Thơ văn Xuân Diệu
A/ Thơ Xuân Diệu
1.
Xuân Diệu, cái tôi độc đáo tích cực trong thơ.
Khác với Thế Lữ, lưu Trọng Lư, Huy Thông; cái tôi của Xuân Diệu trong thơ luôn đòi hỏi hưởng thụ những nhu cầu cuộc sống vật chất, cuộc sống tinh thần, những cảm giác, tình cảm phức tạp và mãnh liệt.
Xuân Diệu là một cái tôi ham sống đến thiết tha cuồng nhiệt:
Khác với Thế Lữ, lưu Trọng Lư, Huy Thông; cái tôi của Xuân Diệu trong thơ luôn đòi hỏi hưởng thụ những nhu cầu cuộc sống vật chất, cuộc sống tinh thần, những cảm giác, tình cảm phức tạp và mãnh liệt.
Xuân Diệu là một cái tôi ham sống đến thiết tha cuồng nhiệt:
Kẻ đựng trái tim
trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời
(Hư vô)
Thế Lữ: “Lầu thơ ông dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Xuân Diệu ví mình như cây kim bé nhỏ luôn bị nam châm đời - vạn vật hút lấy. Ông rất sợ cô đơn, sợ chết, cho nên thơ ông đã bộc lộ nhu cầu đối thoại, giao cảm với đời.
- Trời cao trêu nhử trái xanh êm
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi, ta muốn uống hồn em.
(Vô biên)
- Thà một phút huy hòang rồi chợt tắt,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy của mõi giờ tình tự.
(Giục giã)
- Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều.
(Vội vàng)
Cái tôi Xuân Diệu trong tình yêu không bao giờ rụt rè mà là một tình yêu trần tục, :đắm say và ầm ỉ”. Xuân Diệu là kẻ “uống tình yêu dập cả môi”, nhưng không thể nguôi nỗi khát thèm (triết lí hưởng thụ). Tình yêu trong thơ Xuân Diệu rất chân thành và táo bạo.
Xuân Diệu ý thức sâu sắc bản ngã cũng là cảm nhận đầy đủ nỗi cô đơn của mình, sự vô nghĩa của tồn tại bản thân trong xã hội nửa thực dân phong kiến. Vì thế cái tôi của ông như một bản lề khép mở hai chặng đời của cái tôi mâu thuẫ của ông.
Cái tôi kiêu căng Cái tôi hốt hỏang, sợ hãi
Ta là một, là riêng, là thứ nhất Hiu hắt nhỉ, bốn phương trời vò võ
Không có chi bè bạn nổi cùng ta Lạnh lùng chăng, sầu một đủnh cho von
(Hi Mã Lạp Sơn) (Hi Mã Lạp Sơn)
Từ Thơ thơ (1940) đến Gửi hương cho gio (1945), cái tôi tình yêu trong thơ Xuân Diệu có sự vận động chuyển hóa; Từ yêu (hẹn hò, tương tư) đến mời yêu (khẩn cầu rao bán).
- Mở miệng vàng, và hãy nói yêu tôi
Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi
(Mời yêu)
- Lòng anh là một cơn mưa lũ
Đã gặp lòng em là lá khoai
Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc
Lá xanh không ướt đến da ngoài.
(Nước đổ lá khoai)
Gửi hương cho gió buồn hơn Thơ thơ vì “Yêu sai duyên và mến chẳng nhằm người”. Cái tôi ấy nhận tội lỗi về mình để được yêu.
Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ
Một giấy cũng cam, một phút cũng đành
Khổ tôi hát loài người xin chớ phụ
Cô hãy dịu dàng chầm chậm thưa anh.
(Lời thơ vào tập gửi hương)
Cái tôi cô đơn về tinh thần đã chuyển hóa thành cảm giác cô đơn có tính nhục thể trực tiếp.
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo buốt xương da.
(Lời kĩ nữ)
Cái tôi sợ cô độc nên tìm cách chạy trốn chính mình.
Mái chèo đập mau, ta thóat ngoài ta!
Chín con rồng! Nổi gió để buồm xa.
(Sầu)
Trong Gửi hương cho gió, cái tôi trữ tình tỉnh táo hơn Thơ thơ. Cái tôi ấy có sự suy nghiệm, phân tích, cắt nghĩa lòng mình, cuộc đời.
Từ ngàn xưa, người ta héo, than ôi
Vì mang phải những sắc lòng tươi quá.
(Tặng thơ)
Xuân Diệu vẫn hằng sống, ham sống, không trốn chạy.
Nhưng nghĩ lại: sống vẫn hơn là chết
Gần hay xa yêu mến ngọt ngào thay.
2. Phương thức biểu hiện cái tôi trữ tình: Cái tôi tình yêu trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945.
a. Cái tôi trữ tình nhập thân vào đối tượng phản ánh.
- Nhập thân vào hình tượng trữ tình: người kĩ nữ.
Lòng kĩ nữ cũng sầu như biển lớn
Chớ để riêng em phải gặp lòng em
(Lời kĩ nữ)
- Hay nhập vai, hóa thân vào người thiếu nữ trong sự gắn bó tình người.
Mây vẩn từng không chim bay đi
(...)
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
(Đây mùa thu tới)
b. Cái tôi được biến hóa qua nhiều hình ảnh.
- Qua đại từ nhân xưng: sự phân thân để hóa thân đầy biến họat.
Tôi là con chim đến tà núi lạ
Ngứa cổ hót chơi
(Lời thơ vào tập gửi hương)
Đây là cái tôi nghệ sĩ ca hát tự do dâng tặng tiếng hát cho đời với muôn vàn sắc điệu nhưng không đòi hỏi đời trả công.
- Cái tôi hóa thân thành “nai” đứng sầu bóng tối trong cái lưới thời gian và không gian.
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối
(Khi chiều giăng lưới)
- Cái tôi con thuyền, cánh chim.
Anh chỉ là con chim bơ vơ
Lạnh lùng bay giữa gió, sương mưa.
(muộn màng)
- Cái tôi chiếc đảo:
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
(Nguyệt cầm)
- Cái tôi Hi Mã Lạp Sơn:
Ta là một... nổi cùng ta.
(Hi Mã Lạp Sơn)
- Cái tôi - cây kim bé nhỏ:
Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm
(Cảm xúc)
- Cái tôi tình yêu trong thơ Xuân Diệu vừa vật chất vừa tinh thần, vừa trần tục vừa lí tưởng, vừa đắm say vừa ngờ vực, gần guic mà cách xa.
Tôi đã yêu khi đã hết tuổi rồi
Không xương vóc chỉ huyền hò bóng dáng
(Đa tình)
không tìm được hạnh phúc trong đời thực, cái tôi tình yêu trong thơ Xuân Diệu đi tìm hạnh phúc trong tưởng tượng.
Kẻ đa tình không cần đủ thịt da
Khi chết rồi thì tôi sẽ yêu ma.
(Đa tình)
c. Sự đồng nhất cái tôi trữ tình với thiên nhiên.
Thiên nhiên là một phương thức biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu. Đay là sự đồng nhất vốn có của thơ ca dân gian.
- Huyền diệu
- Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si.
(Vội vàng)
- Một tối bầu trời đắm sắc mây
Cây tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy
Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ
Nghiêng xuống làm rêu, một tối đầy.
(Với bàn tay ấy) 3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Xuân Diệu.
a. Con người mộng tưởng. Đây là kiểu con người ngỡ, tưởng, tưởng tượng, mơ,... trong tình yêu, trong thiên nhiên và giữa cuộc đời.
Ta chỉ sống để hoài hoài tưởng nhớ
Xuân Diệu cảm nhận “đời cay đắng đang giơ vuốt”, giết chết tuổi xuân và hạnh phúc tình yêu, nên tìm cách thóat khỏi trần gian bằng mộng tưởng hay thi vị hóa trần gian bằng mộng tưởng.
Chỉ là gió, nhưng lòng tôi thả bướm
Thân phất phơ cho hơi thở vừa hiền;
Chỉ là trăng, nhưng tôi thấy thần tiên
Như tuyệt diệu: bởi hồn tôi xanh quá.
(Chỉ ở lòng ta)
Phổ biến nhất là mộng tưởng tình yêu:
Một phút gặp thôi là muôn buổi nhớ
Vài giây khơi trong mối vạn ngày theo
Mộng bay chơi nhằm một buổi trời chiều
Gặp tóc biếc, tưởng sắc ngày xưa nở.
(Yêu mến)
b. Con người cô đơn lạc loài.
- Khách không ở lòng em cô độc quá
Chớ để riêng em phải gặp lòng em.
(Lời kĩ nữ)
- Tôi là... sầu bóng tối
Hai tay chín móng bám vào đời
(Hư vô)
Thế Lữ: “Lầu thơ ông dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Xuân Diệu ví mình như cây kim bé nhỏ luôn bị nam châm đời - vạn vật hút lấy. Ông rất sợ cô đơn, sợ chết, cho nên thơ ông đã bộc lộ nhu cầu đối thoại, giao cảm với đời.
- Trời cao trêu nhử trái xanh êm
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi, ta muốn uống hồn em.
(Vô biên)
- Thà một phút huy hòang rồi chợt tắt,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy của mõi giờ tình tự.
(Giục giã)
- Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều.
(Vội vàng)
Cái tôi Xuân Diệu trong tình yêu không bao giờ rụt rè mà là một tình yêu trần tục, :đắm say và ầm ỉ”. Xuân Diệu là kẻ “uống tình yêu dập cả môi”, nhưng không thể nguôi nỗi khát thèm (triết lí hưởng thụ). Tình yêu trong thơ Xuân Diệu rất chân thành và táo bạo.
Xuân Diệu ý thức sâu sắc bản ngã cũng là cảm nhận đầy đủ nỗi cô đơn của mình, sự vô nghĩa của tồn tại bản thân trong xã hội nửa thực dân phong kiến. Vì thế cái tôi của ông như một bản lề khép mở hai chặng đời của cái tôi mâu thuẫ của ông.
Cái tôi kiêu căng Cái tôi hốt hỏang, sợ hãi
Ta là một, là riêng, là thứ nhất Hiu hắt nhỉ, bốn phương trời vò võ
Không có chi bè bạn nổi cùng ta Lạnh lùng chăng, sầu một đủnh cho von
(Hi Mã Lạp Sơn) (Hi Mã Lạp Sơn)
Từ Thơ thơ (1940) đến Gửi hương cho gio (1945), cái tôi tình yêu trong thơ Xuân Diệu có sự vận động chuyển hóa; Từ yêu (hẹn hò, tương tư) đến mời yêu (khẩn cầu rao bán).
- Mở miệng vàng, và hãy nói yêu tôi
Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi
(Mời yêu)
- Lòng anh là một cơn mưa lũ
Đã gặp lòng em là lá khoai
Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc
Lá xanh không ướt đến da ngoài.
(Nước đổ lá khoai)
Gửi hương cho gió buồn hơn Thơ thơ vì “Yêu sai duyên và mến chẳng nhằm người”. Cái tôi ấy nhận tội lỗi về mình để được yêu.
Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ
Một giấy cũng cam, một phút cũng đành
Khổ tôi hát loài người xin chớ phụ
Cô hãy dịu dàng chầm chậm thưa anh.
(Lời thơ vào tập gửi hương)
Cái tôi cô đơn về tinh thần đã chuyển hóa thành cảm giác cô đơn có tính nhục thể trực tiếp.
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo buốt xương da.
(Lời kĩ nữ)
Cái tôi sợ cô độc nên tìm cách chạy trốn chính mình.
Mái chèo đập mau, ta thóat ngoài ta!
Chín con rồng! Nổi gió để buồm xa.
(Sầu)
Trong Gửi hương cho gió, cái tôi trữ tình tỉnh táo hơn Thơ thơ. Cái tôi ấy có sự suy nghiệm, phân tích, cắt nghĩa lòng mình, cuộc đời.
Từ ngàn xưa, người ta héo, than ôi
Vì mang phải những sắc lòng tươi quá.
(Tặng thơ)
Xuân Diệu vẫn hằng sống, ham sống, không trốn chạy.
Nhưng nghĩ lại: sống vẫn hơn là chết
Gần hay xa yêu mến ngọt ngào thay.
2. Phương thức biểu hiện cái tôi trữ tình: Cái tôi tình yêu trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945.
a. Cái tôi trữ tình nhập thân vào đối tượng phản ánh.
- Nhập thân vào hình tượng trữ tình: người kĩ nữ.
Lòng kĩ nữ cũng sầu như biển lớn
Chớ để riêng em phải gặp lòng em
(Lời kĩ nữ)
- Hay nhập vai, hóa thân vào người thiếu nữ trong sự gắn bó tình người.
Mây vẩn từng không chim bay đi
(...)
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
(Đây mùa thu tới)
b. Cái tôi được biến hóa qua nhiều hình ảnh.
- Qua đại từ nhân xưng: sự phân thân để hóa thân đầy biến họat.
Tôi là con chim đến tà núi lạ
Ngứa cổ hót chơi
(Lời thơ vào tập gửi hương)
Đây là cái tôi nghệ sĩ ca hát tự do dâng tặng tiếng hát cho đời với muôn vàn sắc điệu nhưng không đòi hỏi đời trả công.
- Cái tôi hóa thân thành “nai” đứng sầu bóng tối trong cái lưới thời gian và không gian.
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối
(Khi chiều giăng lưới)
- Cái tôi con thuyền, cánh chim.
Anh chỉ là con chim bơ vơ
Lạnh lùng bay giữa gió, sương mưa.
(muộn màng)
- Cái tôi chiếc đảo:
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
(Nguyệt cầm)
- Cái tôi Hi Mã Lạp Sơn:
Ta là một... nổi cùng ta.
(Hi Mã Lạp Sơn)
- Cái tôi - cây kim bé nhỏ:
Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm
(Cảm xúc)
- Cái tôi tình yêu trong thơ Xuân Diệu vừa vật chất vừa tinh thần, vừa trần tục vừa lí tưởng, vừa đắm say vừa ngờ vực, gần guic mà cách xa.
Tôi đã yêu khi đã hết tuổi rồi
Không xương vóc chỉ huyền hò bóng dáng
(Đa tình)
không tìm được hạnh phúc trong đời thực, cái tôi tình yêu trong thơ Xuân Diệu đi tìm hạnh phúc trong tưởng tượng.
Kẻ đa tình không cần đủ thịt da
Khi chết rồi thì tôi sẽ yêu ma.
(Đa tình)
c. Sự đồng nhất cái tôi trữ tình với thiên nhiên.
Thiên nhiên là một phương thức biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu. Đay là sự đồng nhất vốn có của thơ ca dân gian.
- Huyền diệu
- Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si.
(Vội vàng)
- Một tối bầu trời đắm sắc mây
Cây tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy
Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ
Nghiêng xuống làm rêu, một tối đầy.
(Với bàn tay ấy) 3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Xuân Diệu.
a. Con người mộng tưởng. Đây là kiểu con người ngỡ, tưởng, tưởng tượng, mơ,... trong tình yêu, trong thiên nhiên và giữa cuộc đời.
Ta chỉ sống để hoài hoài tưởng nhớ
Xuân Diệu cảm nhận “đời cay đắng đang giơ vuốt”, giết chết tuổi xuân và hạnh phúc tình yêu, nên tìm cách thóat khỏi trần gian bằng mộng tưởng hay thi vị hóa trần gian bằng mộng tưởng.
Chỉ là gió, nhưng lòng tôi thả bướm
Thân phất phơ cho hơi thở vừa hiền;
Chỉ là trăng, nhưng tôi thấy thần tiên
Như tuyệt diệu: bởi hồn tôi xanh quá.
(Chỉ ở lòng ta)
Phổ biến nhất là mộng tưởng tình yêu:
Một phút gặp thôi là muôn buổi nhớ
Vài giây khơi trong mối vạn ngày theo
Mộng bay chơi nhằm một buổi trời chiều
Gặp tóc biếc, tưởng sắc ngày xưa nở.
(Yêu mến)
b. Con người cô đơn lạc loài.
- Khách không ở lòng em cô độc quá
Chớ để riêng em phải gặp lòng em.
(Lời kĩ nữ)
- Tôi là... sầu bóng tối
(Khi chiều giăng lưới)
- Tôi run như lá tái như đông
Trán chảy mồ hôi, mắt lệ phồng
Năm đầy, tháng đời tôi đã đến
Trước bờ lạnh lẽo của hư không.
(Hư vô)
- Dẫu tin tưởng: chung một đời một mộng
Em là em: anh vẫn cứ là anh
Có thể nào qua Vạn Lí Trường Thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.
(Xa cách)
c. Con người sống nhiệt thành.
- Thà một phút huy hòang rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
(Giục giã)
- Sống tòan tâm, tòan trí, tòan hồn
Sống tòan thân, và thức nhọn giác quan
Sống, tất cả sống, chẳng bao giờ đủ
Chất chen kho mộng chắc với tình bền.
(Thanh niên)
Sáng tạo nghệ thuật để dâng hiến làm đẹp cho đời:
Thơ tôi đó gió lùa đem tỏa khắp
Và hồn tôi mời mọc bạn chia nhau.
(Gửi hương cho gió)
4. Không gian nghệ thuật trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió:
a. Không gian vườn:
- Không gian vườn trừu tượng:
Không muốn đi ở mãi dưới vườn trần
- Không gian vườn tâm tưởng của chủ thể trữ tình:
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi
- Không gian vườn thiên nhiên cụ thể:
+ Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
+ Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
+ Tóc liễu buông xanh quá mĩ miều
Bên màu hoa mới, thắm như kêu.
+ Vàng tươi thược dược cánh hơi xòe
Ứng rạng phù dung nghiêng mặt hoa
=> Bút pháp tạo hình không gian thay đổi:
không gian cảm thấy nghe thấy.® -Từ không gian nhìn thấy
không gian kép (vườn - trăng).® - Từ không gian đơn (vườn)
- Từ không gian hẹp thành không gian rộng:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi
b. Không gian con đường: (đông vui, vắng vẻ, thưa thớt)
- Con đường: không gian vui vầy đám đông, tâm trạng đám đông:
Một luồng ánh sáng xô qua mặt
Thắm cả đường đi rực cả đời
- Con được sở hữu hóa của cá thể thi nhân:
Cuộc đời cũng đìu hiu như dặm khách
Mà tình yêu như quán trọ bên đường.
- Con đường tình yêu:
Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
c. Không gian cá nhân: nhà-căn phòng: Tương tư chiều, Xa cách. Không gian cá nhân trong thơ Xuân Diệu bao giờ cũng lạnh lẽo khác với không giam vũ trụ bao giờ cung ấm áp.
d. Không gian dòng sông: Một không gian chở nặng tâm tư.
- Buồn ỏ sông xanh nghe đã lại
- Đã vắng người sang những chuyến đò
- Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.
e. Không gian nắng: Đây là không gian của một kiểu tương tư đậm nhạt của màu nắng: Nắng vàng, nắng rọi, nắng xôn xao, nắng dào, nắng chói, nắng xưa, nắng mới,... Nắng không được xây dựng theo chiều không gian thẳng đứng mà theo chiều ngang có sự lan tỏa nhẹ nhàng:
- Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
- Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tối buồn không hiểu vì sao tôi buồn
Nhiều khỏang không gian nắng chuyển hóa thành không gian tâm hồn:
- Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì
- Nắng nhỏ cành vương vấn.
g. Không gian sương: không gian dung hòa giữa mưa và nắng, không gian chứa đựng những uẩn khúc tâm hồn thi nhân khó lí giải, nhưng chất chở cánh hồn lãng mạn của nhà thơ:
- Nghe hát ân tình giữa gió sương
- Non xa khởi sự nhạt sương mờ
- Mênh mông ai lạc giữa vòm sương
- Sương dẫu chưa buông lệ ảm trời.
- Mắt buồn đâu đã khép trong sương.
h. Không gian cái tôi - cái tôi là một phạm trù thời gian.
- Đó là một không gian tương đối cụ thể: Núi xa, Hi Mã Lạp Sơn (Núi), Nguyệt cầm, Trăng (Chiếc đảo-hồn tôi).
- Đó là không gian trừu tượng hơn là không gian khát vọng: Sầu, Mênh mông.
B/ Văn xuôi Xuân Diệu- Tôi run như lá tái như đông
Trán chảy mồ hôi, mắt lệ phồng
Năm đầy, tháng đời tôi đã đến
Trước bờ lạnh lẽo của hư không.
(Hư vô)
- Dẫu tin tưởng: chung một đời một mộng
Em là em: anh vẫn cứ là anh
Có thể nào qua Vạn Lí Trường Thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.
(Xa cách)
c. Con người sống nhiệt thành.
- Thà một phút huy hòang rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
(Giục giã)
- Sống tòan tâm, tòan trí, tòan hồn
Sống tòan thân, và thức nhọn giác quan
Sống, tất cả sống, chẳng bao giờ đủ
Chất chen kho mộng chắc với tình bền.
(Thanh niên)
Sáng tạo nghệ thuật để dâng hiến làm đẹp cho đời:
Thơ tôi đó gió lùa đem tỏa khắp
Và hồn tôi mời mọc bạn chia nhau.
(Gửi hương cho gió)
4. Không gian nghệ thuật trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió:
a. Không gian vườn:
- Không gian vườn trừu tượng:
Không muốn đi ở mãi dưới vườn trần
- Không gian vườn tâm tưởng của chủ thể trữ tình:
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi
- Không gian vườn thiên nhiên cụ thể:
+ Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
+ Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
+ Tóc liễu buông xanh quá mĩ miều
Bên màu hoa mới, thắm như kêu.
+ Vàng tươi thược dược cánh hơi xòe
Ứng rạng phù dung nghiêng mặt hoa
=> Bút pháp tạo hình không gian thay đổi:
không gian cảm thấy nghe thấy.® -Từ không gian nhìn thấy
không gian kép (vườn - trăng).® - Từ không gian đơn (vườn)
- Từ không gian hẹp thành không gian rộng:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi
b. Không gian con đường: (đông vui, vắng vẻ, thưa thớt)
- Con đường: không gian vui vầy đám đông, tâm trạng đám đông:
Một luồng ánh sáng xô qua mặt
Thắm cả đường đi rực cả đời
- Con được sở hữu hóa của cá thể thi nhân:
Cuộc đời cũng đìu hiu như dặm khách
Mà tình yêu như quán trọ bên đường.
- Con đường tình yêu:
Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
c. Không gian cá nhân: nhà-căn phòng: Tương tư chiều, Xa cách. Không gian cá nhân trong thơ Xuân Diệu bao giờ cũng lạnh lẽo khác với không giam vũ trụ bao giờ cung ấm áp.
d. Không gian dòng sông: Một không gian chở nặng tâm tư.
- Buồn ỏ sông xanh nghe đã lại
- Đã vắng người sang những chuyến đò
- Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.
e. Không gian nắng: Đây là không gian của một kiểu tương tư đậm nhạt của màu nắng: Nắng vàng, nắng rọi, nắng xôn xao, nắng dào, nắng chói, nắng xưa, nắng mới,... Nắng không được xây dựng theo chiều không gian thẳng đứng mà theo chiều ngang có sự lan tỏa nhẹ nhàng:
- Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
- Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tối buồn không hiểu vì sao tôi buồn
Nhiều khỏang không gian nắng chuyển hóa thành không gian tâm hồn:
- Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì
- Nắng nhỏ cành vương vấn.
g. Không gian sương: không gian dung hòa giữa mưa và nắng, không gian chứa đựng những uẩn khúc tâm hồn thi nhân khó lí giải, nhưng chất chở cánh hồn lãng mạn của nhà thơ:
- Nghe hát ân tình giữa gió sương
- Non xa khởi sự nhạt sương mờ
- Mênh mông ai lạc giữa vòm sương
- Sương dẫu chưa buông lệ ảm trời.
- Mắt buồn đâu đã khép trong sương.
h. Không gian cái tôi - cái tôi là một phạm trù thời gian.
- Đó là một không gian tương đối cụ thể: Núi xa, Hi Mã Lạp Sơn (Núi), Nguyệt cầm, Trăng (Chiếc đảo-hồn tôi).
- Đó là không gian trừu tượng hơn là không gian khát vọng: Sầu, Mênh mông.
1. Phấn thông vàng và Trường ca.
Hai tác phẩm có đặc điểm chung: tính trữ tình và thể hiện hình ảnh cái tôi trữ
tình Xuân Diệu đắm say sự sống mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu.
Phấn
thông vàng là một tập truyện. Truyện là cái tôi của Xuân Diệu trong
thơ nhưng không trực tiếp thể hiện như Thơ thơ. Có sự khác biệt này
là
do phương thức tự sự khác với trữ tình. Đây là
một tập truyện mà Xuân Diệu không che đậy tính chủ quan của mình. Ngay từ lời
nói đầu truyện Phấn thông vàng, nhà văn viết:
“Người viết văn đem ghi lại sự đã xẩy ra,
nhưng viết xong họ thấy rằng họ chỉ chép những âm điệu của lòng mình. Mà câu
chuyện vẫn còn đó để làm vì để lấy cớ! Câu chuyện cũng như một cái giá để áo,
một cái giàn hoa... Kể gì cái truyện! Miễn là có những ý tưởng chảy thành tràng
giang, những tình cảm chảy ra, một bóng chiều ôm ấp một trái tim đang đập theo
nhịp đời... Truyện ư? Một ít truyện ở ngoài cũng đủ gợi trăm truyện trong cõi
sống bên trong. Tâm hồn người có biết bao nhiêu là truyện... Truyện chỉ là đời,
mà đời phải nhường chỗ cho mơ, cái bên ngoài phải lùi lại sau nội tâm, sau nỗi
lòng”.
“Trong phần nhiều truyện của tôi, vai
chính không phải là một người mà là nỗi lòng, một tình ý, hay một con vật, một
đồ dùng... Nói vật, nói dồ dùng nhưng chẳng qua là lấy đó làm cái giá, cái giàn
để mắc, để cài vào đó nỗi lòng mình. Phấn thông vàng nào có truyện gì đâu? Đó
chỉ là một cách gửi hương cho gió... Cái Giây, Cái giây không đứt, sự thật của
lòng người và sự thực của ái tình...”
Nguyên lí về tính chủ quan của sáng tác cũng
là do khát vọng muốn là mình, muốn bộc lộ cái tôi tư do, độc đáo không giống
ai. Văn chương lãng mạn không nhằm đạt đến ý nghĩa phổ biến như văn chương thời
cổ điển, mà cốt ở tính cá thể hóa một ý nghĩ nào đó, càng khác đời càng khác
người càng hay: “Nhưng chàng (nhạc sĩ) cần phải đàn một điệu nhạc mới, thần
tiên, kì ảo, làm rung động được mặt trời và xê dịch được mặt trăng”.
Tác giả Phấn thông vàng đối
lập Á Đông và Tây Âu cũng chỉ nhằm đối lập lãng mạn đời thường:
“Châu thường buột miệng than vãn:
- Có lẽ ta là một linh hồn Âu Tây lạc giữa thế giới âm ỉ, thầm trộm, dấu che này, lọt giữa Á Đông mù mịt xứ chiêm bao, đem lửa bừng sáng để làm sôi nổi một sự thản nhiên không sôi nổi bao giờ, đem gió băn khoăn uốn cong xáo trộn những hồ đứng vững”.
- Có lẽ ta là một linh hồn Âu Tây lạc giữa thế giới âm ỉ, thầm trộm, dấu che này, lọt giữa Á Đông mù mịt xứ chiêm bao, đem lửa bừng sáng để làm sôi nổi một sự thản nhiên không sôi nổi bao giờ, đem gió băn khoăn uốn cong xáo trộn những hồ đứng vững”.
Nhân vật lãng mạn thường bất chấp lí trí,
khinh ghét những gì là đúng mực, điều độ, mực thước là những cái vốn được coi
trọng, đề cao trong văn học cổ điển:
“Giá như Phan ồn ào, nghịch ngợm, ranh
mãnh lên như người ta thì hơn... Cái gì cũng buồn như nhau, dãy phố lặng lẽ,
gian nhà không một chút đặc biệt của ông chủ, căn phòng không sáng của bạn tôi,
và nhất là ở tầng dưới nới tôi thường đi qua có hai cô gái thế nào ấy. Và cái
gì cũng lỡ cỡ; chúng nó xấu hẳn đi, buồn hẳn đi có oọc không? Mọi vật đều buồn
một cách lưng chừng...”
“Đọan đường chạy qua đó không đủ rộng để
làm một đường phố, cũng không đủ hẹp để làm một con hẻm, đá không chịu lởm chởm
mà chỉ hơi gập ghềnh. Nhà không chịu xấu, không chịu tồi mà chưng một vẻ phong
lưu nghèo nghèo một ít... Anh sáng không chịu sáng... cả ngày chỉ là một buổi
chiều dài”.
“Giá họ đừng hiền lành như thế thì hơn,
giá họ điếm đàng hung dữ, trơ trẽn, lẳng lơ, tôi sẽ được vui vì thấy họ có
việc. Tôi sẽ được cười nếu thấy họ đi xe đạp, Tôi sẽ được ngạc nhiên nếu được
thấy ho đỏm đáng chọc ghẹo bất cứ người nào... Tôi ước được gặp họ chửi mắng
người ở, đánh đập con sen, tôi mong họ ngoa mồm lên, lay động hai cái cặp môi
đắp son đỏ chóet. Tôi muốn mặt họ bự phấn, tôi cầu cho họ làm bộ làm tịch, lố
lăng bao nhiêu cũng được; thà họ làm cho tôi ghét còn hơn làm cho tôi thương”
(Tỏa nhị kiều).
Với người xưa, học hành là một việc nghiêm
túc, đáng trọng; người dạy học cũng được tôn vinh; nhưng với Xuân Diệu - một
tâm thức lãng mạn thì không phải như thế:
“Khi tôi đi học bỗng nhiên đang lật sách,
tôi ngừng tay lại nghĩ tội nghiệp mấy ông giáo dạy tôi. Ông Viên, cái trán cao
như một cái lầu, xanh xao như một tấm đá; ông Bính, miệng cười như khóc, méo
một cái méo hĩa hùng; ông Thinh, hai tay chốc chốc kéo lại cái quàn tây như sợ
bị tuột; ông Lịnh sau vài tiếng nói lại thở “hớ”, “hớ !”, nghĩa là: Hiểu không
? Nghe chưa ? Sao họ buồn cười thế !
Một thứ ánh sáng nhạt nhạt buồn bao trùm mấy ông giáo kia; tuy đương còn trẻ nhỏ, tôi vẫn cảm nghe cái không khí ngẩn ngơ ở trong lớp học ở giữa cuộc đời. Và nhất là tôi đã thấy họ như những cái máy” (Thương vay).
Một thứ ánh sáng nhạt nhạt buồn bao trùm mấy ông giáo kia; tuy đương còn trẻ nhỏ, tôi vẫn cảm nghe cái không khí ngẩn ngơ ở trong lớp học ở giữa cuộc đời. Và nhất là tôi đã thấy họ như những cái máy” (Thương vay).
Đấy là chuyện người dạy, còn chuyện người
học:
“Chàng trẻ đày mình trong sự học hành,
trong sự chinh phục ngôi thứ, bằng cấp và chỗ làm; và khi chàng thành công là
lúc thất bại hẳn”. Truyện kết thúc bằng mấy dòng: “Trời ơi, chủ nhật xuân hát
ngoài kia, sao ông Hậu Tư năm nay mới 23 tuổi đầu, không chạy ra đuổi vài con
bướm” (Truyện người học trò tốt).
Về tình yêu, nhân vật lãng mạn cũng đòi hỏi
tuyệt đối hơn nữa, như Xuân Diệu đã từng viết trong Thơ thơ:
Ở truyện Cái giây không đứt, Xuân
Diệu đã đưa ra một quan niệm về tình yêu:
“Luôn luôn thắc mắc, lo toan không ngớt,
xôn xao không ngừng, yêu như thế tức là đổ dầu cho đèn sáng mãi, thêm củi cho
lửa không tàn, là giữ màu tươi thắm, thêm bao thú vị cho tình yêu”
Phấn thông vàng có thể coi
như một tùy bút, một loại truyện ý tưởng. Bởi ở loại truyện này tác giả đã trực
tiếp gởi gắm vào đấy những nghĩ suy, tình cảm của mình:
“Chàng yêu không đủ sao ?... Chỉ sợ ta
nghèo không đủ tình để phung phí, ta không thèm nghĩ thiên hạ cho lại, nhưng ta
cứ cho, tự khắc thiên hạ cũng đem đến cho ta. Mà nếu thiên hạ không cho thì đã
sao chứ ? Phấn thông vàng đã làm đẹp không gian, tình của ta sẽ thêu mộng cho
tấm vải xòang xĩnh của cuộc đời, bầu trời sẽ vang động những tiếng dàn hát,
những phấn vàng của lòng yêu; và cuộc đời, nhờ bọn đa tình sẽ kém bề hững hờ,
nhạt tẻ”
Truyện Sợ chính là để đối
lập tâm lí lãng mạn với tâm lí thường tình trong tình yêu:
“Tình chàng mãnh liệt đi phăng tới trước
càng lâu càng rộng lớn, để một ngày kia ra nơi biển cả, được biết cuộc sống
phong ba của những làn sóng không nghỉ bao giờ”. Nhưng Phi người chàng yêu thì
ngược lại: “Phi giản dị, Á Đông đến nổi nàng không tự biết nàng cơ; thế bảo
nàng biết Châu sao nổi. Một lần nàng nghĩ thóang qua: “Dễ thường anh Châu của
ta hơi điên” nàng thấy sợ, nàng thường tưởng đặt chân lên một hoang đảo nào,
hay tình cờ đứng giữa sa mạc... Phi không dám đưa chén nước của nàng đổi lấy
một bể triều lên. Nàng sợ...nàng sợ...”
Nhân vật Châu đã nghĩ sự thất bại trong
đường tình của mình:
“Tại tôi. Tôi đương nhiều lí tưởng, đầy
thanh niên, tôi hăng hái sôi nổi quá, nàng như một cành lá hổ ngươi tôi không
biết dỗ dành, chậm rãi, tôi chỉ giỏi mãnh liệt, mà không biết cái thuật nhẹ
nhàng... Tôi động mạnh vào cây, lá hổ ngươi khép lại rồi.”
Tình cảm thiên nhiên chiếm một vị trí quan
trọng trong văn chương lãng mạn. Thiên nhiên trong Phấn thông vàng thấm
nhuần cảm xúc và được cảm nhận theo chủ quan độc đáo của nhà văn:
“Nhị vàng của thông, ồ ! Tình yêu của
thông đó chăng ? Gió hơi se, tiếng ngân hữu ý, khí trời thành một sự đổi trao,
muôn cây chắc đương khoái lạc vì đương sống việc ái tình, đó là nhị thông thóat
hoa đực bay đi tìm hoa cái. Rừng thông sung sướng, ái tình tản mạn, ôm ấp không
gian: Ây là rừng thông đang yêu”.
Ở truyện Thân thể:
“Một cái thích miên man lan ở dưới trời,
có lẽ không gian quặn lại vì sung sướng. Nước. Nước xanh và chảy ánh vàng yên
lặng. Yên lặng và đầy nhớ nhung”.
Ở Phấn thông vàng, văn phong đầy
thanh sắc, cuồng phóng, rực rỡ, đập mạnh vào tưởng tượng, có sức gợi cảm lớn:
“Đọc thư tình ! Trong mùa thu ! Để thấy
ngón tay cảm động như đàn trên phím giấy, để nghe những chữ, những tiếng mở ra
như những hộp đựng ngọc, hé ra như những cánh môi. Một làn gió nhỏ đến tự chân
trời xa xôi, thổi mơn man vào giấy; thế là tai ta, đã chờ sẵn, vội vàng nhầm
tưởng giọng nói thân yêu. Ôi một bức thư tình !”
2. Văn xuôi Xuân Diệu là sự phát triển
những tứ thơ của ông.
- Tứ “Xuân không mùa”, “xuân vĩnh viễn”: “Thu
cũng là một mùa xuân (...) xuân tới thu là hai bình minh trong một năm (...)
Đầu xuân là bình minh ấm của lòng tôi, đầu thu là bình minh mát của lòng tôi”
(Thu)
- Tứ sức sống tuổi trẻ và tình yêu:
“Tay chân bằng mầm, mắt bằng hồ, lòng bằng lửa, miệng bằng hoa” (Giã từ
tuổi nhỏ).
- Tứ tình đơn phương: Phấn thông vàng
rải rác nhị vàng vào trời đất mênh mông.
- Tứ quan niệm về nghệ sĩ: “Thi sĩ ghé vào
dân gian trọ một vài đêm, tìm đôi an ủi... Và họ lấy chưa vừa ư, thì người thi
sĩ trẻ tự tay lấy vào cái lõi sống còn của mình, để mà phân phát” (Chú lái khờ).
3. Văn xuôi Xuân Diệu tả đời cặn kẽ hơn
thơ.
- Tỏa nhị kiều: Đời ao tù. Đời
là một cái ao phẳng lặng. Con người hiền như một hột cơm, sống nhạt
nhòa vô nghĩa và trống rỗng giữa cuộc đời. Đây là quan niệm nghệ
thuật con người bị đời đánh lưới. “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
– Chẳng biết đi đâu đứng sầu bóng tối” (Khi chiều giăng lưới).
- Thương vay: Hình ảnh bà lão quê
nghèo khổ một mình thui thủi trên bóng tối của con đường vắng. Sống là một
cuộc độc hành dài ngày, lê thê giữa mê cung đời. Trên con đường độc
hạnh đó, con người chưa hề nhận rõ khuôn mặt của hạnh phúc.
Tóm lại, văn xuôi Xuân Diệu là một thứ chủ
nghĩa hiện thực trữ tình, một dòng phụ lưu trong sáng tác thơ của ông. Sau năm
1945, văn xuôi Xuân Diệu hướng về nhân dân. Cái tôi trong văn ông là cái tôi
công dân (Triều lên những bút kí và tùy bút).
4. Vận dụng kĩ thuật thơ vào văn xuôi:
những chi tiết, hình ảnh đẹp, ngụ nhiều ý nghĩa vừa đầy chất thơ, chất nhạc.
“Cây bàng lại trút lá, say sưa. Cành của
nó nhẹ bớt đi, chọc lên cao hơn. Bây giờ tôi mới nhìn kĩ: thì ra ở những cành
trụi nhất, đã ló những chút mầm xanh rồi” (Mùa xuân thắng).
“Lá không vàng, lá không rụng, lá lại thêm
xanh; ấy là mùa thu đã về (...) Thu không phải là mùa sầu. Ấy chính là mùa
yêu, mùa yêu nhau bằng linh hồn, mùa những linh hồn yêu mến nhau” (Thu).
Hoàng Dục





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét