.” Truyện Kiều của Nguyễn Du nhan đề là “Đoạn Trường Tân Thanh” (tiếng mới nghĩa là “có” tiếng). Câu thơ trên rút trong bản Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị.
(1) Thử thời vô thanh thắng hữu thanh (Lúc ấy, cái không có tiếng hay hơn cái có tiếng). Tập thơ của Phạm Thiên Thư có nhan đề là “Đoạn Trường Vô Thanh.” Truyện Kiều của Nguyễn Du nhan đề là “Đoạn Trường Tân Thanh” (tiếng mới nghĩa là “có” tiếng). Câu thơ trên rút trong bản Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét