Thứ Hai, 26 tháng 3, 2018

Thế giới “con rối” trong thơ Nguyễn Đức Tùng

Thế giới “con rối”  
trong thơ Nguyễn Đức Tùng
Tôi như người vô tình đi ngang qua nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, nghe được câu chuyện ông đang kể say sưa với ai đó, giọng lúc nghiêm trọng, lúc bỡn cợt, có khi da diết, hồi hộp. Ông kể thật cô đọng vì người kia hình như cũng phải vội đi.
Những bài thơ gần đây của Nguyễn Đức Tùng như những ngẫu hứng hiện tiền và tôi, cũng bất chợt ngỡ mình biến thành đứa trẻ chạy theo đồng tiền kẽm/ Xưa lăn ngoài ánh trăng (Xin lỗi, em yêu), hay ngồi đếm những hòn bi ăn được/ Trước căn nhà vắng lạnh (Tuổi thơ).
Đọc liền mạch một loạt bài thơ theo suốt lộ trình của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, tôi bị lạc vào thế giới “con rối” đang cử động, khuynh loát mọi nhận biết và xúc cảm của mỗi người về đời sống đương thời. Từ những yếu tố không đo đếm được của tự nhiên như ánh sáng, bầu trời, đại dương, hay những vật nhỏ bé như con sâu, cái cày, cái bánh pizza, trái mìn claymore, cái mở nút chai, lọ muối… chúng đều được điều khiển theo quy luật riêng dưới bàn tay phù thủy của ông. Những “con rối” do nhà thơ “chế tác”, để lại từng nhịp thở gấp, cả nước mắt, dấu vân tay “đóng dấu bản quyền”. Đó là những câu thơ tối giản, như rời rạc, ngắt quãng, phục hoạt một thời tao loạn, chia ly, phơi bầy bao đau thương, mất mát: như quả mìn chưa nổ/ nằm chờ ta dưới đám cỏ mùa thu(Mùa thu năm 1977); là kẻ hối hận ăn năn/ Vì đã nằm suốt đêm trong bụi rậm/ Phục kích đứa em trai của mình (Sau chuyến nghỉ hè xa). Những câu thơ của Nguyễn Đức Tùng ngỡ như ai đó cầm con dao sắc chém mạnh, làm đứt ngang một thân cây mảnh: Trên các bức tường vôi trắng/ Máu đã lau xong (Thăm Trung Hoa); Bên bờ rào tử đinh hương/ Anh tìm được một vật/ Đã cắt đứt tình yêu chúng ta (Mặt trời lặn xuống ở Cali). Sự thật lịch sử dân tộc, số phận những kiếp người trong thơ ông luôn như Ngón tay trỏ mẹ anh vẫn giữ/ Trong tờ giấy tiền vàng gió thổi rung phần phật (Ngọn lửa); như một đứa trẻ bị thương, được giấu dưới lớp trái cây đầy lá/ Trong chiều mưa tầm tã/ Khóc thét lên khi qua trạm kiểm soát (Mưa rơi trong tình yêu); nó mãi như cái đồng hồ dưới gối/ kêu tic tac tic tac tic tac/ Suốt đêm (Nhịp đập).
Có lúc ông tự mình thoát xác, bay nhẹ nhõm trong thế giới ám thị, đuổi theo những chân trời mộng tưởng: Tôi mặc chiếc áo vào người/ Bước đi trên mặt nước xanh trong (Chiếc áo). Hay sắc bén và tỉnh táo, ông nhìn thấy dấu vết nỗi cô đơn đang biến thành con chim từ từ lượn/ Khép những vòng tròn/ Càng lúc càng hẹp lại/ Trong bóng chiều chậm rãi trôi qua? (Nếu có một ngày). Khi đầy tự tin trong chiêm nghiệm, tiên báo: Chỉ cần biết cách im lặng/ Tất cả sẽ sụp đổ (Lặng im). Trong bài thơ “Vỉa hè Sài Gòn”, ông nhìn thấy một vết nứt Từ từ loang ra/ Trên ly cà phê đá, xẩy ra ngẫu nhiên với sấm sét và tia chớp ngoằn ngoèo trên trời.
Thái độ bỡn cợt, hài hước cũng thường gặp trong thơ Nguyễn Đức Tùng. Ở bài “Lên chùa ngày tết”, ông nhìn thấy Một cô gái/ Khấn vái thì thầm/ Tới trước thùng xăm/ Xin quẻ. Hành vi Cô giấu cái thẻ đi/ Rồi rút một cái khác tạo một hiệu ứng giễu cợt bất ngờ. Câu chuyện nhà thơ gặp một người đàn ông ở Paris nghe cũng rất khôi hài, thú vị: Ghé tai anh, ông nói thầm/ Còn kiếp trước tôi là con chuột (Ở Paris). Và kết thúc, nhà thơ đã mua cho người đàn ông kia cái bánh ngọt Croissant, như giấu một nụ cười vừa thân ái vừa chua xót.
Những hình ảnh trong thơ Nguyễn Đức Tùng thường hiển thị nhanh, rồi đi khỏi hoặc bất động trong bài thơ, nhường chỗ cho những hình ảnh khác tiếp diễn. Cách triển khai này của nhà thơ làm người đọc dễ liên tưởng tới nghệ thuật của sân khấu rối nước, có người biểu diễn đứng đằng sau tấm mành tre điều khiển các con rối khiến người xem không nhìn thấy họ. Các nhân vật trong vở diễn thường xuất hiện hay biến đi rất nhanh thông qua những chiếc sào, các dây điều khiển. Với hình dung ấy, ta thấy những chuyển động của các nhân vật trong thơ Nguyễn Đức Tùng thường thoắt ẩn thắt hiện, hoặc thấy cái bóng phản chiếu không rõ mặt của ai đó với những động tác giật cục, đứt đoạn... Trong bài thơ “Để giải thích một thói quen xấu”, người đọc nhận thấy cách ông “giật dây” các nhân vật rất rõ nét: Anh dựng một túp lều tranh/ Túp lều tranh đổ sụp là kết thúc một hành động. Tiếp đến một diễn tiến khác và cũng kết thúc nhanh chóng: Anh xây một ngôi đền/ Ngôi đền đổ cái rụp. Sau những chuyển động nhanh, dứt khoát ấy, Nguyễn Đức Tùng cho nhân vật “con sáo” bất ngờ xuất hiện gần cuối bài thơ. Và, khi con sáo lâm vào hoàn cảnh “Nửa đêm bị mèo cắn đứt một chân” đã dẫn đến một kết cục bất ngờ, khó đoán trước: Bắt chước anh/ Nó cũng chửi thề. Với ngôn ngữ tinh lọc, chính xác và bi hài, nhà thơ bật một luồng sáng chiếu rọi vào nhân vật “Anh” - xuất hiện từ đầu bài thơ, với hàng loạt hành động đứt quãng, phân rã. Tâm trạng bức bối, phản kháng quyết liệt của nhân vật “Anh” đã được nhà thơ bình tĩnh nén chặt và bất ngờ cho nổ tung qua miệng “con sáo”. “Tiếng nổ” bất ngờ này vén lên cả tấm mành tre ở phía sau sân khấu “rối nước”, cho khán giả chiêm ngưỡng hết dung nhan nghệ sĩ “điều khiển”.
Đôi khi nhà thơ Nguyễn Đức Tùng cũng tự biến mình thành một “con rối” cho những đối tượng khác “giật dây” trong những “trò chơi” thú vị, quái đản của ông. Cuộc trò chuyện giữa ông và con chuột vào dịp cuối năm thật hài hước, khi cả hai đều chào: bạn sắp sửa đi xa (Giã từ). Bài thơ “Dậy sớm uống trà một mình”, trong buổi sáng sương mờ/ Lấy tay xoa cửa kính/ Giấc mơ đêm qua. Câu thơ Giấc mơ đêm qua bỗng không còn là hình ảnh bị động, nó chính là bề mặt của hiện thực khác, làm cho “nhân vật” của câu chuyện trở thành phần phụ đề của một câu chuyện khác, một giấc mộng trong phương chiều khác.
Nhằm dẫn dụ bạn đọc vào thế giới “con rối” đa dạng và biến ảo, nhà thơ Nguyễn Đức Tùng thường mở đầu bài thơ như người kể chuyện cổ tích, với giọng trầm tĩnh, thủ thỉ, tạo độ căng nhất định bằng cách nêu sự việc hoặc bí ẩn, hoặc bình thường theo cách đáng nghi, để tăng sức thu hút cho câu chuyện quen thuộc như câu mào đầu ”ngày xửa ngày xưa…” trong truyện dân gian. Đôi khi con biết mẹ nằm trong đất là câu đầu tiên của bài thơ “Đêm ngủ trong chùa”. Thủ pháp này của Nguyễn Đức Tùng có vẻ trái ngược với cách viết của một số nhà thơ có khuynh hướng cách tân cùng thế hệ. Nếu gặp hoàn cảnh tương tự bài thơ trên của Nguyễn Đức Tùng, tôi sẽ bỏ đi hai chữ ”đôi khi”, và bắt đầu bằng ý “con biết mẹ nằm trong đất…” hay “mẹ nằm trong đất…”. Cách ấy của tôi giản đơn như người định vị mũi khoan hay châm lửa cho một ngòi nổ. Nhưng Nguyễn Đức Tùng đã đi lối riêng, ở đây ông như chợt nhớ, không hoàn toàn chú tâm vào việc mình đã biết, mà bị cuốn theo những hành vi đang tiếp biến. Trong bài thơ đôi lần tác giả còn lặp lại cách kể như câu mở đầu “Đôi khi con biết”, gợi hình dung ông đang trải nghiệm trong một hoàn cảnh khác, bị chi phối bởi những hệ lụy khác mà bạn đọc chưa thể đoán biết ngay: Đôi khi con biết không phải thế…/ Đôi khi con biết mẹ về. Thủ pháp ấy cho hay người viết đang ngập chìm trong nặng nề, bi phẫn. Tôi chợt tưởng tượng ông đang cầm cái que, hoặc vạch ngón tay xuống đất, vừa vẽ vừa đuổi theo từng ý nghĩ của mình. Diễn biến ấy được nhà thơ giấu kín, để tùy bạn đọc tưởng tượng về những gì mẹ ông đã phải hy sinh, chịu đựng qua những cơn hoạn nạn, ly tán. Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng cũng cho bạn đọc biết được giọt nước mắt của ông đang lặng lẽ “chảy vào trong”. Ấy là nước mắt của người đã nếm trải nhiều cay đắng của phận người, phận dân tộc mình, khi ông viết Đôi khi con biết mẹ về/ Trong chiếc chiếu hoa. Và, ông đã Thức suốt đêm đập muỗi/ Không con nào chết/ Chúng lọt hết qua kẽ tay. Hình ảnh những con muỗi “lọt hết qua kẽ tay” là trạng thái vô hồn, mất khả năng điều khiển hành vi của người trong cuộc. Trừ một con/ Bay về lúc nửa đêm chợt gây đột biến, xoay bài thơ sang hướng khác. Đó là không gian thuở xưa ấm áp hơi thở mẹ, mát lành bàn tay mẹ.
Ngôn ngữ trong câu thơ cuối được tối giản đến mức không thể tối giản hơn. Hình ảnh “kịp lặng lẽ” cho thấy hình dáng nhà thơ đang nép mình bất động, chăm chú nhìn con muỗi đẻ những hạt trứng vàng xuống “Bể nước đầy cơn mưa cũ”. Dù bị thôi miên sâu, nhưng khi tỉnh lại tôi thấy nhà thơ Nguyễn Đức Tùng vẫn ở vị thế người dẫn chuyện. Ông giữ thái độ tỉnh táo đưa tôi quay về với ký ức của tôi, bằng nội lực, tài nghệ và cảm xúc mãnh liệt của mình.
Giọng nói khách quan vang lên trong hầu hết những bài thơ ở giai đoạn gần đây của Nguyễn Đức Tùng. Ba nhân vật (vầng trăng, anh trai nhà thơ và nhà thơ) trong bài thơ “Hai vầng trăng”, mỗi người như nói với nhau một câu chuyện súc tích, ngắn gọn nhưng đã mở ra ba cánh cửa của ba không gian khác biệt: Năm tuổi, ta thức dậy sớm/ Theo mẹ lên nhà ga/ Mi cũng đi theo ta/ Ra cửa/ Rồi chạy theo ta trên xe lửa/ Ôi vầng trăng lặng im. Câu “phản biện” của người anh trai - “hôm đó mi vẫn còn ở trong sân” - đã mở ra nhiều không gian và thời gian khác nhau, làm người đọc bất ngờ, phân vân không biết nên dừng lại ở không gian nào. Điều thú vị nhất là, bằng cách khơi ra nhiều hiện thực không giống nhau về cùng một sự vật tưởng chừng quá quen thuộc (như vầng trăng), nhà thơ khiến bạn đọc phải giật mình, hụt hẫng, băn khoăn về những hiện thực khác còn ẩn giấu, rình nấp chưa bao giờ phát lộ. Bài thơ “Làng quê”, nhân vật “Anh” trở về khi người vợ đã chết, một vài hình ảnh được thắp lên trong đó như những ngọn đèn hạt đỗ trong đêm tối kinh hoàng những tiếng cú rúc, vết máu khô trên ngực… Anh đặt thang thuốc bắc lên thềm nhà/ Cúi đầu, lùi lại. Đến câu kết Rồi nhổ sào/ Rời bến làm cả “Làng quê” trôi như cỗ quan tài khổng lồ trên dòng sông đục ngầu máu và nước mắt.
Thế giới “con rối” trong thơ Nguyễn Đức Tùng thường được sắp đặt ở trạng thái bất động và định vị sẵn, giống như đạo diễn chuẩn bị trước một số bối cảnh cho sân khấu trước vở diễn. Và, sau khi Nguyễn Đức Tùng phất tay “mở màn” để những “con rối” kia khóc cười theo số phận trôi nổi, diễn tiếp những xung đột của riêng nó, đó là lúc câu kết bài thơ xuất hiện. Câu thơ kết treo dây thòng lọng, thường mở ra những biến tấu kịch tính trong thơ ông. Trong bài thơ “Lịch sử làng tôi”, người mang “đàn địch”, “thau giặt”, “nồi đồng”, “bồng trẻ con”, “cầm cục đá”…, tất cả đã sẵn sàng, nhưng “máy bay không đến”. Khổ kết của bài thơ “Buổi chiều” lại gây một kiểu bất ngờ khác của một bi kịch mang nhiều phi lý. Chuyện một người sống sót qua một tai nạn khủng khiếp. Nhưng sau đó anh đã mất trí nhớ. Người sống sót cầm trong tay/ Một sợi dây dài…/ Một đầu vắt qua cửa sổ ra ngoài. Tôi nghĩ nếu Nguyễn Đức Tùng kết ở câu Kéo dài vô tận đến chân trời cũng đã mang một hiệu ứng đặc biệt, gợi mở đa chiều những liên tưởng cho bạn đọc. Nhưng ở bài thơ này, nhà thơ như vận động viên ma-ra-tông đã dư sức về đích. Câu thơ kế tiếp mới là câu kết thúc Nơi câu chuyện bắt đầu bằng ngôn ngữ khác, đã làm những chi tiết trong bài thơ chỉ còn là cái cớ để bạn đọc chuyển nội dung sang hệ quy chiếu khác, trường ngữ nghĩa khác.
Những cái kết bất ngờ đã tạo nên sự độc đáo trong thơ Nguyễn Đức Tùng, nhưng đôi lúc cũng biểu lộ những hạn chế, nếu đặt những bài thơ viết cùng một giai đoạn bên cạnh nhau, bởi chúng có dáng dấp quen thuộc trong cách về đích. Những bài như vậy không nhiều, nên chắc nhà thơ Nguyễn Đức Tùng sẽ lưu tâm chọn bài khi in tập sau này.
Bất ngờ nối bất ngờ, phải chăng tôi cũng đang cảm thấy mình thành “con rối” trong thế giới thơ Nguyễn Đức Tùng, bởi như có ai đó đang điều khiển, mê dụ mình. Tôi nhìn thấy trong thơ Nguyễn Đức Tùng khói hương chùa chiền vẽ hình những mặt người, hình đồ vật, vẽ những con rệp sống qua hàng thế kỷ, những con bướm tìm gì/ trong bụi rậm đầy gai (Trong bụi gai). Tất cả chúng đều mang hơi thở Nguyễn Đức Tùng, phả hơi ấm vào tôi để cùng nhau tồn tại, chuyển động. Trong heo may se lạnh của sương sớm cuối thu, tôi đứng lên khỏi bàn làm việc, chân chập chững đặt lên mặt đất ngỡ đâu còn quen thuộc, tay cử động giật cục theo văng vẳng bên tai mình giọng đọc của nhà thơ. Nguyễn Đức Tùng như một diễn viên đang lồng tiếng, lúc nghiêm trọng, da diết, lúc bỡn cợt…
Tôi hoàn thành bài viết trên vào tháng mười một năm 2012 cho Báo “Nghệ thuật mới” số 11, ra ngày 10/12/2012, chuyên đề về thơ Nguyễn Đức Tùng. Do vậy khi đó, tôi chỉ đọc được những bài thơ của ông viết trước 11/2012. Từ đó đến nay (4/2016), nhà thơ tiếp tục hành trình, và đã mở thêm chặng đường mới mẻ. Nay đọc lại thơ Nguyễn Đức Tùng, tôi vẫn giữ nguyên nhận xét gần bốn năm trước. Thơ Nguyễn Đức Tùng luôn là thế giới của những “con rối” với bàn tay “điều khiển” tài tình của ông phía sau những nhân vật, sự kiện, khung cảnh… Điều mới mẻ hơn trong thơ Nguyễn Đức Tùng thời gian gần đây là, nhà thơ đã tạo ra nhiều tầng bậc sự kiện trên nền tảng tự sự. Những sự kiện ấy thường được chồng lấn, chuyển động phức rối quanh một tâm điểm. Tâm điểm ấy chính là cốt lõi, cái tứ chủ đạo của bài thơ. Cấu trúc ấy giống một cây đại thụ, có nhiều cành nhánh vươn rộng và sum suê quanh một thân cây trụ vững. Cách xoay chuyển không gian trong thơ của ông cũng linh hoạt, bất ngờ hơn trước. Những khoảng không-thời gian được ông cắt nhỏ rồi ghép lại bằng những “mối hàn” kín và chắc chắn. “Mối hàn” ấy được Nguyễn Đức Tùng thực hiện rất linh hoạt bằng cách sắp đặt trật tự những hình ảnh vừa hợp lý vừa phi lý. Chúng thường nằm chênh vênh giữa thực và ảo, sáng và tối, thức tỉnh và mộng mị… Cũng do những “mối hàn” hợp lý, nên ta thấy khoảng cách thời gian và hành động của các nhân vật, sự kiện, thậm chí cả thời đại trong thơ ông chỉ cách nhau trong chớp mắt, gang tấc. Về hình thức, có khi những khoảng cách không gian và thời gian ấy được nhà thơ sắp đặt ngay trong cùng một câu thơ, và, được phân định bằng một dấy chấm hoặc dấu phảy. Tôi xin dẫn bài thơ “Những người dũng cảm” để bạn đọc thấy được sự mới lạ trong thiết lập không gian, cũng như ngôn ngữ biểu đạt trong thế giới “con rối” của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Đây là tác phẩm khai bút đầu năm 2016 của ông, đăng trên Website trannhuong.net, ngày 7/1/2016. Nguyên văn bài thơ như sau:
Những người dũng cảm
Những người dũng cảm thật hiếm hoi
Những người thông minh 
còn hiếm hoi hơn nữa
Và những người tử tế 
còn hiếm hơn gấp bội
Và tất cả những thứ ấy cộng lại
Bạn chỉ gặp một người một lần một đời
Như bạn đi dưới trời mưa tầm tã
Không mũ, không giầy, sấm chớp đì đùng, một chiếc xe hơi
Tấp vào lề, cửa mở
Bạn không có thì giờ lựa chọn
Nhìn trước nhìn sau, lắc đầu
Nó chạy vụt đi, bạn tiếp tục bước, mưa ngày một mau, bạn nghĩ thầm
Thế rồi bạn đi mãi, một mình, suốt buổi chiều
Đôi khi
Bạn gặp một người thông minh nhưng không dũng cảm
Một người dũng cảm nhưng không tử tế
Một người tử tế nhưng không thông minh
Như những chiếc xe hơi chạy vù qua, có khi quá nhanh
Như kẻ bận rộn, có khi tà tà quá chậm
Như kẻ lạc đường, lớ ngớ chờ bạn giúp đỡ, chứ không phải
Ngược lại, và bạn cứ một mình dưới trời mưa đi mãi.
Bài thơ trên cho thấy, nhà thơ Nguyễn Đức Tùng đã dẫn dắt người đối thoại mà ông gọi là “bạn” bằng giọng độc thoại-diễu nhại. Nhân vật “bạn” trong bài thơ chính là người đọc, hoặc một ai đó không thể/ cần xác định. Ông chọn những giả thiết ngẫu nhiên và lộn xộn có chủ ý dành cho người đó ngay từ khổ thơ đầu. Giả thiết tiếp theo ở khổ thơ thứ hai với nhiều trạng thái, sự kiện đan xen được đặt ra nếu: bạn đi dưới trời mưa tầm tã/ Không mũ, không giầy, sấm chớp đì đùng, một chiếc xe hơi/ Tấp vào lề, cửa mở… Những chuyển động trong bài thơ cho thấy, vẫn là những động tác đứt đoạn, giật cục của một “con rối” có người điều khiển: Nhìn trước nhìn sau, lắc đầu/ Nó chạy vụt đi, bạn tiếp tục bước, mưa ngày một mau, bạn nghĩ thầm. Đến khổ thơ thứ ba cũng là khổ cuối cùng, bạn đọc dễ dàng hình dung một nhân vật đi lông bông, mải miết, đi mãi một mình dưới một chiều mưa. Và, theo sát nhân vật này vẫn là “nghệ sỹ rối” Nguyễn Đức Tùng. Ông giật dây cử động, lồng tiếng, phả hơi ấm vào con rối theo chủ ý riêng của mình. Điều thú vị ở đây là, bạn đọc thấy được những suy nghĩ và cảm xúc của nhà thơ đang nghĩ hộ cho nhân vật mà ông xây dựng từ đầu bài thơ. Những giả thiết tiếp theo được nhà thơ bày đặt ra cho nhân vật này, nghe có vẻ ngớ ngẩn, quẩn quanh, nhưng lại rất có lý và hấp dẫn: Bạn gặp một người thông minh nhưng không dũng cảm/ Một người dũng cảm nhưng không tử tế/ Một người tử tế nhưng không thông minh. Cách đảo nghĩa từng hình ảnh trên cho thấy tác giả đã dùng thủ pháp diễu nhại rất tỉnh táo để tạo ra tiếng cười thầm rất khôi hài và thú vị. Đến đây, bạn đọc bỗng giật mình bởi cách liên tưởng lạ, đột ngột của nhà thơ: Như những chiếc xe hơi chạy vù qua, có khi quá nhanh/ Như kẻ bận rộn, có khi tà tà quá chậm…/ … và bạn cứ một mình dưới trời mưa đi mãi. Trong bài thơ không dài, nhưng ta thấy Nguyễn Đức Tùng đã chuyển đổi câu chuyện qua nhiều tầng lớp không gian, qua nhiều cung bậc của cảm xúc và chồng chéo những liên tưởng. Qua bài thơ này và những tác phẩm khác gần đây cho thấy, ngôn ngữ biểu đạt trong thơ Nguyễn Đức Tùng đằm sâu và đa nghĩa hơn trước. Những câu thơ được ông dồn nén nhiều sự kiện, gần với cách nói đời thường hơn. Thơ Nguyễn Đức Tùng luôn vận động, tạo thêm nhiều giọng điệu trong phong cách đặc trưng của ông.
Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng sinh 1955, tại Quảng Trị, lớn lên và đi học tại Huế, hiện là bác sĩ định cư tại Vancouver, Canada. Ông là một trong những tác giả có thành tựu trong nhiều lĩnh vực như, làm thơ, viết văn, viết phê bình, dịch thuật… Ông sáng tác đều tay, chắn chắn, cách tân thơ trên nền tảng văn hóa và kiến thức phong phú, vững vàng. Tôi cũng như nhiều bạn đọc xin bày tỏ niềm mong đợi được đọc một tập thơ của Nguyễn Đức Tùng xuất bản tại Việt Nam trong tương lai không xa.
Tranh của Họa sĩ El Lissitzky
11/2012, bổ sung 4/2016
Mai Văn Phấn
Theo http://maivanphan.vn/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tình yêu của biển

Tình yêu của biển Thì ra biển cũng bạc lòng say đắm/ nhuộm đen khuôn hình, trắng tấm sắt son/ một vũng gió buộc vào sâu mắt bão/ buồm căng...