"Đèn đỏ phả dừng
lại, đèn xanh được đi" là luật giao thông phổ biến khắp nơi trên thế giới.
Nhưng ít ai biết rằng trong quá khứ không phải là xanh là đi, đỏ là dừng và
vàng là đi chậm. Hãy cùng tìm hiểu lịch sử của đèn giao thông không phải ai
cũng biết trong bài viết dưới đây.
Tại sao
đèn đỏ thì phải dừng lại còn đèn xanh thì được chạy mà không phải là ngược lại?
Tại sao lại không chọn các màu khác đỏ và xanh lá? Để tìm câu trả lời, mời các
bạn trở lại khoảng thời gian những năm 1830.
Lịch sử ra đời của đèn giao thông
Quy định tín hiệu màu sắc
giao thông hiện nay bắt nguồn từ hệ thống dùng trong ngành công nghiệp
đường sắt vào những năm 1830. Vào thời điểm bấy giờ, các công ty đường
sắt đã phát triển một hệ thống đèn báo hiệu để người điều khiển tàu biết khi
nào là dừng hoặc tiếp tục đi. Mỗi màu sắc sẽ đại diện cho các hành động khác
nhau. Màu đỏ được chọn để biểu thị tín hiệu dừng lại, màu trắng cho phép đi
tiếp và màu xanh lá để cảnh báo, thận trọng hơn.
Hình ảnh
trụ đèn báo tín hiệu hiện đại trong ngành đường sắt
Nguyên
nhân màu đỏ, màu của máu, đã là một tín hiệu của sự nguy hiểm từ thời xa xưa.
Một số sử gia còn cho rằng các binh đoàn La Mã còn sử dụng các lá cờ màu đỏ như
biểu tượng của thần chiến tranh vào những trận chiến cách đây hơn 2000 năm. Rõ
ràng, màu đỏ hoàn toàn phù hợp để ra hiệu dừng lại do nó khá kích thích thị
giác của con người. Tuy nhiên, việc dùng màu trắng để ra hiệu cho phép được đi
tiếp lại xuất hiện nhiều vấn đề.
Điển hình như một vụ tai
nạn hồi năm 1914 đã xảy ra, nguyên nhân là do chiếc kính lọc màu đỏ đã bị rơi
ra ngoài và để lộ ra bóng đèn màu trắng bên trong. Khi đó, người điều khiển đèn
vẫn nghĩ là hệ thống đèn hoạt động bình thường, trong khi người lái tàu lại
nhìn thấy màu trắng và nghĩ là mình có thể đi tiếp. Kết quả là, đoàn tàu đó đã
đâm vào toa xe lửa phía trước. Trước tình hình đó, ngành đường sắt quyết định
chuyển màu xanh lá thành tín hiệu "có thể đi" và màu
vàng được chọn để ra hiệu cảnh bảo cẩn thận. Ngành đường sắt cho rằng 3
màu đỏ, vàng, xanh hoàn toàn khác nhau và có thể dễ dàng phân biệt bằng mắt
thường.
Hệ thống đèn báo hiệu trên được mang từ đường sắt đến đường bộ
như thế nào?
Vào năm 1865, tại London
nước Anh, một mối quan tâm được dấy lên trong cộng đồng do lượng xe ngựa kéo
ngày càng tăng nhanh và gây nguy hiểm cho người đi bộ khi họ băng qua đường.
Khi đó, một kỹ sư và nhà quản lý đường sắt tên là John Peake Knight, người có
vai trò quan trọng trong việc thiết kế hệ thống đường sắt tại Anh, đã đến sở
cảnh sát London và đề xuất ý tưởng dùng hệ thống trụ đèn tín hiệu trên
đường ray xe lửa (semaphore) để trang bị cho đường giao thông bình thường.
Tín hiệu
semaphore.
Theo ý
tưởng của John, trụ đèn giao thông sẽ có 1 hoặc nhiều nhánh có thể nâng thẳng
đứng lên và hạ xuống theo chiều ngang để chắn đường lại. Vào ban ngày, các nhân
viên cảnh sát sẽ điều khiển nó nâng lên hạ xuống để báo cho những chiếc xe ngựa
biết khi nào họ phải dừng lại và đứng tránh sang một bên. Vào ban đêm, chiếc
trụ được trang bị màu đỏ và xanh lá để báo cho người điều khiển xe biết khi nào
được đi hoặc phải dừng lại. Sự kiện này đánh dấu việc đèn tín hiệu giao thông
đã chuyển từ đường sắt lên đường bộ thông thường.
Ngay
khi đó, đề xuất của John đã nhanh chóng được chấp nhận và vào ngày 10/12/1868,
hệ thống trụ đèn đầu tiên được lắp đặt tại giao lộ Great George và Bridge
Street ở London. Và hệ thống đã làm việc rất hiệu quả... cho đến vài tháng sau
đó: Một trong những ống dẫn cung cấp khi gas thắp sáng đèn bị rò rỉ. Thật không
may, người cảnh sát đang đứng gần đó để điều khiển các nhánh của trụ đèn không
nhận thấy việc gas bị rò rỉ. Kết quả là bóng đèn bị phát nổ và nhân viên cảnh
sát đó đã bị thiêu cháy. Vì vậy, mặc dù những thành công ban đầu, trụ đèn giao
thông ngay lập tức bị hủy bỏ tại Anh.
Không chỉ
riêng Mỹ mà tại một số nước khác
cũng sử dụng tháp giao thông trong những năm
1910
Ở phía
bên kia bờ đại dương vào những năm 1910 và 1920, các cảnh sát tại Hoa Kỳ cũng
sử dụng một cái tháp cao để quan sát tình hình giao thông thuận lợi hơn. Trong
suốt khoảng thời gian này, nhân viên cảnh sát có thể dùng hệ thống đèn xanh lá
và màu đỏ từ ngành đường sắt để báo hiệu cho các phương tiện biết khi nào được
đi hoặc phải dừng lại. Một cách khác cũng được sử dụng là viên cảnh sát sẽ vẩy
cánh tay của họ để ra hiệu điều khiển giao thông.
Vào năm
1920 tại thành phố Detroit, Michigan, một cảnh sát tên là William L. Potts đã
phát minh ra mô hình tín hiệu giao thông 4 mặt, 3 màu, sử dụng cả 3 màu đỏ,
vàng, xanh lá để điều khiển giao thông tại các giao lộ. Việc này đánh dấu sự
kiện thành phố Detroit trở thành nơi đầu tiên trên thế giới sử dụng đèn giao thông
3 màu đỏ, vàng, xanh và vẫn còn áp dụng rộng rãi cho đến ngày nay. Thời gian
sau đó, nhiều nhà phát minh đã tiếp tục thiết kế lại những mẫu đèn giao thông
khác nhau, một số vẫn sử dụng 3 màu đỏ vàng xanh, một số thiết kế khác lại chọn
những màu khác. Khi đó, trụ đèn giao thông cần một người thực hiện thao tác
đóng cầu dao, ấn nút,... để đổi màu đèn. Và dĩ nhiên, chi phí áp dụng và vận
hành đèn giao thông với phương thức trên là khá tốn kém.
Mô hình
đèn giao thông 4 mặt, 3 màu do William L. Potts đề xuất
Vào cuối những năm 1920,
một số đèn giao thông tự động bắt đầu được phát minh. Mô hình đầu tiên sử dụng
phương pháp đơn giản là đổi màu đèn sau các khoảng thời gian cụ thể. Tuy nhiên,
nhược điểm của của phương pháp này là gây ra tình trạng một số xe phải dừng
lại, trong khi đường cắt ngang lại không có phương tiện nào băng qua giao lộ.
Khi đó, một nhà phát minh có tên Charles Adler Jr đã đề xuất ý
tưởng nhằm khắc phục tình trạng trên.
Theo đó, Alder đã phát
minh ra mô hình đèn giao thông có thể phát hiện ra tiếng còi xe hơi.
Một microphone được lắp trên điểm giao nhau của 2 con đường. Khi có phương tiện
dừng lại, tất cả những gì người lái cần làm là bấm còi để đèn giao thông chuyển
màu. Để giữ cho người lái không liên tục bấm còi khiến màu đèn chuyển quá nhanh,
Alder còn quy định rằng một khi đèn đã đổi màu thì 10 giây sau nó mới có thể
đổi màu lần nữa. Ông cho rằng với khoảng thời gian này thì ít nhất 1 chiếc xe
cũng có thể băng qua đường an toàn. Và dĩ nhiên, hệ thống này cũng gây không ít
phiền toái cho người đi bộ và các hộ gia đình gần giao lộ bởi tiếng kèn liên
tục.
Hình ảnh
bên trong trung tâm điều khiển tín hiệu
giao thông vào những năm 1970
Đồng thời, nhà phát minh Henry
A. Haugh đã đề xuất ý tưởng hệ thống đèn giao thông mới nhằm khắc phục
các nhược điểm trước đó. Hệ thống của Haugh sử dụng 2 dải kim loại nhằm phát
hiện ra khi nào có xe chạy lên. Khi một chiếc xe đi qua làm cho cho 2 thanh kim
loại chạm vào nhau, ánh đèn sẽ sớm được đổi màu để cho phép xe tiếp tục di
chuyển về phía trước. Tuy nhiên, mô hình của Haugh đã bộc lộ nhược điểm, một số
trường hợp xe không chạy vào đúng điểm cần thiết và hệ thống đổi đèn không thể
hoạt động được.
Mãi tới những năm 1950, nhờ sự phát triển của máy tính nên việc
đổi màu đèn giao thông dã có bước cải tiến rõ rệt. Đèn giao thông đã hoạt động
chính xác, nhanh chóng hơn. Vào năm 1952, 120 chiếc đèn giao thông tại thành
phố Denver đã được điều khiển bằng máy tính. Tiếp theo đó vào năm 1967, các
thành phố Toronto và Ontario đã chính thức sử dụng hệ thống máy tính chuyên
dụng để điều khiển tín hiệu đèn giao thông. Không lâu sau đó, hệ thống máy tính
đã có thể kiếm soát tín hiệu giao thông ở 159 thành phố khắp
nước Mỹ thông qua đường dây điện thoại. Đồng thời, người điều khiển cũng có thể
điều chỉnh thời gian đèn xanh và đèn đỏ một cách nhanh chóng bằng máy tính.









Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét