Hà Nội – Thăng Long,
trái tim của đất nước, thủ đô ngàn năm văn hiến, từng gắn liền với
những trang sử vàng chói lọi chống ngoại xâm của dân tộc, nơi đây từ
khai thiên lập địa cũng đã là thắng cảnh đẹp quyến rũ lòng người,
khiến bất cứ ai, các tao nhân mặc khách, văn nghệ sĩ một lần qua đều
phải dừng chân chiêm ngưỡng, xao xuyến, lưu luyến đề thơ, viết nhạc…
Là những người con
của miền Tây Nam bộ, từ quê hương An Giang sông nước xa xôi ra đến Hà
Thành, nếu kể từ nhà thơ Viễn Phương với bài thơ Viếng lăng
Bác nổi tiếng, sáng tác vào tháng 4/1976, đến thế hệ các
cây bút của Hội Văn học nghệ thuật An Giang những năm 1990, như Trịnh
Bửu Hoài, Nguyễn Lập Em, Trương Công Thuốt, Hồ Thanh Điền, Lam Hồ, Lê
Thanh My … các anh chị đều có những vần thơ lai láng tình đời, những
vần thơ nặng lòng với Thăng Long – Hà Nội yêu dấu.
Nhiều người đã biết
bài thơ và bài hát cùng tên Viếng lăng Bác đều do hai
nhà thơ, nhạc sĩ miền Nam sáng tác. Có phải ngẫu nhiên mà nhà thơ
Viễn Phương và nhạc sĩ Hoàng Hiệp, hai ông đều cùng quê ở tỉnh An
Giang? Chắc hẳn một điều là đã có sự đồng cảm do cả hai đều là dân
miền Tây Nam bộ, lần đầu được đặt chân đến thủ đô Hà Nội mà những
nốt nhạc của Hoàng Hiệp đã chắp cánh, thăng hoa cho lời thơ Viễn
Phương thêm dạt dào, thiết tha ngân nga. Để hàng năm, mỗi lần đến
tháng năm, kỉ niệm ngày sinh nhật Bác, chúng ta vẫn xúc động trào
dâng khi nghe lại lời thơ, dòng nhạc :
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác. Đã thấy
trong sương hàng tre bát ngát. Ơi hàng tre xanh xanh Việt Nam! Giông tố
mưa sa đứng thẳng hàng…
…Mai về miền Nam thương trào nước mắt, mai
về miền Nam nhớ Bác khôn nguôi. Muốn làm con chim ca hót quanh lăng,
muốn làm bông hoa hương toả đâu đây, muốn làm cây tre trung hiếu chốn
này.
Viếng lăng Bác - Hoàng Hiệp
Tôi đã cùng rất
nhiều người miền Nam khi được đứng trước Ba Đình lịch sử, cũng đã
từng ngâm nga, nhẩm lời bài hát ấy để thêm kính yêu Bác Hồ, thêm
lòng tự hào dân tộc, để khi trở về miền Nam cứ thấy Thăng Long – Hà
Nội trong ta trở nên gần gũi, gắn bó như quê hương máu thịt của mình.
1. Ruộng đồng, biên cương An Giang và những con người “mang
gươm mở cõi”
Nhà thơ – chiến sĩ
Huỳnh Văn Nghệ với bài thơ Nhớ Bắc viết khoảng những
năm 1940 đã có những câu thơ hào sảng chí khí, thấm đậm tình cảm
của đồng bào chiến sĩ miền Nam hướng về thủ đô Hà Nội trong những
năm dài kháng chiến gian nan, lời thơ còn đọng mãi trong tâm hồn nhiều
thế hệ :
Ai đi về Bắc, ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long
Bài thơ của Huỳnh Văn
Nghệ nói đến những con người từ đất Bắc đã vào khai khẩn, mở mang,
giữ gìn bảo vệ mảnh đất phương Nam say bước chinh
Nam, quen mùi câu vọng cổ, nghe hương mùa sầu
riêng mà vẫn không quên câu hát quan họ, vẫn chạnh
lòng nhớ thương mùa vải đỏ.
Đồng cảm với lời thơ
của Huỳnh Văn Nghệ, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài Chủ tịch Hội liên hiệp
Văn học nghệ thuật tỉnh An Giang có bài thơ Trái tim Thăng Long sáng
tác tháng 1/2010. Bài thơ là sự thể hiện những cảm nhận về công
cuộc chinh Nam đầy gian khổ, nhọc nhằn nhưng luôn mang theo mình “trái
tim Thăng Long” của những người mang gươm mở cõi.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh đoàn người Nam tiến trên con đường vô định,
phải đối mặt với thiên nhiên hoang vu, hiểm trở, non cao, biển cả, bão
tố, gió mưa, đất đai toàn lau lách
Đoàn người xuôi về phương Nam
Vách núi cheo leo biển xanh bạc sóng
Một phương là nghìn trùng gió lộng
Một phương lau lách quét ngang trời
Không chỉ đối mặt
với non cao, rừng thiêng nước độc, phải đến gần đây, trước khi con
cháu biết làm quen, thích nghi sống chung với lũ, thì cha ông ở vùng
đất An Giang này, nhiều đời từng điêu đứng, vật lộn hằng năm với
nước lũ tràn đồng, lụt lội kéo dài, mưa bão dai dẳng
Đã bao mùa nắng gió đi qua
Bao mùa nữa lũ tràn, nước nổi
Ý chí mạnh mẽ của
những con người trong cuộc trường chinh nhọc nhằn dịu vợi, chỉ qua
vài chi tiết so sánh đã được khắc hoạ rõ nét trong thơ Trịnh Bửu
Hoài : Phương Nam mịt mùng đi như bơi / Ngủ như thức đêm bập
bùng lửa đỏ / Mồ hôi chưa kịp khô đầu ngọn cỏ / Đường chân trời thôi
thúc bến bờ xa / Đi là đi không một mái nhà / Ngày đội nắng đêm dầm
sương bạc áo / Trăng theo người chiếc thuyền cong kỳ ảo / Trăm năm vành
vạnh khoé môi cười…(Trái tim Thăng Long)
Nếu câu thơ của Huỳnh
Văn nghệ trong Nhớ Bắc từng làm xao xuyến bao người
trước hình ảnh người chiến sĩ ung dung yên ngựa, xông pha chinh Nam mà
trái tim vẫn thổn thức đập nhịp thương nhớ Thăng Long. Bài thơ chủ
yếu là những dòng cảm xúc trĩu nặng hoài niệm về miền đất Bắc.
Còn với các nhà thơ An Giang, những con người trực tiếp tắm mình
trong thiên nhiên Nam bộ, hiểu thấu cha ông thời khai phá, anh Trịnh Bửu
Hoài và chị Nguyễn Lập Em đã viết được nhiều dòng thơ chân thực,
sinh động như những thước phim nhiều gam màu, giàu cảm xúc, suy
nghiệm, ngợi ca cha ông lao động gian khổ mà vẫn vững vàng bước chân
đi tới.
Phương Nam bao la nhỏ bé phận người
Vượt núi cao chân trần bạt dốc
Băng rừng thiêng sá gì nước độc
Xẻ đồng bằng tay vung hạt mùa xanh
(Trái
tim Thăng Long – Trịnh Bửu Hoài)
Hình tượng cánh
cò quen thuộc trong ca dao được nhà thơ Nguyễn Lập Em dùng làm
biểu tượng cho ông cha, những nông dân An Giang cần cù khai phá, chai
sạm, dạn dày gió sương, tay chân gân guốc nhưng cũng rất trí tuệ, sâu
lắng trải nghiệm tình đất, tình đời :
Cánh cò trắng chao tìm chỗ đậu
Đất đồng bằng trải ngút ngàn xa…
…Đất phương nam đêm ngày vẫy gọi
Cha đi theo thấp thoáng cánh cò
Hình ảnh không gian
vùng đất và con người Tây Nam bộ thời kì đầu đặt chân đến khai khẩn
luôn hiện ra chân thật, đầy yêu thương và giàu sức sáng tạo, khám phá
trong thơ của các cây bút An Giang :
Đêm phương Nam ánh lửa bập bùng
Sự sống giấu dưới bao tầng lá mục
Bình minh là tiếng gà eo óc
Mồ hôi cha hoà cùng sương đêm
Ở đây có cả sự đồng
cam cộng khổ, tin vào sức mạnh cộng đồng, bà con, chòm xóm, những
nông dân tảo tần một nắng hai sương lam lũ khai khẩn gieo trồng. Từ tay
trắng, đất hoang con người đã biến ra thành châu thổ, mùa vàng. Trịnh
Bửu Hoài đã có những hình ảnh thơ cô đọng, nặng chiều sâu hoài
niệm, chia sẻ nhọc nhằn :
Theo dòng sông khơi mạch đất lành
Bàn tay nối bàn tay thành châu thổ
Vai kề vai đẩy lùi gian khổ
Qua hình ảnh Thấp
thoáng cánh cò, chị Nguyễn Lập Em liên tưởng đến cha ông thời
mở đất, khắc hoạ một cách chân thật, gần gũi đến cảm động về tính
cách con người phương Nam cùng bao nhọc nhằn nếm trải
Bàn chân cha từng lún trong bùn
Cánh cò bay trước mặt
Cha của thời mở đất
Ngang tàng cánh tay vung
Thương cha ông sẵn
sàng hy sinh đời mình, lao động cần cù gian lao cho đời sau cháu con
hưởng hạnh phúc. Chị Nguyễn Lập Em đã nói về những ao ước bình dị
mà sâu sắc, lớn lao của ông cha :
Cha của thời bùn ngập ống chân
Đã dạy con “bạc tiền như phấn thổ”
Niềm ao ước cho con biết chữ
Lớn hơn sản nghiệp đời mình
Do chính là những
cháu con của nông dân, của ruộng đồng An Giang, mà các anh chị đã có
được những hình ảnh thơ giàu cảm nhận về con người phương Nam, về cha
ông chân chất hào hiệp, phong trần lang bạt, trọng tình nghĩa, xem
thường danh lợi tiền tài.
Ấm lạnh nhân tình giữa phương Nam xanh
Cha phơi trải tấm lòng
Chén rượu đầy vơi, chào mời hồn hậu
Khát vọng chinh phục
tự nhiên, biến hoang vu, cỏ dại thành mùa màng, ước mơ một thuở, bao
đời được nhà thơ Nguyễn Lập Em cảm nhận tinh tế, sâu lắng thương yêu:
Cả đời người lo chuyện ấm no
Trong giấc ngủ còn vung tay gặt
Cha đã thở bằng hơi thở đất
Đem mùa màng vào cả trong mơ
Trong bài thơ khác: Nghĩ
dưới mái đình quê ngoại, chị Nguyễn Lập Em lại trăn trở về
những ứng xử hôm nay của cháu con dành cho ông cha một thời. Những
hình ảnh phong phú, sống động rất An Giang–Tây Nam bộ trong thơ chị
làm nên đặc điểm riêng, tạo sự bất ngờ thú vị cho người đọc :
Có ai đời sau
Thờ người hiền
Khắc bia ghi tên người có công đào kinh,
lập làng, mở chợ ?
Quê ngoại tôi hoang sơ, một thuở
Tiên hiền
Đắp đường, xây thành, dạy dân trồng lúa, dựng chùa cầu an
… Có ai đời sau
Giữ lấy chút tình
Thương người xưa một thời mở cõi
Thương con kinh đào bầu bạn cùng đất núi
Nhớ giống cá linh đầu nguồn
Nhớ mùa bông điên điển của vùng đất phù
sa?
Có ai đời sau
Hàng trăm năm nữa sẽ qua
Còn trong ký ức thời gian tiếng lòng thầm
gọi
Còn trong tâm tưởng mái đình, bóng núi
Chạnh nhớ cố hương ?
Trương Công Thuốt trong
bài thơ Mùa xuân một góc phương Nam, từ một mùa xuân
yên bình đến trên quê hương An Giang, thơ anh đã cảm thức bao nỗi niềm,
hoài niệm về cha ông thời mở đất, cùng nhiều thế hệ nối tiếp giữ
gìn, bảo vệ đất đai ngàn đời cho cháu con.
Ngày xưa cha ông
Tìm nơi mở cõi
Chọn vùng đất lầy
Chọn vùng đất cằn
Đói ăn hạt gạo – trời cho
Tứ thơ phát triển
với nhiều hình tượng mang tính phát hiện riêng của một người đã
từng sống, trải nghiệm, hít thở, uống nước sông Hậu, ăn gạo đồng
bằng, yêu thương hết mình quê hương, ruộng đồng An Giang. Thơ Trương Công
Thuốt đã nêu bật được đặc trưng thiên nhiên của vùng đất An Giang, vừa
ưu đãi, vừa khắc nghiệt, thách thức biết bao công sức người lao động
– những người dân An Giang kiên cường dựng nghiệp, cần cù khai phá và
chiến đấu để gìn giữ cho muôn đời sau :
Nửa năm trời mưa
Cọng súng dài hơn cây sào nạng
Cá rô to như bàn tay
Mòng đậu xanh lưng trâu
Nửa năm nắng táp đồng
Con ốc bưu vùi sâu
Đàn ong no mật
Đeo quằn nhánh tràm non…
…Con quốc kêu văng vẳng bên tai,
Dân tứ xứ về Láng Linh lấy rơm rạ trộn bùn xây thành luỹ
Rèn giáo mác…
…Nối tiếp một thời dầu dãi nắng mưa
Hai mươi mốt năm ăn bụi ngủ bờ
Ngày bắn tỉa
Đêm tập kích bằng xuồng…
Câu thơ của Trương Công
Thuốt đã nhắc đến chiến công đánh giặc Tây của người anh hùng Trần
Văn Thành (Quản Cơ Thành), với chiến công nơi căn cứ Bảy Thưa – Láng
Linh, thuộc huyện Châu Phú ngày nay. Nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, khi đến
đây dự lễ hội, thắp hương nơi đền thờ Đức Quản Cơ đã bùi ngùi nhớ
đến cha ông từng tay súng, tay cày :
Nay Láng Linh đất ủ quá trăm năm
Súng sét dầy lớp mục
Gươm còn mấy khúc
Xỉn phèn bùn
Miếu thờ người của tấm lòng
Người không để lại chân dung, hình tượng
Nén nhang vọng tưởng
Khói vào hư vô
(Bất chợt Láng
Linh – Phạm Nguyên Thạch)
Ngoài anh hùng Quản
Cơ và cố Chủ tịch Tôn Đức Thắng, người An Giang còn dành nhiều
ngưỡng mộ cho Tổng đốc binh - danh thần Thoại Ngọc Hầu. Từ năm 2009,
An Giang đã có nhiều sự kiện hướng về Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long – Hà Nội, cùng nhân lễ Kỷ niệm 180 năm ngày mất danh thần Thoại
Ngọc Hầu (1829 – 2009). Có nhiều bài thơ in trong tuyển tập Thơ viết
về An Giang (Văn nghệ An Giang xuất bản tháng 8.2008), đã thể hiện
niềm tự hào, ca ngợi công đức và công lao khai phá vùng đất phương
Nam, góp phần mở mang bờ cõi về hướng Tây Nam Tổ quốc của Thoại
Ngọc Hầu :
Vốn người đất Quảng, lại lánh mình vào Nam
qua Lào, Miên, Xiêm – lại bôn tẩu trên miền thượng đạo
Đến vùng núi Sập khuyên dân táo bạo
biến rừng rậm rạp thành ruộng thành nương
nạo vét kinh mương, mở mang thôn ấp…
Đào xong kinh Thoại Hà
lại đến núi Sam, đào kinh Vĩnh Tế !...
…Bia còn đó, núi Sam ơi
Lăng thiêng – nghi ngút dưới trời khói hương…
(Thăm
lăng Thoại Ngọc Hầu – Nguyễn Đình Ảnh)
Như vậy để
có mảnh đất An Giang đầu nguồn của hạ lưu sông Cửu Long, vùng đất thơ
mộng, hữu tình, hùng vĩ ở biên thuỳ Tây Nam, tít tắp với những cánh
đồng lúa phì nhiêu, bát ngát như hôm nay, cháu con luôn biết ơn và
nhắc nhớ, ngợi ca cha ông thời mở cõi đã vừa cầm cuốc, cày gieo
trồng, khai phá, mở mang, vừa chắc tay gươm, tay súng đổ máu giữ gìn,
và trong mỗi con người ấy, trái tim mình vẫn không ngừng đập nhịp
thương nhớ Thăng Long – Hà Nội.
2. Thăng Long – Hà Nội, ngàn năm
thương nhớ.
Các nhà thơ An Giang
tuy không có nhiều thời gian sống và làm việc tại Hà Nội, nhưng khi
có dịp dừng chân, các anh chị cũng đã kịp gửi lại nhiều cảm xúc,
nghĩ suy cho một Thăng Long xưa vừa cổ kính uy nghiêm và một Hà Nội
ngày nay đang vươn lên những tầm cao mới, xứng đáng là trái tim của
tổ quốc, là con chim đầu đàn trên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội. Cảm
nhận về Thăng Long – Hà Nội của các nhà thơ An Giang khá đa dạng.
Nhà thơ Hồ Thanh Điền
gửi gắm niềm tự hào về Hà Nội hôm nay qua ghi nhận về sự phát hiện
hoàng thành xưa giữa lòng thủ đô. Với anh, dấu tích xưa sẽ là chứng
nhân cho những hoang phế bao đời, những đổi thay xưa nay của Hà Nội
cũng là của đất nước.
Bao lâu rồi hoàng thành xưa chìm khuất
Để bây giờ lộ giữa Hà Nội – Thăng Long
Ẩn suốt ngàn năm bao la chiều kích
Đột nhiên thức dậy thấy những dáng rồng
Thơ Hồ Thanh Điền còn
thể hiện sự tìm tòi cấu tứ, qua bài thơ Cây me nước trước
đền Ngọc Sơn, anh phát hiện : Dáng phương Nam giữa
trời phương Bắc / Mỗi độ mưa phùn cây cứ bình dị xanh. Nếu nhà
thơ Viễn Phương đã từng xúc động trước hàng tre xanh xanh Việt
Nam trồng nơi lăng Bác, thì Hồ Thanh Điền lại ngẩn ngơ, để
rồi nhận ra :
Lẫn trong kiểng trước đền Ngọc Sơn
Cây me nước miền Nam lặng thầm trong chậu
lớn
Ai gieo hạt hay mang cây giống
Mang chút tình thương nhớ phương Nam ?
Bao tuổi rồi bằng cầu Thê Húc cong cong
Hay xấp xỉ cụ rùa im lìm trong khung kiếng
Sần sùi gai góc chứa bao điều không nói
lên thành tiếng…
Thơ ca và âm
nhạc đã có nhiều hình tượng thường được dùng để thể hiện tình cảm
giữa hai miền Nam–Bắc. Chúng ta từng lắng đọng, bồi hồi khi nghe bài
hát : Bóng cây Kơ nia, Gửi nắng cho em… Gửi cho miền
Bắc chút nắng ấm phương Nam, thương cái rét của thợ cày, thợ
cấy nên cứ muốn chia nắng đều cho ngoài ấy, có tình thương
tha thiết ở trong này(Phạm Tuyên). Riêng với hình ảnh Cây me
nước của Hồ Thanh Điền thì có lẽ đây là lần đầu tiên me
nước được trở thành hình tượng thơ, mà có thể nhiều người miền Bắc
không biết về loại cây thân có nhiều gai nhỏ này, dân Nam bộ quen
trồng làm hàng rào quanh nhà. Cứ gieo từng nắm hạt vào mùa mưa, cây
rất dễ thích nghi, sẽ nảy mầm, mọc lên thành hàng. Khi lên cao,
cây được cắt tỉa cho thành những bờ giậu lá mướt xanh. Thơ Thanh Điền
nói rất đúng đặc điểm cây “loài cây quême nước”, hay cũng chính
là biểu tượng cho tình cảm, nỗi lòng của nhân dân miền Nam :
Cây
âm thầm tròn vo lá xanh
Thương cây xa miền quê hai mùa nắng
Xa khung rào mùa quýt đỏ đồng bằng
Không thản nhiên với đất trời mà lớn
Ôm điều gì trong dáng kiểng bao năm
Chốn phồn hoa sao cây vẫn vô danh
Tằn tiện khí trời chắt chiu màu đất
Dáng phương Nam riêng giữa trời phương Bắc
Chúng ta thế hệ cháu
con luôn biết ơn, cảm phục tổ tiên, những người đã có công tạo dựng
nên Thăng Long – Hà Nội, để Việt Nam có một vị thế đáng tự hào cho
hôm nay và cả mai sau. Với Hồ Thanh Điền, ông còn tri ân cả những
người trồng cây vô danh, không chỉ để tô điểm, phủ xanh làm đẹp Hà
Nội, mà còn giúp bao người được lắng đọng cảm xúc, được trải lòng
cùng thủ đô yêu mến :
Lẫn trong kiểng trước đền Ngọc Sơn
Ai nghĩ ra chọn loài cây quê me nước
Ai nghĩ ra cây sẽ quen gió mùa đông bắc
Xin cảm ơn người đã cho tôi chút xao động trong hồn
Với anh Trịnh Bửu
Hoài, qua Đêm trăng trên Hồ Tây sáng tác 4/1994, Hà Nội
lại được ví như người tình trong mộng, một tình nhân “áo vàng” đắm
say, hư ảo, đầy quyến rũ như bóng nguyệt soi đêm Hồ Tây. Tình yêu của
anh dành cho Hà Nội, cho Hồ Tây đong đầy mộng mơ, lãng mạn :
Hồ chiều phai
Long lanh
Chút nắng
Em áo vàng
Trêu bóng gương soi
Đêm tĩnh lặng
Hồ tròn bóng nguyệt
Em và trăng
Hoá mộng
Hồn tôi !
Câu thơ nhịp ngắn như
những bước chân, bước đi, bước dừng, thể hiện được sự ngẩn ngơ trong
chiêm ngưỡng vẻ đẹp của đêm trăng Hồ Tây. Bài thơ không dài nhưng bộc
lộ bao cảm xúc, nỗi niềm chất chứa, những lãng đãng, huyền hoặc mà
bóng nguyệt lồng bóng nước đã “hoá mộng” hồn thơ Trịnh Bửu
Hoài.
Với Lam Hồ, nỗi
thương nhớ Hà Nội là nỗi nhớ lặng lẽ, âm thầm nhưng luôn da diết
nồng nàn. Thương nhớ đến cái rét, hương hoa sữa, từng con đường, góc
phố, dáng áo hồng, nhịp guốc khua của cô gái Tràng An… Tất cả đều
trở thành nỗi nhớ đằm sâu khi chia xa, qua bài thơ Hà Nội mùa
này trở rét:
Hà Nội đầu đông cái rét dễ thương
Hương hoa sữa bay rắc trên đường
Em vui líu ríu đôi chân sáo
Gõ vang nhịp guốc đêm mờ sương
Thơ Lam Hồ nồng nàn
thiết tha trong ghi nhận những cảm xúc bịn rin, ngậm ngùi, không muốn
rời Hà Nội
Hà Nội ba – mươi – sáu – phố – phường
Đêm này thôi làm sao ta chạm hết
Đêm này thôi làm sao biết được
Mở lòng. Chạm cái rét đầu đông
Hẳn là lời bài hát Hà
Nội mùa vắng những cơn mưa (thơ Lê Thanh Tuấn, nhạc của Trương
Quý Hải) từng quấn quýt bước chân Lam Hồ trên các phố phường, hàng
quán Hà Nội, để hình tượng “cái rét đầu đông” trong thơ
anh cũng trở thành nỗi nhớ không nguôi. Với Lam Hồ, chia tay Hà Nội
thật không dễ. Sao có thể dễ dàng rời xa tình yêu đằm thắm, thiết
tha từ bao giờ đã ngấm thành máu thịt con người :
Hà Nội là em mềm như dòng sông
Cho anh mãi mơ về đêm phố vắng
Thương tiếng guốc, nhớ hoài hương khói ấm
Ly cà phê đêm trước lúc chia tay
Thôi ta về thôi đêm sắp hết
Đường Nguyễn Du nức nở cung buồn
Ngõ nhà em về qua mấy phố
Nhà thơ nữ Lê Thanh My
(Tổng biên tập báo Thất Sơn của Hội Văn học nghệ thuật An Giang) một
thoáng đi qua Hà Nội, chị cũng đã kịp phát hiện ra nét đẹp riêng
của Hà Nội - những gam màu của tháng giêng Hà Nội long lanh,
lung linh trong cái nhìn đầy nữ tính :
Tháng Giêng Cầu Giấy xanh như ngọc
Em xoè bàn tay đếm ngón tay
Người đi từ độ bong bóng vỡ
Đồng bằng mưa giọt vắn giọt dài
Tình yêu của chị
dành cho Hà Nội cũng ngập ngừng, thổn thức, mong nhớ, đợi chờ, mang
nhiều cung bậc như là tình yêu dành cho “người ấy” vậy:
Tháng Giêng nắng tràn qua kẽ lá
Tìm hộ giùm em bóng một người
Mỗi ngày người ấy sang Cầu Giấy
Tiếng lòng em theo gió nhẹ rơi
Không kém phần lãng
mạn và đắm say như trong thơ Trịnh Bửu Hoài và Lam Hồ, tình yêu Hà
Nội trong thơ Lê Thanh My lại còn sâu lắng, nồng nàn và cũng đầy khao
khát. Với chị, chia tay Hà Nội là chia tay một tình yêu, một tình
nhân say đắm, do vậy sẽ rất khó phôi phai.
Đã tiễn nhau bằng bàn tay ấm
Chút rét ngoài hiên có sá gì
Mùa xuân đang đến bên ghềnh cửa
Đôi bờ đọng khẽ bóng hàng mi.
Và để rồi nơi đất
phương Nam, mỗi độ vào xuân, chị sẽ lại nhặt ngàn cánh lá mai,
đợi chờ hoa nở vàng gởi vào ngàn cánh nhớ đến tháng giêng – mùa
xuân - hương cốm - sắc đào nơi đất Bắc.
Hà Nội ơi phố hết nồng hoa sữa
Lai ngẩn ngơ hương cốm sắc đào
Ở đây em nhặt ngàn cánh lá
Đợi rợp mai vàng để ước ao
Tuy chưa thật nhiều,
nhưng tất cả các bài thơ của người An Giang viết về Thăng
Long – Hà Nội được giới thiệu và phân tích nêu trên đều có thể xem
là những bài thơ hay, cảm xúc tự nhiên, chân thành, sâu lắng, đã nói
hộ đồng bào An Giang, cũng là những người con đất Việt về tình yêu,
niềm tự hào ,niềm tin, niềm hy vọng dành cho Hà Nội – Việt Nam. Qua
đây giúp hiểu thêm về đất và người Hà Nội, về thủ đô ngàn năm văn
hiến…
Có thể nói cái tên
Thăng Long – Hà Nội – Hồ Chí Minh tự bao giờ đã trở thành niềm tin
yêu – hy vọng – sự quý trọng của cả dân tộc và bạn bè quốc tế. Nói
đến Thăng Long – Hà Nội là nghĩ ngay đến sự tiếp nối mở mang và giữ
gìn biên cương, bờ cõi nước Nam của biết bao thế hệ ông cha. Phải nói
từ cái tâm, cái tầm nhìn quyết định đời kinh đô Hoa Lư ra làng Cơ Xá
ven Hồ Tây để xây dựng thành Thăng Long vào năm 1010 của vua Lý Thái
Tổ, nhằm tính kế lâu dài cho con cháu. Cái gien di truyền quý hiếm
mang bản sắc Việt Nam tiếp tục được toả sáng ở Lý Thường Kiệt, ở
Trần Hưng Đạo, ở Nguyễn Trãi và đến chủ tịch Hồ Chí Minh, Bác Tôn
Đức Thắng…cùng rất nhiều người con ưu tú Việt Nam, mà hình ảnh và
cuộc đời họ là hình ảnh của cả dân tộc, những bản anh hùng ca bất
tử nối tiếp bảo vệ, phát triển Hà Nội – Thăng Long, suốt ngàn năm
tay gươm – tay liềm – tay đàn – tay súng, vừa đánh giặc – sản xuất –
vừa làm thơ, viết nhạc ngợi ca, thôi thúc, động viên… Những vần thơ
dòng nhạc viết về Thăng Long – Hà Nội – Hồ Chí Minh luôn có sức
truyền cảm vang vọng sâu xa như tiếng đàn Thạch Sanh trong cổ tích, đã
góp phần làm nên chiến công, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
khẳng định với đồng bào, dân tộc, với thế giới về chủ quyền đất
nước, vị thế của Hà Nội cũng là vị thế nước Việt Nam.
Tài
liệu tham khảo
1. Tuyển tập thơ.
2010. Ngàn năm thương nhớ. NXB Hội nhà văn Việt Nam.
Dày 2008 trang
2. Tuyển
thơ nhiều tác giả. 2008. Thơ viết về An Giang. NXB Văn
nghệ An Giang.
3. Tập
thơ – Dân ca – Hát ru… 2000. Thấp thoáng cánh cò. Hội
Văn nghệ – Trung tâm VHTT An Giang xuất bản.
4. Báo
An Giang số xuân Canh Dần 2010.
5. Tạp
chí Thất Sơn số xuân Canh Dần 2010, số 142. Hội Văn học nghệ thuật An
Giang.
6. Vũ
Đức Nghĩa. Bài viết Thăng Long – Hà Nội “Ngàn
năm thương nhớ”. Báo xuân An Giang 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét