I. Vấn đề khái niệm
1. Từ
nguyên:
- (1) “Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử”, (2) “Những hoạt động của con người nhằm thoả
mãn các nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát)” (Hoàng Phê (chủ biên), Từ
điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 1996, tr. 1062)
- “Mọi sự cần dùng về đời sống có tổ chức của một dân tộc như: kinh tế,
pháp luật, mĩ thuật, văn chương,...” (Lê Văn Đức (chủ biên), Việt Nam tự điển, quyển hạ, Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1970, tr. 1749)
pháp luật, mĩ thuật, văn chương,...” (Lê Văn Đức (chủ biên), Việt Nam tự điển, quyển hạ, Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1970, tr. 1749)
- “Toàn thể những thành tựu của loài người trong sản xuất, xã hội và tinh thần”
(Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 846)
- “Sản vật tinh thần của loài người về phương diện pháp luật, kinh tế, nghệ thuật,
v.v.” (Nguyễn Văn Khôn, Hán Việt từ điển, Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1969,
1061)
- Văn hoá là phương thức giáo hoá con người – Văn trị giáo hoá. (Lưu Hướng, năm
77-6 TCN)
- Văn hoá: “Culture (Anh), Kultur (Đức), Kultura (Nga); tất cả có gốc từ
Cultus animi (La tinh) có nghĩa là trồng trọt tinh thần. Vậy cultus nghĩa
là văn hoá được hiểu ở hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khái
thác tự nhiên và giáo dục đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật
tự nhiên, và họ có những phẩm chất tốt đẹp” (Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ
sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục (tái bản lần thứ ba), Hà Nội, 2001, tr.
17-18)
2. Khái
niệm của các nhà nghiên cứu:
-
“Văn hoá chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người
cho nên ta có thể nói rằng: Văn hoá tức là sinh hoạt” (Đào Duy Anh,Việt Nam văn
hoá sử cương, Nxb Bốn Phương tái bản, Sài Gòn, 1951, tr. 13)
-
“Văn hoá, theo nghĩa rộng, là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, bao hàm
cả kĩ thuật, kinh tế,... để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một
thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái
vai trò của con người trong vũ trụ đó, với hệ thống những chuẩn mực,
những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm ... tạo nên phong cách diễn tả
tri thức và nghệ thuật của con người.” (Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam
tìm tòi và suy nghĩ, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 2000, tr. 35-36)
-
“Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” (Trần Ngọc Thêm,Cơ sở văn
hoá Việt Nam, Trường ĐHTH, Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, tr. 20)
-
“Không có cái gì gọi là văn hoá cả và ngược lại bất kì vật gì cũng có cái mặt
văn hoá. Văn hoá là một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và
thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc
người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét cá biệt giữa
các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hoá khác
nhau là độ khúc xạ” (Phan Ngọc, Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb
Văn hoá thông tin, Hà nội, 1993, tr.105)
-
“Khái niệm văn hoá mà chúng ta thường dùng trong nghiên cứu, lí luận lại chỉ những
thức có quan hệ đến văn minh tinh thần như triết học, sử học, văn học, mĩ học,
âm nhạc và cả tôn giáo, v.v... Có một khái niệm rộng hơn về văn hoá, đó là tất
cả những gì loài người sáng tạo ra, là tổng hoà của văn minh vật chất và văn
minh tinh thần, bao gồm các chế độ điển chương trong đời sống chính trị, sự
trao đổi sản xuất trong đời sống kinh tế, việc ăn mặc trong đời sống xã hội,
.v.v... Nghĩa là tất cả những gì con người bằng lao động thể xác và lao động
trí não tạo nên. Lại còn có cái gọi là văn hoá tầng sâu, chỉ kết tinh của tinh
thần dân tộc được hình thành trong những điều kiện tự nhiên và điều kiện lịch sử
nhất định, cũng có nghĩa là đặc trưng văn hoá và bộ mặt tinh thần của một dân tộc.”
(Ngô Chính Vinh, Đại cương lịch sử văn hoá Trung Quốc, Nxb Văn hoá thông
tin, Hà nội, 1994, tr. 16).
- “Văn hoá là một tổng thể phức tạp, bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, pháp luật, phong tục và cả những năng lực thói quen mà con người đạt
được trong xã hội” (Taylor – nhà nhân loại học người Anh – sách Văn hoá
nguyên thuỷ, xb năm 1871, dẫn theo Ngô Chính Vinh, Đại cương lịch sử văn
hoá Trung Quốc, Nxb Văn hoá thông tin, Hà nội, 1994, tr. 16).
- “Văn hoá, về phương diện động, là cuộc phát triển tiến bộ mà không ngừng của
những tác dụng xã hội về kĩ thuật, kinh tế, tư tưởng, nghệ thuật, xã hội tổ chức,
những tác dụng ấy tuy liên tục mà vẫn riêng nhau. Về phương diện tĩnh thì văn
hoá là trạng thái tiến bộ của những tác dụng ấy ở một thời gian nhất định, và tất
cả các tính chất mà tất cả các tác dụng ấy bày ra ở các xã hội loài người”
(Félix Sartiaux, dẫn theo Đào Duy Anh trong lời tựa cuốn Việt Nam văn hoá
sử cương)
- “Văn hoá là tấm gương nhiều mặt phản chiếu đời sống và nếp sống của một cộng
đồng dân tộc” (Dẫn theo Trần Quốc Vượng, 100 năm giáo thoa văn hoá Đông
Tây).
- “Tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều là văn hoá. Bản năng là “vốn
có”, do đó cũng là thiên nhiên” (Dẫn theo Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hoá
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 28). Như vậy, có thể gọn lại: văn hoá
là sự chế ngự bản năng.
3. Khái
niệm văn hoá của UNESCO:
“Văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần
và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một
nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và
những tín ngưỡng. Văn hoá đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân.
Chính văn hoá làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có
lí tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hoá mà con
người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa
hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt
những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên nhữnh công trình vượt trội lên bản thân” (Tuyên
bố về những chính sách văn hoá - Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì từ
26-7 đến 6-8- 1982 tại Mehico)
II. Những nét đẹp văn
hoá dân tộc Việt
1. Cơ
sở hình thành:
Theo GS Trần Quốc Vượng: “Trên diễn trình lịch sử nước Việt, dân tộc Việt
nhận nhiều ảnh hưởng văn hoá – chính trị Trung Hoa Đông Á song vẫn luôn luôn
duy trì nền tảng văn hoá, môi cảnh địa – nhân văn Đông Nam Á của mình” (Văn hoá
Việt Nam tìm tòi suy nghĩ, tr. 24). Có thể tóm tắt quan điểm của ông về sử hình
thành bản sắc văn hoá Việt Nam như sau:
-
Địa - văn hoá tạo nên bản sắc văn hoá bắc bán đảo, gió mùa; đã phán ánh rõ nét
trong huyền khởi nguyên Họ Hồng Bàng (Mẹ tổ Âu Cơ (tiên) từ núi xuống lấy Bố tổ
Lạc Long Quân (rồng) từ biển lên, hôn nhân bản địa và biển vào, trồng lúa nước.
-
Địa - lịch sử: Nam tiến, Cảng thị (đầu CN – TK XVII), Ảnh hưởng Phật Giáo.
2. Hằng
số văn hoá của người Việt.
a. Tính biểu trưng văn hoá:
- Văn hoá là một biểu tượng:
+ Leslie A. White (nhà văn hoá người Mĩ): “Văn hoá là tên
được đặt cho một lớp sự vật và sự việc phụ thuộc vào năng lực tượng trưng hoá
và được xem xét trong văn cảnh ngoài cơ thể con người”, “Văn hoá như là mô hình
và hình thái”. Những biểu trưng văn hoá do con người tạo ra đó là chiếc chìa
khoá kì diệu của văn hoá con người. Nắm được chìa khoá đó có thể nắm bắt được tất
cả bí mật của văn hoá con người... biểu trưng là ngôn ngữ của văn hoá” (Dẫn
theo Nguyễn Duy Bắc, tlđd, tr. 25)
+ R. Alleau (nhà văn hoá học người Mĩ): “Truyền thống văn
hoá truyền lại những biểu tượng” (Dẫn theo Nguyễn Duy Bắc, tlđd, tr. 26)
+ Trần Quốc Vượng: “Văn hoá là một hệ chuẩn mực,
mật mã, biểu tượng”.
+ Phan Ngọc: “Con người tạo ra vật mới theo mô hình có sẵn
trong đầu óc anh ta. Do đó anh ta cùng một lúc sống hai thế giới, thế giới thực
tế và cái thế giới biểu tượng vì con người không có cách lao động nào ngoài
cách làm theo cái mô hình có sẵn trong thế giới biểu tượng cho nên vai trò của
văn hoá là cực kì to lớn đối với đời sống thực tế” (Một nét bản sắc văn hoá Việt
Nam, tr. 39)
+ E. Durkheim: “Con người sáng tạo biểu trưng văn hoá, dùng
biểu trưng để thống nhất con người, để thông tin, lưu truyền, để tác động và để
thấy được diện mạo tinh thần của con người” (Dẫn theo Nguyễn Duy Bắc, tlđd, tr.
27)
- Những biểu tượng văn hoá của người Việt: Theo GS Trần Quốc Vượng có ba
biểu Tượng: Nước, Rồng, Tre.
“Tính sông nước là một đặc trưng văn hoá Việt Nam (...) người Việt đã đồng
nhất không gian xã hội, cộng đồng lãnh thổ, Tổ quốc của họ với nước. Và phổ xã
hội của họ mở rộng dần, bắt đầu từ cái nhà qua họ hàng, xóm làng tới quốc gia -
nước” (Trần Quốc Vượng, tlđd, tr. 42)
Theo các tác giả sách “Cơ sở văn hoá Việt Nam” thì "Môi cảnh nhân
văn Địa – văn hoá" đã tạo nên “hai tính trội của văn hoá Việt Nam truyền
thống: sông nước và thực vật (Văn minh thực vật, văn minh thôn dã, văn hoá lúa
nước)” (tr. 35).
Chính hai nét trội văn hoá này đã in đậm trong đời sống hằng ngày của
con người Việt Nam như ở, đi lại và ăn. Tính thực vật còn thể hiện trong đời sống
tâm linh là tục thờ Cây. Yếu tố nước mang tính chất phổ quát nên đã tạo sắc
thái riêng biệt trong kĩ thuật canh tác, cư trú, ở, ăn, tâm lí ứng xử, sinh hoạt
cộng đồng, tín ngưỡng tôn giáo,...
b. Hằng
số văn hoá:
- Khả năng ứng biến: Nhu – cương, công - thủ.
- Duy tình, duy cảm, duy nghĩa trong quan hệ người - người, người - tự
nhiên, người - tâm linh; thái độ trách nhiệm với thế hệ sau thể hiện qua khái
niệm phúc đức.
- “Văn hoá Việt Nam là một văn hoá nhân cách luận” (Phan Ngọc, Thử
xét văn hoá – văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2000, tr. 20),
“Nhân cách là sự đánh giá của chính mình về mình, cũng như của những người
khác về mình, căn cứ không phải vào của cải, chức vụ, tài năng, học vấn, vào mọi
cái tôi có sẵn, mà căn cứ vào quan hệ đối xử giữa tôi với mọi người” (Phan Ngọc,
Sđd, tr. 21)
- “Văn hoá Việt Nam cũng là một nền văn hoá đầy nữ tính. Nó giàu tình
thương, lòng nhân hậu, đức hi sinh, ít thiên về lí trí mà thiên về tình cảm. Nó
đậm chất trữ tình, thiên về âm nhạc và thơ ca. Nó rất ưa chuộng cái đẹp, sự tô
điểm, thích những đường cong mềm mại, những âm điệu luyến láy (ngay cả trong giọng
hát đàn ông). Văn hoá nữ tính có một sức mạnh đặc biệt - sức mạnh của cái mềm, của
nước.” (Lê Ngọc Trà, Thách thức của sáng tạo thách thức của văn hoá, Nxb
Thanh niên, Hà Nội, 2002, tr. 293), “Trong văn hoá Việt Nam Còn có một yếu tố nữa
cũng bắt nguồn từ bản thân đời sống dân tộc và có một ý nghĩa quan trọng đối với
số phận dân tộc – đó là tính cộng đồng (...). Tinh thần cộng đồng ấy quả
là một sức mạnh lớn lao, tăng cường khả năng chống đỡ tự vệ, giứp dân tộc ta vượt
qua bao cơn thử thách, tồn vong” (Lê Ngọc Trà, Sđd, tr. 293-294)
- Chính từ môi cảnh nhân văn, sinh quyển văn hoá, Địa – văn hoá nói trên
đã hình thành những không gian văn hoá đặc thù Việt Nam: Gia đình - làng
- nước
Chính từ những thành tố văn hoá này mà giáo sư Phan Ngọc đã viết: “Tôi gọi
văn hoá Việt Nam là văn hoá 4 F, bởi vì bốn thành tố quyết định diện mạo của
văn hoá này có thể dịch ra bốn từ tiếng Anh bắt đầu bằng chữ F. Đó là Tổ quốc
(Fatherland), Gia đình (Family), Thân phận (Fate), và Diện mạo (Face)” (Phan Ngọc, Thử
xét văn hoá – văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2000, tr.
24).
III. Mối quan hệ giữa
văn hoá và văn học.
Bakhtin: “Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hoá một thời đại trong đó nó tồn tại, không được tách nó khỏi các bộ phận khác của văn hoá, cũng như không được như người ta vẫn làm, là trực tiếp gắn nó với các nhân tố xã hội; kinh tế vượt qua đầu văn hoá. Những nhân tố xã
Bakhtin: “Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hoá một thời đại trong đó nó tồn tại, không được tách nó khỏi các bộ phận khác của văn hoá, cũng như không được như người ta vẫn làm, là trực tiếp gắn nó với các nhân tố xã hội; kinh tế vượt qua đầu văn hoá. Những nhân tố xã
hội,
kinh tế tác động tới toàn bộ văn hoá nói chung và chỉ thông qua văn hoá, cùng với
văn hoá mới tác động tới văn học” (Một số vấn đề cần lưu ý khi
nghiên cứu văn học quá khứ, Các vấn đề của khoa học văn học, Nxb
KHXH, Hà Nội, 1990, tr. 316), “Văn hoá như một dòng thác chảy mạnh mẽ ở bề sâu,
thật sự có tác động đến nhà văn,...” (tài liệu đã dẫn, tr. 363)
M. Kagan: “Nghệ thuật một mặt trở thành sự tự ý thức của văn hoá, mặt khác trở thành mã (code) của văn hoá” (Tiếp cận văn hoá học để nghiên cứu nghệ thuật sân khấu, Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, số 3/1983, tr. 95)
Goeth: “Nếu xem xét một tài năng lớn thì luôn biết rằng con người ấy đã biết vận dụng những giá trị ưu việt của cha ông mình và chính nhờ vậy anh ta đã trở thành vĩ đại” (Dẫn theo Nguyễn Duy Bắc, Bản sắc dân tộc trong thi ca cách mạng, tr. 8)
G.N. Pôpêlôp: “Dấu ấn của các truyền thống văn hóa dân tộc ... cách này hay cách khác đều in đậm ở chủ thể lời nói trữ tình” (Dẫn luận nghiên cứu văn học).
Phương Lựu: “Tính dân tộc lại càng xuyên thấm trong việc thể hiện hình tượng và nhân vật, kể cả nhân vật trữ tình với những tâm hồn và tính cách dân tộc” (Tìm hiểu nguyên lí văn chương, tr. 154)
IV. Sự thể hiện văn hoá trong thơ ca dân tộc
1. Tình yêu quê hương đất nước qua những biểu tượng làng:
a. Xã hội Việt Nam cổ truyền dựa trên cơ sở nền văn minh nông nghiệp, nền văn minh lúa nước lấy tổ chức làng làm nền tảng. Làng là chiếc nôi văn hoá của người Việt. Làng là nơi sinh tồn của những con người: cùng chỗ, cùng huyết thống và cùng lợi ích. Và Nước chính là sự kéo dài mở rộng của làng. Làng là đơn vị tế bào của nước” (Phan Ngọc, Tâm lí người Việt Nam trong lịch sử, tr. 36).
b. Làng là một sinh quyển có những hằng số gần gũi, thân thiết và gắn bó: Cây đa, bến nước, con đò, dòng sông, cánh đồng, cánh cò, non xanh nước biếc, nhịp chày giã gạo, tiếng chuông chùa, trẻ mục đồng, tiếng sáo diều, hội hè, truyền thống phong tục tập quán khác,... Chính những biểu tượng văn hoá làng quê đã đi vào văn học trở thành những hình tượng nghệ thuật thấm đậm tình quê của các nhà văn nhà thơ.
“Làng anh có con sông êm
Cho em tắm mát những đêm mùa hè”
(Ca Dao)
“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dường không
Theo hồi kèn mục trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”
M. Kagan: “Nghệ thuật một mặt trở thành sự tự ý thức của văn hoá, mặt khác trở thành mã (code) của văn hoá” (Tiếp cận văn hoá học để nghiên cứu nghệ thuật sân khấu, Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, số 3/1983, tr. 95)
Goeth: “Nếu xem xét một tài năng lớn thì luôn biết rằng con người ấy đã biết vận dụng những giá trị ưu việt của cha ông mình và chính nhờ vậy anh ta đã trở thành vĩ đại” (Dẫn theo Nguyễn Duy Bắc, Bản sắc dân tộc trong thi ca cách mạng, tr. 8)
G.N. Pôpêlôp: “Dấu ấn của các truyền thống văn hóa dân tộc ... cách này hay cách khác đều in đậm ở chủ thể lời nói trữ tình” (Dẫn luận nghiên cứu văn học).
Phương Lựu: “Tính dân tộc lại càng xuyên thấm trong việc thể hiện hình tượng và nhân vật, kể cả nhân vật trữ tình với những tâm hồn và tính cách dân tộc” (Tìm hiểu nguyên lí văn chương, tr. 154)
IV. Sự thể hiện văn hoá trong thơ ca dân tộc
1. Tình yêu quê hương đất nước qua những biểu tượng làng:
a. Xã hội Việt Nam cổ truyền dựa trên cơ sở nền văn minh nông nghiệp, nền văn minh lúa nước lấy tổ chức làng làm nền tảng. Làng là chiếc nôi văn hoá của người Việt. Làng là nơi sinh tồn của những con người: cùng chỗ, cùng huyết thống và cùng lợi ích. Và Nước chính là sự kéo dài mở rộng của làng. Làng là đơn vị tế bào của nước” (Phan Ngọc, Tâm lí người Việt Nam trong lịch sử, tr. 36).
b. Làng là một sinh quyển có những hằng số gần gũi, thân thiết và gắn bó: Cây đa, bến nước, con đò, dòng sông, cánh đồng, cánh cò, non xanh nước biếc, nhịp chày giã gạo, tiếng chuông chùa, trẻ mục đồng, tiếng sáo diều, hội hè, truyền thống phong tục tập quán khác,... Chính những biểu tượng văn hoá làng quê đã đi vào văn học trở thành những hình tượng nghệ thuật thấm đậm tình quê của các nhà văn nhà thơ.
“Làng anh có con sông êm
Cho em tắm mát những đêm mùa hè”
(Ca Dao)
“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dường không
Theo hồi kèn mục trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”
(Trần Nhân Tông – Thiên Trường vãn vọng)
“Ba lần trong chiêm bao tìm về làng cũ
Luống đem nước mắt lẫn máu thấm mồ tổ tiên”
(Nguyễn Trãi – Trong thuyền về Côn Sơn cảm tác)
Cảnh vật trong thơ Hồ Xuân Hương thường là những chùa chiền hang động, thắng cảnh quen thuộc: “Hang Cắc cớ”, đèo Ba Dội”, chùa Quán Sứ”, Động Hương Tích”, Hang Thanh Hoá”, “chùa Thầy”,...
Nguyễn Khuyến đã quyện chặt hồn mình vào trong những biểu trưng sinh thái làng cảnh vùng Hà Nam cũ: Chim chóc, cây cối, hoa lá, con trâu, con vịt, con gà, con chó, đường làng, ngõ trúc, ao chuôm,...
Phong trào Thơ Mới bức tranh quê hiện lên giàu có phong phú và thấm đượm cảm xúc chân thật tình cảm quê hương của các nhà thơ Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Tế Hanh, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Anh thơ,...
Hà Minh Đức: “Dường như trên chất liệu thi ca này hồn thơ dễ nhập vào nguồn mạch của truyền thống dân tộc, nói lên phần thiết tha, quyến luyến một cách chân thực nhất và cũng là trong sáng nhất của đời mình. Ở các tác giả này nông thôn không chỉ là đề tài, là cảnh vật, phong tục tập quán mà sâu xa hơn là mảng hồn thơ trong trẻo nhất ở mỗi người bắt gặp hồn quê hương, đất nước” (Thời gian và trang sách)
Trong thơ ca Cách mạng, làng quê lại có những hằng số mới:
- Mái rạ:
“Bao năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh tiếng mõ đêm trường
(...)
Làng xuôi, xóm ngược mái rạ như nhau”
(Hồng Nguyên - Nhớ)
“Làng tôi nghèo nho nhỏ bên sông
Gió bấc lạnh lùng. Thổi vào mái rạ”
(Hoàng Trung Thông – Bao giờ trở lại)
“Mái tranh ơi hỡi mái tranh
Trải bao mưa nắng mà thành quê hương”
(Trần Đăng Khoa)
- Gắn với mái rạ nghìn năm thương thuộc ấy là những cảm nhận về cây lúa, hạt gạo, ổ rơm,...
“Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm
Của những cọng rơm xơ xác gầy gò
Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa
Cái mộc mạc lên hương của lúa
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người”
(Nguyễn Duy – Hơi ấm ổ rơm)
“Trong cuộc đời bình yên tự ngàn xưa
Gần gũi nhất vẫn là cây lúa”
(Xuân Quỳnh - Cỏ dại)
“Anh nhớ không những con đường quê ta
Thân thương từ thuở nhỏ
Bao năm tháng đi về trên ngõ
Bao hoàng hôn rậm rịch bước chân trâu
Đường lập loè đom đóm bay cao
Ta ghé cửa nhà nhau xin lửa
Nghe hoa súng bờ ao se sẽ nở
Da diết lòng hương dịu tự vườn cau”
(Lưu Quang Vũ - Những con đường quê ta)
“Bản mường ơi chiều xuống rồi nhẹ nắng
Mà lúa vàng trĩu nặng cả đồng ta
Đàn bò mộng đang về ngang suối vắng
Suối bỗng vàng như chở nắng chiều xa”
(Lê Anh Xuân - Nắng chiều)
- Con đê làng:
“Con đê dài
Mặt đê in dấu chân ta từ những ngày thơ ấu
...
Con đê làng
Mùa chiêm ta phơi rơm
Mùa tằm em đem phơi kén
...
Con đê là nôi của chim
Ra đê thả diều
Tiếng sáo tre gọi mùa lúa chín”
(Văn Thảo Nguyên – Con đê làng)
“Đất nước nơi nào cũng gặp những con đê
Từ đời Lý, đời Trần... không nhớ nữa
Bao thế hệ qua rồi, đê vẫn đó
...
Sông thì quen từ thuở trong nôi
Những bờ bãi xóm làng tôi đã thuộc
Màu đỏ thẫm củ khoai, màu vàng nhạt bắp ngô”
(Xuân Quỳnh – Thơ dọc triền sông)
- Dòng sông: Sông là hằng số của ý niệm về quê hương của người Việt.
“Quê hương Việt Nam mườn mượt những cánh đồng
Mỗi con người gắn bó một dòng sông”
(Bế Kiến Quốc - Những dòng sông)
“Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre”
(Tế Hanh - Nhớ con sông quê hương)
“Sông Hồng ơi! Dông bão chẳng thay màu
Rùa thần thoại vẫn nhô lưng đội tháp”
(Bằng Việt - Trở lại trái tim mình)
“Bạn cho tôi tranh bạn vẽ sông Đà
Bông lau tím, buổi chiều quê, bến bãi...
Câu thơ cũ trời mây tôi ngắm mãi
Sóng đôi bờ ru vỗ tuổi thơ xa.
Không về núi. Tôi vẫn nhìn thấy núi
Cái màu xanh đáy nước sắc Ba Vì!
Ra thế đó những sắc màu của đất
Vẫn chìm sâu trong đáy mắt người đi.”
(Ngô Quân Miện – Tranh sông Đà)
- Con cò:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mù che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
(Nguyễn Đình Thi)
“Xưa mẹ ru con
Cũng tiếng võng này
Cánh cò trắng muốt
Bay bay bay bay”
(Trần Đăng Khoa - Tiếng võng kêu)
“Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay:
“Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ
Con cò Đồng Đăng...”
Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ con chơi rồi lại ngủ
“Con cò ăn đêm
Con cò xa tổ
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng...”
Ngủ yên, ngủ yên cò ơi chớ sợ
Cành có mềm mẹ đã sẵn tay nâng
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết con cò con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ, chẳng phân vân
Ngủ yên, ngủ yên, ngủ yên
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi,
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.
Mai khôn lớn, con theo cò đi học
Cánh cò trắng bay theo gót đôi chân
Lớn lên, lớn lên, lớn lên,...
Con làm gì? Con làm thi sĩ
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn.
Dù ở gần con
Dù ở xa con, lên rừng xuống bể,
Cò sẽ tìm con
Cò sẽ yêu con
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con
À ơi!
Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi.
Ngủ đi ngủ đi
Cho cánh cò cánh vạc
Cho cả sắc trời
đến hát
Quanh nôi.
(Chế Lan Viên – Con cò)
- Cây tre:
Tre xanh của Nguyễn Duy
“Một cành tre nhỏ đủ làm quê hương”
(Lưu Trùng Dương – Mây biên giới)
“Lá tre thon như những con thuyền nhỏ
Trôi bềnh bềnh như bỗng giấc mơ xưa”
(Quang Huy - Kỉ niệm màu xanh)
2. Tình nước qua biểu tượng về Tổ Quốc trong chiều sâu văn hoá lịch sử:
a. Trong thơ văn xưa:
- Nguyễn Trãi nhận thức sâu sắc gương mặt riêng của Tổ quốc: Gương mặt văn hoá qua Bình Ngô đại cáo.
- Phan Bội Châu:
“Non sông riêng một nước nhà
Làm cho nổi tiếng Lạc Hồng
Vẻ văng dòng dõi con Rồng cháu Tiên”
“Ba lần trong chiêm bao tìm về làng cũ
Luống đem nước mắt lẫn máu thấm mồ tổ tiên”
(Nguyễn Trãi – Trong thuyền về Côn Sơn cảm tác)
Cảnh vật trong thơ Hồ Xuân Hương thường là những chùa chiền hang động, thắng cảnh quen thuộc: “Hang Cắc cớ”, đèo Ba Dội”, chùa Quán Sứ”, Động Hương Tích”, Hang Thanh Hoá”, “chùa Thầy”,...
Nguyễn Khuyến đã quyện chặt hồn mình vào trong những biểu trưng sinh thái làng cảnh vùng Hà Nam cũ: Chim chóc, cây cối, hoa lá, con trâu, con vịt, con gà, con chó, đường làng, ngõ trúc, ao chuôm,...
Phong trào Thơ Mới bức tranh quê hiện lên giàu có phong phú và thấm đượm cảm xúc chân thật tình cảm quê hương của các nhà thơ Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Tế Hanh, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Anh thơ,...
Hà Minh Đức: “Dường như trên chất liệu thi ca này hồn thơ dễ nhập vào nguồn mạch của truyền thống dân tộc, nói lên phần thiết tha, quyến luyến một cách chân thực nhất và cũng là trong sáng nhất của đời mình. Ở các tác giả này nông thôn không chỉ là đề tài, là cảnh vật, phong tục tập quán mà sâu xa hơn là mảng hồn thơ trong trẻo nhất ở mỗi người bắt gặp hồn quê hương, đất nước” (Thời gian và trang sách)
Trong thơ ca Cách mạng, làng quê lại có những hằng số mới:
- Mái rạ:
“Bao năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh tiếng mõ đêm trường
(...)
Làng xuôi, xóm ngược mái rạ như nhau”
(Hồng Nguyên - Nhớ)
“Làng tôi nghèo nho nhỏ bên sông
Gió bấc lạnh lùng. Thổi vào mái rạ”
(Hoàng Trung Thông – Bao giờ trở lại)
“Mái tranh ơi hỡi mái tranh
Trải bao mưa nắng mà thành quê hương”
(Trần Đăng Khoa)
- Gắn với mái rạ nghìn năm thương thuộc ấy là những cảm nhận về cây lúa, hạt gạo, ổ rơm,...
“Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm
Của những cọng rơm xơ xác gầy gò
Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa
Cái mộc mạc lên hương của lúa
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người”
(Nguyễn Duy – Hơi ấm ổ rơm)
“Trong cuộc đời bình yên tự ngàn xưa
Gần gũi nhất vẫn là cây lúa”
(Xuân Quỳnh - Cỏ dại)
“Anh nhớ không những con đường quê ta
Thân thương từ thuở nhỏ
Bao năm tháng đi về trên ngõ
Bao hoàng hôn rậm rịch bước chân trâu
Đường lập loè đom đóm bay cao
Ta ghé cửa nhà nhau xin lửa
Nghe hoa súng bờ ao se sẽ nở
Da diết lòng hương dịu tự vườn cau”
(Lưu Quang Vũ - Những con đường quê ta)
“Bản mường ơi chiều xuống rồi nhẹ nắng
Mà lúa vàng trĩu nặng cả đồng ta
Đàn bò mộng đang về ngang suối vắng
Suối bỗng vàng như chở nắng chiều xa”
(Lê Anh Xuân - Nắng chiều)
- Con đê làng:
“Con đê dài
Mặt đê in dấu chân ta từ những ngày thơ ấu
...
Con đê làng
Mùa chiêm ta phơi rơm
Mùa tằm em đem phơi kén
...
Con đê là nôi của chim
Ra đê thả diều
Tiếng sáo tre gọi mùa lúa chín”
(Văn Thảo Nguyên – Con đê làng)
“Đất nước nơi nào cũng gặp những con đê
Từ đời Lý, đời Trần... không nhớ nữa
Bao thế hệ qua rồi, đê vẫn đó
...
Sông thì quen từ thuở trong nôi
Những bờ bãi xóm làng tôi đã thuộc
Màu đỏ thẫm củ khoai, màu vàng nhạt bắp ngô”
(Xuân Quỳnh – Thơ dọc triền sông)
- Dòng sông: Sông là hằng số của ý niệm về quê hương của người Việt.
“Quê hương Việt Nam mườn mượt những cánh đồng
Mỗi con người gắn bó một dòng sông”
(Bế Kiến Quốc - Những dòng sông)
“Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre”
(Tế Hanh - Nhớ con sông quê hương)
“Sông Hồng ơi! Dông bão chẳng thay màu
Rùa thần thoại vẫn nhô lưng đội tháp”
(Bằng Việt - Trở lại trái tim mình)
“Bạn cho tôi tranh bạn vẽ sông Đà
Bông lau tím, buổi chiều quê, bến bãi...
Câu thơ cũ trời mây tôi ngắm mãi
Sóng đôi bờ ru vỗ tuổi thơ xa.
Không về núi. Tôi vẫn nhìn thấy núi
Cái màu xanh đáy nước sắc Ba Vì!
Ra thế đó những sắc màu của đất
Vẫn chìm sâu trong đáy mắt người đi.”
(Ngô Quân Miện – Tranh sông Đà)
- Con cò:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mù che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
(Nguyễn Đình Thi)
“Xưa mẹ ru con
Cũng tiếng võng này
Cánh cò trắng muốt
Bay bay bay bay”
(Trần Đăng Khoa - Tiếng võng kêu)
“Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay:
“Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ
Con cò Đồng Đăng...”
Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ con chơi rồi lại ngủ
“Con cò ăn đêm
Con cò xa tổ
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng...”
Ngủ yên, ngủ yên cò ơi chớ sợ
Cành có mềm mẹ đã sẵn tay nâng
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết con cò con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ, chẳng phân vân
Ngủ yên, ngủ yên, ngủ yên
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi,
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.
Mai khôn lớn, con theo cò đi học
Cánh cò trắng bay theo gót đôi chân
Lớn lên, lớn lên, lớn lên,...
Con làm gì? Con làm thi sĩ
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn.
Dù ở gần con
Dù ở xa con, lên rừng xuống bể,
Cò sẽ tìm con
Cò sẽ yêu con
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con
À ơi!
Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi.
Ngủ đi ngủ đi
Cho cánh cò cánh vạc
Cho cả sắc trời
đến hát
Quanh nôi.
(Chế Lan Viên – Con cò)
- Cây tre:
Tre xanh của Nguyễn Duy
“Một cành tre nhỏ đủ làm quê hương”
(Lưu Trùng Dương – Mây biên giới)
“Lá tre thon như những con thuyền nhỏ
Trôi bềnh bềnh như bỗng giấc mơ xưa”
(Quang Huy - Kỉ niệm màu xanh)
2. Tình nước qua biểu tượng về Tổ Quốc trong chiều sâu văn hoá lịch sử:
a. Trong thơ văn xưa:
- Nguyễn Trãi nhận thức sâu sắc gương mặt riêng của Tổ quốc: Gương mặt văn hoá qua Bình Ngô đại cáo.
- Phan Bội Châu:
“Non sông riêng một nước nhà
Làm cho nổi tiếng Lạc Hồng
Vẻ văng dòng dõi con Rồng cháu Tiên”
(Ái quần)
“Năm ngàn vạn họ đồng tông
Da vàng máu đỏ con dòng Hùng Vương”
“Năm ngàn vạn họ đồng tông
Da vàng máu đỏ con dòng Hùng Vương”
(Ái chủng)
- Nguyễn Quyền:
“Hồn xưa dòng dõi Lạc Long
Con nhà Nam Việt, người trong giống vàng”
- Nguyễn Quyền:
“Hồn xưa dòng dõi Lạc Long
Con nhà Nam Việt, người trong giống vàng”
(Kêu
hồn nước)
b. Trong thơ văn nay:
Trong cảm nhận và miêu tả hình tượng Tổ quốc ở phương diện lịch sử văn hoá, các nhà thơ hiện đại đã sáng tạo nhiều mô-típ, biểu tượng, hình ảnh về sự hình thành của dân tộc.
- Nòi giống Lạc Hồng:
“Đất này là đất quê hương
Cùng chung máu thịt giang sơn Lạc Hồng”
(Xuân miễn – Gói đất miền Nam)
“Đất là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
(Nguyễn Khoa Điềm - Đất nước)
“Tôi yêu đất nước này lầm than
....
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấm lòng cũng trứng Âu Cơ
Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng”
(Trần Vàng Sao – Bài thơ
b. Trong thơ văn nay:
Trong cảm nhận và miêu tả hình tượng Tổ quốc ở phương diện lịch sử văn hoá, các nhà thơ hiện đại đã sáng tạo nhiều mô-típ, biểu tượng, hình ảnh về sự hình thành của dân tộc.
- Nòi giống Lạc Hồng:
“Đất này là đất quê hương
Cùng chung máu thịt giang sơn Lạc Hồng”
(Xuân miễn – Gói đất miền Nam)
“Đất là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
(Nguyễn Khoa Điềm - Đất nước)
“Tôi yêu đất nước này lầm than
....
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấm lòng cũng trứng Âu Cơ
Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng”
(Trần Vàng Sao – Bài thơ
của một người yêu nước mình)
“Bên giếng tôi ngồi nghe gió động
Lật từng trang sử mở giang san
Bên giếng tôi ngồi lắng nghe hồn nước
Cây cỏ thì thầm chuyện thuở hồng hoang
Một vòm trời xanh thu vào vòng nhẫn ngọc
Thấy bao la bờ cõi Văn Lang
Vẳng nghe mặt thành vua thổi ốc
Thúc voi cày về chậm chậm bước hoàng hôn
Thấy công chúa làm nương xong, ngồi chải tóc
Cười với gương xanh má điểm hồng”
(Bàng Sỹ Nguyên – Bên giếng Ngọc đền Hùng)
- Văn hoá dân gian:
“Muối mặn ba năm, gừng cay chín tháng
Cha mẹ chúng tôi dạy ghét yêu
Yêu lời ru vời vợi những câu Kiều
Thương cái bờ sông thân cò lặn lội
Yêu tiếng sấm tháng ba gọi lúa chiêm trỗi dậy”
(Xuân Quỳnh – Chúng tôi)
“Bên kia sông Đuống
(...)
Cười như mùa thu toả nắng”
(Hoàng Cầm – Bên kia sông Đuống)
“Những người vợ nhớ chồng...
(...)
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc.....”
(Nguyễn Khoa Điềm - Đất nước)
I
“Thấm vào hồn trong tiếng võng mẹ đưa
Thấm vào trưa trong tiếng gà xao xác
Những câu ca lưu lạc
Nghe trầm luân kiếp người
Bác xẩm mù, em bé mồ côi
Hồn quê kiễng lẫn vào trong cát bụi
Tiếng hát chẳng no lòng người đói
Giọng ngân gầy lắt lay
Qua cầu gió bay
Áo em rách qua cầu gió lạnh
Khúc đàn bầu xôn xao trăng ánh
Buốt ngón tay người đàn
Hồn Trương Chi nhập trong gỗ bạch đàn
Người hay hát đã tan thành nước mắt
Cô Kiều khóc trong bốn dây li biệt
Sao mẹ bắt con buồn từ thuở trong nôi.
Người ơi! Trăng ơi!
Cái lá rừng ơi!
Chỉ thấy gọi mà không nghe lên tiếng
Mưa ngoài ngàn ngoài ruộng
Hạt mưa nào là em.
Chưa hát câu hàn huyên
Đêm hội ngắn đã vào câu giã bạn
Ba cánh đồng trăng sáng
Quan họ ơi! Em về.
Hoa súng xinh hoa súng nở ngoài đìa
Hoa súng đẹp chẳng đẹp người đánh giậm
Em tát nước đồng sâu áo lấm
Trăng vàng phơi không khô.
II
Bao giờ nổi can qua
Những ước vọng xô nhau lên rồi lại xuống
Bao thế kỉ chỉ đổi thay rồng phượng
Bãi lau già ra hoa
Hát lên ngời cháy dạ người ca
Hát lên đá đau nét rìu nét chạm
Dãi lòng lên gỗ thắm
Nửa chừng thương ruột cây.
Nón tơi mưa cha đội bão đi cày
Mẹ gánh gạo gánh con nhà quan cao cửa đóng
Áo mã phu lẫn trong màu võng lọng
Giữa đêm dài chú Tễu hát nghêu ngao.
Cứ hát đi con hạc khát bay cao
Ơi con hạc đội đèn trong trướng phủ
Cứ mỗi lần người nhà quan thắp lửa
Lại cháy lòng nghe cánh vỗ trời xa (Vũ Quần Phương – Dân ca)
- Đất nước văn hoá đất nước anh hùng:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn”
(Chế Lan Viên - Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)
“Bên giếng tôi ngồi nghe gió động
Lật từng trang sử mở giang san
Bên giếng tôi ngồi lắng nghe hồn nước
Cây cỏ thì thầm chuyện thuở hồng hoang
Một vòm trời xanh thu vào vòng nhẫn ngọc
Thấy bao la bờ cõi Văn Lang
Vẳng nghe mặt thành vua thổi ốc
Thúc voi cày về chậm chậm bước hoàng hôn
Thấy công chúa làm nương xong, ngồi chải tóc
Cười với gương xanh má điểm hồng”
(Bàng Sỹ Nguyên – Bên giếng Ngọc đền Hùng)
- Văn hoá dân gian:
“Muối mặn ba năm, gừng cay chín tháng
Cha mẹ chúng tôi dạy ghét yêu
Yêu lời ru vời vợi những câu Kiều
Thương cái bờ sông thân cò lặn lội
Yêu tiếng sấm tháng ba gọi lúa chiêm trỗi dậy”
(Xuân Quỳnh – Chúng tôi)
“Bên kia sông Đuống
(...)
Cười như mùa thu toả nắng”
(Hoàng Cầm – Bên kia sông Đuống)
“Những người vợ nhớ chồng...
(...)
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc.....”
(Nguyễn Khoa Điềm - Đất nước)
I
“Thấm vào hồn trong tiếng võng mẹ đưa
Thấm vào trưa trong tiếng gà xao xác
Những câu ca lưu lạc
Nghe trầm luân kiếp người
Bác xẩm mù, em bé mồ côi
Hồn quê kiễng lẫn vào trong cát bụi
Tiếng hát chẳng no lòng người đói
Giọng ngân gầy lắt lay
Qua cầu gió bay
Áo em rách qua cầu gió lạnh
Khúc đàn bầu xôn xao trăng ánh
Buốt ngón tay người đàn
Hồn Trương Chi nhập trong gỗ bạch đàn
Người hay hát đã tan thành nước mắt
Cô Kiều khóc trong bốn dây li biệt
Sao mẹ bắt con buồn từ thuở trong nôi.
Người ơi! Trăng ơi!
Cái lá rừng ơi!
Chỉ thấy gọi mà không nghe lên tiếng
Mưa ngoài ngàn ngoài ruộng
Hạt mưa nào là em.
Chưa hát câu hàn huyên
Đêm hội ngắn đã vào câu giã bạn
Ba cánh đồng trăng sáng
Quan họ ơi! Em về.
Hoa súng xinh hoa súng nở ngoài đìa
Hoa súng đẹp chẳng đẹp người đánh giậm
Em tát nước đồng sâu áo lấm
Trăng vàng phơi không khô.
II
Bao giờ nổi can qua
Những ước vọng xô nhau lên rồi lại xuống
Bao thế kỉ chỉ đổi thay rồng phượng
Bãi lau già ra hoa
Hát lên ngời cháy dạ người ca
Hát lên đá đau nét rìu nét chạm
Dãi lòng lên gỗ thắm
Nửa chừng thương ruột cây.
Nón tơi mưa cha đội bão đi cày
Mẹ gánh gạo gánh con nhà quan cao cửa đóng
Áo mã phu lẫn trong màu võng lọng
Giữa đêm dài chú Tễu hát nghêu ngao.
Cứ hát đi con hạc khát bay cao
Ơi con hạc đội đèn trong trướng phủ
Cứ mỗi lần người nhà quan thắp lửa
Lại cháy lòng nghe cánh vỗ trời xa (Vũ Quần Phương – Dân ca)
- Đất nước văn hoá đất nước anh hùng:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn”
(Chế Lan Viên - Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)
Ta đã yêu Việt Nam
đẹp, Việt Nam thơ, bát ngát câu Kiều,
Bờ tre mái rạ.
Mái đình cong cong như bàn tay em gái giữa đêm chèo.
Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xẩm xoan, cò lả
Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo”
(Chế Lan Viên - Thời sự hè 72-Bình luận)
“Ta nối liền ta trong bể dọc thời gian
Câu thơ thế kỉ hai mươi liền hơi với hồn cha ông trong
Truyện Kiều, Chinh Phụ”
(Chế Lan Viên - Sổ tay thơ)
“Ta ra đi từ nền văn minh trên lưu vực sông Hồng
Cả dân tộc bay theo hình chim Lạc”
(Chế Lan Viên – Ngày vĩ đại)
“Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thật sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà”
(Huy Cận – Đi trên mảnh đất này)
“Lũ chúng tôi lớn lên
Con gái đi học về còn biết ra sông gánh nước
Con trai còn biết Lục Vân Tiên và đọc thơ mụ Đội cho bà
Qua hoàng thành cha ông gọi tôi ù ù trong họng súng thần công
Hịch Cần Vương tưởng còn vang qua chín cửa
Sắc đẹp nghìn xưa thắm từng trang lịch sử”
(Nguyễn Khoa Điềm - Đất ngoại ô)
V. Kết luân.
1. Văn hoá là cội nguồn sâu xa của văn học.
2, Qua những biểu tượng văn hoá được thể hiện bằng những hình tượng nghệ thuật, văn học thực sự đã có được lớp trầm tích văn hoá dân tộc đậm đà bản sắc.
Mái đình cong cong như bàn tay em gái giữa đêm chèo.
Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xẩm xoan, cò lả
Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo”
(Chế Lan Viên - Thời sự hè 72-Bình luận)
“Ta nối liền ta trong bể dọc thời gian
Câu thơ thế kỉ hai mươi liền hơi với hồn cha ông trong
Truyện Kiều, Chinh Phụ”
(Chế Lan Viên - Sổ tay thơ)
“Ta ra đi từ nền văn minh trên lưu vực sông Hồng
Cả dân tộc bay theo hình chim Lạc”
(Chế Lan Viên – Ngày vĩ đại)
“Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thật sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà”
(Huy Cận – Đi trên mảnh đất này)
“Lũ chúng tôi lớn lên
Con gái đi học về còn biết ra sông gánh nước
Con trai còn biết Lục Vân Tiên và đọc thơ mụ Đội cho bà
Qua hoàng thành cha ông gọi tôi ù ù trong họng súng thần công
Hịch Cần Vương tưởng còn vang qua chín cửa
Sắc đẹp nghìn xưa thắm từng trang lịch sử”
(Nguyễn Khoa Điềm - Đất ngoại ô)
V. Kết luân.
1. Văn hoá là cội nguồn sâu xa của văn học.
2, Qua những biểu tượng văn hoá được thể hiện bằng những hình tượng nghệ thuật, văn học thực sự đã có được lớp trầm tích văn hoá dân tộc đậm đà bản sắc.







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét