Tư tưởng nữ học của Đạm Phương nữ sử
|
|
Trong bài Lịch trình tiến
hóa của văn học phụ nữ ta (năm 1943), Hoa Bằng viết: “Từ khi có chữ quốc
ngữ, báo quốc ngữ, chị em bạn gái nắm được cái lợi khí ấy, thường hay giãi bày
tâm tư ý tưởng trên báo chương. Nam phong ra đời từ năm 1917, chính là
một dịp để các nữ sĩ khua chuông gióng trống trên văn đàn”(1).
Cũng trong bài này, khi điểm
qua các giai đoạn vận động của tư tưởng các nhà văn nữ Việt Nam hồi nửa đầu thế
kỷ, Hoa Bằng nhận xét “từ khi Âu hóa, nhiều bà chịu ảnh hưởng hoặc trực tiếp hoặc
gián tiếp của văn chương Tây, nhất là tiểu thuyết Tây, rất dễ tiêm nhiễm cái tư
tưởng lãng mạn trong văn học của họ”. Ông nhắc đến Tương Phố với Giọt lệ
thu song cũng lưu ý đến các bà Đạm Phương nữ sử và bà Huỳnh Thị Bảo Hòa
trên tờ Tiếng Dânvà cô Vân Anh trên tờ Phụ nữ tân văn “đã dần dần
đi vào con đường quốc gia”, “người ta không than duyên, khóc tình nữa, nhưng
người ta lo việc trau dồi nữ công, cổ động phụ nữ chức nghiệp, hô hào nam nữ
bình quyền…”.
Đó là chuyện của giai đoạn
trước năm 1931. Giai đoạn từ khi Phong hóa xuất hiện (1932) đến cuối
1939, Hoa Bằng gọi là thời kỳ phá hoại “nghĩa là nghị luận thì dứt gốc,
người ta công nhiên khai chiến với Nho giáo; thơ ca thì nghiêng hẳn về thể tự
do, người ta dùng lối trữ tình nhẹ nhàng mà tả những nỗi yêu thương, nhớ nhung
bằng giọng du dương ủy mỵ; tiểu thuyết thì cổ động về chủ nghĩa cá nhân, chỉ muốn
hưởng nhiều quyền lợi, chứ không muốn gánh vác bổn phận đối với đại gia
đình…”. Song theo ông, từ năm 1941 trở đi, họa theo dịp đàn “quốc gia cách mạng”
của nước Pháp, các nhà văn Việt Nam “cũng giật mình tỉnh dậy, cố tìm lấy những
cái cố hữu của mình, rồi nhặt thêm những cái hay, cái tốt của ngoại lai để mong
đi đến một cuộc kiến thiết hoàn bị”. Hoa Bằng đặt cuốn sách Giáo dục
nhi đồng (1942) của Đạm Phương trong xu thế đó, viết tiếp: “Bà Đạm Phương
cho ra một cuốn sách giáo dục về nhi đồng, muốn đem “phẩm, thuốc” khéo chế ở
trong gia đình mà “nhuộm” trẻ em ngay từ khi hãy còn là một thứ “hàng mộc”. Ông
kết luận “ Có thể nói văn học phụ nữ ta bây giờ đương ở vào thời kỳ kiến
thiết : phục hưng cái tinh thần cố hữu của dân tộc Đại Việt, để làm thơm
tho cho trang Việt nữ văn học sử sau này” (1).
Bài viết từ rất sớm của Hoa
Bằng đặt ra nhiều vấn đề rộng lớn của văn học phụ nữ đầu thế kỷ XX mà ngày nay
chúng ta phải xem xét kĩ, kể cả những luận điểm có thể tán đồng và cả những luận
điểm phải thảo luận thêm. Điều quan trọng là, bài viết cung cấp cho chúng ta một
cảm hứng để nhìn lại một vấn đề hẹp hơn, vấn đề nữ học trong cái nhìn của Đạm
Phương, tác giả đã được Hoa Bằng nhắc đến nhiều lần trong bài viết nói trên.
Hai thập niên đầu thế kỷ XX ở
Việt Nam, trong nhiều vấn đề nhân học, nổi lên vấn đề nữ học như là một vấn đề
quan trọng, thu hút sự chú ý thảo luận và tranh luận của giới trí thức, nhất là
nhìn từ quan điểm của chính người phụ nữ. Có nhiều nguyên do thực tế và nhận thức,
trong đó phải nói đến hiện tượng nhiều trường nữ học đã được thành lập ở cả ba
kỳ trong các thập niên đầu thế kỷ XX: một trường nữ học (sau này đổi tên là trường
Gia Long) khai giảng tại Sài Gòn năm 1915; trường nữ sư phạm Hà Nội thành lập
năm 1918 và trường Cao đẳng tiểu học Đồng Khánh (Huế) thành lập năm 1919(2).
Người phụ nữ như là sản phẩm của giáo dục mới sẽ như thế nào? Làm cách gì để có
được sản phẩm con người đó? Những câu hỏi này chạm đến nhiều vấn đề cụ thể như
mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương tiện giáo dục. Chúng tôi cho rằng,
để xem xét đóng góp của Đạm Phương trong vấn đề hình thành người phụ nữ mới, hiện
đại cần được phân tích cụ thể, thực chứng, có so sánh với các nhân tố thời đại
chứ không nên tiếp cận theo kiểu khoa trương ồn ào, thiếu căn cứ, với những nhận
định đi quá thực tế vốn có. Trong bài viết này, chúng tôi phân tích vấn đề “nữ
học” là có dụng ý tránh các kết luận quá sự thực theo hướng “nữ quyền” mà một
vài bài viết về Đạm Phương đã nêu lên.
Về khái niệm nữ học, phải
nói ngay rằng đây là từ dùng của các học giả, các nhà chính luận chính thời đó,
để chỉ các vấn đề phụ nữ nói chung, nhất là giáo dục phụ nữ. Cần phân biệt với
“nữ học chủ nghĩa” mà một số học giả Trung Quốc gần đây sử dụng nhưng để dịch
khái niệm feminism của Anh ngữ (3). Trong cách dùng từ thời kỳ đầu thế kỷ
XX, ta thấy đây là thời kì giới trí thức đi ra từ truyền thống phương Đông nhìn
nhận vấn đề phụ nữ dưới những tác động của thực tiễn cuộc sống xã hội và tư tưởng
đến từ cuộc tiếp biến văn hóa với phương Tây. Tuy nhiên, ở một nước theo truyền
thống nam quyền như Việt Nam, việc tiếp cận tư tưởng nữ quyền phải tuân thủ những bước
đi mà dẫu một tiến trình hiện đại hóa nhanh chóng nhất cũng không thể bỏ qua.
Cách chúng tôi đặt vấn đề về tư tưởng nữ học là để nhấn mạnh đặc trưng của giai
đoạn đầu tiên trong lịch trình phát triển tư tưởng giải phóng phụ nữ ở Việt
Nam, khi đó chưa thể nói đến một phong trào nữ quyền theo nghĩa thực sự của nó
như đã có một số nhà nghiên cứu nêu lên (4).
Việc chọn tạp chí Nam Phong
để khảo sát tư tưởng nữ học của Đạm Phương nữ sử cũng có lí do riêng. Trong khoảng
mấy thập niên trước cách mạng tháng Tám 1945, có nhiều người nêu vấn đề phụ nữ,
song có thể nói, Nam Phong là tờ tạp chí nêu vấn đề vào loại sớm nhất và trong
các trước tác của bà Đạm Phương thì bài viết trên Nam Phong năm 1920 cũng là
bài viết đầu tiên của một nữ tác giả hưởng ứng cuộc thảo luận về nữ học
lúc đó, do các tác giả nam giới đề xướng.
Ngay từ số 4 (1917) của tạp
chí Nam Phong, Phạm Quỳnh đã viết bài “Sự giáo dục đàn bà con gái”.
Bài viết này như đã nói hẳn là những suy nghĩ mang tính phản biện khá sớm về
chương trình của trường nữ học Sài Gòn, cũng cho thấy Phạm Quỳnh đã chịu ảnh hưởng
đậm đà của tinh thần phương Tây khi đặt vấn đề giáo dục phụ nữ ở nước ta-một đất
nước có truyền thống tư tưởng nam quyền cố hữu. Cách Phạm Quỳnh và nhiều tác giả
khác tiếp cận vấn đề phụ nữ qua con đường giáo dục có một khía cạnh hợp lý.
Simone de Beauvoir đã nói trong cuốn Giới tính thứ hai, đại ý rằng người ta
không sinh ra đã sẵn là phụ nữ mà người ta trở thành phụ nữ (5). Bà phân biệt giới
tính bẩm sinh và giới tính trên phương diện xã hội. Người ta sinh ra tất nhiên
mang một giới tính (nam hay nữ) song để thành phụ nữ hay nam giới, lại phải do
các tương tác xã hội văn hóa hình thành hàng thế kỷ. Người ta trở thành phụ nữ
vì quá trình lớn lên trong môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, chịu
sự tương tác của các quan hệ xã hội trong những môi trường này. Phạm Quỳnh đã
nói một ý tương tự khi viết như thế “các cụ ta ngày xưa quá tin vào cái thuyết
cổ về nhẽ “âm dương” “cương nhu” cho đàn bà kém hẳn đàn ông, không thể dạy cho
bằng đàn ông được. Không những thế lại không cần phải dạy nữa, vì âm vốn
phải tùy dương,nhu vốn phải thuận cương, đàn bà đã không thể
tự chủ, được ỷ lại vào đàn ông…nhất sinh gồm trong ba chữtòng, thì cha
hay, chồng hay con hay là mình được hay; dạy cho lắm, học cho lắm cũng là
thuộc về vô ích”. Vận dụng luận điểm của Simone de Beauvoir, có thể thấy, giáo
dục Nho giáo phải chịu một phần trách nhiệm khá quan trọng đối với sự hình thành
nét đặc trưng của phụ nữ Việt Nam mà muốn thay đổi vị thế của họ, cũng cần thay
đổi về giáo dục, thay đổi cách nhìn của chính Nho giáo đối với phụ nữ. Không phải
ngẫu nhiên mà đến năm 1929, trên báo Thần chung, Phan Khôi đã
công bố loạt bài tấn công tư tưởng phụ nữ của Khổng giáo. Nhưng tạm thời trên
Nam Phong đầu những năm 1920, tinh thần phê phán Khổng giáo trực diện như Phan
Khôi là rất khó gặp. Gián tiếp thì có. Và Đạm Phương thuộc về khuynh hướng Nam
Phong ở giai đoạn này.
Phạm Quỳnh chỉ ra hiện tượng
xã hội truyền thống đã luật hóa sự khác biệt tự nhiên về thể chất, sức lực của
người nam và người nữ, biến sự bất bình đẳng nam nữ về thể chất thành điều tất
yếu, qui định địa vị chủ nhân của đàn ông và thân phận nô lệ của phụ nữ. Vì lẽ
đó mà các cụ ta xưa không coi trọng việc dạy dỗ đàn bà, con gái. Ông cho rằng
tư tưởng đàn ông đàn bà bình đẳng ngày nay giục giã ta lưu tâm vào sự giáo dục
đàn bà con gái, khiến đàn bà con gái cũng được địa vị nhân cách như đàn ông (lấy
đàn ông làm chuẩn mực). Nhưng cái khó theo tác giả là sự giáo dục phụ nữ ở ta
chưa có cơ sở, nên phải xem dạy gì, dạy thế nào. Phạm Quỳnh quan niệm phải tùy
địa vị xã hội của phụ nữ mà định phương pháp giáo dục, nên ông chia phụ nữ – đối
tượng giáo dục của ông thành hai loại. Loại thứ nhất là hạng đàn bà thượng
lưu, loại thứ hai là hạng trung lưu trong xã hội, có điều kiện sống tốt, phải
dùng thì giờ cho xứng đáng. Mục đích giáo dục bọn con gái thượng lưu “ngoài việc
gây dựng nhân cách còn phải chủ sự thực lợi nữa”. Nghề đàn, nghề thơ bao giờ
cũng cần cho con gái hay chữ. Nhưng cần học chữ quốc ngữ, văn quốc ngữ và trong
lúc chưa có sách dạy văn quốc ngữ thì có thể lấy Truyện Kiều, Cung oán, Nhị
độ mai, Chinh phụ, Lục Vân Tiên để dạy. Ông nói không thánh kinh hiền truyện
nào hay bằng, thâm thiết mà châm chước bằng Truyện Kiều,rằng Truyện
Kiều là sách giáo khoa tuyệt phẩm của bọn nữ lưu. Lý do là “Truyện Kiều thực
là một kho tình vô hạn, mỗi câu như mang nặng một gánh tương tư với đời. Lại là
một cái gương tầy liếp, phản chiếu cho ta trông hết các hạng người trong xã hội,
người nào tật ấy, in như thực, như trên cái màn chớp bóng vậy”(6). Tất nhiên
ngoài giáo dục văn học, cần học các môn thực học: toán pháp, cách trí, vệ sinh,
địa dư, lịch sử …, các môn nữ công. Học lên cao thì thêm chữ Hán, chữ Pháp.
Phép giáo dục hạng phụ nữ trung lưu cũng na ná như dạy bọn thượng lưu song
chuyên chú hơn về nữ công. Để dạy phụ nữ thượng lưu, nên lập nữ học viện. Như vậy,
người sớm đề xuất việc giáo dục phụ nữ đã chỉ chú ý đến tầng lớp trên của xã hội.
Và nội dung giáo dục nhân cách phụ nữ theo hình dung của ông cũng khá lãng mạn
khi ông chủ trương dùng tác phẩm văn học giáo dục nhận thức và tình cảm. Phạm
Quỳnh là nhà tư tưởng giáo dục của giai cấp tư sản giai đoạn đầu. Ông chưa hình
dung rõ rệt thế nào là người phụ nữ cần có của một nền nữ học mới.
Hưởng ứng bài viết của Phạm
Quỳnh, trên Nam Phong số 11 (1918), trong mục “Dư luận trong ngoài”, có bài viết
ngắn “Luận về đàn bà con gái nước ta đối với sự học và sự văn chương”. Tuy có
nói đến sự cần thiết của việc học đối với phụ nữ đương thời khi nhìn lại
“từ khi Tây học thịnh hành đến nay thì ai ai cũng đã biết cách học nước ta nhầm
lỗi đã trải mấy nghìn năm nay rồi”, song tác giả không cho biết mình hiểu nội
dung của nền giáo dục mới là gì, mà chỉ bàn về học chữ Hán, chữ Pháp, chữ quốc
ngữ để thông hiểu các sách. Tác giả cũng quan niệm nguồn tài liệu để học là các
bài viết trên Nam Phong, từ Nam Phong bọn nữ lưu có thể “xem lối quốc văn, học lối
tân học”. Quan niệm quá chung chung và mơ hồ!
Tiếp theo, trên Nam Phong số
23 có bài “Bàn sự học con gái bây giờ nên thế nào”. Tác giả cũng nhấn mạnh sự cần
thiết giáo dục phụ nữ và có tư tưởng về giáo dục đã rõ nét hơn các tác giả trước.
“Nay có con gái nên cho học thế nào? Thưa rằng cũng phải nên trước học phổ
thông, rồi sau mới rút vào thực dụng mà riêng phần con gái. Này cách trí, địa
dư, toán pháp, vệ sinh, cai trị, lịch sử cũng theo sách giáo khoa quốc ngữ mà
thứ tự học lên; còn luân lý, triết lý những điều thiết gần, và quan hệ với lễ tục
mình, nên trích dịch những lời hay ở các sách ra để dạy. Đã học theo phổ thông
như vậy, lại nên bớt thì giờ trong các tuần lễ, dạy nấu, dạy may, dạy làm các
việc”. Nhưng phải nói là tác giả mới hình dung mục đích học là để giúp người phụ
nữ xứng đáng với vai trò “nội tướng” đối với người đàn ông là chúa trai, tế
quân. Một mục đích giáo dục mang tinh thần quan niệm Nho giáo về người phụ nữ.
Dạy cho con gái để làm tốt
vai trò “nội tướng”, phụ giúp cho người đàn ông làm tốt các công việc xã hội.
Đó cũng là quan điểm của Vũ Ngọc Liễn “mục đích của sự nữ học là phải làm thế
nào cho con gái ở nhà trường ra có thể nên một người dâu thảo, vợ hiền, mẹ từ,
có thể phù trì cho người đàn ông yên lòng bước trên thế lộ. Còn như cầm kỳ thi
họa cùng những mỹ nghệ có thể làm cho thanh tao nhân cách, rộng rãi tâm hồn
tưởng nên dành để các bậc tài tình, những người thiên tư minh mẫn” (Vũ Ngọc Liễn
– “Bàn về nữ học nước ta”, Nam Phong, s. 29 ). Vấn đề “nữ học” trong quan niệm
của trí thức trên Nam Phong ở mấy năm đầu tiên không thật rõ rệt. Họ vẫn nhằm đến
đào tạo một người phụ nữ trong khuôn viên gia đình, đáp ứng các tiêu chuẩn tề
gia nội trợ, công dung ngôn hạnh. Ấy vậy thôi mà tư tưởng của họ có vẻ mới, đã
bị những nhà tư tưởng bảo thủ phản ứng lại.
Trên Nam Phong số 40
(22/8/1920) công bố bài của Nguyễn Bá Học “Trả lời ông chủ bút Nam Phong về
vấn đề nữ học” mang tinh thần phản biện khá mạnh đối với Phạm Quỳnh, người đã đề
xướng vấn đề nữ học theo quan điểm học mới, tân học. Vấn đề Phạm Quỳnh xướng
lên là “đàn bà con gái có nên cho học mới không” ? (học mới là đối với học cũ
mà nói). Ông Học không bàn đến học mới mà lo củng cố học cũ: “Tôi không dám nói
học mới, và tôi cũng không nỡ nói học cũ. Vì ngày nay không lo học mới không xướng
minh mà chỉ lo học cũ ngày tiêu diệt; không lo đàn bà con gái không có học tài
mà chỉ lo đàn ông con trai không đủ học vấn”. Vẫn theo lập luận của nhiều nhà
nho thuở ấy, rằng Tây học chỉ hơn ta về kĩ thuật chứ về đạo đức thì không bằng
ta, ông Nguyễn bảo cái học khoa cử trong lối học cũ đã lạc hậu, lỗi thời, song
cái học đạo đức thánh hiền đã thấm sâu vào xã hội là một di sản quí báu: “Nay
ngũ kinh đã bó gác, tứ truyện đã cho lò, thế mà lễ giáo Thánh hiền đã thấm khắp
từ mấy nghìn năm vào trong phong tục tập quán của nước ta, về phương diện đàn
bà con gái vẫn còn thuần khiết như cũ, thực là đáng quí đáng khen”. Ông ca ngợi
nền đạo đức cũ đã đào tạo được những người phụ nữ “nhẫn nhục”, “phục tùng đàn
ông”, “giúp chồng”, sinh con, dạy con, “chưa hề thấy có giáo hóa nước nào mà
rèn đúc được những người nhẫn nhục như thế”. Ông tán dương “ôi bạn nữ lưu nước
ta được giáo trạch thánh hiền đã sâu và hậu thay! Lọ là phải thuộc cho hết 8 vị
hành tinh, 5 châu thế giới, mới là học; lọ là phải thiệp liệp quốc văn lịch sử
, lầu thông cách trí, Pháp văn mới là học. Còn những cách thêu dệt, âm nhạc, du
hý, thể thao, chỉ là cái mĩ cảnh cho đàn ông, thực không phải là hạnh phúc cho
gia đình, cho xã hội”.
Nguyễn Bá Học lấy một hình ảnh
ẩn dụ để cảnh báo về cái nguy hại của tư tưởng nữ học mới: “Xưa có nhà cha mẹ
đã già, để lại cho đàn con một cái nhà cũng lớn, mà cũ. Các con không biết lo
tu bổ, cứ để sân rêu cửa mốc, thành ra cái cảnh điêu tàn. Sau thấy người ta có
cái nhà mới tốt đẹp nguy nga, anh em bảo nhau phá cái nhà cũ mà làm mới.
Ngờ đâu trong nhà vật liệu không đủ, tường nóc không thành. Gặp lúc mưa to gió lớn, anh em đều phải phiêu diêu, thành ra một đàn chim mất tổ. Ấy tôi không dám nói học mới là thế, không nỡ nói học cũ là thế”(7). Đây là bài viết thể hiện quan điểm khá bảo thủ, nhân danh sự an bài, ổn định để bác bỏ cái học mới dành cho phụ nữ, không phê phán học cũ, mặc dù các bài viết về học mới mà Phạm Quỳnh trình bày chưa phải đã thể hiện quan điểm cấp tiến, cách mạng về nữ học. Cái ngôi nhà mà Nguyễn Bá Học muốn dựng lại chính là ngôi nhà cầm tù, giam hãm người phụ nữ, theo đúng mô hình âm/dương, nội/ ngoại của Nho gia (8).
Ngờ đâu trong nhà vật liệu không đủ, tường nóc không thành. Gặp lúc mưa to gió lớn, anh em đều phải phiêu diêu, thành ra một đàn chim mất tổ. Ấy tôi không dám nói học mới là thế, không nỡ nói học cũ là thế”(7). Đây là bài viết thể hiện quan điểm khá bảo thủ, nhân danh sự an bài, ổn định để bác bỏ cái học mới dành cho phụ nữ, không phê phán học cũ, mặc dù các bài viết về học mới mà Phạm Quỳnh trình bày chưa phải đã thể hiện quan điểm cấp tiến, cách mạng về nữ học. Cái ngôi nhà mà Nguyễn Bá Học muốn dựng lại chính là ngôi nhà cầm tù, giam hãm người phụ nữ, theo đúng mô hình âm/dương, nội/ ngoại của Nho gia (8).
Trong bối cảnh tư tưởng đó,
ta hãy tìm hiểu quan niệm của bà Đạm Phương về nữ
học. Mục “Dư luận” của Nam Phong (số 43/ 1920) công bố bài viết ngắn của Đạm
Phương gửi cho Phạm Quỳnh (từ Huế, ghi ngày 5/12/1920). Bà cho hay đã đọc kì thứ
40 của Nam Phong: “thấy có bài của Nguyễn tiên sinh bàn về nữ học nên tôi cũng
vội vàng lấy làm vui lòng làm một bài gởi ra đây…
Tôi cũng tự nghĩ rằng tôi là
người thế nào mà dám cùng những bậc cao lớn tranh biện, huống hồ sự đời phải
trái biết đâu mà chừng; nhưng cái lòng nhiệt thành của tôi với bọn nữ học ngày
nay cũng có cái cảm tình không thể làm ngơ được, nên tôi sực nhớ, cổ nhân có
câu trí nhân bách lự, tất hữu nhất thất; ngu nhân bách lự tất hữu nhất đắc (9) thế
thì lời nói của tôi vị tất toàn là vô ích hết thảy đâu. Nếu có ích lợi gì một
tí, người ta cần phải nên làm, làm để cho có ích! Nay cái vấn đề nữ học thật là
một sự rất quan trọng thứ nhất trong mấy nghìn năm của nước ta, cho nên ý kiến
mới cũ thường trái ngược nhau… Nay tôi xin ví dụ như có hai con đường, một bên
mới, khoáng rộng bằng phẳng, lạ mắt khó trông, lại đông người đi, một bên con
đường cũ thời hẹp hòi cỏ rạ um thùm, cứ noi theo dấu mòn mà đi rất dễ, nhưng
người đi thường than vắng tẻ, tưởng không bao lâu họ sẽ quay sang con đường mới
kia hết. Cách xô đẩy nhau bạo quá thành ra không có thứ tự, miễn đi được là
hơn, dầu muốn ra tay ngăn trở cũng không phép vãn hồi cho đặng, là vì lòng
khuynh hướng của người đời đã do theo thời thế mà xoay vần vậy. Người có trí thức
nên theo chiều sóng gió mà đưa dần lên, chỉ nẻo đem lối cho khỏi lầm lạc, thời
tốt hơn hết; còn như câu nệ quá, thời tôi e như lời đắp đê cản nước của ngài đã
nói(10), sau này muốn sửa sang cũng đành phải chậm trễ, mà lại thiệt hại nhiều
bề”.
Đoạn trích khá dài trên có
liên quan đến hai bài viết, một của Phạm Quỳnh và một của Nguyễn Bá Học đã nói.
Đối với bài của Nguyễn Bá Học, bà có hé lộ ý “tranh biện” một cách khiêm tốn
trong vấn đề “mới/ cũ”. Đối với bài của Phạm Quỳnh thì tỏ rõ sự ủng hộ. Quan điểm
nữ học và nói chung là quan điểm tân học của bà hiển nhiên có tinh thần tiến bộ,
hòa nhịp với bước đi hướng về đổi mới văn hóa của cả thời đại không gì cản được.
Đi vào nữ học, bà viết rằng
vấn đề nữ học là vấn đề khó giải quyết, nêu các luận điểm của phái bảo thủ biện
luận phụ nữ không nên học cao, học rồi được bổ đi làm việc ra khỏi nhà, một
thân một mình đáng sợ; rồi học mà có hiểu biết, lý lẽ, lại theo chủ nghĩa tự
do, bình đẳng mà làm gia đình tan nát. Bà cho rằng cứ kết tội vì sự duy tân mà
phụ nữ mất hết phẩm hạnh là không đúng. Những người tính nết xấu vị tất đã
học đến nơi, còn người không theo tân học vị tất đều là trinh thuận. Đã rõ là
bà đứng về phe tân học, tân nữ học. Bà dẫn câu “nữ tử vô tài tiện thị đức”(11) (con
gái không tài ấy là đức) nhưng xem thực tế nhiều phụ nữ thất đức đâu có học
hành gì (ý tranh luận).
Bà nêu vấn đề: “Nay sự học vấn
của con gái là cốt để bổ ích thêm trí thức tư tưởng cho con người biết lo xa
nghĩ rộng, khỏi bị mê hoặc ám muội như trước, đã là người thời biết cho đủ tư
cách làm người, cuộc sinh tồn cạnh tranh là chung cả nhân loại, có phải riêng
chi một ai, mà người làm được người làm không được”. Học ở đây trước hết theo
bà là học một nghề nghiệp để mưu sinh: “Hạng người quanh các tỉnh thành, ruộng
đất ở đâu, hoa lợi gì có, nếu không học tập nghề nghiệp mưu sinh tất đến cùng bức,
dầu nhà sang giầu đến đâu mà ăn không ngồi nể, cũng đến non mòn núi lở, mà con
cái trọn đời không thành ra một công việc gì, cảnh ngộ như thế, mười phần đã đến
tám chín”. Học trước hết là học nghề để sống, để độc lập. Nữ học như vậy không
còn quanh quẩn ở phạm vi đào tạo người phụ nữ trong phụ thuộc đàn ông mà hướng
đến người phụ nữ đứng trong xã hội, hoạt động xã hội, ganh đua thị trường. Và để
ganh đua ở thị trường, kiến thức không có thì quyền lợi đâu mà đến: “Còn như đã
muốn học tập nghề nghiệp buôn bán, mà không học chữ nghĩa toan tính, thời buôn
bán chẳng qua tiền chục tiền quan chớ bạc trăm bạc nghìn đã không thể trù hoạch
nổi, tư tưởng không lấy đâu mở mang nghề nghiệp cho được tinh xảo, ganh
đua giữa chốn thị trường, thâu được quyền lợi có phải là sự dễ đâu, kiến thức
đã kém, quyền lợi ở đâu mà đến; mà lại hại thay một điều là số đàn bà con gái lại
về phần số nhiều, ấy là cái hiện trạng nguy hiểm cho cuộc sinh kế tương lai lắm
lắm”.
Trong bài viết của bà Đạm
Phương, đã hình thành một tư tưởng nữ học quan trọng, đó là giáo dục để người
phụ nữ có mặt trong xã hội, đóng vai trò của mình trong xã hội. Tức là người phụ
nữ mới không chỉ quẩn quanh trong gia đình mà còn phải tham gia vào cuộc cạnh
tranh sinh tồn chung. Đây là quan niệm mới mẻ mà ngay cả những nhà tân học
đương thời cũng không nói rõ lên được. Tư tưởng này sẽ thể hiện nhất quán và
ngày một đậm nét hơn trong các bài viết về sau. Chúng tôi nghĩ, chỉ như thế
thôi, bà Đạm Phương với tư cách là một người phụ nữ, đã có bước tiến quan trọng,
đi xa hơn nhiều trí thức đương thời trong vấn đề nữ học. Người phụ nữ -xã hội
là hình ảnh thu hút sự suy nghĩ của bà Đạm Phương.
Trong bài luận về “Cái trình
độ nữ ngôn đời bây giờ” (Nam Phong số 49, (th.7/1921), Đạm Phương cũng trình
bày tư tưởng về địa vị người phụ nữ trong các quan hệ xã hội xét từ góc độ ngôn
ngữ. “Lời nói người đàn bà đời xưa không khi nào ra khỏi cửa buồng, dầu có học
tập cũng vụ cầu cho đúng phép phụ ngôn, thì giữ gìn lời nói cốt phải dịu dàng,
ít điều ít lẽ mà tồn hồ đức hạnh ở trong, không cầu làm cho ai biết, miễn đủ lề
lối cư xử trong gia đình, làm hết phận sự của người đàn bà đó mà thôi. Còn như
đối với xã hội tự hồ không can thiệp gì”. Bà nêu câu hỏi rồi trả lời : “Bởi vì
cớ làm sao mà người đàn bà lại không được trực tiếp với xã hội ? Là vì sự học vấn
còn chưa được phổ thông và thời kỳ chưa được hiệu dụng cho nên nữ ngôn không được
kiến trọng với đời”. Giáo dục đương đại “ban bố văn minh học thuật cho phổ
thông toàn thể quốc nhân, không phân biệt nam nữ, cũng đều được ra mà hiệu dụng
với đời, cái trình độ nữ ngôn bây giờ đã lần lần mà tiến lên”. Bà kết thúc
bài viết bằng hình ảnh cuộc đời là một vở kịch cần có nhiều vai diễn khác nhau,
cũng là ẩn dụ về người phụ nữ xuất hiện trên trường đời, trong xã hội.
“Bàn về giáo dục con gái”
(1924-Trung Bắc tân văn) là bài viết nói rõ tư tưởng người phụ nữ xã hội: “Giáo
dục đời xưa, cái phạm vi còn hẹp hòi, đã không hợp với trình độ tiến hóa ngày
nay, gia dĩ sách vở giáo khoa phụ nữ, chỉ có mấy thiên nữ tắc, nữ huấn, giồi
mài về đường đức hạnh thì đặng, chớ công cuộc đối với đạo xử thế, thì tuyệt
nhiên chưa có, thể nào cũng phải tham bác thêm Tây học giáo khoa mà bổ cứu những
chỗ khuyết điểm của mình”. Đạo xử thế tức là đạo lý ứng xử trong xã hội của phụ
nữ, khác với những nữ tắc, nữ huấn trói buộc người phụ nữ trong bốn bức tường
gia đình, cấm đoán tiếp xúc, tham gia hoạt động xã hội.
Bà trình bày rõ hơn tư tưởng
của mình: “Cuộc đời ví như một cái bể rộng mênh mông, mà người đời ví như con
thuyền đi trên mặt nước, có vững tay chèo lái, mới trông vượt sóng ra vời, ngộ
khi ba đào phong vũ, cũng cho biết then máy mà đỡ gạt, mới sẽ tìm phương hướng
mà đi, chóng mong đến bờ bến đặng… Nay sự học con gái mà cứ loanh quanh trong bếp
nước, nồi cơm, thì chưa đủ tư cách làm một người ở đời”.
Trên Nam Phong số 49 (tháng
7/1921) có in bản dịch tài liệu nước ngoài (tiếc là không chỉ rõ nguồn để kiểm
tra) “Về sự giáo dục đàn bà con gái” trong đó trình bày tư tưởng về giáo dục
con người xã hội cho phụ nữ, đưa người phụ nữ thoát khỏi khuôn khổ hạn hẹp của
không gian gia đình: “Nói rằng người đàn bà ở đời chỉ có một việc chồng con, chỉ
nên giáo dục cho làm trọn việc ấy mà thôi, cũng là không có lẽ phải nữa. Nói rằng
nên lấy việc ấy làm một cái mục đích quan trọng cho sự giáo dục người đàn bà thời
được; nói rằng mục đích ấy là mục đích độc nhất vô nhị thời không được”. Có một
sự gần gũi tương đồng hiển nhiên giữa tư tưởng Tây phương này và tư tưởng bà Đạm
Phương về một mẫu hình phụ nữ mới, không còn chỉ biết loanh quanh bếp nước mà
còn phải tham dự vào đời sống xã hội.
Nói là tham gia vào đời sống
xã hội tức là phải có “chức nghiệp”. Bà viết “theo phong tục ta, các nhà có con
gái chỉ mong cho con khôn lớn gả chồng đã đủ rồi, chẳng cần dạy vẽ nghề nghiệp
gì hết thảy, mà những người con gái ấy cũng yên trí rằng: mình không phải làm
việc mà cũng được ăn, là sướng rồi, … mà đàn bà con gái thời ăn không ngồi rồi,
nương tựa người ta mà sống, không còn biết cái phẩm giá mình ở đâu, có cái
thiên chức làm sao, quan hệ với gia đình với xã hội thế nào”, “đàn bà phải có
chức nghiệp mới có giáo dục hoàn toàn”. Thực ra, có một chức nghiệp là xác lập
một nền tảng kinh tế để phụ nữ bình đẳng với nam giới. Không thể hô hào nam nữ
bình quyền khi mà người phụ nữ lệ thuộc vào người chồng về phương diện kinh tế.
Vì thế Đạm Phương cho rằng không nên đóng cửa giam hãm người phụ nữ để họ phải
chịu bề phụ thuộc. “Người đàn ông có phò vua giúp nước, có làm ra nhiều tiền của,
bao bọc cho cả gia đình, chớ như đàn bà là phận phụ tòng, là phụng sự các việc
nhỏ mọn, cho nên người ta khinh thường mà không kể. Cái phẩm giá vì thế mà hèn
kém, cái tinh thần vì thế mà tiêu mòn” (Bàn về vấn đề giáo dục con gái )(12).
Phương diện kinh tế của sự bình đẳng nam nữ được Đạm Phương ý thức rõ ràng, và
đây là điểm tiến bộ.
Đi sâu vào nữ học, Đạm
Phương nghiên cứu tư tưởng giáo dục Tây phương, đặc
biệt chú ý đến các thành tựu nghiên cứu tâm lý phụ nữ trong giáo dục. Phạm Quỳnh
trong bài diễn thuyết “Địa vị người đàn bà trong xã hội nước ta” (Nam Phong s.
82, th.4/1924) sau khi trích dẫn loại điều răn, cấm trong các sách nữ huấn, gia
huấn, nữ tắc đã nhận xét rất đúng : “Trong bấy nhiêu câu không câu nào có một
chút ý vị gì về tính tình, về thân phận người đàn bà cả”. Cách giáo dục phụ nữ
xưa là đưa ra những mệnh lệnh bất chấp nhân đạo, nhân tính, kể cả tâm lý tối
thiểu của phụ nữ.
Quan tâm đến nữ học không chỉ
là bàn suông về bình đẳng nam nữ mà còn phải đi sâu vào nghiên cứu những phận sự
đối với xã hội của người phụ nữ. Đâu phải chỉ tham gia hoạt động xã hội, có chức
nghiệp, thoát ly gia đình nghĩa là thỏa mãn yêu cầu bình đẳng giới ? Địa vị xã
hội của người phụ nữ còn thể hiện ngay trong gia đình, có điều là điểm nhìn về
gia đình là điểm nhìn hiện đại, khác với truyền thống. Đó là động lực để bà Đạm
Phương quyết định viết sách “Giáo dục nhi đồng” (1942), cuốn sách kết tinh của
tư tưởng nữ học mà bà suy ngẫm đã mấy thập kỷ, kể từ năm 1918 từ khi bà còn giữ
mục “Lời đàn bà” cho tờ Trung Bắc tân văn. Phải nhìn giáo dục nhi đồng trong một
ngữ cảnh rộng, trong đại cục về trách nhiệm, sứ mệnh của những người phụ nữ làm
mẹ đối với đất nước, dân tộc. Truyền thống giáo dục gia đình ở nước ta yếu kém,
điều đó “có ảnh hưởng đến tương lai của một dân tộc”. Nữ học ở trường hợp này lại
là sự nghiệp giáo dục người phụ nữ để người phụ nữ-người mẹ lại giáo dục những
nhân cách mới. “Sự giáo dục ngày xưa ở nước ta không phải là không có. Trong
các gia đình thấm nhuần Khổng giáo, các bậc cha mẹ vẫn thường nói đến dạy con.
Nhưng trẻ con sống trong một khuôn khổ quá chật hẹp, quá nghiêm khắc, quá nệ cổ,
nên trẻ không sao phát triển một cách hoàn toàn được. Vài câu châm ngôn luân
thường đạo nghĩa của thánh hiền, với chiếc roi mây sẵn sàng treo trên vách, ấy
là phương pháp giáo dục duy nhất, thì bảo làm sao mà đào tạo ra được những
trang thanh niên cường tráng, mạo hiểm, có chí tiến thủ, có sức tháo vát, có kiến
thức cho thiết thực và rộng rãi được chớ” (Q.1, tr.100). Đến đây ta đã rõ, sản
phẩm giáo dục mà bà hướng tới, mong ước là những con người có nhân cách tự do,
độc lập, mạnh mẽ. Những sách văn học đương thời, nhất là văn học lãng mạn, đã
không đáp ứng được yêu cầu bức thiết đó. “Bên những loại tiểu thuyết diễm tình,
lãng mạn, kiếm hiệp, trinh thám xuất bản tứ tung như nấm mọc để đầu độc những
trí não non dại, nhiều cha mẹ thiệt lòng muốn dậy con, không biết tìm đâu cho
ra một cuốn sách để làm phương châm giáo dục cho con cái trong nhà” (Q.1.
tr.101). Bà thiết tha, sôi nổi nói: “Giờ này chính là giờ phải cứu vãn gấp.
Chúng ta cần phải lo nghĩ để đặt lại nền tảng của vấn đề giáo dục Việt Nam,
chúng ta phải mở đường cho vấn đề giáo dục nhi đồng. Trước khi nói đến giáo dục
thanh niên, hãy bàn đến giáo dục nhi đồng đã. Vì giáo dục nhi đồng chính là nền
tảng cho tất cả các giáo dục” (Q.1, tr.101).
Logic nhân quả gắn nữ học với
giáo dục nhi đồng là ở chỗ để giáo dục những đứa trẻ theo mẫu hình nhân cách mới
thì chính người mẹ cũng phải là những nhân cách mới. Điểm này khác với giáo dục
bằng văn học, nơi tác giả không nhất thiết đồng nhất với nhân vật trữ tình,
khác với một công trình kiến trúc tuyệt vời có thể do một kiến trúc sư nghèo khổ
thiết kế. “Người kiến trúc sư nghèo khổ có thể phác họa một ngôi nhà nguy
nga lộng lẫy, nhưng xưa nay tôi chưa từng thấy một người cha mẹ nào vô học, vô
hạnh mà lại có thể nuôi dạy con cái trở nên người có học có hạnh bao giờ” (Q.1,
tr.103). Bà Đạm Phương khẳng định người mẹ có giáo dục mới giáo dục được con:
“người mẹ phải có tài, có đức, có năng lực, có học vấn, để khuyến khích, giải
thích, dẫn dụ con vào những đường ngay lẽ phải, tránh những tính xấu tật
hư”, “mẹ tự giáo dục mình trước khi giáo dục con”. Người mẹ trong ngữ cảnh
nói đây phải hiểu là người mẹ hấp thụ nền nữ học mới như trên đã nói.
Trong khi giáo dục con trẻ,
người mẹ cũng thay đổi nhận thức theo hướng hiện đại, nhân bản về con người. Chẳng
hạn, những triết lý như thế này của bà Đạm Phương về quan hệ giữa thân thể và
tâm hồn, ta hầu như không thể gặp được trong tư tưởng phương Đông truyền thống:
“Với một thân thể đau ốm bệnh hoạn thì không làm gì có một tinh thần cường
tráng hoạt bát…Nhờ có tâm hồn, thân thể mới hoạt động, nhờ có tâm hồn, người mới
suy nghĩ, cảm giác, phân biệt, ham muốn, thương yêu và giận ghét. Thân thể ảnh
hưởng đến tâm hồn, mà tâm hồn cũng ảnh hưởng đến thân thể” (Q.1, tr.108). Từ
đây mà xác lập nền giáo dục hiện đại, tính đến những đặc điểm tâm lý, sinh lý,
quan hệ thân và tâm để xác định nội dung và phương pháp giáo dục hợp lý. “Thân
thể tráng kiện, tâm hồn tráng kiện là hai điều kiện của sự sống con người”
(Q.2, tr. 24). Tư tưởng này hiển nhiên đối lập với truyền thống ứng xử thân xác
của các học thuyết Nho, Phật ở phương Đông là dĩ tâm khống thân, coi thường
thân xác. “Một sự sai lầm rất lớn trong việc coi rẻ sức khỏe của trẻ con. Cha mẹ
chỉ muốn dạy con điều nhân nghĩa mà không cần lưu ý đến sự tập luyện cho con có
một thân hình mạnh khỏe” (Q 3. tr.23). Tập thể thao, rèn luyện thân thể, thậm
chí những kĩ năng rất sơ đẳng như “thở” cũng đòi hỏi các bà mẹ tập, vì ngay cả
thở cho đúng cách cũng là điều phần đông đàn bà Việt Nam hồi đó không hay biết.
Nhân bàn về quan niệm của bà Đạm Phương về thân thể và tâm hồn như hai mặt cấu
thành nhân cách, có lẽ cũng phải chỉ ra ý nghĩa của nhận thức này đối với việc ứng
xử thân xác con trẻ, cũng tức đối với thân xác nói chung. Bà chỉ rõ sự nguy hại
của bạo hành thân thể con trẻ khi các bậc cha mẹ dùng roi vọt trừng phạt. Nhưng
đâu phải chỉ có bạo hành của cha mẹ đối với thân thể con trẻ: không kém phổ biến
là bạo hành của những người chồng đối với thân thể người vợ. Tôn trọng con người
tất phải tôn trọng thân thể của nó.
Mục tiêu của giáo dục trẻ
cũng thống nhất với mục tiêu của nền nữ học mới: dạy cho trẻ điều mà ngày nay
ta hay nói là kĩ năng sống giữa cuộc đời. “Muốn cho trẻ sau này có thể ngang dọc
giữa đường đời xông pha với sóng gió, thắng nổi được các trở lực để đi đến bờ đến
bến, thì trẻ cũng cần có một la bàn ấy là lý trí, một bánh lái ấy là lương tâm,
và một động cơ ấy là nghị lực” (Q.2, tr.12).
***
Trở lại nhận định của Hoa Bằng
cho rằng Đạm Phương viết Giáo dục nhi đồng với tinh thần kiến thiết.
Đã rõ, trong công cuộc hiện đại hóa đất nước, một bên là nhìn lại, phê phán
truyền thống với những biểu hiện cổ hủ, lạc hậu, lỗi thời. Một bên là tìm kiếm
những cách thức kiến thiết cái mới. Đạm Phương không phải không biết phê phán
cái cũ- nhiều nghị luận trước tác của bà cho thấy những nhận định phê phán sắc
sảo Khổng giáo tuy là gián tiếp. Nhưng bà tập trung vào vấn đề nữ học, lấy việc
giáo dục người phụ nữ mới làm điểm đột phá trong sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam mới. Không hô hào nam nữ bình quyền chung chung, bà xây dựng hình ảnh
người phụ nữ Việt Nam gia nhập đời sống, đối diện với cuộc sống, với những kĩ
năng, chức nghiệp và tri thức vững vàng, nhân cách mạnh mẽ, tự do, đáp ứng những
yêu cầu của thời hiện đại. Đó là chủ nghĩa hiện thực về nữ quyền ở giai đoạn
đầu mà bà và một số người đương thời gọi là “nữ học”. Có thể phán đoán về mối liên hệ logic
giữa các tư tưởng về người phụ nữ- xã hội với việc bà thành lập Nữ công học hội
vào năm 1926. Đây là tiền đề tư tưởng cần thiết cho sự tham gia của người phụ nữ
Việt Nam vào các hoạt động xã hội như hoạt động cách mạng. Tuy nhiên, vấn đề nữ
quyền lại là một vấn đề rộng lớn hơn mà chúng tôi hy vọng sẽ bàn đến trong một
dịp khác.
(1) Hoa Bằng, “Lịch trình tiến
hóa của văn học phụ nữ ta”, Tri tân, s.112, 1943.
(2) Có những bằng chứng cho
thấy các bài bàn về nữ học trên Nam Phong những năm 1920 phản ánh suy nghĩ của
trí thức đương thời về chương trình nữ học tại các trường này. Ví dụ,tại Trường
nữ học ở Sài Gòn, “Học sinh bắt đầu học Pháp văn từ cấp lớp căn bản. Pháp ngữ
là sinh ngữ chính thức được dùng trong việc giảng dạy các lớp bậc trung học đệ
nhất cấp. Nữ sinh chỉ được dùng Pháp ngữ để đàm thoại trong trường. Tiếng Việt
chỉ được dạy mỗi tuần hai giờ trong giờ Việt văn” (http://www.gialong.org/history.html).
Vì thế mà ta thấy Phạm Quỳnh bàn về chuyện ai nên học tiếng Pháp trong trường nữ
học, chuyện học quốc văn quan trọng như thế nào với nữ sinh, chuyện lấy các tác
phẩm quốc âm như Truyện Kiều, Cung oán ngâm…làm sách giáo khoa… (tức là phản
biện một cách kín đáo chương trình nữ học khi đó).
(3)Trương Hoán Dung viết
“Tôi lấy từ “nữ học chủ nghĩa” 女学主义 để thay các cách dịch
“nữ quyền chủ nghĩa” 女权主义 ,
“nữ tính chủ nghĩa” 女性主义 vẫn dùng để dịch từ
Anh ngữ feminism vì các lí do sau: 1) các từ “nữ quyền chủ nghĩa” và “nữ tính
chủ nghĩa” dường như mang tính khuynh hướng chính trị quá rõ, không biểu đạt rõ
tính chất học thuật trong nghiên cứu; 2) gần đây giới nghiên cứu Mĩ tăng cường
chú ý nghiên cứu nam tính với khái niệm “men’s studies”, tuy nhiên hướng này
không xuất hiện trên cơ sở nam quyền chủ nghĩa truyền thống. Trong tình huống
như hiện nay, cách dịch từ feminism “nữ học chủ nghĩa” là có cơ sở sau khi xuất
hiện khái niệm “nam học chủ nghĩa” (men’s studies) ở Trung Quốc.” (Mục
từ “xã hội tính biệt” 社会性别 ,
(http://www.hudong.com/).
(4) David Marr trong bài
“The 1920’ Women’Rights Debates in Việt Nam” (Những tranh luận ở Việt Nam về
các quyền của phụ nữ trong các năm của thập kỉ 1920), The Journal of Asian
Studies, Vol. 35.N.3, (May, 1976) viết “Vào những năm 1920, “phụ nữ và xã hội”
đã trở thành đại loại như một tiêu điểm mà quanh nó rất nhiều vấn đề được
nêu lên. Hàng trăm cuốn sách, tiểu phẩm, bài báo về tất cả các mặt đã được công
bố. Phụ nữ đã tự ý thức như một nhóm xã hội, với những quyền lợi, những than
phiền và những đòi hỏi riêng. Có lẽ cũng quan trọng là cuộc tranh luận về
“nữ quyền” đã bộc lộ cái mức độ mà chế độ thực dân Pháp đã kết hợp với các học
thuyết áp bức tiền hiện đại của Nho giáo”. Và cũng không tránh khỏi là các
tranh luận về nữ quyền nhanh chóng đưa tới vấn đề bóc lột kinh tế, tới sự phân
tích khác biệt giai cấp giữa phụ nữ (và cả trong giới đàn ông)”. Nhưng xin lưu
ý là ngay tác giả người nước ngoài này cũng chưa dùng khái niệm feminism mà chỉ
dùng khái niệm women’ rights để mô tả tình hình. Dịch sang tiếng Việt hai khái
niệm này có vẻ là một song thực chất có sự khác biệt.
(5) Trong tiếng Anh, câu này
là “One is not born, but rather becomes, a woman”.
(6) Tư tưởng dạy văn học quốc
ngữ này có tính phản biện kín đáo đối với chương trình dạy bằng Pháp văn ở trường
nữ học. Và cũng cho thấy quan điểm “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn..” của Phạm
Quỳnh manh nha từ rất sớm, thể hiện mối quan tâm đến quốc văn.
(7) Trần Trọng Kim cũng dùng
hình ảnh tương tự để nói về tình cảnh Nho giáo (năm 1930): “một cái nhà cổ rất
đẹp, lâu ngày không ai sửa sang, để đến nỗi bị cơn gió bão đánh đổ bẹp xuống.
Những người xưa nay vẫn ở trong cái nhà ấy, ngơ ngác không biết làm thế nào”
(Nho giáo).
(8) Hiện nay vẫn có người
bênh vực cho Nho giáo bằng triết học âm/dương. Tác giả Li-Hsiang Lisa Rosenlee
trong công trình “Nho giáo và phụ nữ: một cách giải thích về mặt triết học” Confucianism
and women: a philosophical interpretation (State University of New York,
2006), đã phân tích đạo Nhân của Khổng Tử, phân tích mô hình triết học Âm-
Dương và mô hình không gian Nội- Ngoại để cho thấy sự phân công nam nữ ở Trung
Quốc về phương diện văn hóa -xã hội là hợp lý. Tác giả Li-Hsiang Lisa
Rosenlee nêu lên 4 nhiệm vụ của chuyên luận này: 1) Nghiên cứu nguồn gốc
Nho giáo và đạo Nhân; 2) Nghiên cứu sơ đồ tư duy của người Trung Quốc do Nho
giáo trình bày như âm/ dương, nội ngoại để ứng dụng vào tìm hiểu vị trí người
phụ nữ; 3) Nghiên cứu quan hệ qua lại giữa Nho giáo và hệ thống giới của
Trung Quốc, vai trò của Nho giáo trong biện minh và duy trì cấu trúc gia đình
phụ quyền của xã hội Trung Quốc, xem xét người phụ nữ không phải như là nạn
nhân mà là người cùng tham gia duy trì thực tiễn phân biệt giới ở Trung Quốc tức
xem xét người phụ nữ không phải như một thực thể tự nhiên mà là một thực thể
văn hóa ; 4) Đi ra ngoài sự phê phán một chiều các yếu tố phân biệt giới của
Nho giáo và giải cấu trúc chính sách về giới, đưa ra điểm nhìn cho phép trình
bày việc giải phóng phụ nữ gắn liền với các bước xây dựng một nền nữ quyền Nho
giáo (pp.3-4).
(9) Câu này trong “Án Tử
xuân thu” (Thánh nhân thiên lự tất hữu nhất thất, ngu nhân thiên lự tất hữu nhất
đắc). Trong Sử ký Tư Mã Thiên (Hoài Âm hầu liệt truyện)có câu “trí giả
thiên lự, tất hữu nhất thất, ngu giả thiên lự tất hữu nhất đắc”. Bà Đạm Phương
uyên bác, đọc nhiều, thường hay dẫn dụ các câu châm ngôn Đông-Tây.
(10) Ý nói đến hình ảnh con
đê mà Phạm Quỳnh dùng trong bài tranh luận với Nam Minh, người phê phán vở kịch Bệnh
tưởng do Hội Khai trí Tiến đức diễn (bài trên Nam Phong số 35). Ông Nam
Minh nhân vở kịch Bệnh tưởng đã phê phán luôn cả trào lưu nữ học mới: “Cái
phong trào tân học càng ngày càng mạnh, ầm ầm tràn đến, làm cho nền đạo lý Khổng
Mạnh mấy nghìn năm đã in sâu vào óc ta, cũng dường như lay chuyển, thì các ngài
là bậc thượng lưu phải biết duy trì lấy những cái phong hóa hay của nước nhà khỏi
phải tiêu diệt đi mà biết lọc lấy cái tinh thần của văn minh mới mới là phải”.
Ông trách hội Khai trí Tiến đức “đem diễn một lối tuồng không hợp với tính tình
phong tục người mình mà đem ra phô diễn vào cái thời đại đã suy đốn này thì
khác nào ngọn lửa tà dục đã đượm sẵn lại tưới dầu thêm… Nước mình xưa nay có lối
trai gái hôn tay nhau, cùng là những sự cử chỉ, ngôn ngữ của con với cha một
cách tự do bao giờ, mà người mình nay đương có cái khuynh hướng theo mới, cho mới
là văn minh, bỏ cũ, coi cũ là hủ lậu, thành ra biết bao nhiêu gia đình bại hoại
đó, khiến bậc người trí giả trông thấy những cảnh tượng ấy, mà phải thở than”.
Nam Minh viết tiếp “các ngài lại không hiểu rằng các bậc phụ nữ nước mình
còn ở trong khuôn phép đạo tam tòng tứ đức: người thục nữ còn chăm chỉ nữ hạnh,
nữ công để sau nên người nội trợ giỏi giang, mà những bậc từ mẫu còn bàn việc tề
gia, trông nom trăm việc, nào chiều chồng được hòa vui, nuôi con nên người khá
để sau có tư cách, phẩm hạnh con người làm những việc ích quốc lợi dân, khỏi
thành một lũ “văn minh rởm”, làm hại cho xã hội”. Phạm Quỳnh trả lời: “Đạo lý
Khổng Mạnh vẫn nên giữ, nhưng cũng phải tùy thời, không nên nhất nhất giương đạo
lý Khổng Mạnh như một cái bung sung để nạt dọa người ta, và ngăn đường tiến thủ
của quốc dân giữa cái đời cạnh tranh kịch liệt này…Cái sóng đồi phong mỗi ngày
một tràn ngập vào xã hội; nay ta phải đối phó, phải phòng bị thế nào? Một phái
bảo thủ-xét ra ông khuynh hướng về phái ấy-thời muốn ra sức ngăn ngừa cho được, muốn
đắp đê cho cao để cản sóng lại, nhưng đê càng cao mà sóng lại càng mạnh, có một
ngày sức nước mạnh hơn sức đê, đê sẽ bị vỡ và nước sẽ tràn khắp mọi nơi.Một
phái tiến thủ thời muốn đón trước lấy cái phong trào, khai dẫn cho nó lưu thông
và tiêu thoát dần đi, phương pháp ấy xem ra hợp thời hơn. Tỉ như cái vấn đề nam
nữ, hiện bây giờ là một cái vấn đề rất gian nan. Ngày nay, nhất là ở những nơi
thành thị lớn, việc trai gái thật là bậy bạ quá, thói dâm bôn không biết đến
đâu là cùng. Ai trông thấy cũng phải chán ngán cho gia đình xã hội ta sau này.
Phái bảo thủ thời tất là muốn kiềm chế con trai con gái, giam cầm trong nhà mà
không cho giao tiếp với nhau trong xã hội. Nhưng bây giờ Âu hóa mỗi ngày một
thâm, những cách kiềm chế đó không thích thời nữa…Phái tiến thủ thời không thế,
muốn đón trước cái phong trào nam nữ bình quyền mà khai dẫn cho nó vào đường
chính đáng”
(11) Câu này của Trương Đại
đời Minh.
(12) Dẫn theo Tuyển tập
Đạm Phương nữ sử, Q,1, tr. 25, http://ebooks.vdcmedia.com. Dưới đây, sau mỗi
trích dẫn từ tài liệu này, sẽ ghi số trang đặt trong dấu ngoặc đơn.
Nguồn: Bản đăng trên Phê bình
văn học đã được sự đồng ý của tác giả.Copyright © 2012-2013 - PHÊ BÌNH VĂN HỌC
Trần Nho Thìn






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét