Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2025

Về tình hình phê bình văn học ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay

Về tình hình phê bình văn học ở
Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay

Ngày 2.12.2024, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức Đại hội khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên nhiệm kỳ XI (2025-2030) tại Trường Đại học Cửu Long. Nhà phê bình văn học Lê Xuân ở Cần Thơ đã có vài ý kiến về tình hình lý luận phê bình hiện nay ở Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung. Tiếp tục vấn đề này, ông gửi đến một bài viết công phu cho chuyên mục “Ý kiến hội viên” hướng tới Đại hội toàn quốc Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ XI, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Nghiên cứu lý luận Phê bình văn học (PBVH) là một vấn đề khó, đòi hỏi người viết phải có một trình độ lý luận và một kiến thức tổng hợp trên nhiều phương diện. Và đặc biệt, cần phải có một nhãn quan chính trị tinh nhạy, một quan điểm đúng đắn để “lấy hồn ta hiểu hồn người” (Hoài Thanh). Ở thời nào cũng vậy, văn học không thể thoát ly cuộc sống. Muốn hay không văn học từ cái “Tôi” cá thể, thông qua hình tượng nghệ thuật tác động tới con người và cuộc sống, góp phần mở rộng tầm mắt, nâng cao tâm hồn con người.

Công việc PBVH đòi hỏi người viết phải thấu hiểu tác phẩm, tác giả, khen chê phải khách quan vô tư, không để những tình cảm thân quen hay vụ lợi lấn át, nhằm động viên người sáng tác phát huy mặt mạnh và thấy được những mặt còn yếu kém để khắc phục. Hiện nay có tình trạng là người viết PBVH rất ngại bị “đụng chạm”, sợ bị người khác quy chụp. Trên các Báo và Tạp chí ta thường thấy xuất hiện ba loại nhà PBVH. Một là loại phê bình cánh hẩu, tâng bốc nhau. Hai là loại phê bình bới lông tìm vết, chụp mũ. Ba là loại phê bình “dĩ hòa vi quý”, khen chê chung chung. Cả ba loại nhà PBVH trên đều không nên có ở một nền văn học chân chính. Còn nếu cứ để tình trạng thả nổi về mặt PBVH như hiện nay, ai muốn viết gì cứ viết, thì PBVH sẽ đi về đâu?

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất có bề dày lịch sử, giàu tiềm năng, có truyền thống văn học đáng tự hào với những danh nhân: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Lê Quang Chiểu, Hồ Bửu Chánh, Trang Thế Hy… Các nhà văn lớp trước và các nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã làm giàu thêm truyền thống văn học của địa phương. Nhưng hiện nay có một nghịch lý là số người viết PBVH rất ít, mới dừng ở mức “điểm tác phẩm” hay “giới thiệu sách” ở dạng thông tin báo chí. Trong khi đó rất nhiều tác phẩm của các hội viên ra đời mà PBVH chưa làm được vai trò “bà đỡ” hay “hướng đạo” cho tác giả.

Đội ngũ các nhà thơ, nhà văn ĐBSCL khá hùng hậu: Các nhà thơ, nhà văn lớp trước như: Lê Chí, Nguyễn Bá, Phù Sa Lộc, Nguyễn An Bình, Huỳnh Duy Lộc (Cần Thơ), Trịnh Bửu Hoài, Hồ Thanh Điền, Từ Nguyên Thạch, Ngô Khắc Tài, Nguyễn Lập Em (An Giang), Kim Ba, Vũ Hông (Bến Tre), Đinh Thị Thu Vân (Long An), Song Hảo (Vĩnh Long), Lê Đình Trường (Cà Mau), Phan Trung Nghĩa (Bạc Liêu), Diệp Mai (Kiên Giang), Trần Dũng (Trà Vinh)…

Các nhà văn, nhà thơ lớp sau hùng hậu hơn, như: Trúc Linh Lan, Nguyễn Trung Nguyên, Nhật Hồng, Đặng Hoàng Thám, Hồ Kiên Giang, Cao Thanh Mai, Huyền văn, Kim Thanh, Huệ Thi, Hoàng Khánh Duy, Phan Duy (Cần Thơ), Nguyễn Đức Phú Thọ, Lê Quang Trạng, Vĩnh Thông, Trương Chí Hùng, Võ Diệu Thanh (An Giang), Thai Sắc, Hữu Nhân, Nguyễn Phước Thảo (Đồng Tháp), Lê Đức Đồng (Sóc Trăng), Trương Trọng Nghĩa, Võ Tấn Cường, Nguyễn Thanh Hải (Tiền Giang) Thái Hồng, Hồ Tĩnh Tâm, Văn Quốc Thanh (Vĩnh Long), Nguyễn Ngọc Tư, Lê Minh Nhật, Nguyễn Thị Việt Hà, Huỳnh Thúy Kiều (Cà Mau), Nguyễn Phấn Đấu (Long An)…

Về mặt hạn chế của một số tác giả ĐBSCL là vốn tri thức, lý luận và thâm nhập thực tiễn chưa nhiều nên tác phẩm ít có sức khái quát chiều rộng lẫn chiều sâu. Phần lớn các tác phẩm thơ cũng như truyện còn nặng về tường thuật, miêu tả, kể lể, giãi bày tâm sự đơn thuần. Sự tìm tòi, khám phá để có sự cách tân về ngôn ngữ, thể loại còn yếu. Số tác giả viết tiểu thuyết còn rất ít. Một số tác giả đã để lại được dấu ấn cho bạn đọc như: Nguyễn Ngọc Tư, Võ Diệu Thanh, Trương Trọng Nghĩa, Trần Dũng, Trúc Linh Lan, Trương Chí Hùng, Hồ Kiên Giang, Huỳnh Thúy Kiều, Nguyễn Thị Việt Hà, Vĩnh Thông, Hoàng Khánh Duy không nhiều.

Riêng tác giả viết PBVH ở ĐBSCL chỉ có Võ Tấn Cường (Tiền Giang), Lê Xuân (Cần Thơ). Anh Võ Tấn Cường hiện nay thiên về sáng tác thơ và nhạc. Mảng PBVH  ở khu vực ĐBSCL còn rất thiếu và yếu. Người viết còn quá mỏng, chưa tương xứng với sự phát triển của văn học địa phương, ít dẫn đường cho người cầm bút đi đúng quỹ đạo sáng tác. Ngoài tác giả Võ Tấn Cường và Lê Xuân thường viết thì một số tác giả khác thỉnh thoảng có bài, như: Trần Phỏng Diều, Huỳnh Văn Nguyệt, Nguyễn Thanh, Bảo Bình (Cần Thơ), Trầm Thanh Tuấn (Trà Vinh), Nguyên Tùng (Bến Tre), Trần Minh Thương (Hậu Giang), Nguyễn Lam Điền, Nguyễn Văn Nở, Nguyễn Kim Châu, Tạ Đức Tú (Đại học Cần Thơ), Nguyễn Minh Ca, Tăng Tấn Lộc (Đại học Tây Đô). Phần lớn các bài viết là chuyên đề hội thảo, hoặc luận văn Thạc sĩ, Tiến sĩ tóm lược vài trang, hoặc điểm sách. Bài viết mới dừng lại ở mức “bàn thêm” về thi pháp, truyện, thơ, hoặc bình thơ, hoặc giới thiệu thân thế sự nghiệp tác giả.

Người viết PBVH hiện nay ngại đụng chạm những vấn đề “nhạy cảm” của xã hội, của dân tộc. Một số người có ý định trở thành nhà PBVH chuyên nghiệp cũng gác bút, quay sang sáng tác thơ, truyện dễ đăng báo, tạp chí. Nguyên Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, Hữu Thỉnh có lần đã nói: “Hiện nay chúng ta đang “đốt đuốc” đi tìm nhà PBVH”. Có lẽ đó cũng là tình trạng chung của cả nước.

Để người viết PBVH ở khu vực ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung có thể làm tốt việc Phê và Bình đúng nghĩa của nó thì rất cần một “cơ chế” thoáng. Ở đây xin có đôi điều bàn thêm về phương cách lãnh đạo đối với văn học của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Trước hết là việc đầu tư kinh phí của địa phương và sự hỗ trợ của Trung ương cho hoạt động văn học còn quá ít. Hội Nhà văn các tỉnh ĐBSCL chưa làm tốt công tác “xã hội hóa” nên ít có “mạnh thường quân” hỗ trợ. Đầu tư cơ sở vật chất, cơ chế chính sách cho văn học là không thể thiếu, nhưng quan trọng hơn là những người lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ở địa phương chưa thật sự khơi dậy trong tâm hồn nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo và đánh giá đúng những giá trị văn hóa tinh thần mà tác phẩm đem lại.

Đã một thời do cách nhìn nhận, đánh giá văn học theo lối tư duy xơ cứng, máy móc làm tổn thương không ít một số nhà văn. Hiện tượng Nguyễn Ngọc Tư  ở Cà Mau với “Cánh đồng bất tận” là một ví dụ. Và sau nhiều tranh luận thì tác phẩm mới được khẳng định và sau này được chuyển thể thành phim truyện. Hay như bài  thơ “Tháp Chàm” của nhà thơ Nguyễn Trung Nguyên (Chủ tịch Hội nhà văn Càn Thơ hiện nay), có câu “Ta thấy Tháp Chàm run rẫy khóc”. (Có cán bộ quản lý VHNT của Ban Tuyên giáo bảo là “Tại sao thời này Tháp Chàm còn run rẫy khóc”? Bài thơ cần gỡ bỏ). Hoặc bài thơ “Trăng nghẹn” của cố nhà thơ Hoài Tường Phong đoạt giải Nhất cuộc thi thơ ĐBSCL năm 2010 do Hội VHNT Cần Thơ đăng cai, cũng phải xóa giải Nhất khi chuẩn bị trao giải vào đêm Nguyên tiêu, vì có cán bộ Tuyên giáo bảo “ĐBSCL giải phóng sau 20 năm sao lại còn những yếu kém đó, thơ như vậy là nói xấu con người và vùng đất này. Trăng bây giờ phải sáng chứ sao lại “trăng nghẹn”? Trong khi đó Ban chung khảo là những nhà thơ có uy tín như: Trịnh Bửu Hoài, Kim Ba, Đinh Thị Thu Vân, Phạm Sĩ Sáu, dưới sự theo dõi góp ý của cố nhà văn Lê Văn Thảo (lúc đó nguyên là Phó Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam). Thật “cười ra nước mắt”. Một số người quản lý văn học chưa hiểu hết đặc trưng, chức năng của văn học nghệ thuật là hư cấu bằng hình tượng nghệ thuật để phản ánh hiện thực cuộc sống và con người xã hội nên đã “đánh đồng” giữa hình tượng nghệ thuật và hiện thực.

Một tác phẩm văn học sau khi ra đời phải cần một thời gian để chính cuộc sống thẩm định giá trị của tác phẩm đó. Khi đã trải qua sóng gió của dư luận khen chê, sàng lọc, ta sẽ thấy tác phẩm đó tốt hay xấu. Nhìn nhận, đánh giá văn học của những người làm công tác quản lý văn học cần có thời gian và rất cần sự cảm thụ, thẩm định tinh tế. Đánh giá đúng giá trị văn hóa đích thực của tác phẩm là một trong những yếu tố chắp cánh cho những tài năng phát triển. Ngược lại, sự quy chụp vội vàng hoặc đánh giá tác phẩm, tác giả theo cảm nhận chủ quan hời hợt, sẽ sa vào “chụp mũ”, “giáo điều” dễ làm thui chột tài năng, ức chế cảm hứng sáng tạo, hơn thế còn làm giản khoảng cách về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà văn.

Sự lãnh đạo của Đảng cần đi theo thể chế  năng động, để nhà văn có chân trời mới sáng tạo. Cửa đã mở nhưng các nhà văn ĐBSCL trong những năm qua chưa có sự bứt phá theo cơ chế thị trường. Thị trường văn học chưa theo kịp thị trường kinh tế. Tác phẩm văn học chưa biến được thành “hàng hoá” để chiếm lĩnh thị trường tinh thần của công chúng. ĐBSCL chưa có được nhiều tác phẩm để chinh phục đọc giả. Đó là sự hụt hẫng về kế thừa đội ngũ văn học ở ĐBSCL.

Hiện nay các phương tiện thông tin đại chúng phát triển như vũ bão. Báo hình, báo nói, các trang web, blog… mỗi ngày xuất hiện hàng ngàn bản. Trong khi đó, các nhà văn, nhà thơ vẫn còn trông chờ nhà nước “bao cấp” để in ấn tác phẩm. Và khi tác phẩm in ra cũng không phát hành và cạnh tranh được với các loại sản phẩm văn hoá khác từ bên ngoài tràn vào. Ở Cần Thơ có một tác giả in tập thơ tái bản 2 lần (năm 2013) với tổng số 3.500 bản, bán lời được vài chục triệu. Còn phần lớn các tác giả ở ĐBSCL chỉ in từ 200- 500 bản, để biếu, tặng người thân, bạn bè, có tác giả chỉ in 100 cuốn hoặc tự in bằng vi tính (xuất bản nội bộ). Nội dung nhiều tác phẩm còn mờ nhạt, chưa có dấu ấn. Đọc vài trang đã hiểu ý định nhà văn và ta có thể đoán được bước đi của nhân vật.

Thơ thì nhiều bài na ná giống nhau, nhất là thơ của các Câu lạc bộ văn học phường, xã, Câu lạc bộ Người cao tuổi.  Trái lại, có nhà văn viết theo đơn đặt hàng cho một số nhà sách tư nhân theo kiểu “mì ăn liền” lại sống đựơc, vì chiều theo thị hiếu một số độc giả, như tác giả Nguyễn Thị Thanh Huệ ở Cần Thơ đã viết trên 20 tác phẩm thơ, truyện, tiểu thuyết, có năm xuất bản 5 tiểu thuyết liền. Đó cũng là câu hỏi cần được chính nhà văn tự lý giải và các nhà lãnh đạo văn học cần lưu ý.

Viết về những vấn đề tiêu cực, nhạy cảm còn rất ít. Đảng ta từ trước đến nay không cấm các tác giả viết về những vấn đề tiêu cực của xã hội, như: phê phán cái xấu, cái ác, đấu tranh chống tham nhũng, hối lộ. Nhưng viết thế nào để từ đó khẳng định được cái tốt, cái đẹp, hướng độc giả tới Chân, Thiện, Mỹ mới là điều cần làm, cần suy nghĩ. Bởi vì ranh giới giữa sự phê phán và đả kích là rất mong manh. Hình tượng văn học lại đa nghĩa. Vì vậy, nếu người cầm bút không vững tay là sẽ mập mờ giữa ranh giới phê phán và đả kích. Và, nếu người lãnh đạo văn học hoặc người phụ trách nhà xuất bản không sáng suốt thì có khi một tác phẩm tốt bị “xếp xó”. Đơn cử như tiểu thuyết “Điếc mũi” của nhà văn, nhà báo Sáu Nghệ (Phạm Duy Tương) ở Cần Thơ gửi đi mấy NXB nhưng không được cấp phép, vì cho là “có vấn đề nhạy cảm” nhưng khi sửa chữa chút ít thì được NXB Hội Nhà văn cấp phép. Tác phẩm được bạn đọc hoan nghênh vì dám nói những mặt tiêu cực, tham nhũng của một số các bộ ở địa phương và Trung ương thông qua hình tượng văn học đã hư cấu một cách hợp lý.

Bởi vậy, nhiều tác giả cứ viết theo kiểu tô hồng, ca ngợi mặt tích cực một chiều, ngại đụng chạm những vấn đề gai góc, bức xúc của xã hội, nên người đọc không muốn đọc những tác phẩm loại ấy. Hiện nay, thị trường văn học không chấp nhận những tác phẩm nói chung chung, nhàn nhạt. Trên Tạp chí văn nghệ các tỉnh ĐBSCL thấy rất ít xuất hiện những tác phẩm gay cấn, phê phán sâu sắc bằng hình tượng nghệ thuật có tầm khái quát.

Đọc Tạp chí văn nghệ địa phương, cố nhà văn Lê Văn Thảo đã nhận xét: “Các tác giả ĐBSCL hiền quá, lành quá trong tác phảm văn học. Xin đừng cho rằng lãnh đạo địa phương quá khắt khe trong việc phê phán cái xấu, cái tiêu cực. Có những tác phẩm còn nhiều tranh cãi, cần có ý kiến định hướng của lãnh đạo, nhưng không vì thế mà coi đó là sự gò bó, áp đặt. Thật ra nhiều lãnh đạo rất mong muốn các nhà văn có những tác phẩm phê phán mặt xấu, mặt tiêu cực ở địa phương. Nhưng chính các nhà văn lại chưa có được những tác phẩm như thế. Các tác giả muốn làm được điều đó cần phải có vốn sống, tay nghề và bản lĩnh chính trị”.

Nhà thơ Lê Chí (Hội viên Hội Nhà văn VN) đã nhận định về Thơ: “Thơ thực sự là một nỗi ám ảnh. Nhiều lúc phải tự hỏi: Thơ là gì? Làm thế nào để viết được một câu thơ hay, một bài thơ nhiều người đồng cảm? Có thể ví thơ là độ rung tinh tế, sâu thẳm của tiếng đàn bầu được phát ra từ cảm thức của trái tim. Hay Thơ chỉ là sự cô đặc, mã hoá thành những tín hiệu, cần phải có chìa khoá của sự rung động và tri thức khác mới thưởng thức được? Vậy thì Thơ cần cho ai? Đôi lúc hoang mang, thấy chữ nào, câu nào trong thơ mình cũng vụng về, lê thê. Tôi nhận ra một điều mình đang tồn tại trong một hiện thực mà sự phức tạp, đa diện, đa chiều không cách gì có thể lý giải đầy đủ được. Điều này có thể ứng  với Thơ, trong khả năng hữu hạn về khối lượng ngôn từ. Bởi Thơ vốn ít chữ và vỏ Thơ thì mỏng lắm, chỉ chứa nổi những ấn tượng và xúc cảm – thế cũng đã là quá sức đối với Thơ rồi. Do vậy, tôi nghĩ dấu ấn không thể thiếu trong thơ mình là độ “bắt sáng” hiện thực cụ thể – điều kiện cho những “tia chớp”  của tứ thơ xuất hiện. Và thế là bài thơ đã có “đường dây” dẫn dắt”.

Còn cố nhà văn Nguyễn Khai Phong (Hội viên Hội Nhà văn Viêt Nam (nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn Cần Thơ), nhận định về đội ngũ sáng tác văn học ở ĐBSCL hiện nay: “Đội ngũ sáng tác văn học ở ĐBSCL có bước kế thừa và phát triển, văn xuôi mạnh hơn thơ, nhất là về truyện ngắn và ký. Nhiều tác giả đã xuất hiện trên tạp chí văn nghệ, trên báo trung ương và địa phương. Các cây bút trẻ còn ít, số hội viên lớn tuổi có phần chững lại, trong các cuộc thi thơ, truyện của Trung ương trên báo Văn Nghệ thì các tác giả ĐBSCL ít đạt giải cao”.

Các nhà lãnh đạo VHNT ở ĐBSCL cần tăng cường sự chỉ đạo để các Hội VHNT trong khu vực có sự liên kết, liên thông thường xuyên giữa các tỉnh và các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn, tổ chức các chuyên đề văn học, từ đó giúp nâng cao trình độ chuyên môn cho các  tác giả. Đặc biệt cần chú ý, quan tâm hơn nữa đối với các tác giả trẻ để có lực lượng kế thừa.

Các cán bộ chuyên ngành phụ trách văn hóa, xã hội của Ban Tuyên giáo, Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch các địa phường cần nâng cao hơn nữa về chuyên môn để có thể thẩm định các TPVH một cách khách quan trên cả hai mặt nội dung và tư tưởng. Hội đồng LLPB các tỉnh, thành phố cần có thêm thành viên có năng lực thẩm định văn chương để tham mưu, phản biện giúp lãnh đạo địa phương về sáng tác và PBVH. Đặc biệt phải thực hiện tốt hơn nữa NQ 23/BCT, quán triệt một cách đầy đủ, nhanh chóng, sâu sắc để các nhà văn có chỗ dựa về mặt chính sách và tinh thần trong sáng tạo văn học.

Tóm lại: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Việc chăm lo, phát hiện các tài năng văn học, tôn trọng quyền tự do sáng tạo cho nhà  văn phát huy tính độc lập để họ có tác phẩm hay, phục vụ cho sự nghiệp của đất nước và dân tộc, phản ánh một cách chân thực và hùng hồn về con người và mảnh đất có bề dày truyền thống văn hoá, lịch sử, giàu tiềm lực như ĐBSCL là rất cần thiết. Hy vọng trong tương lai gần ĐBSCL sẽ có những TPVH hiện đại, giàu tính nhân văn, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần làm đẹp, làm giàu kho tàng văn học khu vực ĐBSCL nói riêng và văn học nước nhà nói chung.

3/12/2024

Lê Xuân

Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Về tình hình phê bình văn học ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay

Về tình hình phê bình văn học ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay Ngày 2.12.2024, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức Đại hội khu vực Đồng bằng sô...