Descartes xuất phát từ mối ác cảm tôn giáo, bằng lý thuyết của
mình muốn hạ bệ một nền tảng hệ thống không thể phá vỡ, cho dù chúng ta biết, vấn
đề không phải là tôn giáo, mà là sự thực hành quyền lực giáo hội. Descartes
không muốn lập ra một hệ thống tư duy, mà tạo nền móng cho một thực hành
quyền lực khác đáng tin cậy hơn.
K. Marx xuất phát từ nỗi bức bối đối với một giai cấp tư bản
tưởng tượng (sự tức giận chống lại của cải, sự trả thù kinh tế), muốn giải
quyết những vấn đề sở hữu bằng sự chấm dứt các giai cấp, cho dù chúng ta biết, từng chưa hề có giai cấp và sở hữu tuyệt đối không phải vấn đề của kinh tế.
Spengler mở rộng đề tài từ Nietzsche, xuất phát từ cơn khủng
hoảng ngày mỗi gay gắt hơn, và tự an ủi mình rằng (cái gọi là) nền văn hóa này
bị tiêu diệt sẽ có một nền văn hóa mới mọc lên từ đấy.
Tất cả các hệ tư tưởng này thực ra đều là các hệ tư tưởng giả,
không đúng (pszeudologia), là kết quả của hành vi hiện sinh giả dùng để chống lại
những điểm nóng của khoảnh khắc lịch sử, là các lý thuyết giảm bớt sự khủng hoảng
ẩn náu dưới những tư tưởng giải quyết khủng hoảng, là những lý thuyết sai lầm
trong khoảnh khắc của lịch sử mà người ta không nhận ra.
Trong nửa sau của thế kỷ XX, ngoài các tác phẩm của Gúenon,
giữa trăm nghìn cuốn sách thực ra chỉ có hai tác phẩm, một của giáo sĩ Do thái Martin Buber và một của thiền sư D.T Suzuki không là sự chứng
thực sau cùng, không tìm kiếm sự cứu vãn những sai lầm lịch sử, mà trái lại là
khởi đầu thanh toán nỗi đam mê thời đại và mong muốn hiện thực hóa một trật tự
sống vĩnh cửu. Có thể định nghĩa thế này, mọi cái khác chỉ là lý thuyết, chỉ hai
tác phẩm này là hiện thực.
Có thể nói, sự nổ bùng đông đảo của các lý thuyết là một
thử nghiệm mạnh mẽ hiện sinh chính trị (ksatrija) xuất phát từ khoảnh khắc
lịch sử, chỉ tồn tại trong cái khung và trong khí thế của lịch sử; chỉ có cuốn
sách của giáo chủ Do thái và của thiền sư Nhật Bản là khuynh hướng brahman (tinh
thần đích thực), hay nói cách khác đây là tác phẩm của con người không bị quy định
bởi các đam mê, mà của người biết thật sự cái gì đang xảy ra và cần phải
làm gì.
Hiện sinh chính trị (lịch sử) trong mọi trường hợp đều bị chi
phối bởi một đam mê lịch sử nào đấy, và luôn luôn thực dụng, hoặc thiếu sự
nhận biết tổng hợp xa hơn, phần lớn với ý đồ che dấu có chủ ý đặt tên cách giải
quyết mang tính thực hành gần nhất là sự thật.
Chúng ta biết, sự sống của con người là cái toàn bộ, trong đó
trật tự chỉ được tạo ra sau khi các nhân tố nền tảng được nhận thức. Tất
cả những gì đang xảy ra là tác động của quan điểm cơ bản của con người.
Trong thời lịch sử không có sự giải quyết; các lý thuyết trong thời
lịch sử theo thời gian và trong thời gian đều bị phá vỡ, phần lớn ngay
trong giây phút người ta nghĩ ra, nó đã mất hiệu lực.
Hiện sinh brahman bắt đầu xảy ra bằng việc
thanh toán các đam mê lịch sử, và xây dựng một nền tảng độc lập với các đam mê, độc lập với quốc gia, thời đại, đẳng cấp, tôn giáo, văn minh và hiện
sinh này chỉ có một trong nhân loại (Szabó Lajos:f-system). Đấy là cái cần
đặt tên status absolutus, hay nói cách khác đấy là quan điểm cơ bản mang
tính người.
ĐIỂM ĐẦU TIÊN:
Giữa thế kỷ XX trong một trật tự sống bị phá hỏng hoàn toàn,
tuyệt đối không một ai có thể hoàn chỉnh hóa đời sống của mình trong mức
độ sống hư hỏng ấy, bởi vậy trên quả đất này không một nội dung sống nào không chống lại cái trật tự sống đang có. Khẳng định này liên quan cả đến những trường hợp đặc biệt, trong đó có những kẻ thoạt đầu tưởng họ được
hưởng một lợi thế tức thời nào đó. Không có hiểm họa nào lớn hơn sự thỏa
hiệp với hư hỏng, và trở nên thỏa mãn giữa những môi trường hư hỏng, cùng lắm
thêm một điều khác là thỏa mãn với nỗi thỏa mãn hư hỏng.
ĐIỂM THỨ HAI:
Con người lịch sử vô ích tìm kiếm nguyên nhân đầu tiên của bản
chất hư hỏng trong trật tự sống đã hư hỏng. Mọi khủng hoảng đã được báo trước,
tất cả đã hỏng từ khởi đầu của mọi khởi đầu, trong một điểm tối nào đó. Nguyên
nhân khởi điểm của trật tự sống hư hỏng là hậu quả của một sự kiện, nói theo
ngôn ngữ tôn giáo là một tội lỗi cội nguồn, nhưng không hề mang tính tôn giáo, mà là một sự kiện bản thể học (ontologia), hay nói đúng hơn là một
cái gì đó đã xảy ra trong sự sống: Sự phá vỡ và làm hỏng do chính
con người tạo ra.
Từ quan điểm để nhận thức rõ sự tồn tại của con
người lịch sử, không ý nghĩa nào quyết định hơn ngoài một khẳng định: hãy nhìn
một cách tỉnh táo ý thức về tội lỗi trong chính bản thân con người. Đây là điều
kiện đầu tiên của hiện sinh đích thực mang tính người. Tư duy chỉ khi đó đáng
tin cậy, nếu ý thức về tội lỗi được duy trì (Kierkegaard: Sự lo âu)
ĐIỂM THỨ BA:
Liên quan đến lịch sử hiện tại không còn nghi ngờ gì nữa, từ
thời trung cổ tới nay người ta dứt khoát tỏ ý chống đối nhà thờ, bởi ý định chạy
trốn trước ý thức tội lỗi. Toàn bộ thời hiện đại được xây dựng từ sự phủ
nhận một cách cố ý nhân tố tội lỗi, điều này bộc lộ trong sự thờ ơ đạo đức và
hiện sinh được chăm bẵm một cách nhân tạo, là thứ tạo ra khoa học và sự phong
thần vô danh.
Trong thời hiện đại tư tưởng về tội lỗi bị che đậy đến mức hoặc
trở thành sự sợ hãi hoặc thành vụ bê bối, khi sinh vật học nỗ lực làm nổi bật
điều này như một sai phạm hữu cơ, và xã hội học chỉ dẫn ra từ cơ cấu xã hội.
Pascal cho rằng, trong việc bỏ qua tư tưởng về tội lỗi, đến nhận thức về
các hiện tượng vật lý cơ bản cũng hoàn toàn bất lực (mới đây nhất: vật lý của
Heisenberg, toán học của Gödel)
Toàn bộ nỗ lực của môn tâm lý học hướng về việc, Buber
nói, thanh toán ý thức tội lỗi của con người (lương tâm cắn rứt, sự lo
âu) và xác định rằng kể cả khi ý thức này bị làm lu mờ đi nữa, bản thân tội lỗi
cũng không biến mất.
Té ra sau gần một trăm năm thực hành của ngành tâm lý học, việc
ứng dụng các phương pháp tâm lý không làm cho con người hài hòa hơn, mà chỉ làm
cho kỹ thuật lẩn tránh hoàn thiện hơn. Kết quả của các quá trình tâm lý không
làm con người thức tỉnh, mà để họ trốn tránh sâu hơn trước sự thức tỉnh.
Thay vì cởi mở và giải thoát, các phương pháp tâm lý giúp con
người học cách trốn tránh một cách hiệu quả hơn. Giờ đây bằng phân tích giấc
mơ, người ta lừa được một cái gì đó từ vài kẻ ngây thơ ra ánh sáng; từ nền tảng
phân tâm học và trắc nghiệm học những kẻ đó giờ đây trốn sâu dưới ý thức mộng,
đôi khi đến xuất hiện trong giấc mơ cũng không nổi. Với những con người này vào
thời điểm tận thế chắc cần phải thổi một hồi kèn đặc biệt để họ thức dậy. Cái
con người học được từ tâm lý học là đừng trốn vào sự phức tạp mà vào sự trung
thực. Đấy là cái chuồng từ đó con người không dụ dỗ ra được. Đấy là phân tâm học.
Số lượng nạn nhân của tâm lý học vô cùng lớn. Kẻ trải qua quá
trình tâm lý học này không nhìn rõ bản chất của sự sống, thậm chí cái nó học được
quay lưng lại với hiện thực thật sự của sự sống, đánh chìm sự sống xuống
và bao phủ lên bằng ý thức về những khó khăn của sự sống. Sự ngu ngốc
mang tính chất bản thể học của thời hiện đại xuất hiện như thế đó, một kẻ
nhăn nhở cười trên toàn bộ sự khó khăn của tồn tại, và cho rằng một lần và mãi
mãi cần thanh toán hiện tại, chỉ vì ý thức tội lỗi - cùng trách nhiệm tu
tỉnh của con người - sẽ tự nó biến mất (bị phân tâm). Đứng về mặt
tâm lý học, con người bị rút ruột này rơi ra khỏi cộng đồng và cùng lúc đứng ra
ngoài tình huynh đệ người.
Những phương pháp của tâm lý học tiếp tục được phát triển bởi
chủ nghĩa hiện sinh. Khi tuyên bố sự sống mở (sự trần trụi hướng về phía tha
nhân) chủ nghĩa hiện sinh dạy con người hãy cuộn mình vào sự trung thực,
và chống lại sự trần trụi trung thực này bằng bảo vệ mình trong một sự cao cả
vĩ đại; trong hiện sinh hãy cất dấu một hiện sinh giả. Rất ít các nhà tư tưởng
nhận ra điều nguy hiểm này (Gabriel Marcel, Bataille, Camus, Heidegger) Phần lớn
các học giả khác, như J. Sartre bằng kỹ thuật choáng lộn thực hiện những cú lộn
vòng, trong khi những vấn đề cơ bản của sự sống vẫn không động chạm tới.
Tạo vấn đề, sinh vật học hóa, xã hội học hóa, tâm lý học hóa,
đạo đức học hóa, hiện sinh hóa nhân tố tội lỗi. Đôi khi người ta thành công làm
mơ hồ ý thức về tội lỗi, hay đúng hơn làm cho con người chệch hướng
với hiện thực. Kết quả là: tôn giáo đồi trụy, khoa học ngớ ngẩn và chính trị độc
ác. Còn hiện trạng: bằng một sự bất an ẩn náu trong trần trụi và mơ hồ, thiếu vắng
ý thức về một hiện thực bị phá hỏng và bằng lương tâm cắn rứt không còn con đường
nào khác, ngoài (cái gọi là) một đời sống trần thế kém cỏi, vô nghĩa, bởi trọng
lượng của nó đã bị đánh mất.
ĐIỂM THỨ TƯ:
Gần đây khoảng một trăm năm, đặc biệt ở mức độ tri thức cao,
ngày càng diễn ra sự lẩn trốn vào các tôn giáo và siêu hình học phương Đông, với
niềm tin tưởng đấy là nơi chứa đựng nguồn gốc của ý thức về tội lỗi và bằng các
bộ môn phương Đông học này sau rốt có thể giải quyết được những vấn đề - tội lỗi.
Điều này không chỉ là sự phản bội thiên chúa giáo, mà còn là sự thiếu hiểu biết
hoàn toàn về hiện thực.
Trong siêu hình học phương Đông (Ấn độ, Trung quốc, Irán) ý
thức về tội tổ tông cũng y chang như ở người Do thái, ở Thiên chúa giáo và đạo
Hồi, nhưng phương Đông không quy về đạo đức mà coi đấy là sự hư hỏng, sự mơ hồ
nhận thức, sự vật vờ, mơ ngủ, mộng du. Cũng như ở Hy lạp cổ hoặc trong kinh
Kabbala sự cứu chuộc tội lỗi ở phương Đông cũng y như vậy, một bắt buộc ở khắp
mọi nơi.
Chủ nghĩa nguyên thủy mới gần đây nhất là một thí nghiệm về sự
chạy trốn ý thức tội lỗi, sau thời của Rousseau, chạy trốn vào thiên nhiên, vào
những người da đen, người da đỏ. Thí nghiệm này không chỉ sai lầm. Tiếp sau chủ
nghĩa đa cảm của Rosseau người ta đặt giả thuyết, người nguyên thủy sống trong
trạng thái cổ, trong sự trong sáng khởi thủy, và sự đa cảm của thế kỷ trước đã
tạo lý tưởng từ sự man rợ, phi văn minh. Tư tưởng này đặc biệt trong nghệ thuật
rất nguy hiểm.
Chúng ta đều biết những người nguyên thủy không sống trong sự
trong trắng khởi thủy mà sống trong trạng thái tha hóa ngược lại của các nền
văn minh cũ, và chính vì thế mà sự sống ở người châu Âu không chỉ hư hỏng mà
còn hư hỏng ở mức độ cao hơn. Ngoài ra những người nguyên thủy mang theo mình ý
thức về tội lỗi tổ tông bị đứt đoạn từ nền văn minh cũ, và không ở bộ lạc nào lại
không thể nhận ra điều đó.
ĐIỂM THỨ NĂM:
Tất cả sự sống người, dù ở mức độ nào cũng đều đã văn minh
hóa. Mọi nền văn minh đều nhân tạo, nói đúng hơn, không tất nhiên. Trong sự
nhân tạo này, thiên nhiên chắc chắn bị hành hạ. Cần đặt câu hỏi, có một nền văn
minh nào, hay nói cách khác, có một trật tự được tạo dựng một cách nhân tạo nào
không đặt dấu ấn lên thiên nhiên, mà để tất cả ở vị trí riêng của nó và để nó tự
do phát triển? Sau cùng: Có hay không ý thức của con người về một trật tự sống
cội nguồn trước khi con người phạm tội? Con người biết hay không về một sự sống
có thực?
Con người biết về một trật tự cội nguồn.
Ý thức này tuyên bố trong Thiên chúa giáo, trong kinh Veda,
trong Đạo Lão, trong Hy lạp cổ đại, trong kinh Kabbala, và trong hình dạng như
thế nào đấy truyền thống của mọi thời đại đều gìn giữ điều này. Ý thức này thực
chất là nội dung của những cuốn sách thiêng. Truyền thống không phải là truyền
thuyết và tôn giáo. Tri thức về truyền thống nói về quan điểm cơ bản, về tội lỗi
mắc phải từ buổi khai thủy, về sự điều chỉnh lại quan điểm cơ bản, hay còn gọi
là sửa chữa tội lỗi.
ĐIỂM THỨ SÁU:
Điều chỉnh lại quan điểm cơ bản của con người không phải nhiệm
vụ mang tính tâm lý học, mang tính xã hội, hay sinh vật học, hay mang tính tôn
giáo, triết học mà là một nhiệm vụ của sự sống trực tiếp, đơn giản, cụ thể.
1. Duy trì một
cách tỉnh táo ý thức tội lỗi; sửa chữa là một điều bắt buộc với tất cả mọi người.
Mọi người hãy sửa chữa những tội lỗi đã gây ra của nhân loại trong chừng mực
mình biết và có thể, như truyền thống Ấn độ đã nói: ihamutrarthaphalaphogaviragah - vắng
thiếu hy vọng nhỏ nhất về phần thưởng trong đời sống thượng đế và thế giới bên
kia. Không có cách xóa bỏ tội lỗi khác ở mức độ con người; tất cả mọi người
hãy trở thành Đấng Cứu Thế của tất cả mọi người; Bồ tát, Sufi (Hồi giáo mật
tông) Hasid (Do thái giáo), Thiên chúa giáo.
2. Cần phân tích và
nhận thức về quan điểm cơ bản, cần ý thức về cội nguồn trước đời sống thời lịch
sử, về cái bình thường; đây là công việc lý thuyết.
3. Hãy bước ra khỏi
thời lịch sử, thực hiện status absolutus trong sự vắng mặt của những
đam mê thời đại (đây là nhiệm vụ tinh thần có thực, mang tính chất Brahman)
Tất cả các quá trình phục vụ cho sự bình thường hóa cuộc sống,
cần phải chấp nhận; tôn giáo, nghệ thuật, tư tưởng.
Cần vứt bỏ hết tất cả các quá trình chống lại sự phục hồi vị
trí bình thường hóa cội nguồn (sự phản bội của khoa học, bất tín tôn giáo, giả
dối chính trị - bạo lực - bóc lột)
Vũ trụ hóa (sự thống nhất giữa cá nhân và cộng đồng)
Hiện sinh có thật (sự đồng nhất của tư tưởng - lời - hành động)
Sự sống Brahman đang đối diện mạnh mẽ với thời kỳ lịch sử.
11/8/2012
Hamvas Béla
Nguyễn Hồng Nhung dịch
Nguồn: Trích tiểu luận triết học: Patmosz I
Theo https://vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét