Lời giới thiệu
Ba mươi năm không phải là nhiều hay là ít. Khi người ta có nhiều kỷ niệm, sống
tràn trề nhiệt tâm thì mỗi ngày là một kỷ niệm. Khi người ta lạnh lùng thờ ơ
thì dù trăm năm cũng chẳng có gì để nói.
Tập sách này thay tác giả và những người hân hạnh có mặt trong đó, nói lên một
khoảng đời nơi rừng Viên Chiếu, bao nhiêu vui buồn đi qua, cái còn đọng lại là
một chút tâm tư. Những điều viết ra trong đây chỉ là khúc nhạc mở đầu, mỗi người
khi đọc xong lại thấy có thêm nhiều chuyện để kể, để nói, hay để thanh minh.
Tuy nhiên chỉ là vui thôi. Và xin trân trọng giới thiệu với tất cả lòng yêu mến.
Viên Chiếu, đầu năm 2005
Hạnh Đoan
Hạnh Đoan
Khi
thu nhặt các truyện viết rải rác kết tập lại, chắc chắn không tránh được lỗi
trùng lập và sai sót. Chỉ mong “Mai chia xa còn gởi lại nụ cười…”. Chùm truyện
này xin dành tặng cho người ở trong lẫn ngoài khung trời lam và cũng để chúc mừng
Viên Chiếu tròn ba mươi tuổi.
Trước
tiên, xin độc giả đại xá cho khi bài viết không nhắc đến danh vị, chức phẩm - bởi
chức vị thường trùng hợp và thay đổi, khiến người đọc khó đoán nhân vật được đề
cập đến là ai? Nhằm để dễ dàng ghi lại vài nét hồn nhiên xa xưa, xin chư vị rộng
lòng khoan thứ nếu bài viết có nhiều sai sót không đủ lễ - Vì những người được
nhắc đến thuở xưa có thể giờ đã thành những bậc trưởng thượng.
Xuống Rừng
Hồi nhỏ, mỗi lần nghe nói đến
Long Thành là tôi ghét cay ghét đắng, tôi liền liên tưởng đến một vùng đất đồng
khô nắng cháy, hết sức hoang vu. Mỗi lần gặp người quen đi lập nghiệp ở đó về,
nghe họ kể chuyện, tôi thầm vái van mình đừng bao giờ phải lê thân đến vùng đất
lưu đày nọ.
Từ lên Bát Nhã rồi đến thành
lập Viên Chiếu, vâng lời Thầy tôi hạ sơn làm ruộng và buộc phải đóng đô ngay
vùng đất “định mệnh” (?) – Đúng là “Ghét của nào trời trao của ấy”. Nhưng
tôi đã quên bẵng ý tị hiềm ngày xưa mà chỉ còn lại là niềm háo hức… Các chị tôi
đã xuống trước cả tháng để mở đường. Còn chúng tôi, rạng sáng khởi hành thì
ngay trong đêm ai nấy đều thao thức, kháo nhau:
- Nghe nói chỗ mình có suối…
- Chà! Tuyệt quá! Nhất định
em phải chèo thuyền đi chơi mới được!
- Nhưng mình làm gì có thuyền?
- Em thấy người ta chèo
trong… cái thúng!
- Được rồi, mình sẽ chèo
trong cái thúng ngắm cảnh trăng lên…
- Còn em, em sẽ mang võng
theo mắc giữa rừng, nằm nghe chim hót…
- Mình sẽ trồng thật nhiều
hoa nữa chứ…?
Một bức tranh cực kỳ nên thơ
được chúng tôi hợp nhau phác họa, càng vẽ càng nôn nao.. Mặc dù được tin đất mới
có nhiều đỉa vắt, gai góc, sâu bọ và rắn rít.. song sự lạc quan của tuổi trẻ đã
đánh bại hết, một vài vị lớn thấy chúng tôi quá hí hửng, không kìm được phải buột
miệng bình: - “Đúng là cái thú điếc không sợ súng!”…
Mà có lẽ thật, nhờ “điếc”
nên tiếng “đùng, đùng” của chướng ngại không làm chúng tôi nản lòng, còn những
người hiểu việc, do “không điếc” nên chẳng có đủ can đảm để sống cùng đất mới,
đã vội bỏ đi.
Các chị bảo nhau: “Cứ mặc đồ
dày, trùm kín hết là không ngại gai góc, đỉa vắt gì…”
Khi chiếc xe vận tải thả
chúng tôi xuống vệ đường thì trời đã đứng bóng. Tất cả, kẻ gánh người khiêng, cố
len lỏi vào con đường gò nổng gập gềnh, lau sậy giăng mít mù và chằng chịt
nhánh cây rừng đan cản lối. Thế này thì xe đạp khó mà vào được… (?) vượt hơn
hai cây số, lên dốc rồi xuống dốc, ì à ì ạch, lần theo con đường ngoằn ngoèo…
băng qua bóng tối âm u của khu rừng, cuối cùng chúng tôi cũng… “đáo bỉ ngạn”.
Quang cảnh đầu tiên đập vào
mắt tôi thật ngộ, căn nhà thấp lè tè, mái lợp nửa tôn nửa lá, ngang chàng và lá
chỉa tua tủa - giống như lông nhím hay lông chó xù – đây là thành quả của những
bàn tay học trò thạo ăn hơn thạo làm - và khả năng kiến trúc kỳ tài của các bậc
chưa biết gì nhưng cứ bắt tay vào… sáng tạo.
Tôi ngắm thật lâu… “cái chuồng”
rồi ngẩn ngơ hỏi:
- “Nhà” của mình đây sao??
Tiếng một tân binh nào đó (tự
dỗ mình):
- Hỏng phải đâu! Đây chỉ là
nhà… tạm sau này sẽ cất lại đàng hoàng mà…
- Thôi đi mấy cô nương! Vầy
là đẹp lắm rồi! Mới xuống mà có được nhà ở là sướng hơn tụi chị nhiều. Mấy hôm
đầu tụi chị phải nhét cả chục mạng trong cái chòi rách đằng kia. Cái gì cũng
túng thiếu chật chội…
- Sao mình không xén vách
cho gọn bớt?
- Xén chi? Đó là vách cửa từng
gác trên, để vầy cho kín đáo và tiện che kẽ hở bên dưới. Thôi! Vào cất đồ rồi
ăn cơm, ở đó mà kiến nghị, thắc với mắc!...
Nghe nói còn tầng trên,
chúng tôi đồng reo:
- A! Chùa có gác! Có gác! Sướng
quá!...
Hối hả cất hành lý, chúng
tôi tranh nhau trèo lên chiếc thang mảnh khảnh ghép bằng cây rừng, nó kêu cót
két và lắc lư theo nhịp bước của chúng tôi. Tôi tranh thủ tận hưởng chút cảm
giác nghỉ ngơi. Nằm trên sàn ván thông thưa rỉnh tôi có thể ngắm rõ mồn một bên
dưới. Gian nhà thoạt trông có vẻ quái dị, song tôi lại dành cho nó rất nhiều cảm
tình. Nhất là khi chống các cửa lên thì nhà như không còn vách, gió lồng lộng
ùa vào làm dịu bớt sức nóng như thiêu từ mái tôn hắt xuống. Tôi chợt nhổm dậy,
trườn mình thò đầu ra ngoài tìm kiếm bóng dáng mấy con chim khi nghe tiếng hót
líu lo của chúng… bỗng dưng, tôi thấy cái giang sơn mới này thơ mộng biết là ngần
nào!
Chỗ Viên Chiếu hung cứ là
vùng đất trũng - gần như là thung lũng – nên khí hậu ẩm thấp và có nước quanh
năm. Khu rừng dù đã có tên song vẫn còn nét hoang dại sơ khai. Lần đầu đi thăm
suối, tôi đã tắt ngay mộng chèo thuyền ngắm trăng khi nhìn dòng nước đục ngầu bốc
mùi xác lá úng nồng nặc, hai bên bờ thì chơm chởm tre gai, đan chằng chịt tràn
xuống cả lòng suối – hãy tưởng tượng những múi gai tre nhìn giống hệt răng nanh
của chằn tinh - hầu như lòng suối chẳng có lấy một chỗ trống để đặt chân vào,
nói gì đến hạ thuyền? Nước thì chảy xiết đến độ sành bơi như tôi cũng đâm ra
chóng mặt vì sợ. Nhánh tre, lá tre đan dày đến nỗi nắng không soi thấu đến mặt
nước khiến quanh cảnh dòng suối tối mờ mờ như chiều hoàng hôn. Đây quả là chỗ
lý tưởng cho đám muỗi đòn sóc trú ẩn. Có vẻ như lâu rồi chúng không gặp được mồi,
nên rất hung hăng tấn công bọn tôi. Mỗi khi đi ruộng về, tôi cố len vào các chỗ
trống ven bờ suối để gột rửa bùn bám toàn thân, tranh thủ giặt vớ lẫn các y phục
bết bùn, nhưng nếu không khéo giữ, chỉ cần lỏng tay một chút… thì nước sẽ cuốn
trôi tuốt luốt hết. (Từ sau khi chương trình thủy lợi hoàn thành, nước dâng
cao, không còn chảy xiết. Vùng bên phía chúng tôi trụng nên đồng ruộng bị ngập
và không xử dụng được khá nhiều). Giờ thì khoảng không gian trên và trong lòng
suối đều đã được phát quang, thông thoáng; không còn âm u như xưa nữa.
Ngoài con suối lượn quanh cuộc
đất, đó đây cây cối um tùm rậm rạp, đầy gai góc… càng làm tăng thêm vẻ đìu hiu
cho đất mới. Chị Thủy thường nghịch ngợm ngâm:
Thầy ơi! Đất nước lạ lùng!
Thầy ơi! Đất nước lạ lùng!
Chim kêu con cũng sợ, vắt… mừng
con cũng kinh!”
Miếng ruộng đầu tiên chúng
tôi khai phá mới là não nùng, gai giăng dày mịt không đáng nói, mà chính là
mây. Những cọng dây mây người ta đan ghế trông thơ mộng là vậy, chứ xuất xứ của
nó thì thật khủng khiếp: gai tua tủa… Nghĩa là cảnh tượng ngán đến nỗi các chị
có thuê mướn đám thanh niên vào làm thì họ đều lắc đầu quầy quậy, bảo:
- Quí cô mà phá được cuộc đất
này thì bọn tôi xin bái phục!
Không thể trông chờ vào ai,
chúng tôi đành phải nhờ vào chính đôi tay của mình. Trước tiên, phải đặt lò rèn
làm những lưỡi cuốc bảng bự giống hình tam giác đều với cạnh dài khoảng 30 – 35
cm, rồi chia nhau thành từng cặp mà phá mây. Phải đưa cuốc dang thẳng lên trời,
lấy hết sức mà bổ xuống cuốc mới lút qua rễ mây. Làm trông mạnh bạo vậy mà chỉ
gặm được từng lát rễ, có khi cuốc bị rễ mây dội lại buốt cả lồng ngực, tê rần cả
cánh tay. Thầy Nhật Quang tình cờ vào thăm, nhìn cảnh chúng tôi “bửa” rễ mây,
chỉ còn biết ban cho cái nhìn thương cảm. Có lẽ vì vậy mà mỗi khi Thường Chiếu
có món gì ngon, Thầy đều không đành lòng hưởng riêng và sốt sắng bắn tiếng mời
chúng tôi ra dự. Ban ngày làm mệt là thế, nhưng chỉ cần nghe: “Ra Thường Chiếu
ăn bánh…” thì in như chúng tôi hồn vía… “lai tỉnh” và chẳng ai muốn ở nhà! “Ở
đâu có ăn thì ta tới…” thì sá gì cái chuyện lội bộ đường xa? Thời ấy được ăn dù
là một mẩu bánh nhỏ cũng là quí lắm (nhờ Thường Chiếu hảo tâm nhín cho mới được
như thế). Thêm nữa, chúng tôi ai cũng đang sức trẻ nên rất siêng đi. Đường lộ
bình thường đã vắng người, đêm về càng vắng ngắt. Đất nước mới hòa bình nên
chuyện an nình không có gì đáng lo. Dân nơi đây thưa thớt và đã quá quen với
hình ảnh mấy bà vải mặc đồ vá chùm vá đụp đi mòn đường. Chính nét vắng vẻ của cảnh
vật đã làm cho chúng tôi cái cảm giác mình là… “bá chủ” trong rừng lẫn ngoài lộ…
vì vậy mà màn hòa tấu văn nghệ thường xảy ra, khi đêm càng sâu trăng càng sáng
vằng vặc, rải ánh sáng huyền hoặc.. hào phóng soi đường và… “hớp hồn” chúng
tôi. Mặc sương phủ lạnh buốt, chúng tôi nắm tay nhau cùng xướng vang các bản
hùng ca, âm thanh “tuyệt vời” ấy thường chẳng bị ai phàn nàn. Nhưng có một lần
duy nhất, tình cờ ngang qua nhà ai đó, cánh cửa chợt bật mở và lời quở của một
bà từ trong “bay” ra:
- Mấy có quỉ cái kia, giờ
này còn hát hò, coi chừng “bà: ra bà vặn họng hết cả lũ!...
Tất nhiên, bà không hề biết
chúng tôi là ai trong đêm đen chập choạng, cả đám im bặt, nhìn nhau cười, mắt lấp
lánh sắc trăng...
Đó là ban đêm, còn ban ngày,
vẫn có người nhìn lầm. Chị Thủy đi chăn bò, bò đứt dây chạy vào vườn người. Thế
là tiếng một ông lão cất lên:
- Cái thằng kia! Chăn có con
bò mà cũng không nên thân…
… còn đứng đó cười nữa hả?
Tao “quánh” cho một cái là sặc mũi liền bây giờ!...
Mùa mưa đến, chúng tôi nếm đủ
dư âm của mái nhà ngang. Mưa tuôn xối xả và nước chảy xuống nền nhà như qua một
cái rổ. Chúng tôi thường giăng áo mưa ngủ. Cuộc sống chật vật, cơ cực nhưng đầy
tình thân.
Giờ đây, Viên Chiếu đã quanh
đãng hơn xưa, lối đi xe Honda, xe ba bánh đều vào được. Quanh vùng cũng đã có rải
rác nhà dân đến lập nghiệp va danh sánh ni chúng cũng tăng dần lên. Tôi đã
nhích đến tuổi hai mươi và không thể không ghi lại những diễn tiến ban đầu của
Viên Chiếu, gởi chút niềm tri ân vào vùng đất đã cưu mang và nuôi dưỡng mình đến
trưởng thành.
1979
Ngày mùa Viên Chiếu
Tay cầm mạ non cấy khắp ruộng
Cúi đầu dòm thấy trời trong nước
Tâm tư thanh tịnh mới là đạo
Lùi bước hóa ra tiến lên trước
Cúi đầu dòm thấy trời trong nước
Tâm tư thanh tịnh mới là đạo
Lùi bước hóa ra tiến lên trước
(Hòa Thượng Bố Đại)
Tả Chân
Trăng hóm hỉnh nằm vắt ngang cành trúc
Dòm thiền sinh ngồi ngủ gục dưới hiên
Thời khắc qua mau dìu dặt hương thiền
Hơi thở nhẹ in chừng như… tiếng ngáy!?
Tà áo đẫm sương khuya buổi sớm
Nhè nhẹ lay theo gió đong đưa
Nụ vô ưa chớm mở phút giao mùa
Trên gương mặt còn mơ màng “nhập định”.
Dòm thiền sinh ngồi ngủ gục dưới hiên
Thời khắc qua mau dìu dặt hương thiền
Hơi thở nhẹ in chừng như… tiếng ngáy!?
Tà áo đẫm sương khuya buổi sớm
Nhè nhẹ lay theo gió đong đưa
Nụ vô ưa chớm mở phút giao mùa
Trên gương mặt còn mơ màng “nhập định”.
Rừng Cũ
Đã mất hết những tháng ngày xưa cũ
Quên đường về, chim vỗ cánh lang thang
Cây lá khóc giữa rừng xưa, nhánh rũ…
Người ra đi để sương khói bẽ bàng!
Cát bụi nào quyện chân?
Từ khi vào phố thị?
Bước rộn ràng, có thay đổi hồn xưa?
Xin mãi mãi, ngát hương thời nguyên thủy
Một màu trăng
Dù trời lộng bốn mùa!
Quên đường về, chim vỗ cánh lang thang
Cây lá khóc giữa rừng xưa, nhánh rũ…
Người ra đi để sương khói bẽ bàng!
Cát bụi nào quyện chân?
Từ khi vào phố thị?
Bước rộn ràng, có thay đổi hồn xưa?
Xin mãi mãi, ngát hương thời nguyên thủy
Một màu trăng
Dù trời lộng bốn mùa!
1979
Chuyện Xưa Viên Chiếu
Xin cảm ơn năm Viên Chiếu
tròn 20 tuổi để tôi có thể nói đôi điều về những người chị, người bạn mà thời
gian đã nhuộm bạc mái tóc, hằn lên trán đầy những vết nhăn và ngày càng đạo mạo
trang nghiêm theo sự già nua của năm tháng.
Có ai nghĩ được rằng đã có một
thời khu rừng đầy vắt và tre gai này luôn rộn rã tiếng cười, tiếng hát, tiếng
cãi nhau chí chóe và đủ thứ trò nghịch ngợm của mười mấy bộ óc hợp lại? Mảnh đất
mà ngày xưa các đấng mày râu đã chấp tay xá dài khi được nhờ cậy vào làm – có
phải vì vậy mà nụ cười phải được tận dụng tối đa để xóa bớt sự cơ cực quá đỗi
cùng với nỗi thiếu thốn của vùng đất bị bỏ hoang đã lâu, khi chúng tôi bắt đầu
tái lập lại, khởi sự khai hoang nó?
Viên Chiếu bao nhiêu năm là
tôi bấy nhiêu tuổi. Lúc mới vào đây tôi chỉ độ tuổi tròn trăng mà nay đã quá tuổi…
cuối trăng! Thuở sơ nguyên ấy, tôi, Hạnh Khiết, Hạnh Pháp thuộc loại nhỏ nhất
Viên Chiếu, người lớn nhất viện chỉ trên ba mươi là cùng.
Những người cũ giờ đã đi tứ
tán, đếm lại còn trên đầu ngón tay. Tôi ngắm nhìn những người còn lại để càng
thâm nhập lý vô thường của thân xác. Bây giờ dù 20, 30 năm… những người cũ gặp
nhau – tôi chắc tia nhìn vẫn rực sáng niềm vui, một cái đập mạnh vào vai hay nụ
cười mỉm đầy ý nghĩa và câu chào vẫn là:
- Sao? Khoẻ không? Nhớ hồi
đó cực quá hả?... những kỷ niệm cũ sẽ được tuôn ra, những tật tánh nào ngày xưa
bạn bè hay càu nhàu nhất nay sẽ được nhắc lại bằng những âm thanh vui nhộn nhất…
Ba mưoi bốn người từ Bát Nhã
về Viên Chiếu, sự cực nhọc đã thổi bay đi hết phân nửa chỉ còn lại mười bảy người.
Mười bảy người “lì lợm” đã vui vẻ hát câu: “Xin chọn nơi này làm quê hương”…
Tôi nhớ lúc ấy chị Huệ còn trẻ măng, giọng chị hát thật hay và hùng hồn, tôi
thích nhất khi nghe chị cất giọng: “Đất hoang ta phá, đất hoang ta cày; đất ta
ta tới đất ta ta ngồi…” Tiếng hát như tiếng kèn thúc quân, khơi dậy trong lòng
người sự hăng hái vốn có của tuổi trẻ.
Ngày đầu đọc Thanh Quy, mỗi
thiền sinh chỉ được chứa ba bộ đồ, tôi đã phòng xa tới… bốn bộ. Vậy mà xuống
đây, trước sự đón chào của rừng, của ruộng phèn lóc nhóc gốc cây hòa lẫn với
gai mây chơm chởm cùng gai mắc cỡ… dường như các tộc họ dòng gai đều nhất loạt
rủ nhau xuất hiện để âu yếm và săn sóc chúng tôi? Khiến quần áo chúng tôi càng
te tua thê thảm.
Những thời tụng kinh, dù cố
hết sức, gắng giữ thật nhẹ từng cử động tôi vẫn giật thót tim khi nghe tiếng quần
rách kêu “tẹt… tẹt…” nó mục đến độ trợt té cũng rách, lạy… cũng rách!
Thời ấy đúng là “vải châu, gạo
quê”, hai thứ thuộc diện quí hiếm. Nhưng đồ rách không thể cứ mãi xé quần vá
áo, mục đùm rách thì có thấm vào đâu? Tôi mừng như mở cờ khi thấy áo cô Đức thấp
thoáng điểm vài mảnh vải màu, vải bông chắp vá…
Thế là kỷ nguyên “quần áo vá
trăm mảnh” mở màn… Nhưng đồ vá thì nặng nề, Phật tử ra thăm biếu cho mớ vải biểu
ngữ, vải phúng điếu đám tang (vải ghi câu liễn, câu hoành gì đó không biết)… Lập
tức những bộ rằn ri đầy chữ sơn, chữ ta, chữ tàu… xuất hiện, tuy có hơi quái dị
nhưng mặc rất nhẹ nhàng, ít bốc mùi hôi, tôi rất khoái vì giặt mau khô cực kỳ.
Thuở ấy láng giềng là đám khỉ
thì sá gì tiếng dị nghị, còn dân thì cũng phải giật gấu vá vai, đầu tối mặt tắt,
hơi sức đâu mà để mắt tới chúng tôi? Tụi tôi ở tít phía trong rừng, cũng chẳng
có nỗi lo nào cho thân phận con gái là nhà ở phải cửa kín then cài…
Cái nhà tranh lá chỉa tua tủa,
trông bù xù như con chó bông ở dơ. Có hai cửa mặt tiền mở ra đóng vào cho có lệ
chứ phía sau thì trống hoác. Thế nên nửa khuya nếu ai nổi hứng thao thức chuyện
tu hành, trùm tấm y cũ đi lang thang cũng chẳng có gì trở ngại. Chỉ tội cho những
người dân hiếm hoi định cư gần đấy bất chợt đi ngoài nhìn thấy, đâm ra phát hoảng…
đồn ầm lên là… hay có ma xuất hiện về đêm trong rừng!
Chị Huệ hăng hái luyện thể dục
cho chúng tôi bằng mấy được quyền, cốt giúp thao tác nhanh lẹ và cho cơ thể khoẻ
mạnh đỡ trúng gió… thì người ta lại bảo nhau: “Mấy cô có võ”…
Những mảnh ván đơn sơ chỉ
đóng được mấy cái giường cá nhân ít ỏi, do vậy số còn lại phải ngự trên gác.
Hai cái mùng tập thể giăng trên sàn vừa đủ đâu mí nhau, chỗ đâu mà tụng kinh? Tội
nghiệp bức hình Tổ Đạt Ma treo khiêm tốn nơi vách, cô đơn ngắm mõ chuông bé tí
tẹo nằm trên án thờ.
Tiếng kiểng khuya là vỏ đạn
của ai lượm về, âm thanh còn dỡ hơn thùng thiếc bể. Giờ ăn không có bàn Quả đường,
mọi người tề tựu nơi mấy cái đơn mặc áo vạt khách cũn cỡn thực hành nghi thức
cúng ngọ.
Tối đến tôi khoan khoái nằm
bẻ chân tay lắc cắc trong cái mùng tập thể. Khi tiếng kẻng “xèng, xèng” vang
lên ai nấy đều ngồi bật dậy, mõ chuông đã được ôm vào mùng. Cuộc hành lễ bắt đầu
với buổi hòa âm chói tay hay dịu tai gì chẳng biết… nhưng Phật và chúng sanh,
tôi chắc đều hoan hỉ. Hoan hỉ tràn trề như niềm phỉ lạc trong lòng tôi – dù thỉnh
thoảng chị Ngọc Hạnh hay Khiết la toáng lên: - “Trời ơi! Con vắt, con vắt nó bò
gần mép tai em…”.
Tôi không đặt chuyện cho sự
thiếu thốn lúc ấy, đường vào Viên Chiếu hãy còn khó đi lắm, xe đạp vào còn bất
tiện và chúng tôi gồng gánh vận chuyển đồ nhiều hơn. Đời sống tu sĩ lạ lẫm và
quá mới mẻ. Ở Bát Nhã, chúng tôi có bàn để cúng ngọ, có chánh điện để lễ.. còn ở
đây mọi thứ đều không!
Tôi không dám nghĩ là một
ngày nào đó mình sẽ có bàn cúng cơm cho trang nghiêm, ngồi ăn trên giường mãi
cũng chán và buồn.
Lần đầu tiên tim tôi nở hoa
khi cô Từ Thanh mời người vào đóng bàn Quả đường. Sướng hơn nữa cô Hoa không biết
bằng cách nào đã tậu được một chiếc xe ba gác mới toanh. “Phước bất trùng lai”
nhưng rõ ràng là may mắn đang tới song đôi, tôi muốn reo lên: “vậy là bớt cực
gánh đồ, được ngồi trang nghiêm để cúng cơm rồi!”
Tối tối, tôi vẫn ngắm lén
chiếc xe ba gác, cứ sợ mình nằm mơ. Còn cô Hoa chẳng biết có mừng hơn tôi
chăng? Chỉ thấy cô ngủ hai cái chân thò ra khỏi mùng khoèo chặt lấy song sắt
xe. Chùa vẫn chưa có cửa, cô đã nghĩ ra cách “chống mất cắp” bằng đôi chân
mình. Song giỏi lắm là vài đêm đầu, cô không thể cứ thò chân ra cho muỗi đòn
xóc ve vuốt, chưa mất cắp nhưng đã mất máu và sẽ còn mất… sức nữa kia!
Dần dà rồi cũng có chỗ lễ lạy
tươm tất. Thầy thỉnh thoảng vào thăm chỉ chúng tôi cách gặt lúa, phân biệt cỏ để
nhổ, vì chúng tôi cứ nhè lúa mà nhổ bỏ (do cỏ và lúa quá giống nhau).
Tối đến, kiểng chỉ tịnh vang
lên lâu rồi mà chị Nhã vẫn còn say sưa bàn rùm về cách trồng lôm chôm, hoạch định
chương trình lập vườn cây ăn trái cho kinh tế mai sau.
Xin nói nhỏ, chị Nhã là một
người rất thông minh; điều này thể hiện khi chị gắng sức nạy bật mấy gốc cây
trước chùa để thiết lập sân phơi lúa. Đất xới tứ tung, muốn đầm cho dẽ lại cũng
cực. Mà dễ gì dụ chúng tôi, những người đã thấm mệt sau cả ngày phơi mình ngoài
ruộng rẫy? Sau giờ thiền mặc chị nằn nì ra đi kinh hành dùm cho cái sân “của chị”,
chúng tôi cứ im như thóc, chỉ có vài người hưởng ứng lẻ loi. Cuối cùng chị nghĩ
ra diệu kế, mời mọc:
- Nào, mời đại chúng ra đây
em bày cho múa “Một mẹ trăm con”!
Tất cả đều ùa ra, với máu sư
phạm sẵn có, chị Nhã chỉ đạo rất nhuần nhuyễn điệu nghệ. Chị lên giọng, xuống
giọng hát, ra dấu tay lẫn chân – “mẹ” điều hành mười sáu “con” nhảy loi choi loạn
xạ. Tất cả cùng nhảy cùng hát, màn biễu diễn kết thúc bằng tiếng hét của cô Đức
(lúc đó đang tức vị Trụ trì hay Huynh trưởng):
- Trời đất ơi! Tụi nó nhảy
lung tung chị không biết đường nào mà ra…
Tiếng cười nhộn vang lên,
người đắc chí nhất vẫn là chị Nhã vì cái sân đã dẽ xuống như ý nguyện.
Khách ra thăm mang cho bịch
kẹo thơm. Người chia vô ý làm văng xuống sàn giường một viên kẹo. Lập tức trận
thư hùng xảy ra. Chị Nhã và chị Huệ đều “xuất chiêu” mong trói tay đối phương để
giành quyền sỡ hữu viên kẹo tự do ấy. Cả hai cùng chui xuống gầm đơn tranh tài,
tôi không biết ai thắng, chỉ thấy hai chị từ gầm giường chui ra, mặt dính đầy
máng nhện, tiếng cười giòn giã của họ hòa lẫn vào nụ cười mỉm của tôi.
Cận tết, những ngày cuối
đông rừng lạnh kinh khủng. Cô “Hạnh mắt kiếng” (có biệt danh đó vì cô cận rất nặng).
Cô ngủ nơi chiếc đơn kê sát vách nhà bếp. Đêm đến chỗ cô tối thui. Tôi đi ra
sau bếp rửa chân, khi ngang qua cô, cô gọi lại bảo:
- Đoan nì, chị lượm đôi vớ rớt
dưới kẹt giường lên mà sao nó lạ rứa hè?
Cây đèn dầu được thắp lên,
cô Hạnh thất kinh khi thấy tay mình đang nắm ngang lưng cón rắn bự, nó nằm
thõng thượt như bị gấp đôi, ốm xẹp đi, bèo nhèo vì đói…
Cô Hạnh buông vội nói, mắt
hãy còn mở to, ngơ ngác. Đại chúng kéo đến xem cười ồ, con rắn bình thản bò ra
ngoài như không có chuyện gì đáng động tâm (dường như nó cũng tu… thiền? Hay nó
đói quá không còn sức để gây chuyện).
Mỗi tối khi đến tủ thuốc (là
cái thùng cây treo sát vách), tôi ngạc nhiên nhìn màu dạ quang sáng rực khoanh
tròn trên thùng - một con rắn lục – các chị giải thích: - “Rắn lục độc lắm, cắn
chết người, phải cẩn thận”…
Rắn nhan nhản khắp nơi, tại
sao con rắn nguy hiểm ấy lại đẹp lạ lùng vậy chứ? Tôi thích cái màu dạ quang tỏa
rực trong đêm đen của nó. Nó có vẻ chưa muốn hại ai. Nhắc đến thời lập quốc
Viên Chiếu thì không thể quên con rắn lục, vì nó là “trang sức” duy nhất trong
chùa. Nó rất khoái nằm trên thùng thuốc. Đêm đêm, tôi thường hay ngắm nó, nó tự
đến, tự đi, chẳng “ai” làm phiền “ai”.
Cuộc sống tập thể mới này
chúng tôi không thân nhau quá cũng chẳng sợ đến lạt lẽo. Một người đau cả nhóm
đều lính quýnh. Có phải sợ bạn bịnh, thiếu người công tác mình phải làm gấp
đôi? – Không! Không phải thế! – những nỗi niềm lo âu cứ chân thành bộc phát.
Tôi không hiểu sao trong cơ cực người ta thường đối nhau chí tình? Có lẽ vì sự
nhọc nhằn quá lớn nên niềm vui phải tranh thủ kiếm tặng nhau? Bây giờ gặp lại,
những người cũ đều ca ngợi tình bằng hữu thắm thiết chia ngọt xẻ bùi thuở ấy
nhưng người ta không ai muốn hai điều đi đôi: “cực” và “có tình” mà chỉ muốn
“có tình “ chứ không “cực”.
Mỗi thời điểm đều có nét hay
riêng của nó, nếu giống nhau hết thì giờ này tôi đâu phải viết chuyện này cho bạn
đọc?
Mùa xuân đến, Viên Chiếu rộn
rã tươi tắn hơn – dù sao cũng có mấy ngày nghỉ ngơi “thiên đường” – còn có bánh
ăn nữa chứ? Tôi nhớ mùa Trung thu sư bà Vĩnh Bửu ra thăm, ủy lạo cho mấy cái
bánh. Bánh Trung thu nhưn đậu đỏ mà sao ngon lìm lịm. Chúng tôi đã ăn toàn “cỏ”
ngót mấy tháng nay rồi còn gì??
Nghe nói lá mồng gà, bông thọ,
lá ớt… đều ăn được tôi rất mừng. Bởi vì tất cả rau trái ở ruộng đều đã được “vặt”
sạch để cung cấp cho mấy cái miệng hạm ăn của chúng tôi. Mà muốn đổi khẩu vị
thì chỉ điền vào những thứ chưa biết. Lá mồng gà, bông thọ… ăn đắng thí mồ! Ăn
một lần là ngán ngược. Chỉ có rau mồng tơi là được xào, trộn, luộc, chế biến đủ
kiểu… Và bây giờ nếu muốn tặng mồng tơi, xin bạn hãy tìm đến chị Thủy, chị Trạm,
chị Tánh… để biết thế nào là nhăn nhó, không chừng còn bị điếc tai vì nghe càu
nhàu. Tôi còn nhớ chị Trạm đã rên rỉ: - Ôi! Trời ơi! “mùng”… nữa hả?? Sao ngày
nào cũng là “mùng” hết vậy?? Phần tôi nghe tới mồng tơi là muốn phát lãnh, mồng
tơi bảy món mà ăn ngày này qua ngày khác, hỏi ai mà không ớn?
Ta trở lại chuyện mùa xuân.
Mồng một tết mọi người được chia nửa đòn bánh. Chúng tôi đang bu quanh cô Đức để
chúc tết và tán gẫu thì giật mình vì tiếng la hoảng của chị Huệ. Chị đang nhàn
nhã nhâm nhi khẩu phần mình thì bị một kẻ háu ăn nào đó tấn công. Xin mách bạn
thủ thuật bảo vệ quyền sở hữu của chị: cứ le lưỡi liếm quanh cái bánh là an
toàn. Cái bánh được bảo vệ bằng vòng đai nước miếng vậy mà vẫn chưa đủ sức “đẩy”
lui đối phương. Thấy nguy cơ bị cướp giựt tới nơi, chị Huệ vừa chạy vừa ngốn thật
nhanh nửa đòn bánh. Tôi chỉ thấy đôi mắt chị trợn ngược… Ơn Phật! Tôi đã lo hơi
xa, vì tới giờ chị vẫn còn… sống, sống thật dai và thật hùng. Biết đâu lại chẳng
nhờ hơi hướm tươi trẻ thuở xưa? Ngay chính tôi bởi cứ làm khán giả nên tha hồ
cười, để rồi mập càng thêm mập!...
Thật là một thiếu sót lớn nếu
như tôi không kể về cô Đức (có lẽ phải gọi là cô Trụ trì, song tôi thích nhắc
đích danh cô với bất kỳ Trụ trì nào khác). Cô thường ra ruộng làm và kể chuyện
đời xưa cho chúng tôi quên cực. Những ngày không ra ruộng, cô ở nhà gắng sức
làm bếp đãi chúng tôi. Sự chăm sóc của cô biểu hiện qua các món ăn rất khác người
– thiên tài của cô chăng? - dạo ấy cứ thấy cô lui cui trong bếp là tôi thích
mê, vỉ biết rằng thế nào từ ruộng về cũng sẽ có món gì đó lạ miệng lạ mắt.
Buổi sáng trước khi tôi ra đồng,
cô tuyên bố:
- Chị sẽ đãi mấy đứa món rất
khoái khẩu…
- Món gì hở cô? – Tôi hí hứng
hỏi.
- Bánh bò! Cô vui vẻ đáp.
Tôi cầm cuốc ra đi, âm thanh
ngọt dịu của cô như đang quyện vào cái bánh bò thật to trong trí tưởng tượng của
tôi.
Trưa về, chúng tôi vừa ngồi
vào bàn, cô dọn ra một dĩa… xẹp lép, bột nhão nhẹt.
- Gì đây cô?
- Bánh lết! “Bò” không được
thì lết!
Không ai nhịn được cười.
Nhưng có lẽ đó là những cái bánh chúng tôi ăn ngon nhất trong tháng ngày ấy.
Khi cô mừng “thập chu niên”
của mình, chị Thủy hỏi:
- Già định đãi món gì đây?
- Chè Trôi nước! – Cô đáp gọn.
Đúng là “trôi bềnh bồng” thật!
Tôi ngắm tô chè: bột vỡ ra trôi lềnh bềnh như hình những cụm mây, nước chè vàng
đục lợn cợn nhưn; rõ ràng là bột đi đường bột nhưn đi đường nhưn!
Mặt cô xìu đi vì tiếng châm
chọc dai dẳng của đại chúng. Với tôi, đó là tô chè dễ thương nhất, khó quên nhất
– tô chè nồng ấm tình người.
Tới giờ tôi vẫn mường tượng
được dáng cô lui cui trong bếp. Tôi hiểu một điều: cô muốn săn sóc bọn tôi để làm
dịu bớt phần nào nỗi cơ cực. Xin trân trọng giới thiệu, cô cũng chính là “thầy”
dạy nấu ăn của tôi. Nhờ hồng phúc đời trước, tôi được truyền thừa hết mọi kỹ
năng “khéo léo” của cô, và trò… không thua thầy mấy.
Thành tích của cô không chỉ
có bấy nhiêu - Hạnh Pháp vốn tính siêng năng, trồng bông thiệt nhiều và khoe rằng
bông bán được giá lắm - Thế là cô, chị Thủy, Hạnh Pháp cùng ôm bông trực chỉ tới
chợ tìm mối tiêu thụ…
Tôi không mục kích chuyện
buôn bán của ba người, chỉ nghe chị Thủy về kể:
- Nè, Hạnh Pháp bán đắt nhất,
mỗi người chia nhau đi mời khách, tìm mối… chị bán được mấy bó, còn già Đức hả?
Hi hi!...
- Sao hả chị??
- “Giả” đi tới đi lui, ôm bụi
bông to chần dần mời không ai mua mà còn bị bà thu thuế thộp.. áo bắt đóng tiền
chỗ nữa chứ!..
Quay sang cô Đức, chị Thủy sỉ
vả:
- Cái mặt già “dzô dziên” đã
bán không được mà còn làm tốn tiền thêm!...
Nhìn cô Đức cười hiền lành,
tôi ngắm mấy bó bông mà thấy tội. Xin giải thích: bông đem bán chỉ có Mồng Gà,
Vạn Thọ… chứ nào phải những loài hoa hương sắc như bây giờ?
Những khi tôi ho hen cảm
cúm, cô đều đến xoa dầu, nhắc mặc thêm áo, đắp chăn… Thỉnh thoảng có ai mời ăn
cỗ, cô kéo tôi theo. Nhìn cái mặt ngơ ngáo của tôi cô phì cười dạy luôn cách ẩm
thực cho biết “văn minh” với người.
Có hôm lao tác mệt mà chưa tới
bữa ăn, tôi lẻn vào bếp bốc ít cơm nguội ăn cho đỡ đói. Ai ngờ bị cô bắt gặp tại
trận mình đang ăn vụng… khi tim tôi mặc tình đập loạn nhịp vì sợ thì cô đã mỉm
cười bao dung, đặt thêm vào tay tôi mấy củ sắn… tôi hiểu tại sao mỗi lúc cô đi
đâu xa, có người than thở:
- Cô Trụ trì đi, chùa vắng dễ
sợ!...
Quả thật vắng một người như
vậy cũng đáng buồn lắm chứ!
Mùa đậu chúng tôi tập trung
ra làm ở Linh Chiếu 2, tức chỗ Linh Chiếu bây giờ (hồi đó chưa có Linh Chiếu)
lúc ấy hãy còn hoang vu lắm, chỉ có nhiều nắng gió và mưa giông.
Gặp buổi nhổ đậu, để dụ khị
chúng tôi hăng hái làm, chị Thủy đề xướng:
- Bây giờ mình nhổ đua, ai tới
đích trước là thắng!
Giải Thanh vừa nhổ vừa chạy
thật nhanh, người “anh hùng” ấy vừa “đáo bỉ ngạn” đã khóc rống lên:
- Con bò cạp nó chích em!
Con bò cạp nằm lẫn trong lá
đậu đã “hại” Giải Thanh, có ai ngờ phút chiêế thắng lại đưa Giải Thanh về miền
nhức nhối. Nhìn kẻ “có công” nằm rên rỉ, ai nấy đều tức cười và tội nghiệp.
Không phải lúc nào cũng bận
rộn. Buổi chiều, sau khi công tác xong, dòm Hạnh Khiết mập mạp tôi ngứa mắt, rủ
rê:
- Ê! Lấy xe ba gác đi chơi
Khiết!
Hạnh Khiết làm tài xế đèo
tôi sau lưng, cô Đức ngồi chễm chệ trong xe.
Tôi sung sướng tận hưởng
giây phút thảnh thơi được mơn man bởi cơn gió chiều mát rượi thì cả ba chúng
tôi đồng bắt gặp thầy đang tập xe đạp trờ tới (thầy tập chạy xe đạp để tiện việc
vào dạy kinh cho chúng tôi). Thấy vẻ hớn hở của chúng tôi thầy từ tốn hỏi:
- Mấy đứa đua xe hôn?
Lập tức chúng tôi hưởng ứng
liền. Chiếc xe ba gác cồng kềnh, dù nhỏ Khiết ráng đạp trối chết vẫn cứ tụt lại
phía sau (dù chúng tôi đã cỗ vũ liên hồi), thầy đã bỏ rơi chúng tôi một quãng
xa, còn ngoái lại xác nhận:
- Mấy đứa thua rồi nghen!
Hạnh Khiết nói nhỏ:
- Hồi nảy ham đua vô tình ép
xe thầy vào lề, thấy thầy đảo tay lái em hết hồn không dám đạp nữa…
Thua thắng gì cũng vinh dự,
có mấy ai được đua xe với thầy đâu?
Gặp khi đẩy xe đi xay lúa,
mùa mưa chân bết bùn, tới thiền thất tôi ngần ngại không dám bước tới chỗ thầy
thì thầy đã ngoắc:
- Mấy đứa lại đây, thầy cho ổi
ăn nè!
Tới giờ thiền vẫn không quên
nụ cười hiền hòa cùng cung cách dạy dỗ đặc biệt của thầy, thầy đã nương tay khá
nhiều cho bọn nhỏ chúng tôi vào thời “rừng rú” đó. Nét hồn nhiên được nuôi dưỡng
cho chúng tôi lớn mạnh để đủ sức vượt qua buổi đầu đầy khó khăn…
Kỷ niệm xưa còn rất nhiều,
vì hai mươi năm dồn lại phút giây này thì có biết bao điều để nói?
Bây giờ tôi chỉ là một người
đứng bên rào Viên Chiếu. Dù vậy tôi vẫn ăn mừng hai mươi năm của mình. Tôi có vẻ
như - muốn bước ra khỏi thầy, khỏi vòng tay của bè bạn - sống như người quên cội
nguồn và bạc bẽo nhất trần đời! Nhưng tận đáy lòng vẫn có điều không thể quên –
Tôi không bao giờ quên được bè bạn cùng vị thầy khả kính đã dìu dắt mình.
Các kinh điển cũng như bao
sách minh triết đã hằng nhắc: Một cái tâm còn phiền não sẽ không giúp ích gì được
cho ai. Muốn giúp ai, trước phải tự điều phục tâm mình. Khi tâm tư mình an lạc
người chung quanh cũng được hạnh phúc lây… còn bây giờ dù có muốn “hà hơi yêu
thương” chăng nữa… thì độc khí của tham sân si cùng bao nhiêu phiền não chướng
sẽ giành nhau mà tuôn ra… mói là rủi ro biết bao nhiêu? Khi không kiểm soát được
mình bảo đảm tôi sẽ trút hết “giông gió” từ tật tánh mình cho người bên cạnh
lãnh đủ rồi còn đổ thừa: tại sao họ làm mình giận, tại họ làm mình phiền não nữa
kia!?
Tôi nhắc chuyện Viên Chiếu
ngày xưa không phải để hoài niệm, tiếc nuối… thời nào tâm vẫn vậy – không thêm
bớt điều gì lạ lẫm – có chăng mừng mùa xuân con heo này xin chúc nhau: chúng ta
sẽ khéo điều phục được tâm mình, tận hưởng niềm an lạc bất tuyệt của nội tâm, rồi
từ đó có thể giúp ích được cho người.
Nếu chưa có tí tẹo giác ngộ
nào (giây giác), mà chung quanh bạn vẫn có nhiều người xác nhận: “Vắng bạn trời
đất trống rỗng!...” thì hãy nên mỉm cười đi vì bạn thực sự sống có ích – hay bắt
đầu có ích rồi đấy! – Còn như gặp mình mà người ta nín thở cười gượng, chia tay
mình họ thở ra nhẹ nhỏm… thì ta nên về “đóng cửa” nhìn lại tâm mình, cố hiểu
câu: “Mọi người là phóng ảnh của chính mình” để khỏi trách hờn: “Trần gian này
sao ta cô đơn quá, ai cũng “xấu” nên không hiểu được một kẻ “cao thượng” như
mình!...
Tìm ra được những khiếm khuyết
còn ẩn nấp trong tâm, có nghĩa là ta đã thuộc bài: “Cá nhân cũng là đại thể…”
và trong mối tương quan “trùng trùng duyên khởi này”, giúp người chẳng bằng
giúp mình! Ta hãy cùng nhau: - bình cái tâm đa sự này trước - rồi mọi việc sẽ ổn,
phải vậy chăng??..
11-1-95
Bên Nớ… Bên Này
Người khép cửa giã từ trò chơi giỡn
Đứng bên lề ta len lén ngó qua
Hai mươi năm… tưởng chừng một sát na
Nhìn tóc bạc da nhăn… mà thấy lạ
Đã hết thuở giành ăn la chí choé
Mừng trăng thu cùng bách bộ ngoài đường
Đi bên nhau dàn hàng dưới mù sương
Nghe hạnh phúc mênh mang về tỏa khắp
Đã hết thuở quần chằm, áo vá…
Mái nhà tranh tua tủa chẳng then cài
Nét hồn nhiên rừng lá cũng đâm say
Thân thiến quá, dù bốn phương gặp gỡ…
Thương Viên Chiếu cái gì cũng dỡ!
Dở nấu ăn, dở cung cách trang đài!
Giỏi nước lì! Giỏi quậy phá, ba gai!
Ai từng ghé một lần mà không nhớ?
Giòng thời gian chuyển mình bao thay đổi
Người hôm nay lo làm Phật đương lai
Ta bên rào dệt một chút trần ai
Mừng Viên Chiếu ngày tròn hai mươi tuổi…
Đứng bên lề ta len lén ngó qua
Hai mươi năm… tưởng chừng một sát na
Nhìn tóc bạc da nhăn… mà thấy lạ
Đã hết thuở giành ăn la chí choé
Mừng trăng thu cùng bách bộ ngoài đường
Đi bên nhau dàn hàng dưới mù sương
Nghe hạnh phúc mênh mang về tỏa khắp
Đã hết thuở quần chằm, áo vá…
Mái nhà tranh tua tủa chẳng then cài
Nét hồn nhiên rừng lá cũng đâm say
Thân thiến quá, dù bốn phương gặp gỡ…
Thương Viên Chiếu cái gì cũng dỡ!
Dở nấu ăn, dở cung cách trang đài!
Giỏi nước lì! Giỏi quậy phá, ba gai!
Ai từng ghé một lần mà không nhớ?
Giòng thời gian chuyển mình bao thay đổi
Người hôm nay lo làm Phật đương lai
Ta bên rào dệt một chút trần ai
Mừng Viên Chiếu ngày tròn hai mươi tuổi…
Lời Ngu Ngơ
Khi ánh sáng gọi hồn mê mở mắt
Vào chiêm bao bằng tiếng khóc chào đời
Cho áo hạ lay nguyền xưa thức giấc
Thoáng chao hồn qua từng hạt sương rơi
Ta đã diễn trăm nghìn lần khuôn mộng…
Cười ngu ngơ và khóc cuộc vô thường
Nghe chơi vơi vì trần gian ảo bóng
Xác thân hòa trong bãng lãng khói sương
Từ lên non… pháp âm ôi trầm lắng
Hồn thiên thai, bóng tiền kiếp hiện về
Gió, biển, núi… trao bình an tĩnh lặng
Giọt lệ nào, thổn thức… rớt trong mơ!
Vào chiêm bao bằng tiếng khóc chào đời
Cho áo hạ lay nguyền xưa thức giấc
Thoáng chao hồn qua từng hạt sương rơi
Ta đã diễn trăm nghìn lần khuôn mộng…
Cười ngu ngơ và khóc cuộc vô thường
Nghe chơi vơi vì trần gian ảo bóng
Xác thân hòa trong bãng lãng khói sương
Từ lên non… pháp âm ôi trầm lắng
Hồn thiên thai, bóng tiền kiếp hiện về
Gió, biển, núi… trao bình an tĩnh lặng
Giọt lệ nào, thổn thức… rớt trong mơ!
1977
Thường Chiếu Trong Mắt Tôi
Chớp mắt chưa qua đời khác,
người một phần tư thế kỷ đã trôi qua với biết bao thay đổi. Cõi mộng dù có đủ
nước mắt nụ cười vẫn tồn sinh nhiều giấc mơ đẹp. Tôi có thể nói như vậy khi đặt
bút viết mừng hai mươi lăm năm thiền viện Huynh Trưởng: Thường Chiếu.
Tôi vốn không ưa các vị
tăng. Có lẽ do thuở bé chứng kiến nhiều điều trái đạo đã in sâu vào tâm trí non
nớt; có lẽ vì “tăng” luôn được ưu đãi và có thể vì máu đố kị thấm sâu nơi bản
chất khiến tôi thành vậy. Nhưng ngày đầu tiên lên Chân Không, tôi đã ngây người
đứng ngắm những tà áo vàng của các tăng sĩ nơi đây, màu hoàng y nổi bật giữa
núi đồi, cảnh biển xanh trải dài trước mặt và chung quanh núi, đá dựng chập
chùng khiến Chân Không có một nét siêu thoát riêng, khó tìm thấy ở nơi phố thị.
Cho đến khi giải phóng, Chân
Không tách thành Thường Chiếu, tà áo vàng không đủ “mê hoặc” như ở núi đồi
nhưng “Hồn Thường Chiếu” vẫn là “Hồn Chân Không” – có khác chăng là cảnh sống
phải lao tác nhiều hơn. Trong cái đầu ngạo mạn của tôi lúc ấy đã biết thế nào
là thán phục khi lần đầu tiên đọc Thanh Qui của Thầy: “Tăng sĩ không được hút
thuốc uống rượu, kể cả rượu bia và phải chú trọng vào việc chuyên tu…” Nhiêu
đây đủ để tôi kính lễ trong lòng rồi!
Thường Chiếu sinh sau Chân
Không nhưng trách nhiệm và công việc vất vả hơn bội phần, lại còn phải “trông
chừng”” em, tức Viên Chiếu chúng tôi… Lúc ấy chưa có Huệ Chiếu, Linh Chiếu, Phổ
Chiếu… Vậy mà Thường Chiếu cực rất nhiều. Bởi “chăn” một đứa em có lắm chứng tật
thì vất vả bằng mấy đứa em ngoan, may là ba thiền viện sau đều hiền, dễ dạy, chứ
nếu không Thường Chiếu sẽ nhập “Nát bàn” sớm vì chịu hết thấu!
Ngày đầu tiên giã từ núi,
“dân” Chân Không về Thường Chiếu “hùng cứ” ở ngay mặt tiền. Nói vậy chứ trú xứ
đó cũng còn khá hoang vu, đường lộ xe chạy hiếm hoi. Còn dân Bát Nhã dời về
Viên Chiếu “đóng quân” ở tít trong rừng. Thầy tội nghiệp nên cho Thường Chiếu
vào giúp đỡ.
Gặp chúng tôi ngơ ngác chưa
từng quen làm ruộng nên quý thầy phải vào đập lúa dùm. Quý thầy đóng cái bồ thật
to, hình dáng như đài ra đa trên đỉnh núi Chân Không. Mỗi lần di dời, khiêng bồ
đi rất nặng, chúng tôi dẫu mươi người chưa chắc đã khiêng nổi - vậy mà quý thầy
chỉ có hai người – khiêng bồ mệt, đập lúa càng mệt hơn – Vì chúng tôi không
rành gặt, cắt lúa chẳng vừa khiến quý thầy khó đập. Gặp hôm lúa dài quá thầy
Phước Tịnh tức mình nói lẫy:
- Nè, mấy cô cắt ngắn qua, cắt
dài thêm nữa đi!
Tưởng bở, chúng tôi xúm nhau
cắt dài gần tới gốc. Cọng lúa dài ngoằn nằm giữa ruộng ướt sũng nước. Khi bó
lúa được vác tới, thầy Phước Tịnh ngao ngán than:
- Hết biết mấy bả! Đập như vậy
chắc có nước chết!
Chúng tôi hiểu ra vội cắt ngắn,
ngắn quá quý thầy đập cũng khó khăn.
Hơn nửa tháng trời có quý thầy
giúp đỡ mới xong vụ mùa. Mùa lúa bội thu được hai trăm giạ (Ấy, chẳng phải Viên
Chiếu hay đâu, vì trước lúc chúng tôi “hạ sơn” thầy đã lo xa chuẩn bị sẵn, nhờ
người gieo trồng trước, khi chúng tôi đến Viên Chiếu thì chỉ phải nhổ cỏ, chăm
sóc chờ gặt lúa thôi. Do đất bỏ hoang lâu, mới trồng lần đầu nên trúng mùa dữ vậy!)
Năm sau đích thân chúng tôi gieo trống, chỉ thu được… ba mươi lăm giạ! Nhưng
chuyện tệ hại ấy kể ra làm gì kia chứ? Tôi chỉ muốn nhắc cảnh bội thu thôi.
Nghĩa là Viên Chiếu đã nấu một nồi chè xôi nước thiệt bự để ăn mừng và sau đó
cười lỏn lẻn chở lúa đến kho Thường Chiếu gởi cất dùm. Chỗ chúng tôi cửa nẻo trống
hoác, ở còn chưa đủ lấy chỗ đâu cất lúa? Gởi Thường Chiếu là chắc ăn nhất!
Thấy tôi và Hạnh Khiết còn
nhỏ, thầy Nhật Quang và thầy Giác Thanh liền hăm he:
- Nè, lúa mấy cô đem gởi tụi
tôi hết rồi, không giấy tờ có gì mấy cô đói!
Hạnh Khiết ngẩn mặt, ngơ
ngác hỏi:
- Tụi con gởi quý thầy đàng
hoàng mà?
- Không biết! Không có gì
làm chứng hết!
Tôi cười đáp:
- Tụi con sẵn sàng chịu chết!
Quý thầy bật cười - nụ cười
vui vẻ đó khiến tôi hiểu xác định của mình là đúng. Quý thầy hy sinh lo cho em
út không hết có đâu lại…? “Ngu” lắm mới tin lời dọa của quý thầy là thiệt. Phải
vậy không?
Lúc thầy Phước Tịnh và thầy
Phước Hiện vào đập lúa dùm, Viên Chiếu thuở ấy bếp núp cái gì cũng dở. Có cô Hải
Liên nấu đỡ hơn nên cô giữ việc chăm sóc các “cứu tinh đập lúa” – Cô lo chu
đáo, để dành toàn đồ ngon (ngon với chúng tôi lúc ấy). Mà nói phải tội, hình
như chúng tôi (đa số?) đều ngầm ước quý thầy ăn không được để chúng tôi hưởng
ké. Vào lúc quý thầy thọ thực cô Giải Thiện cứ tụng mãi câu: “Lục hòa thì phải
phân chia cho đồng!...”
Mà có lẽ quý thầy nuốt không
trôi thật, ăn trước bao nhiêu cặp mắt “đợi chờ” của chúng tôi thì thà… nhịn đói
sướng hơn!
Mùa đậu, chúng tôi phải ra
làm tận Viên Chiếu 2, (chỗ Linh Chiếu bây giờ). Thêm một cái nhà nhỏ dựng lên để
chúng tôi ở tạm làm suốt mùa đậu. Khi nào “rút quân” thì chừa lại một người coi
rẫy.
Thầy Minh Dũng có lần qua thấy
cảnh chúng tôi sống liền bình phẩm:
- Mấy cô giống mấy con cá
mòi sắp lớp trong hộp quá!
Tiểu Thu lúc ấy bé nhất nên
được tự do ra vào vương quốc… nhà bếp Thường Chiếu! Con nhỏ giống như gián điệp!
Thường Chiếu ăn gì cũng mách chúng tôi nghe, quý cô thường xúi Tiểu Thu qua xin
dừa về nấu canh bí rợ hầm. Thầy Nhật Quang lúc ấy là Huynh trưởng Thường Chiếu,
rất giàu lòng bi mẫn, thường rỉ rả cho đồ… “cứu đói”.
Chúng tôi được thể, cuốc
sút, phảng hư, rựa gãy… nhất nhất đều nhờ quý thầy tra hộ. Vật gì không có thì
mượn tới tấp đến đỗi thầy Minh Dũng phải rên:
- Mấy cô là con gái, tay yếu
chân mềm… mà sao xài đâu gãy đó vậy?
Chúng tôi cũng chẳng hiểu tại
sao? Thường Chiếu phải vào rừng đốn củi, công việc rất nặng nhọc và vất vả.
Chúng tôi lại ngóng ké… mấy củi chà. Nhờ hoài xin mãi, thầy Minh Dũng phải la
lên:
- Bộ mấy cô… cùi sao mà cái
gì cũng xin hết vậy?
Thầy nói thật đúng. Vậy mà
chúng tôi giận (bị chê dù đúng cũng dễ nổi giận lắm!). Tự ái, không ai dám qua
xin gì. Thường Chiếu tội nghiệp đẩy qua cho mấy xe chà (nói chà cho đỡ mắc cỡ
chứ có củi bự nữa!)
Thuở đầu chúng tôi còn lóng
ngóng, việc cuốc rẫy, bang đất quý thầy phải tiếp sức. Thầy Minh Dũng được cử
qua ủng hộ. Thấy tôi cắm cúi cuốc, thầy nói:
- Cô cuốc gì mà khom như muốn
nằm xuống đất? Coi tôi làm nè!
Thầy lấy thế, đúng thẳng người
hất mạnh lưỡi cuốc chạy nghiêng về phía hông - Đất vỡ bung xa và vạt áo hò của
thầy không chịu nổi “thần lực”quá mạnh cũng vuột hết nút bay dạt theo hướng cuốc.
Chúng tôi che miệng cố nín cười. Nhưng nói thật tình, nhờ thầy chỉ mà tôi cuốc
thuần thục.. Thầy bang đất rất tài, nhanh gấp đôi, gấp ba tôi, thầy thuyết giáo
huyên thuyên:
- Mấy cô biết không? Người
ta mà không cho tu hả, tôi móc “guột” tôi để trên bàn thạch.
Lần nào qua giúp thầy cũng
thường hay đòi móc “guột”, tôi nghe riết đâm quen. Từ lúc chị Thủy nhận xét:
“Dám sống hay hơn dám chết!” thầy mới hết đòi “phơi” ruột.
Có lần thầy hí hửng mang tấm
hình mình chụp chung với người em trai qua khoe, chị Thủy hóm hỉnh bình:
- “Đầu lòng hai ả tố nga…!”
Thầy cụt hứng đem hình về.
Sau này lúc tôi về thành phố
đổi cho chị Phượng ta “học tập” Viên Chiếu. Một thời gian sau chị hỏi tôi:
- Em có nhớ ông Minh Dũng
không?
- Nhớ! Sao hả chị?
- Ổng đẩy xe ba gác với tụi
chị bị đạn lạc vô ruột, ổng ôm bụng kêu rên ai cũng tưởng ổng giỡn. Tới hồi
nhìn thấy máu đầm đìa ai nấy mới hoảng hồn vội gọi xe chở đi cấp cứu…
- Tội thầy quá hả! – Tôi chợt
nhớ đến câu hăm he móc “guột” của thầy. Có lẽ hăm hoài ruột cũng bị tai ương
chăng? Sau này thầy đi nghĩa vụ rồi tử nạn ở chiến trường, cũng bị đạn đâm vào
ruột - Tổ quốc ghi công và tuyên dương thầy.
Thầy Minh Dũng tính chất phác,
thật thà. Hay nói hay cằn nhằn, nhưng tôi biết thầy chỉ cằn nhằn cho có, chứ rất
tốt bụng và nhiệt tình giúp chúng tôi.
Vô thường là vậy, người còn
kẻ mất đến bùi ngùi.
Mỗi tháng chúng tôi về Chân
Không học kinh một tuần. Nhân mùa đậu đã tỉa xong, cô Từ Thanh đề xướng:
- Bữa nay nghỉ công tác,
mình làm bánh ăn để ngày mai lên núi học cho thư thái!
Thế là chị em xúm nhau làm
bánh quai vạt. Chị Ngọc giữ việc luộc bánh. Nhà lụp xụp, bếp và chỗ ở cách nhau
một vách tranh, ở trên không thấy được dưới bếp làm gì.
Luộc bánh xong chị Ngọc lên
nhà trên tán gẫu với vài cô bạn. Đa số chúng tôi đều tản mác đi chơi hoặc qua
Thường Chiếu ngắm cảnh, coi làm bánh xèo. Hôm nay Thường Chiếu cũng ăn bánh
xèo, do nhóm quý cô “Bảy Huệ” phụ bếp.
Chị Ngọc đang ngồi trong
nhà, chợt quý thầy ào vô chụp đồ vụt ra ngoài sân, chị ngơ ngác hỏi:
- Sao quý thầy lại quăng đồ
tụi con?
- Trời đất! Nhà cháy mà
không hay, còn hỏi!
Vâng! Đúng là Viên Chiếu 2 bị
cháy đến buồn cười. Người trong nhà chưa phát hiện kịp vì lửa chưa bén tới nhà
trên mà còn đi đường vòng quanh bếp. Nhưng từ bên Thường Chiếu thì đã có thể thấy
lửa bốc trên mái lá tỏa khói mù mịt. May mà quý thầy nhanh chân chạy qua cứu kịp.
Đồ đạc chúng tôi được quăng ra ngoài hết nên an toàn, chỉ có căn nhà cháy rụi,
rổ bánh nằm bẹp dí trong tro than.
Thường Chiếu tội nghiệp, mời
chúng tôi qua ăn bánh xèo. Lúc nào cũng vậy, hoạn nạn hay cơ cực đều có bàn tay
Thường Chiếu nâng đỡ trợ giúp.
Thầy Nhật Quang những khi thấy
tôi ốm bệnh liền nói lên kinh nghiệm của người đi trước:
- Mỗi lần khắc phục, vượt
qua một phiền não là phải bệnh…
Lời thầy dạy tuyệt hay, tràn
đầy thông cảm. Nhưng tôi thường hay lãng đi. Tôi sợ thầy mổ xẻ phiền não, kiết
sử của mình. Thật xấu hổ khi không trình được Phật tâm mà bị người phân tích
tâm chúng sanh.
Bây giờ nhìn thầy mập mạp,
tôi đoán thầy đã triệt tiêu hết phiền não. (Nếu thầy muốn ốm chắc phải lưu chút
trần sa hoặc?...)
Ngày tháng trôi qua, lâu lắm
rồi tôi không ra Thường Chiếu. Nghe tả cảnh Thường Chiếu khang trang, tôn
nghiêm và đẹp như thiên đường!
Để có được ngày hôm nay, bao
mồ hôi công sức đã đổ ra cho ngày đầu tiên. Bao người đã đến và đi nơi Thường
Chiếu. Nhưng Thường Chiếu trong tâm trí tôi vẫn còn phảng phất nét xa xưa: luôn
mộc mạc, giàu lòng hi sinh và bi mẫn. Nếu ngày nay Viên Chiếu đứng vững vàng
cũng là nhờ những bước chập chững đầu tiên có thầy và Thường Chiếu trợ giúp.
Trong trang giấy giới hạn,
tôi chỉ có thể nhắc lại đôi điều. Bước chân của những người thuở xưa nay đã trưởng
thành, nhưng nét son Thường Chiếu để lại trong lòng chúng tôi thật khó phai nhạt.
Chuyện nghĩa ân nói đến bao giờ cho đủ? – Thôi thì câu chuyện này xin được viết
thay lời chúc mừng Thường Chiếu tròn tuổi hai mươi lăm vậy!
Thương
Thương sư tính nết hiền hòa
Lòng băng tuyết tựa Phật Đà trên cao
Thiền đường trống lốc trước sau
Gió thầm ngưỡng mộ thả vào hương hoa
Thương sư từ ái vị tha.
Tâm vằng vặc sáng hơn là trăng sao
Bụi hồng trần thế lao xao
Có vào cũng phải… bay mau ra ngoài
Thương sư bận rộn tối ngày
Những mong độ khắp muôn loài chúng sinh
Đưa người vào cõi tâm linh
Hưởng vui pháp lạc an bình thiên thu
Đạo, đời có khác gì đâu?
Cũng cùng nguồn cội, tâm mầu như nhau
Mê lầm dứt, hết lao đao
Ngồi yên ngắm gió ào ào thổi qua
Lòng băng tuyết tựa Phật Đà trên cao
Thiền đường trống lốc trước sau
Gió thầm ngưỡng mộ thả vào hương hoa
Thương sư từ ái vị tha.
Tâm vằng vặc sáng hơn là trăng sao
Bụi hồng trần thế lao xao
Có vào cũng phải… bay mau ra ngoài
Thương sư bận rộn tối ngày
Những mong độ khắp muôn loài chúng sinh
Đưa người vào cõi tâm linh
Hưởng vui pháp lạc an bình thiên thu
Đạo, đời có khác gì đâu?
Cũng cùng nguồn cội, tâm mầu như nhau
Mê lầm dứt, hết lao đao
Ngồi yên ngắm gió ào ào thổi qua
2004
Ai Đã Từng Buôn?
Không hiểu sao tối nay tôi
không ngủ được. Hình bóng cô già nua chầm chậm đi trên lối mòn Viên Chiếu khiến
tôi nao lòng. Đã bao lần tôi định viết về cô nhưng cứ lần lựa mãi. Tôi tự nhủ:
“Nhất định sáng mai sẽ sang thăm cô, vòi cô kể chuyện”.
Sáng sớm tôi giật mình khi
thấy bóng dáng gầy guộc của cô hiện trước cổng (vọng tưởng mình linh thiệt!). Đợi
cô ngư yên ổn trên chiếc võng trước hiên, tôi vào đề liền:
- Cô ơi! Kể chuyện cô cho
con nghe đi! Chuyện đi buôn của cô đó!
Cô cười hiền lành hỏi:
- Buôn gì?
Xin mở ngoặc về chuyện buôn
bán của người tu. Có lẽ vì người xưa đã “thõng tay vào chợ” nên kẻ hậu sinh bây
giờ phải “tay ôm… vào chợ”.
Tôi cũng từng đi “buôn” nên
rất cám cảnh với cô. Chẳng là lúc trước khi làm rẫy trồng được bạc hà béo tốt,
chị Thủy nhìn tôi đi tới đi lui chướng mắt bèn phán một câu xanh dờn:
- Mai em mang rau ra chợ
bán, tập công pha đụng cảnh cho quen, đổi phiên thay Hạnh Pháp thử coi!
Mặc dù Hạnh Pháp đã nhanh nhẹn
bó bạc hà thành những bó nhỏ xinh xắn và chỉ cách bán bưng giúp tôi, song tôi vẫn
đau khổ ngầm với nghề buôn bất đắc dĩ.
Mới bốn giờ ba mươi sáng, trời
tháng mười đêm dài nên hãy còn tối thui. Tôi đội thúng rau trên đầu, một mình lủi
thủi ra khỏi chùa. Đường đi thấy lờ mờ, đoạn đường từ nhà ra tới chợ ngót hơn
hai cây mà sao dài đăng đẳng (lúc ấy chợ còn mang tên Thái Thiện, chưa dời; chỉ
qua cái cầu là tới. Trái tim tôi cứ dội lên dội xuống thình thịch nghe lùng
bùng cả lổ tai. Phần lũ chó hễ thấy bóng người là sủa nhặng cả lên. Cái tuổi mười
lăm mười sáu thuở ấy không giúp tôi giũ vỏ hết cơn sợ. Tôi sợ ma, sợ chó, sợ
người, sợ… lung tung nên càng thấy lạnh lẽo thêm khi sương khuya cứ vô tình rơi
xuống ướt đẫm.
Rồi tôi cũng ra tới chợ. Bà
bán đậu hũ hiền lành nhường tôi một chỗ ngồi. Trời vừa sáng đủ thấy mờ mờ mặt
người. Tôi ngồi chồm hổm cạnh thúng rau. Trí óc lo ôn lại lời dặn của Hạnh
Pháp:
- Nhớ nói hai đồng một bó
nghe, mà người ta mua năm đồng thì bán cho họ ba bó!
Và tôi chuẩn bị mời chào.
Vừa định mở miệng thì tự
dưng quai hàm tôi cứng ngắc. Chỉ khi khách đi qua rồi tôi mới bật ra được thành
lời, nhưng âm thanh lớn chỉ đủ cho lỗ tai tôi nghe. Buổi chợ mai quá sớm cộng với
cái chỗ ngồi khuất khiến khách và tôi không kịp thấy nhau. Thêm cái nón trên đầu
che lụp xụp cốt để giấu nỗi xấu hổ cho tôi và nó cũng giấu luôn dùm cái mặt tôi
nên người mua nếu không để ý là chẳng thấy tôi ngồi với thúng bạc hà. Cuối cùng
thì tôi cũng bán được nửa thúng (gặp tay Hạnh Pháp thì giờ này đã hết sạch).
Tôi về tới chùa thì trời đã gần trưa. Chị Thủy đón tôi với câu chào:
- Ế! Ế! Cái mặt bán ế! Dở ơi
là dở!
Đó là chuyện một lần đi buôn
của tôi. Còn cô dĩ nhiên là nhiều lần và chuyện của cô tôi chỉ biết đôi chút.
Hồi ấy, nghĩa là cách đây
hai mươi mấy năm, cô thường trụ ở cái cốc trên núi nhưng thỉnh thoảng cũng xuống
Viên Chiếu ngụ với chúng tôi cho vui. Thời ăn độn khó khăn ai cũng vất vả. Tuổi
cô trên sáu mươi nhưng cô vẫn quyết định chia xẻ gian khổ với chúng tôi bằng
cách đi bán cơm rượu.
Những buổi trưa công tác
xong chúng tôi thường xúm xít phụ cô vò viên cơm rượu và đôi lúc cũng ăn ké
luôn những chén cơm rượu thơm nồng, ngọt lịm.
Sáng sớm, cô ôm thẩu cơm rượu
rời chùa đi mời từng nhà, ai gọi vào thì cô bán. Sự chịu khó của cô làm tôi se
lòng và tới giờ tôi vẫn còn thắc mắc, không hiểu sao lúc ấy bọn tôi không ai cản
ngăn để cô bớt nhọc nhằn? Cô là thân mẫu cô Đức, cô Đức lúc ấy đang làm huynh
trưởng (tức chị đầu đàn). Chị đầu đàn ngày ngày còn phải vác cuốc ra ruộng tắm
mình với bùn sình… và có lẽ do chúng tôi còn ăn rau rừng nên cô còn phải một
mình lang thang với thẩu cơm rượu.
Nghe kể cô đi tu từ lúc cô Đức
còn bé tí. Vậy mà tới giờ tất cả chúng tôi vẫn gọi cô bằng tiếng “cô” ngọt
ngào. Dường như trong tiếng gọi đó, tôi cảm thấy ấm áp, chan chứa tình thân và
có cảm giác mình được ké luôn “cô” của huynh trưởng.
Khi cô ra bán ngoài chợ, mấy
bà hàng rau vốn hảo món cơm rượu cô làm nên kháo nhau mua ăn rất đông. Nhờ vậy
cô thường được về sớm.
Một bữa, cô bày hàng cạnh
con nhỏ bán bánh bò. Đang bán rất đắt khách thì có một bà già tới kêu:
- Bán cho tôi năm xu coi!
Ăn xong bà đòi múc thêm chén
nữa rồi chê:
- Hồi nãy thì ăn thấy được!
Giờ sao đắng nghét, có đổ cho chó nó cũng không thèm ăn!
Rồi bà dằn mạnh chén xuống
trông rất dữ.
Cô nói với bà:
- Nếu ăn không được để tôi
ăn. Tôi không dám lấy tiền bà đâu. Tôi chỉ lấy tiền chén ăn được thôi!
Tôi thắc mắc hỏi cô:
- Rồi cô có ăn chén của bà ấy
không?
- Đâu có! Cô nói vậy cho êm
chuyện, đọi bà ấy đi cô lén đổ bỏ chứ!
Mấy người bán hàng quanh đấy
giải thích với cô:
- Cái bà già này tánh ngộ lắm
chỉ thích mua chứ không ưa trả tiền! “Bả” là bà nội con nhỏ bán bánh bò. Tại
khách ăn cơm rượu nhiều làm hàng bánh bò bị ế nên “bả” ghét, “bả” kiếm chuyện
gây vậy đó! Mai cô qua chỗ tụi tôi ngồi bán, kẻo không lại bị ăn hiếp nữa!
Viết đến đây tôi muốn tặng
cô bốn câu thơ cải biên:
Cơm rượu mang ngàn nhà
Thân đi muôn dặm xa
Hé môi mời người thế
Bị chửi, cười… cho qua
Thân đi muôn dặm xa
Hé môi mời người thế
Bị chửi, cười… cho qua
Đó là những chuyện tôi biết
được về cô. Giờ ngồi cạnh cô tôi tranh thủ tọc mạch thêm:
- Cô kể chuyện đi buôn nào
mà con chưa biết đi cô!
Cô cười chìu ý:
Hồi ấy mới giải phóng xong,
gặp năm thất mùa đói kém, chật vật lắm mới có được miếng ăn. Cô già rồi nên
không thể lao động nặng được. Đang kiếm cách mưu sinh thì tình cờ gặp mấy người
vấn thuốc lá. Cô lân la hỏi thăm, họ liền đề nghị cô bán thử. Nghĩ có việc cũng
có tiền nên cô nhận lời.
Cô mang thuốc xuống núi bán,
thuốc lúc ấy rẻ lắm; một đồng một gói mà ít người mua. Cô cứ mời khách hút thử,
hễ được cô mới tính tiền. Khách thấy tội, vui vẻ mua dùm.
Lần sau cô đến mời mua thì
khách ngạc nhiên hỏi:
- Lúc nãy có người mang thuốc
tới bán, nghĩ là của cô nên tôi mua giúp rồi. Thế thuốc ấy có phải của cô
không?
Nghĩ ai cũng cần bán thuốc
nên cô gật đầu, cám ơn khách cho qua chuyện. Thật ra mấy người vấn thuốc thấy
cô bán được bèn dò la rồi cho người đến bán trước cả.
Vậy là cô đi ra Bến Đình
bán, không rành đường nên cô đi lạc tới ngã Năm (cô có một điểm ngộ kỳ lạ là
không nhớ đường. Nếu cô muốn về Vũng Tàu, từ Viên Chiếu ra đón xe nếu chúng tôi
không theo canh chừng thì cô có thể ngồi lộn trên tuyến về Sài Gòn). Cô cứ lựa
tiệm chạp phô mà vô mời. Gặp một bà già trong tiệm nọ vừa xem thuốc đã lắc đầu
nói:
- Thuốc này ở đây không ai
hút đâu, bán không được!
Cô kiếu bà rồi đi ra. Đi tới
đi lui một hồi lại thấy có tiệm chạp phô nữa cô mừng quá bước vô, bà hàng trừng
mắt nhìn cô gắt:
- Hồi nãy bà mời rồi, tôi
nói không mua được, vậy mà bà vẫn vô nữa là sao??
Hoảng hồn, cô chào bà rồi vội
vã rời tiệm. Lòng tự trách không phẩn biệt kỹ để xảy ra lầm lộn. Ngặt nỗi đường
đi ngõ quẹo lung tung khiến cô càng khó nhớ. Lần này gặp tiệm chạp phô nữa, cô
e dè ngắm thật kỹ. Thấy tiệm này chỉ có một bé gái trông coi. Yên tâm là tiệm lạ
nên cô mạnh dạn bước vô mời. Chợt nghe con bé gọi: “Má ơi”!... tim cô tự nhiên
đập thùi thụi. Mà đúng thiệt!... không xong rồi! Bà già khi nãy đã bước ra,
trên tay còn cầm đôi đũa… nhác thấy cô, bà nộ khí xung thiên, hét:
- A! Cái bà này! Tui nói bán
không được mà cứ nhào vô hoài!??
- Dà! Dà! Xin lỗi bà! Tôi đi
ra liền đây!
- Chứ không đi ra thì ở đây
giỡn với tôi chắc? Ra vô đâu phải ít! Ba lần rồi! Người gì kỳ ôn!
Bà hàng xóm thấy ầm ĩ, chạy
qua hỏi thăm; biết cô không rành đường nên khuyên can:
La gì dữ vậy? Người ta tu
trên núi xuống bán, đâu có rành đường?
- Bán buôn gì kỳ cục! – Bà
chủ tiệm hét to – “Bả” cứ dẫn xác vô đây hoài! Sáng sớm mới mở cửa hàng đã thấy
“bả”, giờ trưa cũng gặp “bả”. Tôi mắc nấu cơm, ai ở không mà giỡn cù cưa cù nhầy!??
Thấy cô quýnh quáng kiếu từ,
bà láng giềng tội nghiệp mua dùm ít thuốc.
Cô về tới chùa thì trời đã
trưa lắm. Nghĩ bán thuốc không ổn, cô xoay qua bán chả.
Cô đem mấy đòn chả xuống chợ
bán. Mấy bà hàng ở đó thích lắm, xúm nhau đặt và dặn cô đem tới nhiều cho họ.
Hôm sau, sáng sớm cô mang tới
đủ y như họ dặn nhưng không ai mua. Chẳng phải họ làm ngơ, mà tại cô tới trật
chỗ. Cô quên hẳn chỗ của những người đã đặt hàng và không tài nào kiếm ra. Vậy
đó, hàng lớp bán, lớp ế; tất cả đều tại cái tật không nhớ đường của cô. Mà ngộ,
kinh sách cô nhớ hết, chỉ có đường xá là không sao nhớ nổi.
Dẹp nghề bán chả, trong cốc
còn nửa lon gạo cô không dám nấu, ăn trái mít ướt người quen cho đã đủ no. Có
người mách dưới núi vừa mở lò bánh tiêu giò chéo quẩy và rủ cô đi bán; nghĩ
mình đi bán kiếm nửa lon gạo ăn cũng đỡ. Thầy Viện chủ còn phải trồng tỉa; cô
không trồng được, thì thôi đành phải đi bán vậy.
Bánh tiêu lãnh mười hai cái,
bán hết thì lời được một cái. Mới đầu cô bán đắt lắm, bán xong là đến đưa tiền
cho chủ ngay. Chủ lò thấy cô bán được nhanh liền ngầm cho con theo dõi rồi
nhanh chân đem hàng đến bán trước; thế là cô mất mối, bán ế nhệ. Cô ôm thúng
bánh quay về chùa, đang lay hoay chưa biết phải làm sao thì may gặp Diệu Hảo, Hảo
liền đi bán dùm cho cô.
Vậy là xong! Nghề nào cũng
không bền!
Kể đến đây giọng cô bùi
ngùi:
- Nghĩ tội Diệu Hảo, tình
nghĩa lắm! Y đi rồi cô vẫn còn nhớ, cô có làm bài thơ tặng y:
Hảo ơi,
Nhớ khi lần bán bánh tiêu
Vì lòng trắc ẩn quạnh hiu tuổi già
Cánh hồng bay bổng phương xa
Lão nay tám mốt, biết là gặp chăng?
Nhớ khi lần bán bánh tiêu
Vì lòng trắc ẩn quạnh hiu tuổi già
Cánh hồng bay bổng phương xa
Lão nay tám mốt, biết là gặp chăng?
Tôi hỏi:
- Năm nay cô bao nhiêu rồi hả
cô?
- Tám mươi lăm! – Cô đáp gọn.
- Tám mươi lăm! Đoạn thứ ba
trong Tứ Đế mà cũng gần đoạn cuối cuộc đời. Cô đã là một bóng cả cây cao trong
khu vườn Viên Chiếu. Nói đến bán buôn nào có ai lạ lùng gì? Điều khiến tôi cảm
xúc là cách cư xử của cô.
Tôi thường bảo các em mình:
- Có tật thì lo mà sửa khi
còn trẻ, thắng còn ăn; về già giây thần kinh lờn, thắng không được, tật nhẹ sẽ
thành nặng… chừng đó mắc công người ta trách; “già sinh tật”, không những khổ
mình mà làm khổ lây cả người xung quanh.
Nhưng… dường như bọn trẻ
chúng tôi không phải “tinh hoa” mà là “tật” thường… phát tiết sớm? (vì “hậu
sinh khả úy” mà).
Có lần cô bảo tôi:
- Sợ lắm con à! Cô nghĩ mình
còn khoẻ mà để mấy em giặt giũ, săn sóc; cô chịu không nổi! Giờ còn khoẻ cô còn
tự làm được, bao giờ suy yếu quá rồi hãy tính!
Ôi trời! Nỗi ngại ngùng của
bà lão trên tám mươi luôn đặc biệt hơn thế hệ trẻ chúng tôi. Tôi mà được em nào
chăm sóc là mũi cứ hỉnh thầm, ngỡ mình phước như Đông hải chứ đâu sợ bị hao mòn
phước như tư duy của cô?
Tôi thích nghe giọng nói hiền
lành nhẹ nhàng của cô. Âm thanh chất chứa nỗi niềm rất thật. Dù cô già, tôi vẫn
thấy bàng bạc nét vô tư của trẻ thơ. Nhiều lúc tôi tự mình: “Giả như tôi gặp
chuyện in cô, tôi sẽ xử sự ra sao?” chắc chắn tôi không có được nét khiêm cung
đáng quý ấy. Năm năm, mười năm, hai mươi năm; nếu tôi không nhìn lại mình,
không cố gắng tu sửa thì tánh tật vẫn còn nguyên như cũ, mỗi ngày chồng chất nặng
thêm hơn.
Tuổi trẻ ngũ quan còn tinh
anh, như một chiếc xe mới ráp. Tuổi già giống như xe cũ mòn, bánh yếu; sườn
cong. Vậy mà thuở trên lục tuần cô xử sự hãy còn rất tinh anh. Tôi là người thời
nay, tôi không hoài cổ đi tìm những gì ngoài tầm mắt. Tôi thích những điều thật,
gần gũi, đang xảy ra trong cuộc sống. Và nếu mỗi người vốn là một vị Phật (dù
là Phật đương lai) thì tôi không hổ mặt khi nhìn nhận mình ngưỡng mộ cô.
Thuở còn ở Bát Nhã, sau những
lúc lao tác mệt mỏi tôi thường thả bước chân mình lang thang đến cốc cô. Thường
thì tôi luôn được cô hỏi thăm:
- Con đói không? Cô có bánh
cho con đây!
Lúc ấy, cô như là bụt của
tôi, bụt của tuổi nhỏ. Và với tôi bụt thì lúc nào cũng có quà bánh. Nên khi
nghe cô kể có lúc còn nửa lon gạo không dám nấu… tôi đã giật mình xót xa, lòng
lo lắng thầm; không hiểu trong những lần đến thăm bụt, có khi nào “vô tư hóa vô
tình”, tôi đã để bụt đói vì nhịn cho mình không?? Tôi biết không riêng gì tôi,
mà gặp bất cứ ai, cô đều tiếp đón bằng cả một tấm lòng.
Bây giờ tôi chỉ cách cô một
con đường, một rào chắn; tôi ít thăm viếng cô. Tôi biết tuổì già của cô sẽ rất
an ổn bên “Huynh trưởng” cùng đại chúng.
Những gì cô để lại trong tâm
tôi thật khó phai, cô đã đi những bước bình dị nhưng thật tuyệt trong cuộc sống.
Sẽ vắng biết bao, buồn biết
bao và đáng tiếc lắm nếu như ngày nào đó những bóng cây cao không còn hiện diện
để tiếp thêm sự ấm áp cho Viên Chiếu.
Nên, những dòng này tôi xin
được dành tặng riêng cho cô.
5.5.97 A.L
* * * * * *
Mưa Đầu Mùa
Mây đen vẫn vũ giăng kín một
góc trời. Vài tia chớp lập loè hiện lên từ xa. Nhưng ở đây nắng còn lì lợm trải
vàng nửa khoảng sân. Gió thổi mạnh hơn, xua mây tan đều chuẩn bị cho cơn mưa đẫm
khắp. Mưa rớt nặng hạ, nắng đành chào thua, biến mất. Viên Tánh đang đi thăm dừa,
lẹ làng chạy vào chỗ tôi trú ẩn.
Cơn mưa đầu mùa đã làm dịu
đi bầu không khí oi bức. Cảnh vật có vẻ trầm buồn, hiền hòa hơn. Lặng ngắm màn
nước trắng xóa, Viên Tánh băn khoăn hỏi tôi:
- Vọng tưởng sao mà lâu hết
quá cô? Không biết ở đâu trong trí mình mà cứ kéo về cả nùi, cả nùi!?
Tôi bật cười. Bởi vì những
thao thức của em cũng giống như tôi hồi xưa. Ai mới nhập môn vào đạo thường tức
mình vì cái chuyện vọng tưởng không chịu lặng mà cứ lao xao trong tâm trí.
Tôi bảo Viên Tánh:
- Em biết chư Tổ hay quở
mình lỗi gì không?
- Lỗi gì hả cô?
- Tham lam! Các ngài nói
mình bình thường không chịu tu. Tới lúc bắt đầu tu thì có cái tật nôn nóng muốn
mau thấy kết quả liền. Mà kết quả chưa tới thì chán nản rồi… làm biếng trở lại!
Viên Tánh cười:
- Giống như vừa gieo hạt là
muốn cây mọc, trổ trái liền hả cô?
- Ừa! Chẳng chịu đợi thời
gian! Một cây sầu riêng cũng phải mất mấy năm gieo trồng mới trổ quả - quả Phật
còn khó hơn! Cứ kiên nhẫn hành trì theo dõi tâm, “không theo vọng” thì lâu ngày
chầy tháng kết quả cũng tới khi đúng thời đúng lúc.
- Cô nói hay quá!
- Chư Tổ nói chứ không phải
chị nói!
Tánh lại cười. Em phỏng vấn
tôi:
- Cô đi tu hồi bao nhiêu tuổi?
- Mười sáu!
- Sướng hen?Hồi đó cô nghĩ
sao mà đi tu?
- Hả? – À, nhà nghèo, không
đủ tiền mua xà bông. Nghe nói cạo tóc gội đầu ít tốn xà bông lại mát mẻ nên chị
mừng quá xin xuống tóc…
Đợi trận cười giòn giã của
Tánh chấm dứt, tôi phỏng vấn lại:
- Còn em sao đi tu vậy?
- Còn em sao đi tu vậy?
- Em hả, duyên mà cô! Đủ
duyên là “nó” khiến mình vô chùa hà!
Và Tánh kể tôi nghe chuyện
nhà em:
- Cô biết không, cách đây
lâu lắm (chắc cũng bốn mươi năm) ông nội em có lò heo ở Đồng Tháp. Ông thường
vô trong kinh rạch tìm mua heo cho được lợi giá, ông không giết heo chỉ mướn thợ
làm. Một ngày mổ thịt cả chục con heo!
- Ghê quá! – Tôi chen vào -
Bộ không ai khuyên nội em bỏ nghề hả? Tội dữ lắm đó nghe!
- Dễ gì khuyên được cô ơi!
Nghề mổ heo, bán thịt giàu dữ lắm. Công viẹc đem tới lợi bạc triệu mà kêu
“buông!” để được tay trắng thì có mấy ai chịu nghe? Nội em giàu nhất nhì Sa Đéc
lận đó. Chẳng ai có thể khuyên ông bỏ nghề! Vậy mà…
- Sao??
- Một sáng nọ ông đang ngủ,
thợ chặt đầu heo xong chưa kịp treo lên còn để trên thớt. Ông xuống kiểm tra,
dòm không thấy đầu heo mà chỉ thấy toàn là đầu người thân đã quá cố… Nội sợ
quá… ngất luôn! Từ đó, ông bỏ hẳn nghề sát sinh, lo tu tâm dưỡng tánh, bố thí
làm phước. Tới hồi sinh ra tụi em đòi đi tu, gia đình rất là mừng; vì nội đã hồi
tâm hướng thiện. Chỉ còn gia đình ông Hai là cháu họ (kêu nội em bằng bác) vẫn
tiếp tục hành nghề giết heo. Cô biết không, tới đời cháu nội ông Hai sinh ra, mặt
mày rất giống heo. Có ba đứa cháu, mà hai cháu trai thì khật khùng; đứa cháu
gái thì lại rất xấu xí.
Tôi nói:
- Vậy là ông nội Tánh có phước
mới được cảnh báo cho tỉnh giác. Lại được thêm hai đứa cháu đi tu! Chị thấy mấy
người giết heo tới hồi chết cũng khổ lắm!
- Cô thấy sao?
- Hồi nhỏ ở xóm chị có ông
Ba Bạch làm nghề mổ heo. Tới lúc bệnh ngặt toàn thân chảy nước vàng ruồi dòi
rút rỉa rất đau nhức mà không chết được. Cổ họng thì cứ kêu ục ục. Người nhà phải
rước thầy tụng kinh, cho để cái dao trên cổ ổng và hứng cái chậu dưới đầu thì ổng
mới chết được.
Tánh đồng tình:
- Dạ có thiệt đó cô! Bởi vậy
giờ em sợ chết chóc lắm. Không biết báo ứng đời sau thế nào chứ hiện tại cũng
thấy ghê ghê!
Tôi sực nhớ, bảo Viên Tánh:
- Hôm qua chú Phú kể chị
nghe bà T. là bà mụ ở xã mình, cách đây ba tháng bà đi chợ mua thịt ăn, mà hễ cứ
nhìn thịt là thấy thành thịt người, bà sợ tới rởn óc phát bệnh luôn.
- Sao kỳ vậy cô?
- Chú Phú nói bà làm nghề đỡ…
nhưng do nạo thai nhiều, con nít chết dữ quá nên nó ám. Chú khuyên bà từ nay chỉ
giúp người chứ không làm việc tổn hại nữa và chịu khó ăn chay thì may ra… Bà T.
sợ quá nghe theo. Ăn chay được ba tháng thì hết thấy kỳ cục nữa.
- Rồi bà có ăn mặn lại không
cô?
- Chị không rành, chỉ nghe kể
bấy nhiêu thôi!
- Ngẫm nghĩ Phật khuyên mình
đừng sát sinh cũng đúng quá cô há?
Dĩ nhiên rồi. Chư Tổ nói ăn
thịt thực ra là “người ăn người”. Chữ Nhục của Hán tự cũng bao gồm ý ấy, chữ
này có hai bộ nhân ở trong cái miệng hả ra, ám chỉ “người nuốt người”.
- Nói vậy chứ không ai tin
đâu cô ơi!
- Nhưng chị tin chắc một điều
là ăn thịt rất độc! Vì khi bị giết con vật oán hận, lòng căm thù sân giận của
nó tiết ra, nên ăn vào là ăn phải thịt độc rồi! Chưa kể chuyện “bò điên” ở Anh,
rồi năm ngoái ở chợ Đồn người ta mách chị là heo bị Sida nữa đó!
- Hi hi! Heo mà cũng bị
Sida? - mới nghe lần đầu.
- Ờ, lúc đó Phật tử ra chơi
họ khoe đang ăn chay, vì heo chân tay bị mủ ai thấy cũng ớn nên kiêng cữ hết!
Rồi tôi trêu Tánh:
- Nè, may mà ông nội bỏ nghề
nên Tánh có phước được mặt mũi sáng láng dễ coi. Chứ nếu không…
Tánh cười to:
- Nếu không, lỗ tai em sẽ có
vài cọng lông heo và em sẽ xấu đau xấu đớn hả cô?
- Ờ! – Tôi không nín cười được
– Cơn mưa đã tạnh, Tánh chào tôi ra về. Đùa với em cho vui, nhưng lòng tôi lại
âm thầm xót xa.
Những điều Phật dạy thật giản
dị. Vậy mà nói ra thật khó. Khuyên người thực hành càng khó hơn. Bất giác tôi
rùng mình lẩm bẩm:
- Cầu cho con đời đời ăn
chay, đừng có ngu muội giết bất cứ con gì.
Tháng 4/1999
Dường như là một cơn mơ
Lênh đênh dặm khổ ai ngờ không hoa
Nửa chừng ta lại gặp ta
Vẫy tay rũ sạch trần xa thuở nào.
Lênh đênh dặm khổ ai ngờ không hoa
Nửa chừng ta lại gặp ta
Vẫy tay rũ sạch trần xa thuở nào.
* * * * * *
Tịnh Niệm Du Ký
Chị Tịnh Niệm dáng người roi
roi, thoạt nhìn cứ tưởng xương nhiều hơn thịt (nhưng chị khoe là chị nặng nửa tạ).
Chị có đôi mắt thật sáng nằm núp dưới đôi mày đặc biệt, đôi mày mà bên hướng
thiên bên hướng địa, nên nó càng làm tăng vẻ ưa nhìn cho dung nhan chị, nó khiến
người đối diện thiện cảm hơn vì nụ cười tươi tắn tỏa hết nét hồn nhiên khi chị
chào khách.
Tôi sẽ không viết về chị, nếu
như cuối năm 2000 chị không làm chuyến Đông du đặc biệt khiến tôi suýt nữa thì
tim lọt ra ngoài – tôi gọi Đông du vì dường như cốc tôi nằm về hướng Đông của
chùa – và chị Niệm trong cơn buồn tơi tả đã trực chỉ sang cốc tôi tị nạn (tị nạn
phiền não ấy mà).
Nếu bạn khó tánh, bạn sẽ cau
mày thầm trách: “Đi tu mà phiền não cái gì?” – Xin thưa rằng, chỉ có những vị
chứng A La Hớn mới lậu tận, nghĩa là hết sạch phiền não. Còn phàm nhân thì vẫn
bị khổ vì phiền não hành. Khi dòng tư tưởng u mê vừa gợn lăn tăn nơi hồ tâm, nếu
không tỉnh để kịp buông thì chẳng mấy chốc nó sẽ thành ba đào cuồn cuộn nhận
chìm người chứa chấp nó với sức mê hoặc cực mạnh đến nỗi đương sự sẵn sàng bỏ
ngoài tai mọi lời khuyên nhủ đúng chánh pháp để nhắm mắt tuân theo tiếng gọi… của
phiền não.
Tâm con người có thể biến
thiên khắp cõi. Lúc hiền như thánh, lúc tráo trở gian dối như quỷ thần và lúc đần
độn như súc sanh. Có tâm là có Phật – và cũng có ma - nếu bất giác! Nên chuyện
phiền não đâu là của riêng ai. Khi chưa lậu tận tham sân si, xin chớ vội phê
phán: “Ai sao kỳ vậy, chứ tui không có niệm đó!” – Chư Tổ đã bảo mình giống
nhau mũi dọc mày ngang, thì tất nhiên là mình giống luôn… cái tâm đa đoan phiền
não. Mời bạn hãy nhìn sức quyến rũ của phiền não cũng như nhận ra sự diễm phúc
của thiện hữu tri thức ở cạnh mình. Ngài A-nan từng thưa với Phật: “Có được thiện
hữu tri thức là có được nửa cuộc đời thánh thiện…”, nhưng Phật đã chỉnh lại:
“Không phải nửa, mà là có cả một cuộc đời thánh thiện”.
Đêm rằm tháng chạp vừa thỉnh
nguyện xong thì tờ mờ sáng hôm sau chị Niệm đã mò sang cốc tôi mếu máo yêu cầu
tôi cho chị ở nhờ, bằng không chị sẽ đi biệt. Tôi hỏi gì chị cũng không giải
thích, chỉ “híc”, “híc” từng cơn - Mặc dù tôi bế quan không tiếp ai - chị vẫn
xông vào xin gặp mặt, bởi cơn buồn đang thôi thúc. Tôi chẳng bỏ công tìm hiểu
làm gì – Khi phiền não khởi thì chẳng cần lý do gì chính đáng lắm đâu – Đang bực
bội mà gặp cái đuôi mèo hay cẳng chó đụng vào người là cũng giận được, huống nữa
là một khuôn mặt quạu, hay tâm tư nhăn nhó của ai đó bất thần “va” trúng vào
mình.
Nhìn gương mặt Niệm ủ rũ, sắc
đen thẫm tối sầm làm buồn cả không gian, chắc trong tâm chị sóng gió quậy dữ lắm
– chị khóc như con nít:
- Híc! Em thấy tu mà không
có niềm vui (vui sao được? phiền não đang khởi mà). Tâm em như vậy không xứng
đáng ăn cơm tín thí sợ tội. Thà em đi làm thuê, thà em làm cư sĩ, thà em… Biết
là khổ nhưng em chấp nhận…
… Giờ đồ em đã cho hết –
Híc! – Em không cần gì cả! Em cất cái chòi ở. – Híc! Đói ăn đói, no ăn no. Híc!
Không ăn… chết cũng được, híc! Híc!...
- Thôi chị về chúng đi! Buồn
chút rồi sẽ qua mà!
- Híc! Một đi không trở lại,
em chào chúng rồi, híc!
- Có ai chứng minh cho chị
đâu! Lúc Niệm chào đi chỉ có mấy vị công quả và mấy em nhỏ thôi mà!
- Híc! Em hết duyên ở chúng
rồi, híc! Em buồn trong tâm dữ lắm, chị cho em ở nhờ… hu hu… Híc!
- Thôi, chị cứ ở tạm đây rồi
tính.
Vậy là Niệm đóng đô ở cốc
tôi. Tôi để chị tự do. Chị không còn sức để tụng kinh, tọa thiền vì phiền não vật
“nốc ao”. Rồi khi nghe chúng tụng kinh chị sụt sịt:
- Sao mà nghe bên chùa tụng
kinh thấy nhớ chúng quá!
Vài ngày sau, chúng vẫn luân
phiên qua dỗ Niệm. Thật ra Niệm là mẫu người chất phác, siêng năng. Làm việc rất
có tinh thần trách nhiệm, không đợi sai bảo. Tôi thương cái nết thật thà của chị
nghĩ gì nói đó, không sợ ai cười, ai chê. Có câu danh ngôn phương Tây: “Muốn
xét người nào, hãy nhìn cách họ đối xử với kẻ dưới”. Niệm rất được chúng nhỏ mến
thương vì cách cư xử giản dị thân tình, vì chị biết quan tâm lo cho người. Niệm
thở than:
- Chắc em hết duyên với
chúng rồi, chắc hộ pháp đuổi không cho em ở, tại sao mà ở bên đây thì khuây, mà
bước qua cổng chùa lại buồn nẫu ruột? Em đâu ngờ có ngày mình đọa như vậy chứ?
Chúng vẫn qua thăm động viên
Niệm về. Chị bảo tôi: - Chắc em phải dọn đi thật xa - thấy chúng tội quá thương
quá!
Ở cốc tôi được mấy ngày. Niệm
bèn dọn đi xa thật xa (qua… tận cái cốc vắng chủ bên cạnh, cách tôi vài bước
chân là tới) đủ để tôi “bắc loa” nhắc Niệm ăn uống vì chị cứ dọn dẹp tìm khuây,
không thiết ăn uống.
Rồi lá thư cô Trụ trì bay
qua với nội dung:
“Chị để Tịnh Niệm đi xả hơi
ít ngày. Xong rồi nhớ về chúng. Ở trong chúng, nhổ một cọng cỏ, lặt một cọng
rau vẫn là làm cho chúng, là gieo trồng phước điền, tạo thiện duyên cho mình, ở
trong chúng cần có tâm rộng như biển để bao dung mọi tánh tật, cần hỉ xả để
giúp nhau tu tiến. Đừng có chạy theo phiền não, rồi là khổ mình”.
Đọc xong lá thư Niệm cảm động
đăm chiêu. Mấy ngày nay chị hẳn đã thấy rõ lòng cô Trụ trì, lòng chúng đối với
mình như bát nước đầy, lẽ nào lại không cảm thán” Khéo sống thì được người
thương, khi bị nạn tai, phiền não… không ai bỏ mình.
Tôi thúc: - Niệm về đi Niệm!
Mẫu người chị ở trong chúng rất có ích.
Niệm im lặng chưa trả lời,
tôi bồi thêm:
- Chị nhìn lại mình đi! Hồi ở
chúng chị không màng tới tiền. Ai cúng gì riêng cũng nhập chúng, cúng chúng còn
lo được tượng đài Quan Âm cho dân ở làng chị thờ… Phẩm hạnh chị lúc đó thật
đáng ca ngợi. Giờ vừa mới chuẩn bị ra riêng, đầu óc lúc nào cũng ong ong lo
nghĩ tới tiền, thậm chí có phải hạ mình xin ai thì cũng là tự làm tuột dốc phẩm
hạnh tốt xưa kia của chị. Xét tính cách chị, nếu ở trong chúng sẽ được mài dũa
thánh ngọc quý – Những ai ở chúng đều sẽ thành ngọc quý cả. Em lỡ ở ngoài chúng
rồi, Niệm đừng giống như em. Về đi Niệm!
Chị Niệm cười bảo tôi:
- Thật ra em nhớ chúng lắm,
nhớ chùa lắm. Đi có mấy bữa mà thương chúng quá chừng!
Thế là “châu về Hợp Phố”,
Viên Chiếu lại dang tay đón cô em vừa chiến thắng phiền não ma trở về.
Ngày hôm sau, Niệm mang cho
tôi tô thức ăn, thủ thỉ:
- Sao về bên nớ lại thấy nhớ
bên này!
Tôi thót tim trở lại: - Khi
nào thích Niệm qua chơi với Hương. Thèm gì nói nó mua cho, chớ đừng đòi qua ở
nhen?
- Ừ! Hi hi!
28 tháng chạp 2000
* * * * * *
Lời Cùng Tử
Hồi ấy cô Đức tuổi chỉ mới
hăm bảy, hăm tám được Thầy chỉ định làm huynh trưởng Viên Chiếu. Cầm đầu đám lục
lăng như chúng tôi ở độ tuổi ấy, đủ để lâu lâu cô rớt giọt ngắn giọt dài, đắp y
sụt sịt xin… từ chức với Thầy.
Mỗi lần như vậy chúng tôi
thường núp vào chỗ khuất, cười hi hí với nhau, chỉ trỏ về phía cô, biết chắc là
Thầy dỗ một hồi thế nào mọi việc đâu lại vào đấy, vì cô vốn hiếu để, đâu dám
kháng lại “chiếu chỉ” của Thầy.
Chị Thủy có lần buồn chi đó
cũng tìm lên núi rên rỉ với Thầy:
- Tụi con giống anh em tí
hon bị Thầy bỏ trong rừng cho bà chằn ăn thịt quá!
Rồi chị về kể lại tôi nghe:
- Thầy nói với chị, sắp mấy
đứa ở trong rừng Thầy cũng rất lo, có đêm không ngủ được. Nhưng trong buổi giao
thời các tăng sĩ đang tuổi thanh niên trai tráng, nếu Thầy sắp ở trong rừng thì
sợ người ta không tin quý thầy tập tu, mà tưởng là trốn vào đó để… tập trận! Thầy
sắp các con vào rừng thì đỡ bị hiểu lầm hơn, nhưng Thầy vẫn không an lòng!
Chúng tôi còn nhỏ vô tư, nào
hiểu nỗi băn khoăn của Thầy. Về sau này, Thầy cười vui vẻ bảo chúng tôi:
- Thầy sắp vậy mà giờ xem ra
Thường Chiếu, Viên Chiếu đều ở đúng chỗ đúng nơi.
Mỗi lần Thầy vào thăm, chúng
tôi trình báo chuyện tu học, có khi méc ai đó phê bình đường lối tự viện, Thầy
cười nhẹ nhàng bảo:
- Tụi con sống như vầy mà
không cãi lẫy nhau là hay rồi.
Câu Thầy nói bình dị đơn giản
mà sao cứ làm tôi nao lòng.
Cãi nhau ư? Chí choé sơ sơ
thì cũng có, nhưng quả tình dưới sự chăn dắt của Thầy chẳng có điều gì để tôi
phàn nàn về các chị mình. Cô Hoa hay hù dọa vậy chứ làm việc rất hy sinh. Chị
Huệ thì hiếm khi kiếm chuyện đi đâu, mặc ai mệt hay ngán việc viện đủ cớ để đi
vắng, thì chị quanh năm suốt tháng cứ trụ một chỗ, làm chu toàn mọi việc: cạo
gió, nấu ăn, cuốc đất, phảng cỏ… Tôi thường nói với chị Phượng: “Chị Huệ là cây
cột cái ở chùa!” (Cột trụ thì không đi đâu hết. Giống như chị Hạnh Giác cũng
là… cao ni, vì chị cao tới… một thước bảy)!
Cô Đức ốm yếu ngày nào không
cuốc đất thì đi hái cỏ diệu cỏ trai cho chúng tôi ăn, tìm cách bồi dưỡng phục sức
cho chúng. Có lần cô và chị Thủy làm ruộng thấm mệt sao đó cùng rỉ tai rủ nhau
lén về trước. Chuyện này tôi không hay, chỉ nghe chị Thủy thuật lại:
- Mấy đứa biết hôn, chị với
già Đức vừa vô tới cái mương thì gặp Thầy đi thăm ruộng đột xuất. Đúng là
“thiên bất dung gian”, kết quả hai đứa… bị Thầy bắt vét mương tới trưa luôn.
Tôi nhớ lại cảnh tượng đó là
bắt cười. Vì khi kiểng xả công tác đổ hồi, từ ngoài ruộng đi vào tôi thấy hai
bà chị quí hóa còn mãi lom khom vét mương, mình mẩy ướt mem bùn đất.
Cung cách làm việc của Thầy
tôi dư biết, vì Thầy thường vào hướng dẫn chúng tôi lao tác, người dạy dọn sách
chỗ này, phát quang nơi kia.
Có lần Thầy chỉ cái gốc cây
nằm ven đường đi, hạ lịnh bảo đốt, nhưng rồi vô thăm lại thấy nó còn nằm ỳ ra
đó. Thầy hỏi, chị Thủy gãi đầu thưa:
- Dạ tụi con đốt hoài mà nó
không cháy.
Thầy khảo sát kỹ và khều từ
trong bụng cây đủ thứ tàn dư của các củ khoai ra, do chúng tôi đã chực sẵn, hễ
chị Thủy vừa nhen lửa là hè nhau ném khoai mì, khoai lang tới tấp vào nướng ăn,
nên lửa chỉ đủ chín khoai chứ không cháy nổi gốc cây. Lần này nhờ có Thầy giám
sát nên gốc cây cháy ngon lành và được dọn sạch.
Từ việc gặt lúa vét mương Thầy
đều chỉ bảo cặn kẽ và thường làm trước để chúng tôi bắt chước theo. Có lần qua
cái mương Thầy bị té và bệnh nặng, phải nằm dưỡng ở Thường Chiếu. Lúc ấy chúng
tôi hoảng phải biết! Cứ nơm nớp sợ thầm mình mồ côi sớm. Lần đó quý cô Bảy Huệ
đã trách nhẹ:
- Ông già thương con gái!...
Viên Chiếu ở tít trong xa,
đường ngoằn ngoèo gò nổng. Thuở mới giải phóng, xe Honda thuộc hàng xa xí phẩm
nên quý thầy Thường Chiếu hay chở Thầy vào giảng kinh bằng xe đạp. Nhưng lâu dần
Thầy không nỡ để quý thầy chở và quyết định tập đi xe đạp để vào Viên Chiếu giảng
kinh. (Tính ra Viên Chiếu làm Thầy cực nhiều nhất).
Có lần nghe tin Thầy bị bịnh
nặng ở Chân Không, già Liễu nhấp nhỏm phát biểu:
- Nếu Thầy có chuyện gì, giờ
này mà đón không được xe để đi thăm thì dù có lội bộ tới Vũng Tàu tui cũng đi!
Hồi đó mỗi tối tôi thường thức
chép kinh. Có lần các chị đưa tôi quyển sổ của Thầy. Tôi thích nhất hai chuyện
Thầy chép tay trong đó. Đại khái kể về ông Washington lúc còn nhỏ, có lần vô ý
chặt cây quý của cha trồng, cha ông về tức giận tra hỏi, ông liền nhận ngay là
chính mình chặt. Người cha lập tức đổi giận làm vui, ôm con vào lòng mà nói:
- Tất cả sản nghiệp của cha
cũng không quý bằng tính ngay thật biết nhận lỗi của con.
Còn chuyện thứ hai kể về ông
Gandhi có lần dối mẹ, mẹ ông biết được nhịn không ăn cơm. Gandhi nài nỉ mãi, mẹ
ông cương quyết nói:
- Mẹ thà chết còn hơn là có
đứa con nói dối. Gandhi là người con chí hiếu, ông chạy ngay vào bếp gắp than bỏ
lên tay mình thề sẽ không bao giờ nói dối nữa.
Và ông xác nhận, vết phỏng
nơi tay chính là thiên thần hộ mệnh giúp ông ở mãi trong vòng thành thực.
Tôi biết mình không thể sở hữu
cuốn sổ tay của Thầy nên đã chép những điều ấy vào… lòng!
Tôi hiểu Thầy không thích dối
trá – Có thể sẽ có người nói: “Ai mà không ghét dối trá? – dù người ta ghét sự
dối gian nhưng đôi khi bản thân cũng không thoát khỏi điều này! Tôi tin và luôn
tự hào rằng Thầy tôi rất trung thực. Khi giảng về tướng lưỡi rộng dài của Phật,
Thầy đã giải thích:
- Ở Ấn Độ khoa tướng số cho
rằng ai hai đời không nói dối thì có tướng lưỡi dài tới mí tóc, nên khi nhắc tới
tướng lưỡi rộng dài, là ngụ ý ca ngợi người đó không nói dối. Chư Phật khen ngợi
Phật Thích Ca có tướng lưỡi rộng dài khắp tam thiên là có ý nói rằng Phật Thích
Ca muôn ngàn lần chân thật.
Bản thân tôi cũng nhận ra
nói thật quả không dễ, chỉ cần nói dối một chút… đâu hại ai mà còn tránh được
biết bao thiệt hại cho mình (?) - đỡ bị la, đỡ bị trách, đỡ bị cười nhạo… nghĩa
là dối trá… thu được lợi nhiều hơn là thành thật! (?) Tận đáy lòng, tôi cảm nhận
rằng tính chân thật cũng giống như kim cương (khó mua, khó sở hữu), muốn đeo
kim cương thì thà giữ đức chân thật. Mỗi khi gần một người nào, đang mến mộ họ
mà nhận ra họ nói dối tỉnh rụi, tỉnh queo (cho rằng lời dối đó không hại ai),
tôi thất vọng âm thầm như ngắm phải viên ngọc có tì vết. Thôi thì cứ cầu cho bản
thân tôi và tất cả mọi người sớm hay muộn gỉ rồi cũng sẽ có tướng lưỡi rộng dài
như Phật.
Thầy thường dạy:
- Thầy chủ trương “Thiền
giáo đồng hành”, y theo kinh điển mà tu. Giả sử mình chưa triệt ngộ thì nhắc lời
Phật Tổ dạy cho người sau vẫn không lỗi, mà cũng không sợ họ lạc vì cách tu “biết
vọng” giản dị! Hồi nào chấp vọng tưởng là thật, bám riết vào, giờ hiểu nó là hư
dối thì đừng theo, không cần đè, không cần nhăn nhó cấm không cho vọng tưởng nổi
lên, chỉ cần giác kịp ngay khi vọng tưởng vừa khởi là tốt rồi. Niệm Phật hay
khán thoại đầu còn có câu để bám vào, còn tu “không theo vọng” thì chẳng có chỗ
nào để bám. Mới tu, tập khí còn nhiều nên thấy khó; tu thuần thục thì sẽ thấy
nhẹ nhàng. Chỉ sợ không chịu tu, chứ có tâm chịu tu thì “đồ tể chịu quăng dao
cũng thành Phật” nên nói: “Bồ tát và dạ xoa cách nhau một sợi chỉ”. Hoàn cảnh
bây giờ người ta dễ căng thẳng thần kinh, Thầy chỉ dạy như Phật Tổ đã từng tu.
Ai chịu tu thì tiến bộ an vui, không tiến thì ở nguyên vị cũ chứ không bị tai hại
gì khác. Lý đạo đơn giản nhưng vi diệu, lặng lẽ không phô trương; nếu tu mà thiếu
niềm tin, thiếu nghị lực, lại nôn nóng muốn cho mau đạt thì dễ bị gạt, dễ rơi
vào đường tà. Cho dù đường dài thăm thẳm, cứ nhắm đích kiên nhẫn thẳng tiến,
thì rồi cũng tới…
Sao mà bây giờ tôi nhớ rõ mồn
một lời Thầy, giống như cùng tử đi hoang rồi quay về uống chén thuốc đắng của
cha vậy.
Mùa hạ năm rồi, tôi nằm mơ
thấy Thầy đang thuyết pháp giữa đông đảo đồ chúng thì ông Krishnamurti đến thăm
Thầy (tôi hiếm khi nghĩ đến và cũng ít đọc sách của ông). Trong mơ, ông
Krishnamurti rất trẻ và đẹp cực kỳ, nét đẹp thanh khiết tốn nghiêm đến độ tôi
nghĩ là đẹp như Phật (dù thực tế ông đã già và qua đời rồi). Thầy đàm đạo với
ông ta vẻ như cùng đồng cảm sâu sắc – không cần thông dịch viên – Người ái mộ
chen nhau chiêm ngưỡng đông nghịt; nhiếp ảnh, ký giả… chụp hình, quay phim lia
lịa. Ông Krishnamurti nói, ông đến để nghe Thầy giảng và tìm hiểu đường lối của
Thầy. Sau đó ông trao Thầy cái bình, bên trong chứa tới ba phần tư đồng tiền
vàng, ông giải thích đó là “của” ông để dành, nay ông trao lại cho Thầy làm Phật
sự.
Tới đây thì tôi thức giấc.
Ngày hôm ấy lòng lâng lâng vui vẻ bình an, thấy ai cũng giống Phật hết, tâm tư
dễ bao dung tha thứ. Qua ngày sau, tâm vọng của tôi về lại, nhìn ai cũng muốn…
gây hết! Dù gì tôi cũng khám phá ra rằng, nằm mơ thấy các bậc thánh luôn làm
mình nhẹ nhõm.
Như Thầy từng nói, các vị đức
hạnh đâu có thì giờ đi báo mộng cho người này người kia, vì tâm cảm nên có ứng
thôi (nhưng… nếu Thầy có nhận cái bình tiền vàng thiệt, thì Thầy nhớ… cho con một
đồng vàng!).
Trúc Lâm
Tôi chưa từng vào Trúc Lâm
Nhưng nhìn hình,
bỗng thấy nao lòng
Đồi núi mênh mang,
… mây trắng phủ
Ngỡ đất trời,
giao kề trong… tấc gang
Tôi chưa một lần vào thăm Trúc Lâm
Nhìn hình thôi,
Cũng đủ thấy mình say…
Giòng xanh biêng biếc – sông? - Hồ - Suối??-
Uốn lượn chân đồi – trông đến hay!
Tôi chưa… và mãi chẳng vào thăm…
Cứ để Trúc Lâm đẹp mê hồn
Đẹp trong ảo ảnh hơn cả thực
Dịu dàng, đằm thắm hoài… trong mơ!
Nhưng nhìn hình,
bỗng thấy nao lòng
Đồi núi mênh mang,
… mây trắng phủ
Ngỡ đất trời,
giao kề trong… tấc gang
Tôi chưa một lần vào thăm Trúc Lâm
Nhìn hình thôi,
Cũng đủ thấy mình say…
Giòng xanh biêng biếc – sông? - Hồ - Suối??-
Uốn lượn chân đồi – trông đến hay!
Tôi chưa… và mãi chẳng vào thăm…
Cứ để Trúc Lâm đẹp mê hồn
Đẹp trong ảo ảnh hơn cả thực
Dịu dàng, đằm thắm hoài… trong mơ!
Con Sáo
Khi nhỏ Hương mang con sáo về,
tôi thất vọng hết sức vì thấy cái mặt con sáo chầm dầm hàm chứa cả trời lỳ lợm,
trông nó giống hệt một tên du côn bị bắt bỏ tù.
Tôi vốn không ưa nuôi loài vật,
mà trớ trêu thay, giờ phải nuôi con sáo một cách bất đắc dĩ. Nguyên do là chị Bảy
bạn tôi có thằng con bị tù; thương con, chị dũng cảm hy sinh thú nuôi chim của
mình, nguyện sổ lồng phóng thích chúng để cầu phúc cho con, hy vọng nó được giảm
án. Ở thành phố chùa nhiều, nhưng lòng yêu chim khiến chị chẳng đành lòng thả
nó trực tiếp, vốn có mỹ cảm với tôi, chị cho rằng giao kết cho tôi thì… cũng
như là phóng sinh!
Con chim cu và con két xanh
rất đẹp, biết nói, Hương đợi chùa quy y cho chúng xong là nhiệt tình mở lồng
phóng thích giúp chị Bảy và chợt thấy se lòng khi bắt gặp đôi mắt chị nhìn theo
cánh chim bay lưu luyến… Thế nên, đến lượt con sáo Hương không dám thả mà mang
về chỗ tôi nuôi cho chị vui lòng.
Tôn trọng ý nghĩa phóng
sinh, tôi bảo Hương đem sáo qua chùa cho quý cô quy y rồi thả đi. Nhưng con sáo
chẳng “tung cánh tìm về tổ ấm” được, nó xa mẹ từ khi mới sinh, nào biết tổ ấm
nơi đâu mà về? nó cứ bay lòng vòng quanh chùa rồi vô tư đáp xuống trước miệng
chó, mê mẩn chúi mỏ vào mấy đĩa thức ăn dành sẵn cho chó, mèo. Quý cô lo thót
tim, chùa có nhiều mèo, không khéo nó bị xơi tái mất. Thế là sáo được trả về
cho tôi, tôi rầu rĩ để Hương nhót sáo vào lồng. Người ta sợ gieo nhân giam cầm
nên không dám muôi sáo, còn tôi thì ngày ngày phải cầm tù nó, lòng thật khó chịu,
nhất là khi chị Bảy báo tin lành: con chị án được giảm nhẹ ngay sau khi phóng
sinh các loài điểu cầm!
Chị Bảy từng méc tôi, con
sáo này lì lắm, ù ù cạc cạc, trơ trơ như khúc gỗ, không có sinh động. Ba tháng
trời dạy hụt hơi nó mới nói được hai tiếng “Mô Phật”, rồi lại câm như cũ.
Chiều nay có con sáo nhỏ lạ
bay vào chùa Viên Chiếu, nó được chị Niệm giữ ở cốc một đêm rồi thả. Vậy mà từ ấy,
mỗi lần chị Niệm cất tiếng gọi là con sáo nhỏ bay tới, rồi ngày thì nó đi chơi,
tối về ngủ nơi cốc chị niệm, ngoan ngoãn đến hay.
Hương qua chùa nhìn thấy cảnh
này, nó đâm ra “tương tư”, suy nghĩ mãi và ước ao con sáo lỳ của mình cũng sẽ
“hồi tâm” trở nên nết na giống vậy. Thế là đi ra đi vào Hương đều gọi “Sáo ơi!”
một cách trìu mến thiết tha, đến độ ngay cả tôi cũng phải mủi lòng, trong khi mặt
mũi con sáo cứ tỉnh khô. Tôi thương hại bảo nó:
- Đừng có mơ “em ơi”! Có đến
tết Công-gô cũng chẳng cảm hóa được con sáo lì tổ này!
Nhưng Hương vẫn kiên nhẫn vừa
cho sáo ăn, vừa chuyện trò thủ thỉ với nó. Thấy vậy, tôi bèn tiến lại gần sáo,
phụ giúp huấn luyện:
- Nào sáo, Mô Phật đi, giỏi
nè!
Con sáo làm ra vẻ buồn ngủ tới,
mắt nhướng không muốn lên còn ráng mở một con mắt cách lờ đờ, thấy tội tôi bỏ
đi, bước rón rén thật nhẹ để cho sáo ngủ. Đang đi, bất thần tôi quay lại nhìn,
thấy mắt con sáo mở trao tráo, tỉnh rụi, chẳng có vẻ gì buồn ngủ cả, thì ra nó
vờ buồn ngủ để tránh bị dạy dỗ, tôi vừa tức vừa buồn cười, mắng nó:
- Đúng là đồ sạo… lỳ!
Rồi đi thẳng. Người rồi tôi
không chịu được cảnh nhốt sáo mãi, đành đánh liều thả nó. Mới đầu, sáo bay qua
chùa chơi, quý cô sợ mèo ăn lại đem qua trả, sau đó sáo quanh quẩn đầu nơi cánh
cửa sổ trước nhà tôi, hót líu lo, có khi cười cả tràng dài bộc lộ vẻ hân hoan cực
điểm. Có tật là nó hay mổ bất tử vào người nào xuất hiện ở sân, chẳng kể khách
chủ gì, (đó là cách chào hỏi đặc biệt của nó), vậy chứ đau lắm và dễ làm giật
mình khi không để ý. Hương đặt thau nước to ngoài sân cho sáo tắm, nó rất hay tắm.
Sáo rất thích màu xanh, nó thường ngậm bọc ni lông nơi mỏ, giang rộng cánh, bay
là là hoặc chạy tung tăng quanh sân với vẻ rất khoái chí. Hương vẫn kiên trì
thiết tha trò chuyện với sáo, mặc cho sáo thản nhiên đón nhận bằng vẻ mặt vô cảm,
lạnh như băng. Thỉnh thoảng sáo hồi âm bằng cách mổ vào mũi, vào cạnh khoé mắt
Hương khiến máu chảy ròng ròng, Hương vẫn cam chịu, không từ bỏ ý tưởng là sẽ
có một ngày sáo được thuần hóa.
Chú thím Phú ở gần bên rất
thương sáo nên tôi bảo Hương đem nó qua cho chú thím để đời nó được lên hương,
được sung sướng, chứ ở với tôi thì chỉ khổ thân vì tôi không cưng sáo. Bạn bè
góp ý sợ nó buồn. Tôi đáp ngay:
Trời ơi, qua bển được cưng
nó mê chết chứ buồn khỉ gì, con sáo này biết tình cảm chi mà buồn??
Thế là sáo chuyển “hộ khẩu”
sang nhà chú thím Phú, dĩ nhiên là nó được cưng vô kể. Mấy ngày đầu chú thím phải
nhốt nhưng hễ thả ra là sáo lại tìm về với chúng tôi. Ròng rã sáu tháng trời
“nhập cư” bên chú thím, sáo vẫn không quên được bên này – nó nhớ Hương! - Mỗi lần
sổng chuồng về thăm chúng tôi, sáo biểu lộ sự mừng rỡ bằng cách cuống quít mổ
lia lịa vào tay hoặc ngậm áo Hương lôi kéo bày tỏ sự nhớ mong. Tôi quá sức ngạc
nhiên khi nhận ra con sáo ù lỳ vô cảm ngày nào đã không còn nữa. Ở bên chú
thím, sáo được cưng, được ăn ngon, mà vẫn cứ biếng nói, biếng hót, biếng hót,
nhưng chỉ cần nhìn thấy Hương là nó hót lên cả tràng rồi cười khanh khách. Khi
Hương bắt nó để đem trả chú thím thì nó cứ đi thụt lùi, miệng không ngớt niệm:
“Nam Mô A Di Đà Phật”.. “Nam Mô A Di Đà Phật”.. vẻ như năn nỉ đừng trả nó, khiến
Hương xanh mặt. Có lần thím nhốt nó và thường dạy nó gọi thím bằng má! Nó vùng
vẫy trong lồng và nói: “Má! Thả sáo ra!”. Thím sợ quá liền thả cho nó tự do. Rốt
cuộc, thương sáo, chú thím vui lòng để nó chọn ở nơi nào nó thích. Sáo lại về
nhà tôi, nó hót cả ngày, biểu lộ sự hứng chí cực điểm. Hễ Hương bảo niệm Phật
là nó ngoan ngoãn vâng lời. Mỗi lần Hương qua chùa, sáo hay đứng ven rào ngóng
cổ đợi Hương về, thậm chí nó chào gọi cả khách đi đường. Nó hân hoan vì được trở
về, thật ra ở với chị Bảy nó chưa từng được thả bao giờ, vì thế, khi ra đây được
sống đời tự do nó vui là phải. Chị Bảy có ra chơi nó cũng nhìn bằng ánh mắt vô
cảm, không hề quyến luyến như đối với Hương.
Mỗi ngày, Hương thường sang
chùa, sáo vẫn đứng cạnh rào ngóng đợi; tôi bận việc chẳng kêu nó vào, cứ để mặc
nó đứng ngoài cổng ngóng Hương. Rồi tôi quên không để mắt đến nó. Thế là nó bị
người bắt cóc mất.
Sáo đi rồi, nhà vắng vì
không còn tiếng hót tiếng cười ầm ỉ của nó. Ở cõi này là vậy, con vật luôn bị
xem như “vật sở hữu”, người ta nuôi để ăn hoặc để tiêu khiển chứ không bao giờ
quan tâm tới tâm tình, sở thích ước mơ của nó. Hồi sáo mới về đây, lúc tôi thả
nó, nó chẳng đi đâu xa, cứ đậu trên cánh cửa sổ, ai đi đường gọi nó, nó dửng
dưng lạnh lùng, không dễ gì ngoắc nó tới gần nên khó ai bắt cóc được nó. Từ khi
sang nhà chú thím rồi được trả về, nó vui lắm, lúc nào cũng hớn hở. Thậm chí
khách đi ngoài đường nó cũng réo chào họ, hễ ngoắc nó, là nó chạy tới, và bất cứ
ai bước vào nhà tôi đều được sáo niềm nở tiếp đón (nó làm như thể chỗ tôi là an
nình lắm vậy) do hiếu khách mà nó bị bắt cóc.
Tôi biết người ta không ăn
thịt nó, nhưng họ sẽ nhốt nó, sáo sẽ chẳng bao giờ được tự do! Trái tim tôi vốn
khô cằn khắc khe với loài thú, giờ chợt nao nao. Với tôi, con sáo chẳng còn ngu
đần nữa, nó vẫn có nghĩa tình đằm thắm, biết buồn vui không khác người. “Thành
tâm ắt có cảm ứng”, sáo đã biết đáp lại tấm chân tình thiết tha của Hương, câu:
“Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh” ngẫm nghĩ thật đúng!
Nếu người ta biết rằng, dù
mang lông thú nhưng những ước mơ, những khát khao về hạnh phúc trong cuộc sống,
chúng vẫn giống hệt người, thì hẳn chúng đã không bị khổ.
Hoàng Hôn
Chiều tàn theo bóng hoàng hôn
Ngàn sao lấp lánh cho hồn cũng say
Nghiêng nghiêng lá xếp tiễn ngày
Êm êm con nước chở đầy sắc đêm
Ngàn sao lấp lánh cho hồn cũng say
Nghiêng nghiêng lá xếp tiễn ngày
Êm êm con nước chở đầy sắc đêm
Quả Đắng Cuối Cùng
Ánh nắng chói chang mùa hạ
chợt mềm đi, dịu dàng hơn khi lách mình vào khu rừng rậm dày mịt lá, cơn gió
thoảng qua làm lay động những chiếc lá vàng đang lả tả rơi. Từ Tâm ngồi trên tảng
đá, mặt ưu tư lo lắng dõi trông về phía bìa rừng. Từ lúc sư phụ bị cầm tù,
huynh đệ chàng như rắn mất đầu, rừng núi càng cô quạnh hơn khi vắng bóng hiền
hòa trầm mặc của sư phụ.
Chuyện nói ra thì chẳng ai
tin nhưng nó xảy ra thực đến nỗi các huynh đệ chàng đều phẫn uất. Có gì đâu,
chiều hôm kia sư phụ đang ngồi nấu nước nhuộm y để chuẩn bị cho hai sư đệ chàng
lên kinh thọ đại giới. Như mọi lần, sư phụ lấy vỏ cây Hoàng mặc nấu rã để nhuộm
đồ. Vỏ Hoàng mặc nấu lên màu đỏ như máu, nhưng thấm vào vải sẽ tạo nên màu vàng
sậm đẹp như màu da bò, màu vàng cổ truyền của vùng đất Đại Tân mà giới tu sĩ
thường dùng. Vậy mà lão Sói là dân du mục mới đến đây, bị mất bò. Lão đi kiếm
khắp nơi rồi lạc tới chỗ sư phụ đang nhuộm y; nhìn vào thùng nước, lão la bài bải
rằng sư phụ trộm bò lão làm thịt và đang nấu trong nồi, bằng chứng là tay sư phụ
còn vấy máu (màu đỏ của cây Hoàng mặc). Thế là cả đám dân du mục hồ đồ chẳng để
cho sư phụ biện bạch, kéo xệch ngài đi rất thô bạo. Lúc ấy huynh Từ Uy võ nghệ
rất cao cường, đã toan xuất chiêu để dạy đám dân làng hồ đồ một bài học, mong cứu
lấy sư phụ, nhưng ánh mắt sư phụ làm Từ Uy chùn lại, tai chàng như nghe văng vẳng
lời dạy của thầy: “Khi bị người đem việc xấu vu oan, cần phải nhẫn nại. Đừng vì
bị nhục mạ, bị vu khống, bị chế nhạo… mà sinh oán hận. Người tu Phật phải hành
hạnh Phật, trụ Phật tâm mà sống, nên dùng lòng nhân ái xử sự, tùy duyên tiêu
nghiệp cũ…” Do vậy, các huynh đệ đều cúi đầu vâng lệnh thầy, đánh đứng bất động
để sư phụ bị lôi đi, buồn bã nhìn theo bóng thầy khuất dần…
Hai ngày sau lão Sói đã tìm
được con bò lạc, nhưng lão vẫn im ỉm, chẳng hề áy này, chẳng một câu xin lỗi,
cũng không tỏ chút thiện chí muốn rước sư phụ về. Còn cái tên Lý trưởng, ngay từ
đầu chẳng thèm hỏi kỹ càng gì, đã vội ký lệnh tống giam ngay khi sư phụ vừa được
giải đến! Đợi cả tuần chẳng thấy thầy về, anh em Từ Tâm buộc phải đệ đơn kêu
oan cho thầy, nhưng từ xã đến quận, rồi tỉnh… lúc nào các huynh đệ cũng lâm vào
cảnh chậm một nước cờ, sư phụ luôn bị giải đi trước một ngày khi họ vừa tới
nơi. Mà tội sư phụ có nặng gì cam? Chẳng ai muốn nhận mình đã bắt oan người. Sư
phụ cứ bị chuyển trại như một tử tội. Huynh Từ Uy bực lắm, nếu không vị nể sư
phụ thì huynh đã nện cho lão Sói một trận ra trò! Cứ chịu đựng thế này nhỡ… người
ta xử tử mất sư phụ thì sao? Hội ý, bàn bạc nhau mãi, cuối cùng Đại sư huynh Từ
Trí đảm trách việc lên tận kinh thành cầu cứu với đức vua. Chàng đi đã hơn
tháng rồi mà chẳng nghe tin gì, các huynh đệ ở nhà bồn chồn, cùng trách nhau,
sao hôm ấy lại để thầy nhuộm đồ mà không giành làm thay? Ít ra họ đã có thể chịu
nạn thế sư phụ, nhưng hôm ấy sư phụ rất vui vẻ, ngài còn tỏ ý muốn đích thân
nhuộm y cho đệ tử mình… có ai ngờ chuyện xui xẻo lại xảy ra! Giờ chỉ còn biết
âm thầm cầu nguyện cho ngài thôi, còn hơn là để tâm tư bấn loạn vì lo lắng.
Đức vua Hảo Nghi vốn là một
đấng minh quân, khi Từ Trí đánh trồng kêu oan và gặp ngài trình tấu tự sự thì đứa
vua rất bất bình và tỏ vẻ hết sức ân hận vì chuyện bắt nhầm người lại xảy ra
trên đất nước mình! Ngài tức tốc truyền lệnh rước nhà sư đến cung điện để vấn
an và làm rõ mọi sự việc.
Vị sư già được dìu đến, người
gầy gò như một bộ xương, chỉ có đôi mắt là sáng như sao và nét từ ái bàng bạc.
Thoạt trông, nhà vua biết ngay đây là một bậc thánh mà đám quan ngốc nghếch của
ngài chẳng thấy được Thái Sơn! Nhà vua vội vã bước xuống long ngai, vòng tay tạ
lỗi:
- Bạch Đại Đức! Trẫm thật có
lỗi khi để Ngài sống cảnh giam cầm lâu như vậy. Ngài hãy tha thứ cho trẫm. Trẫm
sẽ bắt bọn vu khống Ngài trừng trị xứng đáng! Trẫm sẽ buộc chúng phải nếm lại cảm
giác đày đọa gấp trăm lần nỗi đau khổ mà Ngài đã chịu, trẫm sẽ…
Vị sư già ôn tồn khoát tay:
- Không không! Xin bệ hạ đừng
làm thế! Xin đừng trựng phạt bất kỳ một người nào hết!
- Trẫm sẽ không bao giờ yên
lòng nếu không trị tội bọn tắc trách! Cho dù Đại Đức can ngăn, trẫm vẫn quyết
thi hành pháp lệnh!
- Tất cả khổ đau ngày nay,
chẳng qua là chút oan trái quá khứ, xin bệ hạ hãy nghe tôi giải thích: - Cách
đây rất nhiều kiếp lâu xa về trước, thuở tôi chưa hề biết đến Phật pháp và sống
bằng nghề trộm vặt, có lần tôi trộm được con bò và vì bị dân làng rượt đuổi gắt
quá, túng thế tôi lủi vào vườn một nông dân, thả con bò lại đó, rồi chạy thí
thân để cứu lấy mạng mình. Do vậy, ông chủ vườn bị bắt vì tội trộm, với tang chứng
không thể chối cãi là con bò! Ông ta bị giam, bị hành tội suốt một tuần lễ.
… Từ lúc tôi gặp được Phật
pháp, biết tu hành và ngộ đạo. Vô số đời đã trôi qua, tôi đã tái sinh rất nhiều
lần và luôn đợi dịp để trả nợ cũ. Và mãi tới kiếp này, tôi mới có cơ hội ở vào
vị trí vu khống, để hiểu cái cảm giác người vô tội bị kết án ra làm sao. Tôi đã
trải qua bảy tháng tù giam. - Quả đắng cuối cùng đã trổ - vì xưa kia tôi đã khiến
chủ vườn ở tù bảy ngày! Đối với những người có liên quan trong vụ án này, tôi
chỉ có lòng yêu thương chân thành dành cho họ, làm sao đành lòng nhìn họ thọ khổ,
khi họ chỉ vô tình hành xử theo luật nhân quả chứ? Xin bệ hạ hãy bỏ qua chuyện
này và hãy chúc mừng rằng tôi đã trả hết ác nghiệp cũ trong đời hiện tại.
Đứa vua nhìn vẻ xúc động của
mọi người đang có mặt trong triều, trang trọng nói:
- Chúng ta hãy nhớ lấy câu
chuyện hôm nay để kể cho con cháu nghe. Hãy luôn răn nhắc mình phải thận trọng
trong từng việc nhỏ, tránh đừng làm ác, đừng mê muội, vì nhân quả nghiệp báo không
bao giờ sai lầm!
Và quay về nhà sư, đức vua
chắp tay thi lễ, kính cẩn thưa rằng:
- Trẩm là vua, dùng chánh
pháp để trị dân, trong nước có được những bậc hành đạo, hạnh giải tương ưng như
ngài thật là quốc bảo của nước! Dân nhờ những bậc hiền nhân như ngài mà được cảm
hóa thành người dân tốt, khiến đất nước trẫm thêm giàu mạnh, thái bình! trẫm chỉ
sợ các thần dân mê muội vô tình hành hạ, làm một bậc thánh phải hàm oan rồi tự
chuốc tội vào thân…! Trẫm cầu mong từ nay về sau, mọi oán hiềm vô tình hay cố ý
đều được hóa giải, mọi người đều biết hỷ xả, tha thứ, để xóa đi mầm móng trả
vay, nghiệp không còn phải đền trả khi lòng oán cừu đã được dập tắt!
- Lành thay đại vương! - Vị
tu sĩ mỉm cười và buông lời tán thán, rồi ông về rừng với sự tiễn đưa ân cần của
nhà vua. Chuyện đến tai đám người đã hành hạ nhà sư. Họ đều ăn năn và tới trước
nhà sư tạ lỗi. May mắn thay, họ đã đến kịp lúc để cúng dường nhà sư bữa ăn cuối
cùng, tạo cơ duyên gieo trống phước điền hiếm có đối với vị A-la-hán sắp lìa bỏ
xác thân và đã vượt qua mọi tác động của nghiệp.
Lão Sói cũng đã học cách nhuộm
y bằng vỏ cây Hoàng mặc để nhớ tới vị sư khả kính qua huyền thoại nhân quả về
ân oán cũ giữa hai người. Lão dạy con cháu hãy luôn làm điều lành và khi lão mất,
lão yêu cầu người ta khắc lên mộ bia lão mấy câu: “Khi bị người vu khống, hủy
nhục, hãy hỷ xả và tha thứ. Đó là Phật tâm, và chỉ tâm Phật mới chặt đứt mọi
trói buộc của nghiệp”.
Cúng Dường
Con cúng dường ngài một bát cơm
Trồng nhân phúc thiện đẹp tâm hồn
Ngày sau tiếp nối duyên dương pháp
Hoa đức rạng ngời tỏ hương thơm.
Trồng nhân phúc thiện đẹp tâm hồn
Ngày sau tiếp nối duyên dương pháp
Hoa đức rạng ngời tỏ hương thơm.
2005
Người Đi
Người đi vào sương gió
Chất chở nặng trong hồn
Bao niềm thương nỗi nhớ
Mây trắng sầu lang thang
Gió đùa vương tóc rối
Bụi phủ mờ y trang
Người thân còn ngóng đợi
Dáng ai về hiên ngang
Chờ một ngày không hẹn
Người về với trần sa?
Hay vẫn còn nguyên vẹn…
Giữa giòng đời phong ba?
Chất chở nặng trong hồn
Bao niềm thương nỗi nhớ
Mây trắng sầu lang thang
Gió đùa vương tóc rối
Bụi phủ mờ y trang
Người thân còn ngóng đợi
Dáng ai về hiên ngang
Chờ một ngày không hẹn
Người về với trần sa?
Hay vẫn còn nguyên vẹn…
Giữa giòng đời phong ba?
Thuở Trăng Chưa Tròn
Viên Chiếu bây giờ thật đẹp,
thật khang trang và sạch sẽ. Trái hẳn thời bảy lăm là túp nhà tranh lá tua tủa,
lổn nhổn chung quanh toàn gốc cây, “cỏ hoa chen lá, lá chen gai”…
Viên Chiếu hình thành trong
khung cảnh hoang dại nên cuộc sống chúng tôi nhuốm đầy mùi rừng rú. Tre gai bao
um tùm, lối đi nhỏ hẹp. Vườn bắt tỉa trước chùa cách cửa ra vào vài bước chân.
Vậy mà lũ khỉ vẫn dạn dĩ mò vào hái trộm ngay trước mắt chúng tôi giữa ban ngày
ban mặt. Tầng gác ọp ẹp kết bằng ván thông thưa rĩnh. Buổi ngủ trưa thường có
dĩa đồ ăn (phần lỡ bữa còn để dành) cất ngay trên đầu nằm gồm: mấy củ khoai,
vài trái chuối)… vậy chứ nhờ nó mà chúng tôi mới tỉnh được giấc ngon khó thức…
Còn một đặc điểm nữa là rác,
vỏ kẹp, vỏ chuối vát vương vãi chung quanh vườn, cứ tiện tầm tay là quăng đại
cho thoải mái. Khoảng cách nhà ở với bụi lùm cây dại không xa thì giữ cho trong
nhà không có rác là đủ rồi. Để một hôm có ai đó bất thần “nhìn lại ta” đã phải
buột miệng kêu lên:
- Chèn ôi! Ra Thường Chiếu
mà coi người ta sống, là tăng mà họ sạch sẽ ngăn nắp, còn ở đây?... - ứ hự! Còn
tệ hơn cái viện kí nhi nữa!
Hưởng ứng câu phàn nàn ấy chỉ
là những nụ cười toét miệng (rộng tới mang tai). Thật ra cảnh luôn hợp với người,
mặt mũi chúng tôi lúc nào cũng nhem nhuốc bùn sình, làm ruộng thời khai hoang
vào trễ là chuyện thường tình, tẩy rửa qua loa, ăn cơm xong thì đã tới giờ chỉ
tịnh, muốn tranh thủ ngủ trưa thì cứ bê nguyên gương mặt còn đầy nốt ruồi… bùn
mà đánh giấc (nếu muốn lười một chút mà ngủ no).
Buổi trưa im nắng, chỉ cần một
bước chân lê nhẹ là sàn gác kêu rầm rầm. Cô Đức chịu hết thấu liền ban chỉ thị:
- Buổi trưa yêu cần quí vị
giữ yên tĩnh cho người ta ngủ, xin đừng di chuyển qua lại vào giờ này!
Lệnh được thần dân ngự trên
gác tuân theo răm rắp. Chúng tôi ở dưới đất nên chẳng có vấn đề gì. Và khi tất
cả đang say giấc ban trưa thì bỗng nghe “rầm” một tiếng rõ to. Tôi thoáng thấy
như có vật gì từ… trên trời (?) rơi xuống. Ai nấy choàng tỉnh, ngồi bật dậy hết,
nhìn nhau ngơ ngác…
- Có chuyện gì vậy? Cô Đức hỏi
trước tiên.
Một khoảng im lặng kéo dài.
Không có lời đáp. Câu hỏi được lặp lại lần nữa. Có tiếng cô Giải Thiện cười hi
hi trên gác, rồi cô giải thích:
- Giải Thanh muốn đi ngoài,
không dám bước trên gác nên nó phi thân xuống đại… (xin giải thích: thuở ấy cửa
sổ chống, không khung nên chỉ cần liều mạng nhảy xuống là có thể ở ngoài trời,
song cú nhảy của Giải Thanh va vào tấm tôn ghép nơi vách lá nên âm thanh mới
vang dội như thế).
Ai nấy đều lo lắng, không hiểu
“ngọc thể” của kẻ phi thân có an toàn chăng? Giải Thanh đang đứng nép sát vào
vách với gương mặt xanh lè. Kể từ ấy, cô Đức chẳng đá động gì tới lệnh giới
nghiêm ban trưa trên gác nữa.
Hai năm sau, chúng tôi có một
Tăng đường ra dáng hơn: tầng dưới là vách đất, tầng trên là vách lá sàn tre. Tầng
gác còn có lan can bao quanh ba bên, ngồi thiền rất mát. Hạnh Kiên chiếm một
góc ở hiên sau.
Buổi khuya mùa đông rất lạnh.
Hạnh Kiên ngồi thiền mà quấn y trang giống hệt dân Bắc cực. Cả chúng đang tĩnh
tọa êm đềm thì bỗng nghe “rầm” một tiếng, các thiền giả ở hè sau nhốn nháo cả
lên:
- Ối trời ơi! Hạnh Kiên rớt
xuống đất rồi!
Chúng tôi cấp tốc xả thiền
hùa nhau hỏi thăm. Tầng gác mới này khá cao. Lơ mơ gãy xương chứ chẳng chơi. Hạnh
Kiên đón chúng tôi bằng gương mặt tươi như hoa:
Hông! Hông có sao hết, hên
là em té vào cái xe ba gác nằm ở dưới cộng thêm cái mền dày quấn quanh đỡ “đạn”
dùm nên được bình an vô sự! Chúng tôi thở ra nhẹ nhỏm. Đây là lần duy nhất Hạnh
Kiên nhập ngủ thiền (thiền ngủ gục) và té như mít rụng!
Chưa hết, cũng vẫn vào
khuya, mới một hai giờ sáng đã nghe tiếng thét lanh lảnh: “Ăn trộm! Bắt lấy
nó!” vậy là tỉnh ngủ hết. Quý cô lục tục kém nhau đi rọi đèn pin pha tứ bề. Vẫn
không thấy gì. Ai nấy về chỗ nằm thì được báo cáo là tiếng la phát xuất từ mùng
của một tôn giả đang ngủ tít mắt nhưng miệng thì mớ leo lẻo.
Mùa đậu ra ngoài Viên Chiếu
2, thuở tiện nghi eo hẹp, cái chòi nhỏ nhét mười mấy mạng, chugn quanh đậu chất
đầy, chỗ ngủ còn thiếu thì nói gì đến chỗ tọa thiền? Thế nên chúng tôi “được”
ngủ tới sáng. Bốn giờ rưỡi khuya cô Từ Thanh đã gọi:
- Dậy, dậy mấy đứa ơi!
Chẳng ai buồn nhúc nhích. Cô
Thanh liền đổi chiến thuật:
- Dậy, dậy lo vệ sinh kẻo trới
sáng!
Hiệu nghiệm thần tốc. Chúng
tôi nhổm dậy ngay, mạnh ai nấy chụp cuốc đi giải quyết “đại sự”. Phải tranh thủ
vào giờ này, vì ngoại trừ vườn cao su nằm đối diện trước mặt thì ba phía còn lại
đều trống lốc, Thường Chiếu lại nằm gần bên.
Vậy chứ tình cảm mặn mà của
cô Từ Thanh đã có lần gây khốn đốn cho chúng tôi.
Chả là thấy chúng tôi làm mệt
mà không có gì ăn bữa lỡ, cô đi ra đi vào gãi đầu thương cảm… rồi cầm lòng
không đặng, cô hốt ngay mớ đậu phọng sống phát cho mỗi đứa một nắm để ăn lấy sức.
Ăn xong, tới phiên chúng tôi “cầm lòng không đặng”. Chột bụng nhằm lúc này (giữa
ban ngày) thì chỉ có nước lủi vào rừng cao su, cỏ vườn cao su cao tới đầu gối
nên có thể đi vớt vát được. Chỉ hiềm khi trở về chân chúng tôi máu rỉ long tong
(vì vắt đeo hút tới no kềnh) lưng cổ đều mỏi vì ráng cúi thật thấp.
Đó là một vài chuyện của thuở
đầu lập quốc Viên Chiếu. Giờ đây Chiều nào cũng khang trang cứ như cảnh tiên.
Cũng có người than: “Bây giờ không giống hồi xưa, tâm con người cũng không giống
hồi xưa.”
Làm sao được? giòng nước chảy
qua trước mặt loáng một cái không còn là dòng cũ thì làm sao buộc tâm và cảnh
phải “giống như xưa”? nỗi niềm hoài cổ hay vọng hướng tương lai đều dễ làm mình
khổ. Mà thật ra quá khứ, hiện tại, vị lai… không có gì khác nhau (nghĩa là phiền
não tham sân si lúc nào cũng vậy, khác chăng là nhiều hay ít hơn thôi). Ai làm
chủ được tâm mình thì làm chủ được hạnh phúc. Làm chủ, có nghĩa là điều khiển
được dòng tâm thức mình chứ không phải bị nó điều khiển. Ngày nào tâm vẫn còn nổi
sân nhưng không thèm sân theo, nổi tham nhưng không thèm tham theo; nghĩa là nổi
lên bất cứ gì đều tỉnh kịp, không theo; thì coi như Thiên đường trong tầm tay rồi!
Còn bây giờ si vẫn nặng chình chịch. Mình sân mà ai nói: “Người tính tình gì
sân dữ…” hay “Nghiệp sân nặng dữ quá!” là bừng bừng nổi khùng thêm liền, cứ ngỡ
rằng cái khổ tự người ngoài đưa tới, chứ không phải tại mình tạo ra cho mình.
Dường như trong âm thầm sâu lắng mình luôn mong người xử với mình đẹp như
thánh, còn mình thì tha hồ cư xử theo tùy hứng của phiền não, theo tánh tật của
riêng mình.
Thôi thì đã “trót” sinh ra
trong môi trường hoàn cảnh mà… gì cũng tốt đẹp hơn xưa, thì cầu mong tâm tư
chúng ta ngày càng tươi mát hơn xưa. Có nghĩa là dù tham sân si vẫn còn đấy,
nhưng chúng ta sử dụng chúng ít hơn, dè sẻn hơn, cho đến bao giờ không còn xài
chúng nữa. Được vậy thì trong thời gian ngắn ngủi ta góp mặt với nhau trên cõi
đời này, ta sẽ đỡ ân hận hơn vì ít “nện” người bằng chính phiền não của mình và
sẽ dễ cảm thông hơn khi bị vô minh của ai đó “tông” vào làm mình khổ lây. Bởi
vì vọng niệm rồi sẽ phải tan, đâu có niệm nào thường hằng? Những cơn khùng của
vọng tâm sẽ qua và sẽ lặng… Sau cơn mưa trời lại sáng, chúng ta lại nhìn nhau,
chia sẻ niềm hạnh phúc của từng tí chút làm chủ tâm mình.
Lý Sự
Nào ai biết rằng khi thành Phật
Người gian nan vất vả đến ngần nào
Chỉ thấy người sau khi thành Phật
Ung dung, an lành, phúc lạc biết bao!
Con đường ấy giờ người sau noi theo
Chỗ đến một nhưng lối đi lắm hướng
Dễ làm lạc người ôm nhiều tham muốn
Nôn nóng mau thành mà nhẫn nại tóp teo
Thánh ở giữa giòng người xốc nổi
Tâm hiền hòa bình lặng bao dung
Dễ thứ tha, chịu đựng đến vô cùng!
Mặc người đánh – còn la làng inh ỏi
Người mơ gặp quanh mình là thánh
Để tương giao được đẹp ý vừa lòng
Trời vô tư lỡ mưa,, nắng khi không
Chẳng đúng lúc tâm mong, còn bị trách…
Thì vừa ý, làm sao vừa ý vọng?
Thỏa làm sao? Thỏa hết được tâm tham
Càng chìu nhau, lần chồng chất thêm lầm
Khi tham vọng cứ tăng, không chịu đóng
Phòng bịt kín, nắng xuyên qua sao thấu?
Tâm sục sôi, sao đón được nụ cười?
Nhân quả phân minh, theo sát không rời
Trách ai - nếu mình gieo toàn nhân xấu?
Trăng vằng vặc khi mây không che phủ
Hồ tâm trong, hạnh phúc khỏi cần tìm
Thánh và phàm rơi rụng giữa tịch nhiên
Khi trực nhận tự tâm mình đầy đủ…
Người gian nan vất vả đến ngần nào
Chỉ thấy người sau khi thành Phật
Ung dung, an lành, phúc lạc biết bao!
Con đường ấy giờ người sau noi theo
Chỗ đến một nhưng lối đi lắm hướng
Dễ làm lạc người ôm nhiều tham muốn
Nôn nóng mau thành mà nhẫn nại tóp teo
Thánh ở giữa giòng người xốc nổi
Tâm hiền hòa bình lặng bao dung
Dễ thứ tha, chịu đựng đến vô cùng!
Mặc người đánh – còn la làng inh ỏi
Người mơ gặp quanh mình là thánh
Để tương giao được đẹp ý vừa lòng
Trời vô tư lỡ mưa,, nắng khi không
Chẳng đúng lúc tâm mong, còn bị trách…
Thì vừa ý, làm sao vừa ý vọng?
Thỏa làm sao? Thỏa hết được tâm tham
Càng chìu nhau, lần chồng chất thêm lầm
Khi tham vọng cứ tăng, không chịu đóng
Phòng bịt kín, nắng xuyên qua sao thấu?
Tâm sục sôi, sao đón được nụ cười?
Nhân quả phân minh, theo sát không rời
Trách ai - nếu mình gieo toàn nhân xấu?
Trăng vằng vặc khi mây không che phủ
Hồ tâm trong, hạnh phúc khỏi cần tìm
Thánh và phàm rơi rụng giữa tịch nhiên
Khi trực nhận tự tâm mình đầy đủ…
Bây Giờ Mới Viết
Thuở Viên Chiếu chị em còn
đoanh vây chưa ai đi trụ trì tứ tán, trong lúc lao tác bất giác nghe ai đó hỏi:
- “Hỏng biết Viên Chiếu mình ai sẽ là Tổ đầu tiên hén”? Dùng từ “Tổ” cho oai,
chứ nói đúng nghĩa thì ai: “Ai sẽ chết trước nhất đây?” nào ai đoán được điều
gì sẽ xảy ra. Câu hỏi kia vẫn thuộc diện xa vời. Rừng mới khai hoang, bận rộn tất
bật. Cái gì cũng “mới” nên từ “chết” có vẻ cũ kỹ quá. Nó sẽ đến – nhưng dường
như chưa phải bây giờ - chúng tôi có sốt bịnh li bì vì chướng khí của rừng, mặc
câu: “Mạng người chỉ trong hơi thở…”, lỗ mũi chúng tôi cứ hít thở đều đặn, dễ
dàng; dù lân cận quanh đây các thanh niên bị sốt rét cấp tính là lăn ra chết nhấp
nháy.
Thêm nữa, vùng đất sau cuộc
chiến (dù mới hòa bình) vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Có hôm tôi đang bang đất
ngoài rẫy đậu (Viên Chiếu 2) thì bỗng nghe tiếng nổ vang, nhìn qua dãy đất bên
kia thấy cô gái và con bò máu me dính đầy, nghe nói cô cuốc đất trúng phải đạn.
Chúng tôi cuốc đất cũng gặp đạn và lựu đạn hoài, mỗi lần cuốc trúng đạn, tôi
luôn thấy chóng mặt. Chị Minh Ánh thì dạn dĩ hơn, cuốc phải quả lựu đạn chưa nổ
thì chị bình tĩnh lượm nó để trên gò mối. Hình như lúc tỉa đậu chúng tôi đã chạm
trán có đến hai quả lựu đạn như thế này, còn đạn lẻ tẻ thì lác đác, nghĩa là phải
luôn đối mặt với nạn tai bất ngờ trong lòng đất. Do việc lao tác không thể
ngưng nên chuyện rủi ro may đành phó thác cho số phận. (Dù vậy, chưa ai thương
tích nặng hay tính mệnh bị đe dọa trầm trọng gì…)
Vài năm sau, dân số Viên Chiếu
tăng đông. Có lẽ chị đến nhập chúng vào thời điểm này. Chùa có nhiều Phước, chị
là Huệ Phước. Song hầu như cả chúng đều gọi chị là “Bà Phước”, tiếng gọi thân mật.
mộc mạc, xuề xòa. Và khi nào muốn nhằn chị thì cứ nhấn âm tiếng “Bà” cho nặng
là đủ. Ở Viên Chiếu chẳng ai kêu nhau bằng bà, ngay cả tôi vốn dị ứng với từ
“Bà” vậy mà đôi lần cũng phải gọi chị là “Bà Phước”, chị đón nhận biệt danh
chúng cho nghiễm nhiên như đó là tên mình.
Lúc chị mới vào, chị Thủy rỉ
tai tôi:
- Con nhỏ đó gan cùng mình.
Có lần nó giận ai hay phật ý gì đó, nó dám vô rừng trèo lên cây ngủ ngay cháng
ba suốt đêm!
Tôi lén nhìn chị và bật cười.
Cảm thấy chị gan thật. Tôi chưa bao giờ phỏng vấn chị về điều này, dù thỉnh thoảng
cũng hay châm chọc chị:
- Nè, dòm cái mỏ nhọn hay
chu của chị là biết ngay Quảng “Nôm” hay cãi, Quảng Ngãi hay la… Chèn ơi! Sao
mà câu ví von đó trúng chóc hả?
Những lúc ấy mắt chị xoe
tròn trừng tôi rồi chị phì cười. Dường như trong chúng ít dùng sự dịu dàng cư xử
với chị, chị cũng ứng đối tương tự, chủ khách đều bộc bạch thoải mái, không
chìu đãi lấy lòng lấy lệ. Có lần tôi nghe cô Tri sự la chị:
- Bà Phước! Làm cho cố!
Không biết lượng sức gì hết! Cái lưng bà có đau không hả?
- Đau!
- Ừa! Đang đau mà bưng vác nặng
như vậy đó! Tham làm! Ham hố! Cụp cái lưng, gẫy cái lưng luôn thì làm sao?
Chị không trả lời, mắt long
lanh dân dấn nước. Cô Tri sự quay đi hậm hực nhưng trong mắt cô đầy vẻ xót xa.
Khi chị làm Tri khố, món sở
trường của chị là bánh ú, thịt quay chay. Chị làm bếp rất nhanh, gọn lẹ và ngon
lắm. Dạo ấy chùa còn túng thiếu nhiều người chị khéo xoay xở để chúng có được
thức ăn ngon. chị đãi thịt quay chay thường xuyên. Cô Trụ trì vốn ăn nói dịu
dàng tế nhị mà vẫn “chưởng” chị:
- Bà Phước! Bà mà cho ăn thịt
quay riết là tôi.. đập bà đó!
Chị cúi mặt tủm tỉm cười:
Chị làm việc xốc vác siêng
năng. Tới giờ tôi vẫn hình dung được dáng chị vác rựa chặt cây ngọt như chặt
chuối. Hình như với chị không việc gì là khó cả. Trong mắt tôi chị là anh hùng
lao động thầm lặng vì chị làm việc có ý thức trách nhiệm cao, các công tác chị
lãnh thường vất vả nặng nhọc đã vậy thường luôn sẵn sàng chan trải đỡ đần cho
người.
Hồn thơ trong chị lai láng,
chị làm thơ tràng giang và khoái ngâm thơ lắm, đến đỗi chúng phải tặng cho chị
biệt danh là “Hoàng Thi Thơ”. Những đêm trăng sáng, xả thiền xong là chị ngồi
trên hành lang trước hiên chùa cao hứng ngâm thơ. Chị Hạnh Phước bật cười nói:
- “Bả” ngâm thơ dở khẹt vậy
mà cứ ngâm hoài hà!
Bất kể thính giả có hưởng ứng
hay không, chị cứ ngâm say sưa chẳng lý gì tới lời chê. Thình lình quay sang thấy
tôi đang mỉm cười, cho là đã tìm được “tri âm”, chị liền trút hết cho tôi nghe.
Tôi đành ngồi “chịu trận”. Thôi thà để lỗ tai mình bị “tra tấn”, còn hơn là dập
tắt cơn hứng chí của chị. Vì vậy mà tôi được chị ngâm thơ cho nghe hoài hoài!
Có lần tôi thấy chị ngồi lộn
lại mấy bao thơ cũ, tôi thắc mắc hỏi thì chị đáp:
- Lộn lại vẫn viết gửi đi được,
vất bỏ chi cho uổng phí?
Tiết kiệm là đức tính tốt,
nhưng liệu.. chị có vì thế mà thành hà khắc khó khăn với người?
Khi chị làm Tri khố, nhìn chị
sắp đặt, lo bữa ăn cho chúng, tôi mới hiểu, té ra chị tiết kiểm tuyệt đối cho bản
thân nhưng đối với người rất rộng tay hào phóng. Đó là tính chất “khắc kỷ lợi
tha” đáng trân trọng. Tôi cũng chưa bao giờ ngỏ lời khen thẳng với chị về những
điều mình ngầm ngưỡng mộ, mà có lẽ chị cũng không nhận ra ưu điểm nơi mình (ngoại
trừ tài ngâm thơ?).
Khi tôi sửa soạn lên Tùng
Lâm nhập thất dưỡng bệnh, chị có nói với tôi:
- Tự dưng em muốn xin chúng
nhập thất tu rục quá!
Ai từng tu mà không ước mơ
làm chủ được sinh tử? Tôi cảm thông chị và bỗng thấy bùi ngùi. Tôi không ngờ
khi tôi đi rồi, chị đi tắm biển và bị chết đuối. Mãi mấy năm sau ra thất tôi mới
biết tin. Viên Chiếu đã an táng chị chu đáo, nồng ấm nghĩa tình chị em. Bỗng
dưng khi không mà chị thành “Tổ” đầu tiên của Viên Chiếu.
Thường nhật chị sống tốt,
còn ôm nỗi khát khao giải quyết sinh tử, mỗi người sinh ra có một kiểu người chết
có hàng trăm kiểu khác nhau là lẽ thường, tôi tin chị sẽ có dịp thực hiện tiếp
hoài bão của mình.
Mãi tới giờ tôi mới viết những
dòng này cho chị thì chị mất đã gần hai mươi năm! Nhưng tôi chẳng ngại vì muộn
màng. Dù tôi im lặng hay viết ra thì công hạnh chị lúc nào cũng ngời sáng. Mỗi
người là một bản kinh kỳ diệu và tôi xin gởi nét kỳ diệu ấy cho người đọc, để
chúng ta cùng tưởng niệm đến chị, một pháp lữ đã từng góp mặt trong thơi gian
ngắn ngủi ở cõi phù du này.
Lời Cuối
(Tặng chị Huệ Phước)
(Tặng chị Huệ Phước)
Nếu tôi biết lần gặp nhau hôm ấy
Là chia tay vĩnh viễn, thì này…
Tôi sẽ nện chị đau điếng vào vai
Thay lời tiễn mình… âm dương đôi ngã!
Phật đã bảo xác thân mình là giả
Có mang vào rồi cũng phải cởi ra
Lúc mang thân mình khóa oa oa
Khi cởi trả, có hồn nhiên thư thả…?
Đời không phải trăm năm, hay mấy khắc…
Là giàu sang hay vinh nhục, bần hèn
Sóng cuộn trào trong lòng biển uyên nguyên
Ta gặp mãi, mà luôn quên khuấy mất
Khổ là lúc tâm điên, đấu vật…
Tham sân si bùng nổ chẳng thể dừng
Vui là khi tâm lặng, tĩnh an..
Thắng kịp lúc niệm nổi lên dối gạt
Lối đi về của xác thân dễ thấy
Lối tâm tư đi đứng khó nhìn
Quan trọng gì đâu thân xác hợp tan?
Nếu tâm thức mình luôn tỉnh sáng
Tôi tặng chị mấy giòng thơ lai láng
Ơi hỡi! “Bà Phước” – “Hoàng Thi Thơ”!
Nẻo đi về xin sáng mãi chớ mờ
Dù sống, chết.. xưa nay vẫn vậy!
Là chia tay vĩnh viễn, thì này…
Tôi sẽ nện chị đau điếng vào vai
Thay lời tiễn mình… âm dương đôi ngã!
Phật đã bảo xác thân mình là giả
Có mang vào rồi cũng phải cởi ra
Lúc mang thân mình khóa oa oa
Khi cởi trả, có hồn nhiên thư thả…?
Đời không phải trăm năm, hay mấy khắc…
Là giàu sang hay vinh nhục, bần hèn
Sóng cuộn trào trong lòng biển uyên nguyên
Ta gặp mãi, mà luôn quên khuấy mất
Khổ là lúc tâm điên, đấu vật…
Tham sân si bùng nổ chẳng thể dừng
Vui là khi tâm lặng, tĩnh an..
Thắng kịp lúc niệm nổi lên dối gạt
Lối đi về của xác thân dễ thấy
Lối tâm tư đi đứng khó nhìn
Quan trọng gì đâu thân xác hợp tan?
Nếu tâm thức mình luôn tỉnh sáng
Tôi tặng chị mấy giòng thơ lai láng
Ơi hỡi! “Bà Phước” – “Hoàng Thi Thơ”!
Nẻo đi về xin sáng mãi chớ mờ
Dù sống, chết.. xưa nay vẫn vậy!
1983
Vô Thường
Ta cúi lặng tiễn người về đáy mộ
Chợt ngỡ ngàng trong khúc vô thường ca
Dẫu đã biết cung vòng từ thiên cổ
Bước sau cùng… cho kẻ trót sinh ra
Đêm thao thức buồn dâng như sóng vỗ
Thấy chập chùng viễn ảnh còn mờ xa
Hành trang trắng lên đường từ mấy độ
Đời lang thang vẫn cùng tử không nhà
Thôi nhé, người đi… ta tống tiễn
Đốt hương trầm rồi nhìn khói nhẹ lan
Ta ở lại giữa dòng đời hư huyễn
Đốt hương trầm rồi nhìn khói nhẹ lan
Ta ở lại giữa dòng đời hư huyễn
Có vui buồn.. cũng là thoáng mây tan.
Chợt ngỡ ngàng trong khúc vô thường ca
Dẫu đã biết cung vòng từ thiên cổ
Bước sau cùng… cho kẻ trót sinh ra
Đêm thao thức buồn dâng như sóng vỗ
Thấy chập chùng viễn ảnh còn mờ xa
Hành trang trắng lên đường từ mấy độ
Đời lang thang vẫn cùng tử không nhà
Thôi nhé, người đi… ta tống tiễn
Đốt hương trầm rồi nhìn khói nhẹ lan
Ta ở lại giữa dòng đời hư huyễn
Đốt hương trầm rồi nhìn khói nhẹ lan
Ta ở lại giữa dòng đời hư huyễn
Có vui buồn.. cũng là thoáng mây tan.
Chút hương ngày cũ
Sáng sớm tinh mơ, chị Tịnh
Niệm đã đập cổng thất tôi, nói vọng vào:
- Cô Hạnh Thanh chết rồi! –
Nói xong chị vội vã bỏ đi.
Mười phút sau chị Ẩn chạy
qua bắc loa báo lần nữa:
- Chị Hạnh Thanh bị tai biến
mạch máu… đi rồi!
Lỗ tai tôi lùng bùng, đầu óc
thoáng chao đảo. Biết là ai cũng phải chết, chúng tôi sẽ nối tiếp nhau đi vào cửa
tử, nhưng với tôi quả tình chị ra đi hơi sớm.
Lần đầu lên núi, tôi là lính
mới tò te, gặp chị cũng là tân binh, nhưng trông dáng vẻ hồng hào phương phi của
chị, tôi cho rằng đây là một vị ni sư nên chắp tay bái chào lia lịa. Khi Viên
Chiếu thành lập xong rồi, mấy tháng sau mới thu xếp xong việc nhà để vào thường
trú với chúng tôi. Lúc ấy Viên Chiếu đang vào thời “khai hoang lập quốc” nên bất
cứ ai gia nhập cũng được hoan hô đón chào ngầm, nhưng thực tế người bỏ đi nhiều
hơn kẻ đến – vì cơ cực quá!
Trong hoàn cảnh ấy, càng nhọc
nhằn chị em càng đùm bọc nhau, tình thân càng chan trải. Cô Hoa, chị Hạnh Thanh
thuộc diện lớn tuổi nhất chúng cũng chỉ trên ba mươi, cô Đức làm huynh trưởng
chỉ mới hăm mấy, còn tôi nhỏ nhất, vừa tròn mười sáu.
Giữa rừng đầy gai góc, muốn
có lương thực tất cả chúng tôi phải bận như con thoi. Chị Hạnh Thanh vào Viên
Chiếu trong tình huống tức cười: chị đang nguyện trả nghiệp nên bị nghiệp đòi tới
tấp, đến nỗi phải nằm mẹp trên giường bịnh. Dù ở cái tuổi “toan về già” song chị
vẫn là anh hùng lao động xuất sắc, dũng cảm có thừa, không hề từ nan một việc
khó khăn nào.
Tôi chẳng bao giờ dám nguyện
trả nghiệp, chỉ tùy duyên mà tiêu thôi. Bởi tôi sợ phát nguyện trả nghiệp mà lỡ
ác nghiệp của mình nhiều quá nó tuôn ra ào ạt thì chịu làm sao thấu? Chị Thanh
bị ghẻ nổi toàn thân đau đớn chẳng cử động được gì nhiều, may nhờ có bào muội
là chị Hạnh Nhã chăm sóc tận tình (vừa chăm sóc vừa la đó). Nhìn chị Thanh chịu
đựng cơn bệnh phải biết là chị rất giàu nghị lực.
Rồi cơn bệnh dần hết, chị nhậm
chức Trưởng viên, dốc hết tâm huyết kiến tạo vườn cây ăn trái cho Viên Chiếu. Mỗi
lần nhắc đến chị Thanh, chị Nhã; chị Thủy thường nói:
- Hai người này đúng là
“khai quốc công thần” của Viên Chiếu?
Lời bình phẩm ấy không sai.
Hai chị em giống nhau từ ý chí tu tới tinh thần làm việc năng nổ. Chiều chiều,
trước giờ tụnh kinh, hai vị thường sánh nhau đi trên lối mòn Viên Chiếu dưới
tàng lá âm u của mấy rặng tre, quí cô thường bảo nhau:
- Trông kìa! Dược Vương, Dược
Thượng đang đi kinh hành!
Các chị mang biệt hiệu ấy bởi
vì chị Nhã thường thố lộ: hai chị nguyện đời đời là thiện tri thức của nhau,
sách tấn nhau tu tới thành chánh quả!
Chị em họ rất thương nhau,
ngọt bùi cùng sớt chia và chia… luôn những công tác nhọc nhằn trong Viên Chiếu
để làm. Việc gì nặng thì tình nguyện làm, không bao giờ lánh nặng tìm nhẹ… các
chị cũng chẳng ham làm quên tu, siêng năng ngồi thiền “lố” thời khóa, dù lao
tác mỏi mệt vẫn lúc thúc lễ bái sám hối chuyên cần.
Chị Nhã trước giải phóng
chuyên đi dạy, vào tu viện mới bắt đầu làm nông, chị được bầu làm Trưởng ruộng
và làm rất cực. Ra đồng sớm và về muộn hơn ai hết. Đã vậy, xả thiền khuya xong
là chị tuột xuống bồ đoàn tranh thủ chùi nhà tắm nhà vệ sinh sạch sẽ, gánh nước
đổ đầy thùng phuy trước nhà vệ sinh và các thùng trong nhà tắm để chúng tôi làm
ruộng về có mà dùng. Dù chùa có cắt công tác vệ sinh luân phiên, nhưng đến giờ
chấp tác, người làm vệ sinh phải ngẩn ngơ vì chị Nhã đã làm hết trọi. Nếu muốn
chu toàn trách nhiệm thì phải làm trước chị Nhã, vậy là xảy ra một cuộc đua
ma-ra-tông do những cuộc tranh làm. Có người cho là chị Nhã thích kiếm phước
thêm, thích “mót phước”… nhưng, công hạnh đặc biệt của chị không phải ai cũng
có, vì vậy mà tôi rất ngưỡng mộ chị về điều này. (Với chị thì đừng hòng đùn đẩy,
nạnh việc… chị sẽ thầu hết cho xem) đây cũng là một nhân vật khó kiếm, một hạnh
tu đặc biệt và thật thích khi tôi được nói đôi điều về chị, (dĩ nhiên là tôi
không nói quá, tôi không muốn tâng bốc người những điều mà họ không có). Bây giờ
xài nước đã có máy bơm, chẳng còn cảnh phải gánh lận đận như ngày xưa, và chị
Nhã nay cũng đã “tàn hơi hết sức” rồi, nhưng ý chí và tinh thần trách nhiệm cao
thời ấy của chị đã thổi vào Viên Chiếu một luồng khí lạ, đầy tính phụng hiến hi
sinh, thế nên từng giọt nước mát chị gánh cho chúng tắm ngày ấy, tới giờ vẫn
còn đọng lại trong tôi. Ngay khi viết những dòng này tôi vẫn thấy cảm động bồi
hồi. Chị hành nhiều hơn nói và là một “thiện tri thức” hết sức… đúng nghĩa.
Chị Huệ cũng là dân quen đứng
trên bục giảng “ăn hiếp” học trò, vốn chẳng thạo cuốc cày, nhưng chị và cô Hoa
phảng cỏ ào ào, phảng… rất thiện nghệ, chẳng thua một đấng nam nhi nào. Nhìn họ
làm tưởng dễ, nhưng cầm phảng lên tôi mới hiểu hết được nỗi khó khăn, phảng thử
một chút là tay tôi đã sưng phồng, rướm máu; còn các chị thì phảng cỏ ngày này
qua ngày khác, cỏ chỉ cỏ gai vốn ngỗ ngáo và dai nhách, lại mau làm lụt phảng…
thế nhưng các chị đã âm thầm chịu đau cho tay đàn em được lành lặn, không một lời
than vãn… rồi khi buông phảng ra chị Huệ vẫn cạo gió cho người rất bền, cô Hoa
vẫn còn sức để cắt lễ đuổi bịnh giúp chúng tôi thật thiện nghệ. Đây là tính
cách quảng đại bao che của các bậc đàn chị mà tôi không thể không nhắc đến.
Chị Minh Ánh thì giỏi cào cỏ,
cào cũng phải có nghệ thuật sao cho cỏ nằm rạp bày gốc ra để đường phảng chém
vào dễ dàng không bá vào lưỡi cào, cào vụng về người phảng sẽ mệt thêm! Chị Ánh
làm rất thong dong (dù nhiều người đã luống cuống khi cào thử) có lúc một tay
chị cào cỏ một tay thọc vào túi quần trông thật nhàn hạ (dạo ấy chúng tôi mặc đủ
thứ đồ do người ta ủy lạo cho, kể cả quần lính, quần tây, miễn là dày để đối
phó với đám gai rừng nên mới có túi để mà thọc tay vào) đôi khi sướng hơn còn
móc được kẹo từ trong túi ra ăn để thấy trần gian này còn ngọt ngào lắm lắm.
Chị Hạnh Thanh thì phá tre dọn
vườn, đào ao trồng sen súng, lập vườn dừa. Ngày nay Viên Chiếu có được vườn cây
ăn trái thành khoảnh xum xuê, dẫu có bàn tay đại chúng đóng góp thì công đầu vẫn
là chị Thanh, vì chọ đã vắt hết sức mình vào đó. Bây giờ từ thất tôi nhìn ra
hàng dừa lộng gió, còn thấy thấp thoáng đọt sầu riêng. Cây sầu riêng lúc chị hạ
trồng chỉ cao tới đầu gối, nhìn nó bé tí tôi vừa tưới vừa than: - Biết chừng
nào sầu riêng mới lớn? Chị khuyến khích tôi: - Ráng đi em, Chừng mười năm nữa
mình có trái ăn rồi! - Bây giờ đã hơn hai mươi năm, khi ăn sầu riêng có ai còn
nhớ tới chị? Tôi vẫn mường tượng được dáng chị mặc đồ vá chùm và đụp, nhanh nhẹn
đi tới đi lui làm vườn, nước da không còn hồng hào mà xanh mét, vì màu xanh mét
là đặc điểm của dân Viên Chiếu hồi ấy, quà tặng thân thiết của muỗi sốt rét.
Tôi đã từng làm chung ban với
chị Thanh khá lâu, nghề của tôi là chuyên gánh nước cho chị tưới; có những cây
giống chị phải về tận miền Tây để lấy, thường chị đi độ ngày rưỡi là về và
không quên đem thao quà cho tôi; tôi hân hoan đón lon guigoz chè chị trao, trốn
vào bụi chuối ăn sạch nhẵn (nên tôi rất sẵn sàng coi vườn cho chị đi lấy giống
cây) nhưng cần lắm chị mới đi, vì chị thuộc diện ít khi rời khỏi chùa.
Khi mùa lúa chín tới khoe những
hạt no tròn nặng trĩu thì chúng tôi phải thức đêm canh chừng đạo chích. Lúc ấy
bọn trộm còn hiền lắm, thấy có chúng tôi hiện diện là chùn tay. Tuy là ban Tri
Viên song chị Thanh vẫn tình nguyện thức canh trộm, dĩ nhiên phải canh hai người
cho an ninh và tôi luôn là cái đuôi của chị. Bờ đê ruộng không chắc nhưng chúng
tôi vẫn tìm được chỗ để hai cái sàng thiền, mắc mùng ngồi trong đó “nhập định”
tới sáng. Đêm mù sương nồng nàn hương lúa chín, mộng và thực trộn lộn hòa lẫn
chập chờn trên đôi mắt ngái ngủ nửa tỉnh nửa mê của tôi. Canh độ dăm ngày là
lúa được gặt tải hết vô bồ.
Lúa chín vào mùa lụt thì khỏi
canh trộm, các ban làm trên bờ đều được huy động xuống nước gặt lúa khẩn cấp.
Nước ngập tới thắt lưng, tới ngực... có chỗ sâu hút, đứng thẳng dang tay lên trời
còn bị lút tay. Các chị bảo chỗ này chắc là hố bom ngày xưa nên mới sâu dữ vậy.
Dân biết bơi cỡ tôi, chị Thanh, chị Nhã thì lội ra chỗ sâu mà gặt. Đôi lúc phải
lặn vì lúa nằm sát rạt, tôi có cảm tưởng mình gặt trong thế trồng chuối vì hai
chân cứ bị đẩy chổng ngược lên trời, còn tay thì cố gặt (vớt vát được cọng nào
hay cọng đó) chỉ lo mất mùa đói thôi. Lúa gặt xong được chất lên bè đẩy vào
chùa, ai nấy ướt loi ngoi, lạnh rung nhưng cũng ráng cười.
Nghe kể trước khi ra đi chị
Thanh rất tỉnh táo, dự biết trước và nhắn lời mời Viên Chiếu làm đám cho chị,
thật đáng mừng.
“Sinh như đắp chăn bông, tử
như cởi áo hạ”. Chị đã trả hết nghiệp, một đời siêng năng tinh tấn, đối xử trọn
nghĩa tình với người thì chuyện bỏ thân dù sớm hay muộn đâu có gì để lo lắng,
băn khoăn? Chiếc xe thân xác chị đã cỗi, đã đến lúc phải rã thì bạn đồng môn đều
chúc mừng chị ra đi tỉnh sáng.
Thuở ấy tôi nhỏ nhất nên
không thể kể về bậc đàn em, chỉ kể được về các bậc đàn chị của mình: “Làm việc
không tiếc thân, giàu lòng quảng đại, hi sinh” đó là tính cách chị Hạnh Thanh
mà cũng là của các chị tôi. Bài viết này xin thay nén hương dâng đến chị - cố
Trụ trì thiền viện Tịch Chiếu – và cũng để gởi một chút tình đến các bậc đàn chị
đã từng dìu dắt chở che tôi trong chiếc nôi Viên Chiếu khó quên.
Tiễn Biệt
(Tặng giác linh chị Hạnh Thanh)
(Tặng giác linh chị Hạnh Thanh)
Tin chị mất trong một ngày giữa hạ
Em lặng người, nghe khoảnh khắc buồn len
Dẫu đã biết xác thân rồi phải rã
Câu vô thường đọc mãi vẫn chưa quen..
Nếu cuộc sống là cùng nhau chan trải
Trao niềm vui, thay nhận những ưu phiền
Chị bỏ xác, bọt tan vào đại hải
Lối đi về, trăng tỏa sáng vô biên..
Vườn Viên Chiếu còn đơm đầy hoa trái
Ngọt ngào như nhân cách chị hiền hòa
Trong lòng chúng, chị vẫn còn sống mãi..
Nết siêng năng, tận tụy, vị tha..
Em tống tiễn không trầm hương, đèn nến..
Một bài thơ, dâng đến cõi vô cùng
Giờ nẽo giác chị nhẹ nhàng cập bến
Hạt bụi hôm nào, tan vỡ thong dong...
Em lặng người, nghe khoảnh khắc buồn len
Dẫu đã biết xác thân rồi phải rã
Câu vô thường đọc mãi vẫn chưa quen..
Nếu cuộc sống là cùng nhau chan trải
Trao niềm vui, thay nhận những ưu phiền
Chị bỏ xác, bọt tan vào đại hải
Lối đi về, trăng tỏa sáng vô biên..
Vườn Viên Chiếu còn đơm đầy hoa trái
Ngọt ngào như nhân cách chị hiền hòa
Trong lòng chúng, chị vẫn còn sống mãi..
Nết siêng năng, tận tụy, vị tha..
Em tống tiễn không trầm hương, đèn nến..
Một bài thơ, dâng đến cõi vô cùng
Giờ nẽo giác chị nhẹ nhàng cập bến
Hạt bụi hôm nào, tan vỡ thong dong...
Dược Sư Và Tôi
Chị tôi tu ở Dược Sư, năm
lên mười tôi lên thành phố trọ học, chỗ trọ cách chùa Dược Sư vài cây số nên
khi rảnh tôi tha hồ chạy qua thăm chị và viếng chùa.
Nếu đến chùa mà đi đường lộ
sẽ xa hơn đi tắt, lối đi tắt thì gần nhưng phải băng qua nghĩa địa và cua quẹo
vòng vèo. Lần đầu dắt tôi tới Dược Sư, chị Phượng vừa đi vừa bảo tôi:
- Con đường tắt này mau tới
nhưng khó nhớ lắm, em đi một lần mà nhớ hết thì công nhận là em thông minh.
Câu nói của chị làm hào khí
trong tôi trỗi dậy, tôi nhìn lom lom từng ngã rẽ (vì bận về thì chị sẽ thẩm tra
kỹ năng nhớ của tôi, bắt tôi “trả bài” bằng cách đi trước dẫn đường).
Lối đi tắt luôn dẫn đến cổng
sau chùa Dược Sư (tức là cửa sau nhà bếp). Đến nơi, chị em tôi vừa lên tiếng là
quí cô mở cửa ngay.
Lần đầu ghé Dược Sư quang cảnh
đập vào mắt tôi thật ngộ, rất đông quí cô hiện diện trong bếp đang lăng xăng xắt
gọt, nấu nướng, rửa chén… một vài tiếng xì xào:
- Em Thủy đó hả, giống quá
há!
Rồi có tiếng phản đối:
- Giống gì mà giống, chị em
mỗi người một mặt!
Tới giờ tôi vẫn thích không
khí ở bếp chùa Dược Sư, ấn tượng mà các nữ tu để lại trong tôi thật đặc biệt,
(lúc nào cũng thấy quí cô rửa chén, có lẽ tôi đến cứ nhằm vào giờ này). Trừ ban
giám sự ra hình như đa số quí cô đều rất trẻ, mặt ai cũng tươi tắn.
Hồi đó với tôi Dược Sư là một
cõi giới mới mẻ, lạ lùng; cho tôi niềm vui và sự thư giãn khi đến thăm. Lúc ấy
tôi chưa biết phân biệt (chưa lưu tâm đến) đẹp xấu, nhưng trong trí óc tôi quí
cô giống như thiên thần, tượng trưng cho hoan hỉ và hạnh phúc.
Theo lễ tôi phải xá chào quí
cô. Dược Sư có 60 cô, ít gì tôi cũng phải xá mấy chục lễ, thật chẳng dễ dàng được
gặp cảnh quí cô hội tụ để xá một lần mà hễ gặp vị nào là chắp tay xá vị đó… cho
nên một lần nọ tôi đã òa lên khóc, quí cô lao xao hỏi thăm:
- Sao vậy? Sao khóc vậy?
- Hu! Hu! Híc!... mỏi cổ
quá! Chào mỏi cổ quá! Bữa nay phải chào nhiều quá!
Ai nấy đều bật cười. Dù vậy,
tôi vẫn không bỏ được cái thú đến thăm Dược Sư và để bớt… khổ, sau khi lễ các vị
trưởng thượng xong, tôi chạy thẳng vào nhà kho; ở đây tôi thường gặp một sư cô
già có gương mặt nghiêm trang ít cười, người luôn gật đầu trước cái chào của
tôi và chỉ vào cái ghế bố như có ý bảo tôi ngồi; thế là tôi tha hồ yên vị tại
đó đọc sách mãi miết đến hết thôi.
Riết rồi quen, hễ thấy mặt
tôi là quí cô cứ chìa sách ra, hầu như lúc nào đến tôi cũng có sách để đọc. Có
lần cô giữ tủ thư viện xoa đầu tôi cười nói:
- Đọc gì mà dữ vậy? Gần hết
sách rồi! Kiếm không ra sách cho mi đọc nữa!
Nhưng rồi dòm vẻ mặt của
tôi, cô không nỡ để tôi thất vọng, lại cắm cúi lục tìm, cố kiếm cho ra sách mới
đưa tôi. Tủ thư viện có hết thì vẫn còn tủ riêng của quí cô. Thế nên đến khi xa
Dược Sư, nguồn sách cung cấp cho tôi đọc vẫn chưa bị cạn.
Tôi nhớ hồi ấy cô Đức còn rất
trẻ, cô chỉ mới 21, 22 chứ không phải trên ngũ tuần như bây giờ. Cô cho tôi mượn
tập sách Tuổi Hoa của cô. Trong sách có mục “Đồng Cỏ Non” dành cho các bé mà
tôi rất thích. Thế là tôi nổi hứng sáng tác văn chương.
Đi học về là tôi hí hoáy viết,
sáng tối gì cũng chúi mũi vào viết (không hề xấu hổ vì chữ viết mình như gà
bươi). Tôi làm đúng như tòa soạn dặn, viết một mặt giấy xếp thẳng thớm bỏ vào
bì thư.
Nhỏ bạn học cùng lớp khoe
tôi là nhà nó ở gần bưu điện, để chắc ăn, tôi nhờ nó bỏ thư dùm.
Tôi canh hoài mà chẳng thấy
bài mình đăng trên báo. Tôi hỏi nhỏ bạn:
- Mày có bỏ thư tao đàng
hoàng không?
Con nhỏ chu môi:
- Chắc như bắp ấy, tao còn bỏ
vào thùng thư bảo đảm giúp cho mày nữa kia?
- Là sao?
- Ngu ơi là ngu! Nghĩa là bỏ
thư vào cái thùng có chữ “bảo đảm” sơn phía ngoài đó!
- Hiểu rồi, cứ gởi vậy là tới
hả?
- Tất nhiên! Đã gởi là “bảo
đảm” thì không bao giờ lạc!
Thế là tôi tiếp tục sáng
tác, nhỏ bạn vẫn tình nguyện bỏ thư dùm, lá thư không có dán con tem nào được bỏ
vào thùng “bảo đảm” cẩn thận, nghĩa là lúc nào cũng được gởi “bảo đảm” kiểu đó
cả. Cho đến một ngày nhỏ bạn tôi hết kiên nhẫn, ca cẩm:
- Tao gởi bảo đảm chắc thế
mà không thấy tăm hơi gì… thôi đừng viết nữa, bài mày dở quá họ không đăng đấy!
Thế là tôi giải nghệ.
Sau đó tôi lại mò qua Dược
Sư, lần này cô Đức béo tai tôi:
- Con nhỏ này, lớn rồi phải
tập tánh nữ công nữ hạnh đi chứ! Vô đây! Vô đây! Ta tập cho mà thêu!
Tay tôi cầm kim có mà làm
gãy kim! Cái tuổi lên mười thuở ấy tôi có biết gì mà lưu tâm đến nữ công nữ hạnh?
Dòm mấy cái mẫu thêu thiệt đẹp của cô tự dưng tôi đâm sợ, thế là tôi trốn biệt.
Có trốn mấy thì những ngày
Phật Đản hay Vu Lan tôi vẫn mò qua, trong khi ngoài cổng chùa con nít bu đen chờ
lãnh kẹo bánh, thì tôi đã được quí cô dành sẵn cho một phần thật to, nên Dược
Sư đối với tôi là một điểm viếng tuyệt vời, là một nơi ban cho tôi niềm vui và
nỗi hân hoan suốt thời thơ ấu mỗi lần ghé thăm.
Tôi nhớ sư cô Đồng gương mặt
tròn đầy đặn trông rất phúc hậu, mỗi lần bịnh tôi thường vào phòng thuốc Dược
Sư, lãnh một mủi chích vào mông rồi đi cà vẹo cà vẹo ra về với bộ mặt nhăn như
khỉ ăn ớt trước tiếng cười vang của sư cô.
Còn sư cô già trong nhà kho,
tôi nghe quí cô thường gọi là cô Hồng, cô ít nói, nghiêm trang; nhưng mỗi lần gặp
cô tôi cảm thấy sung sướng, yên ổn; vì từ tâm của cô tỏa ra mát rượi, dù cô
không nói câu nào nhưng cử chỉ của cô làm tôi cảm động; vì có khi vào nhà kho bắt
gặp cô đang ngồi trên ghế bố, trong lúc tôi đang khép nép e dè thì cô đã đứng
lên (như nhường chỗ cho tôi ngồi vậy). Thấy tôi hoảng sợ không dám ngồi, cô dịu
dàng bảo:
- Tới giờ cô làm việc rồi,
cô không nghỉ nữa, con ngồi đi! Đừng sợ!
Thuở ấy tôi chỉ là một đứa
bé, nhưng cử chỉ trân trọng của cô làm tôi nhớ mãi, nhớ mãi đến mấy mươi năm về
sau, thậm chí giờ cô mất rồi, kỷ niệm xa xưa vẫn còn đọng lại trong tôi như
dòng nước mát ngọt ngào.
Sau này lớn lên vào Bát Nhã
tu, thỉnh thoảng tôi có gặp cô Hồng nơi cái cốc ven triền núi, dĩ nhiên tôi vẫn
lễ phép bái chào, mối cảm mộ âm thầm trong lòng tôi vẫn còn đấy, chẳng hề bày tỏ
ra. Đôi lúc tôi cảm thấy mình thật lạ, mến mộ nhiều mà gặp vẫn thản nhiên, tri
ân thầm mà tương giao như lạnh lùng.
Mãi đến sau này, một lần chị
dâu tôi làm lễ trai tăng và có dành cho tôi một phần quà, cầm gói quà của chị
trên tay tôi thích lắm, tôi thấy nó thật giá trị, vì nó chứa đựng cả lòng
thương yêu chị dành cho tôi, tôi định mở ra xem nhưng dừng tay, bởi tôi nhớ đến
cô.
Tôi muốn chuyển món quà đó đến
cô. Hi vọng nó sẽ thay tôi chuyển tải tất cả những cảm tình, niềm mến mộ tôi hằng
dành cho cô, dù không gặp nhưng được tặng cô chút gì đó thì thật là hạnh phúc.
Vài tháng sau cô mất. Thật
là may vì tôi đã bày tỏ chút tình đến với cô kịp thời, nếu không tôi sẽ buồn suốt
đời.
Cái thời ghé Dược Sư để
chơi, để ăn và tha hồ đọc sách, tính đến giờ đã hơn ba mươi năm.
Dược Sư vô tình mà thành ươm
mầm cho tôi, những cuốn sách Phật và những câu chuyện ý vị cứ thấm dần vào tôi như
sương đêm đẫm áo, những gì từng vay mượn và tiếp thu từ thuở bé, giờ tôi cũng
đang bắt đầu hoàn lại. Đọc của người nên viết cho người đọc.
Tôi viết những dòng này thay
cho lời cảm ơn Dược Sư, cảm ơn những nữ tu Dược Sư đã tiếp đón tôi bằng tấm
lòng bao dung hoan hỉ, để tôi tha hồ tới lui ngồi mòn ghế đọc sách mà tuyệt
không hề có một lời, một thái độ hay cử chỉ phàn nàn nào.
Ngoại trừ cô Đức và một vài
cô quen thuộc ra, tôi không nhớ hết tên lẫn nét mặt của các nữ tu chùa Dược Sư
thuở ấy. Tượng Phật ngồi bất động trên cao luôn mỉm cười hiền hòa, còn trong
trí óc non dại của tôi; quí cô thuở ấy cũng thật hiền hòa và hoan hỉ giống như
Phật.
12/11/2004
Thuở vị thành niên của Viên Chiếu
Khi khu vườn Viên Chiếu hoa
nở ngát hương, những cánh chim trưởng thành lần lượt tiếp sức đầu đàn dắt dìu
đàn em, thì người ta luôn bắt gặp những nhân dáng trang trọng, nghiêm túc để có
thể xứng đáng làm mô phạm cho hậu sinh, nên ít ai biết, tưởng tượng được đến
cái thời đầu ngô nghê của Viên Chiếu, cái thuở vị thành niên còn nhiều bất
toàn, và nụ cười hồn nhiên còn rộn ràng ngân vang.
Từ Bát Nhã xuống Viên Chiếu,
mỗi người được phát cái thùng giấy to để đựng “gia tài sản nghiệp” gồm ba bộ đồ,
mùng mền, vật dụng tùy thân. Chỉ có cái đơn cô Đức là vật thể an toàn duy nhất,
nằm giữa trung tâm cái cốc lá râu ria, đựng đủ thứ đồ hầm bà lằng, gồm tài sản
riêng cô và của chung cả chùa – nghĩa là ngoài chiếc thùng giấy - chúng tôi cần
gì cứ giở đơn cô ra lấy: tập vở, đơn từ, dây thun luồn quần, kim chỉ, nút, viết…
Tôi xuống Viên Chiếu chậm
sau mấy chị cả tháng, nhưng chỗ hành lễ vẫn chưa thiết lập, nên thời kinh đầu của
tôi diễn ra trong cái mùng tập thể giăng trên gác, cái mùng có sức chứa năm sáu
người ngủ, vẫn khá rộng để chúng tôi ngồi tụng kinh. Tới giờ, chỉ việc ôm mõ chuông
vào mùng, ngồi tụng ê a, đọc Tam tự quy xong là đã có thể ngã lăn ra, nằm thư
giãn trong mùng.
Tuần lễ sau, chỗ lễ lạy được
thiết lập với bức hình Tổ Đạt-ma treo sát vách lá dừa, phía dưới là cái kệ đơn
sơ để mõ chuông, án hương. Chúng tôi đã có thể đắp y áo hành lễ chỉnh tề, nhưng
đây vẫn là thời nở rộ đủ trò nghịch ngợm.
Chị Minh Ánh có lần cạo đầu
cho cô Đức đã ranh mãnh chừa lại ba vá làm gương mặt cô trông giống hệt hình vẽ
mấy tiểu yêu của Hồng Hài Nhi, rồi chị cũng bị cô Hoa chừa lại cho một vá trên
đầu giống hệt cái bàn chải chà chân. Rồi lúc hành lễ, khi giọng tán Phật của cô
Đức xướng vút cao, kéo ánh mắt chúng tôi bay bổng lên và dừng lại nơi các vá,
chóp, dựng đứng chơm chởm khiến ai cũng phải tủm tỉm cười. Dù chúng tôi có thế
nào thì gương mặt của đức Thế Tôn vẫn bao dung muôn thuở.
Rồi các vá chóp kia cũng được
tẩy sạch sẽ. Chuyện cạo đầu tưởng như đơn giản nhưng cũng trở thành vấn đề khi
cô Đức buộc phải xin phép Thầy cho chúng tôi mỗi tháng cạo một lần, thay vì nửa
tháng.
Dao lam khan hiếm nên phải
nhờ quý thầy Thường Chiếu mài lại cho chúng tôi xài. Tội nghiệp! Chắc là quý thầy
mài mỏi tay, vì tháng nào cũng phải mài cho chúng tôi có mà thí phát (hết mài
phảng cho chúng tôi phảng cỏ thì lại phải mài dao cho chúng tôi… “phảng” đầu).
Đôi khi chị Huệ cũng ra sức
mài phảng cho đở “báo đời” quý thầy, nhưng chắc chắn là không thể nào bén ngọt
bằng Thường Chiếu mài cho. Tôi hỏi chị Huệ:
- Chị biết mài dao lam
không?
- Chịu thôi! Chỉ có quý thầy
biết! Dao lam khó mài lắm!
- Mài sao hả chị?
- Tui thấy thầy Thiện Trung
bỏ vô cái ly mài mài!
Thầy mài thiệt hay, dao mài
về bén ngót. Nhưng tóc mỗi tháng mới cạo một lần, dao mài đi mài lại, lướt trên
mười mấy cái đầu chúng tôi nghe rồn rột cứ như nạo dừa, thỉnh thoảng nó còn dằn
xóc như xe dằn ổ gà, khiến người được cạo cuối cùng mặt nhăn thấy mà thương.
Sau đó không biết ai biếu
cho chùa hai cái tông-đơ – nghe tới tông-đơ chớ có mà tưởng bở. Gặp tông-đơ lụt
và chưa giỏi sử dụng thì sẽ là kẹp, giựt, nhổ… tóc “chứ không phải hớt tóc
đâu”. Hồi nhỏ có lần thấy cái tông-đơ, tôi liên tưởng ngay đến cảnh “đẩy ngọt xớt”
của các bác thợ cạo và hứng chí cầm nó lên “thử nghiệm” với chị tôi. Sẵn cái đầu
tới tháng cạo, tôi cầm tông-đơ tới, kề sát vào đầu chị và đẩy một phát, chắc mẩm
là chị sẽ vui sướng, nồng nhiệt khen ngợi tôi, nào ngờ chị nhảy dựng lên hét:
- A, á! Mày muốn ám sát tao
đấy hả?
Nói vậy là đủ hiểu, chế độ cạo
dao lam ngưng thì cái đầu đáng thương của chúng tôi phải nếm đủ mùi “tra tấn,
hành hạ” của tông-đơ do những bàn tay chưa thạo nghề mà sử dụng tông-đơ lụt
(Tôi chẳng nghe nói đến việc mài tông-đơ bao giờ). Chị Huệ “hành nghề” đỡ đau
hơn những thợ tay ngang khác, nhưng muốn chúng tôi đỡ đau thì chị phải gồng kềm
cái tông-đơ, cho nó dừng… nhổ tóc, buông tông-đơ ra mu tay chỉ đỏ chạch đến tội.
Rồi dần dà các thợ cạo Viên Chiếu sử dụng tông-đơ cũng thuần thục, chị Huệ vẫn
còn đỏ tay nhưng chúng tôi đã hết đau. Song tôi vẫn thắt thẻo thương nhớ cái
dao lam: - Ôi dao lam! Em đi đâu? Về đâu? Cho nên nỗi…?
Rồi trong buổi họp thường nhật
sau khi thỉnh nguyện, thêm một tin mới: Phải tiết kiệm xà-bông tối đa, có thể sẽ
không có để mà xài nữa! Chị Hạnh Thanh mách:
- Em thấy bông tràm ngâm
cũng ra bọt nhiều, giặt đồ được lắm!
Có người hiến kế nên xài nước
tro nhưng tính ra ngâm bông tràm có vẻ sạch sẽ hơn, song dễ làm mục đồ. Chỉ thời
gian ngắn, chúng tôi được xài xà-bông lại, mỗi người được cắt chia một cục nhỏ,
nếu ai xài hết trước thời gian ấn định thì ráng mà nhịn, nhưng chúng tôi đều biết
cách tiện tặn, nên không đến nỗi nào.
*
Có lần tôi được cô Đức cắt
cho công tác rất ư là phong lưu: Đi mua đồ “hợp tác xã” cái xã chút xíu thời ấy
làm gì có “thương hiệu” mà “hợp tác”? Nói cho oai vậy chứ, thật sự là ra nhà bà
Năm Quán sắp hàng chờ mua đồ! Tôi sắp hàng ngót hơn một tiếng thì được gọi tên
tới đóng tiền mua được gói hộp quẹt diêm và mười mấy mét vải hoa màu xanh chói
mắt (không lãnh phải vải hoa là may rồi) Hợp tác xã bán gì thì lãnh thứ ấy. Hồi
đó vải hiếm, nếu có thì cũng mắc, sắp hàng mua nghe như cực, nhưng giá bán rẻ
hơn ở chợ nhiều nên cũng đỡ lắm (có còn hơn không mà!) Thế là vải đem về chị em
chia nhau, mỗi người may được một cái quần, đi nghe sột soạt như “Liên khúc quần
xoa”…
Mùa đậu, chúng tôi kéo hơn nửa
chúng ra làm rẫy gần đất Thường Chiếu. Trên đường đi, chiều gió lộng phả hơi me
ngào hấp dẫn từ ngõ nhà bà Tám Đời, chúng tôi dừng lại, bu quanh chảo me ngào
(hồi đó, mỗi lần đi công tác xa chùa thường đưa cho người lớn nhất trong nhóm
giữ ít tiền dằn túi để phóng có sự cố). Tôi nghĩ là cứ ngắm quà bánh thì chẳng
có tội vạ gì, nhưng chị Huệ đã mua mấy đồng me ngào, bà hàng múc cho một dúm
(to cỡ nửa bàn tay) bỏ vào miếng lá chuối, chúng tôi xin thêm mười mấy que tăm
cùng xúm xít thưởng thức me ngào đến liếm sạch lá, lần ấy tôi đã âm thầm “nể”
chị Huệ mà không dám nói ra, nể vì chị dám xài sang, hào phóng mua me cho chúng
tôi để cùng “ăn hàng tập thể”. Bởi “ngân khố” vốn eo hẹp, mọi thứ quà vặt đều
là xa xí phẩm, đúng là chỉ nên nhìn chứ không nên với tới.. lần này cùng nhâm
nhi me, mặt ai cũng tươi roi rói, khiến người ta phải buột miệng khen: “Mấy cô
tu sao mà vui quá”?...
Thường Chiếu thương em út,
lâu lâu có cái bánh hay món gì ngon cũng nhắn chúng tôi ra ăn. Đi công tác hay
ra Thường Chiếu dự “tiệc”, chuyện lội bộ đi sớm về khuya là chuyện thường. Đường
lộ hồi ấy vắng hoe vắng ngắt, càng về khuya chỉ có chúng tôi là khách lữ hành,
cái máu văn nghệ lại nổi lên, chị Huệ hát thật hùng: “Không phải là lúc ta ngồi
mà chờ có được tốt đẹp. Mà phải khởi từ nhọc nhằn hay gian khó…”, tiếng hát xua
tan cái lạnh giữa đêm thâu, rồi chị em cùng nắm tay nhau ca bài: “Nối vòng tay
lớn” của Trịnh Công Sơn, dưới ánh trăng khuya sáng rực rờ rỡ, vằng vặc soi đường.
Trăng ở rừng luôn huyền ảo
và đẹp mê hồn. Do vậy mà xả thiền xong, vừa rảo rảo đi kinh hành thì chợt nghe
tiếng hát của một người say trăng vang lên: “Đêm nay trăng sáng quá ai ơi” Còn
đang ngơ ngẩn thì đã nghe bồi tiếp: “Gác trọ về khuya cơn gió lùa”. Giọng hát
êm êm và thật du dưuơng, đích thị là giọng của cô Đức! Chúng tôi ngứa cổ, phụ họa
theo: “Trăng gầy nghiêng bóng cài song thưa”.., nhạc “Ráp” được hình thành, kết
nối bởi những câu ngắn ngủi để diễn tả cảm xúc dạt dào với trăng. Thời ấy, ở độ
tuổi sung sức dư hơi hát hò nên giọng ai cũng hay cực kỳ! Khó mà cấm được màn
hòa tấu văn nghệ đột xuất. Chị Minh Ánh còn ráng chen thơ thẩn vào với cái giọng
Quảng chắc nụi: “Tối nay có một nửa trăng thôi. Còn nửa kia ai… cắn mất rồi?”
Màn hợp tấu hết thúc, chúng
tôi lục tục đi ngủ. Đêm vào khuya chỉ còn lại tiếng côn trùng nỉ non và mảnh
trăng vắt ngang lưng trời dịu dàng tỏa sáng.
*
Chúng tôi đang dùng cháo chiều,
cô Đức từ ngoài ngõ đi vào, thả túi xách xuống đã kể ngay:
- Trưa hôm nay chị với Giải
Thiện đón xe đi thành phố, chờ hoài không thấy xe, gặp ông cà-rem đi tới chị
mua cho mỗi đứa một cây, vừa mua xong thì xe trờ tới.
- Vậy rồi sao hả cô?
Thì phải lên xe với cây
cà-rem, chị đứng quay vô kẹt, che cái nón lá để ăn – nhưng mà không có yên - thằng
nhỏ ngồi trên xe khóc ré lên, hét đòi:
- Ba, cà-rem! Cà-rem!
Ba nó nhìn dáo dác, ngơ ngác
hỏi:
- Cà-rem đâu con?
Nó chỉ tay về phía chị:
- Đó! Cà-rem! Cà-rem!
- Thiệt… mắc cỡ muốn chết!
Cà-rem thời ấy có khi nửa
ngày mới gặp bán một lần, nghĩ đến cảnh cô Đức leo lên xe với cây cà-rem “bỏ
thì thương vương thì tội”, tôi thấm ý cười dài.
*
Mỗi khi làm ruộng mệt cô Đức
thường ngồi trên bờ đê hát: “Ta đã thấy gì trong đêm nay, cờ bay muôn ngọn cờ
bay”. Ban ngày, nên tôi chẳng thấy cờ mà chỉ thấy mạ xanh rờn tít tắp, nhưng giọng
ca êm nhẹ của cô rất hay. Dòm cái mặt ngẩn ngơ của tôi, cô mỉm cười nói:
- Để chị dạy cho mà hát:
“Nào! Thùng thung lủng, thùng lủng thùng bể, thùng thung bể, thùng bể thùng lủng,
thiếc thau thau thùng… thùng thau!
Âm điệu vui nhộn của cô làm
tôi khoái chí vỗ tay đôm đốp nhịp theo.
Thời gian đầu Viên Chiếu ăn
toàn tương do cô Giải Thiện chế biến, tương cô làm ăn hoài mà không hết, dù chỉ
có một hủ nhỏ, bởi lẽ cô cứ nấu nước muối đổ vô khi nó vừa cạn. Chị Thủy thường
gọi là tương “chồn”, tương mới làm gặp mưa dầm khí ẩm màu lờ lợ mùi lại hăng hắc.
Cô Thiện thuộc dạng đảm đang khéo léo nhưng bị hai chữ “tiết kiệm” trói tay, vả
lại, có một câu thành ngữ quen thuộc: “Ai khéo mấy vô Viên Chiếu cũng phải bị tổ
trác”. Đó là lí do tương có mùi khó ngửi và màu sắc không giống ai, thêm màn nước
muối đổ vô hoài, ăn riết chịu hết thấu, chị Thủy nhăn nhó phản kháng:
- Giải Thiện này! Mi đừng
lén đổ nước muối vô tưong nữa, ăn hết nổi rồi!
Cô Thiện cười hì hì và sau lần
kêu rêu đó tương “chồn” mới cáo chung. Cô Thiện xuất thân từ “lò” miền Trung
nên kiểu tụng niệm của cô có âm điệu rất hay cộng thêm âm thanh “chuông vàng”
trời phú. Nhưng ở Viên Chiếu thời gian lâu, bị cách tụng “phang ngang” của
chúng tôi ảnh hưởng, cô than thở: - Ôi! Thiền tông làm hư cái giọng em! Về
ngoài nớ tụng ai cũng cười em hết! Dù vậy mỗi khi cô hô chuông tọa thiền. nhiều
Phật tử đến chơi nghe được đã buộc miệng xuýt xoa: - Trời ơi! Cái giọng nghe
như tu đâu mười kiếp rồi vậy! Nghe là muốn đi tu liền! Quả thật tiếng tụng niệm,
kệ chuông của cô khiến người nghe mang cảm giác lâng lâng siêu thoát. Nhưng có
một lần tiếng cô đã làm tôi bủn rủn tay chân, hồn phi phách tán. Ấy là vào một
đêm khuya không trăng, tôi kinh hoàng lạnh cả xương sống vì tiếng ré inh ỏi của
hai giọng nữ the thé lành lảnh: Cháy! Cháy! – Đúng là giọng thanh tao xuyên suốt
từng truyền cảm của cô Giải Thiện, giờ đây nó đang truyền… sự kinh hãi tột độ bởi
âm thanh được bật lên vào lúc 0 giờ với tâm tư cực kỳ hoảng sợ, thừa sức làm rởn
óc người nghe. Thêm vào đó là tiếng hét như còi cứu hỏa của chị Thủy cũng không
thua kém! Hai âm thanh nữ này “hợp xướng” đủ để tôi bật dậy như cái lò xo, rụng
rời hết tứ chi, không còn biết đâu là cửa mùng để chui ra và mình đang hiện diện
ở chốn nào nơi trần thế? Cuối cùng tôi cũng chui ra khỏi mùng (sau khi đã đâm đầu
vào vách lá dừa mấy bận). Tôi thấy người leo lúc nhúc nơi cầu thang ọp ẹp để tiến
đến gác (trung tâm của điểm cháy).
Nguyên do là cây đèn dầu bé
tí nơi kệ thờ nổi hứng phựt lửa cao rối táp vào bức hình Tổ Đạt-ma treo sát
vách lá. Thật may, đúng ngay lúc ấy cô Đức trở mình quay qua bắt gặp, cô vội la
lên. Thế là một loạt báo động của những kẻ còn đang say ngủ, mắt còn nhắm nhưng
miệng đã la được inh ỏi, đủ sức dựng tất cả thức dậy cứu hỏa.
Cô Hoa bình tĩnh nhất, giường
cô nằm kế tôi ở dưới đất, nhưng cô đã leo lên gác tự lúc nào và đang chỉ huy dập
lửa. Chị Phượng lúc ấy ở Sài Gòn ra chơi cũng xăng xái phụ chữa lữa bằng cách
xách một thùng nước, leo lên cầu thang trao tận tay cô Hoa. Cô nhanh nhẹn đón lấy
và thảnh thốt la lên:
- Trời đất! Sao đưa chị cái
thùng rỗng, không có nước?
- Hả? Hơ!... Quýnh quá em
quên múc nước!
Khi lửa được dâập tắt xong
thì thiệt hại chỉ là bức hình Tổ Đạt-ma, hình Ngài cháy hết, còn trơ lại chiếc
giày (nhờ quảy ở trên cao). Chị Thủy hí hoáy ghi vào nhật ký: “Tổ Đạt-ma nhập
Niết-bàn hồi 1 giờ khuya, để lại… chiếc giày”.
Thật may mắn cho chúng tôi,
lửa phựt cháy giữa khuya, vách là lá dừa, sàn toàn ván thông, đều là các thứ dễ
bén lửa, nếu không có cái trở mình nhiệm mầu của cô Đức và tài chỉ huy chữa lửa
kịp thời của cô Hoa thì thiệt hại không phải nhỏ.
Kiểm điểm tổn thất sau cuộc
cháy xong, chị em nhìn nhau cười rạng rỡ, vì rõ ràng may nhiều hơn rủi, vách lá
mọi thứ đều còn y nguyên, chỉ có Tổ là… hy sinh.
Rồi Huệ Chiếu được thành lập,
tình giao hảo của các thiền viện luôn thắm thiết. huệ Chiếu sinh sau vẫn tiếp nối
truyền thống ăn độn. Xuống thăm Huệ Chiếu lúc nào cũng thấy bằm khoai lóc cóc.
Khoai mì, khoai lang phơi đầy từ sân ra ngõ, vậy mà hễ có gì ngon là cô Minh
(Trụ trì chùa Kim Liên bây giờ) ít khi chịu hưởng một mình, cô luôn hào phóng,
bắn tiếng mời chúng tôi xuống dự. Chẳng hạn “sắm” được mớ nấm với ít đồ lê-ghim
để nấu nước lèo, cô sốt sắng mời Viên Chiếu xuống ăn mì gói. Gia tài Viên Chiếu
chỉ có vài chiếc xe đạp, dù đường lộ đã có xe khách đi rải rác, nhưng cái túi
tiền không cho phép chúng tôi “sang cả” ngự trên xe. Thế là chị em kéo nhau lội
bộ xuống Đại Tùng Lâm dự “yến tiệc”, tất nhiên phải đi vào ngày nghỉ công tác.
Sáng đi, trưa đến, chiều về, tô mì gói cũng nhanh chóng tiêu hóa theo từng bước
chân cuốc bộ. Nhưng cái chính là tấm lòng tốt của những vị pháp hữu luôn còn
mãi và đến bây giờ vẫn chưa tan trong tôi.
Thời ấu nhi của Viên Chiếu tất
nhiên là không giống lúc trưởng thành. Những người tuổi trẻ thuở xưa nay đã tóc
bạc, mặt nhăn, vai mang đầy trọng trách; không còn luyến lưu gì với trò chơi
bong bòng nước và những thú vui đùa ngày nhỏ.
Xưa và nay dẫu có cách biệt
thì vẫn còn một điểm chung để giống. Đó là cái tâm trong sáng, giàu lòng từ ái,
chính cái tâm này đã giúp cho Viên Chiếu sống an hòa dù ở bất cứ thời điểm nào.
Duyên Nợ
Tôi thường bảo chữ Nho như con kiến!
Nhỏ li ti, dòm nhức mắt khó ưa
Thà không học cứ ung dung… làm biếng
Mặc chữ hành người ham học sớm trưa.
Đã nói là không có duyên lẫn nợ
Cái chữ gì đâu, phát ghét khi nhìn!
Dù Phật nghĩa nằm nhiều trong Hán tự
Bởi, nước người ta siêng dịch, thông minh!
Rồi một hôm đang mơ màng say ngủ
Tiếng động của em làm tôi thức thình lình
Em mê học thức hoài chưa thấy đủ
Mồ hôi tuôn khi gò lưng chép kinh.
Em học: vừa nhìn vào đã quên
Vẫn chịu khó siêng năng cần mẫn
Từng chữ Nho nắn nót ghi cẩn thận
Dẫu khó khăn, không nản, cứ học bền.
Tôi học dễ nhớ, nhưng làm ngơ
Cứ đổ thừa: “Mình không ưa chữ Hán”!
Nhưng trước mắt bao tấm gương chăm sáng
Khiến tim tôi bỗng mềm lại bất ngờ.
Và bây giờ tôi như bị thôi miên
Ngồi mê mãi hằng giờ bên tự điển
Chữ Hán li ti không còn bất tiện
Dù tôi ghi nét xiên vẹo ngả nghiêng.
Ôi! Lòng người xưa từ ái vô biên
Vì hậu thế đã ân cần để lại
Qua kinh thư, mượn lời văn chuyển tải
Mong đưa người vào nẻo sáng diệu huyền.
Tôi hiểu ra, mọi chuyện.. do mình quyết
Đâu ai tu, đâu ai học dùm mình
Kết quả thưởng cho người đích thân hành
Nên thôi nhé, xin giã từ lười biếng!...
Nhỏ li ti, dòm nhức mắt khó ưa
Thà không học cứ ung dung… làm biếng
Mặc chữ hành người ham học sớm trưa.
Đã nói là không có duyên lẫn nợ
Cái chữ gì đâu, phát ghét khi nhìn!
Dù Phật nghĩa nằm nhiều trong Hán tự
Bởi, nước người ta siêng dịch, thông minh!
Rồi một hôm đang mơ màng say ngủ
Tiếng động của em làm tôi thức thình lình
Em mê học thức hoài chưa thấy đủ
Mồ hôi tuôn khi gò lưng chép kinh.
Em học: vừa nhìn vào đã quên
Vẫn chịu khó siêng năng cần mẫn
Từng chữ Nho nắn nót ghi cẩn thận
Dẫu khó khăn, không nản, cứ học bền.
Tôi học dễ nhớ, nhưng làm ngơ
Cứ đổ thừa: “Mình không ưa chữ Hán”!
Nhưng trước mắt bao tấm gương chăm sáng
Khiến tim tôi bỗng mềm lại bất ngờ.
Và bây giờ tôi như bị thôi miên
Ngồi mê mãi hằng giờ bên tự điển
Chữ Hán li ti không còn bất tiện
Dù tôi ghi nét xiên vẹo ngả nghiêng.
Ôi! Lòng người xưa từ ái vô biên
Vì hậu thế đã ân cần để lại
Qua kinh thư, mượn lời văn chuyển tải
Mong đưa người vào nẻo sáng diệu huyền.
Tôi hiểu ra, mọi chuyện.. do mình quyết
Đâu ai tu, đâu ai học dùm mình
Kết quả thưởng cho người đích thân hành
Nên thôi nhé, xin giã từ lười biếng!...
Còn Chút Gì Để Nhớ
Hồi mới lên núi, cùng tuổi
tôi chỉ có Hạnh Pháp, Hạnh Khiết. Lúc đó tổng số dân ở Bát Nhã chưa đến bốn
mươi người. Già nhất, lớn nhất là cô Bảo. Có lẽ vì vậy mà một vài chị đem cô ra
hù dọa tôi:
- Cô Bảo khó lắm đó, tu được,
ở yên đây hay không là tùy cổ đó nghen!
Nghe vậy, mỗi lần đi ngang
cô tôi lấm la lấm lét, không dám thở mạnh vì sợ cô sẽ đuổi mình xuống núi, và hễ
tránh cô được là tôi tránh liền. Nhưng tránh thế nào mà một hôm bất chợt tôi chạm
trán ngay cô, chưa kịp tháo lui thì cô đã lên tiếng:
- Này! Bao nhiêu tuổi rồi?
Tôi đáp khe khẻ:
- Dạ thưa, con mười sáu! Cô
gật gù:
- Vậy là nhỏ hơn Hạnh Thiện
ba tuổi! Tôi giật mình nhìn nụ cười mỉm của cô, âm vang về lời đe dọa vẫn còn
ám ảnh. Rồi những lần gặp sau, cho tới lúc bắt gặp nụ cười lần thứ ba, thứ tư của
cô, tôi mới phát hiện ra ánh mắt cô thật hiền và bao dung. Kể từ đó tôi hết lấm
lét và thấy cô thật dễ mến.
Hồi đó chị Minh Ánh trông
còn rất trẻ, ăn bột xong chị vét sạch tô, để nó lên đầu rồi ngồi trên cái võng
đu đưa hết ga, thấy chị không cần vịn mà cái tô vẫn trụ vững trên đầu không hề
chao đão nghiêng rớt gì, tôi rất thán phục. Tôi ước lượng chiều cao, vóc dáng,
tính cách nghịch ngợm của chị rồi ngẫm nghĩ: - “A! cái người này mình kết bạn
được đây! Chắc chỉ độ mười ba tuổi là cùng! Trang lứa với nhau tất nhiên là dễ
chơi hơn rồi!” Và tôi bật ngửa khi biết mình kém chị đến bảy tuổi. Nhưng không
sao, nụ cười vô tư của chị làm tôi cảm thấy yên tâm. Hạnh Pháp sốt sắng hướng dẫn
tôi cách bày xếp bồ đoàn, còn chị Thanh Tịnh thân thiện dẫn tôi đi thăm các nơi
trên núi. Khóa ngồi thiền đầu đời của tôi tại Bát Nhã nhằm vào buổi trưa, chỉ
có một tiếng mà dài như thế kỷ. Mới chân ướt chân ráo lên núi thì gặp ngay giờ
tu. Tôi chẳng biết gì, thấy người ngồi thì mình ngồi theo. Cho nên giờ tĩnh tọa
đối với hạng lính mới như tôi quả là khổ hình. Đau nhức cực kỳ mà người chung
quanh cứ điềm nhiên bất động, tôi liếc lén cô Hương Đăng, người nắm giữ cái
chuông, người định đoạt khổ vui của tôi trong giờ phút khó quên đó là cô Như Tuệ,
mà ác cái nữa là… dường như cô rung chuông xả thiền hơi trễ? Cơn chờ đợi dài
đăng đẳng đã biến tôi thành đệ tử trung thành miên mật của Đức Quan Âm, tôi
thành khẩn niệm hồng danh ngài: - “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế
Âm Bồ Tát!” Khi tiếng chuông “cứu rỗi” ngân lên, từ đầu tới chân tôi mồ hôi
tuôn như tắm, chị Thanh Tịnh nhìn tôi bằng ánh mắt đầy thông cảm, bởi vì hình
như “cầu đoạn trường” này ai cũng một lần qua…
Sau đó chúng tôi trao đổi
kinh nghiệm, chị cười vui vẻ:
- Thấm thía hết biết hả? Lúc
Tịnh mới ngồi lần đầu ấy nghen, trông xả thiền quá trời! Tịnh niệm gì có biết
không?
- Niệm gì?
- Tịnh niệm… Nam mô rung
chuông!
Thuở ấy tôi chưa có ý niệm
rõ rệt là mình thích núi hay đồng bằng, nhưng khí hậu trên núi quả là tuyệt.
Bát Nhã nằm ngó ra biển, mặc dù thành phố phía dưới chi chít đường, đầy xe cộ
qua lại, song tiếng ồn khó mà vọng lên núi. Tôi có thể nhìn bao quát khắp,
nhưng thu hút nhất vẫn là biển. Buổi sáng ngắm mặt trời lên trong lúc sương mù
còn giăng khắp mặt biển khiến cảnh vật có vẻ mờ ảo nên thơ. Ngay cả vì sao hôm
trên núi cũng tỏa sáng rạng rỡ và thu hút. Tôi dùng từ “thu hút” vì tôi là kẻ
lười ngắm cảnh, ít khi chú mục vào trăng sao. Vậy mà nhắc tới Bát Nhã là tôi nhớ
ngay vì sao hôm đứng độc lập tỏa sáng, dường như chẳng nơi nào thấy nó rực rỡ
hơn bằng trên núi, sao hôm nằm về hướng nhà vệ sinh Bát Nhã, đó là lý do nó đập
vào mắt tôi thường xuyên, trước khi ngồi thiền và sau khi xả thiền xong, trên
đường ra “phía sau chùa” hình như mắt tôi luôn dán vào vì sao hôm quyến rũ,
thay vì nhìn xuống đất để bước cho khỏi té. Phật chứng đạo ngay lúc nhìn sao
mai mọc, còn tôi thì cứ mê một vì sao hôm trên núi và chẳng có tí tẹo cảm ngộ
nào.
Cho tới khi xuống Viên Chiếu,
tôi vẫn để tâm tìm kiếm vì sao hôm “của mình” nhưng nó lu mờ quá. Chẳng có tí
cuốn hút nào nên tôi thôi không thèm để ý đến nó nữa. Nhưng hễ nhắc tới Bát Nhã
là tôi lại nhớ đến vì sao hôm và có cảm giác như một chút hồn mình đã… nằm ở trỏng,
vì nó rực rỡ quá, nên thơ quá! Hèn gì mà người ta nói ở trên núi ngắm trăng sao
thú vị hơn đồng bằng rất nhiều. Mỗi lần thấy con trăng lả lơi trên mặt biển, chị
Huệ cao hứng ca:
“Trăng lên… sáng ngời, treo
trên biển trời.. tình ơi! Một đàn con gái ra ngồi nhìn… trăng…” Vâng! Xả thiền
xong đố ai mà không nán lại dán mắt vào trăng, câu hát của chị Huệ càng làm tôi
đực mặt ra nhìn trăng đến ngẩn ngơ… tôi có cảm giác như mình đang ngự ở “cõi
trên” khi nhìn mây trắng bềnh bồng trước mặt lướt trên biển khơi nhuộm đầy sắc
trăng lóng lánh.
Đó là cảnh trên trời, còn dưới
đất chẳng có gì thơ mộng lắm. Nhất là khi tôi và Minh Ánh giữ nhiệm vụ xeo đá
trong lòng núi, phải dùng xà beng nạy để bứng nó lên, có khi tôi phải đu, ấn cả
thân mình lên cây xà beng thì tảng đá to đùng mới chịu nhúc nhích chút đỉnh,
moi được nó lên để xô nó lăn xuống núi thì bàn tay học trò của tôi cũng rộp phồng,
rướm máu. Coi bộ muốn có đất mềm để lên vồng trồng khoai chẳng dễ dàng gì.
Hồi ấy ở Bát Nhã chiều nào
cũng ăn bột gạo lức với muối. Nhưng gặp lúc khách đông, chuyện tính khẩu phần
nhầm vẫn xảy ra nên bột khuấy thường bị dư, có khi tối kiểm tra lại thấy dư đến
hai ba tô. Mà bột để tới ngày mai thì ăn rất ngán. Cô Minh Tứ (đương kim tri khố
lúc đó, Trụ trì chùa Bửu Sơn hiện giờ) thường đưa ra chiêu bài dẫn dụ tôi:
- Này cưng! (Giọng cô ngọt
như mía) cưng ăn bột dư không? Chị cho nửa tán đường…
Dễ gì được ăn bột có đường,
thấy cũng quyến rũ đó, nhưng tôi còn trả treo:
- Nhưng mà bột dư tới ba tô,
vậy thì đường…
- Được rồi! Chị cho một tán!
Sẵn lúc đó chị Phượng ra
chơi lâu, tôi rủ chị làm đồng minh. Hai chị em chia nhau tán đường và thanh
toán sạch ba tô bột. Chiều mà dư một hai tô thì đừng hòng ra giá, trả treo,
nhưng dư từ ba tô trở lên thì coi như màn dụ dỗ thường xuyên xảy ra. Kết quả
là, sau thời gian ăn bột dư tôi với chị Phượng mập tròn như hai bao gạo. Có lần
chị Như Pháp mò lên núi nghe kinh, chợt chị khe khẻ rỉ vào tai chị Phượng:
- Phượng nì! Mai mi về chùa
sư bà, có lên núi lại thì nhớ mang cho tau mấy tán đường hỉ?
Chị Phượng về ăn cắp ba tán
đường của sư bà gói giấy cẩn thận rồi cho vào túi áo nhật bình, đến khi trao
tay được cho chị Như Pháp thì đường đã chảy tùm lum ướt cả áo, nhưng không sao,
chị Pháp vui vẻ đón lấy bằng gương mặt cực kỳ rạng rỡ, chỉ có gương mặt chị Phượng
là méo xệch khi bị sư bà la vì tội chôm đường.
Trước thiền đường Bát Nhã là
cái hồ to. Nắp hồ tráng xi măng phẳng rộng nên chúng tôi có thể ra đó tĩnh tọa
để hít khí trời thoáng mát lồng lộng gió biển thổi lên, thay vì ngồi thiền đường
cửa lưới bít bùng ngột ngạt. Chị Minh Ánh là vua ngủ gật nên chị quyết định chọn
nơi tĩnh tọa khá cheo leo - ngồi sát thành hồ để răn mình - nếu lỡ ngủ gật thì
sẽ té nhào thẳng xuống phía dưới. Đương nhiên chị ngồi ngay trước mắt chúng
tôi, cô đơn nơi một góc hồ trước bao nhiêu cặp mắt đang nhắm tít “nhập định”.
Nhưng tiếng “lạch cạch” của chị làm tôi tỉnh giấc. A không! – “xuất định”! –
Hình như đa số đều mở mắt trao tráo trước kiểu gục “phi phàm” của chị, nghĩa là
chị gục tha hồ, thậm chí ngã ngửa người ra sau hoặc sàng ra hai bên, chị cứ
“xoay” đều đặn theo hình bán nguyệt, nhưng trong vô thức chị vẫn khôn ngoan ngã
ngược ra phía sau, tuyệt đối không hề nhào ra phía trước. Có “nhập định” kiểu
này tới… sáng, thì tính mạng chị vẫn an toàn vô hại. Khi xả thiền, trước nụ cười
của bè bạn chị cười ngỏn ngoẻn nói:
- Công nhận thức Mạt-na mình
mạnh ghê hỉ? Nó nhất định bảo vệ mình đến cùng!
Đến lúc xuống Viên Chiếu, dù
có là “Đệ nhất tinh tấn” thì chị vẫn được xếp vào hàng cao thủ ngủ gật. Căn gác
chật hẹp chỉ đủ sức chứa dăm sáu người ngồi trước bàn Phật, hầu hết mọi người đều
ngồi trong mùng để tránh muỗi sốt rét đang hung hăng tìm mồi. Tôi đang tĩnh tọa
trong mùng thì bỗng hết hồn vì có ai đó vạch mùng mình lao thẳng vô – Hóa ra chị
Phượng! - Chị ra chơi, ngủ lại và tiếng động khác thường của buổi thiền khuya
làm chị kinh hoảng nên vội lủi đại vào nép cạnh tôi cho đỡ run. Chị chỉ vào giường
kế bên lắp bắp:
- Có bịnh gì không mà sao…
làm ghê quá?!
Tôi định thần nhìn theo hướng
chị, thấy chị Minh Ánh đang gục ngã nghiêng, chao đi lắc lại hai bên, tay đập
xuống đơn liên hồi như nện trống, tôi không nín được cười. Thật ra thì chuyện gục
gặc lúc ngồi thiền là lẽ thường, nhưng do chị Phượng ít khi chứng kiến cảnh
này, chưa quen nên mới hoảng sợ như vậy.
Hồi mới xuống Viên Chiếu cô
Từ Thanh làm Quản viện (khi đó chưa có Huynh trưởng), nếu ngồi thiền thi với cô
thì bảo đảm sẽ thua, vì cô ngồi thẳng đuột, vững như chuông úp, từ đầu tới cuối,
cô không hề gục, không nghiêng ngã gì, chỉ có một điều duy nhất để nhìn ra sự
khác lạ, đó là… tiếng ngáy của cô! – không to – nhưng đủ để người bên cạnh nhận
ra được. Tôi chẳng phải là kẻ khám phá ra kỳ tích này, nhờ chị Thanh Tịnh méc,
tôi mới biết và phải gật gù đồng ý với câu phẩm bình của chị Tịnh: - “Đúng là
tuyệt chiêu! Chẳng ai ngồi thẳng, đẹp như cổ! Có ngủ cũng không ai biết! Hay
thiệt!”
Bát Nhã nằm cạnh Chân Không,
nhưng tôi vẫn thấy Bát Nhã có nét gì đó hoang dại chứ không trầm mặc trang
nghiêm như Chân Không. Có lẽ là khung cảnh, nhất là con đường đi từ dưới chân
núi lên tới Bát Nhã, đường lên Bát Nhã dốc đứng lồi lõm nhưng ngắn và mau tới
hơn. Còn đường lên Chân Không dài, lài lài, vòng vèo, dễ đi và cảnh trí thơ mộng
cực kỳ, leo hết mấy bậc thang thì đã thấy Chân Không hiện ra hùng vĩ, đẹp như…
mơ! Muốn thưởng thức nét đẹp trên núi thì những lúc rảnh rỗi tôi thường lang
thang thám thính khắp đồi núi bên Chân Không, bởi vì cảnh trí Bát Nhã chẳng làm
sao tuyệt bằng cảnh Chân Không, vốn đã được Hòa thượng gầy dựng công phu từ thời
Bát Nhã chưa chào đời.
Lên núi, tôi bắt đầu nếm mùi
“cắt ái” từ chị Thủy. Hồi ở nhà tôi là út nên có gì chị cũng nhường cho tôi.
Tôi đã quen mửng đó nên rất ngạc nhiên khi thấy tính cách “cao thượng” này biến
mất, không nhịn được, có lần tôi buột miệng hỏi:
- Hồi đó cái gì chị cũng nhường
em, sao giờ… lủm hết trơn vậy?
Chị lột viên kẹo bỏ nhanh
vào mồm, đáp:
- Phần tao ăn còn không đủ,
có đâu cho mày?!
Tôi ngẩn người, hiểu ra và bật
cười. Thời đó thiếu thốn đủ thứ, một tán đường cũng thuộc loại xá xí phẩm, mà cái
tuổi hai mươi lăm đang độ thanh xuân của chị rất cần “nạp” nhiều nhiên liệu để
có đủ sức mà lao động nặng. Bà chị trước mặt tôi giờ đã không còn là một thư
sinh ăn uống nhỏ nhẻ, một liễu yếu đào thơ nữa rồi. Mà hình như ai đặt chân vào
Bát Nhã, Viên Chiếu, thì tất cả cốt cách trang đài đều bay biến, đa số đều biến
thành dân võ biền, ăn uống như hạm, nếu không thế thì làm sao vỡ núi phá rừng?
Có lần cùng nhau đi dạo, chị Thủy chỉ cái cốc nhỏ nằm phía trên cao bảo tôi:
- Đó là cốc của cô Bảy, má
cô Tuệ Đăng! Có lần cô Bảy mời chị lên đó ăn chè, chị mừng quá hí hửng đi, leo
lên gần tới nơi thì…
- Thì sao hả chị?
- Chị nghe bên trong có tiếng
cười nói râm ran của quí thầy nên đứng khựng lại, bất ngờ nghe tiếng cô Bảy cất
lên: - “Quí thầy biết hôn, hôm trước tôi mời cô Thủy lên đây ăn chè, cổ thích
chè xôi nước lắm nghen, cổ ăn tới… mười ba viên!” Bên trong quí thầy cười rần rần,
chỉ nghe bấy nhiêu thôi là chị đã cuống cuồng quay đầu “bay” trở xuống, dọt thiệt
lẹ!...
Trên núi nước khan hiếm nên
khi nghe chị Thủy thông báo là có thể… “nửa tháng sẽ tắm một lần” y theo giới
Phật định, tôi đã nhăn nhó rất ư là đau khổ. Dòm cái mặt chẳng hoan nghinh điều
luật này của tôi, chị cười giải thích:
- Biết sao Phật chế giới nửa
tháng tắm một lần không? Vì hồi đó bên Ấn Độ nhà vua có cái ao tắm rất tuyệt,
ngài có nhã ý cho các tu sĩ của Phật đến tắm tự do, dĩ nhiên là hồ tắm của vua
chúa rất quyến rũ nên các tu sĩ mình cứ mê mải tắm suốt, đến độ vua và người
trong cung đình chẳng còn cơ hội để tắm táp, vì vậy Phật mới chế ra giới này…
Nhưng dù gì thì cũng phải tiết
kiệm nước tối đa, dù muốn hay không, chúng tôi buộc phải áp dụng nghiêm nhặt điều
lệ này – nghĩa là nửa tháng chúng tôi tắm… biển một lần – cho đỡ… hao nước trên
núi.
Trước giải phóng chị Thủy và
cô Đức thường viết bài cho báo Từ Quang, văn phong rất được người ái mộ. Tiếng
lành đồn xa, chẳng mấy chốc mà người ta biết tin hai “nữ sĩ” của mình đã gác
bút và đang ẩn cư trên núi, họ bèn rủ nhau lên chiêm ngưỡng dung nhan… thần tượng!
Chị Thủy khoái chí bảo tôi:
- Hên là ngày hôm đó chị đi
tắm biển theo chúng nên ‘thoát nạn”, chỉ có già Đức là… lãnh đủ! Già Đức bị nổi
mề đay không thể ra gió nên phải ở nhà “trấn giữ sơn lâm”, mà khách thì nôn
nóng yêu cầu:
- Không có Phan thanh Yên ở
đây thì phải cho tụi tôi gặp mặt cô Tịnh Tâm!
Kể tới đây chị Thủy cười ngặt
nghẽo:
- Khốn khổ thân già Đức! Hi
hi!... Em biết không? “Cổ” nổi mề đay cái mặt sưng vù, hai con mắt bụp lại hấp
him, đâu có thấy được gì nhiều? Khi đi ra trình diện cổ còn phải quờ quạng sờ
soạng… vừa trông thấy cổ, độc giả ái mộ đã vội la lên: - “Tịnh Tâm đây sao??...
Í, chời chời!”…
Xuống Viên Chiếu, ngày tháng
đầu ai nấy đều làm tối tăm mặt mũi vì công việc dí sau lưng, nội lo dựng chỗ ở
cũng đủ bận rộn rồi. Đêm xuống, tình cờ dở lịch cô Từ Thanh la lên:
- Chèn ơi! Hôm qua vía Bồ
tát mà mình quên không nấu chè cúng..
Giọng chị Thủy nghe thật thảm
thiết:
- Đó! Chị đó! Có bấy nhiêu
mà cũng không nhớ nữa! Có cái ngày vía Phật không mà cũng quên…
Cô Từ Thanh gãi đầu cười hiền
lành. Chị Thủy vẫn chưa hết ấm ức, cằn nhằn mãi, giọng chị càng lúc càng thê
lương, có vẻ như bất bình dùm Phật ghê lắm, cho đến lúc cô Từ Thanh chịu hết nổi
buông lời dỗ dành:
- Thôi được rồi! Để mai chị
nấu chè cúng bù…!
Chị Thủy mới chịu… tắt đài.
Buổi sáng nồi chè nếp đậu phọng
được nấu lên, vì, “cúng bù” nên chúng được thưởng thức rộng rãi, chè được múc
lưng chừng cái thau nhỏ (đường kính độ tấc rưỡi), chia cho mỗi người, chị Thủy
bày tỏ lòng hiếu để với Phật bằng cách ăn tới… ba thau! Ai cũng suýt xoa:
- Đúng là nội lực thâm hậu!
Hồi đó chúng tôi ăn chức đồ
Thường Chiếu rất nhiều, thấy Thường Chiếu có gì cũng dòm dèm, nói gần nói xa,
thậm chí cà lăm mãi một từ mình cần, miễn sao Thường Chiếu động lòng trắc ẩn
“bá thí” cho thì thôi. Đó là lý do vì sao dân Thường Chiếu đa phần đều ốm nhom,
chỉ có chúng tôi là mập mạp. Xin mãi cũng biết mắc cỡ, mặt nào cũng đã quá
quen, thèm ăn nhưng đã biết ngượng, đã biết ngại chường mặt ra. Thời may, lúc
đó có cô Tuệ Đăng và chị Phượng đến học kinh, hai gương mặt mới này chưa có tiền
án xin xỏ nên được Viên Chiếu cầu viện, ủy thác nhờ…ra Thường Chiếu xin đu đủ
xanh về ăn. Thường Chiếu vẫn rộng tay và tỏ ra cực kỳ nhẫn nhục trước cái nết
“xin dai chai mặt”… của Viên Chiếu.
Có lần, Hạnh Pháp quét dọn
trong bếp na cái ổ có bốn con chuột con ra để tạm ở cửa ra vào. Tôi từ ngoài ruộng
vô lấy nước xớn xác đạp nhằm, chuột con khổ đời, còn tôi đứng khóc hu hu. Chị
Huệ bình: - Chuột con lâm nạn dưới gót… một cao ni! (bởi vì thước tấc chị kém
tôi). Còn cô Đức thì xoa đầu tôi an ủi: - Hạnh Đoan biết không? Chị sợ chuột nhất
đó, vậy mà tối chui vô mùng ngủ, sáng thức dậy chị thấy mình… đè nhẹp một con
chuột con!
Bây giờ tiếp khách, có thể mặc
áo tràng rộng tay nghinh đón, hướng dẫn họ đi tham quan. Nhưng hồi đó vải đâu
có nhiều nên quần áo chúng tôi rách tả tơi, rách tới vá không kịp, mà vừa vá
lành thì nó… tẹt nữa. Bởi thế cô Đức hướng dẫn khách đi thăm quanh vườn với
trang phục chẳng có vẻ mỹ quan lắm, có điều gương mặt chủ lẫn khách đều tươi
rói. Khi khách về chị Huệ liền báo “hung tin” cho cô Đức:
- Quần cô rách kìa cô ơi!
- Hả? Đâu? Đâu?
- Chỗ này nè!
- Ối trời đất ơi! Hèn gì mà
chị dẫn khách đi họ cứ nhìn chị tủm tỉm cười hoài, chị tưởng là mình ăn nói có
duyên chứ.. ai dè!..
Chùa vừa sắm được cái phảng
để phảng cỏ thì Giải Thanh cũng tỏ ra là một tay thiện nghệ, cầm cái phảng
trong tay, Giải Thanh cao hứng bảo mọi người:
- Xem này! Xem em làm nè!
Giải Thanh lấy thế, nhún người
đưa phảng ra xa định đánh một đường thiệt ngọt, nhưng lúc xoay người lại rơi thẳng
vào cái hố sâu, đành lóp ngóp bò lên trước tiếng cười dòn của đại chúng.
Ruộng lúa rất cần phân bón,
mà tiền của đâu được dồi dào để đủ mua phân? Thế là có thêm công tác hốt phân
bò. Mỗi lần được cử làm việc này, tôi thích lắm, vì nó nhẹ nhàng phong lưu nhất
trong tất cả công tác, làm ruộng thì phải cuốc đất tắm bùn, làm vườn thì gánh
nước oằn vai. Còn hốt phân thì chỉ cần lôi cái xe ba bánh ra, người kéo người đẩy,
đem theo cái bay, gặp phân đâu thì hốt đó. Ra khỏi chùa thì chẳng thấy “mây
trên đầu và nắng trên vài” mà cứ cắm cúi theo chân những đống phân bò và phiêu
lưu theo nó. Quần áo chúng tôi vá chùm vá đụp giống hệt dân cái bang mạt hạng.
Hành trình của tôi đi dài
dài qua khỏi Thường Chiếu, quẹo vô bất cứ hẻm hóc nào. Có lần thấy con đường
nhiều phân quá tôi cắm cúi theo hốt mãi cho tới khi nghe tiếng hét lanh lảnh:
- A há! Cái đồ điêu! Hết chỗ
rồi sao mà vô tận chuồng người ta ăn cắp phân?
Tôi giật mình ngẩng lên,
thót tim khi nhận ra mình đang đứng trước cổng một chuồng bò chứa phân chất đống
phía sau nhà người, chỉ còn biết cuống quít xin lỗi và trả lại những gì đã hốt
được.
Rồi chùa cũng có rủng rỉnh
tiền để mua phân, có hai ông cha ở Hiền Hòa bán phân bò cho chùa giá rất phải
chăng. Có lần tôi tình cờ đi ngang chị Hạnh Nhã trò chuyện với họ mà bắt tức cười.
Ông cha nói:
- Một tuần nữa thì tôi có
phân cho cô!
Giọng chị Nhã:
- Dà! Quí hóa quá!
- Nhưng mà phân tôi ướt chứ
không được khô!
- Dạ không sao! Miễn có được
phân của mấy chú là quí rồi!
Chờ khách về, tôi nhắc lại
nguyên văn cuộc đàm thoại, chị Nhã đấm vào vai tôi thùm thụp:
- Cái con nhỏ này! Mắc lo
mua bán chị có để ý gì đâu!
Sau đó chị ngẫm nghĩ, thấm
ý… rồi cười chảy cả nước mắt.
Hồi ấy xe cộ thưa thớt, tuyến
đường từ thành phố đi Vũng Tàu ít ỏi, tối đón rất khó. Chị Như Đoan đi Huế về
phải xuống xe tại cổng Thường Chiếu để vào bái kiến sư phụ. Lúc đó trời đã nhá
nhem. Tình cờ chị gặp tôi đi công tác về, dĩ nhiên tôi phải làm tài xế đèo chị
vì không thể để chị một mình cuốc bộ lầm lủi trong đêm. Điều đáng nói là chiếc
xe đạp không có chỗ ngồi phía sau, hai đứa nhìn nhau, động não mãi… cuối cùng
tôi buột miệng hỏi:
- Chị dám đứng lên… cánh chuồn
không?
Chị bật cười, nụ cười sảng
khoái muôn thuở mà tôi rất thích nghe, nụ cười làm xua tan âu lo và khiến người
ta phải vui lây:
- Có còn cách nào khác nữa
đâu? Phải rứa thôi! Nhưng.. nì, có dám chạy không?
- Chị đủ can đảm đứng thì em
dám chạy!... Chị đừng sợ gì nghe? Nhớ nắm chặt vai em cho chắc! Giờ mình lột
nón khăn ra hết cho người ta đỡ dị nghị…
Thế là tôi cắm đầu cắm cổ đạp,
chiếc xe lao vun vút, gió đêm cuồng nộ tạt mạnh vào mặt tôi, áo hai đứa bay phần
phật. Tôi lái như bay và ráng căng mắt ra nhìn để tránh những tốp người đang nằm
chơi giữa đường. Tiếng người lao xao hỏi nhau lọt vào tai tôi:
- Ê mậy! Mầy nhìn xem gái…
hay trai??
Lúc ấy đầu tôi thoáng qua ý
nghĩ, không biết vào thời Phật, ngài sẽ phải chế thêm giới nào nữa vì chuyện
này không!?
Cuối cùng chị em tôi cũng về
tới chùa an toàn. Đó là lần duy nhất tôi làm “yên hùng”. Sau này khi “thời oanh
liệt” tàn phai tôi không sao tưởng tượng được có lúc mình lái giỏi đến thế, giờ
chính tôi chở mình còn không nổi, lái mà cứ đảo tới đảo lui.
Có lần cô Cẩm Vân, vốn là một
giáo sư quen đứng lớp ở các trường đại học, tình cờ ra Viên Chiếu chơi, cô xung
phong vào bếp nấu cho đại chúng ăn. Chẳng biết cô hành nghề như thế nào, nhưng
tôi nghe cô kể lể chuyện rên rỉ với Đại Sư Phụ như thế này:
- Thầy ui! Cái bếp Viên Chiếu
củi thì ướt mem, khói tỏa mịt mù, con vừa ngạt thở lại thêm nước mắt nước mũi
chảy ràn rụa. Đã vậy, xin gia vị nêm nếm, cô Tri khố đong cho con có mấy muỗng
dầu phọng nhỏ xíu và phát cho ba tán đường để nấu nướng. Cái nồi canh chua to
đùng, đường kính hơn nửa thước, nêm nếm như vậy thì nấu làm sao mà nấu? Ăn làm
sao mà ngon cho được?
Sư phụ cười:
- Ờ, thì vô cho biết bếp núc
của người ta!
Cái thời “đường đong dầu lường”
ấy, mọi thứ đều phải tiện tặn tối đa. Tôi lén gởi một keo chanh muối trong cốc
cô Hoa, mỗi lần làm mệt thường mò ra đó múc một muỗng cà phê nước chanh muối
hòa vào ly nước lạnh không đường, uống cho đỡ thèm, nên chuyện “khát” ngọt là lẽ
đương nhiên. Vài năm sau Hạnh Huyền vào nhập chúng, để bày tỏ thiện cảm với
tôi, một lần đi công tác về tối, vừa buông xe ba gác ra em đã réo tôi inh ỏi:
- Chị Hạnh Đoan ơi! Thức dậy
ra ăn đường cho đỡ thèm nè! Em có mang về cho chị nửa tán đây này! Tôi nằm
trong mùng vừa tức cười vừa tội nghiệp, giọng em réo lanh lảnh ba làng cũng
nghe, kiểu này thì ăn chùng ăn lén chỗ nào được chứ?
Còn chị Như Đoan, người có vẻ
lơ là với “ngũ dục” nhất, khi thấy chị Hạnh Thanh lập vườn cũng hăng hái đốc
thúc:
- Nì, chị phải trồng chuối
thiệt nhiều, làm sao để đủ chia cho tụi em mỗi người một nải hỉ?
Thế là vườn Viên Chiếu xanh
rợp lá chuối, mỗi người chưa lãnh được một nải như giấc mơ của chị Đoan, song
phần bữa cũng có vẻ hào phóng lắm, có tới bốn năm trái chuối già chứ không ít.
Vậy mà vẫn còn thòm thèm, nhất là hạng kiện tướng như tôi với Hạnh Kiên. Hạnh
Kiên mạnh dạn kiếm những ai ăn nhỏ nhẻ để khất thực, rốt cuộc cũng được vài cô
khuê các rủ lòng thương. Còn tôi, gánh xong mấy chục đôi nước tưới vườn thì mấy
trái chuối như tiêu đâu mất hết, trận đòn đau ngày nhỏ tôi nếm phải vì cái tật
xin xỏ vẫn còn ám ảnh, nên tôi đành “nuốt” nỗi buồn vào tim, càng buồn biết bao
nhiêu, khi liếc thấy cô Thuần Trí ngưng chằm nón, ngồi ẹo qua ẹo lại trước dĩa
chuối, cô ăn không muốn nổi, rõ ràng là một trang khuê các đang hiện lồ lộ trước
mắt tôi. Lúc đó tôi ước gì trái chuối trên dĩa cô rớt xuống, không! - rớt… vào
miệng tôi chứ – Mà sao có chuyện rớt như thế được? Vậy thì (mơ một chút)… cô sẽ
ngoắc tôi tới và…
… Tôi thở dài đánh sượt, quảy
đôi thùng đi, cố dập tắt mộng mơ…
Vậy chứ khi tôi bịnh, tình cờ
gặp cô ngoài đường, tự dưng cô ngoắc tôi lại, dịu dàng bảo:
- Nè cho Hạnh Đoan hai chục,
nhớ mua hủ tíu ăn nghen.
Lòng tôi dạt dào cảm động, lời
cảm ơn ngắn ngủi không chở được hết nỗi niềm tri ân, không phải tôi cảm động vì
món tiền, mà vì tình người!
Trong những lúc bịnh hoạn
hay buồn cực cùng, chính tình người nồng ấm đã giúp sức đưa tôi đi lên. Nó hiện
diện ở bất cứ ai, không câu nệ thân sơ, đời hay đạo! Có ranh giới khác biệt nào
đâu khi trái tim trong lòng mỗi người vốn cùng một bản chất, khi tính nguyên sơ
của con người vốn hiền thiện? Có một lần lên núi dưỡng bịnh và dự lễ thỉnh nguyện
giữa đông đảo chúng tổng hợp nơi thiền đường Chân Không, cô Hạnh Chứng bước ra
thưa:
- Tâm con vẫn còn bất an!
Câu nói của cô làm tôi nao
lòng, chưa “đáo bỉ ngạn” thì tâm con người vẫn còn nhiều trăn trở bất an. Nhưng
điều này vẫn không ngăn người ta xử tốt với nhau, tử tế với nhau. Tan buổi lễ
tôi chặn cô lại với nụ cười:
- Công nhận sư phụ đặt tên
cô nghe hay há?
- Giá mà được hay như vậy,
tưởng chứng đắc, ai dè chứng tật không hà!
Chứng đắc chứng tật gì, cô vẫn
niềm nở giúp tôi, ngay cả chị Thuần hòa ốm nhom gầy guộc cũng sốt sắng chia xẻ
những gì mình có với tôi. Còn cô Cảnh lăng xăng hỏi tôi có nón len chưa để cô
đan tặng, riêng cô Bảo thì dành cho tôi ánh mắt hiền dịu ấm áp.. Đặc biệt, thầy
Phước Hảo mỗi lần gặp tôi là nụ cười hoan hỉ muôn thu luôn xuất hiện, ngoài những
lời bảo ban ôn tồn, thầy còn cho tôi vài trái cam hay quà bánh gì đó, niềm bình
an của thầy truyền sang làm tôi có cảm giác giải thoát, nhẹ nhàng khi diện kiến
thầy.
Núi cao hay đồng bằng, thôn
quê hay phố thị, nơi đâu tôi cũng luôn là kẻ nhận và choáng ngợp vì những bàn
tay từ ái, những tấm lòng bao sung rộng mở, và khi dưỡng bịnh nơi nhà chị Thuần
Tuệ tôi càng thấm thía hơn về điều này. Tôi cứ nhớ mãi một câu: “Có nhiều cái
ân lớn đến nỗi người ta chỉ còn cách là… vô ơn! Quên nó đi!” nghe thật lạ lùng
mà sao chí lý quá đối với tôi. (Có vẻ như tôi rất thích hợp với hành tung bội bạc,
cho dầu có những cái ân nặng đến nôi, phút lìa đời mình cũng khó mà quên). Do vậy,
bất kể lòng an hay không an, tình của nhân gian đối với tôi thật là đẹp.
Tôi nhớ trong buổi thỉnh
nguyện ở Chân Không, quí cô cốc núi bẽn lẽn thưa mình có lúc mê ngủ quên mất buổi
thiền khuya, riêng một bà già lụm cụm đã bước ra trình:
- Bạch thầy, con có cái lỗi
là khi thì tu thiếu, lúc thì tu lố…
Sư phụ không nhịn được cười,
dịu dàng dạy:
- Ừ, tu thiếu thì lỗi nhưng
tu lố thì không sao hết, thầy cho… tha hồ, không trách đâu!... nhưng ráng tu
cho đủ đừng tu thiếu nhiều nghe!...
Ở Viên Chiếu có lần quí thầy
Đại Tùng Lâm ghé thăm và buột miệng châm chọc:
- Mấy cô ở đây mà tu cái gì!
Nếu không phải vậy thì sao con chim nó cứ gào: “Tu hú! Tu hú!” vậy?
Hạnh Huyền lúc đó lẹ mồm cải
chính liền:
- Dạ không, không phải đâu!
Nó ca ngợi tụi con là: “Tu đủ! Tu đủ!” đó chứ!
Kể lại hành trạng của chư
thiền sinh cách nay ba mươi năm hay gần đây nhất, có lẽ độc giả sẽ thấy sao mà
chẳng có chút gì đạo vị, chẳng siêu thoát như chư thiền sư, chư cổ đức, hoặc
chí ít cũng phải như trong kinh đã dạy? Xin thưa rằng thiền sinh chỉ là những
người đang tập sự, chưa thành thánh, vẫn có những buồn vui rất trẻ con, rất đời
thường. Nhưng tôi lại cho đó là nét đẹp vì nó gần gũi với cuộc sống. Người ta
nói phải viết tự do thì ngòi bút mới tuôn chảy mượt mà, tôi xin cảm ơn Viên Chiếu
đã cho tôi cái tự do đó, cái tự do không câu nệ danh xưng, cái tự do được nói
thật mọi điều mà không e dè. Thật là thích vì quí cô sinh ra chưa là thánh, để
người sau nhìn vào cảm thấy gần gũi và dám hi vọng mình có phần. Tôi thì vốn
hay bươi móc khuyết điểm.. (khoái nhất là khuyết điểm của những bậc trưởng thượng).
Người ta nói: “trăng đến rằm thì tròn”, nhưng những chuyện tôi kể, lại ở vào thời
điểm trăng chưa tròn! Thế nên, nếu ai đó thích sự hoàn hảo, muốn ngắm nét đẹp
trọn vẹn của ánh nguyệt thì xin hãy chờ đến… rằm! Hãy chờ đến khi ai nấy đều…
tu đủ!
Thư Giãn
Diễn dịch: “Tự ái” là… “tự
thương” chứ gì (?) Đôi khi sống trên đời chẳng cần van cầu trông chờ vào tình
thương người ban phát cho, ta cứ tự vẽ chân dung mình để rồi xao xuyến, thổn thức,
tha hồ… như đương sự tự tả mình dưới đây:
Tự Thương
Một thương mắt hí môi trề
Hai thương ăn nói vụng về ưa gây
Ba thương hay cãi, nhằn dai
Bốn thương cau có mặt mày ưa nhăn
Năm thương “bó hó băn hăn”
Sáu thương gắt gỏng giống “chằn” hai nanh
Bảy thương gặp việc tài lanh
Tám thương khoái hứa hay giành rồi quên
Chín thương tật tánh giữ bền
Mười thương kẻ dưới người trên đều nhờ.
Hai thương ăn nói vụng về ưa gây
Ba thương hay cãi, nhằn dai
Bốn thương cau có mặt mày ưa nhăn
Năm thương “bó hó băn hăn”
Sáu thương gắt gỏng giống “chằn” hai nanh
Bảy thương gặp việc tài lanh
Tám thương khoái hứa hay giành rồi quên
Chín thương tật tánh giữ bền
Mười thương kẻ dưới người trên đều nhờ.
Chơn Tịnh Tín.
Bữa Cúng Dường Lưu Danh…
Tình cờ trong một lần ăn
bánh xèo Huệ thấy hàng bánh này rất ngon và phát tâm muốn cúng dường quí cô chầu
bánh chiều. Tôi được phân làm nước chấm cho xứng với hương vị quyến rũ của
bánh. Đang ngồi giã ớt cộp cộp, Tịnh Niệm thì chốc chốc lại xuất hiện ngoài ngõ
bắn tiếng vô: “Xong chưa? Bánh về chưa? Ai nấy đang hò hởi chờ kìa!” - Mời quí
vị nghe đoạn kết câu chuyện do chính người trong cuộc kể:
Chuyện Từ Một Buổi Chiều…
Trên đường gió thổi hiu hiu
Lượn xe đi lấy bánh xèo… đãi cô!
Thằng nhỏ ở đâu lạng vô
Làm em thắng gấp, bất ngờ té ngay!
Trước khi té, em còn bay…
Giống phim kiếm hiệp, đầu vai rụng rời!
Mắt thấy đom đóm, sao trời…
Rồi em ngầt xỉu, tưởng đời đi luôn!
Đầu vai đập mạnh vào con lươn
Tưởng đâu mình được diêm vương thỉnh mời…
Ngỡ là gần đất xa trời
Người lay, kẻ lắc, chờ lời em tuôn…
Em nằm bất động trên đường,
Mơ màng trông thấy bánh đương… còn dòn!
Quí cô ăn uống thật ngon…
Bỗng em tỉnh dậy mở choàng mắt ra..
Chung quanh đông đảo người ta
Toàn thân đau nhức em la: “Hừ!... Hừ!...”
Xương cổ tự dưng cứng đơ
Vai ê, đầu niểng, tật giờ còn mang
“Yêng hùng” lâm nạn giữa đường.
May mà sống sót nhờ… ơn Phật trời
Tình chùa, tình chúng biển trời,
Em nguyền ghi nhớ suốt đời… không quên!
Trên đường gió thổi hiu hiu
Lượn xe đi lấy bánh xèo… đãi cô!
Thằng nhỏ ở đâu lạng vô
Làm em thắng gấp, bất ngờ té ngay!
Trước khi té, em còn bay…
Giống phim kiếm hiệp, đầu vai rụng rời!
Mắt thấy đom đóm, sao trời…
Rồi em ngầt xỉu, tưởng đời đi luôn!
Đầu vai đập mạnh vào con lươn
Tưởng đâu mình được diêm vương thỉnh mời…
Ngỡ là gần đất xa trời
Người lay, kẻ lắc, chờ lời em tuôn…
Em nằm bất động trên đường,
Mơ màng trông thấy bánh đương… còn dòn!
Quí cô ăn uống thật ngon…
Bỗng em tỉnh dậy mở choàng mắt ra..
Chung quanh đông đảo người ta
Toàn thân đau nhức em la: “Hừ!... Hừ!...”
Xương cổ tự dưng cứng đơ
Vai ê, đầu niểng, tật giờ còn mang
“Yêng hùng” lâm nạn giữa đường.
May mà sống sót nhờ… ơn Phật trời
Tình chùa, tình chúng biển trời,
Em nguyền ghi nhớ suốt đời… không quên!
Chơn Tịnh Tín.
Vậy là có thể tưởng tượng được,
bánh chưa về tới nhưng quí cô đều mất khả năng thọ thực vì “lo quá hóa no”,
không còn hồn vía để ăn! (Nhưng không sao, bánh được để qua sáng hôm sau, kết
cuộc là ai nấy lúc ăn đều phải công nhận là bánh ngon thiệt)!
Chuyện Cái Cốc Cạnh Chùa
Có cái cốc con con cạnh
chùa, chùa có chi cũng cho cốc chủ cùng con chó cái chực. (Cả con của con chó
cái cũng chực!) Chỗ chủ cốc chực cao cao cở cửa cổng. Còn chỗ con chó chực cạnh
chốt cửa. Chó chực chùa, chó canh cửa coi cổng chăm chú, chúng càng cho, chó
càng cố công canh chừng, càng canh chăm chuyên chẳng chán! Chó chẳng cắn càn,
chó chỉ coi, chỉ canh cho chùa, chốc chốc chó có chạy chơi chút chíu. Chùa
cưng, chùa cho chó cơm có cà, có cả cám… cao cấp. Còn chủ cốc chực chùa, chùa
cho canh, cơm, cỗ cao.. Chủ cốc chẳng có chi, chỉ cúng chùa chút chíu. Chùa
càng cho càng cao cả. Chủ cốc cùng con chó cái, con chó con, cùng cắn cỏ.. cảm
chúng, cảm chùa.. chan chứa!
Bài gì?
Huệ Hân đem đĩa vi tính qua
mở nhạc nhờ tôi ở nhà trên nghe và đoán thử xem lời bản nhạc này do ai đặt? Tiếng
nhạc xập xình, âm thanh ca không rõ nên tôi chẳng đoán được. Hương cũng lắng
tai nghe và ra sức dịch lại cho tôi hiểu:
- Thưa cô cái bài gì mà… tắm
tới hai lần lận!
- Hả? Sao phải tắm tới hai lần?
- Con không biết, nhưng rõ
ràng là ở trỏng hát tắm… hai lần mà!.. còn kể rõ là tắm sông nữa, tắm đúng hai
lần!
Tôi ngẩn người, động não
mãi, cuối cùng vỡ lẽ:
A! biết rồi! Đó là lời thơ
trong bài “Tống biệt” của cô Thủy. Như vầy nè:
- “Làm sao có được hai lần tắm,
Trong một dòng sông để ngậm
ngùi!”
Dà! Dà! Phải rồi! Đúng vậy
đó! Con có nói là.. tắm tới hai lần mà!
Sở Thích
Thấy chị tôi mua bộ bàn ghế
văn phòng, Sư bà qua xem, ngắm nghía một hồi lâu rồi bình:
- Mấy “ông” xài đồ gì mà
sang quá, cái ghế cũng biết quay vòng tròn, tôi thì tôi thích giống “Huề thượng”
Viện chủ, sống dĩ vãng dĩ vãng…. Thôi!
Hương ngơ ngác hỏi tôi:
- Vậy nghĩa là sao hở cô?
- Ý Sư bà nói thích sống đơn
giản, giản dị…
Hương gật gù:
Ra là vậy!
Vui sưu tầm
Niềm Riêng
Lâu ngày gặp lại, các giảng
sư tâm tình, phỏng vấn nhau:
- Đi giảng huynh sợ gì nhất?
- Sợ nhất là mình giảng mà
thính chúng sàng qua, gục lại trước mặt mình.
- Còn tôi, tôi ngán nhất là
chốc chốc họ lại giơ đồng hồ tay ra xem…
- Xem đồng hồ cũng chưa làm
mình ngại, ngại nhất là họ đưa đồng hồ lên gần lỗ tai, lắc lắc xem nó còn chạy
không nữa chứ!...
Biệt Ly
Gặp rồi cũng phải chia tay
Tiễn người một khoảng trời đầy ánh dương
Đêm, trăng vằng vặc soi đường
Độc hành chiếc bóng, hơi sương ngút ngàn
Người đi trong cõi hồng hoang
Bao nhiêu bụi bặm gởi làn nước trong
Ngại chi lãng đãng bụi hồng
Giăng làm sao kín thiên không yên bình
Bụi về với kiếp phiêu linh
Niệm về với cõi bấp bênh sẵn dành
Trời xanh lồng lộng trời xanh
Khi không vướng mắc, riêng mình tự vui.
Tiễn người một khoảng trời đầy ánh dương
Đêm, trăng vằng vặc soi đường
Độc hành chiếc bóng, hơi sương ngút ngàn
Người đi trong cõi hồng hoang
Bao nhiêu bụi bặm gởi làn nước trong
Ngại chi lãng đãng bụi hồng
Giăng làm sao kín thiên không yên bình
Bụi về với kiếp phiêu linh
Niệm về với cõi bấp bênh sẵn dành
Trời xanh lồng lộng trời xanh
Khi không vướng mắc, riêng mình tự vui.
Tỉnh Giấc
Mắt người là một giòng sông
Chứa nhiều bất trắc mênh mang sóng ngầm
Người mơ lướt sóng - tự trầm..!
Ba đào cuồng nộ, mơ thầm nước trong
Giữa cơn lốc xoáy quay mòng
Khoảng không bình lặng bao dung không ngờ
Thì thôi giã biệt cơn mơ
Mắt, sông, gì mặc!.. lên bờ giác thôi
Chứa nhiều bất trắc mênh mang sóng ngầm
Người mơ lướt sóng - tự trầm..!
Ba đào cuồng nộ, mơ thầm nước trong
Giữa cơn lốc xoáy quay mòng
Khoảng không bình lặng bao dung không ngờ
Thì thôi giã biệt cơn mơ
Mắt, sông, gì mặc!.. lên bờ giác thôi
Từ Buổi Lễ Chúc Thọ
Tôi vừa kết thúc thời kinh tối
thì Hương từ dưới nhà đi lên thang gác xin phép:
- Thưa cô, cho con ra mừng lễ
chúc thọ lục tuần thầy Trụ trì Thường Chiếu!
Tôi gật đầu, Hương hớn hở rồ
xe chạy đi. Mãi tới gần 11g khuya nó mới về.
Lúc này tôi đang díp mắt vì
buồn ngủ nên chỉ đủ sức khoát tay khi nó xá chào, mà không hỏi han gì.
Sáng ra, tôi phỏng vấn nó:
- Sao? Hồi hôm đi chơi vui
không?
- Dạ vui, quí thầy hát hay
quá chừng! Viên Chiếu hát bài “Bụi phấn”, Linh Chiếu hát mấy bài, quà mừng chất
cao, xếp thật đẹp…
- Vậy à? Linh Chiếu hát chắc
vẫn còn hay, nhưng chắc Viên Chiếu hát dở hả?
Hương ậm ừ chưa đáp, tôi nói
tiếp:
- Hồi xưa Viên Chiếu hát hay
lắm, giờ già rồi nên hết hơi đó. Chỉ những người trẻ hát mới hay thôi!
- Đâu có! Quí thầy Thường
Chiếu lớn tuổi nhưng hát rất có giọng. Tân nhạc, Vọng cổ gì cũng có ý nghĩa đạo
vị…
- Ừ! Vậy yhì do chất giọng
quí thầy hay!
Hương chợt nói:
- Không hiểu sao chỗ quí thầy
ngộ lắm! Không khí làm sao ấy! Nó không giống chỗ quí cô…
- Là sao??
- Chỗ quí thầy làm mình cảm
thấy… dễ thở, hân hoan, an lạc thế nào ấy!
Tôi lắng nghe, ngẫm nghĩ một
chút rồi phân tích:
- Biết sao không? Chắc là vì
tâm tư quí thầy phóng khoáng, dễ chịu, nên cảnh cũng tỏa ra như thế!
- Dà! Phải rồi! Đúng vậy đó!
Hương khoe thêm:
- Sáng này ra dự lễ, ai có mặt
ở đó sẽ được thầy Trụ trì phát quà…
- Sướng quá ta? Vậy giờ
Hương có đi hôn?
Hương cười lỏn lẻn:
- Dạ… thôi!
Xưa nay tôi vốn chẳng để ý tới
lời tán tụng quí thầy, vì cho là lời phẩm bình sẽ thiếu chính xác nếu phát xuất
từ thiên kiến “trọng nam”. Nhưng Hương ái mộ quí thầy lẫn quí cô, bản tính nó
chất phác, thật thà, nghĩ sao nói vậy. Do đó mà tôi giật mình khi nghe nó đưa
ra nhận xét như trên. Nếu tôi không có cái nhìn vô tư khách quan, tôi sẽ không
lý giải được vấn đề một cách đúng đắn.
Cách đây khá lâu, có lần
Hương mách tôi:
- Sáng nay con ra đường có một
cô ni ngoắc xin quá giang. Con đưa cổ tới Long Thành, lúc xuống xe cổ nói:
- Quí hóa quá! Ráng làm phước
như vầy cho nhiều nhen! Chúc con đời sau chuyển nữ vi nam!
Tôi bình:
- Đúng là câu chúc không
mong đợi…
Hương cười hi hí:
- Chắc là cổ thèm làm nam
quá nên mới chúc con như vậy!
Mỗi lần, trong chúng có người
xầm xì bàn chuyện thị phi, nói lỗi sau lưng ai đó, chị Huệ ở đâu trờ tới bực
mình lên tiếng:
- Bộ muốn làm đàn bà suốt kiếp
sao mà cứ nói chuyện thị phi hoài vậy?
Cuộc chuyện trò vô bổ được cắt
đứt ngay.
Mỗi khi thấy ai ngồi lê đôi
mách, nói xấu sau lưng người, khoái đâm thọc nhiều chuyện, dù họ là nam nhân
người ta vẫn bảo người này có “tính đàn bà!”
Như vậy, chứng tỏ là “tính
đàn bà” hay “tật đàn bà” rất… “kém chất lượng”, dù nó hiện diện trong hình hài
giới tính nào!
Có lời bình rằng: phái nữ có
tài ngang nam nhân, có thể làm nên mọi chuyện, có thể chứng A-la-hán, có thể
thành Phật… Song khuyết điểm của họ là tính cố chấp, nhỏ nhen, hẹp hòi, dễ giận,
dễ tật đố…
Thường thì đối mặt với sự việc
nam nhân buông xả dễ dàng, còn phái nữ cứ ôm đồm không hỉ xả cho qua, nên họ cứ
mãi chịu thiệt thòi, mãi khổ dai, vì cái tật khó buông của mình!
Tôi cũng không thoát khỏi
khuyết điểm này, nhưng… hễ có ai miệt thị “phe ta” thì tôi công kích liền: -
“Làm như mấy ông là hay lắm vậy!”
Nhưng trước cụm từ: “tính
đàn bà” tôi đành ngậm họng, không còn lời lẽ để binh vực, biện minh.
Hồi xưa khi nghe thầy giảng
đến chuyện một bà già hỏi ngài Triệu Châu:
Làm sao để thoát khỏi thân nữ
hèn kém xấu xa?
Triệu Châu đáp:
- Nguyện cho mọi người đều
được lên thiên đường, còn thân tiện tì này vĩnh kiếp ở địa ngục!
Chúng tôi cười ồ! Câu đáp có
vẻ như ngài Triệu Châu muốn trêu chọc bà già. Rõ ràng là bà đang ôm nỗi khát
khao cháy bỏng muốn thoát khỏi thân nữ, vậy mà ngài còn xúi bà: “Nguyện thân tiện
tì này ở địa ngục vĩnh kiếp” và… “cầu cho mọi người được lên thiên đường hết.”
Sau này tôi mới hiểu, thật
ra ngài Triệu Châu đã bày cách giúp bà, câu đáp chính là trọng tâm của yếu chỉ.
“Nguyện cho mọi người được
lên thiên đường” đó là tấm lòng vị tha hào hiệp, tấm lòng từ mong muốn cho mọi
người được hạnh phúc vui sướng, còn riêng bản thân sẳn sàng nhận chịu khổ đau.
Đây là tấm lòng “vị tha xả kỷ”. Khi có được tấm lòng vì người với nhân cách cao
thượng như thế, tức là đã thoát khỏi sự hèn kém xấu xa rồi!
Có nghĩa là cái hình hài thể
xác không quan trọng, mà cốt lõi là cái tâm! Phật đã từng thị hiện mang thân
nai, thân dã can để độ sinh, song tâm ngài vẫn là tâm Phật, tâm Bồ tát!
Ngài Hư Vân cũng từng nói:
“Là nam hay nữ không quan trọng, quan trọng là biết sống.” Và ngàn kinh muôn luận
đều nhằm dạy cho chúng ta cách để biết sống này!
Vì thế chẳng cần phải ước
ao, băn khoăn lo nghĩ làm sao để “chuyển nữ vi nam”, làm sao để thoát khỏi thân
hèn kém, mà chỉ cần thoát khỏi tâm hèn kém, bằng cách: chuyển tâm! - Chuyển tâm
xấu thành tốt lành. Có được tâm tư trong lành thì dù có mang hình hài nào, có
là nam hay nữ, cũng chẳng đáng quan tâm!
Thường trong cuốc sống mình
cứ vô tư để tật tánh mình hành hạ người, khiến họ khổ não vì hít phải không khí
“ô nhiễm” từ môi trường tâm của mình. Lắm lúc đang hành hạ người, ta chẳng hề ý
thức và nhận ra được điều đó, thậm chí còn cho là người đang làm khổ ta. Nhưng
trong tối tăm làm sao thấy rõ được lỗi tại ai? Làm sao cân lường được là ai khổ
hơn ai? Chỉ có “tình nguyện nhận khổ” như ngài Triệu Châu đã bày cho bà già, mới
giải tỏa được vấn đề. Mọi chuyện sẽ ổn ngay từ giây phút mình phát khởi ý niệm
mong cho người được vui vẻ, an lạc. Khi nào tâm thật sự mong mọi người được hưởng
niềm vui như thiên đàng, thì lúc ấy chẳng cần phải băn khoăn nhiều vì những điều
lỗi, về những giới tính đang mang trong cuộc sống nữa.
Đây là yếu tố “dễ thở”, là
thoáng khí mà Thường Chiếu tỏa ra, để Hương tình cờ hít vào cảm thấy hân hoan,
nhẹ nhỏm, đến độ phải buột miệng khen.
Đây cũng là yếu tố là La Hầu
La năm lên bảy lần đầu đón Phật về thành Ca Tỳ La đã hớn hở phát biểu khi được
đứng cạnh Phật:
- Bạch Thế Tôn! Cái bóng của
ngài mát mẻ làm sao! Con cảm thấy thật hạnh phúc khi được núp dưới cái bóng của
ngài!
Đại sư Tinh Vân đã từng giảng
giải chữ Phật là kết hợp giữa chữ Nhân và chữ Phất; Nhân là người; phất là
buông bỏ, rũ sạch hết. Một người đã buông bỏ rủ sạch hết… thì là Phật.
Khi nào ta sống với Phật tâm
thí người đứng cạnh sẽ thấy bình an mát mẻ. Giây phút nào ta sống với Quỷ tâm
thì người quanh ta sẽ thấy khổ như đứng gần “Hỏa diệm dơn”. May mắn là Phật đã
từng tuyên bố: “Ai cũng có Phật tính”… Thế nên, chỉ cần tẩy rửa, gột sạch cái
tâm chúng sinh… thì ta lẫn người đều có thể hưởng bầu không khí hạnh phúc, dù
còn đang hiện diện ở trần gian này.
Xin cảm ơn Thường Chiếu đã tỏa
ra bầu không khí mát mẻ khiến người hiện diện thấy an lạc lây, để từ đó mảnh lý
sự này được hình thành. Vì thế, bài viết này xin được dâng đến thầy Trụ trì Thường
Chiếu thay lời chúc thọ, mong rằng môi trường trong lành tương tự Thường Chiếu
sẽ tỏa khắp nhân gian để đâu đâu cũng có được bầu không khí… dễ thở, thanh
lương.
24/8. (26/7 A.L) 2003.
Chuyện Ẩm Thực
Em hỏi chị:
- Con chó nó không làm gì nặng
mà nó lại ăn nhiều là tại sao vậy?
- Vì nó sủa, sủa cũng hao
hơi tổn tiếng…
- Còn chị, chị đâu có làm gì
nặng mà cũng ăn nhiều?
- Chị… sủa, à không! Chị giảng…
cưng à.
Gói Ấy Là Gì?
Bé Hà kể:
- Mùa Trung thu gia đình con
được khách biếu cho hộp bánh. Má con vui vẻ cắt bánh ra chia, bà xé cái gói bột
nhỏ trong hộp bánh ra, rắc lên bánh và ăn ngon lành.
- Ối trời, sao bà lại ăn như
vậy?
- Má con nghĩ đó là gói gia
vị ăn kèm với bánh, bánh thời nay tân tiến nên phải ăn như vậy…
- Đó là cái gói có đề chữ
“do not eat” phải không?
- Dạ, đúng! Sao ạ?...
… nghĩa là “không được ăn”
đó là gói chống ẩm, ăn rất có hại! Có gói còn dặn: “… lỡ cho vào miệng phải súc
miệng ngay, nếu dây vào mắt phải rửa mắt ngay và đi bác sĩ liền…” (if put in
mouth by accident, wash mouth immediately, if into eyes, wash eyes immediately,
and go to see a doctor…)
- Mèn ơi, ai biết đâu? Bánh
Việt Nam mình làm mà sao không cảnh cáo bằng tiếng Việt cho dễ hiểu?
- Ờ! Chắc tại nhà sản xuất…
không rành tiếng Việt!
Bánh Tên Gì?
Một bà già quê bảo cháu gái:
- Nè, có đi “xiu thị Cô Ra”
thì mua cho bà bánh về ăn thử, nghe nói “săn quít” ăn ngon lắm!
Cô cháu đem đúng bánh về, bà
ngắm nghía, xăm xoi bánh hồi lâu rồi lườm cháu:
- Bây nghĩ tao cù lần, ở quê
không biết gì hả? Vầy mà là bánh “săn quít” à?
- Trời! Chứ bà muốn “phải thế
nào”?
- Phải có nhưn thiệt ngon kẹp
ở giữa kìa!
- Đó là bánh “hăm ba gơ” bà
ơi!
- Không phải, mầy phải nói
thiệt cho tao nghe, bánh này tên gì? Nhất định không phải là “săn quít”!
Cô cháu thở ra:
- Vậy thì thưa bà, đây là
bánh… “sân nguýt” ạ!
Bà già toét miệng cười.
(Trẻ con có những lí luận,
quan điểm mà người lớn khó lòng giải thích, xin ghi lại những điều tai nghe mắt
thấy):
Lí Do
Cu Tý là con bà chị họ tôi.
Một hôm, dỗ cách nào thằng bé cũng không chịu đi học. Bực quá mẹ nó gắt:
- Có muốn tao phát cho mấy
cái vào mông không?
Thằng bé ấm ức trả lời:
- Cô giáo con không biết gì
hết á! Có mấy cái chữ… mà ngày nào cũng hỏi con, con cũng không biết thì làm
sao mà nói cho cổ nghe được?!
Nếu…
Cu Bi (anh hai cu Tí) đi học
về khoe:
- Má ơi, hôm nay bài luận
con làm được chín điểm!
- Giỏi quá! Thế con tả gì
nào?
- Con tả ba lúc nóng giận, mặt
đỏ, gân xanh nổi lên… Thầy giáo phê: “văn đạt, có óc quan sát…”
Mẹ cháu cười ngặt nghẽo… cu
Bi cao hứng nói:
- Nhưng nếu mà con tả má giận,
chắc chắn thầy giáo sẽ cho điểm mười!...
Ngôn… ngữ
Em ra đời bên Mỹ, không ràng
cách đùa vui xài từ của Việt nam.
Một hôm tan học em về nhà hỏi
mẹ:
- Sao ba mẹ gọi nhà vệ sinh
là thư viện?
- Vì ba con hay vào đó đọc
sách!
- Báo hại.. bạn bè ai cũng
cười nhạo con, vì hôm qua chúng hẹn gặp con tại thư viện, nhưng con đã đi đến
nhà vệ sinh để đứng đợi…
Bịnh Gì?
Cùng nhau quá giang trên chiếc
xe hơi bóng lộn, gần tới trạm thu tiền đường, để biểu lộ lòng tốt với tài xế,
cô bạn huých vào hông tôi nói nhỏ:
Tới trạm nhớ xin họ cho qua,
khỏi đóng tiền nha!
Tôi hơi bị bất ngờ chưa kịp
há miệng nói gì thì đã thấy Cảnh vệ giơ cây lên ngăn xe lại:
Cô bạn chọt vào hông tôi,
thúc:
Nói nhanh lên! Nói!...
Quýnh quá tôi gào lên:
- Thưa… ông thông cảm, tụi
tôi bị… bịnh hết rồi!
Cô bạn gật đầu, ra điều ưng
ý rằng lí do tôi nêu rất đạt…
Ông cảnh vệ trố mắt nhìn mấy
ni cô mập mạp hồng hào, nghiêm giọng hỏi:
- Bịnh gì?
- Dạ, có bịnh thiệt mà, tụi
tôi… bị bịnh… tiếc tiền!!
Ông ta hạ cây xuống, muốn cười
mà không dám cười, khoát tay:
- Thôi đi đi!... mấy bà nội!
Chuyện Điện Thoại
Ta bước tới, đi lui quanh, điện thoại
Nhấc ống nghe, rồi đặt xuống ngập ngừng
Gọi cho người… đầu bên kia… máy bận…
Gọi cho người, người đi vắng,
… ủ-ê!
Rồi những lúc buồn dâng tràn mi mắt
Tim tái tê mong tìm kẻ sẻ chia
Gọi cho người, đầu bên kia máy… tắc,
Gọi cho người... đường giây bận?...
-não nề!-
Thôi hãy để… khi nào ta thanh thản…
Máy sẽ thông, người hãy nhấc, chuyện trò…
Vì lúc ấy cõi lòng ta trong sáng…
Có nói gì… cũng là lời thơm tho!
Còn những lúc ta buồn, hay đang giận…
Máy cứ kêu, nhưng… cứ… bận tha hồ!
Để ta trút buồn vào… trong quên lãng…
-Đừng để người nghe!! - tội thêm thôi!-
Người ta bảo: “Đừng nói khi… mình giận”
Đừng hứa khi vui, để tránh lỗi… bất toàn
Nên ta sẽ… cám ơn! – vì máy bận!-
-Tránh cho mình… đem buồn phát… lang bang!
Nếu thích, ta cứ… bấm, quay… tùy ý!
Lỡ máy thông, ta tìm được ai rồi
Xin hãy nói… những gì người hoan hỉ
Còn buồn kia?? - nên… mang một mình thôi!
Buồn hay vui! - rồi cũng sẽ phôi pha –
Tâm thức mình, có niệm nào tồn tại?
Đời sẽ đẹp, sắc xuân còn thắm mãi…
-Khi ta mang… nụ cười đến… cho người! –
Ừ, thôi cứ…
đi loanh quanh điện thoại
Nhấc ống nghe và quay số… tha hồ
Gọi cho người, đầu bên kia máy bận…
Gọi cho người, người đi vắng??...
-may ghê!-
Nhấc ống nghe, rồi đặt xuống ngập ngừng
Gọi cho người… đầu bên kia… máy bận…
Gọi cho người, người đi vắng,
… ủ-ê!
Rồi những lúc buồn dâng tràn mi mắt
Tim tái tê mong tìm kẻ sẻ chia
Gọi cho người, đầu bên kia máy… tắc,
Gọi cho người... đường giây bận?...
-não nề!-
Thôi hãy để… khi nào ta thanh thản…
Máy sẽ thông, người hãy nhấc, chuyện trò…
Vì lúc ấy cõi lòng ta trong sáng…
Có nói gì… cũng là lời thơm tho!
Còn những lúc ta buồn, hay đang giận…
Máy cứ kêu, nhưng… cứ… bận tha hồ!
Để ta trút buồn vào… trong quên lãng…
-Đừng để người nghe!! - tội thêm thôi!-
Người ta bảo: “Đừng nói khi… mình giận”
Đừng hứa khi vui, để tránh lỗi… bất toàn
Nên ta sẽ… cám ơn! – vì máy bận!-
-Tránh cho mình… đem buồn phát… lang bang!
Nếu thích, ta cứ… bấm, quay… tùy ý!
Lỡ máy thông, ta tìm được ai rồi
Xin hãy nói… những gì người hoan hỉ
Còn buồn kia?? - nên… mang một mình thôi!
Buồn hay vui! - rồi cũng sẽ phôi pha –
Tâm thức mình, có niệm nào tồn tại?
Đời sẽ đẹp, sắc xuân còn thắm mãi…
-Khi ta mang… nụ cười đến… cho người! –
Ừ, thôi cứ…
đi loanh quanh điện thoại
Nhấc ống nghe và quay số… tha hồ
Gọi cho người, đầu bên kia máy bận…
Gọi cho người, người đi vắng??...
-may ghê!-
(Mỗi cuối năm, Thông Nhựt
thường tặng tôi chậu bông để đón xuân, cho nên):
Vắng Em
Người đã đi rồi nên… thiếu bông
Để ta buồn, ngó cái thềm không!
Vắng em, vắng chậu hoa mừng tết
Vắng cả… hình như… một tấm lòng!
Để ta buồn, ngó cái thềm không!
Vắng em, vắng chậu hoa mừng tết
Vắng cả… hình như… một tấm lòng!
Lễ Đạo Đầu Năm
Thế rồi ta lại diện kiến nhau
Em mới gặp tôi, vội xá chào
Phận nhỏ, tha hồ em mỏi cổ
Không cần thẩm mỹ, mỡ tiêu mau
Xong lễ đầu năm… em mỏi tay
Chào nhiều - cổ lắc - nhức tới vai
Thương em, tôi gặp vờ không thấy
Tuy rằng lễ nghĩa mới nên, hay!
Và mùa xuân qua em lớn lên
Chúc em còn mãi nét hồn nhiên
Để tô sắc thắm cho nhịp sống
Để mãi bình an giữa muộn phiền.
Em mới gặp tôi, vội xá chào
Phận nhỏ, tha hồ em mỏi cổ
Không cần thẩm mỹ, mỡ tiêu mau
Xong lễ đầu năm… em mỏi tay
Chào nhiều - cổ lắc - nhức tới vai
Thương em, tôi gặp vờ không thấy
Tuy rằng lễ nghĩa mới nên, hay!
Và mùa xuân qua em lớn lên
Chúc em còn mãi nét hồn nhiên
Để tô sắc thắm cho nhịp sống
Để mãi bình an giữa muộn phiền.
1999
An ủi
Rồi bỗng dưng cuồng phong về nhặt lá
Mắt người buồn sao nặng hạt sương sa?
Giữa rừng khuya vàng thắm ánh trăng tà
Phiền muộn nhé, xin gởi theo gió hạ
Mắt người buồn sao nặng hạt sương sa?
Giữa rừng khuya vàng thắm ánh trăng tà
Phiền muộn nhé, xin gởi theo gió hạ
1979
Lời Thầm
Có thể bây giờ tôi đang gần Viên Chiếu
Nên tôi không thấy thiếu tình người
Trăng dịu dàng về đêm như sao lấp lánh trên trời
Thả sương xuống vỗ về cỏ hoa óng mượt
Cõi thiên đường được diễn tả… rất xa!
Khó tưởng tượng và tôi chưa đến được
Nhưng gần đây chỉ vài bàn chân bước
Giống… địa đàng, Viên Chiếu đang lập nên
Cảnh cũ, người xưa vốn rất thân quen
Vậy mà mỗi lần đến thăm, tôi đều thấy lạ
Tôi đã kìm, để lòng đừng nghiêng ngã..
Khi ngắm sắc hoa, màu lá, cả… ngôi chùa!
Có thể mai này tôi lại xa
Viên Chiếu dù quen, nhưng… sẽ lạ!
Những gương mặt sơ giao chưa có
Ngơ ngác nhìn nhau, bỡ ngỡ câu chào
Nhưng tôi yêu, nét thân thiện lẫn lạnh lùng
Bởi cuộc sống… con người là vậy!
Đủ thân, sơ, ghét, thương và yêu giận…
Nhưng tựu chung cũng cùng một tâm Phật
Ngày mai xa, tôi nhớ “Phật” vô cùng!
Nên tôi không thấy thiếu tình người
Trăng dịu dàng về đêm như sao lấp lánh trên trời
Thả sương xuống vỗ về cỏ hoa óng mượt
Cõi thiên đường được diễn tả… rất xa!
Khó tưởng tượng và tôi chưa đến được
Nhưng gần đây chỉ vài bàn chân bước
Giống… địa đàng, Viên Chiếu đang lập nên
Cảnh cũ, người xưa vốn rất thân quen
Vậy mà mỗi lần đến thăm, tôi đều thấy lạ
Tôi đã kìm, để lòng đừng nghiêng ngã..
Khi ngắm sắc hoa, màu lá, cả… ngôi chùa!
Có thể mai này tôi lại xa
Viên Chiếu dù quen, nhưng… sẽ lạ!
Những gương mặt sơ giao chưa có
Ngơ ngác nhìn nhau, bỡ ngỡ câu chào
Nhưng tôi yêu, nét thân thiện lẫn lạnh lùng
Bởi cuộc sống… con người là vậy!
Đủ thân, sơ, ghét, thương và yêu giận…
Nhưng tựu chung cũng cùng một tâm Phật
Ngày mai xa, tôi nhớ “Phật” vô cùng!
Hoa cỏ cũng nên thơ
Thuở ấy, bây giờ đã khác nhau
Thoáng chốc mà thay đổi quá mau
Chỗ xưa hoang dại nay là chốn…
Chánh điện, tăng đường san sát nhau
Trăng vẫn thường xuyên rọi xuống hiên
Bây giờ khép nép trải dáng nghiêng
Bâng khuâng nhìn mái chùa cong vút
Chờ đợi mây thành sương giăng đêm
Viên Chiếu lạ lùng như cõi mơ
Đẹp vì hoa cỏ cũng nên thơ
Hơi hướm tịch liêu, hương rừng cũ
Còn lẫn đâu đây, chửa xóa mờ!
Thoáng chốc mà thay đổi quá mau
Chỗ xưa hoang dại nay là chốn…
Chánh điện, tăng đường san sát nhau
Trăng vẫn thường xuyên rọi xuống hiên
Bây giờ khép nép trải dáng nghiêng
Bâng khuâng nhìn mái chùa cong vút
Chờ đợi mây thành sương giăng đêm
Viên Chiếu lạ lùng như cõi mơ
Đẹp vì hoa cỏ cũng nên thơ
Hơi hướm tịch liêu, hương rừng cũ
Còn lẫn đâu đây, chửa xóa mờ!
1998
Chân Không
Tôi chưa về thăm lại Chân Không
Từ lúc hạ sơn… xuống ruộng đồng
Và khi dỡ ngói Thiền Đường xuống…
Tô bồi Thường Chiếu… trả đồi hoang…
Có một chút gì đang vỡ tan
Không Thiền Đường như… không thiên đường!
Núi trơ nền vắng, buồn hiu hắt
Cỏ cũng úa vàng… nhờ áo tăng…
Tôi chưa về… ngắm lại Chân Không
Từ lúc phục hưng núi Tao Phùng
Cỏ hoang thôi úa, cười xanh biếc
Ngời dáng Thiền Đường… hanh nắng trong
Tôi chưa về thăm lại Chân Không
Nhìn hình thôi, đã thấy… phiêu bồng
Cảnh nay giờ đẹp… hơn xưa nữa!
Bát nhã hai tầng… cao mênh mông
Dù chẳng về thăm, ngắm núi xưa
Trong tôi còn mãi… nét nguyên sơ
Chùa im lìm ngủ trên triền núi
Mây trắng nép hầu… đẹp như mơ!
Gió thoảng, vang lời như reo ca…
“Dù người chẳng đến viếng… núi ta…
Trăng thu muôn thuở luôn vàng thắm…
Dù giữa thanh bình hay phong ba”…
Từ lúc hạ sơn… xuống ruộng đồng
Và khi dỡ ngói Thiền Đường xuống…
Tô bồi Thường Chiếu… trả đồi hoang…
Có một chút gì đang vỡ tan
Không Thiền Đường như… không thiên đường!
Núi trơ nền vắng, buồn hiu hắt
Cỏ cũng úa vàng… nhờ áo tăng…
Tôi chưa về… ngắm lại Chân Không
Từ lúc phục hưng núi Tao Phùng
Cỏ hoang thôi úa, cười xanh biếc
Ngời dáng Thiền Đường… hanh nắng trong
Tôi chưa về thăm lại Chân Không
Nhìn hình thôi, đã thấy… phiêu bồng
Cảnh nay giờ đẹp… hơn xưa nữa!
Bát nhã hai tầng… cao mênh mông
Dù chẳng về thăm, ngắm núi xưa
Trong tôi còn mãi… nét nguyên sơ
Chùa im lìm ngủ trên triền núi
Mây trắng nép hầu… đẹp như mơ!
Gió thoảng, vang lời như reo ca…
“Dù người chẳng đến viếng… núi ta…
Trăng thu muôn thuở luôn vàng thắm…
Dù giữa thanh bình hay phong ba”…
2005
Bụi Nắng
Nắng chiều rọi khoảng sân lam
Bụi len vào cổng nghịch thầm cỏ hoa
Lén chiêm ngưỡng Phật hiền hòa
Rồi theo gió cuốn bay ra ngoài vườn
Áo ai phất giữa thiền đường
Vạt vương giọt nắng đang luồn qua song
Nghiêng tay rũ sạch bụi hồng
Thoảng nghe trong gió còn xông hương trầm
Bụi len vào cổng nghịch thầm cỏ hoa
Lén chiêm ngưỡng Phật hiền hòa
Rồi theo gió cuốn bay ra ngoài vườn
Áo ai phất giữa thiền đường
Vạt vương giọt nắng đang luồn qua song
Nghiêng tay rũ sạch bụi hồng
Thoảng nghe trong gió còn xông hương trầm
2002
Thuở Xưa Ấy…
Ta một thuở…
Đã làm ni Viên Chiếu
Áo đà, lam…
Dính đất ruộng đen thui
Giờ đã xa, bên lề ngồi viết kể…
Chuyện ngày xưa,
thân thiết đến… ngậm ngùi…
Ta một thuở…
Cùng ngụ trong chòi lá
Khi mưa về…
Nước rỉ rả dột đêm
Vách thưa rĩnh, gió lùa qua lạnh quá
Mưa hắt vào, giấc ngủ ướt lem nhem..
Ta một thuở…
Đã cùng nhau chằm, vá…
Giờ nghỉ, lôi kim chỉ… đến cau mày…
Mơ nhàn nhã không thành…
- vì áo rách –
Vá trăm màu…
- như lễ hội cái bang –
Ta một thuở…
Đã cùng nhau ăn độn
Sáng khoai lang…
… chiều lại khoai mì
Gạo khan hiếm..
Nên dành nhau cơm cháy
Cho đỡ ghiền..
hương vị… mê ly!
Ta một thuở…
Đã cùng nhau chống lụt
Nước dâng cao, lội bì bõm thâu đêm
Di tản đồ, môi run, da lạnh buốt
Vẫn chan hòa..
tình pháp hữu dịu êm..
Ta một thuở..
Trời khuya còn ngoài lộ..
Đường hắt hiu,
nên trăng sáng hơn đèn
Vui hò hát…
-bị người hăm: “vặn cổ!”
Ngó nhau cười,
mắt lấp lánh sương đêm…
Ta một thuở…
Bao lo toan cùng cực
Chia cho nhau..
từng hạt muối, tán đường
Đêm sốt rét, bạn ngồi quanh không ngủ
Chờ di thư… (?)
-hay dâng kệ… tiễn hồn!?...
Ta một thuở…
Cùng làm thơ, đặt nhạc…
Giữa rừng khuya…
Ca hát, ngắm trăng lên
Giờ đã xa…
Tóc người xưa bạc trắng
Chuyện hôm nào…
Kể lại… vẫn bâng khuâng…
Đã làm ni Viên Chiếu
Áo đà, lam…
Dính đất ruộng đen thui
Giờ đã xa, bên lề ngồi viết kể…
Chuyện ngày xưa,
thân thiết đến… ngậm ngùi…
Ta một thuở…
Cùng ngụ trong chòi lá
Khi mưa về…
Nước rỉ rả dột đêm
Vách thưa rĩnh, gió lùa qua lạnh quá
Mưa hắt vào, giấc ngủ ướt lem nhem..
Ta một thuở…
Đã cùng nhau chằm, vá…
Giờ nghỉ, lôi kim chỉ… đến cau mày…
Mơ nhàn nhã không thành…
- vì áo rách –
Vá trăm màu…
- như lễ hội cái bang –
Ta một thuở…
Đã cùng nhau ăn độn
Sáng khoai lang…
… chiều lại khoai mì
Gạo khan hiếm..
Nên dành nhau cơm cháy
Cho đỡ ghiền..
hương vị… mê ly!
Ta một thuở…
Đã cùng nhau chống lụt
Nước dâng cao, lội bì bõm thâu đêm
Di tản đồ, môi run, da lạnh buốt
Vẫn chan hòa..
tình pháp hữu dịu êm..
Ta một thuở..
Trời khuya còn ngoài lộ..
Đường hắt hiu,
nên trăng sáng hơn đèn
Vui hò hát…
-bị người hăm: “vặn cổ!”
Ngó nhau cười,
mắt lấp lánh sương đêm…
Ta một thuở…
Bao lo toan cùng cực
Chia cho nhau..
từng hạt muối, tán đường
Đêm sốt rét, bạn ngồi quanh không ngủ
Chờ di thư… (?)
-hay dâng kệ… tiễn hồn!?...
Ta một thuở…
Cùng làm thơ, đặt nhạc…
Giữa rừng khuya…
Ca hát, ngắm trăng lên
Giờ đã xa…
Tóc người xưa bạc trắng
Chuyện hôm nào…
Kể lại… vẫn bâng khuâng…
2005.
Theo http://ruoirep.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét