I. Tiểu sử và sự nghiệp văn
chương:
1. Tiểu sử:
- Huy Cận tên là Cù Huy Cận, sinh ngày 31-5-1919, tại Đức Ân, Đức Thọ, Hà Tĩnh; trong một gia đình nông dân nghèo.
- Học vỡ lòng ở quê. Năm 1939 vào Huế học tú tài, tham gia viết một số bài bình luận văn học đăng ở báo Tràng An, Sông Hương với bút danh: Hán Quỳ.
- Năm 1938, đăng thơ bài “Chiều xưa”; Tháng 11- 1940, xuất bản tập thơ Lửa thiêng (3000 bản).
- Tháng 6 năm 2001 được bầu Viện sĩ viện Hàn lâm thế giới về thơ tại Vêrona - Italia.
2. Sự nghiệp văn chương:
a. Trước năm 1945: Lửa thiêng (1940), Vũ trụ ca, Kinh cầu tự (1942).
b. Sau năm 1945 - 1975: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960),Bài thơ cuộc đời (1963), Những năm sáu mươi (1968), Từ chiến trường gần đến chiến trường xa (1973), Ngày hằng sống ngày hằng thơ (1975).
Thơ viết cho thiếu nhi: Hai bàn tay em (1967), Phù Đổng thiên vương(1968), Thiếu niên anh hùng họp mặt (1973).
c. Sau năm 1975: Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984), Chim làm ra gió (1991), Lời tâm nguyện cùng hai thế kỉ (1997).
II. Hành trình thơ Huy Cận:
1. Lửa thiêng:
a. Huy Cận bước vào thi đàn bằng tâm hồn đa cảm, đa sầu; bằng nỗi khắc khoải không gian “hóa thân của thiên đường, của sự hòa đồng nguyên thủy thuở xưa” (Đỗ Lai Thúy). Huy Cận, nhà thơ của “một chiếc linh hồn nhỏ - Mang mang thiên cổ sầu” ấy đã dâng tặng đời tập thơ Lửa thiêng. Đúng như cái tên của nó, dù tập thơ có chĩu nặng lòng sầu nhân thế; nhưng Lửa thiêng trước sau vẫn là một ngọn lửa thiêng, ngọn lửa tâm linh thơ, một nguồn sáng của “niềm tin vào lương tri con người” (Hà Minh Đức). Do đó mà Huy Cận đã nhìn thấy được bóng dáng xưa của ngọn nguồn dân tộc, cảm được mạch sầu vũ trụ, nhịp buồn nhân gian và nhận ra bản thể của con người trong sự sống của thiên nhiên:
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn
(Buồn đêm mưa)
Hay:
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa
Cùng đất nước và nặng buồn sông núi
(Mai sau)
Nỗi buồn của Lửa thiêng là nỗi buồn của một hồn thơ yêu đời, yêu sống, của một tình yêu quê hương tha thiết của thi nhân.
Tâm thức thi nhân trong Lửa thiêng luôn hướng tới đấng thiêng liêng để nói về nỗi đau khổ của kiếp người, của thân phận chính mình:
Hỡi thượng đế tôi cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi là một kiếp đi hoang
Sầu đã chín xin người thôi hãy hái
Nhận tôi đi dầu địa ngục thiên đàng.
Huy Cận nhìn đâu cũng thấy con người tội đồ, một bản thể tội lỗi luôn tự sám vì thấy sự ham muốn đam mê là nguồn cội khổ đau:
Tôi đâu biết thịt xương là sông núi
Chia biệt người ra từng xứ cô đơn
(Trình bày)
A thân thể một cái bình tội lỗi
Đất sơ sinh đã hóa lại bùn lầy
(Thân thể)
Thân quá nặng nên hồn sa xuống thấp
Chớ giận chi những kẻ mất thiên đường
(Thân thể)
Cũng như các tác giả văn học lãng mạn khác, Huy cận nhìn thế giới có sự phân cực: trần thế và thiên đường; con người đối lập hồn với xác. Trong Lửa thiêng phần hồn là lương tri, là sự tự ý thức của nhà thơ.
Huy Cận tìm về nẻo xưa, thời xưa, nhưng không là cảm hứng hoài cổ quen thuộc trong thơ ca trung đại. Thơ Huy Cận tuy buồn, nhưng thanh thóat, cảm xúc và nghĩ suy về cuộc đời.
Lửa thiêng nói nhiều đến hiện tại đầy thấm thía và xót xa.
b. Quan niệm nghệ thuật về con người trong Lửa thiêng:
- Huy Cận đặt con người trong quan hệ thể xác với linh hồn, thực và mộng. Nhà thơ thường nói đến “thân”, nhưng quan tâm nhất vẫn là “lòng”, “tấm lòng”, tình đời tình người sâu nặng. Từ cảm hứng thương thân chuyển dịch đến cảm hứng thương lòng. Thương thân là ý thức thực tại. Thương lòng là ý thức sự cô đơn giữa đời.
Nhưng cô độc đã thầm ghi trên trán
Lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh
(Trình bày)
Lòng chàng xưa chốn nọ với nơi này
Đây hay đó chỉ dựng chòi cô độc
(Mai sau)
Thơ Huy Cận thường nói đến khái niệm “lòng”: lòng hoảng hốt, lòng lạnh, lòng ru, lòng sầu, lòng buồn, lòng quạnh hiu,... Nhưng ông không trách đời, trách người mà tự trách, cắt nghĩa buồn đau từ bản chất tâm hồn mình:
Vì ta đợi cho nên người chẳng đến
Người ta xa, xa từ buổi sơ sinh
(Bi ca)
Chàng yêu lắm nên bị người hắt hủi
Chàng yêu lâu nên thiên hạ lìa xa.
(Mai sau)
- Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Huy Cận là con người tấm lòng. Nếu Xuân Diệu cảm thụ thế giới bằng các giác quan mà đặc biệt là cảm giác thì Huy Cận cảm thụ thế giới chủ yếu bằng tâm hồn, bằng tấm lòng rộng mở suy tư. Con người tấm lòng là một phương diện tạo nét độc đáo trong quan niệm nghệ thuật của Huy Cận trong Lửa thiêng.
Cảm nhận thế giới bằng tâm hồn nên thơ Huy Cận “hồn” tràn ra đến mênh mang. Đó là : hồn tôi, hồn em, hồn xưa, hồn quen, hồn bơ vơ, hồn lưu lạc, hồn đơn chiếc, hồn goá bụa, hồn nhớ thương, hồn bằng ngọc, hồn yên tĩnh,…
- Hồn bơ vơ tôi đi dạo giữa đời
(Cầu khẩn)
- Hồn bơ vơ không biết tựa vào đâu
(Trò chuyện)
- Hồn tôi đây thiên hạ bỏ lìa xa
(Trình bày)
- Linh hồn tôi goá bụa
Đơn chiếc giữa trần gian
(Ê chề)
- Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển
Suốt một đời như núi đứng riêng tây
(Mai sau)
Theo quan niệm của Huy Cận, hồn là yếu tố tinh thần gắn liền với niềm tin và lương tri của con người, là thế giới trong sáng thanh cao đối lập với cuộc đời trần tục.
- Con người trong thơ Huy Cận là con người linh hồn được nghiệm sinh theo ba hướng : Không gian – thời gian, thiên đường – quá khứ, trần gian hiện tại. Và cuối cùng, con người linh hồn neo đậu ở tọa độ quá khứ - trời xưa:
- Đêm mơ lay ánh trăng tàn
Hồn xưa gởi tiếng thời gian trống dồn
(Chiều xưa)
- Da chiều mới tỏ sao Hôm
Màu thanh thiên đã vào ôm giữa hồn
… Gió qua là ngọn triều lên
Hiu hiu gió đẩy thuyền trên biển trời
Chở hồn lên tận chơi vơi
Trăm chèo của Nhạc muôn lời của Thơ
Quên thân như đã quên giờ
Tê mê cõi biếc bến bờn là đâu
(Trông lên)
Và giữa trời xưa ấy, hồn thơ Huy Cận trú ngụ trong thiên nhiên và đã gặp hồn dân tộc.
c. Không gian nghệ thuật:
Tuy vậy, Lửa thiêng cũng là một mảnh hồn tươi trẻ của Huy Cận nên có những bài thơ trong trẻo, hồn nhiên. Với Huy Cận, tấm lòng đẹp nhất đáng nâng niu nhất là tấm lòng của tuổi học trò mơ mộng, bởi đấy là khoảng thời gian mà : “Lòng mới nở giữa tay đời ấm áp”. Đó là thuở mộng thần tiên :
- Gió thổi sân trường chiều chủ nhật
- Ôi! Thời thơ bé tuổi mười lăm
Nắng hoe rải nhặt hoa trên đất
Đời dịu vừa như nguyệt trước rằm
(Học sinh)
- Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa, em đến mắt như lòng
Mở bừng ánh sáng, em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước toả hồng
(Áo trắng)
Đây là một không gian mở rộng, không gian của sự giao cảm, giao hoà tâm tình. Bên cạnh Tựu trường, Học sinh, Áo trắng; còn có những bài thơ như Tự tình, Đi giữa đường thơm, Ngậm ngùi, ... Huy Cận đã đưa con người từ cõi thực vào cõi mộng:
+ Đi giữa đường thơm: Nhà thơ đưa người đọc đi từ không gian làng quê đến với không gian tấm lòng (Lòng sẵn giắt ít hương hoa tưởng tượng), chiếc cầu nối hai bờ hư thực. Và rồi, tâm hồn con người như đắm chìm trong thế giới phi không gian và phi thời gian.
Cả không gian hồn hậu rất thơm tho
Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ.
+ Ngậm ngùi: Từ không gian vườn hoang bàng bạc sắc nắng chia hai, sẻ nửa; nhà thơ dẫn dắt người đọc vào thế giới của giấc mơ hòa hợp tình yêu:
Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây
Lòng anh mở với quạt này
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Sự hòa cảm tâm hồn ấy đã thu hẹp dần cõi thinh không bát ngát vào trong hồn người, và hồn người chỉ còn là:
Hồn em đã chín mấy mùa buồn đau
Và:
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.
Lửa thiêng có không gian nội tâm thông giao với không gian ngoại cảnh tạo nên sự hoà quyện giữa thực và ảo, giữa cảnh và tình, giữa hồn với hồn. Hồn thơ Huy Cận luôn chiếm lĩnh không gian tầng cao, không gian đa chiều mà Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu.
d. Thời gian nghệ thuật
- Khi Đỗ Lai Thuý nhận xét hồn thơ Huy Cận là hồn thơ khắc khoải không gian, không có nghĩa trong thơ của ông không có niềm bâng khuâng về thời gian. Chỉ có điều : thời gian nghệ thuật trong thơ ông được chuyển hoá vào không gian, tạo thành một hồn thơ náu mình trong không – thời gian hoà quyện.
- Thơ Huy Cận vẫn có nét rưng rưng về thời gian, vẫn có cảm giác thời gian : thời gian vũ trụ và thời gian trần thế, nhưng thời gian nhân thế là cảm giác nổi trội nhất.
Nhà thơ hình dung cuộc đời của mỗi người là những chặng hành trình qua không gian và trong vòng thời gian nhân thế. Đời người luôn vận hành chuồi theo dòng chảy của thời gian nhân thế, dòng chảy của cuộc đời.
+ Trong Lửa thiêng, Huy Cận hay nói đến “đời”, “dòng đời”. Thời gian nhân thế vừa thuận chiều với thời gian vũ trụ nhưng vừa lặp lại theo vòng luân hồi của những kiếp người. Và khi thời gian kiếp người lặp lại thì thời gian tự nhiên ngừng trôi, lúc ấy con người có thể gặp lại người xưa, trò chuyện với người xưa. Như thế, thời gian nghệ thuật trong Lửa thiêng là thời gian quá khứ.
Quá khứ ấy có thể là quá khứ gần và quá khứ xa. Nhưng dù thế nào chăng nữa thì hồn thơ Huy Cận trong Lửa thiêng luôn mải miết lội người dòng thời gian nhân thế để tìm hồn xưa và hoài niệm những chặng đời tươi đẹp trong quá khứ. Đấy là thuở niên thiếu, tuổi áo trắng nhiều cảm xúc và lắm mộng mơ. Cho nên, nhà thơ sống ở thực tại mà tưởng nghĩ nhiều đến thời tươi ấy bằng niềm hoài nhớ da diết và đẩy thời ấy đến mút cuối của thời gian quá khứ:
- Gió thổi sân trường chiều chủ nhật
Ôi thời thơ bé tuổi mười lăm
(Học sinh)
- Giờ náo nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương
Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường
Rương nhỏ nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
(Tựu trường)
Tâm trạng hoài niệm quá khứ của Huy Cận không chỉ dừng lại ở một đời người mà còn hướng tới quá khứ xa xưa của loài người. Trong tâm thức của nhà thơ, thời xưa xa ấy, loài người đã sống một cuộc sống êm đềm hạnh phúc mà ngày này đã vỡ rạn, không còn nữa:
Nghìn năm trước thuở các người mơ mộng
Yêu trăng sao và thương nhớ gió mây
Mê giai nhân, liễu mảnh với hồ đầy
Màu năm tháng cũng ngậm ngùi thế nhỉ
(Trò chuyện)
Thuở ấy con người hoan ca cùng vũ trụ, giao hoà cùng tạo vật thiên nhiên. Thuở ấy tâm hồn con người luôn bằng an hạnh phúc, không bâng khuâng nhớ trời rộng sông dài, không giằng xé giữa hai bờ thực mộng.
Thời khắc đang đi nhịp thái bình
Dịu dàng gió nhạt thổi mây xanh
Hàng cây mở ngọn kêu chim đến
Hạnh phúc xem như chuyện đã đành
(Bình yên)
Thuở ấy nhịp thời gian êm ả lắm, tạo nên Đẹp xưa, Chiều xưa thật bình yên, trong đó không gian êm đềm quyện hoà với thời gian man mác để hồn xưa trú ngụ :
Đêm mơ lay ánh trăng tàn
Hồn xưa gửi tiếng thời gian trống dồn
(Chiều xưa)
Trong không thời gian thuở xa xưa ấy, hồn thơ Huy Cận như một kẻ lữ thứ cô đơn trên hành trình tìm về nguồn cội loài người, tìm đến với cái nôi thiên nhiên bình yên, nhưng càng đi càng thấy heo hút :
Đi rồi, khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạt tiếng còn tịch liêu …
Trơ vơ buồn lọt quán chiều
Mái nghiêng nghiêng gửi buồn heo hút người
(Đẹp xưa)
+ Trong Lửa thiêng còn có thời gian hiện tại. Hiện tại là điểm xuất phát của hành trình tìm về quá khứ. Quá khứ là ước mơ, còn hiện tại là nỗi buồn.
Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỉ
Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa
Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ
Tình rộng quá đời không biên giới nữa
(Tình tự)
Với Huy Cận hiện tại ấy là thời gian chiều : Chiều tê cúi đầu, Chiều mồ côi, Chiều vĩnh biệt, Chiều quạnh quẽ, Chiều tận thế,…
- Nắng chia nửa bãi chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ xếp đối lá rầu Ngậm ngùi)
- Chàng yêu lắm nên bị đời hắt hủi
Chàng yêu lâu nên thiên hạ lìa xa
Chàng tự tình bằng những khúc bi ca
Chàng tâm sự với buổi chiều quạnh quẽ. (Mai sau)
- Ai chết đó ? Nhạc sầu chi lắm thế
Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương
Của cuộc đời ? Ai rút tự trong xương
Tiếng nức nở gửi gió đường quạnh quẽ
Sầu chi lắm trời ơi chiều tận thế
(Nhạc sầu)
- Thời gian nghệ thuật trong Lửa thiêng đã góp phần bộc lộ niềm khát khao chảy bỏng và cũng là nỗi thất vọng lớn của Huy Cận. Nhà thơ khao khát bất tử cùng thời gian khi tìm về quá khứ loài người, mơ gặp hồn ta trong vũ trụ; nhưng cuối cùng chỉ thấy bóng mình đổ dài bơ vơ trên con đường thời gian vô tận:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu
(Ê chề)
2. Vũ trụ ca:
Vũ trụ ca là cuộc hành trình tâm thức thi ca đến với một không gian thanhcao trong sạch, miền đất hứa của một linh hồn trong trẻo:
Sóng tự bờ đêm lên tới tấp
Trăng sao đưa đẩy nhịp vô cùng
Hai bờ sống chết đời ru võng
Trăng rộng, triều xa, gió cảm thông.
(Lượng vui)
Coĩ tiêu dao của Trang Tử.Þ
Trong Vũ trụ ca, không gian chủ yếu là không gian bầu trời:
Đi trong đêm rộng nghìn xa vắng
Ta đã theo sao đến đỉnh trời
Ta tạm nguôi quên buồn thế hệ
Tâm tư bè bạn gió trăng ơi.
(Tao phùng)
Vũ trụ ca mang ý nghĩa giải thoát về tinh thần:
Ta đi về đâu ta chẳng biết
Chỉ biết trời xanh là ta say
(Xuân hành)
nhưng đậm chất Đạo gia và có tính chất ảo tưởng.
3. Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời: Những tập thơ này đã khẳng định một bước tiến mới trong cảm xúc tư tưởng thơ Huy Cận. Hồn thơ ông hướng về những người lao động, nói thay họ vẻ đẹp của niềm vui lao động:
Rồng không bay ở bốn đầu mái rạ
Nhưng cuộc đời dưới mái đã về ta.
(Thợ mộc)
Và ngợi ca vẻ đẹp hài hòa trong đời, sự cảm nhận sâu sắc sự hòa hợp giữa người và người trong xã hội.
4. Những năm sau mươi, Chiến trường gần đến chiến trường xa, Ngày hằng sống ngày hằng thơ: Ca ngợi chủ nghĩa yêu nước anh hùng, tầm vóc thời đại của dân tộc ta. Con người nhìn nhận trong mối quan hệ với quê hương đất nước, chiều dài lịch sử dân tộc:
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa
Trong và thật : sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa.
(Đi trên mảnh đất này)
5. Ngôi nhà giữa nắng, Hạt lại gieo, Chim làm ra gió, Lời tâm nguyện cùng hai thế kỉ (ít tiếng vang)
6. Điều đáng nói, thơ Huy Cận sau cách mạng tháng Tám vẫn là nỗi khắc không gian. Hồn thơ Huy Cận hướng vào không gian mà giao hòa với tạo vật, và nghe ngóng sức sống đang lên lặng thầm mà mạnh mẽ từ sâu thẳm linh hồn tạo vật vũ trụ:
Nghe nhân thơm trong trái nặng
Nghe nhựa ấm trong cành thưa.
Ông cảm nhận về biển:
Trưa kim cương biển chóa hồn ta
Nước long lanh xuống tự thiên hà
(Biển)
Thuyền không giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm
(Đảo)
Cái vui đầu sóng buồn chan sóng
Cùng lặn chiều hôm nét đỏ au
(Ta viết bài thơ gọi biển về)
Hai bờ sống chết đời ru võng
Trăng rộng, triều xa, gió cảm thông
Cảm nhận Kim Tự tháp:
Mênh mông sa mạc. Cát làm ngày
Cát làm đêm nữa. Trăng phơi cát
Sao sáng đằng xa hay cát bay.
(Trò chuyện với Kim Tự tháp)
Thời tươi trẻ nằm nghiêng vì giân tủi
Nay ta đi cái nghiêng ấy hờn ai
Hờn tạo hóa bày ra chi bóng tối
Sao tâm linh phải mang hận hình hài. Tóm lại, Huy Cận là nhà thơ của tình đời tình người và tình yêu sự sống. Điều đó thể hiện qua tư duy thơ, tư duy nghệ thuật: nhìn cuộc đời qua sự sống cỏ cây. Đó là cái nhìn thế giới đậm dấu ấn tinh thần dân tộc.
III. Kết luận
1. Cả cuộc đời cầm bút, Huy Cận làm say lòng người chỉ với "Lửa thiêng" bởi ở đấy ta gặp một cái tôi trữ tình chân thành và gáu xúc cảm:
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Gió trăng ơi nay còn nhớ người chăng?
Hơn một lần chàng đã gửi cho trăng
Nỗi hiu quạnh của hồn buồn vô cớ
Thuở chàng sống thì lòng chàng hay nhớ
Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa?
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa?
Cùng đất nước mà nặng buồn sông núi? (Mai sau)
2. Thơ Huy Cận kết tinh tiếng nói của nhiều miền đất nước. Thơ ông thấm đẫm tinh thần dân tộc nhưng vẫn rất hiện đại. “Huy Cận đi lượm những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ vì một ít cát bụi tầm thường thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc” (Hoài Thanh).
3. “Khi chiếm lĩnh cuộc sống bằng thơ, Huy Cận đã lấy hồn mình làm chất liệu. Đẩy nó lên đến tột cifng con đường Thơ mới nói chung, còn với thi sĩ nói riêng đã biến đổi cái hiện thực khách quan ấy bằng việc lộn trái nó ra, nhúng tất cả vào không gian tâm trạng của riêng mình” (Lê Bảo).
1. Tiểu sử:
- Huy Cận tên là Cù Huy Cận, sinh ngày 31-5-1919, tại Đức Ân, Đức Thọ, Hà Tĩnh; trong một gia đình nông dân nghèo.
- Học vỡ lòng ở quê. Năm 1939 vào Huế học tú tài, tham gia viết một số bài bình luận văn học đăng ở báo Tràng An, Sông Hương với bút danh: Hán Quỳ.
- Năm 1938, đăng thơ bài “Chiều xưa”; Tháng 11- 1940, xuất bản tập thơ Lửa thiêng (3000 bản).
- Tháng 6 năm 2001 được bầu Viện sĩ viện Hàn lâm thế giới về thơ tại Vêrona - Italia.
2. Sự nghiệp văn chương:
a. Trước năm 1945: Lửa thiêng (1940), Vũ trụ ca, Kinh cầu tự (1942).
b. Sau năm 1945 - 1975: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960),Bài thơ cuộc đời (1963), Những năm sáu mươi (1968), Từ chiến trường gần đến chiến trường xa (1973), Ngày hằng sống ngày hằng thơ (1975).
Thơ viết cho thiếu nhi: Hai bàn tay em (1967), Phù Đổng thiên vương(1968), Thiếu niên anh hùng họp mặt (1973).
c. Sau năm 1975: Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984), Chim làm ra gió (1991), Lời tâm nguyện cùng hai thế kỉ (1997).
II. Hành trình thơ Huy Cận:
1. Lửa thiêng:
a. Huy Cận bước vào thi đàn bằng tâm hồn đa cảm, đa sầu; bằng nỗi khắc khoải không gian “hóa thân của thiên đường, của sự hòa đồng nguyên thủy thuở xưa” (Đỗ Lai Thúy). Huy Cận, nhà thơ của “một chiếc linh hồn nhỏ - Mang mang thiên cổ sầu” ấy đã dâng tặng đời tập thơ Lửa thiêng. Đúng như cái tên của nó, dù tập thơ có chĩu nặng lòng sầu nhân thế; nhưng Lửa thiêng trước sau vẫn là một ngọn lửa thiêng, ngọn lửa tâm linh thơ, một nguồn sáng của “niềm tin vào lương tri con người” (Hà Minh Đức). Do đó mà Huy Cận đã nhìn thấy được bóng dáng xưa của ngọn nguồn dân tộc, cảm được mạch sầu vũ trụ, nhịp buồn nhân gian và nhận ra bản thể của con người trong sự sống của thiên nhiên:
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn
(Buồn đêm mưa)
Hay:
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa
Cùng đất nước và nặng buồn sông núi
(Mai sau)
Nỗi buồn của Lửa thiêng là nỗi buồn của một hồn thơ yêu đời, yêu sống, của một tình yêu quê hương tha thiết của thi nhân.
Tâm thức thi nhân trong Lửa thiêng luôn hướng tới đấng thiêng liêng để nói về nỗi đau khổ của kiếp người, của thân phận chính mình:
Hỡi thượng đế tôi cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi là một kiếp đi hoang
Sầu đã chín xin người thôi hãy hái
Nhận tôi đi dầu địa ngục thiên đàng.
Huy Cận nhìn đâu cũng thấy con người tội đồ, một bản thể tội lỗi luôn tự sám vì thấy sự ham muốn đam mê là nguồn cội khổ đau:
Tôi đâu biết thịt xương là sông núi
Chia biệt người ra từng xứ cô đơn
(Trình bày)
A thân thể một cái bình tội lỗi
Đất sơ sinh đã hóa lại bùn lầy
(Thân thể)
Thân quá nặng nên hồn sa xuống thấp
Chớ giận chi những kẻ mất thiên đường
(Thân thể)
Cũng như các tác giả văn học lãng mạn khác, Huy cận nhìn thế giới có sự phân cực: trần thế và thiên đường; con người đối lập hồn với xác. Trong Lửa thiêng phần hồn là lương tri, là sự tự ý thức của nhà thơ.
Huy Cận tìm về nẻo xưa, thời xưa, nhưng không là cảm hứng hoài cổ quen thuộc trong thơ ca trung đại. Thơ Huy Cận tuy buồn, nhưng thanh thóat, cảm xúc và nghĩ suy về cuộc đời.
Lửa thiêng nói nhiều đến hiện tại đầy thấm thía và xót xa.
b. Quan niệm nghệ thuật về con người trong Lửa thiêng:
- Huy Cận đặt con người trong quan hệ thể xác với linh hồn, thực và mộng. Nhà thơ thường nói đến “thân”, nhưng quan tâm nhất vẫn là “lòng”, “tấm lòng”, tình đời tình người sâu nặng. Từ cảm hứng thương thân chuyển dịch đến cảm hứng thương lòng. Thương thân là ý thức thực tại. Thương lòng là ý thức sự cô đơn giữa đời.
Nhưng cô độc đã thầm ghi trên trán
Lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh
(Trình bày)
Lòng chàng xưa chốn nọ với nơi này
Đây hay đó chỉ dựng chòi cô độc
(Mai sau)
Thơ Huy Cận thường nói đến khái niệm “lòng”: lòng hoảng hốt, lòng lạnh, lòng ru, lòng sầu, lòng buồn, lòng quạnh hiu,... Nhưng ông không trách đời, trách người mà tự trách, cắt nghĩa buồn đau từ bản chất tâm hồn mình:
Vì ta đợi cho nên người chẳng đến
Người ta xa, xa từ buổi sơ sinh
(Bi ca)
Chàng yêu lắm nên bị người hắt hủi
Chàng yêu lâu nên thiên hạ lìa xa.
(Mai sau)
- Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Huy Cận là con người tấm lòng. Nếu Xuân Diệu cảm thụ thế giới bằng các giác quan mà đặc biệt là cảm giác thì Huy Cận cảm thụ thế giới chủ yếu bằng tâm hồn, bằng tấm lòng rộng mở suy tư. Con người tấm lòng là một phương diện tạo nét độc đáo trong quan niệm nghệ thuật của Huy Cận trong Lửa thiêng.
Cảm nhận thế giới bằng tâm hồn nên thơ Huy Cận “hồn” tràn ra đến mênh mang. Đó là : hồn tôi, hồn em, hồn xưa, hồn quen, hồn bơ vơ, hồn lưu lạc, hồn đơn chiếc, hồn goá bụa, hồn nhớ thương, hồn bằng ngọc, hồn yên tĩnh,…
- Hồn bơ vơ tôi đi dạo giữa đời
(Cầu khẩn)
- Hồn bơ vơ không biết tựa vào đâu
(Trò chuyện)
- Hồn tôi đây thiên hạ bỏ lìa xa
(Trình bày)
- Linh hồn tôi goá bụa
Đơn chiếc giữa trần gian
(Ê chề)
- Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển
Suốt một đời như núi đứng riêng tây
(Mai sau)
Theo quan niệm của Huy Cận, hồn là yếu tố tinh thần gắn liền với niềm tin và lương tri của con người, là thế giới trong sáng thanh cao đối lập với cuộc đời trần tục.
- Con người trong thơ Huy Cận là con người linh hồn được nghiệm sinh theo ba hướng : Không gian – thời gian, thiên đường – quá khứ, trần gian hiện tại. Và cuối cùng, con người linh hồn neo đậu ở tọa độ quá khứ - trời xưa:
- Đêm mơ lay ánh trăng tàn
Hồn xưa gởi tiếng thời gian trống dồn
(Chiều xưa)
- Da chiều mới tỏ sao Hôm
Màu thanh thiên đã vào ôm giữa hồn
… Gió qua là ngọn triều lên
Hiu hiu gió đẩy thuyền trên biển trời
Chở hồn lên tận chơi vơi
Trăm chèo của Nhạc muôn lời của Thơ
Quên thân như đã quên giờ
Tê mê cõi biếc bến bờn là đâu
(Trông lên)
Và giữa trời xưa ấy, hồn thơ Huy Cận trú ngụ trong thiên nhiên và đã gặp hồn dân tộc.
c. Không gian nghệ thuật:
Tuy vậy, Lửa thiêng cũng là một mảnh hồn tươi trẻ của Huy Cận nên có những bài thơ trong trẻo, hồn nhiên. Với Huy Cận, tấm lòng đẹp nhất đáng nâng niu nhất là tấm lòng của tuổi học trò mơ mộng, bởi đấy là khoảng thời gian mà : “Lòng mới nở giữa tay đời ấm áp”. Đó là thuở mộng thần tiên :
- Gió thổi sân trường chiều chủ nhật
- Ôi! Thời thơ bé tuổi mười lăm
Nắng hoe rải nhặt hoa trên đất
Đời dịu vừa như nguyệt trước rằm
(Học sinh)
- Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa, em đến mắt như lòng
Mở bừng ánh sáng, em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước toả hồng
(Áo trắng)
Đây là một không gian mở rộng, không gian của sự giao cảm, giao hoà tâm tình. Bên cạnh Tựu trường, Học sinh, Áo trắng; còn có những bài thơ như Tự tình, Đi giữa đường thơm, Ngậm ngùi, ... Huy Cận đã đưa con người từ cõi thực vào cõi mộng:
+ Đi giữa đường thơm: Nhà thơ đưa người đọc đi từ không gian làng quê đến với không gian tấm lòng (Lòng sẵn giắt ít hương hoa tưởng tượng), chiếc cầu nối hai bờ hư thực. Và rồi, tâm hồn con người như đắm chìm trong thế giới phi không gian và phi thời gian.
Cả không gian hồn hậu rất thơm tho
Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ.
+ Ngậm ngùi: Từ không gian vườn hoang bàng bạc sắc nắng chia hai, sẻ nửa; nhà thơ dẫn dắt người đọc vào thế giới của giấc mơ hòa hợp tình yêu:
Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây
Lòng anh mở với quạt này
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Sự hòa cảm tâm hồn ấy đã thu hẹp dần cõi thinh không bát ngát vào trong hồn người, và hồn người chỉ còn là:
Hồn em đã chín mấy mùa buồn đau
Và:
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.
Lửa thiêng có không gian nội tâm thông giao với không gian ngoại cảnh tạo nên sự hoà quyện giữa thực và ảo, giữa cảnh và tình, giữa hồn với hồn. Hồn thơ Huy Cận luôn chiếm lĩnh không gian tầng cao, không gian đa chiều mà Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu.
d. Thời gian nghệ thuật
- Khi Đỗ Lai Thuý nhận xét hồn thơ Huy Cận là hồn thơ khắc khoải không gian, không có nghĩa trong thơ của ông không có niềm bâng khuâng về thời gian. Chỉ có điều : thời gian nghệ thuật trong thơ ông được chuyển hoá vào không gian, tạo thành một hồn thơ náu mình trong không – thời gian hoà quyện.
- Thơ Huy Cận vẫn có nét rưng rưng về thời gian, vẫn có cảm giác thời gian : thời gian vũ trụ và thời gian trần thế, nhưng thời gian nhân thế là cảm giác nổi trội nhất.
Nhà thơ hình dung cuộc đời của mỗi người là những chặng hành trình qua không gian và trong vòng thời gian nhân thế. Đời người luôn vận hành chuồi theo dòng chảy của thời gian nhân thế, dòng chảy của cuộc đời.
+ Trong Lửa thiêng, Huy Cận hay nói đến “đời”, “dòng đời”. Thời gian nhân thế vừa thuận chiều với thời gian vũ trụ nhưng vừa lặp lại theo vòng luân hồi của những kiếp người. Và khi thời gian kiếp người lặp lại thì thời gian tự nhiên ngừng trôi, lúc ấy con người có thể gặp lại người xưa, trò chuyện với người xưa. Như thế, thời gian nghệ thuật trong Lửa thiêng là thời gian quá khứ.
Quá khứ ấy có thể là quá khứ gần và quá khứ xa. Nhưng dù thế nào chăng nữa thì hồn thơ Huy Cận trong Lửa thiêng luôn mải miết lội người dòng thời gian nhân thế để tìm hồn xưa và hoài niệm những chặng đời tươi đẹp trong quá khứ. Đấy là thuở niên thiếu, tuổi áo trắng nhiều cảm xúc và lắm mộng mơ. Cho nên, nhà thơ sống ở thực tại mà tưởng nghĩ nhiều đến thời tươi ấy bằng niềm hoài nhớ da diết và đẩy thời ấy đến mút cuối của thời gian quá khứ:
- Gió thổi sân trường chiều chủ nhật
Ôi thời thơ bé tuổi mười lăm
(Học sinh)
- Giờ náo nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương
Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường
Rương nhỏ nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
(Tựu trường)
Tâm trạng hoài niệm quá khứ của Huy Cận không chỉ dừng lại ở một đời người mà còn hướng tới quá khứ xa xưa của loài người. Trong tâm thức của nhà thơ, thời xưa xa ấy, loài người đã sống một cuộc sống êm đềm hạnh phúc mà ngày này đã vỡ rạn, không còn nữa:
Nghìn năm trước thuở các người mơ mộng
Yêu trăng sao và thương nhớ gió mây
Mê giai nhân, liễu mảnh với hồ đầy
Màu năm tháng cũng ngậm ngùi thế nhỉ
(Trò chuyện)
Thuở ấy con người hoan ca cùng vũ trụ, giao hoà cùng tạo vật thiên nhiên. Thuở ấy tâm hồn con người luôn bằng an hạnh phúc, không bâng khuâng nhớ trời rộng sông dài, không giằng xé giữa hai bờ thực mộng.
Thời khắc đang đi nhịp thái bình
Dịu dàng gió nhạt thổi mây xanh
Hàng cây mở ngọn kêu chim đến
Hạnh phúc xem như chuyện đã đành
(Bình yên)
Thuở ấy nhịp thời gian êm ả lắm, tạo nên Đẹp xưa, Chiều xưa thật bình yên, trong đó không gian êm đềm quyện hoà với thời gian man mác để hồn xưa trú ngụ :
Đêm mơ lay ánh trăng tàn
Hồn xưa gửi tiếng thời gian trống dồn
(Chiều xưa)
Trong không thời gian thuở xa xưa ấy, hồn thơ Huy Cận như một kẻ lữ thứ cô đơn trên hành trình tìm về nguồn cội loài người, tìm đến với cái nôi thiên nhiên bình yên, nhưng càng đi càng thấy heo hút :
Đi rồi, khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạt tiếng còn tịch liêu …
Trơ vơ buồn lọt quán chiều
Mái nghiêng nghiêng gửi buồn heo hút người
(Đẹp xưa)
+ Trong Lửa thiêng còn có thời gian hiện tại. Hiện tại là điểm xuất phát của hành trình tìm về quá khứ. Quá khứ là ước mơ, còn hiện tại là nỗi buồn.
Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỉ
Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa
Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ
Tình rộng quá đời không biên giới nữa
(Tình tự)
Với Huy Cận hiện tại ấy là thời gian chiều : Chiều tê cúi đầu, Chiều mồ côi, Chiều vĩnh biệt, Chiều quạnh quẽ, Chiều tận thế,…
- Nắng chia nửa bãi chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ xếp đối lá rầu Ngậm ngùi)
- Chàng yêu lắm nên bị đời hắt hủi
Chàng yêu lâu nên thiên hạ lìa xa
Chàng tự tình bằng những khúc bi ca
Chàng tâm sự với buổi chiều quạnh quẽ. (Mai sau)
- Ai chết đó ? Nhạc sầu chi lắm thế
Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương
Của cuộc đời ? Ai rút tự trong xương
Tiếng nức nở gửi gió đường quạnh quẽ
Sầu chi lắm trời ơi chiều tận thế
(Nhạc sầu)
- Thời gian nghệ thuật trong Lửa thiêng đã góp phần bộc lộ niềm khát khao chảy bỏng và cũng là nỗi thất vọng lớn của Huy Cận. Nhà thơ khao khát bất tử cùng thời gian khi tìm về quá khứ loài người, mơ gặp hồn ta trong vũ trụ; nhưng cuối cùng chỉ thấy bóng mình đổ dài bơ vơ trên con đường thời gian vô tận:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu
(Ê chề)
2. Vũ trụ ca:
Vũ trụ ca là cuộc hành trình tâm thức thi ca đến với một không gian thanhcao trong sạch, miền đất hứa của một linh hồn trong trẻo:
Sóng tự bờ đêm lên tới tấp
Trăng sao đưa đẩy nhịp vô cùng
Hai bờ sống chết đời ru võng
Trăng rộng, triều xa, gió cảm thông.
(Lượng vui)
Coĩ tiêu dao của Trang Tử.Þ
Trong Vũ trụ ca, không gian chủ yếu là không gian bầu trời:
Đi trong đêm rộng nghìn xa vắng
Ta đã theo sao đến đỉnh trời
Ta tạm nguôi quên buồn thế hệ
Tâm tư bè bạn gió trăng ơi.
(Tao phùng)
Vũ trụ ca mang ý nghĩa giải thoát về tinh thần:
Ta đi về đâu ta chẳng biết
Chỉ biết trời xanh là ta say
(Xuân hành)
nhưng đậm chất Đạo gia và có tính chất ảo tưởng.
3. Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời: Những tập thơ này đã khẳng định một bước tiến mới trong cảm xúc tư tưởng thơ Huy Cận. Hồn thơ ông hướng về những người lao động, nói thay họ vẻ đẹp của niềm vui lao động:
Rồng không bay ở bốn đầu mái rạ
Nhưng cuộc đời dưới mái đã về ta.
(Thợ mộc)
Và ngợi ca vẻ đẹp hài hòa trong đời, sự cảm nhận sâu sắc sự hòa hợp giữa người và người trong xã hội.
4. Những năm sau mươi, Chiến trường gần đến chiến trường xa, Ngày hằng sống ngày hằng thơ: Ca ngợi chủ nghĩa yêu nước anh hùng, tầm vóc thời đại của dân tộc ta. Con người nhìn nhận trong mối quan hệ với quê hương đất nước, chiều dài lịch sử dân tộc:
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa
Trong và thật : sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa.
(Đi trên mảnh đất này)
5. Ngôi nhà giữa nắng, Hạt lại gieo, Chim làm ra gió, Lời tâm nguyện cùng hai thế kỉ (ít tiếng vang)
6. Điều đáng nói, thơ Huy Cận sau cách mạng tháng Tám vẫn là nỗi khắc không gian. Hồn thơ Huy Cận hướng vào không gian mà giao hòa với tạo vật, và nghe ngóng sức sống đang lên lặng thầm mà mạnh mẽ từ sâu thẳm linh hồn tạo vật vũ trụ:
Nghe nhân thơm trong trái nặng
Nghe nhựa ấm trong cành thưa.
Ông cảm nhận về biển:
Trưa kim cương biển chóa hồn ta
Nước long lanh xuống tự thiên hà
(Biển)
Thuyền không giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm
(Đảo)
Cái vui đầu sóng buồn chan sóng
Cùng lặn chiều hôm nét đỏ au
(Ta viết bài thơ gọi biển về)
Hai bờ sống chết đời ru võng
Trăng rộng, triều xa, gió cảm thông
Cảm nhận Kim Tự tháp:
Mênh mông sa mạc. Cát làm ngày
Cát làm đêm nữa. Trăng phơi cát
Sao sáng đằng xa hay cát bay.
(Trò chuyện với Kim Tự tháp)
Thời tươi trẻ nằm nghiêng vì giân tủi
Nay ta đi cái nghiêng ấy hờn ai
Hờn tạo hóa bày ra chi bóng tối
Sao tâm linh phải mang hận hình hài. Tóm lại, Huy Cận là nhà thơ của tình đời tình người và tình yêu sự sống. Điều đó thể hiện qua tư duy thơ, tư duy nghệ thuật: nhìn cuộc đời qua sự sống cỏ cây. Đó là cái nhìn thế giới đậm dấu ấn tinh thần dân tộc.
III. Kết luận
1. Cả cuộc đời cầm bút, Huy Cận làm say lòng người chỉ với "Lửa thiêng" bởi ở đấy ta gặp một cái tôi trữ tình chân thành và gáu xúc cảm:
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Gió trăng ơi nay còn nhớ người chăng?
Hơn một lần chàng đã gửi cho trăng
Nỗi hiu quạnh của hồn buồn vô cớ
Thuở chàng sống thì lòng chàng hay nhớ
Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa?
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa?
Cùng đất nước mà nặng buồn sông núi? (Mai sau)
2. Thơ Huy Cận kết tinh tiếng nói của nhiều miền đất nước. Thơ ông thấm đẫm tinh thần dân tộc nhưng vẫn rất hiện đại. “Huy Cận đi lượm những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ vì một ít cát bụi tầm thường thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc” (Hoài Thanh).
3. “Khi chiếm lĩnh cuộc sống bằng thơ, Huy Cận đã lấy hồn mình làm chất liệu. Đẩy nó lên đến tột cifng con đường Thơ mới nói chung, còn với thi sĩ nói riêng đã biến đổi cái hiện thực khách quan ấy bằng việc lộn trái nó ra, nhúng tất cả vào không gian tâm trạng của riêng mình” (Lê Bảo).
1. Huy Cận tham gia vào hoạt động văn chương khi còn học bậc
Thành chung. Với bút danh Hán Quỳ, ông đã viết một số bài bình luận văn học
đăng ở báo Tràng An, báo Sông Hương. Năm 1938, ông đăng bài thơChiều xưa trên báo Ngày Nay, số Tết. Sự nghiệp thơ ca
của Huy Cận có thể chia là hai giai đoạn như sau :
Trước năm 1945, Huy Cận trình thông hành để bước vào làng văn với tập Lửa thiêng (1940).
Trước năm 1945, Huy Cận trình thông hành để bước vào làng văn với tập Lửa thiêng (1940).
Tập thơ được xem là một trong những tập “toàn
bích nhất của giai đoạn 1932 – 1945”. Với hơn 50 bài thơ, tập thơ đã khẳng định
tầm vóc cao lớn của Huy Cận trên thi đàn thơ mới. Và dù có là đứa con đầu lòng,
nhưng tập thơ đã thực sự kết tinh những đặc điểm cơ bản của hồn thơ Huy Cận,
“một hồn thơ “mang linh hồn trời đất” và mang nặng tình đời, tình người và tình
yêu sự sống” (Xuân Diệu).
Sau năm 1945, Huy Cận tưởng như đã có lúc để cho cây bút tạm nghỉ trên hành trình sáng tác, nhưng thực ra đó là thời gian ông dùng để tích nhựa cho hồn thơ của mình. Đến năm 1958, nhà thơ đã bước tiếp trên con đường sáng tạo dài hơn nửa thế kỉ. Với độ chín của tài năng và tư tưởng cảm xúc, nhà thơ đã trở thành một cây đại thụ của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Và chính từ mùa thơ mới này, ông đã gửi lại cho đời một gia tài thơ đồ sộ gồm 20 tập.
Sau chuyến đi thực tế dài ngày ở Quảng Ninh, nhà thơ đã ra mắt bạn đọc những tập thơ : Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa(1960), Bài thơ cuộc đời (1963). Ba tập thơ đã thể hiện sự tìm tòi, thể nghiệm, đổi mới nghệ thuật thơ của nhà thơ. Ở những tập thơ này, hồn thơ Huy Cận rộng mới hơn, đời đã ùa vào tạo cho thơ nhiều sinh lực hơn. Thơ không còn là nỗi buồn của cái tôi đi một một mình giữa trời đất bao la nữa. Trong thơ, cái tôi của nhà thơ say sưa, hoan ca cùng mọi người trong nhịp đời lao động mới, trong mối quan hệ gắn bó với cộng đồng xã hội. Cảm xúc thơ của ông đã hướng đến những mảnh đời, những số phận cụ thể đang lớn lên, đang hồng hào da thịt, đang tắm mát giữa suối nguồn hạnh phúc trong cuộc đời chung.
Tập Hai bàn tay em (1967) là một tập thơ tiêu biểu trong những tập thơ viết cho thiếu nhi của nhà thơ Huy Cận. Đây là mảng thơ có hương vị đặc biệt, thấm đẫm tấc lòng thiết tha của nhà thơ đối với trẻ thơ, đối với cuộc đời. Cái tôi trữ tình của Huy Cận đã hoá thân vào những cô bé cậu bé hồn nhiên, ngây thơ để khám phá thế giới qua những hình ảnh ngộ nghĩnh : hai bàn tay cãi nhau, cuộc chơi trốn tìm với dế, hay “gió phùng má thổi”,…
Những tập thơ : Những năm sáu mươi (1968), Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973), Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975),…Thông qua số phận cá nhân để khái quát lên vẻ đẹp của cộng đồng và dân tộc. Đó là hài hoà giữa anh hùng và nghệ sĩ, giữa khí phách với lòng nhân ái của con người Việt Nam. Các tập thơ đã thể hiện cái nhìn của nhà thơ về con người trong mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, từ đó khẳng định sức mạnh của dân tộc trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc. Riêng Ngày hằng sống, ngày hằng thơ là sự tiếp nối mạch thơ vui đằm thắm ngợi ca lao động dựng xây, ca ngợi cuộc sống tươi sáng. Hồn thơ Huy Cận vẫn hài hoà điệu sống của con người, của cây trái mùa màng bằng một tấm lòng trẻ tráng, hiền hoà và tha thiết thiết mê say.
Từ năm 1975, Huy cận vẫn cần mẫn gieo hạt đều đặn trong vườn thơ ông. Và hạt đã nẩy mầm đâm chồi vươn lên thành những tập thơ :Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984), Chim làm ra gió (1991),Lời tâm nguyện cùng hai thế kỉ (1997),…
Tóm lại, với đời thơ dài, hồn thơ đã chín, Huy Cận đã có những mùa gặt vui thi ca trên cánh đồng đất nở hoa. Thơ ông thực sự có bản sắc riêng, một phong cách thơ thực sự ổn định, không thể trộn lẫn với ai, càng không bị nhoè mờ đi trước hình sắc thơ của các tác giả khác. Thơ Huy Cận đã có sự kết hợp hài hoà giữa hai nền văn hoá Đông – Tây, vừa mang sức sống mạnh mẽ của truyền thống, vừa có hơi thở và dấu ấn của thời đại mới.
Sau năm 1945, Huy Cận tưởng như đã có lúc để cho cây bút tạm nghỉ trên hành trình sáng tác, nhưng thực ra đó là thời gian ông dùng để tích nhựa cho hồn thơ của mình. Đến năm 1958, nhà thơ đã bước tiếp trên con đường sáng tạo dài hơn nửa thế kỉ. Với độ chín của tài năng và tư tưởng cảm xúc, nhà thơ đã trở thành một cây đại thụ của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Và chính từ mùa thơ mới này, ông đã gửi lại cho đời một gia tài thơ đồ sộ gồm 20 tập.
Sau chuyến đi thực tế dài ngày ở Quảng Ninh, nhà thơ đã ra mắt bạn đọc những tập thơ : Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa(1960), Bài thơ cuộc đời (1963). Ba tập thơ đã thể hiện sự tìm tòi, thể nghiệm, đổi mới nghệ thuật thơ của nhà thơ. Ở những tập thơ này, hồn thơ Huy Cận rộng mới hơn, đời đã ùa vào tạo cho thơ nhiều sinh lực hơn. Thơ không còn là nỗi buồn của cái tôi đi một một mình giữa trời đất bao la nữa. Trong thơ, cái tôi của nhà thơ say sưa, hoan ca cùng mọi người trong nhịp đời lao động mới, trong mối quan hệ gắn bó với cộng đồng xã hội. Cảm xúc thơ của ông đã hướng đến những mảnh đời, những số phận cụ thể đang lớn lên, đang hồng hào da thịt, đang tắm mát giữa suối nguồn hạnh phúc trong cuộc đời chung.
Tập Hai bàn tay em (1967) là một tập thơ tiêu biểu trong những tập thơ viết cho thiếu nhi của nhà thơ Huy Cận. Đây là mảng thơ có hương vị đặc biệt, thấm đẫm tấc lòng thiết tha của nhà thơ đối với trẻ thơ, đối với cuộc đời. Cái tôi trữ tình của Huy Cận đã hoá thân vào những cô bé cậu bé hồn nhiên, ngây thơ để khám phá thế giới qua những hình ảnh ngộ nghĩnh : hai bàn tay cãi nhau, cuộc chơi trốn tìm với dế, hay “gió phùng má thổi”,…
Những tập thơ : Những năm sáu mươi (1968), Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973), Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975),…Thông qua số phận cá nhân để khái quát lên vẻ đẹp của cộng đồng và dân tộc. Đó là hài hoà giữa anh hùng và nghệ sĩ, giữa khí phách với lòng nhân ái của con người Việt Nam. Các tập thơ đã thể hiện cái nhìn của nhà thơ về con người trong mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, từ đó khẳng định sức mạnh của dân tộc trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc. Riêng Ngày hằng sống, ngày hằng thơ là sự tiếp nối mạch thơ vui đằm thắm ngợi ca lao động dựng xây, ca ngợi cuộc sống tươi sáng. Hồn thơ Huy Cận vẫn hài hoà điệu sống của con người, của cây trái mùa màng bằng một tấm lòng trẻ tráng, hiền hoà và tha thiết thiết mê say.
Từ năm 1975, Huy cận vẫn cần mẫn gieo hạt đều đặn trong vườn thơ ông. Và hạt đã nẩy mầm đâm chồi vươn lên thành những tập thơ :Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984), Chim làm ra gió (1991),Lời tâm nguyện cùng hai thế kỉ (1997),…
Tóm lại, với đời thơ dài, hồn thơ đã chín, Huy Cận đã có những mùa gặt vui thi ca trên cánh đồng đất nở hoa. Thơ ông thực sự có bản sắc riêng, một phong cách thơ thực sự ổn định, không thể trộn lẫn với ai, càng không bị nhoè mờ đi trước hình sắc thơ của các tác giả khác. Thơ Huy Cận đã có sự kết hợp hài hoà giữa hai nền văn hoá Đông – Tây, vừa mang sức sống mạnh mẽ của truyền thống, vừa có hơi thở và dấu ấn của thời đại mới.
2. Phong cách nghệ thuật thơ :
Giữa vườn thơ mới, Huy Cận đã tạo được cho mình một luống hoa riêng, đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của ông. Có thể điểm một vài nét đặc điểm phong cách thơ ông như :
- Hồn thơ Huy Cận rất dồi dào và đa dạng. Hồn thơ ông từ xót xa trước phận người cô đơn giữa đời, giữa đất trời đến vui cùng nhân dân trước cuộc đời như đất nở hoa, như bài thơ ngọt lịm hương mật tình yêu sự sống. Thơ ông dù có màu buồn hay sắc vui đều là tiếng nói yêu thương cuộc đời tha thiết, là lòng gắn bó sâu sắc với truyền thống dân tộc, là sự giao hoà giữa rộng rãi với vũ trụ, tạo vật thiên nhiên đất trời. Nhà thơ yêu đời nên thở dài xa xót trước nỗi cô đơn của con người trước vũ trụ “Không cầu gợi chút niềm thân mật – Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Nhà thơ yêu đời ngay cả khi đời cay đắng: “Yêu đời biết mấy cho bưa – Cả khi cay đắng đời chưa hết tình”.
- Hình thức thơ đa dạng, nhưng nhuần nhị nhất vẫn là thể thơ lục bát, thể thơ bảy chữ, tám chữ của dân tộc. Lục bát là thể thơ thấm đượm “hơi thở của giống nòi” đã được Huy Cận kế thừa và phát triển tạo được một vẻ đẹp mới. Lục bát Huy Cận cô đọng, đông đặc nhưng không bí hiểm. Lục bát Huy Cận mượt mà nhưng sâu lắng. Có người cho rằng thơ lục bát Việt Nam có ba giai đoạn : lục bát ca dao, lục bát Nguyễn Du và lục bát Huy Cận. Nói như vậy cũng có cái lí của nó nhất là đối với thể lục bát trong thơ Huy Cận. Với ông, lục bát đã thấm vào hồn từ thuở nhỏ với những bài ví dặm 5 chữ xen những câu lục bát và lục bát Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở trở thành giai điệu vấn vương hồn ông. Thử lẫy ra đây một số bài để cảm nhận vẻ đẹp lục bát thơ của ông. Chiều xưa là bức tranh buồn thuở trước đã làm sống dậy tinh thần Á Đông qua những câu lục bát ngắn mà cách ngắt nhịp biến đổi tài tình : Ngàn năm sực tỉnh, lê thê - Trên thành non nhạt. Chiều tê cúi đầu.Ngậm ngùi là bài lục bát toàn bích, giàu chất thơ, giàu nhạc điệu, và giàu không gian : Nắng chia nửa bãi chiều rồi - Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu - Sợi buồn con nhện giăng mau - Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây. Buồn đêm mưa là biến tấu của điệu thức mưa. Những câu thơ lục bát như chao nghiêng theo tiếng mưa. Tiếng mưa do đó mà vang nhẹ như một cung đàn mau thưa, như một tiếng trò chuyện cùng vũ trụ nhỏ dần rồi vang vọng : Đêm mưa là nhớ không gian - Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la - Tai nương nước giọt mái nhà - Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn. Đẹp xưa là một bức tranh chấm phá những nét đẹp tạo vật thiên nhiên như một bức hoạ cổ nổi lên trong khung tranh lục bát đơn giản mà điêu luyện : Vi vu gió hút nẻo vàng - Một trời thu rộng mấy hàng mây nao.
- Thơ Huy Cận giàu chất triết lí qua nỗi khắc khoải không gian. Đi vào thế giới thơ Huy Cận, ta như sống trong cảm giác không gian. Không gian như rải ra rộng ngát trong thơ và trong hồn người. Đó là không gian mưa (Buồn đêm mưa), không gian vườn hoang (Ngậm ngùi), không gian con đường (Đi giữa dường thơm), không gian thiên đường đã mất (Đẹp xưa, Chiều xưa, …),… Sau năm 1958 , không gian đậm nhất là không gian đời : Không gian biển (Đoàn thuyền đánh cá), không gian mưa xuân (Mưa xuân trên biển), không gian chùa (Các vị La hán chùa Tây Phương), không gian Kim tự tháp (Trò chuyện với Kim tự tháp),… Không gian trong thơ Huy Cận được vẽ ra bằng năm giác quan nên giàu sức biểu cảm. Và cũng vì thế, không gian thơ tưởng chừng cụ thể nhưng hoá ra mơ mộng, mang ý nghĩa triết học sâu sắc về con người cuộc đời và vũ trụ. Ở Lửa thiêng, không gian là cõi biếc “hoá thân Thiên đường”. Nhà thơ như ở trong mặt đất cuộc sống lắm bụi trần mà hoài niệm đến “tê mê cõi biếc” biểu tượng của chân – thiện – mĩ, Thiên đường đã mất. Không gian Thiên đường ấy là không gian của nhạc và thơ, của cái đẹp mãi hút lấy tâm hồn hoài vọng tha thiết của thi sĩ : “Chở hồn lên tận chơi vơi – Trăm chèo của nhạc muôn lời của thơ” (Trông lên). Đến những vần thơ sau 1945, nhà thơ vẫn không thôi cảm giác không gian. Không gian mãi là câu hỏi triết lí nhân sinh mãi day dứt hồn trí ông. Đó là không gian thiền học – La Hán, nhưng cũng là không gian đời - chúng sinh : Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau – Quay theo tám hướng hỏi trời sâu – Một câu hỏi lớn. Không lời đáp – Cho đến bây giờ mặt vẫn chau (Các vị La Hán chùa Tây Phương). Đó là của một triết lí anh hùng mang màu sắc Việt Nam : Chẳng biết không gian ở đây có tất cả mấy chiều – Nhưng chắc chắn có chiều sâu sự thật – Những nhà hầm như cuộc sống soi gương (Chào Vĩnh Linh đất thánh). Và đó cũng là không gian nhức nhối câu hỏi phận người : Cát kêu lên nỗi hoài vọng lớn lao – Là cái chết khô, cát muốn hoá tế bào – Của tươi mát, thịt da, hoa lá – Thấy cái sống muốn mọc từ cát đá (Trò chuyện cùng Kim tự tháp).
- Một hồn thơ hiện đại mà rất cổ điển :
Nếu Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong tất cả những nhà thơ mới thì Huy Cận là nhà thơ có công tô bồi cho lâu đài thơ mới càng thêm lồng lộng sáng đẹp. Là một nhà thơ mới nhưng Huy Cận đã hoà vào đòng chảy của thơ mới một cách nhuần nhị những yếu tổ cổ điển của văn học trung đại Việt Nam, của Đường thi. Trong nỗi niềm “mang mang thiên cổ sầu” của người phương Đông xưa trước con người và vũ trụ, nhà thơ lồng vào đấy nỗi cô đơn của con người cá nhân ý thức cái tôi cá thể vừa tiếp thu được từ triết học và thơ ca phương Tây. Đúng như Vũ Ngọc Phan đã chỉ ra vẻ đẹp riêng của thơ Huy Cận qua Đẹp xưa, Tràng giang, Thu rừng, một vẻ đẹp trong sáng, thanh tao, cổ kính mang đậm phong vị Đường thi”: Nai cao gót lẫn sương mù – Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về - Sắc trời trôi nhạt dưới khe – Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng… . Cái tôi cá thể từ văn hoá văn học Pháp bước xuống cuộc đời để rồi cảm nhận nỗi cô đơn, bất lực của mình, nên ngoái nhìn về phía quê nhà, về phía truyền thống, mong cầu được sống vói cái ta làng xã ngày xưa. Thơ ông, do đó mà có sự hoà hợp giữa thi pháp thơ Đường với thi pháp thơ tượng trưng Pháp.
Giữa vườn thơ mới, Huy Cận đã tạo được cho mình một luống hoa riêng, đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của ông. Có thể điểm một vài nét đặc điểm phong cách thơ ông như :
- Hồn thơ Huy Cận rất dồi dào và đa dạng. Hồn thơ ông từ xót xa trước phận người cô đơn giữa đời, giữa đất trời đến vui cùng nhân dân trước cuộc đời như đất nở hoa, như bài thơ ngọt lịm hương mật tình yêu sự sống. Thơ ông dù có màu buồn hay sắc vui đều là tiếng nói yêu thương cuộc đời tha thiết, là lòng gắn bó sâu sắc với truyền thống dân tộc, là sự giao hoà giữa rộng rãi với vũ trụ, tạo vật thiên nhiên đất trời. Nhà thơ yêu đời nên thở dài xa xót trước nỗi cô đơn của con người trước vũ trụ “Không cầu gợi chút niềm thân mật – Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Nhà thơ yêu đời ngay cả khi đời cay đắng: “Yêu đời biết mấy cho bưa – Cả khi cay đắng đời chưa hết tình”.
- Hình thức thơ đa dạng, nhưng nhuần nhị nhất vẫn là thể thơ lục bát, thể thơ bảy chữ, tám chữ của dân tộc. Lục bát là thể thơ thấm đượm “hơi thở của giống nòi” đã được Huy Cận kế thừa và phát triển tạo được một vẻ đẹp mới. Lục bát Huy Cận cô đọng, đông đặc nhưng không bí hiểm. Lục bát Huy Cận mượt mà nhưng sâu lắng. Có người cho rằng thơ lục bát Việt Nam có ba giai đoạn : lục bát ca dao, lục bát Nguyễn Du và lục bát Huy Cận. Nói như vậy cũng có cái lí của nó nhất là đối với thể lục bát trong thơ Huy Cận. Với ông, lục bát đã thấm vào hồn từ thuở nhỏ với những bài ví dặm 5 chữ xen những câu lục bát và lục bát Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở trở thành giai điệu vấn vương hồn ông. Thử lẫy ra đây một số bài để cảm nhận vẻ đẹp lục bát thơ của ông. Chiều xưa là bức tranh buồn thuở trước đã làm sống dậy tinh thần Á Đông qua những câu lục bát ngắn mà cách ngắt nhịp biến đổi tài tình : Ngàn năm sực tỉnh, lê thê - Trên thành non nhạt. Chiều tê cúi đầu.Ngậm ngùi là bài lục bát toàn bích, giàu chất thơ, giàu nhạc điệu, và giàu không gian : Nắng chia nửa bãi chiều rồi - Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu - Sợi buồn con nhện giăng mau - Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây. Buồn đêm mưa là biến tấu của điệu thức mưa. Những câu thơ lục bát như chao nghiêng theo tiếng mưa. Tiếng mưa do đó mà vang nhẹ như một cung đàn mau thưa, như một tiếng trò chuyện cùng vũ trụ nhỏ dần rồi vang vọng : Đêm mưa là nhớ không gian - Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la - Tai nương nước giọt mái nhà - Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn. Đẹp xưa là một bức tranh chấm phá những nét đẹp tạo vật thiên nhiên như một bức hoạ cổ nổi lên trong khung tranh lục bát đơn giản mà điêu luyện : Vi vu gió hút nẻo vàng - Một trời thu rộng mấy hàng mây nao.
- Thơ Huy Cận giàu chất triết lí qua nỗi khắc khoải không gian. Đi vào thế giới thơ Huy Cận, ta như sống trong cảm giác không gian. Không gian như rải ra rộng ngát trong thơ và trong hồn người. Đó là không gian mưa (Buồn đêm mưa), không gian vườn hoang (Ngậm ngùi), không gian con đường (Đi giữa dường thơm), không gian thiên đường đã mất (Đẹp xưa, Chiều xưa, …),… Sau năm 1958 , không gian đậm nhất là không gian đời : Không gian biển (Đoàn thuyền đánh cá), không gian mưa xuân (Mưa xuân trên biển), không gian chùa (Các vị La hán chùa Tây Phương), không gian Kim tự tháp (Trò chuyện với Kim tự tháp),… Không gian trong thơ Huy Cận được vẽ ra bằng năm giác quan nên giàu sức biểu cảm. Và cũng vì thế, không gian thơ tưởng chừng cụ thể nhưng hoá ra mơ mộng, mang ý nghĩa triết học sâu sắc về con người cuộc đời và vũ trụ. Ở Lửa thiêng, không gian là cõi biếc “hoá thân Thiên đường”. Nhà thơ như ở trong mặt đất cuộc sống lắm bụi trần mà hoài niệm đến “tê mê cõi biếc” biểu tượng của chân – thiện – mĩ, Thiên đường đã mất. Không gian Thiên đường ấy là không gian của nhạc và thơ, của cái đẹp mãi hút lấy tâm hồn hoài vọng tha thiết của thi sĩ : “Chở hồn lên tận chơi vơi – Trăm chèo của nhạc muôn lời của thơ” (Trông lên). Đến những vần thơ sau 1945, nhà thơ vẫn không thôi cảm giác không gian. Không gian mãi là câu hỏi triết lí nhân sinh mãi day dứt hồn trí ông. Đó là không gian thiền học – La Hán, nhưng cũng là không gian đời - chúng sinh : Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau – Quay theo tám hướng hỏi trời sâu – Một câu hỏi lớn. Không lời đáp – Cho đến bây giờ mặt vẫn chau (Các vị La Hán chùa Tây Phương). Đó là của một triết lí anh hùng mang màu sắc Việt Nam : Chẳng biết không gian ở đây có tất cả mấy chiều – Nhưng chắc chắn có chiều sâu sự thật – Những nhà hầm như cuộc sống soi gương (Chào Vĩnh Linh đất thánh). Và đó cũng là không gian nhức nhối câu hỏi phận người : Cát kêu lên nỗi hoài vọng lớn lao – Là cái chết khô, cát muốn hoá tế bào – Của tươi mát, thịt da, hoa lá – Thấy cái sống muốn mọc từ cát đá (Trò chuyện cùng Kim tự tháp).
- Một hồn thơ hiện đại mà rất cổ điển :
Nếu Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong tất cả những nhà thơ mới thì Huy Cận là nhà thơ có công tô bồi cho lâu đài thơ mới càng thêm lồng lộng sáng đẹp. Là một nhà thơ mới nhưng Huy Cận đã hoà vào đòng chảy của thơ mới một cách nhuần nhị những yếu tổ cổ điển của văn học trung đại Việt Nam, của Đường thi. Trong nỗi niềm “mang mang thiên cổ sầu” của người phương Đông xưa trước con người và vũ trụ, nhà thơ lồng vào đấy nỗi cô đơn của con người cá nhân ý thức cái tôi cá thể vừa tiếp thu được từ triết học và thơ ca phương Tây. Đúng như Vũ Ngọc Phan đã chỉ ra vẻ đẹp riêng của thơ Huy Cận qua Đẹp xưa, Tràng giang, Thu rừng, một vẻ đẹp trong sáng, thanh tao, cổ kính mang đậm phong vị Đường thi”: Nai cao gót lẫn sương mù – Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về - Sắc trời trôi nhạt dưới khe – Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng… . Cái tôi cá thể từ văn hoá văn học Pháp bước xuống cuộc đời để rồi cảm nhận nỗi cô đơn, bất lực của mình, nên ngoái nhìn về phía quê nhà, về phía truyền thống, mong cầu được sống vói cái ta làng xã ngày xưa. Thơ ông, do đó mà có sự hoà hợp giữa thi pháp thơ Đường với thi pháp thơ tượng trưng Pháp.
Hoàng Dục







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét