Nguyễn Tất Thành đã nói về cụ Miến như thế. Còn cụ Phó Bảng Sắc
trước ngày đi Bình Khê nhận chức đã gửi gắm hai người con trai đang sống ở Huế
cho cụ Miến... Hồi ấy, thiên hạ “ồn ào” quanh hình bóng nửa thật nửa hư của một
cô gái trong trái tim chàng thanh niên rời bến cảng Nhà Rồng đi tìm đường cứu
nước, nên ít ai để ý đến vai trò người thầy họ Lê. Ngày Nguyễn Tất Thành rời
Trường Quốc học Huế ra đi, Sơn Tùng chỉ miêu tả thầy Miến đến chia sẻ tâm sự với
người học trò yêu quý: “Con hãy đi theo tiếng gọi của lòng con”. Nhưng từ mối
thâm giao giữa hai gia đình họ Nguyễn và họ Lê, từ mối quan hệ gắn bó giữa hai
thầy trò, một người hiểu văn hóa Pháp sâu sắc mà cũng căm ghét thực dân Pháp
sâu sắc như thầy Miến hẳn đã góp phần không nhỏ “định hướng” cho Nguyễn Tất
Thành, gợi cho chàng chọn nơi dừng chân đầu tiên trên lộ trình tìm đường cứu nước
là Tổ quốc của cuộc Cách mạng 1789 - nơi đã dương cao ngọn cờ “Tự do - Bình đẳng - Bác
ái” vào thời đó. Vậy Lê Văn Miến là ai mà có thể đóng được vai trò ấy?
* Từ làng Ông La đến Paris:
Lê Văn Miến xuất thân từ một gia đình nhà nho yêu nước, quê
làng Ông La, xã Kim Khê, huyện Nghi Lộc (Nghệ An), vùng đất có truyền thống hiếu
học và cách mạng. Thân phụ là cụ Cử Lê Huy Nghiêm, thời gian nhậm chức tri huyện
tại Phú Lộc là bạn tâm giao với cụ Phan (lúc này, cụ Phan Đình Phùng bị cách chức
quan Ngự sử, thường vào Phú Lộc chơi...). Sau khi đổi ra Sơn Tây, cụ lại bày tỏ
thiện cảm và giúp đỡ cuộc khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám và Nguyễn Thiện Thuật,
không chịu kết án và tha bổng cụ Hà Văn Bao - một lãnh tụ của nghĩa quân - nên
bị cách chức. Về sau, cụ được cử làm Đốc học Hải Dương, rồi thăng Án sát Hải
Dương, nhưng không bao lâu, cụ về chịu tang thân phụ và không chịu ra làm quan
nữa.
Lê Văn Miến là người con thứ 3 trong gia đình 12 anh em. Năm
1888, nhằm đào tạo những quan chức cao cấp trung thành với chúng, thực dân Pháp
cho tuyển chọn một số thanh niên đưa sang học Trường Thuộc địa (Ecole
Coloniale) ở Paris. Ba người được chọn lần đó là Hoàng Trọng Phu (con Hoàng Cao
Khải), Thân Trọng Huề (con Thân Trọng Nhiếp - một vị quan to ở Triều đình Huế
và người thứ 3 là Lê Văn Miến. Thoạt đầu, cụ Nghiêm định cho người con thứ hai
là Lê Huy Thản đi. Nhưng ở độ tuổi 16, Lê Huy Thản đã có chính kiến rõ ràng,
thù ghét Tây ra mặt, nên cụ Nghiêm đã cho Lê Văn Miến đi thay, sau khi khai
tăng thêm 2 tuổi (để đủ 16 tuổi). Không có cứ liệu nào để biết vì sao cụ Nghiêm
lại phải cử Lê Văn Miến đi thay cũng như động cơ du học của chàng trai xứ Nghệ
này. Nhưng từ truyền thống của quê hương và gia đình, từ mối quan hệ
“nhân quả”, chúng ta có thể suy đoán một cách chắc chắn là chàng trai họ Lê đã
được thân phụ gửi gắm những ý nguyện tốt lành, có ích cho đất nước.
Là người ít tuổi nhất lớp, nhưng Lê Văn Miến được bạn đồng học
nể trọng không chỉ vì học giỏi mà còn vì anh sớm tỏ rõ khí phách không khuất phục
trước cường quyền. Lê Văn Miến đã lãnh đạo học sinh các xứ thuộc địa học cùng lớp
bãi khóa, kéo đến Bộ Thuộc địa đấu tranh chống hành vi kỳ thị chủng tộc của
viên Hiệu trưởng. Cảnh sát Pháp phải dùng ngựa và xịt nước giải tán.
Với chí hướng ấy, sau khi tốt nghiệp, Lê Văn Miến đã không chịu
về nước làm quan như Hoàng Trọng Phu (sau lên chức Tổng đốc Hà Đông) và Thân Trọng
Huề (sau trở thành Thượng Thư Bộ Học). Anh xin ở lại theo học Trường Mỹ thuật
Paris - một trường Mỹ thuật có tiếng nhất ở châu Âu thời ấy. Là người thanh
niên Việt Nam đầu tiên học ở đây, lại bị theo dõi hồ sơ về vụ bãi khóa, bị viên
Hiệu trưởng Jérome đối xử có phần khắt khe, nhưng Lê Văn Miến vẫn đạt thành
tích cao trong học tập, nghỉ hè được đi du lịch các nước châu Âu. Năm 1895, sau
khi tốt nghiệp xuất sắc hai trường danh tiếng của nước Pháp, theo tiếng gọi của
quê hương và tình yêu đất nước, chàng trai họ Lê đành chia tay với Paris, mang
theo mớ tóc vàng mà một cô bạn cùng lớp đã cắt tặng chàng trước lúc chiếc tàu
thủy kéo còi rời bến cảng Marseille.
* Tìm đường:
Trở về nước, tránh nghiệp làm quan, nghề vẽ cũng khó có đất sống
khi khắp nơi dân chúng nghèo đói, thất học, Lê Văn Miến đã phải trăn trở tìm đường
mất mấy năm. Ngay khi mới bước chân lên bến cảng Sài Gòn, chàng đã gặp một “bức
tranh” hiện thực xót xa, uất ức mà có vẽ nên được cũng không có chỗ treo lúc
đó. Ấy là cảnh một tên Pháp to béo, hơi thở nồng mùi rượu, nghênh ngang ghếch
chân ngồi trên một chiếc xe kéo, tay cầm chiếc can gõ nhịp lên đầu anh phu xe hối
thúc chạy cho nhanh. Đây cũng chính là hình ảnh trong một bức ký hoạ
của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo Le Paria (Người cùng khổ) 27 năm
sau. Lúc này, cụ Lê Huy Nghiêm cũng đã từ quan về Kim Khê. Trong nước,
cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng và nhiều cuộc khởi nghĩa khác ở miền Bắc bị thất
bại. Sau 5-6 tháng trú tại quê nhà, Lê Văn Miến ra Hà Nội xin làm thuê tại nhà
in Seheider trên bờ Hồ Tây - cơ sở in đầu tiên do Pháp xây dựng ở Hà Nội. Với
chức trách họa sĩ, hẳn là Lê Văn Miến đã lo phần trình bày, minh hoạ sách báo
in ở đó. Ngoài giờ làm việc, nhiều người biết tiếng chàng trai Việt Nam đầu
tiên tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật Paris, đã tìm đến nhờ vẽ tranh truyền thần cho
ông bà, cha mẹ, nhưng chàng chỉ nhận vẽ cho một số ít người thân...
* Phẩm giá người nghệ sĩ và những bức tranh vô giá:
Mặc dù Lê Văn Miến là một hoạ sĩ “sinh bất phùng thời” và bản
thân cụ - nói theo ngôn ngữ hiện đại - chỉ làm hội hoạ bằng “tay trái”, nhưng
sự nghiệp hội họa của cụ cũng tạo nên danh giá mà nhiều nghệ sĩ mong ước. Giới
nghiên cứu nghệ thuật biết đến cụ trước hết với tư cách tác giả hai bức tranh
“Chân dung cụ Tú Mền” và bức “Bình văn” (còn có tên là “Buổi học chữ Nho xưa”)
hiện lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Bức “Bình văn” đã được chọn in ở
bìa cuốn sách lớn “100 họa sĩ Việt Nam thế kỷ 20”. Nhà nghiên cứu Thái Bá Vân,
trong bài viết kể lại việc phát hiện bức tranh “Bình văn” năm 1971 tại một căn
nhà ở phố Khâm Thiên (thật may mắn là chỉ mấy tháng sau khi bức tranh được đưa
vào Bảo tàng thì căn nhà ấy bị bom B.52 Mỹ đánh tan!) đã nhận xét: “... Chưa thấy
một họa sĩ nước ngoài nào dựng được hình và cử chỉ người Việt với thần thái
chính xác, sâu và trân trọng như thế... Đối với Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, họa sĩ Lê Văn Miến với bức tranh “Bình văn” là một cái mốc mà lịch sử mỹ thuật nước
nhà chỉ có thể coi là thuận lợi và đẹp đẽ. Nó làm cho hội họa hiện đại Việt Nam
có thêm một phần tư thế kỷ tuổi đời...”
Theo Thái Bá Vân chứng minh thì đến nay, bức “Bình văn” vừa
có trăm tuổi thọ. Đáng tiếc là thời gian và điều kiện bảo tồn tác phẩm mỹ thuật
hạn chế, nên màu sắc, đường nét bức tranh không còn giữ được thần thái như xưa.
Có một điều lạ là bức chân dung cụ Nguyễn Khoa Luận với chất liệu phấn màu, cỡ
60x80cm, cũng có tuổi thọ tương tự, hiện treo ở chùa Ba La (Phú Thượng, Phú
Vang, Thừa Thiên - Huế) lại còn như mới nguyên! Liệu có phải hương khói nhà
chùa đã tạo nên môi trường bảo tồn tranh tốt nhất? Điều này xin được dành cho
các nhà nghiên cứu mỹ thuật trả lời. (Cụ Nguyễn Khoa Luận là nhạc gia của họa sĩ và là ông nội của Hải Triều Nguyễn Khoa Văn. Sau khi thi đỗ cử nhân và học
Trường Quốc Tử Giám, cụ được cử giữ chức Bố Chánh tỉnh Thanh Hóa. Khi vua Hàm
Nghi xuống chiếu Cần vương và giặc Pháp đưa Đồng Khánh lên ngôi, cụ treo ấn từ
quan, bỏ đi tu! Cụ qua đời năm 1900, như vậy bức chân dung cụ còn “thọ” hơn bức
“Bình văn”).
Nhiều tác phẩm của họa sĩ Lê Văn Miến đã bị mất, nhưng những
câu chuyện thể hiện khí phách, tài năng của cụ lưu lại mãi trong tâm trí nhiều
thế hệ. Lúc dạy ở Trường Quốc học Huế, viên Công sứ tỉnh Thừa Thiên nhờ họa sĩ
vẽ chân dung cho vợ và con ông ta. Vừa khó thoái thác, vừa là dịp tỏ cho quan đầu
xứ người Pháp biết tài năng của dân Việt, họa sĩ đã không vẽ chân dung bình thường
như viên công sứ yêu cầu mà trổ tài dựng một bức tranh nghệ thuật thật
sự, có thể đặt tên là “Mẹ con người đàn bà Pháp và con mèo nhỏ”. Vẽ xong, viên
công sứ hỏi tiền công, họa sĩ đòi 30 đồng (bạc Đông Dương, thời đó cũng có thể
gọi là một gia tài nho nhỏ), nhưng ngay lúc đó, họa sĩ đã gọi người thợ mộc,
đưa cho ông ta tất cả số tiền ấy để trả công đóng khung. Về sau, họa sĩ nói với con trai là bác Lê Văn Yên rằng: “Nó có học mà chẳng hiểu gì về mỹ
thuật cả, lại thiếu phép lịch sự tối thiểu, tao lấy 30 đồng cho người thợ mộc
ngay trước mắt nó cho nó mở mắt!” Bức tranh có tiếng là “rất thần tình” ấy khiến
nhiều người Pháp đua nhau tìm đến, nhưng hoạ sĩ nhất mực từ chối. Cả với nhà
vua, họa sĩ cũng không chiều luỵ, khi đó là con người không đáng kính trọng. Họa sĩ đã từng vẽ chân dung cho vua Thành Thái, cho Đào Tấn, nhưng thời làm Tế tửu
Quốc Tử Giám, vua Khải Định vời vào cung nhờ vẽ chân dung. Với người khác thì
đó là dịp may mắn để cầu cạnh thăng quan tiến chức; trái lại, Lê Văn Miến đã
thoái thác, viện cớ mắt yếu không vẽ được! Những tác phẩm của cụ có thể gọi là
“vô giá”, trước hết vì sinh thời, họa sĩ vẽ tranh không phải để bán, người có
chức có tiền cũng không “mua” được cụ; phần nữa, nào ai định giá được những tác
phẩm đã mất, số ít còn lại thì đã trở nên tài sản quý hiếm của quốc gia, không
ai đem ra mua bán.
* Người thầy của các danh nhân:
Trong cuộc đời 70 năm, sự nghiệp mà cụ Lê Văn Miến bỏ nhiều
tâm huyết nhất lại là nghề giáo. Người đưa cụ đến ngành giáo chức là ông
quan - nghệ sĩ Đào Tấn. Đó là năm 1899, Đào Tấn đương chức Tổng đốc An - Tĩnh, Trường
Pháp Việt được thành lập ở Vinh và Lê Văn Miến được cử làm Đốc giáo (hiệu trưởng).
Ba năm sau (1902) khi Đào Tấn được cử làm Thượng thư Bộ Công, vì duyên nợ với vị
Tổng đốc yêu nghệ thuật (và có thể cả vì sự nghiệp lớn mà vua Thành Thái cùng
Đào Tấn đang âm thầm chuẩn bị). Lê Văn Miến phải tạm xa mái trường vừa thành lập
ở Vinh để vào Huế làm Hành Tẩu - một chức quan nhỏ thuộc Bộ Công. Không có chứng
tích nào để biết được trong thời gian này chàng họa sĩ họ Lê đã đóng góp gì vào
những công trình kiến trúc - nghệ thuật ở hoàng cung. Chỉ còn một dòng trong bài
viết của giáo sư Lê Thước tưởng niệm người thầy cũ: “... Với chức vụ ấy, cụ Lê
Văn Miến đã vẽ nhiều tranh và bản đồ trong nội phủ, trong ấy có cả những mẫu
súng mà Thành Thái muốn đúc”. Mối quan hệ mật thiết giữa Thành
Thái - Đào Tấn - Lê Văn Miến cùng những việc làm “bí mật” của họ đã bị mật thám
Pháp theo dõi. Năm 1904, Nguyễn Thân bức Đào Tấn phải về hưu và đẩy Lê Văn Miến
trở ra Vinh. Nhưng trở về quê hương Nghệ Tĩnh - cái nôi của nhiều phong trào
cách mạng, thấy “quan” Đốc giáo họ Lê giao lưu với nhiều chí sĩ yêu nước nổi tiếng
như Ngô Đức Kế, Lê Huân, Đặng Nguyên Cẩn..., năm 1907, cùng với việc bắt vua
Thành Thái đi đày và đàn áp phong trào yêu nước ở khắp nơi (chỉ riêng tại Nghệ
Tĩnh, các chí sĩ vừa nêu tên đều bị bắt), thực dân Pháp điều cụ Miến vào dạy
Trường Quốc học Huế. Theo giáo sư Lê Thước, chúng không bắt Lê Văn Miến, một phần
do viên Công sứ ở Nghệ An lúc đó là Sestier, vốn là bạn học cũ của cụ tại Trường
Thuộc địa, y đã tìm được cách cư xử khôn ngoan, vừa được tiếng là người biết
quý tình bạn cũ, vừa cắt đứt mọi quan hệ của cụ Miến với các đầu mối hoạt động
bí mật.
Tại Trường Quốc học, khi cụ Phó bảng dẫn hai anh em Tất Đạt,
Tất Thành đến gửi gắm cho Lê Văn Miến (cụ Phó bảng từng quen biết thầy hồi ở
Vinh, khi cả hai thường lui tới các tổ chức chính trị trá hình ở Vinh như Hoan
Châu học hội, Triều Dương thương điếm) chính thầy Miến đã nói: “... Tôi sẽ có
vinh dự được làm một người thầy học của trò Nguyễn Tất Thành... Không phải bất cứ
ai học chữ Tây rồi cũng ra làm tay sai cho Tây đâu...” (Theo “Búp sen xanh” của
Sơn Tùng). Đây là chi tiết của nhà tiểu thuyết, nhưng nhiều bằng chứng cho biết
trong suốt 30 năm theo nghề giáo chức, cụ Miến luôn giữ tròn nghĩa khí của một
kẻ sĩ, khiến các “quan Tây” cũng phải vì nể. Giáo sư Lê Thước và ông Lê Thanh Cảnh
- học trò của cụ Miến từ năm 1910, cho biết: trong khi giảng bài, cụ thường
dùng tiếng Việt, không nói tiếng Pháp; cụ xem thường tay Hiệu trưởng là Logiou,
vốn xuất thân là tên lính viễn chinh, đã bị nghĩa quân của Hoàng Hoa Thám bắt sống;
cả khi quan Khâm sứ đến Trường, mời cụ lên gặp, cụ cũng khước từ, lấy cớ “tôi
đang bận dạy, không thể lên được”. Trớ trêu thay, quan Khâm sứ lúc đó lại chính
là Sestier vừa được thăng chức. Lát sau, chính y phải đến lớp cụ đang dạy, ôm
chầm lấy thầy Miến, cụng tai, cụng má rất thân mật và hỏi: - “Sao không đến thăm
tôi, khi nghe tôi làm Khâm sứ ở đây?” - “Khó thăm mà cũng vô ích!” Thầy Miến đáp
vậy và sau đó không hề bước chân đến Tòa khâm.
Thời gian ở Trường Hậu Bổ (1913-1921) cũng như ở Trường Quốc
Tử giám (1921-1828), dù làm Trợ giáo, Đốc giáo hay Tế tửu (tương tự như Viện
trưởng Đại học quốc gia), cụ Miến vẫn giữ tròn nghĩa khí của một kẻ sĩ. Trong một
kỳ thi tốt nghiệp ở Trường Hậu bổ, thầy Miến đã đánh hỏng người cháu của quan
Thượng thư Bộ Lễ kiêm Bộ Học, đồng thời là ông gia của nhà vua, vì người này
đem theo tài liệu để chép; một lần khác, cụ đánh hỏng một người con ông anh ruột,
vì sức học chưa đạt, làm cho tất cả quan trường và Hội đồng coi thi kinh ngạc.
Những năm giữ chức Tế tửu Quốc Tử giám, cụ luôn thể hiện cảm tình và sẵn sàng
giúp đỡ những người cách mạng yêu nước, như đã tạo điều kiện tổ chức truy điệu
cụ Phan Chu Trinh, khuyến khích sinh viên lui tới thăm nom và giúp đỡ cả vật chất
cho cụ Phan Bội Châu đang bị an trí ở dốc Bến Ngự...
Trong gần 30 năm làm nghề giáo, “sản phẩm” cụ để lại cho đời
sau là rất nhiều học trò đã trở nên những tên tuổi lớn, những nhân vật lịch sử
của đất nước. Ở trên đã nhắc tới người thanh niên lỗi lạc Nguyễn Tất Thành,
giáo sư Lê Thước; còn có thể kể tiếp: Lê Đình Thám, Lê Đình Dương, Trần Trọng
Kim, Lê Văn Kỷ, Trần Đình Nam, Nguyễn Đình Chi, Phạm Phú Tiết, Nguyễn Đình
Ngân, Hồ Đắc Khải, Nguyễn Huy Nhu, Võ Liêm Sơn... Tất nhiên, những thành đạt của
các tên tuổi nêu trên còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, nhưng “nhất tự
vi sư" - cụ Miến thì không chỉ dạy chữ; bài học về lòng yêu nước, về nghĩa
khí của một kẻ sĩ mà cụ Miến gieo trồng cho bao thế hệ học trò hẳn có vai trò
quan trọng trong việc hình thành nhân cách của họ.
Do mắt bị mờ, cụ Miến phải xin nghỉ hưu sớm. 15 năm cuối đời,
cụ phải sống trong cảnh mù lòa buồn nản, luôn thay đổi chỗ ở, những mong tìm được
lối thoát, tìm bạn tâm giao. Cho đến năm 1939, học trò cũ ba trường Quốc học, Hậu
Bổ, Quốc Tử giám đã góp tiền mua tặng cụ gian nhà lợp ngói gần sông Ô Lâu, cách
ga Phò Trạch vài trăm mét. Đặc biệt, có một học trò cũ thường xuyên tới thăm cụ;
đó là ông Nguyễn Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm. Sau khi Nguyễn Tất Thành rời Huế,
ông Đạt bị “an trí” ở Thừa Thiên do có tư tưởng bài Pháp. Cụ Miến không có may
mắn được chứng kiến ngày đất nước độc lập và người học trò yêu quý hồi nào trở
thành Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng có một chi tiết con trai cụ Miến kể lại, chứng
tỏ cụ vẫn dõi theo và biết chàng đã tìm ra con đường cứu nước. Ấy là một ngày,
ông Đạt - chắc là nghe nguồn tin thất thiệt của báo chí thực dân - hấp tấp tới
bên giường cụ Miến nói với giọng đau đớn: “Thầy ôi! Nguyễn Ái Quốc nó đã chết rồi!”...
Mối thâm giao giữa hai thầy trò đến mức cụ Miến đã ủy thác cho ông Đạt đi hỏi vợ
cho con trai và lúc cụ qua đời (ngày 6/6/1943), ông Đạt đã ở luôn bên cạnh, lo
chôn cất, để tang như con trong nhà...
60 năm đã qua từ ngày đó! 60 năm, cụ Miến nằm lặng lẽ trên một
ngọn đồi bên sông Ô Lâu, một vùng quê hẻo lánh, xa phố phường, suốt mấy chục
năm chỉ biết có chiến tranh và bom đạn... Có phải vì thế mà thiên hạ biết đến cụ
muộn màng. Cho đến hôm nay...
Chú thích:
(*) “Lê Văn Miến, người họa sĩ đầu
tiên, người thầy đầu tiên...” NXB Thuận Hóa, 1995. Cuốn sách đã được ủy ban
toàn quốc các Hội VHNT trao tặng thưởng và NXB Giáo dục, NXB Thanh Niên tái bản.
Trường An - Huế, 30/4/2003
Nguyễn Khắc Phê
Theo https://vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét