Tâm trạng cá thể trong
thơ
Đường luật Ngân Giang
Ngân Giang (1916 - 2002),
nữ sĩ quê ở thôn Hướng Dương, xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, được
coi là nữ hoàng của thơ Đường luật vì trong ngót 4.000 bài thơ bà để lại thì
đa phần là thơ Đường luật.
Thơ Đường luật vốn là thể
thơ được sử dụng nhiều nhất trong thơ trung đại, nền thơ đã sản sinh ra nhiều
thi tài kiệt xuất ở Trung Quốc, Việt Nam... Đó cũng là nền thơ có thi pháp
riêng được quy định bởi vũ trụ quan, thế giới quan, nhân sinh quan và thẩm mỹ
quan của thời đại phong kiến Á Đông. Thi pháp đó có nhiều đặc điểm như sự tôn
sùng thiên nhiên, tính quy phạm, tính ước lệ, tính phi dân chủ và tính phi
ngã.
Trong các đặc điểm trên
thì tính phi ngã gây nhiều tranh cãi nhất. Trong thời trung đại, ý thức cá
nhân, do nhiều lý do xã hội và triết học, còn chưa phát triển, cái tôi của
nhà thơ chưa được bộc lộ và khẳng định một cách quyết liệt. Tuy nhiên do đặc
trưng của thơ, "sự thống nhất giữa cuộc đời nhà thơ và cái tôi trữ tình
trong sáng tác là một hiện tượng khá phổ biến với thơ"[1] và tất nhiên cùng đi với
cái tôi trữ tình ấy là cá tính sáng tạo của nhà thơ biểu hiện trong phong
cách, hình thức nghệ thuật.
Tất nhiên những biểu hiện
của cái tôi trong thơ trữ tình trung đại còn bị hạn chế bởi chính ý thức của
nhà thơ và chịu sự ràng buộc, gò bó của hình thức thơ, trong đó có các phương
tiện hình thức như kết cấu, niêm luật, cấu trúc ngôn ngữ...
Thời đại thay đổi, thơ và
thi pháp cũng thay đổi theo, ý thức cá nhân và cái tôi trữ tình thời hiện đại
đòi hỏi phải phá vỡ thi pháp cũ, hình thức cũ. Tuy nhiên, có một số nhà thơ
thời hiện đại vẫn cứ dùng phương tiện hình thức cũ của thơ Trung đại (thơ luật
Đường) để sáng tác thơ. Vậy phương tiện hình thức thơ cũ ấy có hạn chế họ biểu
hiện những tư tưởng tình cảm mới, có ràng buộc sự bộc lộ của cái tôi thi sĩ
(cái tôi đời tư và cá tính sáng tạo) không? Đó là điều mà các nhà nghiên cứu
phê bình văn học và cả những người thưởng thức thơ đã đặt ra và đã giải đáp
được phần nào. Không hề khiên cưỡng khi Hoài Thanh, Hoài Chân xếp Quách Tấn
vào làng thơ mới và chọn tới 9 bài thơ (6 Đường luật thất ngôn bát cú và 2 tứ
tuyệt) đưa vào tuyển tập Thi nhân Việt Nam, chỉ đứng sau Xuân Diệu, Huy
Cận, Lưu Trọng Lư về số lượng bài, hơn cả người mở đầu thơ mới Thế Lữ. Như vậy
nhà thơ đường luật Quách Tấn đích thực là nhà thơ mới mà đã là thơ mới, hẳn
thi pháp của ông phải là thi pháp mới, nghĩa là cũng in đậm cái tôi. Nhà thơ
Ngân Giang vì lý do nào đó chưa có mặt trong Thi nhân Việt Nam. Nhưng
nay đọc gần 30 bài thơ của Ngân Giang sáng tác trước 1945 trong tập Lấp
lánh sông trời, ta thấy có thể đem lời nhận xét của Hoài Thanh về Quách Tấn vận
dụng vào thơ Ngân Giang: "(Người) đã tìm được những lời thơ rung cảm
chúng ta một cách thấm thía. Người đã thoát hẳn lối chơi chữ nó vẫn là môn sở
trường của nhiều người trong làng thơ cũ".
Thật vậy, ngay từ bài thơ
đầu tiên của Tuyển tập Ngân Giang, sáng tác năm 1936, tôi đã thấy một nét rất
riêng của đời tư nữ thi sĩ được đưa vào thơ một cách tự nhiên, chân thật:
"Con lên hai, mẹ hai mươi/ Ngơ ngác buồn tênh giữa cuộc đời/ Gió táp,
mưa lầm... ôi gió lạnh/ Đường về biết sẽ hỏi thăm ai?" (Đường về), rồi Lỡ
hận (1939): "Có những đêm trăng, những buổi chiều/ Vách mờ in bóng
chiếc xiêu xiêu". Rồi Đợi tuy còn một số từ, một số câu ước lệ
như: "Sợi tơ gẩy mãi rung cầm lạnh", nhưng câu kết đã là một tứ
thơ, một tâm thế trữ tình có nét riêng và nghệ thuật có sáng tạo riêng.
"Ngoài thềm lạnh lẽo chim lên tiếng/ Vội kéo rèm hoa xuống nửa vời".
Kéo rèm hoa xuống nửa vời vì nửa muốn nghe tiếng chim biểu hiện của sự sống,
nửa không muốn nghe vì tiếng chim như gợi nỗi cô đơn... Bài Khi gió heo
may về có thể coi là một ví dụ về "bình cũ rượu mới":
"Chiều ấy tờ hoa đành lẻ ý/ Mùa này chim nhạn có chung đôi". Tờ hoa,
chim nhạn là những hình ảnh cũ nhưng "lẻ ý, lẻ đôi" là tình thực, cảnh
thực của hai con người. Bài Tâm trạng thì hoàn toàn mới cả ý lẫn lời
"ngày chưa sang thu đã thấy buồn/ Tình chưa ngời sáng đã hoàng
hôn". Có những bài viết về nhân vật lịch sử mà cũng có tâm trạng cá thể,
tâm trạng của chính nhân vật lịch sử đó đã được "tôi hóa". Đó là
tâm trạng của Trưng Trắc khi thắng giặc, lên ngôi: "Chàng ơi/ Điện ngọc
bơ vơ quá/Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi". Tác giả đã hóa thân vào
nhân vật đến mức tạo ra câu thơ rung động lòng người mãnh liệt.
Chẳng thế mà nhà thơ, nhà giáo Đông Hồ khi giảng đến câu này đã xúc động đến đột quỵ! Cả đến Hán Vương trong Vương Tường cũng là một nhân vật ít nhiều có cá tính biểu hiện ở sự rung động trước nhan sắc cùng sự bất hạnh của cung nhân Vương Tường: "Trẫm thấy dường như trăng lạnh lạnh/ Tơ sầu kể lể chuyện hồng nhan/ Thiên tử say nhìn người quốc sắc/ Kiệu vàng ta chậm đón giai nhân", không chỉ Vương Tường mà cả Hán vương cũng là nhân vật của thơ mới.
Từ Cách mạng tháng 8 trở
đi, thơ Ngân Giang có 2 dòng: một dòng trữ tình công dân, một dòng trữ tình đời
tư, trong đó dòng đời tư đậm hơn và có quan hệ chút ít, ở những mức độ khác
nhau, với dòng công dân. Chính đặc điểm này làm cho thơ Đường luật của Ngân
Giang không rơi vào tình trạng hòa tan mất cái tôi (dĩ nhiên với những bài
thơ công dân thành công trong thơ 1945 - 1975, cái tôi nhà thơ cũng hòa vào
cái ta công dân mà không mất đi, nhưng đó là với những bài thành công còn ở
những bài không thành công, người ta chỉ thấy cái ta chung chung, khái niệm,
thuần lý trí, đặc biệt ở những bài mà tác giả của nó dùng thể thơ cũ Đường luật
thì sự thiếu cá tính, thiếu tâm trạng cá thể càng lộ rõ trong những khuôn
ngôn ngữ sáo mòn). Ngân Giang không rơi vào tình trạng đó trong những bài thơ
công dân như những lời chào cách mạng. Ví dụ Kính dâng các bậc anh hùng
dân tộc mở đầu là sự phá cách: "Ta say uy vũ Trần Hưng Đạo/ Ta say
sự nghiệp Hồ Chí Minh" và câu kết là dấu nối giữa quá khứ, hiện tại và
tương lai: "Mấy thuở không phai hồn chủng tộc/ Muôn năm cờ đỏ dựng thanh
bình". Tuy nhiên, sòng phẳng mà nói thơ trữ tình chính trị của Ngân
Giang còn ít và không mới. Bài Xuân chiến địa có tình, nhưng lãng mạn
quá, thơ mộng quá như phủ một màn trướng văn hóa tráng sĩ xưa lên cuộc kháng
chiến và người chiến sĩ vệ quốc. Bài Khuya 1 cũng chưa theo kịp hiện
thực sôi động quyết liệt của năm 1965. Những bài hướng về kháng chiến, Ngân
Giang viết trong thành, lại hay hơn, thực hơn, có dư ba hơn: "Gác hẹp mơ
màng tin quốc sự/ Ngày về mãi mãi nhớ lời nhau/... Ai lên xứ Bắc cho ta nhắc/
Những mảnh trăng vàng theo vó câu" (Gác hẹp). Đặc biệt bài An phận bộc
lộ nỗi lòng của một người bị buộc phải tạm thu mình lại đợi thời. Ta hiểu vì
sao tác giả lại phải dùng ẩn dụ: "Cá xám thu vây chờ vượt sóng/ Rồng
vàng uốn khúc đợi tung mây/ Sống giữa lòng đêm tìm khối sáng/ Tim sầu nào biết
gửi ai đây"... Tâm trạng chủ thể trữ tình được cá thể hóa đến cao độ:
"Một vùng đất cũ say mà tỉnh/ Năm ngả thành xưa tỉnh mà say".
Hình thức, ngôn từ cũ có
khi lại trở thành bức màn nghi trang cho những tư tưởng thực của tác giả lúc
này đang ở trong lòng địch: "Một lại kinh kỳ vương quốc hận/ Giữa chiều
hoang phế nhớ xa xôi/ Xa xôi ai có nhớ ai không? Xứ Bắc chiều nay chắc lạnh
lùng?/ Canh vắng thép rung hồn Chiến quốc/ Đường khuya trăng dõi bóng anh
hùng" (Mùa thương nhớ).
Những bài thơ đời tư của
Ngân Giang nhiều bài rất chân thực, quá thực đến mức tác giả dùng lời nói trần:
"Càng thương phận mỏng, thương em dại/ Lại xót con thơ, xót mẹ già"
(Tình vạn dặm) hoặc: "Hỡi ơi, sinh kế từ muôn thuở/ Buộc chết nhân tài đến
thế ư!" (Thân thế) và khi tác giả nói cụ thể hơn thì ta không thể cầm
lòng được: "Mẹ theo chồng mới, cười như mếu/ Con nhớ cha xưa, khóc ngỡ
đùa/ Mẹ con ngơ ngác lặng nhìn nhau/ Khung thêu, chỉ hết, tiền không có/ Giường
mọt, nan thưa, ruột bỗng rầu" (Cùng đường). Đây là những câu thơ hiện thực
nhất, đời nhất, riêng nhất trong thơ Đường luật Ngân Giang. Nó khẳng định
tính vạn năng, tính linh hoạt của chính thể thơ quy phạm này trong tay người
thơ tài hoa. Tuy nhiên ở một số bài, một số câu, cái thực chưa cất cánh được
(Thơ trả nợ, Cùng đường). Ta vẫn thích hơn những câu bóng gió, Đường hơn
mà không kém se lòng: "Cơm áo không thương đời bút mực/ Nắng mưa để táp
đóa hoa mai/ Niềm tin còn chút duyên văn ấy/ Nghe khói trầm bay ấm dấu hài".
Thơ Đường luật thất ngôn
bát cú là thể thơ khó làm nhất mà vào tay Ngân Giang bỗng trở nên "dễ
dàng" như bất cứ thể thơ nào khác, thì tất nhiên càng dễ dàng hơn với
Ngân Giang, các bài thơ dài gồm nhiều khổ 4 câu thất ngôn. Điều này ta đã gặp
trongXuân chiến địa (1946) sau lại gặp trong Ướm hỏi: "Lành lạnh
bên sông một quán nghèo. Đèn lay dáng trúc gió hiu hiu/ Hướng dương trà vẫn
thơm như cũ/ Khóa tỏa tương tư đượm ít nhiều? Nào ai hay biết quên là khó/ Chợt
gặp lời thơ lại khó quên.../ Nửa kiếp tìm quê vẫn gió mưa/ Quán chiều, bến
trúc hỏi đường xưa". Đó là tình cảm của Ngân Giang đối với bạn, một chủ
đề thấm đượm nhiều vần thơ của Ngân Giang, ngay cả trong những lúc khó khăn
nhất.
Sẽ là thiếu sót nếu không
nói tới một tình cảm thiết tha trong thơ Ngân Giang cho đến phút cuối đời, đó
là tình cảm đối với quê hương Hướng Dương, Thường Tín, Hà Tây mà hơn một lần
bà đã nói đến trong thơ ở đó có cái quán trà nhỏ cũng là nơi tụ họp bạn muôn
phương. Trong chùm thơ 10 bài họa thơ của một bạn thơ Việt kiều đã có 3 bài
nói về quê hương Hướng Dương của mình: "Tôi ở Hà Tây quê Hướng Dương/ Là
nơi dừng bước của muôn phương/ Sánh với thiên nhiên trăm vẻ đẹp/ Góp cùng
sông núi vạn mùa hương/ Quanh vùng làng mạc xa thành thị/Ga Vũ Lăng xưa liễu
rợp đường". Tình yêu quê hương đất nước trong sự chia sẻ với người thơ
xa xứ càng tràn chảy thành thơ.
Bài viết đã dài mà nguồn
văn chưa muốn ngừng bởi con đang day dứt một nỗi tiếc: người nữ sĩ tài hoa ấy
có thể lớn hơn nếu có một đời riêng thuận chiều hơn và được sự quan tâm nhiều
hơn của cộng đồng - cộng đồng xã hội, cộng đồng thơ . Nhưng tất cả đã qua rồi,
chỉ có thơ còn lại và thơ tự nó có một sự sống tự thân, sự sống trường tồn bởi
nó chính là tiếng lòng của một con người yêu nước, yêu quê hương, con người ấy
đã đi hết bản thân mình và đã gặp đồng loại. Người thơ ấy, tài thơ ấy đã bất
chấp tất cả, bất chấp sự éo leo của số phận phức tạp của tình thế, và bất chấp
cả sự bó buộc, sự quá thời của phương tiện hình thức để cho ta những bài thơ,
những câu thơ tuyệt tác. Nàng thơ khoác tấm áo của quá khứ vẫn đồng hành với
hiện tại và tương lai.
[1] Nguyễn Hữu Sơn - vấn
đề con người cá nhân trong VH cổ nhìn từ góc độ lý thuyết. Sách: "Về con
người cá nhân trong VH cổ Việt Nam: - Nhiều tác giả - NXB Giáo dục
1997.
|
|
CHÙA TRẦM
Hương nào ngát tỏa chơi vơi Ở đây non nước cách vời phồn hoa; Hươu nai thoáng bóng gần xa, Ngự hài võng lọng nhạt nhòa dấu son. Tử Trầm ngọn núi chon von Tầng tầng hoa đại trắng mòn lối xưa… Thoai thoải đường son lượn dưới đồi Long châu thăm thẳm lối hoa rơi. Đào giang bóng lẩn thuyền ngư phủ, Tiên động rêu phong dấu ngự hài ; Giọt nước sườn non rơi lã chả Khói trầm vách đá tỏa chơi vơi . Thơ xưa toan hỏi ai đề vịnh Chuông mộ chùa bên đã đổ hồi… Chuông mộ chùa bên đã đổ hồi Hiên trong vẫn ngát chén hồng mai. Dăm câu hồ bể say mưa nắng, Mảnh áo nâu sồng xót nhạt phai. Đằm thắm tâm tình thơ hội kiến Phiêu phiêu bóng dáng Phật Như Lai Khói hương tịch mịch xa làng mạc Chim chóc bay về…tiếng lá rơi. Chim chóc bay về… tiếng lá rơi, Giang thôn hờ hững bóng quăng chài. Cây trùm trước miếu bông hoa rớt, Sông uốn quanh chùa cánh nhạn trôi. Lối cỏ sân rêu từ độ ấy Cồn dâu mặt sóng đã lâu rồi. Xe loan cửa động không còn vết Mà nẻo Trăm gian những cách vời. Mà nẻo trăm gian những cách vời Lối mòn hái thuốc dấu chân nai. Khói bay lối xóm chừng cao thấp Đá lở đầu thôn đến dập vùi; Võng lọng chiều xưa còn phảng phất Điện đài lối cũ đã phai phôi. Nhà tranh giậu trúc đôi ba mái Núi đứng chênh chênh một phía trời. Núi đứng chênh chênh một phía trời Cây đa bên núi ráng chiều phai Rễ vương chân động đàn dơi liệng Lá rợp sân chùa bóng nguyệt soi. Bàng bạc sương khuya in dặm vắng Chơ vơ tháp cổ lạnh ven đồi. Đêm nay thắp nến xem kinh sách Thoáng thấy đài sen Phật mỉm cười… Thoáng thấy đài sen Phật mỉm cười : Ở, đi lưu luyến mãi chưa thôi ! Lạnh lùng gió nổi , chiều như giục , Vi vút thông reo , hạc vắng rồi ; Bên quán trà suông còn có bạn Đầu non hoa rụng biết tìm ai ? Hãy về , để lại thơ ngoài động Vẳng tiếng gà thôn , hạt móc rơi . Vẳng tiếng gà thôn , hạt móc rơi Cỏ hoa mấy ngả lối trần ai ! Đều đều nhịp mõ như lưu khách, Ríu rít lời chim có tiễn người… Cửa động ngâm vang thơ tống biệt Hiên chùa hẹn mãi buổi trùng lai. Ân cần sư trưởng trao phần lộc Kẻ bước lên am , kẻ xuống đồi. Kẻ bước lên am , kẻ xuống đồi Đường về Hà Nội thấy xa xôi! Thẫn thờ ngoảnh lại: mây che núi, Ngừng ngập trông ra: nước lẫn trời… Cảnh đẹp trăm năm dù có khác Tình ai muôn thuở vẫn không nguôi. Tử Trầm chốn ấy bao hò hẹn Hoa trắng đầu non chắc vẫn rơi?
Ngân Giang nữ sĩ
|
|
Với mớ ngôn từ đã cũ,
nhưng qua đôi tay khéo sắp đặt, trau chuốt của bà, chúng trở nên những viên
ngọc quí mới lạ, thật phù hợp để ca ngợi, để thố lộ những gì trang nhã, cao cả
và thiêng liêng.Trong kho tàng thơ Việt, có không ít bài viết về Trưng nữ vương; nhưng đa phần tác giả đều là phái nam; bởi vậy, hay thì có nhưng thấm thì không. Có thể nói bài thơ tôi sẽ post ngay sau đây, là bài thơ hay nhất viết về nhân vật lịch sử này. Thật đặc biệt và cũng thật tinh tế, âm điệu toàn bài giống như một khúc bi hùng ca. Lẫn trong tiếng trống đồng, tiếng tù và, vừa rộn ràng, vừa uyển chuyển, diễn tả được hết niềm vui của người thắng trận; là tiếng rơi thật khẽ của những giọt nước mắt của người góa bụa trẻ thầm tủi cho thân phận cô đơn, lạnh lẽo của mình… Chỉ có phụ nữ mới có thể hiểu cạn cùng tâm trạng của một phụ nữ. Tôi nói vậy, có võ đoán lắm không? Và các bạn có nghe như tôi không? Trưng Nữ Vương Thù hận đôi lần chau khóe hạnh Một trời loáng thoáng bóng sao rơi Dồn sương vó ngựa xa non thẳm Gạt gió chim bằng vượt dặm khơi Ngang dọc non sông đuờng kiếm mã Huy hoàng cung điện nếp cân đai Bốn phương gió bão dồn chân ngựa Tám nẻo mưa ngàn táp đóa mai Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai Hồn người chín suối cười an ủi Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi Lạc tướng quên đâu lời tuyết hận Non hồng quét sạch bụi trần ai Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời... Ải bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá, Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi Ngân Giang.1939 Nói thêm: Các bạn nên vào địa chỉ mà tôi vừa nêu trên, để hiểu và thương cảm cho một số phận, một tấm lòng. Với tôi, 4 câu cuối chỉ toàn là nước mắt. Ải bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá, Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi (Khăn trở lạnh hàm ý nói lên sự thay đổi đột ngột từ vui-> buồn-> tiếng kêu thương; xảy ra ngay nơi lòng người chiến thắng, vì không còn người chồng yêu dấu đã cùng kề vai chiến đấu thuở nào để cộng sự, sẻ chia… Các bạn đọc chầm chậm sẽ cảm nhận được cái hay của âm điệu trong thơ nhờ từ trở đứng ở vị trí này.Từ chàng ơi da diết lắm, không cần phải nói. Từ chếch cũng rất đắc địa. Ngoài nghĩa “xéo, lệch, không ngay”, nó còn gợi người đọc thêm thương cảm cho một phận người vì việc lớn nên phải nén chặt nỗi lòng. Sau những phút hoan ca, ba quân lui về nơi an nghỉ;cũng chính là lúc người chủ tướng thấy mình thật lẻ loi, hụt hẩng; giống hệt như bóng trăng vừa chơi vơi, quạnh quẽ vừa nghiêng lệch trên trời...) Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu. |
|
Trưng Nữ Vương (*)
Mây thu lạnh Dòng nước Cẩm Khê bừng dâng chính khí Khói thu mờ Ðáy hồ Lãng Bạc ngát động khuông liên Ðền Nghĩa Trị rời thềm khuê các Trả thù chồng thẳng đất Long Biên Chém tướng giặc, đuổi quân về aỉ bắc Mặc aó tang, rơi lệ ngự ngai vàng Rồi ba thu cờ anh thư phất phới, Ðất Mê Linh cỏ cây hoan lạc Ðể một sớm gươm danh tướng ngang tàng trời Giao Chỉ Non nước oan khiên Trùng trùng sóng nước U uất thuyền quyên Ðã mất thu rồi trăng ngời tiết liệt Còn bao thu nữa sóng tỏa linh thiêng Thù hận đôi lần chau khóe hạnh Một trời loáng thoáng bóng sao rơi Dồn sương vó ngựa xa non thẳm Gạt gió chim bằng vượt dặm khơi Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai Hồn người chín suối cười an ủi Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi Lạc tướng quên đâu lời tuyết hận Non hồng quét sạch buổi trần ai Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời Aỉ bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi điện ngọc bơ vơ quá Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi. Ngân Giang |
Đặng Hiển







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét