Rất cảm ơn ông Phạm Tuấn Anh đã đọc bài viết của tôi một cách
chăm chú. Tôi thiết nghĩ, phép đối xứng mà ông nêu lên, có cả việc đảo mệnh đề,
là phép đối xứng "tâm". Còn tôi "chỉ" sử dụng một phép đối
xứng "trục", có lẽ nó không triệt để bằng phép đối xứng tâm. Thế
nhưng, cho nội dung bài viết, có lẽ nó phần nào phù hợp.
Tìm kiếm sự "đối xứng" giữa nhà khoa học và thiền giả, giữa Có và Không, hẳn là điều không mấy ai làm. Do đó, lại xin cảm ơn thêm về sự đồng cảm của ông. Nguyễn Tường Bách
Tìm kiếm sự "đối xứng" giữa nhà khoa học và thiền giả, giữa Có và Không, hẳn là điều không mấy ai làm. Do đó, lại xin cảm ơn thêm về sự đồng cảm của ông. Nguyễn Tường Bách
Tại Đông Bắc Ấn Độ có một tiểu bang đặc biệt tên gọi là Bihar. Trong Bihar có một
thành phố nay đã tàn tạ mang tên Vương Xá (Rajgir). Ngày xưa Vương Xá chính là
kinh đô của một tiểu quốc mệnh danh là Ma-kiệt-đà (Magadha). Nằm ở phía Nam
Vương Xá là một ngọn đồi nhỏ có tên là Linh Thứu (Gijjhakuta).
Linh Thứu là nơi mà Phật Thích ca sống khoảng 7 năm.
Ngày nọ bước lữ hành đưa khách đến Linh Thứu. Trong một buổi chiều nhiều gió, khách leo lên đỉnh của ngọn đồi con. Khách nhìn xuống Vương Xá, ngày nay chỉ là một con đường nhựa nhỏ chạy giữa hai triền núi. Khách cố tìm lại dấu tích của Phật, lòng xiết bao xao xuyến.
Trên đỉnh núi này, trong một buổi giảng pháp, Phật không nói gì, chỉ cầm một đoá hoa nhìn đại chúng. Chẳng ai hiểu gì, chỉ một vị đệ tử có tên Ca-diếp mỉm cười thầm lĩnh hội. Về sau Ca-diếp trở thành truyền nhân của Phật trong một dòng truyền thừa mà ta gọi là Thiền tông. Dòng truyền thừa này lan toả qua Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, đến nay vẫn còn.
Chuyện kể về một người cầm hoa - một kẻ mỉm cười được người đời sau gọi là Niêm hoa vi tiếu, chỉ một dạng thức tâm truyền tâm, không cần đến ngôn ngữ. Mà ngôn ngữ là chiếc áo ngoài của tư duy nên đây là một phép truyền thừa vắng bóng tư duy. Khách thầm hỏi nếu không có ngôn ngữ, vắng bặt tư duy thì thông điệp của Phật là gì?
Khách bỗng nhớ đến René Descartes (1596-1650). Nhà triết học và khoa học xuất chúng này của thế kỷ thứ 17 được nhớ đến nhiều nhất với câu “Tôi tư duy nên tôi hiện hữu”. Câu nói xem ra đơn giản này được hiểu nhiều cách khác nhau. Nhưng cách đơn giản nhất hẳn là, nếu không có tư duy con người không thể được xem là “hiện hữu”, con người sẽ đồng như gỗ đá. Thực thế, tư duy làm nên tính cá thể của mỗi một con người. Trong toàn bộ loài người thì tư duy là nền tảng của mọi tri thức, của khoa học và triết học. Ngôn ngữ là sự phát biểu của tư duy. Có thứ ngôn ngữ sắc gọn như toán học, phức hợp như triết học nhưng tất cả ngôn ngữ đều dựa trên tư duy. Tư duy là nền tảng của nền văn minh nhân loại.
Nay trên đỉnh Linh Thứu này, hai ngàn năm trăm năm trước, có một thông điệp được truyền đi giữa hai con người mà không cần ngôn ngữ. Có thể có tri thức nằm ngoài ngôn ngữ? Ai bảo đảm Ca-diếp hiểu đúng, hay Ca-diếp chỉ mỉm cười ngu ngơ?
Khách tự thấy bản thân mình cũng đang tư duy. Phải thôi, tất cả chúng ta đều tôn thờ tư tưởng, đều dùng tư tưởng để lý giải mọi vấn đề. Có lẽ chúng ta ai cũng nghĩ, vắng bóng tư duy thì chúng ta sẽ điên loạn, ít nhất sẽ rơi vào một thứ hư vô bất định, sẽ không còn định nghĩa được mình là ai. Thưa ông Descartes, ông hoàn toàn có lý.
Khách chợt nhớ rằng, nền văn minh con người còn thêm một bộ phận nữa, ngoài khoa học và triết học, đó là nghệ thuật. Nghệ thuật dường như nằm xa, nằm ngoài ảnh hưởng của thứ tư duy đúng sai, thiện ác. Ngoài ra nghệ thuật xem ra thể hiện một cách tự do và đầy sáng tạo nhất khi nó loại bỏ được ảnh hưởng của tư tưởng. Thế thì điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta hoàn toàn từ chối tư duy, loại bỏ ngôn ngữ? Bất chợt hình ảnh Niêm hoa vi tiếu lại hiện ra trong lòng khách. Lòng khách bỗng thông suốt, gió chiều vẫn thổi mạnh.
Tình trạng vắng bóng tư duy thực ra không hề xa lạ với chúng ta. Nó chính là giai đoạn đầu của mọi quá trình nhận thức. Trước mọi cảnh vật, chúng ta đều có một chớp nhoáng của những cảm nhận phi tư duy. Nhưng lập tức ngay sau đó, những cảm nhận đó liền bị khuôn đúc khái niệm của ta đúc thành tư tưởng và chúng là kẻ xây nên thế giới của Tôi và chính bản thân cái Tôi. Cho nên thế giới và cái Tôi là sản phẩm của khái niệm, vốn do quá khứ sinh ra. Nhưng trên đời cũng có những kẻ, họ không muốn khái niệm của mình đúc khuôn thực tại, họ muốn thực tại thế nào thì giữ nguyên như thế, họ từ chối vai trò của khái niệm, của tư duy. Đó là những kẻ được mệnh danh đi trên con đường của Thiền. Đó là những kẻ biến nhận thức phi tư duy trở thành cách nhận thức cơ bản của mình. Được thế không? Những ai thực hành Thiền đều biết rằng đây là điều có thể. Những người đó biết rõ, lúc đó có một Cái biết lặng lẽ chiếu soi. Đó là một tình trạng vắng bóng mọi lời đối đáp trong tâm mà thuật ngữ gọi là “không tầm không tứ”. Đó là Cái đang là. Lúc đó thì cái Tôi cũng biến mất. Cái Tôi hết hiện hữu vì vắng bặt tư duy. Do đó trong Niêm hoa vi tiếu chẳng hiện hữu cả Phật lẫn Ca-diếp và cũng không có một “thông điệp” nào cả.
Không thể dùng ngôn từ để mô tả tình trạng này cũng như không thể dùng lời nói để mô tả sự im lặng. Nhớ Descartes, khách không khỏi thú vị khi nhận ra một sự đối xứng bất ngờ. Descartes nói “Tôi tư duy nên tôi hiện hữu”. Thiền giả biết “Tôi không tư duy nên tôi không hiện hữu”.
Câu nói của Descartes chính là âm bản của Niêm hoa vi tiếu. Âm bản hay dương bản đều chỉ nói về một sự thật duy nhất.
Linh Thứu là nơi mà Phật Thích ca sống khoảng 7 năm.
Ngày nọ bước lữ hành đưa khách đến Linh Thứu. Trong một buổi chiều nhiều gió, khách leo lên đỉnh của ngọn đồi con. Khách nhìn xuống Vương Xá, ngày nay chỉ là một con đường nhựa nhỏ chạy giữa hai triền núi. Khách cố tìm lại dấu tích của Phật, lòng xiết bao xao xuyến.
Trên đỉnh núi này, trong một buổi giảng pháp, Phật không nói gì, chỉ cầm một đoá hoa nhìn đại chúng. Chẳng ai hiểu gì, chỉ một vị đệ tử có tên Ca-diếp mỉm cười thầm lĩnh hội. Về sau Ca-diếp trở thành truyền nhân của Phật trong một dòng truyền thừa mà ta gọi là Thiền tông. Dòng truyền thừa này lan toả qua Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, đến nay vẫn còn.
Chuyện kể về một người cầm hoa - một kẻ mỉm cười được người đời sau gọi là Niêm hoa vi tiếu, chỉ một dạng thức tâm truyền tâm, không cần đến ngôn ngữ. Mà ngôn ngữ là chiếc áo ngoài của tư duy nên đây là một phép truyền thừa vắng bóng tư duy. Khách thầm hỏi nếu không có ngôn ngữ, vắng bặt tư duy thì thông điệp của Phật là gì?
Khách bỗng nhớ đến René Descartes (1596-1650). Nhà triết học và khoa học xuất chúng này của thế kỷ thứ 17 được nhớ đến nhiều nhất với câu “Tôi tư duy nên tôi hiện hữu”. Câu nói xem ra đơn giản này được hiểu nhiều cách khác nhau. Nhưng cách đơn giản nhất hẳn là, nếu không có tư duy con người không thể được xem là “hiện hữu”, con người sẽ đồng như gỗ đá. Thực thế, tư duy làm nên tính cá thể của mỗi một con người. Trong toàn bộ loài người thì tư duy là nền tảng của mọi tri thức, của khoa học và triết học. Ngôn ngữ là sự phát biểu của tư duy. Có thứ ngôn ngữ sắc gọn như toán học, phức hợp như triết học nhưng tất cả ngôn ngữ đều dựa trên tư duy. Tư duy là nền tảng của nền văn minh nhân loại.
Nay trên đỉnh Linh Thứu này, hai ngàn năm trăm năm trước, có một thông điệp được truyền đi giữa hai con người mà không cần ngôn ngữ. Có thể có tri thức nằm ngoài ngôn ngữ? Ai bảo đảm Ca-diếp hiểu đúng, hay Ca-diếp chỉ mỉm cười ngu ngơ?
Khách tự thấy bản thân mình cũng đang tư duy. Phải thôi, tất cả chúng ta đều tôn thờ tư tưởng, đều dùng tư tưởng để lý giải mọi vấn đề. Có lẽ chúng ta ai cũng nghĩ, vắng bóng tư duy thì chúng ta sẽ điên loạn, ít nhất sẽ rơi vào một thứ hư vô bất định, sẽ không còn định nghĩa được mình là ai. Thưa ông Descartes, ông hoàn toàn có lý.
Khách chợt nhớ rằng, nền văn minh con người còn thêm một bộ phận nữa, ngoài khoa học và triết học, đó là nghệ thuật. Nghệ thuật dường như nằm xa, nằm ngoài ảnh hưởng của thứ tư duy đúng sai, thiện ác. Ngoài ra nghệ thuật xem ra thể hiện một cách tự do và đầy sáng tạo nhất khi nó loại bỏ được ảnh hưởng của tư tưởng. Thế thì điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta hoàn toàn từ chối tư duy, loại bỏ ngôn ngữ? Bất chợt hình ảnh Niêm hoa vi tiếu lại hiện ra trong lòng khách. Lòng khách bỗng thông suốt, gió chiều vẫn thổi mạnh.
Tình trạng vắng bóng tư duy thực ra không hề xa lạ với chúng ta. Nó chính là giai đoạn đầu của mọi quá trình nhận thức. Trước mọi cảnh vật, chúng ta đều có một chớp nhoáng của những cảm nhận phi tư duy. Nhưng lập tức ngay sau đó, những cảm nhận đó liền bị khuôn đúc khái niệm của ta đúc thành tư tưởng và chúng là kẻ xây nên thế giới của Tôi và chính bản thân cái Tôi. Cho nên thế giới và cái Tôi là sản phẩm của khái niệm, vốn do quá khứ sinh ra. Nhưng trên đời cũng có những kẻ, họ không muốn khái niệm của mình đúc khuôn thực tại, họ muốn thực tại thế nào thì giữ nguyên như thế, họ từ chối vai trò của khái niệm, của tư duy. Đó là những kẻ được mệnh danh đi trên con đường của Thiền. Đó là những kẻ biến nhận thức phi tư duy trở thành cách nhận thức cơ bản của mình. Được thế không? Những ai thực hành Thiền đều biết rằng đây là điều có thể. Những người đó biết rõ, lúc đó có một Cái biết lặng lẽ chiếu soi. Đó là một tình trạng vắng bóng mọi lời đối đáp trong tâm mà thuật ngữ gọi là “không tầm không tứ”. Đó là Cái đang là. Lúc đó thì cái Tôi cũng biến mất. Cái Tôi hết hiện hữu vì vắng bặt tư duy. Do đó trong Niêm hoa vi tiếu chẳng hiện hữu cả Phật lẫn Ca-diếp và cũng không có một “thông điệp” nào cả.
Không thể dùng ngôn từ để mô tả tình trạng này cũng như không thể dùng lời nói để mô tả sự im lặng. Nhớ Descartes, khách không khỏi thú vị khi nhận ra một sự đối xứng bất ngờ. Descartes nói “Tôi tư duy nên tôi hiện hữu”. Thiền giả biết “Tôi không tư duy nên tôi không hiện hữu”.
Câu nói của Descartes chính là âm bản của Niêm hoa vi tiếu. Âm bản hay dương bản đều chỉ nói về một sự thật duy nhất.
Rất cảm ơn Ý kiến ngắn của Thái Kim Lan. Bài viết này làm tôi thấy rõ phần trả
lời của mình cho Phạm Tuấn Anh quả đã làm bài "Trên đỉnh Linh Thứu nhớ
Descartes" thêm khó hiểu. Trong phần trả lời, từ đối xứng tâm có lẽ đã làm
rối trí người đọc. Với từ này tôi muốn nói đến phép đối xứng đơn giản nhất, đó
là phép đối xứng xuyên qua một (tâm) điểm, trong khi đối xứng trục là phép đối
xứng xuyên qua một đường thẳng. Thí dụ một hình chữ nhật vừa có đối xứng điểm,
vừa đối xứng trục. Còn khuôn mặt con người chỉ có đối xứng trục. Xin bạn đọc hiểu
đối xứng tâm trong phần trả lời của tôi trong nghĩa đó. Có lẽ chữ tâm ở đây bị
hiểu nhầm thành tâm thức nên câu chuyện trở thành rối như tơ vò. Xin độc giả thứ
lỗi.
Nhân đây cũng xin góp thêm vài ý về các luận điểm vô cùng uyên bác của Thái Kim Lan. Cái khó giữa chúng ta có lẽ là nội dung của chữ Cái biết và Tư duy. Theo tôi, có một trạng thái trong đó có một Cái biết lặng lẽ chiếu soi. Trạng thái này thực ra xảy ra hằng phút nhưng chỉ kéo dài nhanh như ánh chớp. Lúc đó Cái biết (hay Tánh Giác) ở trong một sự chú ý trống rỗng. Những ai chơi thể thao, lúc chú ý đón đường banh của đối thủ, có thể cảm nhận một hai giây tình trạng này. Đó là một sự chú ý (attention, không phải concentration) nhưng tâm không khởi bất cứ một thứ ý niệm gì. Đó là tình trạng mà Thiền giả muốn chủ động ra vào.
Theo tôi, đó là lúc Tánh Giác chiếu soi, không có chút gì gọi là Tư duy, dù là Tư duy hiểu theo nghĩa rộng của Descartes. Còn nếu hiểu bản thân Tánh Giác cũng là Tư duy nốt thì tôi xin chào thua và tuân thuận.
Về kiến giải đối xứng hay siêu việt lên đối xứng, tôi xin cảm phục sự sắc sảo của Thái Kim Lan. Theo tôi, cũng chỉ là những ngôn từ, đối xứng hay siêu việt. Bờ bên kia cũng có thể được gọi là đối xứng với bờ bên này, nhưng cũng có thể gọi là siêu việt trên bờ bên này. Trò ngôn ngữ xưa này vốn làm chúng ta hay lạc lối.
Nhân đây cũng xin góp thêm vài ý về các luận điểm vô cùng uyên bác của Thái Kim Lan. Cái khó giữa chúng ta có lẽ là nội dung của chữ Cái biết và Tư duy. Theo tôi, có một trạng thái trong đó có một Cái biết lặng lẽ chiếu soi. Trạng thái này thực ra xảy ra hằng phút nhưng chỉ kéo dài nhanh như ánh chớp. Lúc đó Cái biết (hay Tánh Giác) ở trong một sự chú ý trống rỗng. Những ai chơi thể thao, lúc chú ý đón đường banh của đối thủ, có thể cảm nhận một hai giây tình trạng này. Đó là một sự chú ý (attention, không phải concentration) nhưng tâm không khởi bất cứ một thứ ý niệm gì. Đó là tình trạng mà Thiền giả muốn chủ động ra vào.
Theo tôi, đó là lúc Tánh Giác chiếu soi, không có chút gì gọi là Tư duy, dù là Tư duy hiểu theo nghĩa rộng của Descartes. Còn nếu hiểu bản thân Tánh Giác cũng là Tư duy nốt thì tôi xin chào thua và tuân thuận.
Về kiến giải đối xứng hay siêu việt lên đối xứng, tôi xin cảm phục sự sắc sảo của Thái Kim Lan. Theo tôi, cũng chỉ là những ngôn từ, đối xứng hay siêu việt. Bờ bên kia cũng có thể được gọi là đối xứng với bờ bên này, nhưng cũng có thể gọi là siêu việt trên bờ bên này. Trò ngôn ngữ xưa này vốn làm chúng ta hay lạc lối.





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét