Thứ Ba, 18 tháng 10, 2016

Văn học là con đường càng đi càng xa, đi mãi không dừng

Văn học là con đường càng đi 
càng xa, đi mãi không dừng...
Nhằm tôn vinh những nhà văn đã có nhiều cống hiến cho văn học ở vùng đất Nam bộ, Hội Nhà văn TP. HCM vừa bắt đầu khởi động những cuộc hội thảo về cuộc đời và tác phẩm của họ. Và nhà văn Nguyễn Quang Sáng là người đầu tiên đã vinh dự được chọn. Một cuộc hội thảo về ông đã diễn ra thật hào hứng với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ ở trong và ngoài nước.
Trong sự nghiệp cầm bút, nhà văn Nguyễn Quang Sáng cho ra đời bốn tiểu thuyết, hơn mười tập truyện ngắn, hàng chục kịch bản phim. Năm 2000, ông được Chủ tịch nước trao tặng Giải thưởng HCM. Số lượng tác phẩm như trên chưa phải đồ sộ, song cái "chất văn" nổi bật tiêu biểu của một phong cách, phong cách Nguyễn Quang Sáng, thì đã được thừa nhận.
Tôi không bao giờ mơ tưởng mình trở thành nhà văn!
Đọc một truyện ngắn gần đây của Nguyễn Quang Sáng- Vểnh râu, nhà văn Tô Hoài nhận xét: "Lần này đọc của Sáng, tôi thấy đã thuần lắm của cốt cách văn phong một trung tâm- miền Nam là một trung tâm, mà trong văn không có cái nhàn nhạt chữ nghĩa dùng cho miền nào cũng được". Thành công nhất định ở tiểu thuyết, có năng khiếu viết kịch bản phim, thế mạnh thực sự ở truyện ngắn, Nguyễn Quang Sáng là một người kể chuyện bẩm sinh. Giọng kể hồn hậu, mộc mạc, tự nhiên, lôi cuốn như mảnh đất Nam bộ quê hương ròng ròng sự kiện, chất chứa nhiều bí ẩn. Không chỉ qua trang viết, giọng kể của nhà văn còn hấp lực cả khi được trực tiếp trò chuyện cùng ông.
Thưa ông, được biết ngay lần xuất hiện đầu tiên trên báo Văn nghệ năm 1956 với truyện ngắn Con chim vàng, ông liền được dư luận chú ý và đánh giá là cây bút văn xuôi có tài, đầy triển vọng. Trong văn chương, thành công ngay bước đầu như thế thật hiếm!
Tôi bắt đầu cầm bút từ năm 1952 lúc còn ở rừng U Minh thời đánh Pháp. Mãi đến năm 1956, truyện ngắn đầu tiên Con chim vàng mới được in trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam. Từ ấy đến nay tôi đã có được một số tác phẩm, vài giải thưởng nhưng tôi luôn tự hỏi mình đã thật là nhà văn hay chưa? Thiệt lòng tôi đến với nghề viết văn rất ngẫu nhiên. Từ nhỏ đến lớn tôi không bao giờ mơ tưởng mình trở thành nhà văn!
Không mơ tưởng nhưng cuối cùng vẫn trở thành nhà văn. một nhà văn nổi tiếng, tiêu biểu của Nam Bộ. Phải chăng trong ông tiềm ẩn một năng khiếu viết văn bẩm sinh?
Tôi không lý giải được. Có điều, thời học Trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố, tôi ngồi cùng bàn với Đoàn Thế Hối, tức về sau là nhà văn Lê Vĩnh Hòa; hai thằng rất thân nhau, mà Lê Vĩnh Hòa sớm bộc lộ năng khiếu văn chương, làm luận văn lúc nào cũng được thầy khen, còn tôi thì điểm chỉ tàm tạm. Lê Vĩnh Hòa có cây đàn banjo. Tôi chơi đàn này khá hay. Nhiều người nghĩ rằng chắc sau này tôi sẽ trở thành nghệ sĩ chơi đàn đi khắp miền sông rạch thời đánh Pháp. Có lần người yêu của tôi nghe tiếng đàn trên chiếc xuống ngang qua, biết là tiếng đàn của tôi, liền gọi...
Cuộc gặp gỡ một nữ tín đồ Hòa Hảo bí ẩn
Vậy duyên cớ nào ông bắt tay vào viết văn, thưa ông?
Chuyện tôi viết văn lạ lắm! Năm 1950, ra trường, tôi về Phòng chính trị Bộ Tư lệnh phân khu miền Tây Nam Bộ, làm công tác nghiên cứu về tôn giáo, cũng thường trực tiếp tham gia các chiến dịch. Năm 1951, tôi về Long Châu Hà thuộc tỉnh An Giang hoạt động trong những vùng của đồng bào tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và tình cờ gặp một nữ tín đồ Hòa Hảo mà mọi người gọi là cô Tư là nguyên nhân trực tiếp để tôi viết văn.
Một nữ tín đồ Hòa Hảo? Vậy giữa ông với...
(Cắt ngang) Chắc anh muốn hỏi mối quan hệ giữa tôi và cô Tư chớ gì? Không có mối quan hệ nào hết. Lúc đó, trên Bảy Núi có một con voi điên, phá phách dữ quá, bộ đội phải săn lùng. Đến một đỉnh núi, bỗng thấy một người đàn bà đang rút kiếm chống chọi với voi. Anh em bộ đội kịp bắn hạ con voi điên. Hỏi chuyện, người đàn bà không nói. Thấy lạ, bộ đội đưa cô về căn cứ. Khi gặp ông Huỳnh Văn Trí, tức Mười Trí, vốn là sư thúc Hòa Hảo đang lãnh đạo tín đồ đánh Pháp, người đàn bà mới chịu nói.
(Tôi đang hồi hộp nghe, thì nhà văn dừng lại uống một hớp trà, ngả lưng vào thành ghế salon, rít một hơi thuốc dài, rồi mới kể tiếp. Nhìn dáng dấp của ông, không hiểu sao lúc thì tôi cảm giác như đang ngồi trước một lão nông tri điền, lúc thì như một bậc tu sĩ vùng Thất Sơn!)
Người đàn bà ấy nguyên là một tín đồ Hòa Hảo yêu nước, thấy đạo mình chia năm sẻ bảy, bà chán đời bỏ lên núi cấm, tu và thề không nói chuyện với ai. Gặp được sư thúc Mười Trí, người đàn bà mà mọi người quen gọi là cô Tư ấy đã tình nguyện đi tuyên truyền vận động đồng bào Hòa Hảo theo kháng chiến đánh Pháp cứu nước. Cô Tư hết sức xông xáo, nhiệt tình vì nghĩa lớn. Một lần trên đường đi tuyên truyền, cô Tư bị địch bắn...
Một hình ảnh tín đồ Hòa Hảo yêu nước thật xúc động! Nhưng thưa ông, như trên đây ông nói, cô Tư là nguyên nhân trực tiếp để ông bắt đầu viết văn, nghĩa là thế nào?
Từ câu chuyện cô Tư mà tôi chợt nhớ đến quê tôi là làng Mỹ Luông, cũng là làng theo đạo Hòa Hảo và xảy ra nhiều bi kịch giữa nội bộ nông dân với nhau. Câu chuyện cô Tư cùng kỷ niệm quê hương đã làm nảy ra trong đầu tôi một cốt truyện tiểu thuyết, mà nhân vật chính là những tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Tôi hi vọng nếu viết được cuốn tiểu thuyết này sẽ thức tỉnh bà con Hòa Hảo thấy được bi kịch của chính mình, cùng nhau đi theo Đảng đánh Pháp.
Viết xong chết cũng được
Như vậy tác phẩm đầu tay thực sự của ông là một cuốn tiểu thuyết chứ không phải truyện ngắn?
Vâng, một tiểu thuyết. Câu chuyện nảy ra trong tôi vào một buổi chờ qua lộ Cái Sắn, một con lộ đồn bót giặc đóng giăng giăng. Tôi muốn nói kỹ về buổi chiều "lịch sử" này. Chúng tôi, một đoàn cán bộ hơn chục người, ngồi rải rác trong một mảnh vườn nhỏ, người ngồi dưới bụi chuối, người ngồi dưới gốc cây trâm bầu. Một buổi chiều yên ắng, không ai nói với ai, nếu có nói thì cũng thủ thỉ đủ nghe. Tôi bỗng nghe có tiếng huýt sáo bài Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong. Cho đến bây giờ, đã hơn bốn mươi năm, tôi vẫn nhớ người huýt sáo ấy là anh Minh, cán bộ Sở Giáo dục Nam Bộ. Tôi mường tượng thấy được giọng huýt sáo của anh như một làn khói mờ mờ lan tỏa trước mắt tôi. Và từ trong làn khói âm nhạc ấy, hình ảnh của câu chuyện rõ dần trong tâm trí tôi. Có lẽ từ đó, mà sau này, trước khi ngồi vào bàn viết, bao giờ tôi cũng nghe nhạc. Đang viết mà mất hứng, tôi lại nghe nhạc. Âm nhạc như gọi chữ nghĩa về với ngòi bút của tôi.
Trời sụp tối, trước khi băng qua lộ giữa hai bót giặc, tôi đã dựng xong trong đầu một câu chuyện dài. Khi về đến Bộ Tư lệnh, tôi dự định kể lại cho các văn nghệ sĩ viết; và sẵn sàng nấu trà cho mấy ổng uống. Lúc đó tôi nghĩ hễ là văn nghệ sĩ thì cái gì cũng viết được (cười)! Ngây ngô đến vậy! Cùng công tác ở phòng chính trị với tôi có nhà văn Sơn Nam, họa sĩ Hoàng Tuyển, nhà thơ Hoàng Tấn, nhà thơ Hoàng Phố, ca sĩ Quốc Hương... Nghe tôi kể, Hoàng Tấn và Hoàng Phố là hai nhà thơ nên không viết tiểu thuyết được. Còn Sơn Nam thì nói: "Vùng đó tao không biết. Tao thấy rặng cây của các làng Hòa Hảo từ xa thôi. Mày cũng có chữ nghĩa, viết đi!". Chẳng ai chịu viết, thế là tôi viết. Tôi nghĩ bằng mọi giá, tôi phải viết cho được quyển tiểu thuyết này. Viết xong chết cũng được.
Nhưng ông đã không chết, cũng không thôi được. Nghề nào cũng có cái "ma lực" của nghiệp ấy. Riêng câu chuyện tình cơ buổi đầu ông đến với văn chương cũng có thể dựng nên cả một cuốn tiểu thuyết. Bây giờ trở thành một trong những "đạo trưởng" làng văn rồi, có bao giờ ông nghĩ vả chăng đó cũng là số mệnh?
Theo tôi, đúng hơn là cơ duyên. Tôi là người không nghĩ mình viết được văn, không có năng khiếu, cũng không đam mê. Nhưng vì có câu chuyện mình tâm đắc, không ai chịu viết, nên buộc phải viết. Khi đã viết rồi thì như thấy mình trở thành một người khác. Nhiều lúc, tôi nghĩ, nếu không viết văn thì không biết làm nghề gì?
Vâng, đó cũng chính là niềm hạnh phúc của người cầm bút, khi trải được nỗi lòng mình lên trang giấy. Lần đầu viết văn, mà lại viết cả một cuốn tiểu thuyết, ông có gặp khó khăn lắm không?
Quá say mê, tôi viết liên miên một hơi ba trăm trang. Ở rừng thiếu giấy, tôi viết bằng giấy nhựt trình. Viết bên ngọn đèn dầu bên bờ kinh rừng U Minh, năm 1952. Viết xong, tôi đọc cho họa sĩ Hoàng Tuyển nghe. Anh khen hay, khuyến khích tôi viết tiếp. Kỷ niệm thời thơ ấu với cha mẹ, người thân, và cảnh vật quê hương cứ theo dòng mực tràn ngập trên trang viết. Cái làng Mỹ Luông của tôi nằm bên bờ sông Tiền thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên, nay là An Giang. Nó vừa thơ mộng vừa dữ dội. Từ làng tôi nhìn qua sông thấy rõ nhà thờ Cù Lao Giêng, nhà thờ Thiên Chúa giáo đầu tiên của Việt Nam,  trước cả nhà thờ Phát Diệm. Cù Lao Giêng cũng là đất văn vật, nơi sinh ra nhiều con người nổi tiếng sau này như: Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Hưởng, Nguyễn Ngọc Bạch, Hoàng Hiệp,...
Quê hương văn học
Xin ông nói rõ một chút về gia đình của mình
Cha tôi làm chủ lò thợ bạc, có trong nhà hai chiếc xe hơi. Bà con hay gọi cha tôi là cậu Hai. Khi về hoạt động cách mạng ở quê tôi, nhà cách mạng Châu Văn Liêm kết bạn thân với cha tôi. Mỗi lần đi Sài Gòn, Châu Văn Liêm hay ra nhà tôi ngủ để sáng đón xe. Làng tôi là mối đường cho cả một vùng của huyện Chợ Mới. Những làng xung quanh, ai muốn đi Sài Gòn cũng phải đến chợ làng tôi để đón tàu. Ngày nào tôi cũng nghe tiếng còi tàu, tiếng kèn xe hơi và tiếng vó ngựa gõ trên mặt đường. Muốn đi Sài Gòn phải qua bắc Mỹ Thuận, cách Sài Gòn gần hai trăm cây số, nhưng có thể nói Sài Gòn có cái gì thì làng tôi có cái nấy. Không có một đoàn hát nổi tiếng nào không về chợ làng tôi. Làng có trường gà, đôi ba năm lại có hội chợ. Có cả sân banh cho đội bóng chân giày. Nhà cách mạng Châu Văn Liêm là người xây dựng Chi bộ cộng sản đầu tiên tại làng Long Điền, giáp ranh với làng tôi. Để hoạt động cách mạng, nhà cách mạng lão thành Châu Văn Liêm đã tổ chức một đội bóng đá gọi là đội Mỹ Long, đội bóng của hai làng Long Điền và Mỹ Luông nhập lại, cha tôi là thủ quân.
Tôi kể về cái làng của làng tôi hơi nhiều vì đó là nơi chôn nhau cắt rún, vừa là quê hương văn học của tôi. Hầu như tất cả các nhân vật của tôi, tôi đều đưa họ về sống ở làng, cho "họ" tắm sông Cửu Long, cho "họ" đi trên con đường giữa vườn xoài, cho "họ" ngồi xuồng mùa nước lũ, cho "họ" hít thở cái không khí của làng... rồi sau đó "họ" mới bước vào trang giấy thành nhân vật của tôi. Người nào cũng mang ít nhiều màu sắc của một làng bên bờ sông Tiền. 
... Nghệ thuật không có cái đỉnh cuối cùng. Có những cái đỉnh càng leo càng gần, nhưng cái đỉnh của nghệ thuật, của văn học càng leo càng thấy xa. Với tôi, văn học là con đường càng đi càng xa, đi mãi không dừng...
Tôi nhớ năm 11-12 tuổi, ông già hay nhắc tôi về tấm gương trong sạch của nhà cách mạng Châu Văn Liêm. Những nhà cách mạng nổi tiếng cũng từng đặt chân qua làng tôi như Bác Tôn Đức Thắng, nhà cách mạng Ung Văn Khiêm v.v... Chú tôi là Đảng viên Cộng sản thế hệ đầu tiên những năm 1930. Phát hiện chú tôi mang truyền đơn về cất giấu, hội tề làng xã đến nhà tôi khám xét. Nể cha tôi, họ không bắt. Dù vậy, cha tôi cũng phải bỏ làng một mình lên Nam Vang kiếm sống. Mẹ tôi đau buồn sanh bệnh. Cha tôi từ ông chủ giờ đành phải đi làm thợ cho tiệm vàng Trái Tim Đỏ vốn rất nổi tiếng ở Phnom Penh. Từ ấy gia đình cũng bắt đầu suy sụp. Tôi học ở trường huyện Chợ Mới, mỗi kỳ nghỉ hè hay về chơi với bên nội. Nhà bên nội cách nhà tôi gần hai cây số. Sau này, tất cả dòng họ bên nội tôi đều theo đạo Hòa Hảo. Riêng cha tôi thì không. Do đó, từ một gia đình gắn bó thương yêu nhau đã xảy ra xung đột về tư tưởng, dẫn đến bi kịch.
Điều đó nhất định ảnh hưởng đến quãng đời thơ ấu của ông?
Chưa hiểu hết nhưng tôi cũng buồn lắm! Nhà nghèo, nhờ học giỏi, tôi được học bổng, học hết primaire năm 1944. Cũng năm đó, cha tôi từ Nam Vang trở về. Bà nội và mẹ đau nặng. Tôi đành nghỉ học đi bán thuốc lá dạo trong chợ kiếm tiền giúp gia đình. Biết tôi là con cậu Hai, giàu có một thời, giờ phải cơ cực, bà con ai cũng thương nên mua nhiều! Tuổi thơ tôi không còn nữa. Hơi chán đời, tôi bắt đầu lao vào đọc rất nhiều kinh Phật giáo Hòa Hảo, Tin Lành, Thiên Chúa. Sách gì liên quan đến đạo là tôi đọc. Đồng thời, lúc đó tôi cũng nghe mọi người "xì xầm" về Việt Minh, Cộng sản ở trong nhà mình. Rồi tôi lên tận Tân Châu vấn thuốc lá cho một người bạn cha tôi. Lại gặp một ông già đang lập đạo, lên cơ. Tôi tò mò...
Tuổi thơ của ông, của những người cùng thế hệ ông và trước nữa, mà tôi có dịp tiếp xúc, phỏng vấn đều có bi kịch. Có lẽ một phần nhờ đó mà họ dễ dàng tìm đến với cách mạng, làm nên sự nghiệp về sau. Với ông, con đường đến với cách mạng có gì đặc biệt không?
Cũng bình thường thôi. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, Nam bộ kháng chiến, tôi rời Tân Châu về quê, rồi đi Sa Đéc làm thơ ký cho một tiệm vàng. Ông chủ là bạn của cha tôi. Tháng 4 năm 1946 tôi gia nhập bộ đội làm liên lạc. Bây giờ nghĩ lại, phải nói thật rằng, tôi đi bộ đội không phải vì ham vui mà đi để tự giải phóng mình ra khỏi cái không khí u ám của xã hội lúc bấy giờ, đi với ý thức đánh Tây cứu nước, đi với một quả tim nồng nàn. Đơn vị tôi về sau thuộc cánh quân Liên chi D2K, hành quân từ Long Châu Sa (Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc) băng sông Tiền, qua sông Hậu, về U Minh, trấn giữ chiến trường Bảy Núi, tức Thất Sơn, mở nhiều chiến dịch.
Xuất hiện Con chim vàng… trở về Đất lửa
Trở lại với cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, nó có một số phận ra sao?
Năm 1954, tập kết ra Bắc, tôi mang theo. Đơn vị tôi đóng ở Thanh Hóa. Đây là thời điểm tôi thực sự bắt đầu tiếp xúc với văn học. Tôi đọc như người bị đói sách. Tôi được đọc qua các tác phẩm "Người mẹ" của Gorki, "Thép đã tôi thế đấy" của Nicolai Alechsevik Ostrovsky cùng truyện của Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Tô Hoài... Đọc của các bậc đàn anh, tôi thấy tiểu thuyết mình viết quá dở, chưa thể trở thành một tác phẩm văn học. Nhìn lại, 300 trang viết tay chỉ mới là tư liệu, chưa phải là văn.
Chính vì vậy, ông chuyển sang "thử mình" bằng thể loại truyện ngắn?
Đúng vậy! Tôi quyết định viết truyện ngắn để luyện tay nghề, sau đó sẽ sửa chữa lại cuốn tiểu thuyết. Lúc đó, tôi đang là vô địch bóng bàn của sư đoàn, được cấp trên gợi ý đưa ra Hà Nội đào tạo vận động viên, do Tổng cục Thể dục Thể thao tuyển chọn. Mới ra miền Bắc, nằm ở một làng quê Thanh Hóa, người nào mà không muốn ra Hà Nội. Nhưng tôi không đi, quyết ở lại để viết văn. Đến năm 1955, tôi chuyển ngành với cấp bậc chuẩn úy, về làm biên tập văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam. Ra Hà Nội, tôi nghĩ muốn sửa cuốn tiểu thuyết đòi hỏi phải có thời gian tập trung và cần có sự ủng hộ của Hội Nhà văn, mới viết được. Hội viên nhà văn bấy giờ, mỗi năm được nghỉ ba tháng ăn lương để đi viết. Tôi bắt tay viết truyện ngắn đầu tiên "Con chim vàng" để "trình làng" với làng văn Hà Nội.
Nghĩa là tác phẩm đầu tiên của ông là một tiểu thuyết, còn tác phẩm ra mắt đầu tiên là một truyện ngắn. Vâng, có thể nói "Con chim vàng" là một trong những truyện ngắn hay nhất của ông. Nó hấp dẫn bạn đọc không chỉ ở bố cục, mà còn bằng hình ảnh buồn và gợi cảm xuyên suốt như một tứ thơ.
Tôi nhớ khi "Con chim vàng" vừa xuất hiện trên báo Văn nghệ, nhiều người nói rằng đây là cây bút viết được truyện ngắn. Nó được dịch ra ngay bản tiếng Pháp. Bấy giờ, đang thời kỳ cải cách ruộng đất, đề tài văn học chủ yếu là người nông dân; và tôi hướng đề tài ấy về đề tài thiếu nhi. Hưng phấn, tôi tiếp đà "quất" luôn một loạt truyện ngắn, mà năm 1958 được gom lại in thành tập "Người quê hương".
Vậy còn cuốn tiểu thuyết đầu tay, ông "trở về" với nó lúc nào?
Năm 1956, Văn nghệ quân đội mở trại sáng tác ở Nghi Tàm, trong một ngôi nhà dân, tôi được đi dự. Hà Nội những năm ấy, mỗi người thuộc lớp nhà văn đi trước đều nhận một số nhà văn trẻ để giúp đỡ. Tôi được nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đỡ đầu. Viết được cái gì tôi cũng đưa anh góp ý. Trong những ngày đầu viết văn, nhà văn đàn anh gần gũi nhất đối với tôi là nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Sau khi đọc một số bản thảo của tôi và nghe tôi kể những câu chuyện về chiến trường Nam bộ, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã nói một câu mà tôi nhớ đời: "Đất Nam bộ là đất tiểu thuyết!"
Về sau, bài tham luận của tôi đọc tại Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ hai, tôi lấy tựa Đất Nam bộ là đất tiểu thuyết. Ở trại sáng tác Nghi Tàm, tôi sửa lại cuốn tiểu thuyết và đặt tên cho nó. Tôi lang thang các hiệu sách Hà Nội để tham khảo, tìm một cái tên. Cuối cùng, tôi cho "nó" cái tên "Đất lửa". Quyển tiểu thuyết mang cả tâm trạng của tôi thời bước đầu trưởng thành. Xong bản thảo, tôi đọc cho các anh Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân, Hoàng Trung Thông cùng một vài nhà văn khác nghe. Nhà văn Kim Lân đề nghị trích một chương đăng trên báo Văn nghệ. Do tình hình chính trị lúc bấy giờ, chưa thể in hết toàn bộ tiểu thuyết, phải đợi đến năm 1963 nó mới chính thức ra đời.
Ông có thể cho biết lý do cụ thể được không?
Anh em văn nghệ chưa hiểu hết sự phức tạp của chiến trường Nam bộ lúc ấy, nhất là vấn đề tôn giáo.
Theo ông, "Đất lửa" có một vị trí thế nào trong toàn bộ sự nghiệp văn học của mình?
Dư luận trong nghề cho rằng "Đất lửa" là tiểu thuyết thành công nhất trong số bốn tiểu thuyết của tôi: Đất lửa, Nhật ký người ở lại, Mùa gió chướng và Dòng sông thơ ấu. Tôi cũng nghĩ như vậy.
Có bao giờ ông hình dung nếu "Đất lửa" vội vàng in ngay bằng bản thảo viết ở rừng U Minh năm 1952, thì nó...
Sẽ chết. Vì không có giá trị văn học.
Qua đó, ông nghiệm ra điều gì?
Một tác phẩm đứng được theo thời gian phải là một tác phẩm được viết bằng tâm huyết, lòng say mê và vốn sống của mình. Đồng thời, không thể thiếu "tay nghề". Tôi muốn nói đến trình độ nghệ thuật và kỹ thuật của nhà văn.
“Chi tiết có thể ví như bụi vàng”
Thưa ông, thời đánh Mỹ, ông từ Hà Nội trở về Nam lúc nào?
Năm 1966. Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" là tác phẩm đầu tiên khi tôi trở về Đồng Tháp Mười. Nó được viết trên xuồng. Tôi nhớ lúc bấy giờ công chúng miền Bắc rất khao khát tác phẩm viết về miền Nam. Có một số nhà văn đang ở miền Bắc, qua thư từ, qua những câu chuyện kể mà hư cấu viết nên tác phẩm. Tôi cũng viết tiểu thuyết "Nhật ký người ở lại" in năm 1962. Nhưng phải thừa nhận rằng, những tác phẩm qua trung gian đó, nó không thật tươi, không thật sinh động, vẫn mang cái không khí thời đánh Pháp, chưa phải là cuộc chiến tranh đán Mỹ. Do đó, khi lên đường về Nam tôi nghĩ: phải viết những cái gì nếu không đi chiến trường thì không thể tưởng tượng được!
Ý thức nghề nghiệp ấy rõ ràng không phải nhà văn nào cũng có được. Nó có thể sánh ngang với phát minh trong khoa học. Ông đã "cụ thể hóa" ý tưởng độc đáo ấy của mình lên trang viết ra sao?
Khá nhiều. Chẳng hạn chi tiết trực thăng soi đèn xuống cánh đồng ban đêm để "tìm và diệt". Ác liệt thế. Nhà văn lẫn bạn đọc miền Bắc làm sao hình dung ra được! Hồi đánh Pháp, đi qua cánh đồng ban ngày mới ngụy trang. Còn đánh Mỹ, ban đêm cũng phải ngụy trang. Vì máy bay trực thăng luôn soi đèn. Dakota thả trái sáng. Nấu cơm nấu nước tuyệt đối không để khói. Đi tắm sông suối tuyệt đối không để dợn sóng. Chính những chi tiết đó đã nói lên được cái không khí ác liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ, khác xa chống Pháp. Hay như chuyện con gà trống không được quyền gáy: chuyện bỏ đứa trẻ vào bịch ni lông nhấn xuống nước khi máy bay bắn... thời đánh Pháp cũng không có. Nếu nhà văn không lăn lộn ở chiến trường thì không thể phát hiện những chi tiết sống động như thế.
Theo ông, chi tiết có vai trò thế nào đối với cốt truyện?
Nếu không có chi tiết thì truyện sẽ không thành truyện, nó sẽ như một đề cương, rất đại khái. Chi tiết có thể ví như bụi vàng. Điều này làm tôi nhớ đến ông già tôi, một người thợ bạc. Từ bụi vàng chế nên những kiểu nữ trang đẹp. Và nhà văn Nga nổi tiếng Paustovky cũng cho thấy bụi vàng làm nên những bông hồng vàng. Từ bụi vàng dựng nên tác phẩm. Một hôm, xem một trận đấu bóng rổ trên tivi, tôi nghe huấn luyện đội thắng trả lời nhà báo rằng: Chiến thắng này là tổng hợp của chi tiết! Rất xác đáng! Tôi nghĩ, văn học cũng là tổng hợp của chi tiết. Mà chi tiết trong đời sống không ai có thể sáng tác được. Nó nảy ra từ trong đời sống không ai có thể sáng tác được. Nó nảy ra từ trong đời sống và nhà văn phải nắm bắt chi tiết đó để làm một trong những cái vốn cho văn học. Bên cạnh chi tiết, yếu tố quan trọng khác là bố cục. Truyện dài, nếu biết bố cục khéo thì nó trở nên ngắn gọn. Ngược lại, bố cục kém, truyện ngắn trở nên dài lê thê, dễ chán. Đồng thời, một truyện hay phải bố cục làm sao cho hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối.
Có nhà phê bình gọi ông là người "chơi bố cục"!
(Cười) Tôi cũng cảm thấy như thế. Bố cục, chi tiết và chủ đề.
Còn nhớ trong một lần đề cập đến phim "Cánh đồng hoang", do ông viết kịch bản, ông có nói vui rằng chỉ cần một "chi tiết" là làm nên sự nghiệp. Vậy đó là chi tiết gì?
Chi tiết đứa bé bị bỏ vào bịch ni lông nhấn xuống nước để tránh máy bay địch bắn. Một chi tiết rất "đắt" mà tôi khai thác được trong phim "Cánh đồng hoang". Nó đã góp phần lớn vào sự thành công của bộ phim, bộ phim đoạt Huy chương vàng Liên hoan phim toàn quốc năm 1980 và Bông sen vàng Liên hoan phim quốc tế Moscow 1981. Tất nhiên, khi nói về phim, không thể không kể công của đạo diễn, anh Hồng Sến.
Trong lời ru của mẹ cũng có đủ các chức năng giáo dục, thẩm mỹ và giải trí!
Thưa ông, có đạo diễn điện ảnh còn nói văn của Nguyễn Quang Sáng có chất điện ảnh. Ông có trải qua khóa học viết kịch bản phim nào không?
Không! Tôi không có dịp đi học. Tôi tự học bằng cách rút kinh nghiệm hay dở qua những bộ phim tôi được xem. May mắn, tôi có dịp theo đoàn phim "Mùa gió chướng" và "Cánh đồng hoang", tôi có dịp trao đổi thẳng thắn với các đạo diễn đã từng hợp tác, tôi cũng đã "lăn lóc" trong hậu trường như lồng tiếng, lồng nhạc, v.v... Sự hiểu biết ấy đã giúp tôi rất nhiều khi tôi viết kịch bản.
Điện ảnh có đặc tính riêng của điện ảnh nhưng phải xuất phát từ văn học. Đó là thế mạnh của người viết kịch bản vốn là nhà văn...
Mấy năm gần đây ông không viết tiểu thuyết mà chỉ viết truyện ngắn và kịch bản phim. Vậy ông có dự định...
Thời gian tới có lẽ tôi cũng chỉ viết truyện ngắn mà thôi.
Vâng, có thể nói truyện ngắn chính là thế mạnh của Nguyễn Quang Sáng. Giả dụ nếu phải chọn lấy mười trong số các truyện ngắn đã viết của mình, thì ông sẽ chọn thứ tự những truyện nào?
(Dừng khá lâu) Truyện ngắn đầu tay tôi luôn tôi trọng là "Con chim vàng", kế đến là "Chiếc lược ngà" mà ai cũng thích, rồi "Quán rượu người câm", "Con gà trống", "Con mèo Foujita", "Người bạn lính", "Tôi thích làm vua", "Con chim sổ lồng", "Ông Năm Hạng", "Chị Nhung". Cả "Người dì tên Đợi" và "Thế võ", tôi cũng rất thích.
Trước khi viết truyện, ông có từng đọc nghiên cứu lý luận văn học?
Không. Tôi tiếp xúc lý luận văn học sau khi đã viết văn. Có điều tôi ngẫm thấy, dù không biết lý luận văn học là gì, nhưng trong lời ru của mẹ tôi cũng có đủ các chức năng giáo dục, thẩm mỹ và giải trí!
Một đời cầm bút, đạt nhiều thành công, có bao giờ ông nghĩ mình đã bước tới cái đỉnh của chính mình?.
Nghệ thuật không có cái đỉnh cuối cùng. Có những cái đỉnh càng leo càng gần, nhưng cái đỉnh của nghệ thuật, của văn học càng leo càng thấy xa. Với tôi, văn học là con đường càng đi càng xa, đi mãi không dừng...
Nguồn vietimes.vietnamnet.vn
Theo http://vietvan.vn/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI – Những tìm tòi và thử nghiệm

Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI Những tìm tòi và thử nghiệm Đặt vấn đề thơ trẻ trong 20 năm đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn nhắc đến đội ngũ n...