Thứ Hai, 2 tháng 5, 2022

Thầm thì mây gió

Thầm thì mây gió

Bạn thân mến!
tối hôm qua trở về nhà, tôi cảm thấy rất mệt. Có lẽ vì nói nhiều quá - vượt ngưỡng. Không tốt. Lời nói sẽ trượt đi, làm mình mất cân bằng, cho dù cân bằng trong sự lạnh giá chẳng bằng đánh mất mình trong niềm hứng khởi? Tôi không biết. Những điều này nói chung là "lý thuyết" - giống như giữ ý nghĩ trong sạch, để lời nói trong sạch phải có điều kiện: thu hẹp càng nhiều càng tốt mức độ đòi hỏi đời sống, trong đó có đòi hỏi không được nói nhiều. 
Tôi đã cố gắng đọc bạn thêm một chút vào tối hôm qua. Những từ bạn dùng trong đó như thể ở trong một thế giới khác, cũng vô hình như thê giới của tôi, nhưng có gì đó xa xôi đối với tôi. Khi đọc tiếng Hung những trang nói về huyền bí học tôi cũng có cảm giác ấy. Tôi không sợ đâu, nhưng "không thích" một sự u ám nào đó sẽ đè phủ lên mình. Có một cái gì đó "âm khí"
Chắc bạn sẽ cười phá lên. Gặp bạn ở bên ngoài không thấy "sợ" đâu, cũng như đọc kỹ những điều bạn viết chẳng có gì đáng sợ cả, nhưng chắc chắn vẫn có một cái gì đó tôi chưa khám phá ra, mang cảm giác nặng nề u ám. 
Có lẽ chỉ cảm nhận một cách trực giác. Giống như lần đầu tiên tôi đọc một người... tôi đã bị hút bởi một sự giá lạnh khôn cùng nào đó, một sự trần trụi bi thương không giấu diếm, một vẻ đẹp trí tuệ  bí ẩn... cái mà hôm nay tôi đã rõ nó là gì: sự lưu vong, nỗi nhớ nhà không gì cứu vãn nổi thông qua một lý tưởng nào đó bị đánh mất, hay nói đúng hơn sự vươn lên tuyệt vọng của một bi thảm cá nhân. Không, tôi không muốn cũng trở thành như vậy, vì vị trí của kẻ lưu vong là có thật. Tôi không muốn lụi tàn đi như vậy. 
Bạn viết cho tôi những điều thật sự thiêng liêng. Tôi đã nghĩ về bạn rất nhiều trước khi gặp bạn. Bạn đã xứng đáng với H. Béla hơn cả mức tôi tưởng tượng. Từ ngày đầu tiên gặp bạn, tôi đã muốn viết, nhưng tôi không diễn tả được cảm giác đấy. Tôi nói với những người bạn của tôi, bạn là một điều gì đó lớn lao, bạn đem đến một điều rất lớn lao.
Đi thôi bạn ạ, bước hẳn vào con đường mới. Đây không phải là cách sống mới. Đây là cuộc sống mới. Tôi còn dám nói, đây là cuộc sống mà bạn đã chờ đợi bấy nhiêu năm. Đây là cuộc sống mà H. Béla đã và vẫn dẫn đường cho bạn, như dẫn đường cho tôi. Cuộc sống mới với hạnh phúc thực sự, và hạnh phúc trong điều thiện ngay ở nơi mình, điều thiện này thiêng liêng, điều thiện này đủ sức cải hóa thế giới quanh bạn. 
Bạn thân mến!
đêm qua tôi mới ngủ được, đêm trước và cả ngày hôm qua tôi bị hành hạ dữ dội. Thực ra lúc nào tôi cũng bị hành hạ như thế thôi, nhưng khoảng 3,4 năm nay tôi học cách lẳng lặng chịu đựng nó, hôm nay đã đạt được đến mức không biến sự chịu đựng này thành thơ đau đớn hoặc văn rên xiết. 
Tôi đã ngạc nhiên về những người bạn trẻ tuổi…
Nếu vẫn còn nhiều vô thức như trước kia, chắc tôi đã"lao" đến ngay lập tức, bây giờ tôi biết người ta lao đến nhau chỉ để thể hiện mình, sau đó thất vọng và "giết chết tươi" cả mình lẫn người khác. Hãy ở lại, là mình.
Tôi ngạc nhiên vì cách bạn phân tích sự vật- rất trực tiếp.
Đức tin của bạn không chỉ còn là vẻ đẹp nghịch lý của đời sống nữa thì phải? Tôi vẫn đang dừng ở bi kịch phải sống? Bạn đã tin tưởng vững chắc vào sự bất tử vô hình?
Có lẽ điều duy nhất vượt cao hơn cả sự mong manh lay động của tôi là quyết tâm dịch Hamvas Béla đến tận lúc nào có thể, bởi có lẽ Hamvas Béla không bao giờ bỏ tôi mà đi (hỡi ôi) 
Có lẽ cần phải "mạnh dạn" hơn nữa để tin vào bạn, vào các bạn, vào những điều mới mẻ  đang cổ vũ tôi dấn thân. Mạnh dạn không phải vì sợ bị lừa gạt, mà mạnh dạn để một lần nữa phải cháy sáng lên niềm hứng khởi, sự yêu đời, vui tươi, tha thiết, bạn hiểu chứ? Tôi biết tôi là một say mê sống bị dội nước lạnh, một le lói lửa dấu dưới áo"mượn" từ thần chết. 
Tôi cũng nghĩ rất nhiều về các bạn và thấy bạn rất kỳ lạ. Chúa ơi, hãy trả lại cho con niềm vui sống trong những ngày ít ỏi nơi quê nhà! Cùng lúc tôi rất sợ cảnh đui mù khi con người gặp đúng tầm chia xẻ! thật nhỏ nhoi cho nỗi buồn tủi cùng cảm giác run lên vì vui sướng.
Tôi không biết...
Tôi tin rằng trong bạn và tôi đều có những cảm giác tương tự nhau, đều đang hiểu và đang hướng đến cùng một đích. Tôi tin rằng đây là một số phận và tôi đã biết rằng đây là một số phận. Số phận đang lay động cả bạn và tôi, nó đang kêu gọi, tôi nghe thấy tiếng nó, cũng như nghe thấy tiếng bạn. Cái lúc bạn và tôi băng đường đến B. tôi đã tưởng như đã cùng bạn bước đi từ kiếp nào trước đó, tôi thấy quen thuộc và tự nhiên như thể hơi thở và sự sống. Theo một cách nào đó, cả bạn và tôi đều đang thực hiện tiếp số phận đó, bằng cách dính líu tới H. Béla, mà lời của ông như những lời đánh thức những cơn mê. 
Sắp tới sẽ là một chặng đường dài, tôi tin tưởng mãnh liệt rằng bạn sẽ thay đổi. Tôi tin rằng bạn sẽ cầm những vết thương lên và đốt cháy nó bằng lửa từ trái tim bạn. Tôi chưa từng mong mỏi ở ai một sự thay đổi tuyệt đối đến thế này. Tôi chỉ cần ở bạn khát khao sống đích thực, vì tôi biết khát khao đó đã đợi chờ mỏi mòn ngần ấy năm. Ngay cả khi nó đã chuyển hóa vào hình dạng của "tình yêu thương dịu dàng", tôi biết rằng nó không dịu dàng như vẻ ngoài của nó. Nó vẫn có thể bùng lên và thiêu cháy mọi tì vết của đời sống phàm tục.
Mạnh mẽ lên bạn! Đây là lúc lửa sống phải bừng lên hơn bất cứ lúc nào trong  bạn. Để thay đổi mình và để xứng đáng với chính mình. 
Nếu tất cả những mãnh liệt sống của cả một đời không đủ cho tôi hôm nay nhận ra các bạn, ra những lời của bạn, thì té ra: tôi đã trở thành một kẻ duy vật! (hahahahah)
Té ra: chỉ trong ảo ảnh ta thành Thượng Đế! 
Thế kỷ này vẫn thừa chất xúc tác biến chúng ta thành kẻ duy vật!
Bạn nói đúng: chất độc của duy vật lặng lẽ lan tỏa và âm thầm đầu độc. Kể cả khi núp dưới chiêu bài các giáo phái, tôn giáo, chủ nghĩa, duy vật vẫn giương cao lá cờ lợi ích cá nhân, nhóm người. Trong sự duy vật nhiệt thành, người ta không trung thực với mình, không chân thành với mình, theo nhiều cách.
Như một tia sáng trắng, có lẽ bên cạnh các bạn tôi sẽ không cần nhìn thấy nụ cười "thông cảm" của Thần chết nữa? Tên này xuất hiện dày đặc bên cạnh tôi, nhất là trong những tháng ngày Đông giá rét châu Âu. Còn"tình yêu thương dịu dàng" là sự chịu đựng đến điểm đỉnh thôi, bạn ơi, đâu phải là đời sống? Đời sống phải có tiếng cười và nắng ấm, phải có châm chọc và ngủ quên trong thanh thản...
Cảm ơn các bạn.
Tặng bạn bản dịch này của tôi: 
"Mary Magdalene lần đầu diện kiến Jesus (Kahli Gibran)
Đó là những ngày tháng 6 những ngày đầu tiên em gặp Người. Người đi băng qua những cánh đồng, em cùng hầu gái chỉ kịp nhìn thoáng qua, và Người chỉ có một mình.
Nhịp bước chân của Người khác hẳn những người khác, và bước đi của thân thể Người không giống bất kì ai em được trông thấy trước đây.
Con người không dạo bước trên nhân gian này như thế. Tận lúc này em không biết Người đã rảo bước hay khoan thai
Mấy cô hầu gái của em chỉ những ngón tay vào Người và thì thào bảo nhau. Em đứng sững trong khoảnh khắc, và em đưa tay lên vẫy chào Người. Nhưng Người không ngoảnh lại, và Người không nhìn em. Em bỗng thù ghét Người. Em tự cuộn mình vào, em giá lạnh như vừa bị băng giá cuốn trôi đi. Em nát tan thành từng mảnh vụn.
Đêm đó em mơ thấy Người; mọi người bảo Em rằng lúc đó Em đã gào thét trong mê sảng và quẫy đạp trên chiếc giường em nằm.
Rồi tháng 8 đến và em lại thấy Người, xuyên qua cửa sổ phòng em. Người ngồi dưới bóng của những cây bách ngay gần khu vườn của em, và Người lặng im như được tạc trên đá, như những tượng đá ở Antioch và những thành đô Bắc Quốc.
Người nô lệ Ai Cập của em đến bên em và bảo, "Ông ta lại tới đây. Ông ta ngồi ngay kia trong vườn".
Em nhìn Người say đắm, hồn em run lẩy bẩy trong em, Người đẹp đẽ vô cùng
Thân thể Người thuần nhất và mỗi phần như đang yêu những phần còn lại.
Em phủ lên mình tấm áo Damascus, em rời nhà và đi đến chỗ Người.
Do em cô độc quá, hay vì mùi hương ngào ngạt của Người, đã đẩy em về phía Người? Đôi mắt em phải chăng khao khát cuồng điên trước vẻ dịu dàng đó, hay vẻ đẹp của Người đã thắp sáng đôi mắt em?
Đến tận giờ em cũng không biết nữa
Em đến bên Người với quần áo xức nước hoa và thanh gỗ đàn hương mạ vàng, một gã chỉ huy Roma đã cho em, rất nhiều những thanh đó. Em đến bên Người, em nói, "Chào ông"
Người đáp, "Chào em, Miriam"
Và Người nhìn em, đôi mắt sâu thẳm nhìn em, chưa ai nhìn em bằng đôi mắt ấy. Đột nhiên em thấy mình trần tục trước Ngài, và em ngượng nghịu
Lúc đó Người chỉ nói, "Chào em"
Rồi em bảo Người, "Ông sẽ vào nhà em chứ?"
Người đáp. "Ta chưa ở trong nhà em sao?"
Em không hiểu Người nói gì nữa. Mãi đến giờ em mới hiểu.
Em lai nói, "Ông sẽ dùng rượu và bánh mỳ với em chứ?"
Người đáp, "Được chứ, Miriam, nhưng không phải lúc này"
Không phải lúc này không phải bây giờ, Người bảo thế. Giọng nói như tiếng biển dù chỉ hai từ ấy, như gió luồn qua những tán cây. Và khi Người nói với em, sự sống nói với cái chết.
Hỡi ôi, bạn lòng ơi, em thực đã chết rồi. Em là con đàn bà đã li dị mất rồi linh hồn nơi em. Em không còn là em những gì người ta thấy lúc này nữa. Em thuộc về tất thảy đàn ông, mà cũng không ai cả. Họ gọi em là con đĩ, con đàn bà bị ám bởi bảy con quỷ. Em bị nguyền rủa, em bị ghen ghét.
Nhưng đôi mắt ban mai  của Người nhìn vào đôi mắt em, tất thảy tinh tú đêm đen trong em tan biến, em trở thành Miriam, chỉ là Miriam thôi, người đàn bà lạc lối trong nhân gian mà cô ta thân thuộc, giờ bỗng thấy mình ở một đời mới.
Và em hỏi Người lần nữa, "Xin hãy vào nhà em chia sẻ bánh mì và rượu với em"
Người bảo em, "sao em cứ coi ta như khách?"
Em đáp, "em xin ông hãy vào nhà với em". Lòng em cồn cào vang lên những lời đó, cả bầu trời trong em mời gọi Người.
Người đăm đắm nhìn em, ban trưa trong đôi mắt Người chiếu rọi em, Người nói, "Em có vô số tình nhân, nhưng chỉ mình ta yêu em. Kẻ khác yêu bản thân họ khi em kề bên. Ta yêu em vì chính em. Kẻ khác chỉ thấy em đẹp đẽ, thứ sẽ nhật nhòa còn thoáng trống hơn tháng năm đời họ. Nhưng ta thấy em trong vẻ đẹp không tàn phai, và trong những ngày thu của đời em em sẽ không buồn bã trước gương soi vì nó, vẻ đẹp không gì suy chuyển nổi.
"Ta, mình ta yêu phần sâu thẳm trong em"
Người nói nhẹ nhàng, "Hãy đi luôn đi. Nếu những cây bách này là của em và em không muốn ta ngồi trong bóng nó, Ta sẽ cất bước ngay đây"
Em bật khóc nức nở trước Người. "Tôn sư, xin hãy vào nhà con. Con có hương trầm đốt sưởi cho người, có chậu bác rửa chân cho ngài. Ngài là người dưng nhưng không hề xa lạ. Con cầu khẩn Người, hãy vào nhà con".
Người đứng dậy nhìn em như những mùa nhìn ngắm cánh đồng, và Người mỉm cười. Người lại nói. "Tất thảy đàn ông yêu em vì chính họ. Ta yêu em vì chính bản thân em".
Rồi người rảo bước.
Chưa từng có người nào bước đi như Người đi. Có làn hơi nào trong vườn em đi về phía đông? Hay có trận bão nào sẽ giật tung tất cả khỏi nền móng của chúng?
Em không biết nữa, nhưng những ngày đó Mặt trời đang xuống bóng trong mắt Ngài đã giết chết con quái thú trong em, để em được thành đàn bà, em thành Miriam, Miriam xứ Mijdel” 
Bạn thân mến!
tôi chán bạn lắm, bạn đang tự dưng gây cho tôi một mối bận tâm mới- không cản trở nhưng thêm một lượng nước vào sương mù quanh ta, chán lắm...
hình như không có điều này bác Hamvas Béla vẫn không hề bị bỏ rơi, đơn giản vì bác đã bị lập trình trong óc tôi rồi.
Thế nếu tôi cứ tiếp tục đứng trong hàng ngũ những kẻ phàm tục thì bạn nghĩ sao? không phải để trêu tức bạn và những cặp mắt hết sức thân thiện nhìn tôi đâu, mà đơn giản là vì...thế thôi! 
Bạn bận tâm làm gì. Vì Bận tâm không xứng đáng với bạn. Bạn nhét nó vào balo đi, khi nào đi qua con sông dài, vứt xuống dưới.
Không khéo gặp lại nó khi đi thăm biển. Hahahahah…
Với tôi (thật kỳ lạ) bạn có thể được coi như người thứ hai trên đời tôi gặp có một kiến thức khá tổng hợp và sâu sắc.
Mặc dù tôi chưa dựng lên được một bức tranh rõ nét về các bạn trong cái xã hội VN lúc này, nhưng hình ảnh cá nhân của bạn tôi nghĩ là tôi "không lầm". Lúc đầu tôi cảm thấy hơi lạ khi nghĩ về tuổi đời của các bạn, nhưng nhớ lại mình hồi học xong đại học, lúc đó mình 23,24 tuổi, nhưng đã có những ý nghĩ hết sức già dặn và chả giống ai. Rất tiếc, tôi đã bơ vơ giữa dòng đời và cứ nhắm mắt mặc kệ nó muốn đi đâu thì đi, nên tư tưởng không phát triển tiếp gì cả. Bạn đã ý thức sớm hơn rất nhiều, có lẽ con đường các bạn đi đặc biệt.
Nhưng bạn thấy chưa, chúng ta đủ khả năng để "siêu hình hóa" những đề tài khác nhau khi trò chuyện, điều này khiến tôi rất phấn khích, cứ như mình sống lại thời tuổi trẻ, nhưng cùng lúc, lại rất phù hợp với sự già dặn tuổi tác hiện tại. Đối với tôi, kỳ lạ lắm. 
Tôi cứ nghĩ rằng: bởi vì bạn đầy cảm xúc.
Tôi quen chỉ có một mình luôn luôn, nên việc giữ cảm xúc nói chung không khó, nhưng bạn làm"thủ lĩnh" một đám đông, tại sao bạn vẫn giữ được cảm xúc? đó là do trí tuệ. Thật đấy. Trí tuệ cao đòi hỏi cảm xúc sâu hơn và cháy bỏng hơn. 
Về VN, tôi thường dễ chịu với đám bạn bè hơn là trong quan hệ với anh chị em họ hàng, mọi người thấy tôi "lạc loài" nên "tẩy chay" hoặc có những biểu hiện làm tôi hơi phiền lòng, hồi xưa tôi buồn lắm, nhưng bây giờ chỉ hơi buồn, như nước hồ gợn sóng một chút thôi. 
Tôi cứ nghĩ rằng con người không đủ kiên nhẫn để thể hiện lòng tốt với nhau, bao giờ cũng sợ bị thiệt thòi, nên ngay lập tức phải nhìn thấy lợi ích mới cảm thấy yên. Và sự "đơn giản" của tôi trong sinh hoạt làm mọi người tưởng có thể dễ đồng hóa tôi lắm, nhưng khi gặp phải thái độ rất cứng rắn của tôi họ vô cùng "nôn nao", phải tỏ ngay cho tôi biết là tôi đang "lạc loài". 
Thế là đành đi chơi lang thang một chút, nếu tôi buồn là đúng ý họ rồi đấy, nhưng nếu tôi vui là tôi tự giả dối...
Lang thang với cô bạn làm thơ, ngồi quán trà vỉa hè, lại "ný nuận" với nhau - thấy mình dù sao vẫn còn phụ thuộc thân xác! Buồn cười thật.
Nhưng nghĩ đến các bạn thấy vui vui, cái niềm vui này rất...tự thân. Hôm về VN, tôi chưa hề biết, mình sẽ có niềm vui này. Nâng niu nó theo kiểu muốn cho nó vào hộp đóng nắp lại cất đi, nhưng gặp bạn, niềm hứng khởi lại khiến tôi buộc miệng không kìm giữ được, lại nói luyên thuyên...Hừ!
Thôi, có lẽ cắm đầu dịch một bài mới là tốt nhất, sẽ cân bằng trở lại.
Tôi bắt đầu đọc bạn theo kiểu đọc lần 1 rồi lần 2 rồi lần 3. Có lẽ vì dù chỉ vài ngày, tôi đã quen giọng nói của bạn và có thể đọc bạn bằng giọng bạn. Tôi bỗng vừa có cảm giác, không phải bạn viết giống như đang nói, mà đúng hơn là bạn nói giống như đang viết.
Ah, nếu thế thì đúng là một hình mẫu "con người ý tưởng - suy tư". Nếu thế, thì tư tưởng của bạn là "viết", còn cuộc đời của bạn là "tác phẩm". Quá đẹp bạn nhỉ
Tôi vẫn nói, tôi biết rõ, bạn và tôi cùng một giống loài, một họ hàng tinh thần. Thực sự gặp được giống loài mình, đó là hạnh phúc chân chính.
Gửi bạn một đoạn dịch "linh tinh” của tôi: 
"Baudelaire, những con phố Paris 
Trích dịch từ Thương Xá, Walter Benjamin.
Arcades Project, p10.
Tất cả biến thành ám dụ trước ta
- Baudlaire, "Le Cygne"
Tài hoa của Baudlaire tuôn trào trong u uất, một thứ thiên tài ám dụ. Trước hết, với chàng, Paris biến thành thơ. Không phải những thánh ca cho đất mẹ; mà hơn thế, cơn ngây ngất của một nhà ám dụ, chằm chằm nhìn vào đô thành, là cái nhìn đăm đắm của một gã bị tha hóa. Đó là tia nhìn chăm chú của một gã lang thang, một kẻ với đời sống vẫn đang ẩn tàng, đằng sau một vầng hào quang le lói, cơn vụn vỡ đang ập đến của một kẻ nương tựa trong thành phố lớn. Tên lang thang vẫn tần ngần trước ngưỡng cửa - cái đô thành của lũ trung lưu. Không bao giờ cái đô thành đấy nắm được hắn. Hắn cũng không thể ngồi nổi trong nhà. Hắn ẩn náu trong đám đông. Những bản văn miêu tả diện mạo của cái đám đông ấy đã được Engels và Poe viết đến. Đám đông là bình phong xuyên qua đó những thành phố từa tựa nhau cấp phép cho những kẻ lang thang được thành ảo ảnh - hay một phong cảnh, một căn phòng. Tất cả trở thành chất liệu cho những gian hàng bày bán, những gian hàng ấy biến cái lũ lang thang kia tự mình thành một món hàng. Những gian hàng đó cũng là tuyệt đích trên hành trình lang thang.
Trong chuyến lang thang, đám trí thức đặt chân vào chợ búa - cứ như là ngó quanh ngó quất, nhưng thực ra đang tìm một người mua. Giữa cái màn kịch trung chuyển ấy, luôn có những vị khách quen, nhưng cũng đang sẵn sàng để bắt đầu tự thấy thân quen với cái chợ, những lãng khách (bohème). Từ cái bất định của địa vị kinh tế sẽ đến chỗ cái bất trắc trong chức năng chính trị. Cái địa vị chính trị ấy hiển hiện rõ nhất trong những toan tính nghề nghiệp, rồi tất cả cái đám ấy lại biến thành những lãng khách lang thang. Trường hoạt động ban đầu thuộc về bọn lính tráng, rồi đến đám tiểu tư sản, đôi khi hiếm hoi là bọn vô sản. Thế mà, cái đám lang thang này lại thấy rằng kẻ lãnh đạo thực sự của giai cấp vô sản thì cũng chính là kẻ thù của mình. Tuyên ngôn Cộng sản đã ném sự tồn tại chính trị của những kẻ lãng khách ấy vào tận kết. Thi ca của Baudlaire đã mượn lấy sức mạnh từ cảm hứng nổi loạn của bọn ấy. Chàng đứng về bên của lũ người ngoài lề. Chàng thấy mình chỉ quan hệ tình dục duy nhất với gái điếm.
Thả mình với con đường dẫn tới Avernus
- Virgil, The Aeneid
 Đó là cái nhìn tuyệt vời độc đáo trong thi ca Baudelaire về hình dung những người đàn bà với hình dung về cái chết đan mắc với nhau trong cái thứ ba: Paris. Paris trong thơ chàng là một thành phố chìm nghỉm, chìm dưới biển hơn là chìm xuống đất. Những thứ địa ngục của thành phố - cái bề mặt địa hình của nó, khác nào cái giường cũ kĩ bị vứt bỏ của Seine - luôn luôn xuất hiện trong thơ chàng như một điển mẫu. Thứ quyết định nhất với Baudelaire trong "tử vong lấp đầy thơ mộng" của thành phố, mặc dù thế, lại là chất nền xã hội, chất nền hiện đại. Cái hiện đại là phần căn cốt nhất trong thơ chàng. Cũng như cơn sầu não, hiện đại làm đứt gãy tâm tưởng ("Spleen et idéal"). Nhưng chắc rằng tính hiện đại luôn luôn đặt ra cái lịch sử nguyên sơ. Ngay đấy, nó diễn ra xuyên qua cái kỳ dị u ám mâu thuẫn trong những quan hệ xã hội và quan hệ sản xuất từ thời đại của nó. Cái u ám bất nhất là hiện thân của những hình ảnh biện chứng, quy luật biện chứng tại một điểm ngưng của lịch sử. Điểm ngưng ấy là một thứ ảo tưởng (utiopia) và cũng là hình ảnh biện chứng, vì thế là một cảnh trong mơ. Cái hình ảnh đó được đặt định dưới đủ kiểu: chẳng hạn như ngẫu tượng. Hay là những thương xá, cửa hàng, những căn nhà không thua gì con phố. Hay là đĩ điếm - kẻ bán và cái được bán là một.
...II.
Chúng giống hệt nhau, trồi lên từ cùng địa ngục
Lũ bách tuế song sinh”...
Nửa đêm ho tỉnh giấc, tự nhiên vui vẻ mở máy lên đọc lại chút tài liệu. Lại thấy muốn viết vài dòng cho bạn. Tôi đang nghĩ đến việc đã muốn gặp bạn từ rất lâu. Rồi tôi nghĩ đến "con đường H. Béla".
Và nghĩ đến những ngày bạn sẽ sống đẹp hơn, tiêu phóng, lúc nào cũng hít thở một bầu trời trong lành và gió và nắng, bằng tâm hồn thanh thản và thuần khiết. Cứ như tôi đang ở trong bạn vào giây phút đấy. 
Bạn thân mến!
xem videoclip này nhé, có tên là: sau cái gương, lấy ý tưởng từ bài Cái gương của Hamvas Béla.
http://www.port.hu/a_tukor_mogott/pls/th/theatre.directing?i_direct_id=12331
Bây giờ tôi sẽ dịch nốt bài đó- trong một quán cafe rất rộng, vườn mênh mông ghế ẩn hiện với những cây to, tôi ngồi trên tầng II. Nhạc ầm ầm, tiếng xe các loại  từ đường dội vào ầm ầm, nắng lung linh trên các cành cây, gió lồng lộng từ góc này bay tung góc kia...
Có cảm giác mình đang ngồi đung đưa, hoặc chìm nghỉm trên thứ âm thanh pha trộn của hỗn âm thành thị, nếu linh hồn lười biếng sẽ tưởng đây là tiên cảnh...
Nhưng tỉnh táo cũng vô ích thôi, trong gió, nắng quyện với những lời hát ê a vô nghĩa từ những cái loa phát ra inh ỏi, đọc Hamvas Béla giống như nhìn thấy một màu kim loại sáng chói nhô lên từ phập phồng ảo cảnh, may làm sao Sài Gòn có một không gian rộng lớn cho tất cả, khiến con người trong đó không bị đâm phật vào người hoặc dứt da dứt thịt trực tiếp đau nhói như ở Hà Nội...
Dù biết rằng chục ngày nữa thôi không thể mường tượng ra cảm giác này, giữa một xứ sở lạnh toát, tuyết trắng xóa, vắng ngắt...
Cũng như đọng lại duy nhất ảo ảnh về bạn sẽ là một đôi mắt đen mở to nhìn người đối diện chăm chú... 
Hamvas Béla thật sự mang trí huệ. Một Bồ Tát sống ở phương Tây. Và qua lời bạn dịch nữa. Tuyệt hảo. Tôi nói mà, bạn dần trở thành H. Béla.
Mong gặp bạn. Nỗi cô đơn của H. Béla giờ đã có một dạng thức tồn tại mới. Nhờ tất cả chúng ta. Phải mừng rỡ về điều này bạn ơi. 
Tôi đọc lại lần nữa, lần nữa những ghi chép của bạn. Bạn viết làm tôi kinh ngạc. Có bao nhiêu người hiểu chính xác những điều H. Béla viết như bạn?
Đây là lời giải thích tại sao tôi mừng đến thế khi tìm thấy các bạn - phần lớn tôi một mình mừng rỡ với Hamvas Béla thôi.
Những bí mật tinh thần trong con người giống như "toàn bộ thiên nhiên bị phủ kín trước chính nó", chỉ còn một tia lửa hy vọng le lói bé xíu: tri thức của sự tỉnh táo. Rõ ràng vẫn có một bí mật. Khi niềm vui phát hiện ra niềm vui. Khi say mê nhận ra say mê. Khi tỏa sáng và cùng hòa tỏa sáng. Trong từng cá nhân? Vẫn có một bí mật. Chừng nào ta còn tin vào đức tin? Hỡi ôi! mong manh như không hề có.
Những ngày Hà Nội làm tôi quên đi sự buồn bã, nỗi lạnh lẽo cô độc muôn thuở, và còn nhiều hơn nữa…
Chiều nay tôi gặp một cô bạn thân- một nữ họa sĩ nổi tiếng-  vẽ HOA rất tuyệt . Một người đàn bà không đẹp, nhưng tâm hồn long lanh như kim cương. Tôi và nó ngồi cạnh nhau là thân xác "thiu thiu ngủ", chỉ linh hồn trò chuyện, hai đứa nhìn nhau là hiểu nhau lập tức.
Hai đứa uống cafe, nó đau ốm, buồn dửng dưng, vui lên chút ít khi cầm cuốn sách tôi tặng, "Câu chuyện vô hình” từng được tôi đọc mấy trang, vài đoạn cho nó nghe trong căn nhà gạch xây ở một làng quê, nó "trốn" Hà Nội về đây sống. 
Tôi nhìn nó, đột nhiên bảo: mày tập đi, tao và mày sống tiếp, mày phải vẽ thêm tranh HOA nữa cho tao.
Có lần tôi lên nhà nó chơi, xem nó vẽ hoa Phù Dung sáng nở tối tàn đổi ba màu rực rỡ, ngắm cây hoa kỳ lạ đó, ngẫm nghĩ...
Bức tranh hoa phù dung của nó kỳ lạ như những ý nghĩ hồi đó của tôi. Rồi hai đứa kéo nhau đến một nơi quen, tôi dạy nó tập. Nó lấy giấy bút, vẽ lại các động tác, hỏi, ký họa (theo cách nhớ của nó) và bảo:  cái gì giản dị đấy là cái thật, tao nhớ hết rồi.
Hai đứa đi bộ lang thang ra Bờ Hồ một chút, trò chuyện, và chia tay. Không hiểu bao giờ gặp lại? Chắc sẽ gặp lại nhau những lúc ngồi tập, bạn ơi...  
Tôi viết cho bạn khi đôi mắt tôi bắt đầu nguyền rủa sự tỉnh táo. 
Cuộc sống đối với tất cả con người là quyền năng, nó khôn ngoan và xảo trá. Bạn và tôi đều biết rằng ngay cả khi chống lại nó, dòng máu phàm tục vẫn mang bọn mình trở lại đời phàm tục. Đây là cạm bẫy chết người của bến mê, cạm bẫy của tưởng tượng rằng thân thể này là sự thực đầu tiên và duy nhất ta có được. Thân thể này thuộc về bến mê. Mọi nghi lễ cổ, bao gồm cả hiến tế, là để chuộc lỗi lại điều ấy, rằng thân thể con người được cấu thành như nhà tù của Thần thánh.
Ta giam lỏng mình trong đó. Khổ đau và cười cợt. Ta tưởng rằng cảm giác của thân thể là thứ thực có ở mình. Sự nhầm lẫn ấy đòi hỏi sự tỉnh táo để vượt thoát. Nhưng ngay cả sự tỉnh táo cũng rất khổ đau. Hamvas Béla, bạn và tôi đều biết điều ấy. Khủng khiếp hơn nữa, tất cả sự tỉnh táo phải thừa nhận nỗi đau ấy.
Trong tôi có một sự dứt khoát, giữa những bề bộn của một đời phàm phải sống bằng được, rằng cuộc sống thuộc về đâu, và nó xứng đáng thuộc về đâu. Tôi không thể cầm vai bạn lắc và hét vào tai bạn, vì có thể sự thức tỉnh rất vô hình. Càng cố đánh thức nó bằng cái gì đó hiện hữu và chấn động, càng nhận được cái ngược lại.
Vì thế, còn một món quà có thể trao tặng nhau: sự thấu hiểu, đó là đồng cảm, là từ bi, tình yêu thương của Thần. Nó vô hình, hẳn thế, nó im lặng và cả ồn ào, nó không có thanh âm, nhưng lóng lánh. Bạn và tôi không đau khổ như Hamvas Béla, dù có thể chẳng kém gì, dù không thể so sánh như thế. Nhưng bạn và tôi ở đây nhờ Hamvas Béla, tôi vẫn nói, chúng ta chọn giống loài tinh thần cho mình.
Mạnh mẽ lên bạn. Bước chân có thể đi từ dãy núi này sang dãy núi khác, chính là vì tinh thần của bạn và tôi đều khỏe mạnh hơn gió bão, đều cùng cư ngụ trong một thế giới cao quý hơn đời thường. Đó là sự thực. Đây không phải sự trốn tránh. Cả bạn và tôi đều biết. Bạn càng biết rõ hơn ai hết. Tôi tin bạn.
Tất cả chúng ta đang kết nối, mạnh mẽ hơn bất kì sự kết nối đời thường nào, hơn bất kì dây trói nào có thể buộc chặt ở nhân gian. Sự gắn kết này đòi hỏi ở bạn niềm say mê vô tận và một đức tin mặt trời, biết tự tái tạo hào quang và năng lượng bằng những vụ nổ khủng khiếp, và đưa đến sự soi tỏ cho toàn bộ thế giới của mình.
Đừng yếu lòng. Đừng để đời thực xảo trá chiến thắng. Ta đang thanh tẩy mình ngày qua ngày để trở thành đẹp đẽ như Thần. Đây là con đường của Thần. 
Bạn thân mến!
4h sáng dậy (hình như sớm hơn, nhưng nằm trong chăn nghĩ ngợi), rồi gõ phím. Khi các linh hồn nhận ra nhau, chúng rủ rỉ chuyện trò, theo cách thức như chưa bao giờ gặp được ai. Luôn luôn là độc thoại, kể cả khi với người khác, buồn cười nhỉ?
Lần này về nước, hình như tôi đã rẽ ngoặt.
Tôi cần những bài viết của các bạn. Không chỉ là cảm xúc. Tôi cần một thay đổi gốc rễ về tư duy, để các con chữ vĩnh biệt lối mòn gặm nhấm mà một lúc nào đó tôi tưởng đấy là cách thức rủ rỉ của linh hồn. Thực ra có thể cũng cần thiết thôi, lúc đầu cần cho một cuộc đời mòn mỏi và đau đớn tê liệt, nhưng khi gặp các bạn rồi, chợt nhớ ra tuổi đi học mình có tự gặm nhấm thế đâu?
Tôi cần những tâm hồn chưa bị ngộ độc. Để hiểu Hamvas Béla sâu sắc hơn.
Muốn thanh tẩy những tạp chất đã từ từ ngấm vào mình từ lâu, tôi cần dứt bỏ, từ bỏ không thương tiếc toàn bộ những gì mình hỳ hục đi theo và tạo dựng...
Tôi bắt đầu"ngấm" hướng đi của các bạn thì phải, bởi vì tôi thấy chán khi đọc lại những người cũ, lời cũ, cách gặm nhấm cũ...như đứng bên cạnh một cột đình trong ngôi chùa bỗng nghe tiếng mọt kẽo kẹt, kẽo kẹt nghiến gỗ...
Sự lạc hậu và trì trệ của mệt mỏi như những con mọt gỗ ấy. Nhưng không thể bảo cho nhau biết được, bất lực nhìn nhau chết đi...
Có thể ta còn khả năng hồi sinh, nếu đi theo một ngọn lửa tỉnh táo bên ngoài, ngọn lửa của sự sống...
Tôi về lần này nghe các bạn mình kể chuyện của chúng nó, thấy kinh ngạc về đời sống ở đất này, như bạn viết" một đời sống hủy hoại". Tất cả chỉ vì vượt quá MỨC ĐỘ cho phép (giờ đây tôi sẽ lại dùng từ mức độ như giới hạn khi dịch) Gặp gỡ các bạn là một lần nữa trẻ lại, nạp năng lượng mới để sửa sai và tiến triển...đúng không? Hamvas Béla nói rồi: hãy hiện thực hóa hiện thực, hãy bắt đầu ngay khi nhận ra cái bất tử của sự sống…
Mỗi lần đọc bạn lòng tôi rất lạ. Tôi nhận ra một nỗi trong sạch bị dày vò, nỗi trong sạch tinh nguyên của khí trời, có pha lẫn khí tinh hoa của đất, ứng với mùa xuân buổi lập xuân. Bạn hình như giống trời đất độ ấy, nên dù có bị đời quăng từ bên này sang bên khác, dù có bị chia năm xẻ bảy vì thời gian, vẫn cứ tinh tươm linh hồn. Vì cái linh hồn không nhiễm bẩn ngay cả khai lạc lối ấy, bạn đã lần lữa loay hoay làm những điều rất đẹp cho đời.
Cũng là cho bạn nữa. Chắc chắn rồi.
Tôi rất thích nghe tiếng những linh hồn ca hát. Tiếng hát của linh hồn có từ những bình minh sương giá đến buổi chiều u uất, băng qua buổi trưa mệt mỏi và cáu gắt. Vì linh hồn tương phản với nhân gian, nên vào bình minh nó ấm áp, đến chiều nó tươi vui và giữa trưa nó sôi nổi. Tôi nghĩ sâu thẳm trong bạn là thế, và bạn ứng với điều này. Bạn là một linh hồn bị xác người vây bọc, chứ không như những kẻ khác, là xác người đang vây bọc một linh hồn.
Nếu thượng đế cho bạn thêm một hơi thở, linh hồn của bạn vẫn có thể cười nhạo phép lạ này, vì nó cần gì, nó đã sống thế, nó dù chưa ý thức được số phận bất tử của mình, vẫn đã xứng đáng với từng thời gian nó tồn tại. Nhưng không thể lãng phí định mệnh này, vì thế bạn nhận lấy số phận trung chuyển những tinh thần bất tử từ nơi này đến nơi khác.
Tôi muốn nói thêm, vậy bạn cần lựa chọn cho xứng đáng. Đó là điều Nên làm, vì sứ mệnh đối với mỗi linh hồn là lối đi, là con đường thực sự cao quý mà nó chờ đợi. Bạn phải ý thức được số phận của mình, điều cao quý mà bạn gắn mình vào đó và từ đó mà trở thành vô cùng ý nghĩa. 
Bạn thân mến!
Hình như thế gian của tôi đang điều chỉnh lại: một "con ranh” bắt đầu ra đi từ một Hà Nội xốn xang của tuổi thơ ấu, của tuổi học trò, và những kỷ niệm gia đình êm ấm.
 Nhưng lâu lắm rồi một Hà Nội như thế đã bị gột sạch trong trí nhớ của nó, thay vào đó là chua xót và cô đơn lưu vong... Ra đi, quay về, quá nhiều lần, vậy mà nó vẫn chưa tỉnh cơn mê, cơn mê của quá nhiều đau khổ, nhầm lẫn trong một kiếp làm người, quay về lần  này, dường như nó nhận ra Hà Nội xưa của nó: trong vắt như thuở nào... có lẽ nó đang vui sướng và hồn nhiên trở lại, ôi linh hồn trong sạch đúng hướng!
Ngày tôi rời Hà Nội sẽ đúng vào ngày lập xuân…
Hãy bỏ đi những gì chỉ là bụi trần vương áo…
Bạn thân mến!
Đêm qua, tôi nhìn thấy nỗi lo lắng của tôi với các bạn: một bóng mây đen che phủ bầu trời trong sáng đang vui tươi, điệu cười khả ố nhăn nhở của thần chết...tất cả rất trực tiếp, vì tôi đã từng nếm trải bằng chính da thịt mình.
Dù biết chẳng có gì khuất phục được các bạn, tính chất anh hùng ca của đời sống người nằm trong sự bình thản đón nhận tất cả, nhưng đấy cũng là nỗi đau, càng ý thức càng đau. Trong cảm xúc trìu mến tặng nhau nụ cười cởi mở và ánh mắt tha thiết, không bao giờ đọc ra nỗi chia ly nhưng đấy cùng lúc là sự phân chia tất yếu giữa khả năng của sống và chết. 
Gửi đây cho bạn xem mấy nhận xét của một người quen về mấy bài dịch của tôi hôm trước:
’’Bản của em rất rõ ràng về "Lí-thuyết" và "Nguyên-lí". Tuy nhiên nếu chỉ nhìn vào tự-zạng thì có vấn-đề. Tại sao? Nếu "Teoria" là "Theory" thì "Teoria" là "Lí-thuyết". Nhưng theo cách ziễn-tả của Béla thì "Teoria" có ngĩa "Teleology" tức là Nguyên-lí tất-iếu của Tạo-hóa. Trong Triết-học Tây-fương cả hai Teleology và Theory đều có vị trí khác nhau. Triết-học chỉ coi lí-thuyết là fần NHẬN-ĐĨNH chứ không fải là cứu-cánh. Người ta gán chữ "học-thuyết" cho Marx và Freud. Chứ cả hai người này không coi tư-tưởng của họ là "Học-thuyết" mặc zầu cả hai đều có lỗi-lầm. Ví-zụ: hầu hết cách fân-tích jấc-mộng của Freud zựa vào văn-hoá và xã-hội Áo. Cho nên không thể áp zụng vào con người ở xã-hội khác. Đây là điểm Russell fê-bình Freud. Jung đã cực lực tẩy chay fương-fáp đoán-mộng của Freud.
3) Theo anh, chữ HOMEROS trong câu em viết "Anh-hùng Ca Homeros" là một "tính-từ". Nếu đúng vậy, thì câu này nên viết là "Anh-hùng ca trong tác-fẩm của Homer".
4) Hầu như người Việt zịch các từ trừu-tượng của Tây-fương zựa vào lối Tầu.Có 2 vấn-đề. (a) Zịch thường zễ đi xa bản gốc. (b) Muốn biết ngĩa tiếng Tầu fải nhìn vào tự-zạng viết theo kiểu chữ NHO. Bởi vì cùng một "ÂM" đọc có nhiều ngĩa khác nhau trong cách viết. Cho nên theo Tầu càng làm rối đầu người Việt. 
Bạn thân mến!
hay quá.
Nhưng theo tôi, ngay trong từ nguyên, thì chính theory cũng xuất phát từ "theoria" mà ra, từ này gần với teoria hơn so với theory, tôi nghĩ vậy. Từ theoria mới đi đến theosis và theology. Theo đó, thì theoria, như cách hiểu của trường phái Alexandria, thì rất gần với nguyên-lý. Thậm chí, như cách diễn giải của Hamvas Bela, còn gần với "Chân Như" (Chân lý tuyệt đối, tự tính của vũ trụ,...), và như thế "nguyên lý" là một từ dịch xuất sắc. Teoria, trong tổng thể từ vựng của H. Bela, tôi thấy, nó sát với theoria. 
Còn điểm nhỏ là, như tôi biết, thì Homeros là cách viết Hy Lạp của  Homer, Hómēros, chứ không phải tính từ. Tôi đọc lại nhận xét 3 lần nữa, lại muốn nói thêm, "Anh hùng ca Homeros", với tôi, là cách dịch xuất sắc, dù tôi cũng không biết bản gốc thế nào. Homeros thực sự là người trao truyền tri thức về Thần, là "ngôn sứ", vì thế để hai từ này, "anh hùng ca" và "Homeros" đi liền nhau chính là thể hiện truyền thống cổ của Thần: Lời và Thần không có khoảng cách.
Tôi chỉ nghĩ thêm, đối với một người dịch bình thường thì không nói, nhưng tôi tin rằng bạn dịch bằng tinh thần H. Bela và mặc khải từ H. Bela, trong hơi thở và sự mách bảo của H. Bela. Đây không chỉ là tài năng, bạn là”người được chọn”. Đang rất chờ mong những bản dịch tiếp của bạn. Đừng lo lắng cho những người bạn của bạn, hãy dành tình cảm và thương yêu cho H. Bela và Lời của chàng. Đối với tôi, vạn sự là hảo sự, bạn hiểu điều đó mà. Không có bi kịch, vì bi kịch chân chính, với tôi, là sự phân ly với Thần Thánh. Bạn hiểu điều đó hơn ai hết mà.
Bạn thân mến!
Có lẽ bạn nói đúng: bác Hamvas Béla chọn tôi dịch vì tôi thường hiểu lập tức và dịch bác rất nhanh. Tối nay tôi đọc một bài phân tích tác phẩm H. Béla của một nhà lý luận nổi tiếng (tôi đã dịch một bài rất hay của ông này trước kia). Ông gọi tác phẩm của H. Béla là sách của những kẻ nhập định, hay nói một cách khác, sách dành cho những ai có "nhạy cảm đặc thù”. Bởi vậy không phải ai cũng hiểu. Nhưng tôi muốn nói thêm: ai có nhu cầu nhập định, đọc H. Béla, quá trình nhập định sẽ diễn ra với người ấy. Tôi và bạn gặp nhau từ tác phẩm của H. Béla - hai kẻ nhập định - thật quá mừng rỡ vì điều này.
Đêm qua tuyết rơi, sáng dậy nhìn ra cửa sổ thấy đất trời trắng xóa, im lặng trắng xóa...Nhớ lại ý tưởng đêm qua đọc bạn: "không có bi kịch, bi kịch chính là sự chia lìa  với Thần" chợt hiểu từ đâu mình vẫn còn tư duy "thị dân". Nếu mới nhận thức"mình là con đường"-tức là vẫn đề cao cái Tôi, vẫn đi tìm mục đích, vẫn duy vật. Nói như bạn, là đã hiểu đúng câu của Hamvas Béla: "Cuộc sống không có mục đích, chỉ có ý nghĩa". Ý nghĩa đời sống của một cá nhân (cũng như một dân tộc) là sống một đời sống thiêng liêng, nghĩa là nhập làm một với thần, với lửa, với dương, với tinh thần của vũ trụ. Tuyệt!
Bạn thân mến!
Đọc bài dịch mới "Lời giảng trên núi” của H. Bela, đánh thức vài vấn đề "huyền thoại Đạo gia" mà tôi từng cố gắng tìm hiểu, liên quan đến trường sinh thuật (bất tử), cải lão hoàn đồng và các tri thức cổ về cùng một vị trí, Đạo gia gọi là Mệnh môn (giữa Thận).
Bí mật của sự bất tử là tủy sống, là tái tạo hồng cầu và huyết,  Đạo gia gọi là tái tạo khí huyết, liên quan đến thận, đến vùng trung gian thận là mệnh môn tương đương với đốt sống thắt lưng 2 và 3.
Tình cờ, như trong bài H.Bela đề cập, Kabbala có nhắc đến giữa xương sống có đốt xương bất tử, mầm của cơ thể bất tử. Đốt xương ấy thực ra không phải xương, mà là một đĩa "thái cực" trung gian giữa âm chất (xương) và dương chất (tủy), còn gọi là nhân tủy, hay còn gọi là đĩa đệm.
Nơi tập trung của đĩa đệm nằm ở thắt lưng, là vùng các xương đốt thắt lưng từ L1-> L5, nơi chịu lực chính của cơ thể. Không hề ngẫu nhiên, thoát vị đĩa đệm hay thoát vị nhân tủy đa phần xảy ra ở khu vực này, gần như tương đương với một khoảng không gian phóng chiếu của khu vực Đan Điền, vốn được coi là nơi tập trung năng lượng tối ưu của nhân thể.
Cain, Abel, Set theo tôi là tên gọi các đốt sống lưng (các miêu tả đặc định tuyệt đối đúng: Cain còn có nghĩa gốc là Cái Giáo, thợ rèn, Abel là người chăn nuôi gia súc, cũng có nghĩa là chứng nhân, là cái gì đó nổi lên, đây là cách miêu tả các chức năng khác nhau của xương sống, đốt sống lưng). 
Kinh Thánh các nguồn đều nhấn mạnh Cain và Abel là con trai thứ nhất và thứ 2 của Eve, Sự sống, tương đương với khoang bụng, bụng dưới (liên quan đến thai nhi, sự tạo sinh). Quan hệ giữa ba người con này là bí mật của Sự Sống, tôi đọc xong lập tức nhận ra điều này. Cũng có nghĩa, thân thể con người là bản ghi chép của Thượng Đế về lịch sử thoái hóa của Thần, của Pháp lý, sự thoái hóa của vũ trụ.
Trong bài nhắc đến Cain và Abel, bên cạnh nhân vật nữa là Set. Tuyệt vời, tôi đã tra lại các tên này, theo các ý nghĩa nguyên ủy của nó, Cain tương đương với đốt sống thứ nhất, Abel tương đương với đốt sống thứ 2 và Set là đốt sống thứ 3. 
Như Kinh Thánh kể lại, khi Thượng Đế hỏi Cain về Ablel, Cain đáp: "sao ta phải trông coi em ta?”. Đó chính là đốt xương sống thứ nhất không quản đốt xương thứ 2 ở vùng thắt lưng, theo nghĩa này: lực của thân thể được truyền dẫn trung gian qua Cain, chứ Cain không gây áp lực lên Abel.
Đứa con thứ 3, Set, như H. Bela nói về con người thế gian, điều này tuyệt vời khủng khiếp, phải có một mối quan hệ với Abel. Quan hệ này được chuyển hóa qua sự nhập định, sự hướng nội, sự hướng vào bản thân, như thế là tiến sâu thêm vào giữa đốt sống lưng, Abel và Set sẽ là vùng tập trung sản xuất các tuyến dịch, tinh, huyết. Đối với Đạo gia, luyện tinh (nam) và huyết (nữ) là căn bản của việc tu luyện. Sự tu luyện này thuộc về tu Mệnh (tu về sự sống, còn được gọi là Dưỡng Sinh - Nuôi sự Sống).
Điều này đúng với huyền thoại "huyền quan thiết vị" của Đạo gia: nơi đến cuối cùng của cỗ máy khí tinh hoa là vùng Mệnh môn, là Abel và Set. Và còn có thể nói đến một sự phân bố nữa tương đương với Cain, Abel và Set.
Theo tướng học, Mệnh môn (cái tên này nghĩa là Cửa của sự sống), còn nằm ở Ấn Đường, huyệt giữa hai mắt. Huyệt này có sự nối thông về khí huyết với đốt xương sống lưng thứ 2, đốt Abel, gần với thiên nhãn, là nơi tiếp xúc với Trời. Nơi ở thứ hai của Mệnh môn trong Đạo gia là hai mắt, nơi trú ngụ của việc nhìn nhận thế gian và con người phàm tục, gắn với gan (tuyến lệ) và như thế liên quan đến đốt xương sống thứ 3, đốt Set. Còn lại, phần thận bên phải, sản xuất dịch và điều xuất chất lỏng, nối gần với rốn, là các tuyến dễ tổn thương nhất đối với con người chính là phần có quan hệ khí huyết với đốt xương sống thứ nhất là Cain.
Sự hướng nội bây giờ, đối với người tu luyện thông thường, sẽ mang hai ý nghĩa: đột phá các vỏ ngoài của xương sống để tiến vào vùng đệm thái cực tại đốt xương Abel và Set, đây là đốt xương chứa bí mật bất tử, mà, điều hóa nó sẽ làm tái sản sinh các cơ chế của Tủy. Cái này cùng nguyên tắc với Hỏa Linh Công. Thật tuyệt vời.
Ý nghĩa thứ hai là, hướng thẳng vào vùng bụng, đan điền, dưới rốn 3cm-5cm, nơi kết ấn, để tập trung khí lực. Vậy là phân chia làm hai khu vực: khu vực tụ tập khí tinh hoa là đan điền, và khu vực cải hóa bản thể là giữa Abel và Set. Như thế, phần bụng sẽ loại bỏ ảnh hưởng của Cain, nghĩa là Abel và Set phải tách khỏi Cain để trở thành một khu vực độc lập (theo nghĩa có cơ chế độc lập). Đây vẫn là một phần nguyên lý của Hỏa Linh Công.
Ghi chép của tôi rất vội. Tôi vừa viết vừa nghĩ. Tôi lập tức phải tra lần lại các đường vận chuyển công, các vấn đề được Bela gợi ý để thấu suốt điều này. Tôi đang nóng lòng đọc các huyền thuyết liên quan được H. Bela nhắc đến, nên viết hơi lộn xộn, đừng cười nhé.  
Bạn thân mến!
đọc thư của bạn cứ như...đọc sách ấy.
A! tôi đã tìm ra bài CÁI GƯƠNG nằm ở đâu? 
Hôm nọ đến nhà ông D. Antal, tôi hỏi, ông ấy cho biết: trong một cuốn tập hợp một số tiểu luận của H. Béla, in đúng một lần và do trường ĐH Tổng hợp in, bây giờ không tìm đâu ra... Ông Antal cho biết: còn rất nhiều tiểu luận của H. Béla chưa in, thậm chí nằm ở đâu đó, ở nhà ai đó, vì vợ H. Béla là "nạn nhân" của các loại "mượn" nhưng không trả lại của những người quen, ngay từ khi chưa bao giờ những bài ấy được in, chỉ ở dạng viết tay hoặc đánh máy. Ông Antal hứa sẽ gửi cho tôi một số bài. Bạn thấy không, H. Béla viết liên tục, bất cứ lúc nào.
Bạn thân mến!
Bạn đang bình yên hơn, tôi cảm nhận qua từng hơi thở của những điều bạn viết, tiếng ngân nga của nó, từng giai điệu trong đó. Tôi đã từng nói, không khéo dịch xong bạn biến thành H. Bela mà. Haha. Dễ lắm bạn ơi. Nhưng dù vì gì đi nữa, bạn đang đi trên con đường thiêng liêng, tôi cá chắc không gì sánh nổi với con đường thiêng liêng này. Bạn biết điều đó mà, phải không bạn?
Dù thế nào, bạn nhận ra chứ, lời dịch của bạn đang ngấm H. Bela hơn, đang nhập định vào H. Bela hơn. Bạn đang "lên tầng" trong tinh thần. H. Bela viết mọi chỗ, thì chúng ta phải đọc và dịch mọi lúc mọi nơi. Cố lên bạn ơi. 
Bạn thân mến!
Bên này có một sự im lặng tuyệt đối, mùa đông, nó hòa vào tuyết trắng và cái lạnh buốt trong suốt. Bên này nếu không có sự ấm áp tinh thần, con người dễ biến thành tượng đá trong cảnh vật chết mùa đông lắm, bạn ạ.
Tôi đọc bài của bạn: tiếng Việt của bạn rất sắc cạnh, như một ngọn dao, hoặc đâm thẳng hoặc gọt cứa. Chắc không nhiều kẻ chịu được sự mãnh liệt này. Nhưng họ buộc phải để ý tới. Lúc khác, ngôn từ của bạn lại rất tỷ mỉ, nhẫn nại giảng giải với một bình yên thấu đáo.
Tôi muốn thiên hạ phải biết đến sự song song hiếm hoi này- nhưng con người nói chung nôn nóng, vội vã- có rất nhiều thứ xung quanh có thể ăn từ từ, nghiền ngẫm sự thơm ngon của nó, nhưng họ cứ nhồm nhoàm nuốt như một kẻ cần chết, và chết ngạt vì sự vội vã của chính mình.
Làm thế nào để đừng dàn trải lê thê trong nông cạn cũng như đừng hấp tấp trong dục vọng cào cấu?- có lẽ trước tiên phải "chết ngất" đi đã, rồi sẽ tỉnh dậy và biết...đúng không?
"HỎA LINH, SỰ THẬT VÀ THẦN THÁNH
1. Quẻ Ly hai đầu là dương, ở giữa là âm, cũng có ngụ ý rằng dù cháy bỏng đến đâu vẫn có phần thoi thóp. Nên quẻ Ly trùng với ức, là nơi cư ngụ của Tiferet, của vẻ đẹp hoàn mỹ.Sở dĩ Tiferet là vẻ đẹp hoàn mỹ, vì nó ở giữa nê hoàn cung trong đầu và đan điền dưới rốn, nghĩa là ở giữa trí óc và suy tính, lại ở gần chân tâm của con người, ngay dưới tim là sự sống và ngay trên nội quan là tồn tại. 
Một tư duy cổ xưa đã lưu giữ điều này: Lửa, sức sống, nằm ở trung tâm của toàn bộ đời sống, và bản thân nó là vẻ đẹp, là toàn bích, không cần  biết đến việc nó thể hiện ra sao, nó hoàn mỹ ngay trong chính bản thân nó, nó vừa rạng rỡ vừa yếu đuối, vừa nóng nảy vừa mong manh. Phật giáo gọi ngọn lửa toàn mỹ này là Chân Hỏa, nghĩa là lửa-thật, Đạo gia gọi là Hỏa Linh, nghĩa là lửa-thiêng. 
Cái Thiêng đúng nhất là cái tự nó, cái tự nó chính là cái Thật, vì cái Thật này đồng hóa mình trong những mạch nguồn bất tận của sự sống. Che phủ Chân hỏa hay Hỏa Linh là cái tôi của con người, là xương thịt nhục thể bên ngoài, là sự biểu hiện cả sự sống thành cơ thể, tính cách, hay mọi mặt của đời sống. Cái tôi của con người đời thường, cũng như nhân thể của họ, vì thế, là một sự hiểu lầm về sự sống, hiểu lầm về lửa-đích thực trong họ, hay về cái Thật là Thần trong họ - đời sống, vì thế, căn bản là hiểu lầm, là Bến Mê. 
2. Có một sự liên hệ giữa con người và lửa: sự kích động khao khát khi đăm đắm vào ngọn lửa, tương đương với sự mềm yếu suy tư khi nhìn vào nước. Con người hoang dã nhảy múa quanh lửa, vì một linh ứng dị thường rằng sự toàn mỹ của họ nằm trong lửa, đúng hơn là lửa nằm trong họ. Ngọn lửa ở ngoài kích động ngọn lửa bên trong, nhưng chỉ có ngọn lửa bên trong là đích thực - vì thế một nghi lễ cổ phổ biến mọi nơi trong các nền văn hóa: đi qua lửa.
Đức tin và lý tưởng, sự sùng bái Thần Thánh vừa ước nguyện dâng hiến bản thân mình cho Thần Thánh của con người thể hiện qua những bước chân không-sợ đời thực: họ chứng tỏ được rằng ngọn lửa bên ngoài không thể so sánh với ngọn lửa bên trong, và rằng ngọn lửa bên ngoài có thể thiêu hủy đời sống nhưng không thể thiêu hủy kẻ Thật sự sống, cũng là kẻ đã trao mình cho cái Thần Thiêng, vì thế mà thức tỉnh cái Thần Thiêng trong mình, thức tỉnh ngọn lửa sự sống trong mình. Vì thế, nhờ vào đức tin, những người đồng tu và bậc thầy dẫn đường, con người Thật đi qua lửa của đời-thật, và chỉ có một cái là Thật, đó là phần Thần trong con người, phần duy nhất Thật.
3. Một trong những phương thức cổ xưa để tiễn những người không còn sống về nơi họ thuộc về là Hỏa Táng. Người chết được đặt trên dàn gỗ và lửa sẽ thiêu rụi thân xác của họ. Đúng thế, lửa của đời sống thật này sẽ thiêu rụi phần thuộc về đời sống, do đó, để lại cái Thần Thiêng, giải thoát linh hồn bất tử của con người. Lửa của đời sống này chỉ có thể thiêu rụi đời sống này, không thể thiêu rụi phần siêu thoát của đời sống. Cũng một ý nghĩa tương tự, sự hiến tế bằng lửa, hay cả những nghi thức thiêu hủy phù thủy, đều chung một ngụ ý rằng lửa sẽ đốt cháy phần ác, xấu, phần trần tục, như thế sẽ giải thoát phần Thần thiêng và trả phần Thần Thiêng cho Thần Thánh, cho những thế lực siêu nhiên, cho Thượng Đế và Chúa.
4. Vì thế, quẻ Ly chủ về sáng rỡ, Tiferet là hoàn hảo, vì nó kết thúc sự phàm tục bằng tro tàn và mở đầu phần Thần Thiêng bằng hào quang và ánh sáng. Thần Thánh, do đó, xuất hiện trong hào quang, trong ánh sáng. Sự thiêu hủy đời sống phàm tục, cũng vì thế, trong tư duy cổ, gắn liền với lửa, với sự thiêu rụi, một viễn cảnh được nhắc đến trong các sách về Tận thế. Và nó còn làm xuất hiện một ý nghĩa nữa: rằng đời sống này che giấu cái Thần Thiêng, nhưng không thể che giấu mãi mãi. 
Thời đại của Thần sẽ trở lại, sau cuộc Phán xét, sau sự thiêu hủy đời sống phàm tục, làm xuất lộ trở lại Sự Thật duy nhất, là Thần Thánh. Thần Thánh chính là sự Thật, nằm trong con người, và chỉ khi nào con người từ bỏ phần phàm tục, thì con người mới thức tỉnh Thần Thánh, thức tỉnh sự thật. Mọi sự thật khác của đời sống chỉ là những dấu hiệu khác nhau của mê muội và phàm tục. Vì thế, đức lý thật sự, sự công chính thật sự được ghi lại trong Torah về Avraham, là sự sùng kính Thiên Chúa, sùng kính Thần thánh, đặt mình vào Thần Thánh, nhờ đó từ bỏ phàm tục. 
5. Đó là Thông điệp vĩ đại cuối cùng của thời cổ, mà về sau ý nghĩa của nó cũng bị phàm tục hóa bằng sự ra đời của tôn giáo và tín ngưỡng, nhân danh những đức tin bạc nhược và yếu đuối.Vì thế, hỡi con người, chưa muộn để thức tỉnh sự sống Thật sự trong mình, chưa muộn để thức tỉnh Thần Thánh trong mình, bằng cách từ bỏ những sự mê muội, từ bỏ sự bám víu của đời sống phàm tục.
Chính là vào thời đại Kalki, con người hãy giương lưỡi kiếm trí huệ, trên con ngựa của đức tin, tuyên dương một đời sống mới của Thần Thánh. Đây là cơ hội cuối cùng, và cũng là duy nhất của nhân loại, để trở lại Thần Thánh trong mình, dưới sự dẫn lối của Vạn Vương Chi Vương, Vạn Thần Chi Thần"
Bạn thân mến!
Vào mỗi ngày qua đi ở Hà Nội, những người ác độc chỉ càng thêm ác độc. Ở đây, tôi từng nói với bạn, con người không biết yêu thương và thiện lành với cuộc sống của nó. Rút vào trong cái tôi đô thị này, trong khi trở nên ích kỉ và vị lợi vị tư hơn, con người hủy hoại luôn chính mình. Những ngày lại qua với bụi bẩn và tranh đoạt, đi cùng những người không biết gì hết ngoài cơn điên giận dữ, tôi thường chỉ biết nhìn lên trời, nhưng tôi biết rằng không thể trông đợi gì sau mây bụi xám ngoét. Dù cũng có ngày trời xanh.
Bạn có hiểu điều tôi muốn nói không? Bạn là một bầu trời trong lành đặc biệt. Tôi không ảo tưởng vào con người, đặc biệt không ảo tưởng vào những biểu hiện của con người. Vì thế, tôi không thất vọng, điều tôi nhìn, tôi biết, đang là một sự thật tự nó như vậy. Sự thanh lành ở bạn đang lang thang trong phàm trần. Điều này có khiến bạn giống "Tiên" không? Tôi đoán chắc là có. Haha.
Thần Thánh không phải là một thực tại song song trong tâm trí theo nghĩa một ý tưởng. Đó là hiện thực. Đó là thực-tại. Con đường trở thành Thần là có thực. Hãy tin vào điều đó, tin vào điều mà chính H. Bela còn có lúc hoài nghi vì hiện thực quá nghiệt ngã.
Sự cô đơn của con người hiện đại đáng sợ, sự ích kỷ và những người không biết gì ngoài chính mình và sự phàm tục nhân gian càng đáng loại bỏ bội phần. Hãy "nhập định" vào Thần Thánh, bạn thân mến. Nếu lời này còn có sức lay động bạn, đừng để mình chìm xuống. Hãy tin tôi. Như tin H. Bela. Đó là cách để bạn tin chính mình.
Này giáo chủ!
Đôi khi tình cảm của kẻ cầm đầu thánh đường đối với các tín đồ là một quả bom chưa biết lúc nào được quăng ra, bởi vậy, các ngươi hỡi! cứ thin thít chăm ngoan, lành hơn bao giờ hết để (tốt nhất) hưởng ân sủng hơn là sự giận giữ.
Này giáo chủ, phải chăng những lời lo lắng tận đáy lòng, những cử chỉ chăm sóc tận chân tơ kẽ tóc chỉ hiển hiện thành công trong dáng hình của một dây thòng lọng? Hahahahahahah
Thế, nhưng:
ở đây tuyết vẫn cứ nhất định rơi, dù đã quá đủ cái màu trắng hôn mê này cùng lũ quạ đen gào rú trên bầu trời, vỗ cánh phành phạch vì cả ngày không kiếm ra một miếng mồi nào hết...
Ở đó, chắc mưa Xuân đang bay lất phất, nhất định không chịu biến thành dòng xối xả để cuốn trôi ra biển tất cả: từ lá bàng đỏ rời cành vun đống dưới gốc, từ thăm thắm hoa khế li ti trổ cành trên gác 2 quán cafe một góc Sài gòn nhìn rất rõ, đến cả tiếng cười một lần cất lên là không quên được của giáo chủ cùng các tín đồ....
Ôi! ôi! ôi!
Tại sao bên cạnh cái thánh đường âm u toàn mổ xẻ xác chết và máu tươi ta lại thấy lâng lâng yêu đời hơn bao giờ hết, nghe khúc khích giọng cười vô hình của trái tim, cứ như đang mong chờ mùa xuân đến để trong nháy mắt, lá vụt hiện xanh biếc trên cành và khắp nơi hoa nở, chim hót?
Tại sao bên cạnh tiếng thở dài khẽ nén của một tình yêu mến mênh mông ta chỉ thấy thần chết nhăn nhở cười xuất hiện, kiên nhẫn gác cái lưới hái lên vai đợi ta gật đầu đồng ý đi theo?
phi lý quá đi mất thôi, giáo chủ ơi!.
(dịch tiếp vậy. Hừ!) 
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=mMNUF2lxwKg
Hồi còn lang thang ngoài những bờ mê mệt, anh thường ước mơ một ngày nắng, đi giữa một cánh đồng toàn nắng. Nắng mọc lên từ đất, đất rực rỡ như mặt trời. Và anh thấy bầu trời xanh xao lạ kỳ, tua tủa những ánh tươi tắn.
Hồi đó, anh nhớ chắc chắn rằng, anh biết chán ngán với đô thị, nơi con người hãm hại nhau bằng mắt, miệng, tai, tay, chân... tất cả những gì con người sở hữu. Tất cả những gì thuộc về con người đều dùng để hãm hại lẫn nhau. Anh đã chạy ra bên rìa thành phố, ước mình có thể nhảy xuống dòng sông vàng vọt. 
Anh tưởng tượng mình ở dưới đó. Ngạt thở, tắt lịm. Dưới nước, anh sẽ thấy gì? Không có phép lạ nào, nhưng sẽ chấm dứt những lời nguyền. Đời sống này chính là nguyền rủa. Em hiểu phải không? 
Rồi anh lớn hơn, bằng khổ đau và tri thức. Anh biết rằng thân thể này còn có dụng ý. Sau này anh biết rằng thân thể còn rất nhiều chỗ dụng ý. Anh đã trở về từ dòng sông đen đúa trong đầu mình. Nơi đây anh cùng bạn bè anh hóa giải sự đày đọa, anh sẽ không dừng lại được, cho đến ngày tất cả bề bộn và bẩn thỉu nơi đây chuyển hóa thành nắng. 
Và cả mặt trời nữa. Mặt trời cũng sẽ hóa thành nắng. Em biết điều này, phải không? Đây là thệ nguyện mà anh đã sinh hóa vì nó. Vậy anh sẽ vì nó, đến khi nào ngay hơi thở của anh cũng ngừng thở.
Em hiểu, phải không?
Có một lần anh nhắm mắt lại, thấy trong tim có một viên pha lê màu xanh biếc. Khi màu xanh tan đi thành những mảnh vụn sáng, viên pha lê vẫn ngẩn ngơ đợi màu, nhưng giờ thì chỉ còn ánh lên những màu đỏ hằn học.
Anh biết rằng chúng mình đều mong muốn được thuần khiết, và đều biết rằng với con người, sự thuần khiết phải trả giá bằng đau đớn. Nhiều khi, trả xong, chỉ còn lại đau đớn. Không còn thuần khiết. Cũng như không còn gì cả. Mà còn có thể còn gì, em nói xem?
Có người từng hỏi anh, "Để làm gì?". Phải, thuần khiết để làm gì, đó là câu hỏi của con người, con người trọn vẹn của đời này. Đó là câu hỏi của nhơ bẩn, vọng lên như tiếng thở than của kẻ đã chết rồi còn tưởng mình hừng hực sống.
Anh ở đây để bảo vệ khao khát thuần khiết. Vì thế, hãy trao cho anh tất cả khát vọng em còn, dù chỉ là một hạt le lói còn nguyên màu đau nhói. Nhanh lên, đưa anh.
Đưa anh, đừng để cả khát vọng thuần khiết cũng đục ngầu và nhuốm bẩn. Nhanh lên
Nhanh lên. 
Bạn thân mến!
Đọc đoạn này trong tiểu thuyết Karnevál của Hamvas Béla nhé: 
Một người nào đó ngồi.
Đến gần hơn: hai người, quay lưng vào nhau.
Một đàn ông và một đàn bà. Hai cái lưng của họ buộc vào nhau.
Họ muốn đứng lên, nhưng không thể.
Họ quay cái đầu của mình, để nhìn rõ nhau, nhưng đầu của họ cũng bị buộc lẫn.
Hai khuôn mặt không bao giờ nhìn thấy nhau. Không bao giờ họ có thể nhìn vào mắt nhau.
Khuôn mặt bị hành hạ. Người đàn bà rên rỉ. Nằm đấy, ngọ nguậy cái đầu, để nhìn được kẻ khác.
Họ đau khổ, không nhìn thấy nhau. Họ yêu nhau?
Họ không yêu nhau. Không phải tình yêu. 
Kẻ mà mi dính mắc vào đó, không phải là kẻ mi yêu
Mi là ký sinh trùng và là kẻ cướp của nó.
Mi chỉ yêu kẻ mà mi buông ra.
Nếu mi yêu, mi đã để nó tự do. Chỉ yêu nhau, những kẻ liên hợp với nhau một cách tự do.
Những kẻ này suy sụp.
Nếu mi dính vào nó, lúc đó mi là tù nhân của nó và mi hút máu nó.
Mi cần buông nó ra, để mi có thể yêu nó.
Chúng chỉ quằn quại bên cạnh đường. Lớn lên cùng nhau.
Vậy mà từ chúng vẫn có một tia sáng xa cách bé xíu.
Chúng tưởng nếu dính vào nhau, chúng sẽ liên hợp.
Kẻ này không hề có trái tim để giải phóng kẻ kia. Nó không yêu.
Nó không có trái tim để giải phóng bản thân nó. Nó cũng không yêu bản thân nó.
Chỉ tham lam, và đối xử với bản thân, như với một cậu nhóc được chiều chuộng.
Chúng lớn lên cùng nhau hàng bao thế kỷ nay. 
Mỗi buổi sáng, khi mặt trời hiện ra ở chân mây, chúng tách đôi,
và cả hai đều tự do.
Nhưng chưa đầy một phút, chúng một lần nữa dính vào nhau, luôn luôn theo cách, để không nhìn thấy nhau. Từ hàng thế kỷ nay tất cả mỗi ngày chúng đều tự do, và tất cả mỗi ngày chúng đều có thể tặng lẫn nhau món quà bằng sự tự do của chúng, để có thể yêu được lẫn nhau.
Nhưng nỗi suy sụp trong chúng lớn hơn. Sự điên dại. Sự nô lệ.
Tình yêu chỉ có thể có từ kết hợp tự nguyện. 
Đây là sự ngất ngây dối trá, sự dối trá từ hàng thế kỷ nay.
Có thể giúp được chúng chăng?
Sáng mai, bình minh lên, chúng sẽ lại tách nhau ra lần nữa. Nếu chúng yêu nhau đủ để không dính vào nhau, để lại nhìn thấy nhau lần nữa như thế.
Mi nghe thấy không?
Mi hãy yêu!
Sáng ngày mai, khi mặt trời thức dậy. 
Không thể yêu Thượng đế một cách suy sụp.
Không thể chịu đựng cả ký sinh trùng lẫn tù nhân.
Bởi thế Ngài cho tất cả mọi người một tự do sắp xếp tự thân.
Làm được gì với một kẻ điên, kẻ kiếm tìm trong nó sự say khướt? 
Ôi! Một ngày nào đó bạn phải dịch toàn bộ tiểu thuyết này. Lúc đó hẳn bạn đã đi đến tận cùng những cảm giác, đau đủ và thấm đẫm. Hoặc, biết đâu bạn ơi, với một lòng cay nghiệt và lạnh lùng. Vì với những lời này, tôi cảm giác, có chút gì đó, H. Bela mang theo một tình yêu có chút cay đắng với Thượng Đế. Một chút, rất nhỏ, và rất buồn, với cuộc đời nhan nhản. Ôi, nhưng làm sao có thể nói thế về H. Bela?
Có điều, thật kỳ lạ, đọc H. Bela tôi giống như đang hồi tưởng, và cũng giống như được nhắc nhở, hoặc, đôi khi, như được đánh thức. H. Bela là một giọng nói ngay khi vừa đọc, chấm dứt ngay khi rời đi, chỉ để lại một thứ vô hình không thể gọi tên trong tôi, không phải cảm giác, không phải ấn tượng, mà là một điều gì đó ẩn sâu hơn và tinh tế hơn.
Nói cho cùng, tôi đoán, điều H. Bela đã thực sự làm là đánh thức cái Thiện, bằng cả ngôn từ và tinh thần, bằng cả tri thức và trải nghiệm. Nhưng mọi cái hiện hình từ H. Bela đều không nêu đủ chân thật về ông, vì ông thậm chí đã vượt lên trên những lời ấy, cả khổ đau và giải thoát.
Nhưng cũng có lúc, dường như H. Bela đột ngột xuất hiện giữa các từ, và hét lên một tiếng không choáng váng, nhưng làm kinh động những dây thần kinh trong tôi. Đó là lúc cái gì đó trong tôi được thổi bùng, một ánh sáng màu lửa hoặc màu mặt trời chạy trong huyết mạch và lấp lánh…
Bạn thân mến!
nếu bạn biết những lời của bạn đến hàng ngày với tôi ra sao nhỉ?
Không phải vì cô đơn- những kẻ tự lựa chọn sự xa lánh đám đông không cô đơn, nó chỉ một mình thôi. Cũng đừng lo niềm tin của tôi - ai đã hiểu câu của Hamvas Béla: "Cũng đủ nếu chỉ một người trả lời con nhân mã"- kẻ đó không chỉ chọn xong niềm tin mà còn cả hành động nữa. Và nếu nó tin chắc vào hành động mỗi ngày của nó sẽ in dấu tích cực như thế nào vào nhân gian, thì có gì ngăn cản nó"Sống như mơ, và mơ như sống?"
Mỗi cuốn sách dịch của tôi là một trạng thái sống và hành động của một NHN lúc nào cũng một mình - may quá, người đọc không cần biết điều này, người đọc còn mải xem bác Hamvas Béla trình bày cái gì.
Nhưng NHN không quên cái gì cả - vì một trong những điều làm nó đau đớn nhất là cái hiện tại của nước VN yêu quý của nó-giống như bạn thôi, bạn không thể dửng dưng vì bạn yêu quý nơi bạn sống. Trong thực tại phũ phàng ấy, lựa chọn mình biến thành cái gì cũng được (rất tiếc) đều mang một ý nghĩa như nhau - tại sao tao không thể trở thành quỷ nếu tao chỉ có thể trở thành quỷ?
Sự bất lực - bạn ơi - cũng bằng sự đau khổ thôi. 
Bạn thân mến!
Một ngày nào đó, bạn sẽ hiểu thêm rằng, nỗi cô độc thực sự, nơi tận cùng của sự cô đơn, ở ngay sát hạnh phúc chân chính, dù nó không phải là một, và không thể cùng lúc ở hai nơi này. Sự an bình, an bình chân chính, phải đi đến, không phải là "tìm ra".
Con người phải đi đến những bến đỗ, không phải là phát hiện ra những bến đỗ đâu đó trong mình. Bởi vì bất kỳ điều gì tốt lành cũng đòi hỏi người ta phải biết hi sinh, phó xuất, đánh đổi, từ bỏ... để đạt tới. Không thể trông chờ ở số phận, hay bất kì điều gì tương tự.
Tặng bạn bài viết này:
DẰN VẶT
Sáng sớm nay em thấy như có ai vứt sỏi vào ruột em, đau đớn và rách nát. Em không ăn được gì, cảm giác như máu từ khoang bụng đổ ra thành từng đường viền gượng gạo. Em thấy ánh sáng từ sau cánh cửa đóng chiếu lên trần, mà dưới chân em là một đêm đen trốn tránh. Em đứng dậy và thấy mình dường như đang tan vỡ từ những mảnh nhỏ bé nhất, vì thế đau đớn nhất. Hình như có điều gì đã đổi thay từ trong huyết mạch, em không dám chắc. Em lấy con dao cạo sạch da trên bàn tay, nhưng chẳng thấy gì ngoài đau đớn. Thế mà em cũng nhẹ đi nhiều, có thể vì đã quen. Và tim em đập lại từng nhịp, chỉ thế thôi, sao cứ vướng mắc lạ lùng.
Đêm hôm kia khi anh tìm cách nói với em rằng tình yêu có thể giả vờ tái sinh trên một thửa đất bạc bẽo, anh thấy em đã chớm tin rằng tình yêu là một phép màu nghiêng ngả. Lúc đó anh đã không tin vào mình, anh đã chỉ tin vào em, vì thế anh chẳng còn biết làm gì hơn là cười cợt. Tay em có mùi của giết chóc, nhưng tay anh đã có tiếng vọng của nghiệt ngã. Hình như chúng mình chung tay đay nghiến một điều gì, dường như thẳm sâu và anh không thể hiểu hết. Anh chỉ vội đuổi theo những chiếc lá rụng sai mùa, và hoảng hốt ôm chặt những gì còn đọng lại trong không gian quay quắt. Và anh khóc vì nghĩ em đang đau.
Hay giả dối từ trong anh đã chiều chuộng điều anh muốn?
Hay dằn vặt trong em đã phá hủy những luống hoa anh trồng trên ban công?
Nên em cười điên dại trên tàn tro của những lời bóng nhẫy
Tất cả chỉ còn là thế thôi
Chỉ thế thôi phải không
Đừng
Em dùng lửa cuộn lại thành những hình tròn rạng rỡ, em muốn tặng anh thiêu đốt vì biết anh yêu màu sáng đặc. Em đã vẽ những bức hình trong ký ức, lúc nào cũng bê bết gắn lên thành não. Em nghe thấy tiếng từng đợt rung động của hộp sọ, em nguyền rủa ngày em tìm thấy trong não mình một điều gì như hi vọng và trông chờ. Lẽ ra em chỉ nên thấy trên giấy báo và nước bọt, hơn là thấy trong mình một tình yêu cứ như ve vuốt em bằng man mác và mênh mang. Em sai rồi, nên em đã tin rằng em nên tin, nên tin rằng tình yêu có thể cứu rỗi cả thế giới đã tăm tối ngập ngụa. Có lẽ em quên rằng em chính là thế giới ấy, còn hi vọng chỉ là thứ ánh sáng giả tạo em chiếu lên đời mình để cảm thấy có chút gì ý nghĩa? Em tự dằn vặt mình bằng cách dằn vặt anh. Em thấy nuối tiếc và căm hận cùng lúc nở hoa trên trái tim dị dạng vì  cào nát. Em phải dằn vặt ai nữa? Đừng!
Dằn vặt?
Em
Bằng Anh? 
Bạn thân mến!
Gửi bạn đọc một khúc Niệm Cuối của tôi:
NHẸ
(http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/nhu-chua-tung-dau-mai-khoi.ztAhCiapxd.html)
Trong góc vườn, khóm  hoa tuyết trắng muốt e ấp  ngả những mái đầu xinh đẹp sang một bên, khi em cúi xuống, thì thầm trò chuyện với chúng. Em tưởng em đã quên những xuân sang năm trước, lúc nhận ra hoa tuyết trắng dịu dàng bất thần từ đất trồi lên, cũng là lúc nhìn thấy anh đột ngột…
Viết những dòng cho em hôm nay, đâu phải để cùng nói về hoa tuyết?- em nhìn thấy chúng, không phải anh. Anh chỉ có một thế gian này, một cuộc đời này, không còn cuộc đời khác, sao em nỡ len vào…
để ngày lại ngày, tháng lại tháng, năm lại năm, nhắc đi nhắc lại với anh rằng: anh còn nhiều cuộc đời khác nữa, nhận ra đi anh… vì điều này em đến…
Em phải nhìn hoa tuyết, mới nhận biết xuân sang. Mùa đông chịu đựng trầm mặc trong tê buốt há chẳng phải nụ hôn an ủi lâu nhất lúc thiếu nắng mênh mang?
Vâng, dường như hôm nay em mới hiểu…bến mê này, cuộc đời vật chất này là giới hạn hiện hữu duy nhất cho phép mình gặp nhau…
Anh  đã nhầm khi từng tự trách, tại sao có lúc mềm yếu, cho phép em hiện diện vào đời sống của anh. Anh đã nhầm tưởng sẽ làm em đau, nếu anh từ chối…
Đá và cây trên thượng giới còn chọn một kiếp người để đi trọn một vòng YÊU có nhau - vì nhau-ly biệt…
nhưng em không nhặt từng cánh hồng rơi đem chôn xuống đất…em đã rủ anh cùng rời bỏ bến mê bằng đi hết con đường đơn độc héo tàn, trước khi bay lên  trời như  gió…
vì mình đã Thánh hóa tình cảm dành cho nhau…
vì sau cùng anh đã làm em hiểu: chỉ ở bến mê mình mới dùng đến chất Thần trong con người phàm tục, chỉ trong một cuộc đời vật chất duy nhất, mình mới rũ bỏ được số phận ngụp lặn luân hồi…
vâng, bằng khổ đau, từ bỏ, bằng sùng kính, yêu thương của tình yêu người dành lẫn nhau…để sẽ NHẸ như một tia nắng sớm, hòa quyện vào trong suốt một GIẢI THOÁT không gian…
Em - đã - hiểu - Anh. 
Bạn thân mến!
Có thể chúng ta cứ nói, và như bạn biết mà, vì mỗi người sở hữu Lời của mình, rốt cuộc cứ nói vòng quanh, hóa ra là độc thoại trong cảm giác chia sẻ.
Chuyện này cũ rích, chỉ mới là: với kẻ nhập định, sự giao tiếp là từ Tâm. Lời chỉ là diễn hóa. Tựa như Lời chẳng ăn nhập gì với nhau cả. Thế mà Tâm lại đồng nhất.
Bạn nghe bài hát này:
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=OQM5-Ks64is
(Bản dịch đương nhiên chỉ quan tâm đến bài hát, không quan tâm đến lời hát...)
Nhắm lại đi đôi mắt, lướt qua từng rung động đang đắm chìm
Đừng mở mắt, đếm tới 3
Đóng mắt lại lần nữa, ta biết em đang suy tư điều gì
Cứ thế, và nghĩ về anh
Rộng lớn hơn đời vi diệu
to tát hơn em, hơn cả anh
Anh đã có buổi sáng thứ 2 xanh xao uể oải
Lạy Chúa, hãy đi vào căn nhà vì em anh xây đắp
Hãy thức dậy trong đó mỗi sáng sớm, em hãy...
Có những điều ngay đây anh không còn lựa chọn nổi
Này là thành thật, ngọt ngào, Champage, uổng phí, trò chuyện, chỉ thế thôi
Thứ thật đáng nguyền rủa đang trì kéo nằn nì
Cả những màu sắc giả tạo kinh tởm đang quay quắt
Quá nhiều thứ đang dày vò đầu óc anh
Sao ta không biết gì về những cảnh cuối cùng hạnh phúc?
Sao điều đó không xảy ra ở đây
Lần nào cũng là những lời rằng mình sẽ ổn và bảo trọng
Bao nhiêu lần thế rồi em có nhớ nổi không?
Packed it like a punch out to lunch
I got a little hunch that stood out from the bunch
as if that's not a enough I need another reason why
that god damn bitch of life she made me cry
so I'd like to poke her squarely in the eye
and it hurt so much I feel like I could die
yeah
Bạn thân mến!
Tôi đang suy nghĩ về những cái Tôi đã được đóng khung trong các loại chủ nghĩa (ví dụ: chủ nghĩa duy vật)-càng ngày tôi càng khẳng định- đây là dấu ấn thế hệ rồi, giống như một cái nghiệp. Thôi, để kiếp tới sẽ thay đổi chứ bây giờ bất lực.
Điều nguy hiểm nhất của cái Tôi đã được đóng khung là cứ tưởng đấy là ĐỈNH CAO nhất, không cần tìm kiếm, hoặc nghĩ khác đi, hoặc chấp nhận một hướng nghĩ khác. Trong khi đó ĐỈNH CAO phải là thoát ra ngoài toàn bộ các điều kiện tạo ra cái Tôi ấy. 
Tôi nhìn thấy "cơn mê" của mình lúc BẤU VÍU vào "cõi Tình”, lúc đó tôi cũng tưởng cái khung ấy là đỉnh cao? Không, mà là tưởng dâng "tình cảm" là mình thoát khỏi giá lạnh của đời này. Giá lạnh cũng là bến mê, một trạng thái của sợ hãi hoặc buồn bã đến tê liệt.
Tôi đang dịch tiếp H. Béla vào chiều nay, phần này rất tuyệt, hoàn toàn siêu hình, nhưng giờ đây đối với tôi là ngôn ngữ trực tiếp nhất.
Chợt nhận ra: bến mê chỉ vì con người cứ đi tìm cái bên ngoài mình, kể cả cái tốt đẹp nhất, cứ có khát vọng nhìn thấy nó từ kẻ khác, mà không tìm thấy nó từ chính mình.
Hôm qua đọc thư của bạn, tư lự một chút, tưởng như nghe thấy những tiếng chuông ngân đâu đây: tiếng ngân của những quả bạc trên cây Noel khác, tiếng chuông nhà thờ khác - nhưng đều là những âm thanh long lanh chạm vào nhau, vỡ ra của lời cầu nguyện...
Cái mình có thể đạt đến cùng nhau, hỡi những linh hồn trú ẩn trong thân xác người: chỉ là những lời cầu nguyện...
Tại sao lại lời cầu nguyện? Vì chỉ bằng một không khí gì đó vô hình đầy màu sắc tôn giáo, mới chạm được vào linh hồn, để hiểu được cái THỰC không khoảng cách, như H. Béla gọi:  Hiện Thực đích thực.
Lời cầu nguyện mong tìm lại chất thiêng liêng của thân xác, từ thân xác, từ vật chất.
Những cấp độ, bạn ạ, không phải hiện tượng nữa rồi, chúng ta đã mặc nhiên thành hiện tượng, nhưng đang còn hoang mang trong cấp độ. Bài tôi đang dịch của Hamvas Béla nói đến việc con người hãy thực hiện lũy thừa bảy trong nâng cấp linh hồn-hãy đi qua bảy bậc thang địa ngục của đời sống-hãy lên cao thêm bảy tầng.
Tôi đang trải lòng hay đúng hơn: mơ mộng cùng các vì sao một chút...
êm đềm lắm, có lẽ vì cái không gian đợi xuân lãng đãng tê tê ở đây, mọi bí ẩn đang phục sinh trong lòng đất, đợi nắng rọi bất thần một khoảnh khắc nào đó là nổ tung, nứt lên và tràn ngập nhân gian...
Bạn thân mến!
Đọc những điều bạn viết cảm giác nhẹ lòng quá. Bạn đừng nản lòng dù cuộc sống có biến thiên bất cứ thế nào. Tình cảm con người là chỗ sâu không thấy đáy, mênh mang vô tận. Tình cảnh làm người thì phức tạp vô cùng, không bao giờ đoán biết hết. Đời sống là Khổ. Từ đó mới Ngộ được. Bạn nhỉ. Cái Thiện ở đời này quá hiếm hoi, bạn cố gắng đừng để mất nó. Dĩ nhiên muốn Thiện lại cần Nhẫn, lại cần Chân. 
Bạn thân mến!
Buổi sáng tỉnh dậy đọc thư, nghe nhạc từ blog "địa ngục" - Sao không là "thiên đường"? - nhìn ra trời tuyết trắng xóa, và không thể không mỉm cười. Lên khỏi cái mặt đất quanh quẩn đầy khổ đau này, chỉ một chút xíu thôi, đã thấy nhẹ nhõm rồi.
Cái tinh thần của Thiện đưa về phía người khác, giống như hơi ấm rất mảnh từ đâu trong vô hình vương tới. Nhớ tới một ý của Hamvas Béla:
"Sự quay vào trong, nói đúng hơn: hướng quay về phía thế giới siêu nhiên không song song với con đường lịch sử mà vuông góc. Đây là nỗ lực mang tính vũ trụ, có nghĩa là sự nâng cao theo chiều dọc. Những con người của giống loài logos là các thực thể siêu lịch sử, những kẻ từ thời gian đột phá theo chiều dọc và sống trong sự thống nhất của thế gian siêu nhiên"
Điều này lý giải tại sao khi con người tự thanh lọc là lập tức ở ngay tầng cao hơn, và cho thấy tính chất tất yếu của tu tập đối với nhân loại trong thời điểm này: chỉ có thể phát triển theo hướng dọc, hướng đi lên.
Càng hiểu tại sao tôi chán ghét từ lâu văn chương của người đời, những nhảm nhí song song cùng dối trá của thời lịch sử. 
Bạn thân mến!
Sách. Tự nhiên tôi nghĩ đến anh em Gnostic, những người bảo vệ tri thức cuối cùng. Không khéo, đã có kiếp nào, tôi và bạn từng cùng ngồi đọc sách trong thư viện Alexandria. Ngày đó, chắc chắn bạn và tôi đã hẹn có ngày gặp lại. Như bây giờ. Đọc, dịch và viết. Ít nhất, đó là hạnh phúc phải không bạn. Đủ để bạn giao tiếp với Thần thánh bằng Đức tin và Tri thức. Cả hai điều đó, nhiều thế kỷ, người ta đã lẫn lộn và đánh mất. Nghĩa là, chúng ta đều đang rất hạnh phúc. Đây là hạnh phúc chân chính của con người. 
Bạn thân mến!
Từ thành phố trở về nhà có một tâm trạng trầm uất kiểu man mác, không nặng không nhẹ. Khi ngắm những hàng rào cây xén ngang, từ xa chỉ một màu xam xám, nhưng đến gần thấy chi chít lộc non đang nhú. Trên những cây cao chỉ toàn cành trơ trụi giơ tứ phía như những bộ xương, những tổ chim mắc vào như tóc rối, vậy mà đi ngang một cành chợt sà xuống thấp, thấy cũng chi chít lộc non.
Mùa xuân nhất định đòi về bằng được, những trận gió đổi hướng liên tục cuốn bay tả tơi những gì còn sót lại trên mặt đất: lá vàng, rác, giấy, và cả những bước chân người hụt hẫng thấp cao.
cái tâm trạng trầm uất gì vậy?
Nhìn thấy kỷ niệm của ngày hôm qua: một tâm trạng mừng rỡ khao khát đợi mùa xuân, bằng cách kể lể cho người thương một ấn tượng gì đấy, một miêu tả đất trời cây cỏ gì đấy, một miên man ảo vọng gặp gỡ...
Tất cả chỉ còn là kỷ niệm của ngày hôm qua-khi: Tình - còn ẩn nấp dưới bao nhiêu màng nhện giăng cảm xúc.
Có gì xấu đâu?
nhưng không thể giả vờ, giả vờ sống được. Có lẽ một trong những nét đáng yêu nhất của con người nhỏ nhoi là nó rất khó giả vờ, hay nói đúng hơn, nó luôn luôn TƯỞNG đang là thế!. Thêm chút DƯƠNG hoặc bớt chút ÂM, đủ để con người TƯỞNG về tất cả, với tất cả....
Hôm nay dạo chơi trong hiu hiu nắng ấm và ngùi ngùi nhận ra kỷ niệm, chợt không hiểu mình đang là ai nữa? Có còn là người không? hay đã hóa một cái gì vô hình ngoài xác thân hiện hữu rồi? hay chỉ là MỨC ĐỘ biến hóa của tự nhiên mà thôi?
ôi người thương - hãy nói. 
Bạn thân mến!
Hoàn toàn có thể để thân thể này làm chủ tâm ý, phải không bạn? Từng lạp tử tế bào này đều có quyền năng đấy: thống đoạt toàn bộ tinh thần trong những cảm giác nó lưu trữ, ngự trị sự tỉnh táo bằng những tiếng gọi vô thanh điên loạn.
Chỉ là, khi biểu hiện ra đến bề mặt lý trí và cảm xúc, người ta tưởng như chỉ là một vụ nổ nhỏ trong trái tim, hoặc chỉ là những điều băn khoăn thôi thúc. Không phải vậy, đó là khi thân thể điều khiển con người, đó là khi con người không thể lắng nghe gì khác ngoài những gì xảy ra liên miên cuốn trôi họ trong dòng chảy của cảm xúc, khát vọng, đủ chủng loại suy tư hỗn loạn.
Vì con người không ý thức rõ ràng được hiện thực ấy, nó không biết rằng nó bị thân thể này cầm tù và hãm hại, nó cứ thế trôi giạt và nức nở. Tiếng khóc của tinh thần vang lên trong thể xác, đau đớn và chìm nghỉm.
Chỉ khi nào con người nhận ra rằng nó đang tự đày đọa và nguyền rủa đời sống của mình bằng sự mê muội và thỏa mãn bản ngã của mình, con người mới lắng nghe được tiếng khóc của tinh thần. Trong duy nhất khoảnh khắc đó con người thức tỉnh. Có thể, để rồi sẽ lại mê đắm.
Nhưng bạn đã thức tỉnh. Và đã biết, không phải để lại mê đắm. Hãy lắng nghe Hamvas Bela. Chàng vẫn ở bên bạn. Và tiếng của chàng xua tan được tiếng khóc của tinh thần. Mạnh mẽ lên bạn. Chí ít, vì không thể yếu đuối hơn đời này.
Bạn hãy đọc bài này:
VĨNH VIỄN LÀ NGƯỜI/ người
Anh cứ chứng kiến thôi, đôi lúc chứng kiến cũng mệt mỏi.
Dù sao con người cũng vẫn là con người, không thể thất vọng vì họ. Con người chỉ quẩn quanh trong vài điều, biết yêu thương vì biết tàn nhẫn, biết tin tưởng vì biết phản trắc, biết kiên định vì biết từ bỏ. Trong thế gian, một điều Thiện làm xuất sinh một điều Ác, cái Ác thì không ngừng nhân mình lên. Con người rất biện chứng, vì thế con người căn bản là Ác, cũng vì thế, con người căn bản là Bẩn.
Con người không đáng để anh viết những dòng này. Nhưng vì mong con người có thể đổi thay, anh đã sống, cười, nói, cùng ca hát, cùng khổ đau, thậm chí, cùng ác-bẩn với họ. Một số không chịu nổi, điên tiết, cầm dao dí vào cổ anh và bật khóc. Số khác ngẩn ngơ chạy về phía cuộc đời, dù tin rằng mình còn có thể khác.
Con người vĩnh viễn là con người, chỉ khi nào con người muốn thức tỉnh khỏi thân phận của mình, sự vĩnh viễn này mới chấm dứt. Sự chấm dứt này có thể đột ngột biến mất, vì trong khi thức tỉnh con người có thể đắm chìm hơn trước. Vì, khi đang tưởng tượng rằng mình đổi thay, con người bỗng ứng xử với đúng pháp lý nhân gian vốn có của mình, và giờ đây cho rằng pháp lý nhân gian còn có chỗ rất đúng đắn, vì nó gá lắp những điều cao thượng và chân chính làm lớp vỏ của mình.
Bến mê đã cho con người vũ khí này: sự ngộ nhận. Cuộc đời của con người là sương bọc lấy sương. Con người không biết rằng mê cung là những lối rẽ, nên con người bị đánh lừa bởi những lối rẽ. Trong khi họ tiếp tục rẽ, họ tiếp tục lạc đường. Nhưng nếu đứng lại, họ cũng bị giết chết.
Vì sự siêu-thoát đòi hỏi người ta phải biết đứng trong Pháp lý cao tầng, phải từ đó nhận thức, cảm ngộ và hành xử, phải chứng-ngộ và chứng-nghiệm, phải cải tạo mình trong Pháp lý từ những điều đau đớn nhất. Vấn đề của sự đổi thay không phải là nhận thức và hành động - nhận thức và hành động, cũng như nhân quả, cũng như mục đích và phương tiện..., đều là chuyện của con người, đều là những lối rẽ. Những lối rẽ nguyền rủa hi vọng của con người.
Vì thế, em hãy nhìn lũ người đang tuyên xưng một đức tin nào đó kia, giả vờ đứng dưới bóng của Thần Phật, những con người/Người vốn nhân gian hơn hết thảy, hãy nhìn họ đi. Họ vĩnh viễn là Người/người. Dù là Người hay là người, họ cũng chỉ đang đem thân xác mình vun đắp cho Mê cung nhân loại. Khi chết, con người thường được chôn cất trong nghĩa trang. Nhưng nghĩa trang thật sự không phải là nơi chôn xác con người, mà chính là nơi con người sống, đúng hơn, chính là đời sống của con người.
Anh chỉ nói thế thôi, vì anh chỉ chứng kiến. Sống tiếp đi em. Đời sống của em. Đời sống của con người.
Vĩnh viễn là Người./ Vĩnh viễn là người.” 
Bạn thân mến!
Vậy là rõ rồi: người ta hoặc không biết hoặc nhầm lẫn, khi tưởng trong người mình có rất nhiều con người. Chỉ có một thôi: cái Tôi, nhưng ở nhiều dạng thức và mức độ.
Chí ít có rành mạch ba mức độ của cái Tôi này: cái Tôi (hồn nhiên) ban đầu, thực ra là cái Tôi mê muội, bị chìm vào tăm tối đời sống vật chất. Sau đó đến một giai đoạn nhất định trong đời, buộc phải thức tỉnh, nhưng nếu không đủ tính táo và ý chí, sẽ rơi từ cái Tôi mê muội sang cái Tôi vô thức, nói theo Hamvas Béla "cái Tôi vật vờ" đây cũng là một dạng mê muội mới, trong cái Tôi này có cái khác của cái Tôi lúc trước, là có thể nghe thấy "tiếng khóc tinh thần" của nó, như bạn viết.
Chỉ khi nào bước ra hẳn ngục tù của cái Tôi cá nhân này, không đi "dàn hàng ngang" với những cái Tôi vật vờ hoặc hồn nhiên khác trong vòng tròn đời vật chất, mà bay lên theo hướng thẳng,"vuông góc với mặt đất"- như Hamvas Béla viết - chỉ khi đó biến chuyển thành cái Tôi siêu việt, quay lại tính chất Thần trong mỗi cá nhân.
Chỉ có điều: cầm tù trong ngục tù thể xác, cái Tôi (duy nhất có thể tu luyện trong chính ngục tù ấy) lại không phát triển, biến chuyển một cách dễ dàng theo đường thẳng hoặc ít nhất trong sáng sủa, thanh thiên bạch nhật, mà nó cứ chìm nghỉm, trồi lên ngụp xuống trong vô tận biển tối.
Nó liên tục lầm lẫn, chỉ duy nhất cảm giác đau khổ nhắc nó: hình như vẫn chưa phải điều mày muốn tìm... Chỉ khi nhận ra cái Tôi cao hơn cái Tôi trong đời vật chất hiện ra trong thể xác, mang lại cảm xúc tỉnh nhẹ nhàng như gió thoảng và khô bong như trời sáng trắng, chỉ khi ấy nó hết "khóc" trong tim. Ôi!
Vấn đề còn lại là làm thế nào để cái Tôi "Thần" này ở lại, duy nhất, vĩnh viễn, hàng giây phút, hàng giờ, hàng ngày, trở thành thời gian và không gian của nó? bởi nó vẫn tiếp tục sống chung, sống cùng với những cái Tôi "xếp hàng ngang" trong đời vật chất này.
Tỉnh táo nhận ra chưa đủ. Mỗi giây phút sống là một sự ngụp lặn trồi lên tụt xuống giữa biển tối, biển cảm xúc muôn màu do thiên nhiên vật chất mang lại, không-thể-khác.
Làm thế nào để bay lên, chỉ liên tục bay lên như tia sáng trắng từ mặt đất tối tăm, hòa vào muôn vàn tia nắng của mặt trời?
Bạn thân mến!
Tôi viết tặng bạn nhân lễ Phục Sinh. PHỤC-SINH.
CẦU VỒNG VĨNH CỬU
(Iris, Goddess of the Rainbow by Atkinson Grimshaw. Dầu trên vải)
Theo truyền thuyết, Nữ Thần Cầu Vồng là sứ giả của Thần, người mang thông điệp đến loài người từ một bầu trời xa xôi. Trước hết, nàng xuất hiện ở biển, cũng đúng thôi, ở biển người ta có thể có một ngày nắng mênh mông,những bóng nước buồn bã, bão tố và im lặng.
 Thần xuất hiện theo cùng cung cách, cũng im lặng và dữ dội, cũng vời vợi và khó hiểu. Truyền thống Shaman ý thức được điều ấy, đã cố gắng dùng sự siêu thoát trong điệu nhảy để hòa hợp với những chuyển động của Thần, mang về một tín tức nào đó từ nơi thiêng liêng hơn, ngự trị tại những miền thanh sạch lạ lùng, mà Phật giáo gọi là xứ Tịnh Độ.
Dù thành công hay thất bại, truyền thống Shaman cũng để lại được một ý tưởng: Thần không suy nghĩ như con người, và hành trạng của Thần không phải là con người đang cười nói ở kia: không thể đạt đến Thần bằng bản ngã của con người.
Mọi Ngôn sứ cổ đều tài hoa và lặn lội nơi những miền khổ đau cần được thanh tẩy. Chỉ riêng Thần nữ Cầu Vồng không làm thế. Nàng đến từ một miền xa xôi, cha nàng là Thaumas, một Titan, nàng thuộc dòng dõi Oceanus và chị em đều là những Harpies hung ác.
Nàng phải thánh thiện để chuộc lỗi cho dòng họ đày đọa của mình: vì thế nàng không có chốn xứ riêng, chỉ là người hầu cận của Thần, cũng không có chút thần tích nào riêng cho mình cả. Sinh ra giữa bầu trời và mặt nước, nàng không dám mang lấy cá tính cho mình.
Trái tim yếu đuối đã quen bị dày vò chỉ có thể thông báo những lời mặc khải, đôi cánh bạc bẽo chỉ để giúp nàng chuyển đi những Lời không thuộc về nàng. Nàng là một Ngôn sứ xinh đẹp, nhưng khổ đau, giữa Khổ Đau và Tươi Đẹp, qua nàng, không có quan hệ nào cả. Nàng xinh đẹp vì đương nhiên là vậy. Và Khổ Đau vì chắc chắn là thế.
Con người rất bạc bẽo: họ quên mất Nàng là nữ thần, họ chỉ còn nhắc đến nàng như là Lời của Thần. Cũng vậy, người ta quên mất Cầu Vồng là bóng nước trong nắng chiếu, chỉ còn nhớ đến những sắc màu gờn gợn còn vương trên bầu trời và tâm trí.
Vì thế, nàng là sứ giả của Thần, nhưng cũng báo hiệu thời đại con người chỉ còn biết đến phép lạ, đến sự thỏa mãn những ước vọng của mình hơn là ý chí của Thần. Chỉ riêng nàng, khác với mọi vị Thần khác dần đánh mất mình trong quan hệ với loài người, Nàng cứ Khổ Đau và Tươi Đẹp,  là Cầu Vồng Vĩnh Cửu của đức tin, một đức tin không thắc mắc, đức tin vào Thần, và vì thế, là sự chuyển hóa của Thần vào nhân gian.
Điều cuối cùng, nàng là Lời của Thần: nàng là cách Thần biểu hiện của Nhân gian, nàng không trực tiếp là Thần tại nhân gian. Vì thế, Nàng đã luôn là những gì Thần đã vì con người mà biểu hiện. Nhưng không phải với con người mê muội, không phải với con người đang thiêu đốt mình trong lửa đỏ đen tối của dục vọng.
Nàng là thông điệp của Thần vào mỗi ngày con người muốn thức tỉnh, khi những cơn mưa đưa xuống từ trời một dấu hiệu, và mặt trời mách bảo một thế giới hãy còn đợi chờ. Nàng là một khao khát đã quên mất mình là Thần, chỉ có thể từ con người mà hoàn thành mình và trở lại Thiên giới.
Này em, đừng chết trong giông tố, hãy ngắm nhìn Cầu Vồng Vĩnh cửu như anh đang trông chờ nhớ nghĩ. Có một Thiên giới đang đợi chờ, một nhân gian khác còn cần ta xây đắp. Hãy nắm chặt tay anh và tái thiết lại thế gian này, khi còn kịp.
Anh muốn nơi đâu cũng sẽ ánh lên cầu vồng, vì nhân loại này đang sống trong Thông Điệp Cuối Cùng của Thượng Đế. Đừng chần chừ nữa, hãy để cầu vồng tỏa sáng trong tim em và thanh lọc trí tuệ em, hãy đón nhận Thượng Đế trong sự tồn tại từng giây phút của mình.
Đi thôi, đi thôi em, trong đôi cánh của Cầu Vồng…
Bạn thân mến!
Hôm nay tôi "chat” với mấy người bạn, muốn hiểu thêm một chút cái tình trạng: tại sao ở Việt Nam người ta hay chạy từ ông thày này sang ông thày kia, từ trường phái tâm linh này sang trường phái tâm linh kia...
ở Việt Nam liệu có tôn giáo không?
người Việt Nam có theo tôn giáo không?
Bạn thân mến!
Người Việt Nam có tôn giáo hay không, theo tôi là có, nhưng tôn giáo theo nghĩa bạn hiểu chắc là không. Tôn giáo thực sự bao giờ cũng là "một hình thức tu luyện", ở Việt Nam không có truyền thống tu luyện này, nếu có, thì rất lẻ tẻ, không tạo nên cộng đồng tu luyện, càng không tạo nên truyền thống tu luyện. Như ý tôi hiểu, trong bản sắc của văn hóa Việt Nam, đã không đặt ra cũng không hậu thuẫn cho việc tu luyện của bất cứ tiểu cộng đồng hay cá nhân nào. Nghĩa là, trừ phi việc tu luyện được tổ chức và diễn ra lẻ tẻ, nằm ngoài biên của các chu trình xã hội, nếu không, xu hướng của xã hội là đào thải nó.  
Bạn thân mến!
Mừng bạn khỏi ốm, còn tôi thiếu "đối thoại" với bạn, chắc cũng "bệnh" luôn…,hihihi…Vì đối thoại giữa chúng ta chính là nội dung sống hàng ngày, là một thứ tư duy bằng tiếng Việt tươi mát hồn nhiên nhưng đầy tri thức tâm linh
Ít nhất: chúng ta đang đi theo hướng vuông góc với chiều lịch sử của đời sống (như Hamvas Béla nói), và đây là điều đang thiếu trong các nội dung thông tin. Có thể đối với tôi, bạn là một mảng tâm linh của bản thân, mà mình còn không biết nó phong phú đến đâu? (hihihih…)
Qua những năm dài chiến tranh người Việt nam chúng ta quen chỉ "nhớ lại", khơi đào quá khứ, vì đấy chính là những uẩn ức, cùng khao khát và mơ ước của bao nhiêu thế hệ chưa bao giờ được sống bình thường. Nhưng cũng vì thế, quanh quẩn mãi hóa đường mòn, cả tư duy lẫn cảm xúc, lúc nào cũng bị ký ức đè nặng và khóa trái.
Ta đối thoại, không chỉ vì tách ra, không đi theo con đường mòn ấy nữa, mà  vì muốn những điều cao hơn, sâu hơn phải thâm nhập vào chính tư duy hàng ngày của mình, để biến đổi thành một đời sống Việt phải khác đi. Đúng không bạn?
Theo tôi:
vấn đề tôn giáo ở Việt Nam ở lòng tín ngưỡng. Tín ngưỡng trong lòng người VN hiện tại (ít nhất ở dân miền bắc) rất mơ hồ, gần như không có. Thay vào đó là sự mê tín- một biểu hiện của mê muội -chiếm lĩnh toàn bộ (cái gọi là) đời sống tôn giáo, cộng với một thể chế quy độc quyền hết thảy, công khai hóa toàn bộ các biểu hiện mê muội này.
 Như thế nào là lòng tín ngưỡng ư?
Bạn là một người có tín ngưỡng. Ví dụ thế. Tôi (ngày càng) có tín ngưỡng hơn thì phải? hoặc lòng tín ngưỡng trong tôi ngày càng được đánh thức.
Anh B. chẳng hạn là một người không có tín ngưỡng. Với học thức, anh ấy tin rằng anh ấy (đang) có tín ngưỡng mà thôi. Giới trẻ ở VN nhiều người như thế, vẫn đang mơ hồ với tính tín ngưỡng trong lòng họ, vì phần lớn họ đến với nó từ tri thức. Nhiều người  đầy ắp những kiến thức về sự mê tín thì đúng hơn là tâm linh, nhưng khi có một nội dung "thần học" cụ thể để theo thì lại phân vân, nghi ngờ, không theo được.
Nhiều bạn trẻ đi theo các trường phái „tu tập” một cái gì đó, nhưng bỏ dần sau một thời gian vì không theo được kỷ luật và các điều kiện của phương pháp đó, họ thấy sống như cũ thoải mái hơn. Hoặc họ cảm thấy có những bất đồng cá nhân với nhóm.
Câu hỏi ở đây là: có phải cái ngã cá nhân to đùng, to hơn tất cả chiếm lĩnh không? hay chỉ vì một cộng đồng chưa hề có tín ngưỡng-tôn giáo như một thói quen thực hành tâm linh, lại sống trong một nền giáo dục "đánh đồng, chia đều", luôn luôn làm các cá nhân  phản ứng, gặp cái gì cũng trước tiên phản kháng lại cái đã.
Có lần ở Hà Nội tôi bảo một bạn trẻ rằng: ở  bạn thiếu một lòng sùng kính, còn gọi là sự sùng bái, hoặc sự khiêm nhường với tất cả, để có thể "tôn trọng tất cả và từ bỏ tất cả" - đây mới là đức tin cần thiết để "tu tập" hoặc thực hành bất cứ cái gì về tâm linh. 
Hồi đó tôi nghĩ điều này gắn liền với tuổi trẻ chăng? nhưng thực ra gắn liền với lòng tự ái thì đúng hơn. Ở những người "không tin tôn giáo” lòng tự ái  cao hơn bao giờ hết, vì họ bao giờ cũng cho là tự nắm trong tay "vận mệnh" của mình, tự điều khiển được cuộc đời. Một đời sống bị khép kín khiến con người tự tôn sùng mình lên quá mức, kể cả trong thời đại internet, khi không gian kích thích tư duy được mở rộng- cũng thế thôi- vì thiếu hẳn lòng tín ngưỡng.
Lòng tín ngưỡng còn là: sự hiểu biết chân thực về thế giới âm, sự hiểu biết của những kẻ nhập định, những kẻ muốn tìm hiểu những điều bí ẩn của đời sống người. Tri thức về văn học giả tưởng, về thần bí, về các vấn đề khoa học vũ trụ, bị nhầm lẫn là tri thức về thế giới âm, một nhầm lẫn cơ bản. Đấy mới chỉ là thu thập thông tin về những cảm nhận mơ hồ của con người về cái vô hình. Chưa đủ.
Và nếu không có tri thức tiếp cận đến một cái ngưỡng quan trọng nhất: cái Chết, không bao giờ trở thành kẻ nhập định, kẻ có tín ngưỡng, có tôn giáo cả. Theo nghĩa này, trở thành kẻ hiểu biết về tri thức siêu hình. "Cái chết” cũng cần hiểu theo nghĩa siêu hình, là một khả năng "nhạy cảm đặc biệt" giúp con người nhận thức về chính mình ngay khi đang sống.
Bạn thân mến, mỗi người thực hành đời sống của mình một cách khác nhau, bạn đang hiến toàn bộ ngày sống của bạn cho đức tin của bạn, đôi khi hạ mình xuống thấp hơn cả mức của mình để cùng những người khác, bạn sẽ thành công. Nhưng nhớ rằng: đừng làm hộ ai bất kỳ điều gì nhé, hãy để họ tự CHẾT đi và HỒI SINH.
Có phải con người phải "bầy đàn", phải sống cùng nhau, phải gắn với nhau, để: biết đâu cùng nhau tu tập, thoát được kiếp người? Nhưng rồi tôi cũng hiểu ra: điều này không tưởng. Con người chỉ "dàn hàng ngang" đi với nhau được thôi. Phải biết thoát ra khỏi cõi người mới hết khổ đau của mọi ràng buộc. Lòng tự ái rất cao giữ người ta ở lại cõi người. Thế thôi. 
Bạn thân mến!
Nếu bạn tinh ý, những từ bạn dùng đều mang nội hàm khác với người Việt hiểu. Chẳng hạn, tín ngưỡng, ở Việt Nam, là mức thấp hơn tôn giáo, vì nó chỉ là niềm tin phi lý trí. Nên tôi thường dùng một từ khác,  mang tính thực hành hơn, tu luyện, chân tu, để phân biệt. Còn tín ngưỡng, như ở bạn, rất gần với Đạo Tâm, Phật tính, Đức tin... 
Bạn nói đúng lắm. Tôi vẫn bảo, trí huệ có ba tính xấu: phán xét, can thiệp và nổi loạn. Người thiên về Trí thực ra mang sẵn trong mình ba chủng tâm thái ấy. Người nào đặt trí huệ lên trước đức tin, người đó sẽ có ngày lạm dụng Pháp lý và tri thức để chống lại những cội nguồn tinh thần của mình. Dĩ nhiên tôi không kể cuộc chống đối đó là đúng hay sai, gần đức tin đến đâu.
Nhiều bạn trẻ mắc phải điều ấy, trí huệ của họ, đúng hơn, nên nói, tri thức của họ, đánh lừa họ và dẫn lối họ vào sự phán xét, can thiệp và nổi loạn. Ba điều này đều bất Thiện, bất Tĩnh, khó "tu luyện”. Vì thế tuổi trẻ của họ là sự truy tìm tri thức, tự mãn trên nó, và say mê những cuộc lật đổ. Cách mạng cũng nông nổi như họ vậy. 
Bạn thân mến!
Tôi muốn bạn đọc kỹ bản dịch: Những bậc thang phép thuật (Scientia sacra) tôi vừa dịch xong.
http://amvc.fr/Damvc/GioiThieu/NguyenHongNhung/HamvasBela/CacBacThangPhepThuat-HBela-NHN.htm
Đây là một bài hết sức hay và tổng hợp, đầy đủ. Thậm chí mỗi một ý nhỏ trong bài ấy đều có thể liên hệ và giải thích bằng rất nhiều kiến thức tâm linh khác. Tôi đã đọc đi đọc lại bài này nhiều lần.
Bạn thân mến!
Đọc bài viết mới của tôi nhé:
YÊU CÔNG
(http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=Qv5aSQ-Qg7M)
"Hãy nhìn họ, Âm thanh của dục vọng, chán nản, chìm đắm. Nhìn kỹ hơn, em sẽ thấy những thân thể quăng quật, thừa thãi, không biết cách kiểm soát. Nếu em tinh ý, họ, như con người, không còn làm chủ thân thể mình theo đúng nghĩa. Nhưng Lời đã che đi sự khiếm khuyết đó, họ cử động theo âm thanh, theo hình thể của nhạc, như một điệu múa, và bất ngờ em thấy họ hợp lý. Em nghĩ thế phải không? Con người đã phối hợp tâm tưởng và hành động bằng Lời, bằng hình dạng của lời nữa, họ luôn nhảy múa trong vũ điệu thân thể của mình, luôn phô diễn sự đánh lừa sâu thẳm trong họ: họ tưởng họ nắm bắt được đời sống của họ, thực ra không phải, họ chưa bao giờ. 
Em hãy chú ý nhìn, vì nếu không em sẽ lãng phí đôi mắt. Con người trong một đoạn ngắn là một chuỗi tâm tưởng, ở không gian khác quả thực nó kéo dài ra thành âm thanh,- nếu em để ý, hình dạng của âm thanh rất đặc biệt. Con người trong âm thanh được nhét vào một cái hộp, kích cỡ đúng bằng màn hình em đang xem đây, có thể to hơn, nhưng không có gì thay đổi. Em biết rằng họ diễn, đồng nhất mình với vai diễn, dĩ nhiên bằng bản thân họ.
Từ thời cổ, con người đã biết rằng họ có thể diễn, và trong khi diễn họ không là mình, bằng cách sử dụng bản thân mình. Họ trút những cảm giác và ký ức thần thánh vào đủ thứ, âm thanh, vai diễn, điệu múa, văn bản, luật cấm, định kiến. Dần dần họ quên mất Thần, họ chỉ còn biết những gì họ có: ánh mắt, đôi tay, bàn chân, thân thể, tâm tưởng. Lâu ngày, và cùng với cuộc chinh phạt con người của bến mê, mọi thứ họ cố xa rời ký ức Thần Thánh, họ sáng tạo lại bản thân mình bằng dục vọng, bằng sự khiêu khích, bằng cái ác, bằng sự tuyệt vọng - dù muốn hay không, ngay cả điều tích cực nhất cũng phải cân nhắc đến cái ác và lòng ích kỷ, mà con người coi đó là sự hợp lý tương đối với đời sống.
Trong những điệu múa và lời hát, dần dần họ tổ chức sự truyền giảng. Giờ đây bên cạnh sự tôn thờ xuất hiện thêm sự khôn ngoan, bên cạnh trí huệ xuất hiện sự thông minh, bên cạnh đức tin là sự dối trá và nghi ngại. Thân thể con người, bằng cách đó, bắt đầu cuộc phản bội với tâm tưởng, mà nó sẽ còn cách mạng tâm tưởng nó. Nhưng thân thể không vui vẻ, nó cũng đau đớn, sự đau đớn này gọi là "khổ", vì thế người ta căn bản là "khổ thân". Vì thế, em biết phải không, nhìn vào cách con người đi từ nơi này đến nơi nọ, lăn lộn, cầm nắm, cười đùa... em có thể hiểu được nỗi khổ của họ: nỗi khổ này đi từ tâm tính ra thân thể. Và tất cả đều là sự đau đớn, đều là tội lỗi, đều "khổ": vì con người, lâu rồi, đã đánh mất chân tính của mình. Trẻ con học cách nói dối từ bé cho nỗi sợ, sự thật thà dễ phát triển thành chứng tâm thần vì trừng phạt, con người bị ghẻ lạnh trong tâm giới của chính mình.
Đây là một bi kịch. Em hãy nhìn kỹ vào, nhân gian chỉ là một đoạn phim. Chúng ta đã đóng khung trong đó. Cười đùa. Vật lộn. Yêu đương. Đau khổ. Lãng quên. Sống. Chết. Mọi thứ sẽ chấm dứt vào giây cuối của đoạn phim, âm thanh chấm dứt, mọi buồn vui tan đi. Nhưng sự đau khổ không chấm dứt, nó sẽ vọng vào tai em, và nó sẽ đi theo kẻ đã mang giữ nó, cho đến khi họ biết cách từ bỏ khổ đau, nên gọi đúng tên hơn, từ bỏ mê muội. Em thấy chưa, vô minh là đau khổ, nó là một, không cái nào là cội nguồn của cái nào. Em có hiểu không?
Nên con người phải tu luyện. Họ phải chỉnh sửa thân thể, đương nhiên rồi. Tâm tưởng, dù rất mệt mỏi. Tính cách, dù quá khó khăn. 
Em hãy yêu thân thể mình khi luyện công, vì cách bàn tay cử động và thân thể chuyển mình đang trở lại với ký ức thần thánh của nó - thực ra, em biết mà, Thần thánh đang quay trở lại trong em, em có hiểu không, hãy yêu mến đời "tu luyện”, không có tình cảm đó, không biết yêu thương sự Thần Thánh nơi mình đúng cách, em sẽ tự tua lại đoạn đời mình vào phút cuối. Bản nhạc sẽ bắt đầu. Với khổ đau và dục vọng, với lạc lõng và tan biến.
Hãy biết yêu thương điều em đang có, điều thật sự thuộc về em, bằng cách đồng hóa với nó. Em biết, phải không?” 
Bạn thân mến!
Hôm qua tôi đọc một (trong những) bài viết cuối đời của Hamvas Béla: tốc độ và biên độ tri thức tâm linh khủng khiếp. Cái gì tạo nên sự khác biệt đến thế về "tầng" nhận thức của các cá nhân? Thử tìm cách trả lời câu hỏi này người ta dễ dàng rơi vào sự tưởng tượng an ủi: chắc tác giả được các bậc...gì đấy phù trợ giúp đỡ. Có thể lắm!
Có những câu tuyệt vời: 
"Gúenon chỉ nói: có một bản thảo đáng tin cậy của sự sống. Nietzsche và Kierkegaard chỉ nói: cần phải sống một đời sống trong sạch. Tôi đã thử kết nối hai điều này: trên cơ sở một văn bản đáng tin cậy của sự sống, tôi thực thi sự trong sạch cội nguồn trong chính bản thân mình. Đây là sự lắp ráp toàn vẹn giữa thời cổ và thời hiện tại. Người nào hôm nay muốn trở thành hiện tại, người đó cần quay trở lại cội rễ ít nhất cả chục ngàn năm." (Hamvas Béla: Đối thoại)
Bạn thấy không, việc đầu tiên mà con người thời đại hôm nay cần làm: thanh tẩy chính bản thân mình, nghĩa là hãy tỉnh lại và nhận ra  những "chất độc” đã làm hại mình quá lâu rồi, nhất là trong những mối quan hệ người với nhau. Đụng độ với con người là thứ việc tôi chán nhất, ghét nhất, dù là giao tiếp, giúp hay phù trợ, bởi tính hay thay đổi của họ. Tính hay thay đổi nhưng con người ngày hôm nay lại bảo thủ nhất, mê muội nhất.
Tôi đang ngạc nhiên nhận ra trong mấy ngày hôm nay: mình mất hết sự mơ mộng xưa kia lúc nào cũng đầy ăm ắp, nhất là lúc một mình. Giờ đây nó biến đi đâu hết rồi? Nó là cái gì vậy? Tôi nghĩ: phải dịch thơ thôi - thơ là thứ thầm kín nhất, sâu thẳm nhất của con người, chui vào đấy sẽ biết ngay mình đang ở trạng thái như thế nào...
Bèn đọc Pilinszky János, vồ ngay được mảng thơ: Thánh đường- trong đó có những bài...sững sờ!
Đúng là: hãy đừng trở nên quá tỉnh như đời thường trần trụi, hãy trở về với   không gian tôn giáo, vô hình...Nếu không sẽ như một kẻ đã chết! NHN chỉ sống nếu VÔ HÌNH. Tôi đang loay hoay với một bài (tưởng) rất đơn giản mà chưa thể dịch thoát, y hệt như đang ở trong không khí trang nghiêm thiêng liêng của nhà thờ, chỉ ...chết lịm đi  mà không hiểu tại sao...
Đấy, bạn ơi, ý nghĩa sống của những kẻ chỉ mơ ước hiểu được cả thế giới vô hình là như thế đó.
Bạn thân mến!
Mang lấy nhân thể, có nhân tâm, nhân tính, sống trong nhân giới, để con người thật sự vượt lên đời sống, để sống đời của Thần, mà không bị rơi vào ảo tưởng hoảng loạn và sự lấp liếm tâm thần là rất khó. Giữa những biên giới mong manh, cần một nghị lực phi thường và một lý trí tỉnh táo. Ở bạn có. May, hoặc không may, bạn còn có một trái tim, trái tim quá dễ rung động. Nó rất từ bi. Nhưng vì thế, nó dễ thành đường đi về nhân gian trong những giờ phút đột nhiên....
Cuộc sống chỉ trở nên ko còn thuần khiết khi người ta chấp nhận nó tạp loạn. Bằng đủ mọi nghĩa, đủ mọi cách. Sự mặc cả là dấu hiệu của nhân gian. Bạn hiểu mà. Bạn ơi, sự tỉnh táo, sự tỉnh táo, sự tỉnh táo.
Hãy nhớ: tâm thanh tỉnh. Thanh là sáng, sạch. Tỉnh là lý trí rõ ràng. Tâm Thanh Tỉnh, ấy là tâm của người „ tu luyện”, luôn minh bạch rõ ràng, luôn sáng suốt lý trí. Là Tâm, cũng là Trí. Vì đó là Trí Huệ, là sự thấu suốt của Thần, không đơn giản là của con người ở nhân gian, vốn luôn lẫn lộn và bối rối. Nhưng ai còn ở nhân gian này hẳn đều sẽ mang theo sự lẫn lộn đó. Nhưng quan trọng là Ngộ, là nỗ lực thay đổi nó, vì thế, từ bỏ nó, xả bỏ nó, bài trừ nó. Để làm thế, cần một tâm ý tu luyện chân chính, quyết liệt.
Vì bạn ơi, nếu đời sống này không tận hiến cho luyện thân, luyện tinh thần liệu sẽ còn ý nghĩa nào khả dĩ? 
Bạn thân mến!
Tôi muốn trả lời mấy câu hỏi của bạn liên quan đến bản dịch "Thiên nhiên và thế giới bên kia” - Hamvas Béla:
1/ Cuốn Scientia Sacra Hamvas Béla viết khoảng năm 1943-1945, sau cuốn Câu chuyện vô hình, lúc đó những thực hành của chủ nghĩa cộng sản ở Hung chưa "kinh nghiệm" lên ông, nên Hamvas Béla chưa viết những bài rất gay gắt như sau này, mà chủ yếu mạch nghĩ của ông vẫn là những cuốn sách cổ được trình bày với cấu kết liên tục.
2/ Trong bài "Thiên nhiên và Thế giới bên kia” Hamvas Béla muốn nói đến những vấn đề sau:
a/ sự sống chỉ được gọi là mở nếu có sự nối liền giữa hai thế gian âm và dương, người sống và người chết.
b/ Chỉ những kẻ nhập định mới đủ "chức năng" về mọi mặt để liên hệ với thế giới người chết như một kẻ đang sống.
c/ Chỉ pradzsapati mới đủ"chức năng" này, vậy pradzsapati là ai? Là mức độ cao trong các mức độ nhập định, nghĩa là chỉ nhập định thôi chưa đủ, mà còn phải đạt đến mức độ cao. Cao như thế nào? chương tiếp theo sẽ nói rõ hơn, khoảng ít nhất là mức độ thứ ba trong bốn mức độ nhập định.
d/ H. Béla chuyển sang phân tích sự tỉnh táo âm tính và dương tính. Để làm gì? Để nhấn mạnh những điều sau: thế gian, đời trần thế (của con người) mang tính chất của người đàn bà, tính chất của vật chất, tính chất âm tính. Sự tỉnh táo âm tính (mặt trăng) giống như sự rò rẫm của người mù khi nhận thức, trái ngược với sự tính táo dương tính (mặt trời) là trực tiếp, đâm thẳng. Nhiệm vụ của pradzsapati là đồng nhất hai tính chất này khi giữ mối quan hệ của người sống với thế giới bên kia, thế giới người chết, nơi các vị tiền bối - CHA - các sức mạnh -các quyền lực - phò trợ cho thế gian con người.
e/ Hamvas Béla phân tích rất rõ các bậc tiền bối là ai? Thế giới bên kia có những gì?
f/ Hamvas Béla đặc biệt nhấn mạnh đến sự khác nhau của các đạo sĩ và phù thủy với pradzsapati trong việc liên hệ với thế giới bên kia. Đạo sĩ và phù thủy dừng lại ở tính táo âm tính (mê tín) và sử dụng nội dung của thế giới bên kia cho mục đích cá nhân của con người. Nghĩa là họ không đạt đến mức độ Thần để với đến tính chất thần của các vị tiền bối, mà chỉ đủ khả năng sử dụng ma quỷ, các loại hồn trong thế giới bên kia, vì hành động của họ mang tính chất ma thuật. Còn pradzsapati - mức độ cao của nhập định, mang tính chất phép thuật thần diệu (theurgical) khi sử dụng các sức mạnh siêu nhiên.
Và điều rất quan trọng nữa: pradzsapati làm cân bằng tính chất của thức tỉnh âm tính và dương tính.
Bạn thân mến!
Tôi đọc lại những bài của Hamvas Béla bạn đã dịch. Tuyệt. Tôi  đã học được từ nó và vẫn học được từ nó. Một tinh thần tuyệt diệu. Đây không chỉ là sự phù hợp, Hamvas Béla có một mức độ thấu ngộ và trí huệ rộng lớn hơn hẳn. Tinh thần của ông cổ vũ mọi sự đi lên về tâm thức. Thật kì lạ, đọc Hamvas Béla và đọc cái văn bản tâm linh bạn vừa gửi, tôi nhận ra điều này rõ hơn, và tôi nhận ra cũng rõ như ghi chú của bạn  khi bạn dịch Hamvas Béla.
Nói một cách so sánh, Hamvas Béla gần với Phật gia, còn văn bản tâm linh bạn vừa gửi gần với Đạo gia. Dù tôi cũng có thể khẳng định, đọc Hamvas  Béla cần nhiều trí huệ hơn, và không hề dễ đọc chút nào cho những người mới cầm lên. Nhưng Hamvas Béla có gì đó thanh thoát hơn hẳn, ngay cả khi lời ông siêu hình và đòi hỏi sự dấn thân hơn. 
Bạn thân mến!
Đời thường - Thân xác (dấu yêu ơi!-hahahaha) ta vẫn không bao giờ quên mi, vì dấu dưới vẻ trần trụi, lạc lõng của mi vẫn là nhịp đập của con tim thổn thức đêm ngày vì những niềm vui-nỗi buồn sống…
Dù:
Xác thân và tinh thần phải hòa trộn vào nhau làm một, phải nâng lẫn nhau lên mức tinh sạch, thanh khiết nhất, đúng không?
TUỔI THU
(http://www.youtube.com/watch?v=K_Z7wkP2-aU)
Xuân vừa hết, hè bắt đầu sang, vậy mà ta viết về tuổi Thu - khi lá bắt đầu ươm vàng, xoay tròn cuống, ngả theo gió tan tác muốn bay đi…
Muốn tặng một người bạn yêu dấu tuổi Thu, đang cùng đi trên một con đường không thấy tận cùng, không đoạn bắt đầu, luôn luôn đời  như thể chỉ bắt đầu từ đoạn giữa, giữa con đường, giữa ngổn ngang bất an những âu lo hàng ngày trần thế, giữa ngụp lặn nổi chìm mọi âm thanh nức nở hoặc nỉ non sao thoát những nỗi đau đời người!
Từng ngày sống hiện tại của bạn chỉ còn lại là những ký ức nhân gian ngày mỗi xa vời, xa lắc. Lạ thế! những ký ức còn đọng nguyên cảm xúc nhưng hết rồi sức sống động lay chuyển cả tâm hồn rực lửa khi nao. Chỉ còn lại như âm hưởng đọng vu vơ từ tưởng tượng giấc mơ, và hình hài  của nó như những cánh hoa ép trong cuốn sổ đã đen vàng mỏng dính.
Tuổi Thu muốn đưa bạn đi, đến những miền dày hơn, thẳm hơn, không khép lại như trang sách đã đọc xong, mà mở ra như bầu trời hút sâu chào đón. Té ra bạn của tôi bằng lòng đến sát giới hạn của những niềm vui ngập nắng, chỉ để mong được lẳng lặng chìm xuống biển câm của ẩn náu chẳng bến bờ. 
Trong một ngày tuổi Thu xuất hiện, mọi con sông, mọi cây cầu, mọi góc phố, mọi thủ đô, mọi quốc gia đều giống hệt nhau, mọi xúc cảm tưởng chỉ ngập tràn trong những tương tư khắc khoải xa cách, nhớ mong, hy vọng thầm kín hay bày tỏ nổ tung… bỗng giống hệt nhau, chẳng ở kia, chẳng ở đây… bởi cùng lúc chúng hiện nguyên hình chỉ là cảm giác, về những giới hạn mình đều đã đi qua. 
Và kìa, còn hãi kinh hơn nữa, không phải cảm giác của chúng mình đâu, chỉ là muôn vàn mùi vị đã nếm trải của những kẻ đã đi trước chúng ta lâu lắm rồi, mới hôm qua, hay triệu triệu năm về trước… 
Lẳng lặng nhận ra mọi điều, khi tuổi Thu cập bến, lúc mọi thân yêu bấu víu đột nhiên chỉ còn  mong manh hơi nước, nhạt nhòa vương víu, như sương chiều lan tỏa, hay nhập nhoạng đêm về…
Không buồn chút nào, bạn nhỉ? Khói thuốc mơ hồ tỏa ra từ điếu thuốc sắp tàn chỉ để giữ nụ cười cuối cùng bạn muốn giữ trên môi. Bởi vì mình đã đi hết con đường đâu, con đường vô tận?
Xác thân này hôm nay chỉ là tấm áo manh quần giữ hơi ấm chốc lát, phút giây bạn tạm dừng chân trên con đường hành hương hun hút quay trở về nhà.
Giữa con đường, dù mình tình cờ gặp nhau, mắt cùng lạc vào những bến bờ Xuân về hoa nở, Hạ dâng trái đời ngọt lịm, dù quên cất bước, chân vẫn phải đặt tới bến Thu để nhận ra cuộc hành trình còn dài lắm, hay mới chỉ bắt đầu, bạn hỡi, đến những tầng trùng điệp xa xôi,  giữa Sự Sống mênh mang vĩnh hằng này?” 
Bạn thân mến!
Bạn vẫn luôn dịu dàng nhỉ? và trong lòng vẫn có gì tha thiết vô cùng. Dù, đã có gì rất thanh thản và mỉm cười trong từng lời. Nhưng vẫn rất đăm đắm. Đẹp lắm bạn. Một điều gì trong lành và thuần khiết hơn đang chảy trong bạn. Thậm chí bạn bắt đầu đứng bên cạnh những cảm xúc của mình, vừa nhẹ nhàng vừa nghiêng mình nghe ngóng. Nhưng không bao giờ còn là mê mệt theo những cảm giác nữa… Bạn đang tái sinh?
Nhưng cảm xúc dễ nuốt người ta lắm đấy nhé.
Hehehehehe… 
Bạn thân mến!
Tình trong cõi trần chỉ làm con người đau bởi các giới hạn, nhưng vượt cao hơn cõi trần rồi, cũng chẳng có lý do gì phải trở thành trần trụi, khô cứng, thẳng đơ. Vỏ cây dù sần sùi dữ tợn đến mấy, hãy bóc ra mà xem, thân cây ứa nhựa như nước mắt ứa (ai biết nước mắt buồn hay vui?).
Ngay từ bé, tôi đã thích đi bóc vỏ cây xà cừ dọc những con phố, để nước mắt cây đóng cứng thành nhựa, long lanh đọng giữa lòng bàn tay...
Thêm điều này nữa: tôi là một đứa con gái Hà nội. Chất Hà nội sâu thẳm là sự dịu dàng (như giọng nói ấy). Vì cớ gì chúng ta phải đổi thay?
Nhớ: con người khi đã vượt lên khỏi giới hạn của ĐAU trần gian, không thể quay về rơi xuống lần nữa, chất dịu dàng này dành cho NHAU, chỉ là thoảng bao bọc ấm áp muốn xẻ chia của giải thoát, con người ơi...
Vì cớ gì ta phải... vứt  bỏ đi, sự dịu dàng của đời sống? 
Bạn thân mến!
Nhân gian-nhân gian-nhân gian…
KHÔNG BIẾT NỮA
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=bbBw9UzrYOU
Buổi sáng thức dậy, anh phát hiện ra một vài ngọn núi đã biến mất trong sương mù, có gì lặng lẽ rất đau buồn ở lại. Anh nhớ những bước chân hằn lên núi tuyết, chỉ đọng lại khổ đau và nước mắt. Con người phải quay trở xuống núi bằng chính bước chân của mình, những bước chân lạnh buốt trong hình hài băng tuyết, nhiều chỗ đã phai mờ. Những kẻ đến và đi không chỉ lãng quên mình, mà con lãng quên những bước chân.
Thực ra anh biết rõ thời khắc có gì đó tan biến trong không gian này, có điều anh, vẫn như thường lệ, phải cố gắng bất ngờ vào buổi sáng, khi đâu đó những ảo cảnh tan biến đi, nhường chỗ cho vắng lặng. Ban đầu anh hay thở dài, cười cợt. Sau đó anh không biết làm gì khác, có khi bối rối. Rồi anh quen, và anh thờ ơ với cả điều anh biết nghĩ.
Có thể ngày kia, anh sẽ thấy rằng cả anh cũng chỉ là một tàn sương còn u uất, nhưng có gì thay đổi đâu em. Nếu những ngọn núi và bầu trời này đều hóa thành tan biến, và đều tan biến để trở thành điều gì khác, thì anh sẽ nên nghĩ nhớ gì?
Nhưng anh hứa với em, khi nào mặt trời tắt lịm, anh sẽ đi tìm con đường từng có dấu chân cay nghiệt, vội vã đi tìm một nhân gian, vô tình rơi xuống nơi nào đó dưới kia, cuối cùng chỉ còn là một giấc mơ đâu đó. Đừng vội vàng gì nhé. Đừng vội vàng.
Biết đâu anh cũng đang tan biến đi… 
Bạn thân mến!
Dậy sớm vào lúc 4h sáng, bước ra ban công, ngắm những cây dẻ dại cao sừng sững lá xum xuê, bầu trời màu ghi tư lự, tất cả đang rất yên tĩnh, gần như phẳng lặng, như một tờ giấy trải, bỗng một âm thanh rì rào đâu đó nổi lên...  lắng nghe và phát hiện ra gió, gió dồn rặng thông phía xa xa bắt đầu lắc lư, hình như gió về để đuổi mây bay đi, muốn lộ ra một khoảng trời trong trẻo hơn, đầm ấm hơn với hồng hào tia nắng nhú...
Đẹp vô cùng. Có thể sánh với một nỗi lòng êm ả đã thức tỉnh và duy trì sự tỉnh táo. Đừng nghĩ rằng hệ quả của việc thức tỉnh là vứt bỏ, từ bỏ. Từ bỏ cái gì chứ?
Xác thân không là vật chất ư? Ta là linh hồn - nhưng gắn bó với xác thân- và các sự vật, sự việc cũng không rời ta nửa bước.
Tôi hiểu sự"vứt bỏ" trong nghĩa thức tỉnh như sau: nâng toàn bộ sự hiện hữu này lên một tầng cao hơn nhận thức ta đã từng có về nó, nghĩa là trong khi nhận ra nó (vật chất) không chi phối ta đến mức tuyệt đối nữa, thì đồng thời nhận ra toàn bộ mối liên quan của ta với nó từ trước tới nay. Một cách hết sức giản dị, tất nhiên, thậm chí nhẹ nhõm nữa.
Ví dụ nhé: tại sao đến tận ngày hôm nay mình vẫn mê rock, metal? vì nghe nó trong trẻo quá, dồn dập và ấm áp như nhịp tim lúc say mê làm một việc gì đấy hết lòng. Trong sự"rối loạn hỗn độn" của âm thanh rock là cả một bề dày của trí tưởng tượng, sự mơ màng, tình yêu với hết thảy cái gì đẹp đẽ, giống như nụ cười rạng rỡ của con người bừng sáng trên khuôn mặt lúc đến với những hạnh phúc trần gian. Hạnh phúc trần gian- cái gì vậy? sự sáng tạo theo trí tưởng tượng của con người về những gì họ mong ước.
Ngày hôm nay, trí tuệ đưa mình đi trên con đường thức tỉnh, mình sẽ càng biết thưởng thức hơn sự sáng tạo này, theo nghĩa luôn luôn biết nâng bản thân mình lên cao hơn sự ràng buộc, đấy chính là sự từ bỏ rồi.
Giờ đây "tốc độ" chóng mặt của âm thanh rock không đưa mình đến đam mê điên loạn mà làm cho mình nhận ra, mình ưa thích tốc độ này, chỉ tốc độ này đáp ứng khát vọng "bay lên" cũng như "chùng xuống" mãnh liệt của mình. Không chỉ khát vọng đâu, tôi và bạn đang sống đúng như thế: hiện thực hóa cái tư tưởng mình đang theo, một đời sống trong sạch nhất.
Bạn hãy nghe bản rock tuyệt vời này của một tác giả trẻ Hungary (lưu vong) nhé, hình như chỉ trong thời đại” vong thân” này con người mới có một bề dày tâm hồn đến thế…
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=UvGRXRW7OtA
Bạn thân mến!
Có lẽ thời-không của môi trường của bạn duy trì một sự thanh sạch tương đương từ hơi thở đến ánh mắt. Ở đây tôi ngày ngày đi lại trên những con đường bắt đầu toàn mùi xe rác, mùi người, khói, bụi. Ngay cả khi tôi vô cảm với những thứ ấy thì thân thể tôi vẫn cứ phải đối mặt với nó. Không phải nó làm tôi mất đi sự thanh thản, mà nó làm tôi phải đặt thân-tâm-trí của mình trong những tiến trình chuyển hóa cho cả mình lẫn người khác thường trực. Không có sự ngơi nghỉ cả trong mơ. Nhưng chưa bao giờ ám ảnh. Hahahaha…
Cuộc sống phải tinh tấn, mạnh mẽ, lý trí, thấm sâu Pháp lý, cố gắng nhận ra mình từ những điều vi quan nhất đến lớn lao nhất là cuộc sống đáng sống nhất của tôi, bạn biết mà. Những việc khác vẫn có tác động đến tôi, đôi khi vẫn làm tôi vui buồn giận ghét... nhưng không phải ý nghĩa chân chính của tôi. Phân biệt cảm nhận và hạnh phúc với nhân gian trong tôi vẫn đầy rẫy, nhưng tôi đang vắt cho mình trong sạch từng ngày. Và còn phải làm thế đến khi tắt thở bạn ơi.
Tôi không yêu cũng không ghét cuộc sống này, đôi lúc tôi ghê tởm nó, đôi lúc mỉm cười với nó. Tôi không vì nó mà mệt mỏi hay thoải mái, vì tôi biết chắc chắn từ trong tôi mọi sự chuyển hóa đều cần vô can với nó.
Tôi cũng mê nhạc Metal suốt một thời. Giờ nghe lại vẫn chấn động. Nó dữ dội quá làm nhịp tim người ta bị biến động theo. Clip bạn gửi tuyệt, dù lâu rồi tôi đã cố gắng ước chế thói quen nghe nhạc rock. Thật là một”sức mạnh ma quỷ”… Hahahahaha…
Bạn hãy đọc bài viết này của tôi:
KHÔNG GIAN SỐNG CỦA THẦN
1. Bản chất của nhà ở là sự mở rộng thế giới của con người, đúng hơn, mở rộng con người, một thứ kết giới tạm thời được vật chất hóa hoặc, là vật liệu được nhân-hóa. Ngay cả hang động của người tiền sử cũng ở trong trường nghĩa này: nơi-ở, nghĩa là nơi con người lựa chọn đặt định sự sống của mình. Việc xây dựng bằng sức-người những công trình cư ngụ đã loan báo một thông điệp mới cho nhân loại: con người, bằng công sức và tâm ý, có thể tạo lập được được một không gian mang cá tính. Nhà ở ban đầu, dù dưới hình thức nào, trực tiếp là một nhân-thể được vật chất hóa: nó không có tự tính riêng, ít nhất, không có mưu đồ mang lấy một mục đích độc lập cho sự tồn tại của mình. Nó được nhân lực tạo ra, do đó, phục vụ nhân thể, nghĩa là nó tương tác với nhân thể một cách tự-nhiên. Con người thời cổ hẳn phải thấy căn nhà thuộc về họ, truyền thống này được lưu giữ ở mọi nơi, khi con người tìm cách vạch lên không gian tồn tại những dấu hiệu riêng, bằng tranh vẽ, sự trang trí, bằng những nghi lễ đời sống diễn ra quanh không gian sống của nó.  
Nhưng sự lưu truyền này không nguyên vẹn, vì con người hiện đại biết rõ rằng nhà ở thuộc về họ với tư cách một tài sản, hơn là thân thể của họ. Vì thế con người hiện đại định giá tài sản này, xây dựng nó bằng những tiêu chuẩn và đặt định nội tạng của căn nhà bằng những thứ đảm bảo cho sự tồn tại của mình với tư cách một thành viên xã hội. Cũng vì thế, con người hiện đại chịu đựng những không gian, đến nỗi nó phải tìm cách thay đổi những không gian này, ngày này qua ngày khác, và nó thấy rằng việc đi ra khỏi những không gian tồn tại cá nhân đem lại sự sống hơn là trở về đó. Hiện thực ấy đánh dấu một chứng tâm thần thường trực. Benjamin gọi tên những kẻ mang bệnh này là "lãng khách, những kẻ lang thang". Nên gọi thế này: những kẻ bị nguyền rủa. 
2. Con người thời cổ còn giữ được một xác tín này: nó cảm giác được cuộc sống Thần Thánh còn lảng vảng đâu đó trong tâm trí, bởi vậy nó xây dựng và kiến tạo mọi mặt của đời sống, cả nhà ở và dụng cụ, như một cách hiện thực hóa nỗi ám ảnh tổ tông - chí ít, nó tìm thấy trong sự tạo lập đó một dấu ấn của Thượng Đế. Mọi sự tạo-lập của Thượng Đế là không thể trao đổi, đúng hơn, không thể định giá. Nhưng nỗi ám ảnh được hiện thực hóa mang tính cách của ngộ nhận, đây là bi kịch của con người, vì thế không thể là sự tìm lại cội nguồn, mà buộc phải tha hóa đi, trở thành tư hữu, cũng vì thế, trở thành tranh đoạt. Con người đối diện với của cải thế gian, từng bước, bắt đầu như đối diện với một sự thể bên ngoài mình, trong khi vẫn từ chính mình. Sự chia tách  giữa đời sống của Thần và đời sống phàm tục đó, thông qua trung gian của sự ngộ nhận và ám ảnh, hoặc sự mê muội, không đếm xỉa đến triết lý và văn hóa.  
Thời hiện đại đã bắt đầu từ xa xưa với sự chuẩn hóa, sự đồng bộ, những khuôn mẫu, khởi nguồn từ định kiến, từ dư luận, thậm chí, cũng có nghĩa từ văn hóa. Con người lần lượt trải qua những quá trình đồng bộ hóa, chuẩn hóa này: công cụ lao động, hay nhân thể được vật hóa; lời hay ngôn ngữ cộng đồng; Đạo đức thế gian hay thiết chế gia đình, nhà nước và tôn giáo; và cuối cùng, khoa học, hay đời sống được sản xuất hàng loạt. Không thể có nhà nước toàn trị nếu không có khoa học, theo ý nghĩa này: khoa học chuẩn hóa toàn bộ lý trí của con người, nó đo đếm và phân loại con người, nó định hướng con người - nói chung, đặt định mọi giới hạn của đời sống. Con người hiện đại bối rối trước điều này, nó đi tìm sự tự do ở khắp nơi: tự do trong lao động hay sự rong chơi hoặc sự lười biếng; tự do trong đạo đức nhân gian bằng nghệ thuật, dân chủ hóa và cá nhân hóa; tự do trong khoa học hay quyền phát ngôn và đối thoại. Trong thời hiện đại, những điều này trộn lẫn với nhau: tự do, cá nhân, dân chủ, nghệ thuật, bao hàm trong đó cả những mầm mống bất thiện của xã hội hiện đại. Tất cả là một phản ứng mơ hồ: cái trói buộc con người không phải là từng hạng mục ở nhân gian, mà là toàn bộ nhân gian, kể cả những ước mơ tự do thuần khiết nhất. Vì tất cả đều sẵn là những nguyên liệu của bến mê, tất cả là những lời hứa hão của hiện thực, được ủng hộ bằng mọi công cụ của đời sống hiện đại - nó cho người ta mơ ước và sự dấn thân vào việc thực thi những đạo lý cả tốt và xấu của nhân gian - một dạng tồn tại khác của nhân gian hay pháp lý nhân gian. 
3. Con người nhân gian, vì thế, sống trong một lý trí dối lừa to lớn: nó không thể hiểu nổi tại sao lý trí của nó chỉ là sự phân mảnh của một lý trí lớn hơn bao trùm và điều động nó. Con người nhân gian chỉ có thể suy nghĩ trong một lý trí toàn thể tự vận động như Bohm đã thấy. Đây cũng là bí mật của thời hiện đại: không phải một mảnh đời sống cá nhân thuộc về cá nhân, tất cả đều là trạng thái của cái toàn thể được diễn hóa ở các bộ phận. Nhà ở và những công trình cư ngụ cũng vậy, thực chất, từ lâu, nhà ở của con người đã biến mất: toàn bộ không gian đô thị là nhà ở mới của con người đô thị. Đó là lý do con người hiện đại lang thang, vì nó khủng hoảng trong một không của riêng nó, đây không phải là sự khủng hoảng của tâm trạng xã hội: vì con người tìm ra xã hội để hòa nhập, để lấp đầy cái nội tại đang tranh đoạt nhau sự sống giữa phần Thần và cái phàm tục - thực chất, con người đang đi ra những mạch máu của xã hội, những dòng chảy của bến mê, để tiếp thêm sinh lực cho cái phàm tục. Vì thế, trong thời hiện đại, không những bệnh tâm thần được tạo ra cho con người nghiễm nhiên hành xử, mà những hình thức thỏa mãn bệnh tâm thần cũng được cung cấp ở mọi mức độ. Dù chống lại hay tuân theo thì con người nhân gian vẫn đi lại trong căn nhà khổng lồ của mình, giờ đã trở nên không thể nắm bắt và vượt xa nhân thể của mình. 
Chính vì thế, nguyên tắc của kiến trúc hiện đại là: nắm bắt con người, khiến con người ngấu nghiến những hình ảnh về kiến trúc, bị hình ảnh thông qua mắt thu hút và ấn định. Nói rõ hơn, kiến trúc hiện đại, cũng như đô thị hiện đại, lấy con người làm nhiên liệu cho sự vận hành của nó. Sự chuẩn hóa không gian tồn tại đã tiến thêm một bước tiến hóa như thế: nó tỏ ra tự do, nó mang lấy những hình thức của nghệ thuật, nó đạt đến những ngưỡng phi thường của sự phá-cách. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, theo quy chuẩn hay theo sự nổi loạn, thì không gian cần con người lưu động trong nó - có nghĩa là, không gian hiện đại và kiến trúc hiện đại bắt đầu mang lấy một mục đích tự thân - mục đích này bắt nguồn từ sự phàm tục được tách rời khỏi con người, từ nỗi ám ảnh Thượng Đế bị tha hóa, từ bến mê đang bành trướng trên mọi phương diện, từ sự bất thiện đã tách rời hoàn toàn khỏi cái thiện để thực sự trở thành cái đối lập và loại trừ cái Thiện. Không gian hiện đại, vì thế, không phải là nhân thể, không bắt nguồn từ nhân thể, không thuộc về con người, mà thuộc về cái chống lại con người. Đúng thế, và vì thế, con người hiện đại khi chấp nhận không gian này, hay thực tại này, nó chấp nhận chống lại giống loài và bản thân mình. Nó chấp nhận cái Ác và chấp nhận sự thủ tiêu tinh thần chân chính của mình. Đây là cội nguồn của chứng tự kỷ, trầm cảm, suy cảm, của sự cô đơn và lạc lõng dưới mọi hình thức.  
4. Trong các không gian cổ, sự phục sinh tinh thần cổ và tái tạo đời sống của Thần được tôn trọng. Mọi chi tiết của không gian đều chú ý đến cách thức mà con người lưu chuyển trong đó, ánh mắt, lời nói, âm thanh, không khí, độ ẩm... Phương thức định dạng cho một không gian được lưu lại trong những tri thức thần học đứt rời được phương Đông gọi dưới tên Phong Thủy. Phong Thủy, do đó, hiểu theo nghĩa đúng nhất của nó, là sự điều chỉnh không gian vì nhân thể, và bản chất là vì sự sống con người, đúng hơn nữa, là vì tinh thần con người. Các không gian cổ gắn liền với nghi lễ cổ, nó không đặt ra sự tiện dụng hoặc những hình thái nghệ thuật, nó chỉ đặt ra sự mô phỏng lại đời sống của Thần và tinh thần cộng đồng. Ngay cả khi sự mô phỏng này là sự thoái hóa của Thần bằng hiểu biết của con người, đây là bi kịch sẵn có của tôn giáo, thì nó cũng cho phép con người nhân gian hiểu được rằng bản chất của không gian tồn tại là đặc tính của con người, là vì sự nâng cao những phẩm chất tinh thần của con người mà được tạo dựng nên. Đây là ý nghĩa nguyên thủy của tu viện: nơi phục hồi đời sống của Thần. 
Con người hoang dã biết rằng không gian sống của nó thuộc về nó, sự hiểu biết này không thoái hóa thành lời, nó tập trung nhau lại trong những không gian cộng đồng và lưu truyền tinh thần của Thần mà nó biết. Vì tinh thần này tràn khắp nơi, nó không cần diễn đạt thành lời, nó hành xử như Thần: nhảy múa, hòa nhập, tạo lập. Con người thời cổ biết rằng đời sống thực sự không nằm ở đây, nó lưu truyền những không gian sống tách rời khỏi nhân gian. Sự lưu truyền này khi thoái hóa đã để lại những hình ảnh lệch lạc bằng tôn giáo, nhưng ý nghĩa và tinh thần của nó đã không bao giờ mất đi.
Ý nghĩa duy nhất đúng của không gian sống, của kiến trúc và nhà ở, ý nghĩa đích thực và thẳm sâu nhất còn lại từ truyền thống cổ là: con người cần sống để phục hồi phẩm chất của Thần, do đó trước hết nó cần một không gian để cải tạo tinh thần của mình, không gian này không chỉ là chỗ trú ngụ, mà là nơi diễn ra sự sống của Thần, là kết giới của tinh thần đang được nâng lên khỏi đời sống. Bởi vậy, một kiến trúc sư phải phục hồi trước tiên là tư cách Thần Thánh của kẻ tạo lập nên những không gian, kẻ tạo lập nên những khoảng tồn tại của tinh thần Thần Thánh, nó phải ý thức được điều này. Sau đó, sứ mệnh của nó là: tái tạo không gian của Thần. 
Hay, tái tạo đời sống của Thần bằng không gian. 
Bạn thân mến!
Một bài viết tuyệt vời! tôi mong chóng được đọc phần II. tiếp theo của nó.
Con người giờ đây không có nhiệm vụ nào khác ngoài: tìm lại bản chất Thần của chính mình, đã bị lu mờ, bị đánh mất quá lâu rồi, đúng không bạn hỡi?. 
13/5/2013
Nguyễn Hồng Nhung
Theo https://vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Nghệ thuật của cái nhìn Nghĩa là, chừng nào con người ta đánh mất đứa trẻ trong mình thì chừng đó cảm xúc trong họ trở nên bão hòa xơ vữ...