Thứ Hai, 25 tháng 3, 2019

Tác phẩm văn học như là cấu trúc nội dung động

Tác phẩm văn học như là 
cấu trúc nội dung động
H. Jauss trong Vì một nền thông diễn học văn học đã tìm cách trả lời hai câu hỏi căn bản: tính tự chủ của thông diễn học văn học bắt đầu từ đâu? Và nó được tiến hành như thế nào? Chạm tới những vấn đề mà Jauss đặt ra đối với tác phẩm văn học, tức có nghĩa, chúng ta đang thăm dò về phía bên kia của văn bản văn học. Mặc dù hiện nay, các nhà lý luận văn học, mỹ học tiếp nhận và ngôn ngữ học nhìn nhận văn bản văn học theo những hướng chưa thống nhất nhưng về cơ bản, họ vẫn xem tác phẩm văn học được cấu thành qua hai quá trình, quá trình tĩnh: văn bản được chủ thể của lối viết tạo ra nhưng chưa tới tay bạn đọc, và quá trình động: văn bản văn học được bạn đọc tiếp nhận, chuyển hóa về nghĩa để trở thành tác phẩm. Nhưng sự thực, văn bản còn có một quá trình quan trọng khác, gắn liền chặt chẽ và quy định các thức lựa chọn lối viết của nhà văn, đó là giai đoạn tiền văn bản. Vì vậy, xem xét cấu trúc nội tại động của văn bản văn học là quá trình làm rõ sự vận động của tác phẩm văn học từ tiền văn bản đến văn bản.
Tiền văn bản hay còn gọi là ý tưởng về tiền văn bản [1] là giai đoạn mà văn bản văn học gắn liền chặt chẽ với hoạt động tái- diễn giải đối với tác phẩm văn học xuất hiện cùng thời hoặc trước đó của nhà văn, nó chi phối trực tiếp tới sự hình thành ý tưởng của họ. Do đó, thông tin có trong tiền văn bản là “sự giao thoa giữa mặt nội dung sự kiện với mặt nội dung quan niệm” [2], vì vậy, đặc trưng quy định bản chất của tiền văn bản là ở “tính phi- hợp thức”, theo nghĩa ấy, nó sẽ “tự nảy sinh tính phiếm định của nó” [3]. Cho nên, mọi diễn giải đưa đến sự hiểu đối với giai đoạn này của văn bản văn học không phải bao giờ cũng dễ dàng, thậm chí cả đối với bạn đọc giàu kinh nghiệm, có tri thức về văn bản học. 
Ở giai đoạn tiền văn bản, hệ thống sự kiện lần lượt nảy sinh và dẫn dắt lối viết của nhà văn. Nhà văn tồn tại như thể nhà thông ngôn cho lối viết của mình và phía sâu hơn của vấn đề, họ đã đánh mất tự do trong diễn giải. Sự ràng buộc của nhà văn được quy định trong giai đoạn này có nguyên nhân, một mặt họ chịu sự quy định của những quy tắc thẩm mỹ mà cộng đồng diễn giải đặt ra, mặt khác chính kiểu người đọc tiềm ẩn cũng là một dạng thiết chế quy định quá trình diễn giải ý tưởng của tác giả ra văn bản. Trong quá trình tìm đến văn bản văn học dưới dạng ký hiệu ấy, nhà văn luôn phải trăn trở với những giải trình của mình trước thực tại. Nhà văn diễn giải ý tưởng của mình theo hướng vẫy gọi của khối đại tự sự. Lối vẫy gọi ấy sẽ quy định lối vẫy gọi mà nhà văn sẽ đặt ra trong tác phẩm, đó có thể là “kiểu chân trời” về nghĩa mang tính tiềm ẩn trong văn bản và “kiểu chân trời” ấy lần lượt bắt gặp các “kiểu chân trời” trong lối đọc của độc giả.
Hoạt động diễn giải của nhà văn từ ý tưởng (tiền văn bản) ra văn bản, với họ chưa hẳn nhằm đi đến một sự hiểu. Nói rõ ra, nhà văn diễn giải với tư cách người khác đứng ngoài lề và hướng cái nhìn về văn bản của mình. Chủ thể sáng tạo xuất hiện trong văn bản cần được quan niệm như một “hố thẳm tư tưởng”, một sự “lạc lõng” về nhận thức, thậm chí đôi khi phải xem mình là “cái xác chết”[4] và dần trở về trong nhận thức độc giả như thể khoảng trống của những ký hiệu. Sở dĩ, nhà văn tồn tại chỉ với tư cách một lỗ hổng, bởi “thay vì tìm thấy một ý thức, họ đụng phải một thế giới bên ngoài đang trải ra, nói cách khác, ý thức [chủ thể sáng tạo] bị ngoại hóa một cách triệt để” [5]. Điều này rất có thể sẽ đưa phạm trù “tính ý hướng” về đối tượng của chủ thể sáng tạo trong quan niệm của E. Husserl tiến dần đến những giới hạn. Nhà văn không thể tồn tại một ý nghĩ nguyên thủy về đối tượng, bởi vì nhận thức hiện tại của họ luôn là kết quả tích lũy từ hệ thống kinh nghiệm xã hội trước đó, từ sự giao tiếp với thế giới khách quan - những yếu tố có hướng ngăn cản tính độc sáng trong ý thức về tồn tại. Điều mà nhà văn có thể làm đối với văn bản của mình là “tổ chức một khoảng trống cố ý, chuẩn bị tạo ra một trung tâm không có ý nghĩa và nuôi dưỡng thế giới theo cách riêng” [6], cùng với cá tính sáng tạo nghệ thuật. Nhà văn diễn giải văn bản của mình, không nhất thiết đưa đến sự hiểu. Điều này không phải vì sự hiểu đối với họ bị phủ nhận hoàn toàn, mà việc cố tình từ chối hiểu sẽ giúp anh ta thiết lập một khoảng tự do riêng, để từ khoảng tự do ấy, những ý tưởng mới lần lượt nảy sinh trên văn bản.
Tuy nhiên, độc giả sẽ hiểu gì về những khoảng trống trên văn bản sau một quá trình bị tiền văn bản phản biện? Sự tồn tại những khoảng trống trên văn bản có hướng ngăn cản  khả năng tri nhận của bạn đọc và họ chỉ thực sự bước vào thế giới tự do của nhà văn, đối diện với khoảng trắng ấy khi tái diễn lại bằng một hình thức khác. Do đó, “đọc được định nghĩa như là việc viết lại hoàn toàn tự do” [7], vì nhà văn tìm thấy trong khoảng trống trên văn bản của mình sự tự do, bạn đọc viết lại trên chất liệu những khoảng trống ấy, cũng có nghĩa, họ tìm thấy tự do. Vì vậy, trong hành động đọc của độc giả xuất hiện kiểu đọc trắng, một kiểu đọc dành cho những khoảng trống trên văn bản.Từ đó đưa đến sự ra đời của kiểu diễn ngôn trống, kiểu diễn ngôn được quan niệm như là “lối viết ở độ không, lối viết ở thức trình bày, thụ động hoặc là không biểu cảm. Lối viết này được đặc trưng bởi sự vắng mặt của phong cách và bằng một hình thức trơ, trung tính. Nó áp đặt sự im lặng như một cách để tồn tại”[8]. Khoảng trống trên văn bản có thể xem như là “hình thức diễn giải ngẫu nhiên về tồn tại” của nhà văn. Nhà văn tìm thấy sự phóng khoáng của mình trong chính lối diễn giải ấy, văn phong của A. Gidé có thể coi là tiêu biểu cho lối viết này.
Như trên đã đề cập, tiền văn bản trong khả năng cho phép, hoàn toàn có thể phản biện lại văn bản. Điều này có phải là một nghịch lý? Bởi vì văn bản viết ra được xem như là giai đoạn hoàn tất mọi ý tưởng của nhà văn và nó trở thành hiện thực của những ký hiệu động về nghĩa, vậy thì việc có một tiền văn bản nào khác ở đây có thể đủ sức đặt lại những vấn đề cho văn bản hiện thời? Lý giải vấn đề này có liên quan đến cơ chế về tâm lý sáng tạo của nhà văn và khả năng sản sinh kiểu văn bản mới nằm ngay trong chính văn bản vừa được viết ra. Vô thức sáng tạo là lý giải phù hợp đối với trường hợp thứ nhất.
Thực tế, giữa ý tưởng ban đầu khi sáng tác (tiền văn bản) của nhà văn với văn bản được viết ra luôn tồn tại một khoảng cách. Chưa hẳn mọi ý tưởng ban đầu mà nhà văn ấp ủ, nuôi dưỡng đều xuất hiện trên văn bản đã được viết, ngược lại, có những vấn đề không nằm trong ý thức xây dựng hình tượng nghệ thuật của nhà văn, nhưng nó lại “sừng sững” đứng trong văn bản và góp phần làm nên danh tiếng của họ. Vậy thì, nghĩa của từ “phản biện” trong trường hợp này cần được hiểu như là sự dồn nén của cảm xúc, bất chợt hiện về mà trong một giới hạn, những ý tưởng của nhà văn không kịp nắm bắt nó. Và khi mọi cảm xúc đã tràn đầy, với ý nghĩa quan trọng thì những ý tưởng trước đó của nhà văn không còn giữ được tầm ảnh hưởng, quán xuyến tư duy nghệ thuật. Nó sẽ dần mất đi tầm ảnh hưởng đối với văn bản. Điều này có nguyên nhân sâu xa từ trong hoạt động tâm lý khi sáng tạo ngôn ngữ hình tượng của tác giả. E. Fromm có lý khi nhận xét, ngôn ngữ hình tượng trong hoạt động kể của chủ thể sáng tạo luôn chịu sự tác động từ những hành vi thực tiễn. Những hành vi ấy dồn nén trong vô thức trở thành kí ức bị lãng quên, tuy nhiên Fromm không quy vô thức hoàn toàn vào bản năng như S. Freud quan niệm. Freud cho rằng, hoạt động sáng tạo của con người thực chất là “sự thỏa mãn tâm trạng bị kích thích phi lí tính, cũng tức là sự thỏa mãn “tâm trạng bị kích thích” phi lý tính nhưng bị ức chế lúc thức tỉnh”[9], điều này đối với hoạt động sáng tác của nhà văn là quá trình thụ động và họ chấp nhận phó mặc văn bản tiềm ẩn của mình cho những ham muốn trong quá khứ bị hiện thực cưỡng chế. Không thống nhất với Freud, Fromm khẳng định: “ Giấc mơ là sự diễn đạt ý nghĩa và tầm quan trọng của tất cả các hoạt động tâm lý trong trạng thái ngủ”[10], điều này đã đưa đến vấn đề hoài nghi trước học thuyết của Freud: không phải hoạt động vô thức nào trong sáng tạo cũng là những ký ức bị lãng quên, hơn cả, nó luôn có sự can thiệp một phần nào đó của ý thức trong việc chọn lựa những hình ảnh có ý nghĩa và ảnh hưởng đến suy nghĩ thường trực của chủ thể. Chính sự can thiệp của ý thức vào vô thức sản sinh sự đối thoại giữa những ý định ban đầu của lối viết và ký ức của những ám thị (Suggestion) từ phía nhà văn.
Lối đối thoại ấy là nguyên nhân chính đưa đến sự hình thành những vấn đề có hướng nổi lên trong văn bản khi cố tình tạo ra kiểu vẫy gọi về ý nghĩa đối với độc giả. Và từ đây, chính cái bóng vô hình nhưng hữu ý ẩn tàng trong văn bản có nguy cơ lấn át văn bản đang được tiếp nhận sẽ tách ra trở thành văn bản mới trong ý tưởng bạn đọc bất cứ lúc nào. Do đó, hoạt động vẫy gọi nảy sinh ý nghĩa từ phía bạn đọc- này của những cái bóng đã báo hiệu sự tồn tại song song của hai kiểu tiềm văn bản: tiềm văn bản quá khứ và tiềm văn bản hiện thời, ẩn phía sau văn bản đã được viết ra. Mặt khác, chủ ý của nhà văn theo mỗi gian đoạn sáng tác, cũng không hoàn toàn nhất quán, Chladenius có lý khi nhận định, “do người sáng tác một văn bản không viết một lần, mà vào những thời điểm khác nhau, trong thời gian đó rất có thể người ấy đã thay đổi quan niệm, nên ta không có quyền gộp chung không phân biệt các đoạn đối chiếu của một tác giả, mà chỉ gộp được những đoạn tác giả đã viết mà không thay đổi ý kiến” [11]. Vì vậy, mọi hoạt động thông diễn từ Schleiermacher đến Gadamer, Ricoeur đều coi việc khôi phục lại mục đích ban đầu khi sáng tác của nhà văn là mục tiêu quan trọng của thông diễn học[12], Gadamer khẳng định, “tái lập cái “thế giới” mà tác phẩm quen thuộc về nó, khôi phục trạng thái khởi thủy mà người sáng tạo “nhằm vào”, thực thi trong phong cách khởi thủy của nó… [như] là để tìm thấy lại “điểm neo đậu” trong trí óc của nghệ sĩ, chỉ có điểm neo đậu này mới khiến người ta hiểu được trọn vẹn ý nghĩa của một tác phẩm nghệ thuật” [13]. Thông diễn học tiền Schleiermacher có xu hướng tìm về cái ý nghĩa nguyên thủy khi sáng tác của nhà văn, chủ yếu dựa vào những kinh nghiệm chú giải có tính kinh viện trước đó khi thông diễn những vấn đề của Thánh Kinh. Với Schleiermacher, ông đã đồng nhất ý nghĩa của tác phẩm văn học làm một với “những điều kiện mà tác phẩm đã đáp ứng ở thời điểm ban đầu của quá trình nảy sinh nghĩa và đồng nhất hóa việc hiểu tác phẩm với sáng tạo khởi thủy của nó”. Theo nghĩa ấy, độc giả muốn hiểu được tác phẩm, cần thiết phải khôi phục lại bối cảnh khởi thủy.
Schleiermacher coi “việc tái lập chủ ý của tác giả là điều kiện cần và đủ để xác định nghĩa của tác phẩm”, do đó để giải quyết điều này, ông đề xuất phương pháp vòng tròn thông diễn (Hermeneutics circle) như là cách thức nhằm khôi phục nghĩa nguyên thủy cho văn bản. Quan niệm trên của Schleiermacher có phần cực đoan, bởi vì, việc khôi phục lại mục đích ban đầu khi sáng tác (tiền văn bản) như chúng tôi đã chỉ ra, là việc làm không đơn giản, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như văn hóa, bối cảnh bên ngoài văn bản (hiện thực xã hội), bối cảnh bên trong văn bản (thế giới hình tượng)… tất cả đều có nguy cơ đẩy lịch sử văn học tới những giới hạn, nhất là đối với tác phẩm văn học hiện đại. Nếu như Schleiermacher viện dẫn phương pháp có xu hướng quy lịch sử văn học vào khuôn khổ một định chế bất biến về nghĩa, mà người thời sau có thể xem xét lại văn bản của quá khứ thì hoạt động ấy, thực chất chỉ là sự bổ sung những nghĩa phụ cho một nghĩa chính, cho một sự hiểu đã được thông suốt trước đó.
Với phương pháp vòng tròn thông diễn, Schleiermacher nhấn mạnh, “trước một văn bản, việc làm đầu tiên mà người diễn giải phải làm là, đặt ra một giả định về nghĩa của văn bản như một cái toàn thể, sau đó phân tích chi tiết của các bộ phận, rồi trở lại với một cách hiểu được sửa đổi về cái toàn thể”[14], theo nghĩa này thì, việc độc giả lần tìm được về ý nghĩa nguyên thủy của tác phẩm văn học là quan điểm thiếu hợp lý, một là vì, mọi giả định ban đầu đều có thể không phù hợp với chi tiết được định hình trong văn bản, bởi các hoạt động thông diễn đều xuất phát điểm từ một thực tại nhất định, cho dù là cùng thời với tác giả cũng đều có xu hướng bị bão hòa về mặt ý thức hệ; đó là chưa đề cập đến hiện tượng độc giả đứng ở giai đoạn sau nhìn nhận tác phẩm, với những khác biệt rất xa về văn hóa, tri thức. Vì vậy, đặt ra những giả định ban đầu đối với tác phẩm văn học là việc làm có hướng mạo hiểm, việc làm ấy không những không đưa đến một sự hiểu đúng đắn về tác phẩm, đôi khi còn có thể triệt tiêu hoàn toàn nghĩa bề mặt của nó. Hai vì, đối với những tác phẩm cổ xưa thường ổn định về nghĩa, nhưng trong tác phẩm văn học hiện đại, không hẳn tác phẩm nào cũng mạch lạc nhất quán về nghĩa, thậm chí, nó từ chối lối hiểu của chúng ta về nó như trường hợp của M. Proust, F. Kafka, G. Maquéz…
Tuy nhiên, điểm tích cực trong phương pháp thông diễn của Schleiermacher ở chỗ, ông đã phát hiện luận điểm quan trọng: để hiểu được tác phẩm và văn bản của quá khứ thì diễn giả cần phải nhập được vào bầu không khí của văn bản, nơi mà tác giả tạo ra chúng đã sống. Do đó, vòng tròn thông diễn cần được hiểu như biện chứng pháp của cái toàn thể và cái bộ phận, thể hiện sự giao tiếp giữa hiện tại và quá khứ, giữa sự dung nạp lẫn nhau của các nền văn hóa, của sự tổng hòa các lối hiểu và diễn giải. Cũng đặt sự quan tâm đặc biệt vào những cái bóng của văn bản văn học, Gadamer có cách giải quyết hợp lý hơn. Trong Chân lý và phương pháp(1960), Gadamer đặt lại những vấn đề mà thông diễn học truyền thống bỏ ngỏ trước đó, với truy vấn: nghĩa của một văn bản là gì? [15] Tính thích đáng của chủ ý tác giả đối với nghĩa văn bản nằm ở đâu? [16]. Lý giải điều này, ông cho rằng: “cũng giống như mọi phục hồi, việc tái lập các điều kiện khởi thủy là một cố gắng mà tính lịch sử của bản thể chúng ta khiến nó sẽ phải thất bại. Những gì người ta đã tái lập, cuộc sống mà người ta đã làm cho trở lại từ sự tha hóa mất mát, không phải là cuộc sống khởi thủy … một hoạt động thông diễn coi việc hiểu có nghĩa là phục hồi cái khởi thuỷ, sẽ chỉ là sự truyền đạt một nghĩa giờ đây đã chết”[17]. Trong quan điểm của mình, Gadamer đã vạch ra những giới hạn của thông diễn học truyền thống, với ông, ý nghĩa của một văn bản luôn là khái niệm mở, nó gắn liền với “chân trời văn hóa” trong mỗi lớp người đọc, theo mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể.
Do đó, bối cảnh lịch sử thay đổi gắn với nó là bối cảnh văn hóa cũng thay đổi, và cứ mỗi lần thay đổi ấy, nghĩa của tác phẩm văn học cũng thay đổi, nghĩa là nó động. Do đó, bất kỳ sự diễn giải nào cũng liên quan chặt chẽ tới bối cảnh diễn giải, cho nên, mọi ý nghĩ về tính tự thân của văn bản cung cấp cách hiểu cho chủ thể thông diễn, là những cách quan niệm cực đoan và sai lầm.
Như vậy, tính nội tại của văn bản văn học luôn vận động theo bối cảnh văn hóa tạo ra nó và diễn giải văn bản là “sự hòa trộn của các viễn cảnh” (Fusion d’horizons). Mọi lối viết luôn bắt đầu từ việc chọn lựa ngôn ngữ diễn đạt riêng, có tính đặc thù, khẳng định tính văn học và cá tính sáng tạo của nhà văn. Việc chọn lựa một lối viết phù hợp sẽ quyết định giá trị của tiền văn bản. Lý giải điều này có liên quan trực tiếp với giai đoạn chuyển nghĩa từ ý tưởng của nhà văn ra văn bản cụ thể. Nhà văn chọn lối viết nào sẽ đưa văn bản tiềm ẩn đi theo hướng ấy, là lối viết văn xuôi, tất yếu giá trị của tiền văn bản, dù chủ thể sáng tạo nghiêng về khuynh hướng thơ thì kết quả cuối cùng của hoạt động viết cũng là văn bản văn xuôi, bởi ngôn ngữ diễn đạt của họ thuộc về ngôn ngữ có tính văn xuôi, mặt khác nếu là lối viết thơ thì ở phần tiền văn bản dù tác giả nghiêng về khuynh hướng tiểu thuyết, truyện ngắn nhưng sản phẩm cuối cùng của hoạt động viết ấy vẫn là dạng văn bản có kết cấu tính thơ…, đặt ra vấn đề này, chúng tôi muốn đề cập đến cấu trúc hình thức động của văn bản văn học [18] - một dạng kết cấu nhấn mạnh đến khả năng đọc văn bản của độc giả. Và đó cũng là lời kết cho tiểu luận này.
Ghi chú:
[1] Từ đây trở đi ý tưởng về tiền văn bản sẽ được nói vắn thành tiền văn bản.
[2] Galperin. I. R, Sđd, tr. 97.
[3] Galperin. I. R, Sđd, tr. 97.
[4] Không phải tác phẩm văn học nào khi được xuất bản cũng trở nên nổi tiếng và được nhìn nhận một cách đúng đắn ngay, đôi khi nó yêu cầu tồn tại một giả định về việc nhà văn phải chết thì giá trị của nó mới được biết đến. P. Ricoeur đúng về điểm này, khi ông nói “tôi vẫn thường nói rằng đọc một quyển sách nào đó có nghĩa là chúng ta xem tác giả là người đã chết, còn cuốn sách của anh ta là tác phẩm được in sau khi anh ta chết” (Lộc Phương Thủy (2007), Lý luận- Phê bình văn học thế giới thế kỉ XX, T.2, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 850.). Sự hiện hữu của nhà văn cùng những chú thích có mục đích về những gì anh ta viết trước công chúng đôi khi giếtchết tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học chỉ thực sự tồn tại và có giá trị khi nó khơi gợi sự tự giác tìm kiếm về nó từ phía độc giả, và sự tự nguyện ấy sẽ thúc ép họ khai thác những gì cần phải hiểu về nó, tất nhiên văn bản đó phải có giá trị. Điều này đúng với trường hợp của Goethe. Đương thời, sau khi Faust của ông ra đời, người đọc yêu quý tác phẩm nhưng chưa thấy giá trị của nó, phải chăng họ yêu Faust, bởi nó mang thương hiệu của Goethe? Điều này không phải là không có lý. Goethe từng ghi lại trong hồi ký của mình về việc chàng thợ rèn đọc Faust quá dở đến mức không chịu được, ông phải phá toàn bộ lò rèn của anh ta, vì anh ta đã phá hỏng thơ của ông.
Nhưng sau khi Goethe qua đời, Faust lại trở nên giá trị và được mọi người diễn xướng như một thứ tinh thần Đức. Lý do nằm ở đâu? Một là vì khi Faust ra đời, những ý nghĩ của Goethe đã đi trước thời ông sống khá lâu, vì vậy tư duy bình dân chưa thể hiểu hết được những vấn đề ông nói trong tác phẩm ấy; song hơn cả, ông viết Faust cùng lúc cũng là người lý giải về nó ngay trong những buổi diễn thuyết, thì việc không thể tạo nên một phong trào tìm hiểu rộng rãi cũng không có gì là khó hiểu. Sau khi Goethe qua đời, ý thức hệ thời đại ông sống đã chuyển sang giai đoạn mới, người ta bắt đầu nghiệm xét về những giá trị ở Faust, từ đó một phong trào thông diễn rầm rộ nổ ra trong giới trí thức. Nó thúc bách sự khôi phục về giá trị mà Goethe muốn nói, điều mà thời đại ông, nó đã từng là “điểm mờ” cho những ý nghĩ thiết thực. Lấy ví dụ về Goethe để thấy rằng văn học chỉ thực sự tìm lại bản mệnh của mình khi nó gắn liền với hoạt động thông diễn của diễn giả.
[5] Nguyễn Thị Từ Huy (2009), Alain Robbe Grillet - Sự thật và diễn giải, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, Tr. 257.
[6] Nguyễn Thị Từ Huy, Sđd, tr. 256.
[7] Nguyễn Thị Từ Huy, Sđd, tr. 258.
[8] Nguyễn Thị Từ Huy, Sđd, tr. 239.
[9] Fromm Erich  (2003), Ngôn ngữ bị lãng quên, NXB văn hóa thông tin, Hà Nội, tr. 43.
[10] Fromm Erich, Sđd, tr. 44.
[11] Dẫn theo Compagnon Antoine  (2006), Bản mệnh của lý thuyết, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội, tr. 105.
[12] Ở Việt Nam, hiện nay có một số quan niệm và cách dịch khác nhau về thuật ngữ Hermeneutics, cụ thể: nhóm quan niệm và dịch Hermeneutics là Tường giải học gồm: Hồ Thế Hà (Nghĩ tiếp về vai trò của chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận văn học ), Trương Đăng Dung (Tác phẩm văn học như là quá trình, Từ văn bản đến tác phẩm văn học…), nhóm quan niệm và dịch Hermeneutics là Chú giải học gồm: Đỗ Minh Hợp (Diện mạo triết học Tây phương hiện đại), Lê Hồng Sâm- Đặng Anh Đào (Bản mệnh của lý thuyết), Đinh Ngọc Thạch- Phạm Đình Nghiệm (Các con đường của triết học phương Tây hiện đại ), nhóm quan niệm và dịch Hermeneutics là Giải thích học bao gồm: Phương Lựu (Lý luận văn học hiện đại phương Tây, (Phương Lựu tuyển tập, T. 2)), Nguyễn Kim Loan (Văn hóa như là văn bản: tự sự học và giải thích học), nhóm quan niệm và dịch Hermeneutics là Thông diễn học bao gồm: Trần Văn Đoàn (Thông diễn học và khoa học xã hội nhân văn), Nguyễn Thị Từ Huy (Alain Robbe- Grillet, Sự thật và diễn giải), Lê Tuấn Huy (Thông diễn học của Hégel), Nguyễn Ước dịch Hermeneutics là Tường chú học, Bùi Văn Nam Sơn dịch là Giải minh học (Toàn cảnh triết học Âu Mỹ thế kỷ XX)…Ở văn bản này, chúng tôi chọn thuật ngữ “Thông diễn học” để dịch Hermeneutics nhằm hướng tới một nền diễn giải- mở, một sự thật được mở ra, được phơi bầy là quá trình làm cho “sứ điệp” của nhà văn trở nên minh bạch,  là “chúng ta hiểu tất cả những gì có thể hiểu được” (H. Gadamer).
[13] Dẫn theo Compagnon Antoine, Sđd, tr. 83.
[14] Compagnon Antoine, Sđd, tr. 85.
[15] Gadamer (2004), Truth and Method, Continuum Publishing Group, New York, U. S. A, P. 399.
[16] Từ việc quan niệm “cái nhìn ngôn ngữ, [thực chất] là cái nhìn về thế giới” (“a language-view is a worldview” (Gadamer (2004), Truth and Method, Ibid, P. 440)), Gadamer xem tính- chủ đích của tác giả đối với nghĩa văn bản là sự gợi mở để tạo sinh nhất tính đối với sự hòa trộn của những chân trời hiểu (Gadamer (2004), Truth and Method, Ibid, P. 397- 406), trong đó, đối thoại được xem như là cách thức để văn bản cho phép chúng ta hướng tới một sự hiểu thật sự về nó qua trung giới là ngôn ngữ (“On the other hand, however, it must be emphasized that language has its true being only in dialogue, in coming to an understanding”(Gadamer (2004), Truth and Method, Ibid, P. 443)). Xin xem thêm “Language as determination of the hermeneutic object” (Gadamer (2004), Truth and Method, Ibid, P.391-397), “langue as horizon of a hermeneutic ontology” (Gadamer (2004), Truth and Method, Ibid, p. 436-469).
[17] Dẫn theo Compagnon Antoine, Sđd, tr.88.
[18] Về vấn đề này, bạn đọc có thể tham khảo từ bài viết của PGS. Ts Trương Đăng Dung: “Văn bản văn học và sự bất ổn định của nghĩa”, TC nghiên cứu văn học số 3/2004 và “Tác phẩm văn học như là cấu trúc ngôn từ động” (Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB Khoa học xã hội, H, Tr. 47 - 107) hoặc từ bài viết của chúng tôi “Tác phẩm văn học như là cấu trúc hình thức động” (In trong công trình: Tác phẩm văn học nhìn từ thông diễn học hiện đại)
Ngô Hương Giang
Nguồn: phongdiep.net
 Theo http://www.bichkhe.org/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Dấu chấm thang – Chùm thơ của Trần Hương Giang 4 Tháng Sáu, 2023 Biết thương cuộc sống ta bà/ Đổi thay, tôi lại thiết tha yêu đời/ Dù ...