Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2016

Tâm trạng cá thể trong thơ Đường luật Ngân Giang

Tâm trạng cá thể trong 
thơ Đường luật Ngân Giang
Ngân Giang (1916 - 2002), nữ sĩ quê ở thôn Hướng Dương, xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, được coi là nữ hoàng của thơ Đường luật vì trong ngót 4.000 bài thơ bà để lại thì đa phần là thơ Đường luật.
Thơ Đường luật vốn là thể thơ được sử dụng nhiều nhất trong thơ trung đại, nền thơ đã sản sinh ra nhiều thi tài kiệt xuất ở Trung Quốc, Việt Nam... Đó cũng là nền thơ có thi pháp riêng được quy định bởi vũ trụ quan, thế giới quan, nhân sinh quan và thẩm mỹ quan của thời đại phong kiến Á Đông. Thi pháp đó có nhiều đặc điểm như sự tôn sùng thiên nhiên, tính quy phạm, tính ước lệ, tính phi dân chủ và tính phi ngã.
Trong các đặc điểm trên thì tính phi ngã gây nhiều tranh cãi nhất. Trong thời trung đại, ý thức cá nhân, do nhiều lý do xã hội và triết học, còn chưa phát triển, cái tôi của nhà thơ chưa được bộc lộ và khẳng định một cách quyết liệt. Tuy nhiên do đặc trưng của thơ, "sự thống nhất giữa cuộc đời nhà thơ và cái tôi trữ tình trong sáng tác là một hiện tượng khá phổ biến với thơ"[1] và tất nhiên cùng đi với cái tôi trữ tình ấy là cá tính sáng tạo của nhà thơ biểu hiện trong phong cách, hình thức nghệ thuật.
Tất nhiên những biểu hiện của cái tôi trong thơ trữ tình trung đại còn bị hạn chế bởi chính ý thức của nhà thơ và chịu sự ràng buộc, gò bó của hình thức thơ, trong đó có các phương tiện hình thức như kết cấu, niêm luật, cấu trúc ngôn ngữ...
Thời đại thay đổi, thơ và thi pháp cũng thay đổi theo, ý thức cá nhân và cái tôi trữ tình thời hiện đại đòi hỏi phải phá vỡ thi pháp cũ, hình thức cũ. Tuy nhiên, có một số nhà thơ thời hiện đại vẫn cứ dùng phương tiện hình thức cũ của thơ Trung đại (thơ luật Đường) để sáng tác thơ. Vậy phương tiện hình thức thơ cũ ấy có hạn chế họ biểu hiện những tư tưởng tình cảm mới, có ràng buộc sự bộc lộ của cái tôi thi sĩ (cái tôi đời tư và cá tính sáng tạo) không? Đó là điều mà các nhà nghiên cứu phê bình văn học và cả những người thưởng thức thơ đã đặt ra và đã giải đáp được phần nào. Không hề khiên cưỡng khi Hoài Thanh, Hoài Chân xếp Quách Tấn vào làng thơ mới và chọn tới 9 bài thơ (6 Đường luật thất ngôn bát cú và 2 tứ tuyệt) đưa vào tuyển tập Thi nhân Việt Nam, chỉ đứng sau Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư về số lượng bài, hơn cả người mở đầu thơ mới Thế Lữ. Như vậy nhà thơ đường luật Quách Tấn đích thực là nhà thơ mới mà đã là thơ mới, hẳn thi pháp của ông phải là thi pháp mới, nghĩa là cũng in đậm cái tôi. Nhà thơ Ngân Giang vì lý do nào đó chưa có mặt trong Thi nhân Việt Nam. Nhưng nay đọc gần 30 bài thơ của Ngân Giang sáng tác trước 1945 trong tập Lấp lánh sông trời, ta thấy có thể đem lời nhận xét của Hoài Thanh về Quách Tấn vận dụng vào thơ Ngân Giang: "(Người) đã tìm được những lời thơ rung cảm chúng ta một cách thấm thía. Người đã thoát hẳn lối chơi chữ nó vẫn là môn sở trường của nhiều người trong làng thơ cũ".
Nhà thơ Ngân Giang (Đỗ Thị Quế) sinh năm 1916 tại Hà Nội, gia đình dòng dõi nho học, bên Nội gốc nhà nho, bên ngoại trực hệ với Chúa Trịnh. Trên văn đàn Việt Nam hiện đại, Ngân Giang nữ sĩ là một hiện tượng, trong phong trào Thơ Mới, bà lại rất nổi tiếng về... thơ Đường! Những tác phẩm chính của bà: "Giọt lệ xuân" (nhật ký và thơ dưới bút danh Hạnh Liên) - NXB Tân Dân 1932. "Tiếng vọng sông Ngân" - NXB Lê Cường 1944. "Những ngày trong hiến binh Nhật" - NXB Đức Trí 1946. "Những người sống mãi" - NXB Sự Thật 1973. Ba tập "Thơ Ngân Giang" - NXB Phụ Nữ 1989 - NXB Trẻ 1991 - NXB Phụ Nữ 1994. Bà vào Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957.
Thật vậy, ngay từ bài thơ đầu tiên của Tuyển tập Ngân Giang, sáng tác năm 1936, tôi đã thấy một nét rất riêng của đời tư nữ thi sĩ được đưa vào thơ một cách tự nhiên, chân thật: "Con lên hai, mẹ hai mươi/ Ngơ ngác buồn tênh giữa cuộc đời/ Gió táp, mưa lầm... ôi gió lạnh/ Đường về biết sẽ hỏi thăm ai?" (Đường về), rồi Lỡ hận (1939): "Có những đêm trăng, những buổi chiều/ Vách mờ in bóng chiếc xiêu xiêu". Rồi Đợi tuy còn một số từ, một số câu ước lệ như: "Sợi tơ gẩy mãi rung cầm lạnh", nhưng câu kết đã là một tứ thơ, một tâm thế trữ tình có nét riêng và nghệ thuật có sáng tạo riêng. "Ngoài thềm lạnh lẽo chim lên tiếng/ Vội kéo rèm hoa xuống nửa vời". Kéo rèm hoa xuống nửa vời vì nửa muốn nghe tiếng chim biểu hiện của sự sống, nửa không muốn nghe vì tiếng chim như gợi nỗi cô đơn... Bài Khi gió heo may về có thể coi là một ví dụ về "bình cũ rượu mới": "Chiều ấy tờ hoa đành lẻ ý/ Mùa này chim nhạn có chung đôi". Tờ hoa, chim nhạn là những hình ảnh cũ nhưng "lẻ ý, lẻ đôi" là tình thực, cảnh thực của hai con người. Bài Tâm trạng thì hoàn toàn mới cả ý lẫn lời "ngày chưa sang thu đã thấy buồn/ Tình chưa ngời sáng đã hoàng hôn". Có những bài viết về nhân vật lịch sử mà cũng có tâm trạng cá thể, tâm trạng của chính nhân vật lịch sử đó đã được "tôi hóa". Đó là tâm trạng của Trưng Trắc khi thắng giặc, lên ngôi: "Chàng ơi/ Điện ngọc bơ vơ quá/Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi". Tác giả đã hóa thân vào nhân vật đến mức tạo ra câu thơ rung động lòng người mãnh liệt.
Chẳng thế mà nhà thơ, nhà giáo Đông Hồ khi giảng đến câu này đã xúc động đến đột quỵ! Cả đến Hán Vương trong Vương Tường cũng là một nhân vật ít nhiều có cá tính biểu hiện ở sự rung động trước nhan sắc cùng sự bất hạnh của cung nhân Vương Tường: "Trẫm thấy dường như trăng lạnh lạnh/ Tơ sầu kể lể chuyện hồng nhan/ Thiên tử say nhìn người quốc sắc/ Kiệu vàng ta chậm đón giai nhân", không chỉ Vương Tường mà cả Hán vương cũng là nhân vật của thơ mới.
Từ Cách mạng tháng 8 trở đi, thơ Ngân Giang có 2 dòng: một dòng trữ tình công dân, một dòng trữ tình đời tư, trong đó dòng đời tư đậm hơn và có quan hệ chút ít, ở những mức độ khác nhau, với dòng công dân. Chính đặc điểm này làm cho thơ Đường luật của Ngân Giang không rơi vào tình trạng hòa tan mất cái tôi (dĩ nhiên với những bài thơ công dân thành công trong thơ 1945 - 1975, cái tôi nhà thơ cũng hòa vào cái ta công dân mà không mất đi, nhưng đó là với những bài thành công còn ở những bài không thành công, người ta chỉ thấy cái ta chung chung, khái niệm, thuần lý trí, đặc biệt ở những bài mà tác giả của nó dùng thể thơ cũ Đường luật thì sự thiếu cá tính, thiếu tâm trạng cá thể càng lộ rõ trong những khuôn ngôn ngữ sáo mòn). Ngân Giang không rơi vào tình trạng đó trong những bài thơ công dân như những lời chào cách mạng. Ví dụ Kính dâng các bậc anh hùng dân tộc mở đầu là sự phá cách: "Ta say uy vũ Trần Hưng Đạo/ Ta say sự nghiệp Hồ Chí Minh" và câu kết là dấu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai: "Mấy thuở không phai hồn chủng tộc/ Muôn năm cờ đỏ dựng thanh bình". Tuy nhiên, sòng phẳng mà nói thơ trữ tình chính trị của Ngân Giang còn ít và không mới. Bài Xuân chiến địa có tình, nhưng lãng mạn quá, thơ mộng quá như phủ một màn trướng văn hóa tráng sĩ xưa lên cuộc kháng chiến và người chiến sĩ vệ quốc. Bài Khuya 1 cũng chưa theo kịp hiện thực sôi động quyết liệt của năm 1965. Những bài hướng về kháng chiến, Ngân Giang viết trong thành, lại hay hơn, thực hơn, có dư ba hơn: "Gác hẹp mơ màng tin quốc sự/ Ngày về mãi mãi nhớ lời nhau/... Ai lên xứ Bắc cho ta nhắc/ Những mảnh trăng vàng theo vó câu" (Gác hẹp). Đặc biệt bài An phận bộc lộ nỗi lòng của một người bị buộc phải tạm thu mình lại đợi thời. Ta hiểu vì sao tác giả lại phải dùng ẩn dụ: "Cá xám thu vây chờ vượt sóng/ Rồng vàng uốn khúc đợi tung mây/ Sống giữa lòng đêm tìm khối sáng/ Tim sầu nào biết gửi ai đây"... Tâm trạng chủ thể trữ tình được cá thể hóa đến cao độ: "Một vùng đất cũ say mà tỉnh/ Năm ngả thành xưa tỉnh mà say".
Hình thức, ngôn từ cũ có khi lại trở thành bức màn nghi trang cho những tư tưởng thực của tác giả lúc này đang ở trong lòng địch: "Một lại kinh kỳ vương quốc hận/ Giữa chiều hoang phế nhớ xa xôi/ Xa xôi ai có nhớ ai không? Xứ Bắc chiều nay chắc lạnh lùng?/ Canh vắng thép rung hồn Chiến quốc/ Đường khuya trăng dõi bóng anh hùng" (Mùa thương nhớ).
Những bài thơ đời tư của Ngân Giang nhiều bài rất chân thực, quá thực đến mức tác giả dùng lời nói trần: "Càng thương phận mỏng, thương em dại/ Lại xót con thơ, xót mẹ già" (Tình vạn dặm) hoặc: "Hỡi ơi, sinh kế từ muôn thuở/ Buộc chết nhân tài đến thế ư!" (Thân thế) và khi tác giả nói cụ thể hơn thì ta không thể cầm lòng được: "Mẹ theo chồng mới, cười như mếu/ Con nhớ cha xưa, khóc ngỡ đùa/ Mẹ con ngơ ngác lặng nhìn nhau/ Khung thêu, chỉ hết, tiền không có/ Giường mọt, nan thưa, ruột bỗng rầu" (Cùng đường). Đây là những câu thơ hiện thực nhất, đời nhất, riêng nhất trong thơ Đường luật Ngân Giang. Nó khẳng định tính vạn năng, tính linh hoạt của chính thể thơ quy phạm này trong tay người thơ tài hoa. Tuy nhiên ở một số bài, một số câu, cái thực chưa cất cánh được (Thơ trả nợ, Cùng đường). Ta vẫn thích hơn những câu bóng gió, Đường hơn mà không kém se lòng: "Cơm áo không thương đời bút mực/ Nắng mưa để táp đóa hoa mai/ Niềm tin còn chút duyên văn ấy/ Nghe khói trầm bay ấm dấu hài".
Thơ Đường luật thất ngôn bát cú là thể thơ khó làm nhất mà vào tay Ngân Giang bỗng trở nên "dễ dàng" như bất cứ thể thơ nào khác, thì tất nhiên càng dễ dàng hơn với Ngân Giang, các bài thơ dài gồm nhiều khổ 4 câu thất ngôn. Điều này ta đã gặp trongXuân chiến địa (1946) sau lại gặp trong Ướm hỏi: "Lành lạnh bên sông một quán nghèo. Đèn lay dáng trúc gió hiu hiu/ Hướng dương trà vẫn thơm như cũ/ Khóa tỏa tương tư đượm ít nhiều? Nào ai hay biết quên là khó/ Chợt gặp lời thơ lại khó quên.../ Nửa kiếp tìm quê vẫn gió mưa/ Quán chiều, bến trúc hỏi đường xưa". Đó là tình cảm của Ngân Giang đối với bạn, một chủ đề thấm đượm nhiều vần thơ của Ngân Giang, ngay cả trong những lúc khó khăn nhất.
Sẽ là thiếu sót nếu không nói tới một tình cảm thiết tha trong thơ Ngân Giang cho đến phút cuối đời, đó là tình cảm đối với quê hương Hướng Dương, Thường Tín, Hà Tây mà hơn một lần bà đã nói đến trong thơ ở đó có cái quán trà nhỏ cũng là nơi tụ họp bạn muôn phương. Trong chùm thơ 10 bài họa thơ của một bạn thơ Việt kiều đã có 3 bài nói về quê hương Hướng Dương của mình: "Tôi ở Hà Tây quê Hướng Dương/ Là nơi dừng bước của muôn phương/ Sánh với thiên nhiên trăm vẻ đẹp/ Góp cùng sông núi vạn mùa hương/ Quanh vùng làng mạc xa thành thị/Ga Vũ Lăng xưa liễu rợp đường". Tình yêu quê hương đất nước trong sự chia sẻ với người thơ xa xứ càng tràn chảy thành thơ.
Bài viết đã dài mà nguồn văn chưa muốn ngừng bởi con đang day dứt một nỗi tiếc: người nữ sĩ tài hoa ấy có thể lớn hơn nếu có một đời riêng thuận chiều hơn và được sự quan tâm nhiều hơn của cộng đồng - cộng đồng xã hội, cộng đồng thơ . Nhưng tất cả đã qua rồi, chỉ có thơ còn lại và thơ tự nó có một sự sống tự thân, sự sống trường tồn bởi nó chính là tiếng lòng của một con người yêu nước, yêu quê hương, con người ấy đã đi hết bản thân mình và đã gặp đồng loại. Người thơ ấy, tài thơ ấy đã bất chấp tất cả, bất chấp sự éo leo của số phận phức tạp của tình thế, và bất chấp cả sự bó buộc, sự quá thời của phương tiện hình thức để cho ta những bài thơ, những câu thơ tuyệt tác. Nàng thơ khoác tấm áo của quá khứ vẫn đồng hành với hiện tại và tương lai.
[1] Nguyễn Hữu Sơn - vấn đề con người cá nhân trong VH cổ nhìn từ góc độ lý thuyết. Sách: "Về con người cá nhân trong VH cổ Việt Nam: - Nhiều tác giả - NXB Giáo dục 1997. 
"Rằng ngày xưa ấy Ngân Giang..."
Ngày ấy, như đã thành lệ, cứ vào dịp cuối năm tôi lại tới thăm bà. Lần nào cũng vậy, bà vẫn mặc đẹp, thoa chút phấn sáp, lấy thỏi son tô lại làn môi, đeo chuỗi hạt ngọc, đốt chiếc lư trầm, đợi khói bốc lên, rót hai chén rượu và... chuyện thơ, văn. Và rồi cũng chưa bao giờ ngồi lại được với bà lâu. Lại những người khách đến. Không từ chối tiếp ai được: "Khổ một nỗi toàn là khách văn chương".
Khách quen đã nhiều mà khách lạ cũng lắm. Gặp khách lần đầu tới chơi nhà bà hay hỏi: "Sao mà tìm được nhà?", mặc dù bà thừa biết họ sẽ nói: Theo sự chỉ dẫn của nữ sĩ đó thôi: "Trước cửa vài khóm trúc/Gió về bay phất phơ..." 
Cả chủ lẫn khách lại cười vui vẻ. Rồi bà lại đốt chiếc lư trầm, khói lại bốc lên và lại rót rượu. Bà lại đọc thơ, ngâm thơ. Giọng bà sang sảng. Không nhầm lẫn. Vẫn một trí nhớ tuyệt vời.                  
Nữ sĩ Ngân Giang tên thật là Đỗ Thị Quế, sinh năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình Nho học 5 đời thờ Phật. 
Truyền thống văn chương của dòng họ ảnh hưởng rất sớm tới nhân cách của Ngân Giang. Ông ngoại của bà là hậu duệ của chúa Trịnh Sâm hay chữ. 
Ông nội là một nho sĩ nổi tiếng đất Bắc Hà, bạn thân của đại thi hào Nguyễn Du. Cha bà theo ông nội học chữ Hán, chơi đàn nguyệt nổi tiếng kinh thành.
Tuy nhiên cái nghề sống chính của dòng họ này lại là nghề thêu ren và bốc thuốc bắc. Đỗ Thị Quế lớn lên với Truyện Kiều, Hoàng Trừu, Quan Âm Thị Kính, Phạm Công - Cúc Hoa, Nhị Độ Mai...
Chính vì vậy mà năm mới lên 6 tuổi, một lần theo người bác ra ga, nhìn những con tàu, Đỗ Thị Quế đã thốt lên:
"Tàu về rồi tàu lại đi
Khối vô tình ấy nhớ gì sân ga"
"Một tài thơ thiên phú!" - người bác bỗng thốt lên. Từ đấy bà đã dạy cho cô cháu của mình cách làm thơ, phú, dịch Đường thi mà bà ưa thích.
Năm 1924, lên 8 tuổi, Đỗ Thị Quế đăng bài thơ đầu tiên "Vịnh Kiều" với bút danh Nguyệt Quyên trên tờ Đông Pháp. Sự phát tiết quá sớm của một tài thơ tất khó tránh khỏi khổ lụy. Đọc sách Phật, thấy dạy nhiều điều thiện, bé Quế thấy mình có tội quá nhiều. Thế là vào một chiều khi "hoa lan rụng trắng sân đình", cô bé Đỗ Thị Quế đã gieo mình xuống Hồ Tây.
May thay người nhà phát hiện kịp đưa bé về nhà. Năm ấy Đỗ Thị Quế mới tròn 9 tuổi. Quế tiếp tục làm thơ. Từ năm 1929 đến năm 1931 viết cho báo Trung Bắc Tân Việt với bút danh Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế. Năm 1932 cho in cuốn "Giọt lệ xuân" tại nhà xuất bản Tân Dân.
Danh tiếng Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế bắt đầu được mến mộ. Đến khi nhật báo Phụ Nữ Thời Đàm dành hẳn môt trang để giới thiệuGiọt lệ xuân với nữ sĩ tí hon Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế thì tiếng tăm của Đỗ Thị Quế đã nổi khắp kinh thành. Năm ấy Đỗ Thị Quế vừa độ tuổi trăng tròn.
Tài thơ phú bẩm sinh, sắc đẹp diễm kiều, lại đàn hay, họa giỏi, thêu thùa rất khéo, Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế đã trở thành niềm mơ ước của biết bao tài danh đất Bắc Hà. Nhưng mà như Phạm Quý Thích đã từng nói: "Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy". Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế cũng không thoát được cái vòng trầm luân ấy. Dường như bà cũng ý thức được điều ấy. Trong bài Hoài cảm, từ thuở ấy, bà đã viết:
"Mỗi bước chân đi, mỗi bước sầu,
Trăm năm thân thế gửi về đâu"
Hiểu rõ con gái mình, ông đồ Nho Đỗ Hữu Tài muốn Quế sớm yên bề gia thất. Không chịu sự sắp đặt của cha, nàng cố tình lẩn trốn. Biết khó bề khuyên bảo, ông đồ Nho đuổi đánh, đập nát 3 giàn hoa thiên lý, nàng đành phải bò ra cúi lạy cha xin chịu vâng lời.
Thế là bóng dáng chàng "hiệp sĩ" cách mạng mặc áo choàng đen mới kịp hiện hữu trong trái tim mẫn cảm của nàng đã trở thành dang dở. Lên xe hoa về nhà chồng nàng quay đầu về phương trời nơi người ấy ra đi, tạ tội:
"Ngày chửa sang thu đã thấy buồn
Tình chưa ngời sáng đã hoàng hôn
Trời không mưa gió lòng mưa gió
Người ở đầu thôn mộng cuối thôn".
Nhưng rồi tổ ấm gia đình cũng không thể giữ nổi con tim sôi nổi, ưa hoạt động của nàng. Nhà thơ tìm đến với phong trào cách mạng - Đó là vào năm 1935 - Bắt đầu bằng việc làm giao thông cho Đoàn Thanh niên cộng sản. Cũng từ thời gian này, bút lực của nữ sĩ càng thêm sung sức hơn. Vào một đêm mật thám Pháp đã tới nhà khám xét, tra hỏi vì "cô Hạnh Liên đã làm thơ kêu gọi thanh niên đứng lên cứu nước dán ở Đền Ngọc Sơn".
Mẹ chồng, vì lo cho sự an toàn của gia đình, đã không ngớt lời chì chiết cô con dâu là "mầm mống gieo họa cho cả dòng họ". Một đêm mưa gió bão bùng, bụng mang dạ chửa, Hạnh Liên lại gieo mình xuống Hồ Tây. "Dường như trời chưa cho tôi thoát kiếp trầm luân" - sau này nữ sĩ nhớ lại. Rồi bà bảo: "Kiếp trước tôi là võ tướng, vì giết nhầm một văn nhân nên kiếp này phải làm thi sĩ để trả nghiệp". Vì là nghiệp chướng nên cái nợ văn chương cứ đeo đuổi mãi.
Năm 21 tuổi nữ sĩ cho xuất bản cuốn "Duyên văn", rồi vào Sài Gòn viết cho Điện tín nhật báo và Mai của Đào Trinh Nhất. Một thời gian sau đó, nữ sĩ quay ra Bắc viết cho Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Đàn bà...
Năm 1939 "Trưng nữ vương" ra đời đã đánh dấu một giai đoạn mới trong sự nghiệp văn chương của nữ sĩ: tên tuổi của bà đã vang vọng từ nam ra bắc và bốn năm sau đó tập thơ Tiếng vọng sông Ngân với bút danh Ngân Giang ra đời đã đưa Ngân Giang lên vị trí những người được yêu thích nhất trên thi đàn Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám (1945) bùng nổ. Ngân Giang bị cuốn theo dòng thác cách mạng. Nữ sĩ hô hào cổ vũ cho cuộc kháng chiến.
Để tỏ lòng tôn kính các vị anh hùng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ngân Giang đã đem hết cái tài thêu thùa được học từ thuở nhỏ, thêu cả một bài thơ "Kính dâng các bậc anh hùng", trong đó có những câu đầy khí phách "ta say uy võ Trần Hưng Đạo, ta say sự nghiệp Hồ Chí Minh" và dâng lên Hồ Chủ tịch. Cảm động trước bầu nhiệt huyết của nữ sĩ, Bác Hồ khen:
"Mấy lời cảm tạ Ngân Giang
Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu"
Do đòi hỏi cấp bách và chiến lược lâu dài của cuộc kháng chiến, Bộ chỉ huy của cách mạng Việt Nam dời về Việt Bắc. Ngân Giang cũng hăng hái đeo ba lô, bồng hai con nhỏ theo đoàn quân cách mạng về Việt Bắc để rồi hai năm sau đó phải quay trở lại nội thành.
Thân gái bơ vơ giữa dặm trường. Muôn vàn mối đe dọa, cám dỗ" - Ngân Giang nhớ lại. Rồi thì cũng phải tìm chốn nương thân. Trong số những người tìm đến với bà bà chọn con trai tuần phủ Hà Đông với hy vọng "sẽ là lá chắn che chở an toàn để tiếp tục đóng góp cho cách mạng". Đây cũng là bước ngoặt đầy bi kịch của nữ sĩ.
Công bằng mà nói, ở mức độ nào đó, bà có lý. Chẳng thế mà, có lần, với tư cách là con dâu tuần phủ, nữ sĩ vào được tới tận sào huyệt của quân Tưởng cứu được nhiều trinh sát Việt Minh thành. Trong số đó có cả nhạc sĩ Đỗ Nhuận.
Sống trong lòng địch mà lòng nữ sĩ vẫn hướng về Việt Bắc:
"Gác xép mơ màng tin quốc sự
Ngày về mãi mãi nhớ lời nhau"
Cách mạng thành công, hòa bình lập lại, Ngân Giang bắt đầu bị quên lãng. Tên tuổi và thơ văn của nữ sĩ không được xuất hiện trên sách báo, mặc dù những người yêu thơ từ Nam chí Bắc vẫn truyền tay nhau chép thơ bà. Cái chân cán bộ văn hóa quèn của bà cũng bắt đầu bị lung lay.
Vào năm 1957, ở tuổi 41, Ngân Giang nữ sĩ nổi tiếng đã buộc phải rời khỏi Sở Văn hóa thông tin Hà Nội. "Ra khỏi biên chế nhà nước thời bấy giờ là chuyện kinh khủng" - Ngân Giang nhớ lại. Đi đâu, làm gì để nuôi sống bản thân và gần chục đứa con đây?
Với tâm trạng cô miên nữ sĩ thốt lên:
"Ngơ ngác phương trời con én lạc
Chập chờn khung cửa cánh hoa nghiêng"
Chua xót lắm! Đau đớn lắm! Cái mà ta hết lòng chờ đón, hết lòng ngưỡng mộ, tôn thờ lại chính là cái đã hắt hủi ta, khiến cho ta như cánh én lạc bầy. Tuyệt vọng, không còn biết bấu víu vào đâu, Ngân Giang cầu cứu Hội Nhà văn, rồi nhà xuất bản để may ra kiếm được một công việc gì đấy: biên tập, morat, đóng bìa sách, thậm chí là rửa cốc chén, dọn vệ sinh... miễn là có việc có lương.
Viết đơn, chờ đợi. Lại viết đơn. Đến lần thứ 10, không chờ được nữa bà chạy tới "cạy cục" nhà thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu thương bà lắm, nhưng rồi ông cũng chỉ biết thở dài: "Khổ quá, tôi là thiểu số!", sau khi đã vò đến nát đầu, gãi đến đỏ tai.
Tuyệt vọng đến cùng cực, "chết không được đành phải sống". Ngày ngày nữ sĩ ra bãi sông Hồng quét lá khô để bán, tối về đi rửa bát, chai lọ thuê. Làm quần quật cũng chỉ đủ tiền mua gạo nấu cháo cho 10 đứa con sống lay lắt qua ngày.
Ông Tú Mỡ, thủ quỹ Hội Nhà văn lúc bấy giờ thương tình ứng trước cho bà 20 đồng với điều kiện: "Hết tháng phải trả nợ cả gốc lẫn lãi bằng... thơ". Cụ Tú thương mà làm vậy, chứ thực tình cụ thừa biết suốt ngày đầu tắt mặt tối kiếm cơm, kiếm cháo thì còn tâm trí đâu mà nghĩ tới chuyện văn chương. Mà có trả vốn và lãi bằng thơ cho cụ thì đăng ở đâu bây giờ?
Cũng không thể ngờ được rằng cuộc sống bằng nghề quét lá ấy kéo dài tới 10 năm, và kết quả là:
"Mười năm quét lá bên sông
Hình hài để lại cái còng trên lưng"
Bạn bè, những người yêu thơ Ngân Giang đến thăm bà, không ai cầm được nước mắt. Nhưng vận may có lúc cũng mỉm cười với nữ sĩ. Nhờ tài thêu ren từ tấm bé, Ngân Giang được nhận vào Hợp tác xã thêu ren Song Hỷ.
"Chiếc kim chiếc bút vui ngày tháng
Nào có ham gì miếng ngọt ngon"
Nhưng cái hạnh phúc nhỏ nhoi ấy cũng tồn tại chẳng được bao lâu. HTX phát động phong trào "phê bình và tự phê bình". Bà hăm hở hưởng ứng "chống tiêu cực, tố cáo kẻ tham ô" và kết quả là bị đuổi ra khỏi HTX vì "gây rối trật tự công cộng. Bôi xấu cán bộ lãnh đạo".
Thế là nữ sĩ lại bơ vơ. Giờ thì không còn đủ sức để quét lá, rửa bát, chai lọ thuê nữa rồi. Bà ra đường mở quán bán nước:
"Một quán bên sông cuối phố nghèo
Miếng trầu bát nước có bao nhiêu"
Khổ một nỗi vốn liếng đã ít, khách thì phần đông lại là bạn văn chương "thừa tình cảm nhưng lại chẳng có tiền". Biết làm sao được. Rồi hy vọng cứ nhạt nhòa theo năm tháng:
"Sớm tối dăm ba đồng vốn liếng
Tháng ngày dăm bảy khách văn chương
Ôi năm cứ hết, xuân không hẹn..."
Cuộc sống cứ kéo dài, và nữ sĩ vẫn ngày ngày: "Còm cõi bên sông tóc úa dần/ Tay nâng chén nước lệ đầy khăn". Tuy nhiên bất chấp khó khăn níu kéo, bất chấp miệng tiếng thị phi. Nữ sĩ không những tỏ ra có nghị lực mà con đầy phách lực, bà cứ thản nhiên, nhi nhiên sống và chiêm nghiệm:
"Sớm khuya ngâm ngợi câu thành bại
Dưa muối đôi chiều cũng thấy ngon..."
Quả thực nếu chỉ quẩn quanh vì chuyện áo cơm và những bất hạnh chồng chất hẳn nữ sĩ không tài nào đứng vững được. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ngân Giang viết như một dòng sông tuôn chảy điều hòa. Ngân Giang là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: bà là người làm thơ liên tục dài năm nhất, có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất (hơn 4.000 bài) có nhiều bài được truyền tụng và được coi là hay trong áng văn thơ nước nhà (như Trưng nữ vương, Xuân chiến địa...)
Ngày tháng rồi sẽ qua đi... Những bất hạnh của cuộc đời sẽ lùi dần vào quá khứ. Ngân Giang nữ sĩ giờ cũng đã thành người thiên cổ, nhưng sự nghiệp văn chương của bà sẽ còn mãi được người đời lưu truyền:
"Rằng ngày xưa ấy Ngân Giang
Một dòng sông lạnh muôn vàn sao rơi"
Lê Thọ Bình

CHÙA TRẦM
Hương nào ngát tỏa chơi vơi
Ở đây non nước cách vời phồn hoa;
Hươu nai thoáng bóng gần xa,
Ngự hài võng lọng nhạt nhòa dấu son.
Tử Trầm ngọn núi chon von
Tầng tầng hoa đại trắng mòn lối xưa…
Thoai thoải đường son lượn dưới đồi
Long châu thăm thẳm lối hoa rơi.
Đào giang bóng lẩn thuyền ngư phủ,
Tiên động rêu phong dấu ngự hài ;
Giọt nước sườn non rơi lã chả
Khói trầm vách đá tỏa chơi vơi .
Thơ xưa toan hỏi ai đề vịnh
Chuông mộ chùa bên đã đổ hồi…
Chuông mộ chùa bên đã đổ hồi
Hiên trong vẫn ngát chén hồng mai.
Dăm câu hồ bể say mưa nắng,
Mảnh áo nâu sồng xót nhạt phai.
Đằm thắm tâm tình thơ hội kiến
Phiêu phiêu bóng dáng Phật Như Lai
Khói hương tịch mịch xa làng mạc
Chim chóc bay về…tiếng lá rơi.
Chim chóc bay về… tiếng lá rơi,
Giang thôn hờ hững bóng quăng chài.
Cây trùm trước miếu bông hoa rớt,
Sông uốn quanh chùa cánh nhạn trôi.
Lối cỏ sân rêu từ độ ấy
Cồn dâu mặt sóng đã lâu rồi.
Xe loan cửa động không còn vết
Mà nẻo Trăm gian những cách vời.
Mà nẻo trăm gian những cách vời
Lối mòn hái thuốc dấu chân nai.
Khói bay lối xóm chừng cao thấp
Đá lở đầu thôn đến dập vùi;
Võng lọng chiều xưa còn phảng phất
Điện đài lối cũ đã phai phôi.
Nhà tranh giậu trúc đôi ba mái
Núi đứng chênh chênh một phía trời.
Núi đứng chênh chênh một phía trời
Cây đa bên núi ráng chiều phai
Rễ vương chân động đàn dơi liệng
Lá rợp sân chùa bóng nguyệt soi.
Bàng bạc sương khuya in dặm vắng
Chơ vơ tháp cổ lạnh ven đồi.
Đêm nay thắp nến xem kinh sách
Thoáng thấy đài sen Phật mỉm cười…
Thoáng thấy đài sen Phật mỉm cười :
Ở, đi lưu luyến mãi chưa thôi !
Lạnh lùng gió nổi , chiều như giục ,
Vi vút thông reo , hạc vắng rồi ;
Bên quán trà suông còn có bạn
Đầu non hoa rụng biết tìm ai ?
Hãy về , để lại thơ ngoài động
Vẳng tiếng gà thôn , hạt móc rơi .
Vẳng tiếng gà thôn , hạt móc rơi
Cỏ hoa mấy ngả lối trần ai !
Đều đều nhịp mõ như lưu khách,
Ríu rít lời chim có tiễn người…
Cửa động ngâm vang thơ tống biệt
Hiên chùa hẹn mãi buổi trùng lai.
Ân cần sư trưởng trao phần lộc
Kẻ bước lên am , kẻ xuống đồi.
Kẻ bước lên am , kẻ xuống đồi
Đường về Hà Nội thấy xa xôi!
Thẫn thờ ngoảnh lại: mây che núi,
Ngừng ngập trông ra: nước lẫn trời…
Cảnh đẹp trăm năm dù có khác
Tình ai muôn thuở vẫn không nguôi.
Tử Trầm chốn ấy bao hò hẹn
Hoa trắng đầu non chắc vẫn rơi?
Ngân Giang nữ sĩ
Với mớ ngôn từ đã cũ, nhưng qua đôi tay khéo sắp đặt, trau chuốt của bà, chúng trở nên những viên ngọc quí mới lạ, thật phù hợp để ca ngợi, để thố lộ những gì trang nhã, cao cả và thiêng liêng.
Trong kho tàng thơ Việt, có không ít bài viết về Trưng nữ vương; nhưng đa phần tác giả đều là phái nam; bởi vậy, hay thì có nhưng thấm thì không.
Có thể nói bài thơ tôi sẽ post ngay sau đây, là bài thơ hay nhất viết về nhân vật lịch sử này.
Thật đặc biệt và cũng thật tinh tế, âm điệu toàn bài giống như một khúc bi hùng ca. Lẫn trong tiếng trống đồng, tiếng tù và, vừa rộn ràng, vừa uyển chuyển, diễn tả được hết niềm vui của người thắng trận; là tiếng rơi thật khẽ của những giọt nước mắt của người góa bụa trẻ thầm tủi cho thân phận cô đơn, lạnh lẽo của mình…
Chỉ có phụ nữ mới có thể hiểu cạn cùng tâm trạng của một phụ nữ.
Tôi nói vậy, có võ đoán lắm không? Và các bạn có nghe như tôi không?
Trưng Nữ Vương
Thù hận đôi lần chau khóe hạnh
Một trời loáng thoáng bóng sao rơi
Dồn sương vó ngựa xa non thẳm
Gạt gió chim bằng vượt dặm khơi
Ngang dọc non sông đuờng kiếm mã
Huy hoàng cung điện nếp cân đai
Bốn phương gió bão dồn chân ngựa
Tám nẻo mưa ngàn táp đóa mai
Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ
Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai
Hồn người chín suối cười an ủi
Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi
Lạc tướng quên đâu lời tuyết hận
Non hồng quét sạch bụi trần ai
Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận
Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời...
Ải bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá,
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi
Ngân Giang.1939
Nói thêm:
Các bạn nên vào địa chỉ mà tôi vừa nêu trên, để hiểu và thương cảm cho một số phận, một tấm lòng.
Với tôi, 4 câu cuối chỉ toàn là nước mắt.
Ải bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá,
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi
(Khăn trở lạnh hàm ý nói lên sự thay đổi đột ngột từ vui-> buồn-> tiếng kêu thương; xảy ra ngay nơi lòng người chiến thắng, vì không còn người chồng yêu dấu đã cùng kề vai chiến đấu thuở nào để cộng sự, sẻ chia…
Các bạn đọc chầm chậm sẽ cảm nhận được cái hay của âm điệu trong thơ nhờ từ trở đứng ở vị trí này.Từ chàng ơi da diết lắm, không cần phải nói. Từ chếch cũng rất đắc địa. Ngoài nghĩa “xéo, lệch, không ngay”, nó còn gợi người đọc thêm thương cảm cho một phận người vì việc lớn nên phải nén chặt nỗi lòng. Sau những phút hoan ca, ba quân lui về nơi an nghỉ;cũng chính là lúc người chủ tướng thấy mình thật lẻ loi, hụt hẩng; giống hệt như bóng trăng vừa chơi vơi, quạnh quẽ vừa nghiêng lệch trên trời...)
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu. 
Trưng Nữ Vương (*)
Mây thu lạnh
Dòng nước Cẩm Khê bừng dâng chính khí
Khói thu mờ
Ðáy hồ Lãng Bạc ngát động khuông liên
Ðền Nghĩa Trị rời thềm khuê các
Trả thù chồng thẳng đất Long Biên
Chém tướng giặc, đuổi quân về aỉ bắc
Mặc aó tang, rơi lệ ngự ngai vàng
Rồi ba thu cờ anh thư phất phới,
Ðất Mê Linh cỏ cây hoan lạc
Ðể một sớm gươm danh tướng
ngang tàng trời Giao Chỉ
Non nước oan khiên
Trùng trùng sóng nước
U uất thuyền quyên
Ðã mất thu rồi trăng ngời tiết liệt
Còn bao thu nữa sóng tỏa linh thiêng
Thù hận đôi lần chau khóe hạnh
Một trời loáng thoáng bóng sao rơi
Dồn sương vó ngựa xa non thẳm
Gạt gió chim bằng vượt dặm khơi
Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ
Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai
Hồn người chín suối cười an ủi
Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi
Lạc tướng quên đâu lời tuyết hận
Non hồng quét sạch buổi trần ai
Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận
Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời
Aỉ bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi điện ngọc bơ vơ quá
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi.
Ngân Giang
Đặng Hiển 
Theo http://hodovietnam.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Chuyện hồi nhỏ học sinh ngữ pháp rồi mê sách hình tiếng Pháp   1.  Vào thời chưa có internet, sách báo online…, tức chỉ có sách báo in, ...