Phạm Duy:
… Nhưng sự công phẫn của tôi qua những bài ca muộn phiền hay
phẫn nộ (và đi thêm một bước nữa là văng tục) cũng không thể kéo dài. Thứ nhất:
không thể đổ thêm dầu vào lửa, Thứ hai: tâm lý chung của người Việt Nam là họ
tìm thấy sự cao quý khi chẳng may trở thành nạn nhân. Có thể nói đó là một thứ
triết lý nhẫn nhục, nhưng thực sự khi ta chịu đựng thời gian đau khổ của mình một
cách chững chạc, thì ta tìm ra cái lớn lao. Và chính ở trong thái độ đó mà tôi
đi ra khỏi phẫn nộ để đạt tới một thế quân bình mới.
Nhưng khi có thế quân bình mới rồi thì lần này tôi không còn
ngây thơ nữa. Không còn tin là phải ngồi lại với nhau, lấy lòng ra giải quyết vấn
đề chung. Biết tấm lòng cũng không đủ nữa rồi! Bây giờ phải thăng hoa sự đau khổ
lên.
Cái may mắn cho tôi là gặp được nhà thơ Phạm Thiên Thư. Sau
khi có được vài bài thơ của anh để soạn thành vài bài tình ca rất trong sáng
như Ngày Xưa Hoàng Thị, Em Lễ Chùa Này… tôi đả động tới chuyện cùng nhau soạn nhạc
đạo, vì chúng ta đã đánh mất đạo giáo và đang tìm đường trở về Đạo Việt
Nam.
Và Đạo Ca tuần tự ra đời... Quên chuyện thưc tại rất ê chề
đi, chúng tôi cùng nhau đi vào cõi siêu hình. Không còn là tả thực trong âm nhạc
nữa, đạo ca dùng cốt truyện, âm điệu, nhất là hợp âm, để diễn tả những ý tưởng
trừu tượng. Đạo ca đi ra ngoài hành trình âm nhạc đại chúng của tôi, không còn
có những yếu tố cận nhân tình như quê hương, dân tộc, xã hội, chính trị…
Ðạo ca là thơ của Phạm Thiên Thư, một thầy tu kiêm thi sĩ (hoặc
thi sĩ đội lốt thầy tu) do tôi phổ nhạc. Chữ "Ðạo" không có nghĩa là
tôn giáo, mà có nghĩa là con đường. Tuy nhiên Ðạo không phải chỉ có nghĩa là
con đường của Lão. Ý nghĩa chữ Ðạo đã rõ ràng trong toàn thể mười bài Ðạo Ca và
thâu tóm trong bài một: Mình với ta tuy hai mà một, thì tại sao lại
còn phân biệt Lão với Phật hay với gì khác?
Ðạo Ca cũng không phải là một bài học triết lý. Ðã rất nhiều
tác phẩm văn học nói về những ý tưởng trong Ðạo Ca một cách sâu sắc hơn. Cái đặc
biệt của Ðạo Ca là sự cộng tác mật thiết giữa hai tác giả, đưa đến một sự đồng
nhất chưa từng có giữa thơ và nhạc.
Đạo Ca 1 có tên là Pháp Thân. Ðạo Ca 1 có thêm
phụ đề là Giữa thành vách sương mù, kể chuyện một người đi tìm chân
lý, để thoát ra khỏi đám sương mù tối ám. Chân lý có thể ở rất gần ta nhưng ta
không thấy.
Từ quan điểm toàn thể đã phát biểu qua Đạo Ca 1, Đạo Ca
2 dẫn đến một tâm linh bao la, diệu vợi. Đó là lòng từ bi, là ý lực cứu độ
muôn loài như cứu chính mình. Thương người như thể thương thân (Gia
Huấn Ca).
Tên Đạo Ca 2 là Đại Nguyện. Trên những câu thơ
tinh vi, thanh tịnh đó, giai điệu lướt qua như đám mây xanh giữa bầu trời bao
la và trong sáng của giọng Do trưởng. Nhưng phải chăng chính ngọn gió ban mai
đó đã gợi hứng cho nghệ sĩ một giai điệu dịu dàng và như là phai biến này, một bản
luân vũ mềm mại và không cần dấu diếm sự nồng nhiệt?
Đạo Ca 3 đưa ra hình ảnh một dũng sĩ cưỡi ngựa vàng đi
tìm người yêu muôn thuở. Đi hết năm tháng, đi khắp mọi nơi, đi cho tới khi áo
bào đã sờn rách, ngựa vàng đã đổi lông mà vẫn không tìm ra người yêu lý tưởng.
Thế rồi một ngày kia, dũng sĩ dừng chân xuống ngựa trên chiếc cầu bắc qua một
con sông đang gầm sóng, ngựa vàng bỗng hoá thành người đẹp mà dũng sĩ ra công
đi tìm. Thì ra, đã từ lâu, dũng sĩ ngồi lên sự thật mà không biết!
Đạo Ca 4, Quán Thế Âm (Hoá Thân) là biểu tượng cá nhân
bước vào đại thể. Nghe được tiếng khóc của một người mẹ đi tìm con với niềm
đau khổ riêng của bà là nghe thấy tiếng khổ chung của nhân loại. Đây là một bài
hát buồn trong 10 đạo ca vô hương vô sắc.
Tiếp theo là Đạo Ca 5, Một Cành Mai. Cành Mai hiển
hiện trong bài thơ của Thiền Sư Mãn Giác (thế kỷ thứ 11):
Xuân qua, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt: việc đi mãi
Trên đầu: già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai.
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt: việc đi mãi
Trên đầu: già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai.
Đây là bức ký hoạ tươi tắn, hay một câu hỏi đau đáu về lẽ tử
sinh của đời người mà biết bao thế hệ phải trăn trở? Vượt lên triết lý tuần
hoàn của nhà Phật, lẽ sống đã được quan niệm một cách mới mẻ, lạc quan: sự sống
là bất diệt. Cũng giống như cành mai có thể vượt ra ngoài cuộc sinh hoá của trời
đất.
Đạo Ca 6 có tên Lời Ru, Bú Mớm, Nâng Niu. Đạo Ca
này nói về hiện thể tạo hoá của người mẹ đã khiến cho đứa con có một nền tảng
tâm linh, hiền hoà giữa tạo vật, nhân sinh không còn là tù ngục giữa con người.
Trẻ sơ sinh chưa thể có ngay một tâm hồn. Khi người mẹ cho
con bú mớm, cho con lời ru và sự nâng niu, tức là đã
cho đưa trẻ có được tâm hồn. Thật là đúng biết bao! Ðó là chân lý nguyên sơ,
chân lý của buổi đầu cuộc đời: Con ơi! Mẹ là Thượng Ðế, cho con tâm
lý nguyên sơ. Trên bài thơ của những bài thơ này, giai điệu vút lên đơn giản và
thanh khiết trong những nẻo đường nhẹ nhàng thanh thoát của giọng La giảm trưởng.
Ở đây, mến thương, nồng nàn, xúc cảm cùng nhau hoà hợp tinh vi trong một bức thủy
họa bằng âm thanh có nét quyến rũ độc nhất và lưu giữ.
Đạo Ca 7 lại là một truyện ca, không phảichuyện thật mà
là chuyện tưởng tượng, là nhạc biểu hiện, nhạc tượng trưng như Đạo ca 3. Mang
tên Qua Suối Mây Hồng (Vô Ngôn), ca khúc có tới CHÍN hay MƯỜI câu, mỗi
câu là một đoạn. Đạo Ca này diễn tả cuộc chiến tranh thầm lặng giữa Sơn Tinh và
Thủy Tinh, tranh nhau trái tim Mỵ Nương tượng trưng cho ý thức sáng tạo. Sơn
Tinh là sự vắng lặng của ý niệm ngôn ngữ, cùng người đẹp biến vào Đại Thể, còn
lưu lại trên đỉnh núi cuốn thiên thư không chữ và cây sáo thần không lỗ, thúc
giục loài người vượt thoát ý niệm ngôn ngữ để thể nhập vào cõi uyên nguyên.
Ðạo Ca 8 là một ca khúc chú trọng tới nhạc điệu với âm
hưởng của tiếng chuông chùa, ca khúc nhan đề Giọt Chuông Cam Lộ, nói
với chúng ta về tiếng chuông chùa -- trong Phật giáo Việt Nam -- đã từng thức tỉnh
con người trong kiếp sống rất cô đơn và bát ngát. Ca khúc sẽ gợi kỷ niệm của vị
đại thiền sư Vạn Hạnh xuống núi theo tiếng đại hồng chung, nắm tất cả mùa đông
trong lòng tay, gậy thiền chống xuống thời gian và không gian, vô ngại, cứu vớt
nước Việt Nam và cứu cả nhân loại.
Ðạo Ca 9 mang tên Chắp Tay Hoa hay là Quy
Y, là thái độ cung kính và yêu thương đối với tất cả những vật chung
quanh, bởi vì tất cả đều thiêng liêng, nấc thang giá trị giữa mọi vật chỉ do
con người đặt ra. Chắp tay như một đóa hoa, quỳ lạy cuộc đời, lạy tất cả chẳng
trừ vật nào. Giai điệu tiến tới từ đầu đến cuối bằng những đoạn ngắn với nhịp
điệu thay đối. Giai điệu có một tính chất trang trọng, nhưng một hoà điệu khá
linh động, như bấy nhiều nụ cười, sẽ soi sáng bước đi của nhạc phẩm.
Đạo Ca 10 là Tâm Xuân tức Tam Giáo Đồng Nguyên
là con đường trở về thiên nhiên, gia đình, xã hội và siêu nhiên khiến cho cá
nhân được quân bình giữa cảm xúc, trí thức và hành động. Đó là nền đạo lý tổng
hợp tối diệu ba nguồn tư tưởng Phật-Lão-Khổng của Việt tộc. Mùa hồi sinh của tạo
vật cũng là sự bừng sống mãnh liệt của tâm tư.
Nhà phê bình Thụy Khuê nói: Đạo Ca đã thơ mộng hoá kinh điển
nhà Phật: đem tình yêu vào đất thánh. Nhưng hồn của Đạo Ca mới chỉ là hồn bướm
mơ tiên, là tình yêu chưa bước vào vườn địa đàng đã thoáng nghe tiếng chầy kình
của thiền sư Không Lộ mà giật mình tỉnh ngộ quay về với đạo lý. Tình yêu trong
Đạo Ca là thứ tình nửa chừng xuân: tình yêu đã diệt dục. Đạo Ca thuộc về đạo,
là ý thức muốn giác ngộ, đang tìm đường giác ngộ, nhưng mới đi được nửa đường.
Bản đạo ca Tâm Xuân kết thúc cuộc hành hương bên bờ nghi vấn:
Mùa Xuân có không? Hay là cõi Tâm?
Mùa Xuân có không? Hay là cõi không?
Về nguồn về cội! Về nguồn về cội!
Ðể rồi vươn tới, với lòng mênh mông...
Mùa Xuân có không? Hay là cõi không?
Về nguồn về cội! Về nguồn về cội!
Ðể rồi vươn tới, với lòng mênh mông...
PHẠM THIÊN THƯ tên thật Phạm Kim Long, sinh ngày
1-1-1940 xuất thân trong một gia đình Đông y. Quê cha: xã Đình Phùng, Kiên
Xương, Thái Bình. Quê mẹ: xã Trung Mẫu, Từ Sơn, Bắc Ninh. Sinh quán: Lạc Viên,
Hải Phòng. Trú quán: Trang trại Đá Trắng, Chi Ngãi, Hải Dương (1943-1951), Sài
Gòn, TP. HCM (1954- nay)
Từ 1964-1973: Tu sĩ PG (Không Tuệ), làm thơ. Năm 1973, đoạt giải nhất văn chương toàn quốc với tác phẩm Hậu Kiều - Đoạn trường Vô Thanh. Năm 1973 -2000: Nghiên cứu, sáng lập và truyền bá môn dưỡng sinh Điện công Phathata (viết tắt chữ Pháp -Thân - Tâm)
Tác phẩm đã in:
Từ 1964-1973: Tu sĩ PG (Không Tuệ), làm thơ. Năm 1973, đoạt giải nhất văn chương toàn quốc với tác phẩm Hậu Kiều - Đoạn trường Vô Thanh. Năm 1973 -2000: Nghiên cứu, sáng lập và truyền bá môn dưỡng sinh Điện công Phathata (viết tắt chữ Pháp -Thân - Tâm)
Tác phẩm đã in:
Thơ Phạm Thiên Thư (1968)
Kinh Ngọc (Thi hoá Kinh Kim Cương)
Động Hoa Vàng (Thơ) 1971)
Đạo ca (Nhạc Phạm Duy)
Hậu Kiều - Đoạn Trường Vô Thanh, 1972
Kinh Thơ (Thi hoá Kinh Pháp Cú)
Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài (Thơ)
Kinh Hiếu; Kinh Hiền (Thi hoá Kinh Hiền Ngu) gồm 12.000 câu lục bát
Ngày xưa người tình (thơ)
Trại Hoa Đỉnh Đồi (thơ) 1975.
Kinh Ngọc (Thi hoá Kinh Kim Cương)
Động Hoa Vàng (Thơ) 1971)
Đạo ca (Nhạc Phạm Duy)
Hậu Kiều - Đoạn Trường Vô Thanh, 1972
Kinh Thơ (Thi hoá Kinh Pháp Cú)
Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài (Thơ)
Kinh Hiếu; Kinh Hiền (Thi hoá Kinh Hiền Ngu) gồm 12.000 câu lục bát
Ngày xưa người tình (thơ)
Trại Hoa Đỉnh Đồi (thơ) 1975.
Các nhạc bản:
Ngày Xưa Hoàng Thị, Đưa em tìm động hoa vàng, Gọi em là đóa
hoa sầu, Em lễ chùa này, Huyền thoại trên một vùng biển, Loài chim bỏ xứ (Nhạc
Phạm Duy), Như cánh chim bay (Nhạc Cung Tiến), Guốc tía, Đôi mắt thuyền độc mộc
(Nhạc Võ Tá Hân); Độc Huyền (Nhạc Nguyễn Tuấn), Động Hoa vàng (Nhạc Trần Quang
Long)....
Tác phẩm dự định xuất bản:
Tác phẩm dự định xuất bản:
Hát ru lịch sử (Trường ca lục bát); Bốn chục ngàn câu châm
ngôn; Tự điển cười (24.000 bài tứ tuyệt - tiếu liệu pháp; Huyền ngôn tâm bút;
Điện cong Phathata dưỡng sinh, Vua núi vua nước (Sơn Tinh Thủy Tinh)
NHÀ THƠ PHẠM THIÊN THƯ
Người thi hóa kinh Phật
Nhà thơ Phạm Thiên Thư xuất hiện như một đạo sĩ xuống núi, ông trở thành người
rao giảng về những Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ..., ông đã thi hóa Kinh Kim
Cương Bát - Nhã của Phật giáo.
Trong lịch sử văn học, những nhà thơ Phật giáo, những thiền sư Việt Nam như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Khuông Việt, Không Lộ, Mãn Giác... đã góp phần không nhỏ làm phong phú, nâng cao giá trị cho văn học VN với những nét chấm phá ở mỗi thời điểm lịch sử tôn giáo và lịch sử dân tộc.
Bất ngờ xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng 1969 "Đoạn Trường Vô Thanh" của nhà thơ Phạm Thiên Thư với 3254 câu thơ được tác giả viết như là “hậu Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều)” của thi hào Nguyễn Du. Những năm tiếp theo, Nguyễn Du có Văn Chiêu Hồn thì Phạm Thiên Thư có Chiêu Hồn Ca. Phật giáo có Kinh Kim Cương, Kinh Hiền Ngu thì Phạm Thiên Thư cũng có Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ...
Nhà thơ họ Phạm này tuy xuất hiện khá muộn nhưng cũng đã đóng góp vào văn học khá nhiều tác phẩm, đặc biệt là những thi phẩm ở dạng khá độc đáo: thơ đạo! Một trong những tác phẩm ấy của Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc (miền Nam VN) vào năm 1971. Một số thơ của ông được phổ thành ca khúc đã mang lại một số đông công chúng yêu thích thơ ông: “Em lễ chùa này”, "Ngày Xưa Hoàng Thị", "Động Hoa Vàng", “Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu”....
Trong lịch sử văn học, những nhà thơ Phật giáo, những thiền sư Việt Nam như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Khuông Việt, Không Lộ, Mãn Giác... đã góp phần không nhỏ làm phong phú, nâng cao giá trị cho văn học VN với những nét chấm phá ở mỗi thời điểm lịch sử tôn giáo và lịch sử dân tộc.
Bất ngờ xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng 1969 "Đoạn Trường Vô Thanh" của nhà thơ Phạm Thiên Thư với 3254 câu thơ được tác giả viết như là “hậu Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều)” của thi hào Nguyễn Du. Những năm tiếp theo, Nguyễn Du có Văn Chiêu Hồn thì Phạm Thiên Thư có Chiêu Hồn Ca. Phật giáo có Kinh Kim Cương, Kinh Hiền Ngu thì Phạm Thiên Thư cũng có Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ...
Nhà thơ họ Phạm này tuy xuất hiện khá muộn nhưng cũng đã đóng góp vào văn học khá nhiều tác phẩm, đặc biệt là những thi phẩm ở dạng khá độc đáo: thơ đạo! Một trong những tác phẩm ấy của Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc (miền Nam VN) vào năm 1971. Một số thơ của ông được phổ thành ca khúc đã mang lại một số đông công chúng yêu thích thơ ông: “Em lễ chùa này”, "Ngày Xưa Hoàng Thị", "Động Hoa Vàng", “Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu”....
... Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng, ngủ say...
Ừ, thì mình ngại mưa mau
Cũng đưa anh đến bên cầu, nước xuôi
Sông này chảy một dòng thôi
Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông...
Lên non tìm động hoa vàng, ngủ say...
Ừ, thì mình ngại mưa mau
Cũng đưa anh đến bên cầu, nước xuôi
Sông này chảy một dòng thôi
Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông...
... Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan...
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan...
... Thì thôi! Tóc ấy phù vân
Thì thôi! lệ ấy còn ngần giang sương
Thì thôi! lệ ấy còn ngần giang sương
... Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu...
(Động Hoa Vàng)
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu...
(Động Hoa Vàng)
Thơ Phạm Thiên Thư cứ vấn vít nửa đời nửa đạo thật khác thường, làm cho độc giả
ngẩn ngơ, bất ngờ. Nhân vật chính trong thơ là một ông sư lãng mạn như những
chàng trai mới biết yêu:
...Em làm trang tôn kinh
Anh làm nhà sư buồn
Đêm đêm buồn tụng đọc
Lòng chợt nhớ vương vương
Đợi nhau từ mấy thuở
Tìm nhau cõi vô thường
Anh hóa thân làm mực
Cho vừa giấy yêu đương...
(Pháp Thân)
Anh làm nhà sư buồn
Đêm đêm buồn tụng đọc
Lòng chợt nhớ vương vương
Đợi nhau từ mấy thuở
Tìm nhau cõi vô thường
Anh hóa thân làm mực
Cho vừa giấy yêu đương...
(Pháp Thân)
Tình yêu trong thơ Phạm Thiên Thư là những cảm xúc thánh thiện, kín đáo với một
chút bẽn lẽn: yêu nhau mà không dám tay trong tay, vì sợ tình sẽ tan biến thành
khói sương:
... Anh trao vội vàng
Chùm hoa mới nở
Ép vào cuối vở
Muôn thuở còn vương...
Chùm hoa mới nở
Ép vào cuối vở
Muôn thuở còn vương...
Thiền tâm biểu lộ bằng ngôn ngữ im lặng:
... Đôi mày là Phượng cất cao
đôi môi chín ửng khóe đào rừng mơ
tiếng nàng vỡ bạc thành thơ
tụng dòng Kinh tuệ trên tờ khói mây
đôi môi chín ửng khóe đào rừng mơ
tiếng nàng vỡ bạc thành thơ
tụng dòng Kinh tuệ trên tờ khói mây
... Dù mai lều cỏ chân trời
khói hương lò cũ khóc người trong thơ
em còn ửng má đào tơ
tóc xưa dù có bây giờ sương bay...
khói hương lò cũ khóc người trong thơ
em còn ửng má đào tơ
tóc xưa dù có bây giờ sương bay...
Đôi khi tình yêu nồng nàn đến nỗi “con vạc đậu bờ kinh” cũng ghẹo nhà sư ỡm ờ
trần tục:
...Hỏi con vạc đậu bờ kinh
Cớ sao lận đận cái hình không hư
Vạc rằng: Thưa bác Thiên Thư
Mặc chi cái áo Thiền Sư ỡm ờ...
(Động Hoa Vàng)
Cớ sao lận đận cái hình không hư
Vạc rằng: Thưa bác Thiên Thư
Mặc chi cái áo Thiền Sư ỡm ờ...
(Động Hoa Vàng)
Thế giới thi ca Phạm Thiên Thư giúp chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ,
phong phú về tôn giáo, tình yêu và thiên nhiên. Sau 30.4.1975 ông còn thực hiện
cuốn Kinh Hồng ca ngợi chế độ mới. Sau đó là một giai đoạn nhà thơ lui về ở ẩn.
Từ năm 1976 đến 1981, Phạm thi sĩ không “lên non tìm động hoa vàng” như Nguyễn
Đức Sơn mà nhà thơ mở quán hớt tóc ở Lăng Cha Cả. Từ 1981 – 1983 ông bán tạp
hoá, rượu thuốc, trà đá… ở đường Lý Chính Thắng. Sau 1983 Phạm Thiên Thư nghiên
cứu về PHATHATA (Pháp, Thân, Tâm). Tiếp theo đó, ông được bác sĩ – nghệ sĩ
Trương Thìn, Viện trưởng Viện Y học dân tộc mời về cộng tác với Viện. Trong suốt
thời gian này, Phạm Thiên Thư vẫn lai rai cho đăng báo những bài thơ ngắn. Thỉnh
thoảng đôi lần văn thi hữu cũng gặp ông đến dự họp ở Hội Nhà văn TP.HCM. Phạm
Thiên Thư thực sự hoà nhập trở lại với văn đàn khi trường ca "Đoạn Trường
Vô Thanh" của ông được tái bản một cách trang trọng!.






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét