Một dòng sông lặng lẽ theo người
Hồ sỹ Bình

Giêng hai, tôi về ngồi lại bên
sông Vu Gia. Bên một bến đò đất lở dọc bên biền bãi dâu xanh. Con sông bỗng
dưng lạ lùng đến không ngờ. Bất chợt trong mưa dông, tôi bỗng nhìn thấy một
người vẫn ngồi dưới mưa, đăm đăm nhìn sông và không nói gì. Người ấy chính là
nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Anh ngẩn ngơ điều gì không biết khiến tôi nghĩ đến
câu chuyện Giòng sông của Herman Hesse , kể chuyện một người miệt mài ra đi đến
tận chân trời để tìm cho mình một nơi để trú ngụ tâm hồn. Khi chợt nhận ra cuộc
phiêu du kia chỉ là lầm lạc vong thân, anh trở về ngồi lại bên dòng sông kia để
chỉ ngồi soi bóng. Và từ đó, anh chợt nhận ra chính mình. Con sông Vu
Gia chính là nơi chốn ra đi, và trở về ấy của Nguyễn Ngọc Hạnh :” Chỉ một
điều giữa câu thơ tôi viết. Con sông quê, bóng núi cứ chập chờn”.
Hình như ai đó đã viết:” Em cứ
nhận phần em bên lở. Và phù sa bãi bờ là sóng vỗ đời anh”, Nguyễn Ngọc Hạnh day
dứt đến gần gũi , anh nhận ra một điều từ máu thịt của dòng sông quê nhà “ Ngày
em đi hoa đỏ dòng sông. Nhớ khi bồi , thương hơn ngày lở. Không ai hát người
ơi, người ở. Mà dòng sông nấn ná đừng về”.
Cũng chính vì sự yêu mến đến
tận cùng, dòng sông không chỉ là nỗi niềm đau đáu mà xa hơn là sự khẳng định
thái độ sống giữa đời: ” Đời bao nhiêu dòng chảy. Sông chỉ một dòng thôi”.
Tôi hiểu trong sự lựa chọn dứt
khóat ấy của Nguyễn Ngọc Hạnh là sự tâm huyết đầy trách nhiệm với thơ ca, cho
dù có sự lựa chọn nào không đau đớn, mất mát: ” Khi có thơ in lần đầu. Tôi
tìm tên tôi trên bài thơ ấy. Đến bài thơ cuối đời. Tôi đọc lòng tôi vậy.”
Hành trình đi vào thơ không
những phiêu lưu mà còn sự dũng cảm cô đơn đến nặng lòng của thi sĩ, vì thế bản
thân anh phải tự trấn an, vỗ về, nhưng đáng quý là sự chấp nhận một “ cuộc lũ”
đầy tính định mệnh.
Mỗi người mỗi tạng, thơ của
Hạnh không ầm ĩ, phức tạp . Anh đến với mọi người bằng sự khiêm tốn đáng mến,
kín đáo tâm tình, bày tỏ đôi khi trở thành đơn giản. Nhưng hãy nhớ một điều “
Phải có sự táo bạo đặc biệt, đó là sự táo bạo dám đơn giản” ( Matrinov).
Trong thơ, Hạnh cảm nhiều hơn
nghĩ, thích lặng yên hơn lý giải bởi vì tâm hồn anh qua bao dâu bể, nắng hạ thu
đông, mưa nguồn chớp biển vẫn trong trẻo một tiếng lòng khẩn thiết và xao
xuyến: “Vét cạn lòng giếng ấy. Chỉ nghe tiếng gàu rơi”.
Vâng, chỉ là tiếng gàu rơi
trong thẳm sấu hun hút của hồn người nhưng đọc anh, tôi vẫn thấy hạnh phúc.
“Tôi đi trong chiều bâng khuâng. Tôi đi trong chiều mưa dằm. Cây thắm trên vùng
đất mới. Vẫn còn cơn khát nghìn năm”. Tôi lặng người đi với từ “mưa dằm”. Nó
vừa diễn đạt hòan cảnh, vừa biểu hiện tâm trạng. Có một chút gì như chơi vơi xao
xác, lại thắm thiết tình yêu giữa người và đất. Đặt trong sự phát triển cấu tứ
của tòan bài, nó nửa bình yên, nửa như xốc tới của một khát vọng.
Nếu được trọn trong ”Khi xa mặt
đất”, tôi sẽ giữ cho mình bài “Điểm danh”. Trước hết, có lẽ vì sự đồng điệu. Tôi
cũng có một thời dạy họcnên hiểu tâm trạng của một người thầy khi đến lớp –
quan hệ giữa thầy giáo và học sinh là một sợi dây giao thoa và cộng hưởng để
mỗi thành viên hòan thiện nhân cách của mình. Mối quan hệ đó dần dần trở thành
tình cảm và lỡ ai đó vắng mặt thì thật sự để lại một khỏang trống lớn trong
không khí lớp học. Hình ảnh “ điểm danh” tưởng như khô cứng ấy, trong thi pháp
Nguyễn Ngọc Hạnh bỗng trở thành một bước đột phá ngọan mục cho thơ anh. Từ hình
ảnh “thắp lửa” của người thầy đến”chia lửa”, “giữ lửa” với mọi người đều mang
một ý nghĩa biểu tượng rất cao: “ Ngọn lửa âm thầm cháy đỏ. Soi cho các em cũng
để sáng cho mình…”:
“Mỗi giờ đến lớp điểm
danhThừa một chỗ ngồi thiếu người chia lửa
Đêm về khỏang trống cháy không nguôi
Lớp học nào lớp học đời
tôi
Vắng một giây thôi sẽ không còn tôi nữa
Đâu chỉ các em là người giữ lửa
Cũng sợ tàn rơi rát bỏng tay mình”
Vắng một giây thôi sẽ không còn tôi nữa
Đâu chỉ các em là người giữ lửa
Cũng sợ tàn rơi rát bỏng tay mình”
Để rồi, tứ bài thơ bật
lên lan toả vào lòng :
“…Ngọn lửa thức cùng tôi thế đó
Đã bao lần tôi tự điểm danh tôi”
“…Ngọn lửa thức cùng tôi thế đó
Đã bao lần tôi tự điểm danh tôi”
Thời chiến tranh, nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm dứt từng khúc ruột viết ra những câu này: “ Phấn thì trắng và
máu thì lại đỏ. Nên làm sao thầy vẽ nổi lòng con…”. “Điểm danh” không chỉ có
giá trị về sự khám phá đề tài mà nó khắc họa , định hình một cách nhìn mới về
môi trường giáo dục . Đặc biệt ở mặt cấu tứ lạ và bất ngờ.
Không có một khỏang đời nặng nợ
với cửa Khổng, sân Trình, chắc Hạnh không viết được những dòng thơ đầy sức lay
động và chân tình đến thế. Đọc “Khi xa mặt đất”, tôi lại nhớ quay quắt về
dòng sông Vu Gia. Nếu lúc này về được bến sông kia chắc tôi sẽ khám phá thêm
đôi điều mới lạ về thơ của Nguyễn Ngọc Hạnh. Con sông ấy vẫn còn nhiều bí ẩn vì
đối với anh, nó vẫn lặng lẽ theo người , như một người tình chờ đợi mãi bên một
vùng dâu xanh biếc.



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét