10 năm, 20 năm... rồi nhiều chục năm nữa
sẽ đi qua, quận Cẩm Lệ rồi sẽ “trưởng thành” hơn, sẽ “già” hơn. Phố phường
nơi đây rồi sẽ đổi thay, nhiều thứ rồi sẽ trở thành đồ cổ. Nhưng tôi
tin chắc một điều rằng, dòng sông Cẩm Lệ sẽ mãi không hề có tuổi, bởi lớp lớp
phù sa tươi mới qua những mùa nước lớn nước ròng sẽ bồi đắp cho người dân
nơi này trọn vẹn một tình yêu mãi không già...
1. Hơn nửa thế kỷ qua, tôi rời quê nhà
làm kẻ ngụ cư trên đất Cẩm Lệ, thỉnh thoảng vẫn chạy xe về cái xứ mà một thời
người ta nói đùa là “gà mang sa-bô đi ăn” bởi cát nắng nóng cháy bỏng chân.
Vừa rồi nghe anh em đồng hương bảo Điện Dương quê tôi giờ đã “lên” phường,
cùng lúc với huyện Điện Bàn trở thành thị xã. Nghe mà sướng cái bụng.
Ngày đó ở quê, ba tôi mở một tiệm thuốc bắc
ở chợ Cầu, bên cây cầu Chợ bắc qua con sông Hà Sấu - một đoạn của sông Cổ
Cò nối từ sông Hàn thẳng ra biển Cửa Đại. Chiến tranh nổ ra, tiệm thuốc bị
cháy, ba tôi thu vén chút ít vốn liếng “đi tiền trạm” ra Cẩm Lệ mở một xưởng
đúc ngói xi-măng nho nhỏ rồi sau đó đưa cả nhà ra. Gọi là “xưởng” cho oai,
chứ thực tế chỉ vẻn vẹn hai gian nhà nhỏ với dăm ba thành viên, trong đó ba
tôi vừa là “chủ xưởng” vừa là thợ đúc chính.
Chiến tranh ngày càng khốc liệt, người ta
nghĩ, liệu mạng sống mình có giữ được không mà đòi làm nhà cao cửa rộng, tường
xây gạch, mái lợp ngói? Thế là ai cũng “nhác” làm nhà, ngói ế ẩm, ba tôi
đóng cửa xưởng, xoay qua tráng mì, tráng bánh tráng và bán mì Quảng. Quán
mì chỉ đông khách được có ngày Rằm và mùng Một, phục vụ ăn chay cho những
người đi lễ ở chùa Hòa Cường (nay là chùa Phổ Hiền) gần đó.
Về sau có một ông thầy giáo làng từ Duy
Xuyên ra xin mở lớp học tư thục ở xưởng ngói, tôi được thầy xếp vào lớp Tư.
Năm sau, ba xin thẳng tôi vào lớp Nhì trường công lập, bỏ băng lớp Ba. Tôi
hãnh diện được làm học trò Trường Tiểu học Bình Khuê Cẩm, còn cái quán mì
phải đóng cửa vì thua lỗ. Ba tôi tận dụng cây ván đóng các loại tủ cho mẹ
tôi mở một tiệm tạp hóa nhỏ. Cả xóm chỉ có độc một “cửa hàng” này nên việc
buôn bán cũng khá thuận lợi. Nhờ vậy mà chuyện ăn học của anh em tôi một thời
gian cũng không đến nỗi cơ cực.
2. Hồi đó chưa có sân bay Đà Nẵng, quốc lộ
1A còn chạy thẳng một mạch từ con đường ngày nay có tên là Huỳnh Ngọc Huệ,
quận Thanh Khê, tới đường Ông Ích Đường, quận Cẩm Lệ. Tất nhiên lúc đó con
đường “quốc lộ xuyên huyện” này còn chật hẹp như một số kiệt hẻm ở phố thị
ngày nay và thỉnh thoảng lồi lõm ổ gà. Từ nhà tôi tới trường chỉ non cây số,
trong đó hơn một nửa là quốc lộ, sớm chiều có những chiếc xe đò nhiều sắc
màu chạy qua. Chúng tôi dần dà phân biệt được các hãng xe từ xa nhờ vào màu
sơn trên thân xe. Hãng Phi Long sơn xe trên đỏ dưới vàng; hãng Tiến Lực sơn
trên dưới tuyền một màu vàng tươi. Ngoài hai hãng xe khét tiếng chạy suốt
miền Nam thời đó, còn có một số xe chạy tuyến gần như Đà Nẵng - Quảng Ngãi
sơn màu vàng sẫm, Đà Nẵng - Tam Kỳ - Quảng Ngãi sơn trên đỏ nhạt dưới
trắng... Lũ trẻ chúng tôi chưa một lần đặt chân lên những “căn nhà di động”
đó, mỗi khi có xe chạy qua phả vào không khí một làn khói thơm lựng, cái
mùi rất chi là hiện đại mà cậu bé nhà quê là tôi lúc đó đã vô cùng ngưỡng mộ.
Chả là, khi còn ở quê, hàng xóm nhà tôi
có một ông qua Tây đi lính cho Pháp. Ông này gửi về cho người thân một chiếc
Vélo Solex có hình dáng như con bọ ngựa màu đen, mỗi khi chạy qua đường
làng là cái đầu máy đặt ở phía trước phun ra làn hơi bồng bềnh như khói thuốc.
Đám trẻ con nhà quê chúng tôi mỗi lần nghe tiếng “xạch xạch” là túa ra xem
“con bọ ngựa” nhảy điệu cà tưng trên đường làng lồi lõm, huơ tay vào không
khí để bắt lấy cái mùi xăng đưa lên mũi hít lấy hít để.
Đến khi ra đất Cẩm Lệ, nơi có những chiếc
xe đò sớm chiều chạy ngang qua quốc lộ rất chi là hiện đại, tôi cảm thấy
mình như rũ bỏ dần cái chất quê rặt để trở thành người của phố thị. Tuy
nhiên, đó chỉ là cách tôi tự túm tóc nhấc mình lên cho cao hơn thôi, chứ thật
ra, vẫn còn nhiều cái ngu ngơ, khờ khạo mà mỗi khi nhớ lại, sao thấy ngày
đó mình “quê mùa” quá đỗi.
Bên đường tới trường tôi để ý thấy có một
ngôi nhà luôn vẳng ra những bài tân nhạc, nhiều lúc là những bài cải lương
ướt át. Đó là nhà ông T.L., một trong những người có “máu mặt” đất Cẩm Lệ bấy
giờ. Ở quê tôi ngày đó làm gì biết đến tân nhạc, họa hoằn lắm mới có gánh
hát bội về biểu diễn ngoài sân đình. Thành thử, những giọng ca tân nhạc
phát ra từ ngôi-nhà-có-tiếng-hát ấy luôn mê hoặc tôi, mỗi lần ngang qua là
tôi cố đi thật chậm đến mức có thể để “nhâm nhi” những giai điệu êm đềm,
sâu lắng. Từ đó, tôi biết đến Lòng mẹ của Y Vân, Thương hoài ngàn năm của
Phạm Mạnh Cương... những bài nhạc Việt xuất hiện khoảng đầu thập niên 60 thế
kỷ trước.
Nhiều lần tan học cứ nấn ná chưa chịu về
nhà bởi bài này nối tiếp bài kia mà bài nào cũng nghe hoài không chán, tôi
đứng phía bên kia đường nhìn qua, cố ý tìm xem ai hát và người đó đứng ở
đâu. Nhà ông T.L. mở quán bán giải khát, trưa vắng chỉ lèo tèo mấy người
khách cùng bà chủ nhà loay hoay làm nước. Tịnh không một ai khác. Một cái
thùng hình khối chữ nhật màu vàng có hoa văn sặc sỡ đặt nằm ngang trên bệ gỗ,
ở đó tiếng hát đều đặn vang lên giữa cái nắng cháy cổ. Bụng đói, tôi tha thẩn
ra về, lòng phân vân sao cái người nằm trong cái thùng gỗ đẹp đẽ ấy không
nghỉ đi ăn trưa mà cứ
hát mãi!...
Hơn nửa thế kỷ đi qua, quốc lộ ốm nhom
ngày ấy giờ đã thành đường phố khang trang, rộng rãi. Mỗi lần đi qua chốn
cũ, nhớ đến người-ca-sĩ-nằm-trong-thùng-gỗ lại buồn cười cho cái khờ khạo
chân quê một thuở của mình.
3. Nếu Trường tiểu học Bình Khuê Cẩm không
to lớn là mấy so với trường làng quê tôi thì cái nhà máy “nuốt chửng” hàng
trăm công nhân ngay trước tiếng còi hú vang vọng mỗi sáng khiến tôi phải
“tâm phục khẩu phục”. Đó là Nhà máy Dệt Hòa Thọ trực thuộc Tổng Công ty Kỹ
nghệ Bông vải Việt Nam, viết tắt là SICOVINA (mãi về sau này khi lên trung
học, được một ông thầy dạy cours Pháp văn ở gần ngã ba Huế giảng giải, tôi
mới biết rằng đó là viết tắt của cụm từ tiếng Pháp Société d'Industrie
Cotonnière du Vietnam).
Nhà máy quét vôi trắng, nhô những vòm cong
lên bầu trời trong xanh như những dợn sóng. Trên diềm chạy ngang phía trước
nhà xưởng có gắn mấy chữ cỡ bự (có khi bằng chiều cao những đứa bé như tôi)
KNBVVN. Đây là viết tắt tên công ty, nhưng người dân lúc đó cứ “phiên dịch”
thành “Không Nên Bỏ Việc Về Nhà”, hoặc “Không Nên Bỏ Vợ Vì Nàng”. Tôi có
hai ông dượng, một là chồng người cô, một là chồng người dì, cùng làm trong
cái xưởng dệt lớn nhất miền Trung lúc bấy giờ, mỗi lần nhắc đến cái câu
“phiên dịch” đó là cả hai cười khì mà rằng: Người ta nói rứa cho dzui, chứ
làm răng mà tụi tau bỏ việc hay bỏ vợ cho được.
Đối diện Nhà máy Dệt Hòa Thọ qua quốc lộ
là Trường Trung học Hòa Vang, thành lập năm 1961, trước nhà máy một năm.
Ngày còn tập tễnh tới trường tiểu học, tôi đã ngưỡng mộ biết bao những anh
chị bậc trung học chững chạc, tự tin bước vào ngôi trường có nhiều cây phượng
vĩ rực đỏ sân mỗi khi hè đến. Hai cơ sở, một cho ra những sản phẩm góp phần
làm giàu hiện tại, một đào tạo con người cho thế hệ tương lai. Các loại vải
sợi của Dệt Hòa Thọ lúc bấy giờ “chu du” khắp miền Nam còn học sinh Hòa
Vang thì sau năm 1975 không ít người bằng tài năng và nhân cách của mình đã
đóng góp vào sự thăng tiến chung của quê hương, đất nước.
4. Có lần, một anh cựu học sinh Hòa Vang ở
Sài Gòn về chơi, chạy xe trên đường Lê Đại Hành, nói chừ sao đường sá lạ hoắc
lạ đế. Thời còn đi học trên Chi nhánh Trường Trung học Hòa Vang ở Nghi An gần
chợ Bồn Quân (học sinh quen gọi là Trường Chi nhánh), anh thường cùng tụi bạn
đi tắt đường ruộng phía sau Nhà máy Dệt Hòa Thọ, tuy gần hơn rất nhiều
nhưng nhiều lúc phải lội nước lõm bõm. Thế mà vui, xắn quần, xách dép, ôm cặp,
thỉnh thoảng té nước trêu nhau... Giờ đi trên khu dân cư mới nối liền từ
phía sau Dệt Hòa Thọ lên tới Trường Chi nhánh ngày nào, không sao hình dung
ra cảnh cũ người xưa. Những con đường ngang dọc như đường kẻ ô bàn cờ, nhà
cửa khang trang, đẹp đẽ. Thay đổi quá!
Học trò ngày đó, ở xa đến trường bằng xe
đạp, gần thì đi bằng ô-tô... bước. Ban ngày không nói gì, chứ chạng vạng tối
thì tụm năm tụm ba rủ nhau đi về cho đỡ sợ. Một chiếc xe đạp nhiều khi chở
tới 3-4 cậu con trai, loạng choạng trên đường làng. Ngày nghỉ, kéo nhau đi
chơi tới những nơi mà địa danh đã trở thành thường trực trong nếp nghĩ học
trò ngày đó: Chùa Bà Quảng, Đồi Thông, Đồi Ông Ích Khiêm... Những con đường
hun hút cây xanh, quanh co ngõ trúc bỗng trở nên rất đỗi thân quen, bởi ở
đó có nhà đứa bạn cùng lớp, có hàng vú sữa thơm lừng hay chùm ổi nếp ngọt lịm...
Những cư dân Đà Nẵng nói chung, Cẩm Lệ
nói riêng tha hương nhiều chục năm, quay về thăm chốn xưa không khỏi ngỡ
ngàng, cứ như lạc vào một nơi nào đó chứ không phải là nơi mình từng ở.
Thành phố Đà Nẵng giờ như cô gái tuổi 18, còn quận Cẩm Lệ là cậu bé lên mười,
là đơn vị hành chính cấp quận “trẻ” nhất thành phố.
Cẩm Lệ còn “nắm trong tay” nhiều cái nhất
nữa. Ví như quận có nhiều cầu nhất Đà Nẵng, ngoài 3 chiếc cầu nằm lọt trong
lòng quận là cầu Cẩm Lệ, cầu Nguyễn Tri Phương, cầu Hòa Xuân (tính từ thượng
nguồn xuống), quận còn sở hữu một nửa cầu Đỏ (phía Nam cầu thuộc huyện Hòa
Vang). Đó là chưa kể cầu vượt Hòa Cầm, cũng được gọi là cầu, nằm trên địa
bàn quận và cầu vượt Ngã Ba Huế, Cẩm Lệ sở hữu một phần ba cùng với hai quận
Thanh Khê và Liên Chiểu.
5. Một thời, Điện Dương quê tôi từng lam
lũ, cơ cực; Cẩm Lệ cũng chỉ nhỉnh hơn ít nhiều. Thế nhưng người dân quê tôi
ngày đó mỗi lần ra Cẩm Lệ chơi lại nói nửa đùa nửa thật là “đi cung trăng”.
Điện Dương vừa mới “lên” phường, dáng dấp phố thị ẩn hiện đâu đó, dù chưa
rõ nét như cung-trăng-Cẩm-Lệ nơi tôi đang sống và chọn làm quê hương thứ
hai.
Cẩm Lệ, tên làng giờ đã thành tên quận,
hai bên bờ sông cùng tên giờ đã phố xá nghênh ngang như câu ca xưa nói về
bên tê Hà Thân của sông Hàn. Thế nhưng, trong tôi vẫn còn vẹn nguyên những
kỷ niệm một thời thơ dại của làng quê xưa. Cho đến khi tôi biết rằng một phần
nước sông Cẩm Lệ đã hòa dòng với nước sông Cổ Cò và đổ về sông Hà Sấu quê
tôi, tình yêu trong tôi dành cho nơi sinh ra và nơi trưởng thành càng thêm
bền chặt và không đo đếm được.
Chiếc Vélo Solex của ông Việt kiều quê
tôi ngày nào giờ không biết lưu lạc nơi đâu, nếu may mắn sẽ được một người
mê đồ cổ nào đó sưu tầm làm của quý hiếm. Với tôi, sau hơn nửa thế kỷ, hình
ảnh chiếc thùng gỗ đẹp đẽ đủ rộng cho những ca sĩ nằm vào đó ca hát suốt
ngày cũng đã thành đồ cổ trong tâm tưởng.
Đồng nghiệp tôi, nhà báo Lê Văn Thơm, khi
nghĩ về miền đất Cẩm Lệ đã có câu đối: Quê hương muôn vạn yêu thương, bền ý
chí tiến công xây sự nghiệp/ Cẩm Lệ mười năm thành lập, sáng niềm tin thắng
lợi dựng tương lai. 10 năm, 20 năm... rồi nhiều chục năm nữa sẽ đi qua, quận
Cẩm Lệ rồi sẽ “trưởng thành” hơn, sẽ “già” hơn. Phố phường nơi đây rồi sẽ đổi
thay, nhiều thứ rồi sẽ trở thành đồ cổ. Nhưng tôi tin chắc một điều rằng,
dòng sông Cẩm Lệ sẽ mãi không hề có tuổi, bởi lớp lớp phù sa tươi mới qua
những mùa nước lớn nước ròng sẽ bồi đắp cho người dân nơi này trọn vẹn một
tình yêu mãi không già...
Văn Thành Lê
Theo http://vannghedanang.org.vn/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét