Thứ Năm, 28 tháng 3, 2019

Bài hát mặt trời


Bài hát mặt trời
Bí mật trên núi 
1. Bóng chiều đã xuống thấp ở phía tây, gió nhẹ lao xao làm rung rinh cành lá. Trên bãi cỏ xanh, lũ trẻ vẫn còn nô đùa rượt đuổi nhau chạy loanh quanh. Xa xa kia là ngôi làng nhỏ, với những mái nhà tranh nằm khuất sau rặng cây mờ tối đang đi vào đêm.
Lũ trẻ ở ngôi làng nhỏ này vẫn đang chạy nhảy ở trên đồi. Tiểu Hoa là một cô bé xinh đẹp cùng với Bạch Ngọc là hai chị em thật dễ thương. Chúng thường bắt bướm hái hoa, trèo cây hái quả vui chơi với nhau. Thường đi chơi với chúng là Đại Hương, Thiên Hùng và Đại Lực, là ba cậu bé cũng sống trong làng. Chúng cùng học với nhau trong một ngôi trường phía bên sườn núi. Người dạy cho chúng là một ông lão bách trượng râu tóc bạc phơ, mà người dân làng này thường gọi là lão Lý, hay Tuyết Sơn sư phụ. Nhưng tên thật của ông lão là Lý Tuyết Sơn Minh Hạnh Túc, và đó là một cái tên rất dài như những dòng sông trôi đi miệt mài bất tận, làm thành những nếp nhăn trên trán của ông lão vậy. Ngày ngày Tuyết Sơn lão trượng thường xuống núi ra ngồi câu cá bên dòng suối Hữu Tình, cùng hai ông bạn già, là Công Phu Tào Ngưu và Thiên Bình Tự Tại. Ba ông lão này đã gặp nhau trên ngọn núi này từ hồi nào thì không ai biết, nhưng dường như cái bộ ba ấy cảm thấy không bao giờ nhàm chán với những câu chuyện của mình. Và lũ trẻ con của ngôi làng nhỏ này cũng vậy, chúng luôn đi theo học, và hóng chuyện của ba ông lão. Thật là đẹp làm sao...núi non hùng vĩ bao quanh ngôi làng như một điều bí ẩn, chất chứa trong lòng đá núi ngày đêm vang dội bay đi khắp nơi nơi…
Cả buổi chiều hôm nay, lũ trẻ cùng đi chơi và trông chừng bầy cừu trắng đang tung tăng trên khắp sườn đồi...Tiểu Hoa và Bạch Ngọc gọi ba bạn kia lùa cừu về nhà. Đại Hương và Thiên Hùng đang ẳm những con cừu nhỏ lội qua dòng suối, còn Đại Lực thì gom củi lại chuẩn bị mang về.
Tiểu Hoa nói: Anh Đại Hương ơi! Tối nay sư phụ gọi chúng ta lên nhà của người để dặn dò gì đó, anh có đi không? Đại Hương trả lời: Đi chứ, tất cả chúng ta cùng đi. Thiên Hùng và Đại lực cùng chạy đến, và lũ trẻ cùng lội qua con suối đi về làng. Lúc này trời đã đi vào đêm, những vì sao sớm đang lần lượt hiện ra lấp lánh khắp bầu trời. Từ trên núi cũng có mấy người hái củi đi về làng, họ cất tiếng hát vang lừng khắp không gian “Ôi mùa xuân xanh tươi, hoa lá nở nụ đâm chồi…Kìa đàn cá đang bơi trong dòng suối biếc..Ôi yêu biết bao cuộc sống thanh bình” là lá la…là lá la…Hòa cùng với tiếng hát của những người tiều phu này, là tiếng gọi nhau í ới của những chàng trai cô gái đang trên đường đi về làng. Tiểu Hoa và Bạch Ngọc ôm về hai bó hoa tươi, để tối nay về dâng lên sư phụ. Thiên Hùng và Đại Lực, mỗi cậu bé đều mang về một bó củi khô. Bầy cừu như những cục bông trắng tung tăng nối đuôi nhau đi. Chúng cất lên tiếng kêu be be đầy thích thú vang dậy cả núi rừng. Còn trên cao nơi gần những đám mây chiều tà, là lũ chim đang bay về tổ, chúng bay theo hình cánh cung đều đặn, như một điệu múa cuối cùng của một ngày bay đi chơi xa…
2. Nhà của Tiểu Hoa ở cuối làng, nằm ở chổ con đường đi lên núi gặp sư phụ Tuyết Sơn. Bạch Ngọc là cô bạn thân thiết nhất của Tiểu Hoa cũng ở gần đó. Có những buổi trưa chúng dẫn nhau lang thang trên đồi vắng hái trái cây ăn. Hai cô bé như hình với bóng dìu nhau lên đồi cao vui đùa. Cứ như vậy, cho nên bố mẹ Tiểu Hoa và Bạch Ngọc không được vui lòng, mỗi khi phải đi tìm chúng về. Bởi vì chỉ sợ chúng ngã bệnh do trời nóng bức quá thôi.
Đêm nay nhà Tiểu Hoa có tiệc, mà cô bé cũng không biết là sự việc gì? Đã đến giờ lên nhà sư phụ Tuyết Sơn rồi, mà ở nhà có đông người đến thế này thì làm sao đây? Cô bé đang lo lắng quá chừng thì ngoài cổng có tiếng gọi: Tiểu Hoa Tiểu Hoa!!! Tiểu Hoa ngó ra ngoài sân, thì thấy mấy đứa bạn đã tới trước cổng. Bạch Ngọc nói: Bây giờ tụi mình lên nhà sư phụ nha? Tiểu Hoa gật đầu, vậy là cả bọn lên nhà sư phụ. Trong khi đó nhà của Tiểu Hoa đèn đuốt đã được thắp lên sáng bừng, để bắt đầu bữa tiệc tối nay.
Sư phụ Tuyết Sơn đang ngồi trong nhà, thì Tiểu Hoa và các bạn ùa tới. Nhà của sư phụ Tuyết Sơn rất đẹp. Đó là một ngôi nhà bằng đá ở gần chân núi, có suối chảy mây bay lá lay rộn ràng. Bên trong nhà bày biện rất giản dị tươm tất, với những thứ đồ dùng cổ xưa như có linh hồn. Bên ngoài là khu vườn nhỏ trồng đầy các loài hoa tươi tốt. Và có cả một giàn bí trước sân, những trái bí nhỏ treo lũng lẳng rất dễ thương. Sư phụ đang uống trà cùng ông bạn Công Phu Tào Ngưu thì bọn trẻ đi vào. Sư phụ hỏi: Các con đến rồi đó à! Vậy vào đi các con! Cả bọn nói: Chúng con kính chào sư phụ ạ! Và quay sang chào cả ông lão Công Phu Tào Ngưu nữa. Sư phụ lấy ra một cái đĩa đầy kẹo và chia cho bọn trẻ. Sư phụ nói: Trước giờ ta chỉ dạy cho các con học chử. Nhưng ở đời rộng lớn lắm. Các con cũng không ở mãi ngôi làng bé nhỏ này, mà phải đi ra ngoài cho biết nhiều việc. Tối nay ta biết ở nhà trò Tiểu Hoa có tiệc, là để đón tiếp sứ thần của đức vua, phong cho cha của con làm Tổng trấn vùng này. Rồi nhà vua sẽ cử quân đội về đây, hiệp vối quan tổng trấn, trấn giữ biên cương. Vì các con nên biết rằng, vùng núi Tuyết Sơn này là biên cương của đất nước ta. Không còn thời gian nhiều đâu. Các con cũng đã lớn rồi, đứa nhỏ nhất cũng mười ba tuổi, đứa lớn nhất cũng mười lăm tuổi. Vậy ta sẽ dạy phép thuật cho các con và võ nghệ văn chương thi phú. Một ngày nào đó mãnh đất này sẽ rung chuyễn vì quân giăc tràn qua đây. Các con biết không? Cái thế lực hắc ám nó vẫn luôn tồn tại quanh quẫn đâu đây thôi, nhưng nhờ nó mà chúng ta sẽ gan dạ dũng cảm hơn. Gần đây ở vùng núi Sọ Trắng, có một mụ phù thủy Linh Cẩu ác độc lắm. Rồi không sớm thì muộn chúng ta cũng sẽ giáp mặt mụ ta thôi.
Bọn trẻ ngồi lắng nghe và biết rằng, từ nay chúng phải học thêm nhiều điều nữa thông qua con người bí ẩn của sư phụ. Tiểu Hoa cảm thấy lòng mình biến chuyển lạ kỳ, nó thấy mình như một cánh chim nhỏ, sẽ phải bay lên bầu trời cao rộng kia. Bạch Ngọc thì không biết sao cô bé chỉ muốn khóc! Thiên Hùng Đại Lực và Đại Hương mỗi đứa đều thấy mình như bay bổng lên, khi nghe sẽ được sư phụ truyền cho nhiều phép thuật, và cả sự hiểu biết sâu sắc của người nữa. Ông lão Công Phu Tào Ngưu thì nói: Ta cả đời học võ công và đã trãi qua nhiều cuộc chinh chiến rồi. Nay ta sẽ truyền võ công cho các con. Sau này khi các con nên dùng võ công và phép thuật để giúp đời. Ta già rồi nhưng nếu các con ra đi bảo vệ quê hương, thì ta cũng sẽ cùng đi với các con. Vì ta còn có ông bạn Thiên Bình Tự Tại nữa. Ông ấy có nhiều phép lạ lắm, chắc các con cũng cần phải học đó. Nghe tới đây thì bọn trẻ rất vui mừng, cảm ơn sư phụ và ông lão Công Phu Tào Ngưu rồi xin phép đi về nhà.
3. Đêm nay nhà Tiểu Hoa mở tiệc tưng bừng, khách khứa đến rất đông. Mọi người đều vui vẻ chúc mừng cha của Tiểu Hoa, được phong chức tổng trấn, nắm giữ binh quyền của cả một vùng đồi núi nơi biên cương đất nước. Tiểu Hoa và các bạn từ nhà sư phụ về thì bữa tiệc vẫn chưa tan. Cả bọn chạy tới  chạy lui lăng săng trong nhà, lo phụ với mẹ Tiểu Hoa làm mọi việc. Ở nhà trên lão gia cùng ngồi với ông sứ thần của đức vua uống rượu. Mọi người chúc tụng lão gia quá chừng, nhưng lão gia nói: Tôi xin cảm ơn những lời chúc mừng của các bạn. Nhưng có vui mừng lắm không, vì chức tước địa vị phải đi kèm với trách nhiệm và lo toan. Hôm nay tôi nhậm chức tổng trấn của vùng núi Tuyết Sơn này, thì cũng là lúc, nơi này sắp phải đương đầu với cuộc xâm lăng của quân giặc. Tôi là một học trò có đọc binh thư, nhưng quân thù lần này là những đội quân hắc ám đội mồ sống dậy ở rừng ở mả. Chúng có phép thuật phù thủy biến hóa con này con kia làm sao tôi đánh được? Nên tôi vui đây nhưng trong lòng rất lo lắng.
Dưới chân núi này có ngài Minh Hạnh Túc. Các con tôi có theo học chữ với ngài. Có thể khi đất nước lâm nguy thì ngài sẽ ra tay giúp đỡ thôi. Nghe lão gia nói thế, thì mọi người sực nhớ đến lão trượng Tuyết Sơn,  nên ai cũng thấy vui và an tâm hơn. Vì dù sao ông ấy cũng là một người có phép thuật cao cường, và có một tấm lòng yêu thương con người rất lớn. Lúc này trăng đã lên cao lưng chừng núi, ánh trăng hắt ánh sáng vàng như mật tràn xuống trãi rộng khắp núi đồi. Mọi vật được nhuộm một màu trăng thật huyền ảo, ẩn hiện đẹp đẽ lạ thường. Ờ ngoài vườn nhà Tiểu hoa có trồng nhiều bụi hoa và cây ăn trái. Sứ thần đức vua cùng cha của Tiểu Hoa đi dạo trong vườn. Sứ thần nói: Mọi việc nhờ ngài gánh vác, trách nhiệm của tôi đến đây là xong. Tôi đã truyền lời của đức vua đến cho ngài biết rồi, vậy ngài chỉ việc thi hành thôi. Nhưng tôi về vùng núi Tuyết Sơn này mà tôi không gặp Tuyết Sơn lão nhân thì đáng tiếc quá. Sáng mai trước khi về triều, tôi và ông lên núi gặp ngài Tuyết Sơn nhé!  Lão gia gật đầu và thông thả đi dạo với ngài sứ thần của đức vua. Lão gia hỏi: Tình hình đất nước thế nào rồi thưa ngài? Sứ thần trả lời: Có thể xảy ra chiến tranh, nhưng điều đó đức vua không hề muốn. Vì ngài đã hết sức giữ cho mối hòa hảo với họ rồi, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thì người ta càng lấn tới. Vì an dân và lo cho dân là quốc sách hàng đầu của đức vua. Nhưng chúng ta không thể để mất nước, nhất định không thể làm nô lệ được. Hiện nay thế giặc rất mạnh, nghe đâu chúng có nhiều pháp sư phù thủy tài giỏi lắm. Chúng còn có cả một đội quân quỷ quái gớm ghiết vô cùng, không gươm giáo súng đạn nào có thể giết được chúng. Ngày mai đức vua sẽ phái một binh đoàn tiến đến vùng này, hiệp với ngài giữ vững nơi đây. Địa thế vùng này núi rừng hiểm trở, phải dùng mưu trí mới tính kế lâu dài chống giặc được. Dĩ nhiên nơi đây là đất địa linh nhân kiệt, và cũng nhiều uế trược bùa phép của lũ quỷ ẩn núp trong rừng sâu. Việc tiêu trừ ma quái thì có thể hỏi kế những vị ẩn sĩ ở đây. Nhưng ngài nên tập hợp binh lực các châu huyện, và cắt cử người trông coi huấn luyện binh mã gấp rút lên. Đã có mấy làng xã gần biên giới bị chúng đánh chiếm rồi, và lưu dân chạy loạn cũng đã dắt díu chạy về đây.
Lão gia nghe tới đó lòng nặng trĩu, và mong sao trời mau sáng để đi lo việc trong quân. Xưa kia lão gia cũng là một anh hùng hào kiệt khí phách lắm. Người đã cùng tiên đế đi chinh chiến tung hoành khắp nơi.Vô tình người nghé vào mảnh đất heo hút này, rồi ở lại đây luôn để tu tâm dưỡng tánh. Nhưng bây giờ đất nước cần, thì người phải lên đường thôi.
4. Hôm nay ngôi làng nhỏ thức dậy sau một giấc ngũ vùi trong đêm lạnh giá. Mới sáng sớm mà có hàng đoàn binh mã kéo nhau đi về làng, khói bụi cờ xí rợp trời. Những toán kỵ binh mặc quân phục rất đẹp phi ngựa ngang qua nhà của Tiểu Hoa. Kế tiếp là tiểu đoàn pháo binh, với những khẩu đại bác ngất ngưỡng do xe kéo đi. Những đoàn quân của đức vua di chuyễn về vùng núi này mãi vẫn không dứt. Lúc này tại nhà của ông lão Tuyết Sơn, có một buổi họp mặt để bàn tính tình hình chiến sự. Lão trượng Tuyết Sơn cùng ông lão Công Phu Tào Ngưu và Thiên Bình Tự Tại, đứng trên núi cao nhìn xuống quan sát tình hình chuyễn quân vô sâu trong núi. Lão trượng Tuyết Sơn vào trong nhà lấy ra một tấm bản đồ nhỏ, và chỉ trỏ gì đó với hai ông lão kia. Phía dưới quan tổng binh Lý Huệ Bình, cùng lão gia tổng trấn và quan sứ thần cũng dẫn binh đi qua. Quan sứ thần cùng quan tổng trấn dừng lại và lên núi gặp ba ông lão ẩn sĩ này. Còn quan tổng binh vẫn đem quân đi vào sâu trong núi.
Lúc này bọn trẻ  đã đi theo lão gia lên núi gặp sư phụ. Sư phụ kêu bọn chúng lại và nói rằng: Hôm nay sư phụ bận tiếp khách không thể dạy các con học được. Bây giờ các con hãy leo lên ngọn núi này. Chừng nào trông thấy một ngôi chùa cổ thì hãy vào đó xin ở lại. Ta sẽ nói với cha mẹ các con sau. Trong các con đứa nào dùng trí tuệ để tìm được cuốn sách phep thuật, thì tất sẽ là người dẫn đầu. Kế đó vẫn còn một thanh kiếm đá rất linh thiêng, một cái gương nhỏ và một bộ cung tên. Một cái chuông vàng cùng một con bạch mã có cánh, đang chờ các con đó. Ngôi cổ tự đó được canh giữ bởi một con rồng rất hung dữ. Khi các con ở lại đó thì sẽ rõ mọi chuyện. Nếu mọi việc suông sẻ tốt đẹp, thì xuống đây gặp ta. Thôi các con đi đi.
Vậy là bọn trẻ kéo nhau đi lên núi. Đại Hương đi bên cạnh Tiểu Hoa, nó nhìn thấy trong đôi mắt to tròn của cô bé long lanh một tình cảm đầy nghị lực. Tiểu Hoa nói: Anh Đại Hương ơi! Đường lên núi khó đi nhưng phong cảnh đẹp quá à! Em muốn dừng lại, hái một bó hoa rừng lên cúng Phật? Bạch Ngọc đi kế bên nó cũng nhìn Đại Hương, và cũng có ý hỏi như thế. Đại Hương trả lời: Vậy hai bạn kia thì sao? Thiên Hùng và Đại Lực đang leo núi phía trên chúng ta mà. Tiểu Hoa nói: Vậy anh nói với hai bạn kia đi trước đi, còn tụi mình sẽ lên sau. Đại Hương gật đầu và cất tiếng gọi hai bạn đang leo núi phía trên. Này Thiên Hùng Đại Lực ơi! Hai bạn lên núi trước đi, mình và Tiểu Hoa Bạch Ngọc sẽ lên sau nhé!!
Mùa này đường lên núi thật đẹp. Những cây gạo to hai bên đường ra bông trắng xóa, cành cọng chỉa thẳng lên trời cao tua tủa. Những khóm hoa chuối lá xanh rì nhưng có bông màu đỏ sáng như những ngọn lửa, lấp lánh rạo rực ẩn hiện khắp nơi. Còn những tảng đá xếp thành đường đi lên núi, thì im lìm nằm đó để con người bước qua đi lên cao, lên cao mãi. Tiểu Hoa và Bạch Ngọc hái được một ôm hoa chuối đỏ. Đại Hương đã dành lấy và ôm dùm cho hai bạn, đồng thời cậu ta còn dìu hai bạn gái đi nữa. Đi được một hồi khá lâu thì trời cũng đã gần trưa rồi. Nắng nóng làm ba cô cậu ai cũng đổ mồ hôi ướt áo hết trơn. Tiểu Hoa nói: Thôi tụi mình ngồi đây nghỉ một lát đi.? Đường lên núi còn dài chắc tới chiều mới tới ngôi cổ tự mà sư phụ đã nói. Bạch Ngọc và Đại Hương đồng ý. Vậy là ba đứa ngồi nghỉ mệt dưới một bóng cây mát rượi bên đường. Trong khi đó thì Thiên Hùng và Đại Lực đang leo lên núi sắp gần tới chỗ ngôi cổ tự rồi.
5. Buổi sáng hôm nay gió thổi mới mát mẽ làm sao! Cơn gió như vướng lại trên cao làm những cành đào lung lay phất phới. Sư phụ Tuyết Sơn kéo tất cả mọi người ra một cái bàn đá trong vườn. Người trãi tấm bản đồ ra và nói: Thưa các vị đại nhân! Vùng này là một dãy núi cao thấp lô nhô, nối thành một vòng cung lớn ôm lấy hết tất cả khu vực này. Dĩ nhiên vùng núi này dể phòng thủ mà khó tấn công. Quân địch không thể nào đem đại quân tấn công vào đây được, vì chúng sợ chúng ta phục đánh từ trên núi xuống. Nhưng chúng cũng không thể đi đường nào gần hơn đường này, nên tôi chắc chắn rằng chúng sẽ tập kết quân đội ở đây. Và sau đó sẽ đem toàn quân tấn công vào chổ khác. Vậy thì tôi thấy rằng: Chúng ta sẽ có hai phương án tấn công xảy ra. Chủ động tấn công trực tiếp và gián tiếp. Có nghĩa là khi quân giặc đến đây rồi, thì chúng sẽ tập trung quân ở ngay trước mặt chúng ta, và làm ra vẻ sắp tấn công tới nơi. Nhưng thật ra chúng sẽ tấn công vào một chổ khác. Vậy ta cũng đem toàn quân đi chổ khác đó, chặn đánh chúng và để một số quân nhỏ đủ phòng thủ ở đây thôi. Đó là kế gián tiếp. Còn kế trực tiếp thì chúng ta nên chủ động đón đánh chúng ngay từ đầu, khi chúng vừa đến đây, rồi ta lại lui quân về phòng thủ giữ chặc cửa núi. Cách nào thì cũng phải biết cách điều khiển khéo léo mới được. Khi nhanh thì cần phải nhanh và gọn gàng kín đáo, chính xác.
Tôi nghĩ, giờ này các binh đoàn chủ lực của đức vua đã về ở đây rồi. Vậy Tổng Trấn đại nhân nên dụng binh làm sao cho ít hao tổn nhất, nhưng đạt được thành công lớn nhất. Còn về phần tôi sẽ trực tiếp giao chiến với đội quân ma quỷ trong núi này. Đây là núi rừng của ta thì chẳng thể nào chúng ta thất bại được.
Lão gia tổng trấn và ngài sứ thần sau khi nghe sư phụ nói xong, thì lấy làm vừa ý lắm. Mọi người cùng uống trà và ngắm cảnh núi rừng bừng sáng trong nắng sớm mai. Phía dưới kia là những con đường núi quanh co, đang chở những đoàn quân tiến ra mặt trận. Lão gia quay sang hai ông bạn già của sư phụ hỏi: Vậy hai ngài cũng là bạn của lão đại Tuyết Sơn đây? Tôi rất hân hạnh được biết hai ngài. Biết ý, sư phụ liền nói: Đây là tướng quân Công Phu Tào Ngưu, là một võ tướng đó, còn người này là một văn nhân hào kiệt, tên là Thiên Bình Tự Tại. Hai ông này là bạn thâm giao của tôi. Chúng tôi rỗi rãi nhiều, nên thường chơi cờ và đàm đạo với nhau. Họ gọi tôi bằng đại huynh ha ha ha ! Sư phụ nói xong thì tất cả mọi người đều cất tiếng cười vang.
Nãy giờ ông sứ thần của đức vua, cứ nhìn chăm chăm vào sư phụ Tuyết Sơn mà chưa nói gì. Ông mới gặp sư phụ lần đầu mà tỏ vẻ say mê ngay. Ông ta nói: Tôi là kẻ phàm phu hữu lậu, hôm nay may mắn được gặp ngài. Nhưng tôi xin lóng tai nghe ngài chỉ dạy. Tôi cũng không biết bắt đầu từ đâu để hỏi ngài, vì thế giới này rộng lớn quá. Nghe vậy sư phụ hiểu ý liền lấy một quyễn sách ra đưa cho ông ta và nói: Đây là một quyễn sách, ta cứ cho nó là có một trăm trang đi. Vậy nhe! Vậy thì thế giới này, ông nói nó rộng lớn vô cùng là sao? Trước tiên ta phải biết rằng nó có hai phần. Phần hữu hình và phần vô hình. Này nhé! Ông hãy hình dung đi. Phần hữu hình nó có một trang thôi, đó là trang bìa. Còn phần vô hình, là nó chiếm hết chín mươi chín trang còn lại. Phần hữu hình là phần hiện thực, mà chúng ta có thể biết như cây cỏ cảnh vật, phố xá xe cộ, nhà cửa tiền bạc tài sản vật chất, công danh sự nghiệp, và cả ý thức, cách ứng xử khôn ngoan đối phó của chúng ta nữa. Ai thành công về mặt này thì gọi là có phước đức. Còn phần vô hình, là phần chúng ta không thấy được, tôi gọi nó là chiều sâu của hiện thực. Nếu ai hiểu được nó thì là có công đức, là có cái trãi nghiệm tâm linh, tâm thức. Nó là tư tưởng, nghệ thuật, triết học, tôn giáo, thần linh, thần thánh, Phật trời..vv Mà người ta hiểu tới đâu thì nói tới đó, hiểu kiểu nào thì nói kiểu đó. Người ta giải thích nó xoay quanh hình ảnh phản chiếu của cái thế giới hiện thực này. Và là để xây dựng thế giới hiện thực này tốt hơn. Người ta khai phá nó là để sáng tạo, và khai mở tự do, nhưng không bao giờ hết đâu. Từ xưa tới nay, chỉ có vài người là đã đi hết con đường vô hình này thôi. Riêng tôi thì đi vào đời sống (để cải tạo đời sống này bằng minh triết, từ đó thế giới mới có hòa bình được). Nếu bạn hiểu được cái hữu hình, thì bạn có pháp hữu vi. Nếu bạn hiểu được cái vô hình, thì bạn được pháp vô vi. Cái hữu vi là cái chính danh. Cái vô vi    đạo, và tùy theo sự hoằng đạo mà gọi tên. (Vì đạo lớn là không thể gọi tên được – Lão Tử). Vì thế, thế giới này mới chia ra năm bậc, từ người tới Phật là: Người, Thần, Tiên, Thánh, Phật. Người, chỉ cho phần hữu hình, gồm cả dân thường và hoàng đế. Còn bốn cái kia chỉ cho phần vô hình của thế giới này…
Thôi tôi nói tới đây thôi, mai mốt tôi nói tiếp, nếu ông muốn hỏi bất cứ điều gì thì tôi cũng vui lòng trả lời hết cho ông luôn! Sư phụ nói tới đây rồi thì ông sứ thần của đức vua liền nói: Tôi xin ngài nhận tôi làm bạn của ngài, Từ nay tôi xin theo ngài để được lắng nghe ngài nói.
6. Bọn trẻ đi hết buổi sáng thì cũng đã tới ngôi chùa cổ trên núi. Lúc này mặt trời đã ngã bóng sang buổi chiều, nên đứa nào cũng đói và mệt. Cả bọn tự lách cửa đi vào chùa. Sân chùa vắng lặng lạ thường, vì nó hoang phế từ lâu. Bổng nhiên có một con rồng lớn bò ra sân và luôn miệng kêu khè khè rất đáng sợ. Nó bò thành vòng tròn quanh bọn trẻ để dò xét. Tiểu Hoa và Bạch Ngọc rất sợ, nhưng nhờ sư phụ đã báo trước rồi, nên hai cô bé cũng chưa khóc. Còn ba cậu con trai thì đứng nép vào nhau xoay vòng theo con rồng và nói: Này rồng thiên! Có cái gì cho chúng tôi ăn không? Vì chúng tôi đói lắm rồi. Chúng tôi là học trò của lão Tuyết Sơn Minh Hạnh Túc, lên chùa này để tìm một bí mật. Rồng ơi hãy biến thành người đi và nói chuyện với chúng tôi đi. Nghe vậy con rồng như hiểu ý và càng kêu lên những tiếng khẹt khẹt lanh lảnh rất đáng sợ. Song nó dừng lại không bò vòng vòng nữa, mà nó ngẫng cao đầu đứng thẳng lên, rồi há miệng phun ra một đám lửa bay lên trời. Thoắt cái nó biến thành một chàng thanh niên rất dũng mãnh, có đôi mắt sáng rực như thiêu đốt trong ánh nhìn với người khác. Chàng thanh niên nói: Tôi là Thiết Long, canh giữ ngôi chùa này. Tôi cũng là đệ tử của sư phụ Tuyết Sơn như mấy bạn thôi. Trước đây sư phụ đã ở đây, và đã dạy tôi phép thuật, rồi biến tôi thành một con rồng sắt để canh giữ ngôi chùa này luôn. Nói xong Thiết Long mời tất cả ăn cơm và nghỉ ngơi. Đại Hương nói: Anh Thiết Long nè! Bộ anh có phép thuật biến hóa đủ thứ hả? Anh thử biến cái gì cho chúng em xem đi? Thiết Long gật đầu và chỉ ngón tay vào một khúc củi trong sân chùa, thì nó biến thành một con chó đen to lớn lắm. Con chó cất tiếng sủa ầm ầm làm vang động núi rừng. Nhưng Thiết Long nói: Các bạn ăn cơm đi. Đây là bửa ăn do tôi biến hóa ra đó, cứ ăn cho no xong rồi tất cả sẽ biến mất khỏi dọn dẹp gì cả. Tiểu Hoa thích quá chạy đến bên Thiết Long nói: Em xin anh đừng biến mất mà ngồi ở đây nói chuyện với tụi em nhe! Thiết Long nói: Ờ cũng được! Xưa kia tôi là một tên cướp bị thương, và đang bị quan binh đuổi gấp, nên tôi chạy lên ngọn núi này. Tôi đánh cướp của các nhà giàu ác bá để giúp dân nghèo. May nhờ gặp được sư phụ Tuyết Sơn cứu mạng, rồi truyền cho võ công và phép thuật. Tôi đã tự nguyện ở lại đây canh giữ ngôi chùa này luôn. Sự phụ nói, số tôi phải biến thành con rồng mới thoát nạn pháp trường xử tội. Cho nên tôi đã biến thành con rồng như các bạn đã thấy đó! À vậy hả! Cả bọn trẻ thốt lên! Chúng không ngờ chàng trai mắt sáng dũng mảnh kia, là một tướng cướp một thời.
Theo lời sư phụ, thì cả bọn phải tìm cho ra những thứ bửu bối đó, rồi về nhà gặp sư phụ học phép thuật. Trong năm đứa nếu đứa nào tài trí, thì sẽ tìm được quyển sách phép thuật, vì nó chứa tất cả sức mạnh phép thuật trên đời. Đêm nay bọn trẻ ngũ lại chùa như một giấc mộng. Những âm thanh núi rừng vọng lại không ngừng. Tiếng u u thênh thang của màn đêm, tiếng gió thổi xào xạc, tiếng những cây rừng cọ siết vào nhau két két, và cả tiếng của bầy linh cẩu hú dài suốt đêm. Gió lạnh đèn hiu hắt đổ bóng xuống chỗ nằm của bọn trẻ đang ngủ say.
Thế là bọn trẻ đi tìm mãi mà chẳng thấy được thứ nào cất dấu trong chùa. Vả lại chả có đứa nào có phép thuật thì làm sao tìm được đây? Anh Thiết Long thì đã biến thành một con rồng sắt nằm trên nóc chùa rồi. Anh ta chả can dự gì vào cuộc tìm kiếm của lũ trẻ, vì anh biết rằng với phép thuật của mình, mà anh ta còn không tìm được nữa, huống gì lũ trẻ con tay không này.
7. Quan Tổng binh Lý Huệ Bình đã chuyển quân vào sâu trong núi. Từ bên kia biên giới đã bắt đầu nghe những tiếng nổ vang dội của những loạt đại bác bắn suốt ngày đêm. Có lẽ quân ta đã chạm trán với quân thù đâu đó rồi. Lão gia tổng trấn cùng ông Công Phu tào Ngưu cũng cầm quân đi. Còn ngài sứ thần thì ở lại bên sư phụ Tuyết Sơn.
Ở triều đình, đức vua đã phái nhiều tướng quân đi rồi, nhưng chiến tranh như đám lửa cháy lan nhanh khắp nơi. Trên thế giới đã có nhiều nước đã lọt vào tay bọn giặc, chúng đi tới đâu, đều gieo rắc đau thương tang tóc tới đó. Mỗi ngày đức vua thường theo dõi tin tức chiến trận trên nhiều mặt trận. Quân ta không thất bại nhưng cũng không thể đẩy lui được quân thù. Ở vùng núi phía tây, thì có một đội quân ma quái gớm ghiết đã làm quân ta hoảng sợ. Vì xe tăng máy bay và tên lửa cũng không làm chúng gục ngã được. Nhà vua đã ra lệnh thả bom sập cả núi rừng, nhưng khi khói bom vừa tan, thì chúng lại hiện ra thật kinh hải? Nhưng chẳng hiểu sao, đội quân ma quái kia, lại không tràn xuống đồng bằng, mà chúng chỉ quanh quẫn trong vùng núi đó thôi.
Một hôm có tin từ mặt trận báo về, tướng quân Lý Huệ Bình đã bị thương nặng. Người ta chuyển ngài về đây, và mọi việc chiến sự phải giao lại cho phó tướng chỉ huy. Ông lão Công Phu Tào Ngưu, thì vẫn ở trong quân với quan tổng trấn. Nhà vua đã ra lệnh di tản tất cả thường dân xung quanh núi, về vùng hậu cứ an toàn. Vậy là gia đình của Đại Hương, Đại Lực và Thiên Hùng cùng Tiểu Hoa Bạch Ngọc cũng đã dời đi. Còn các cô cậu bé đó lúc này vẫn còn ở trên núi, để tìm kiếm một bí mật mà sư phụ đã giao cho.
Mấy ngày nay, người ta đang chuyển những thương binh về ngang qua đây. Một cảnh tượng đau lòng hiện ra trước mắt mọi người. Từng đoàn người bơ phờ như mất hồn, quần áo rách rưới kéo nhau đi về xuôi. Tướng quân Lý Huệ Bình thì được chuyển về bằng máy bay trực thăng. Ngài đã mất một cánh tay, còn trên người thì đầy vết đạn. Ngài không nói được nữa, và cảm thấy thật xấu hổ khi để toàn quân thất trận. Từng đoàn người chạy loạn kéo nhau đi, họ đang chạy trốn cuộc chiến tranh quái ác kia. Cuộc chiến tranh, là kết quả của những tham vọng đầy ảo tưởng, của những kẻ điên rồ độc ác. Có rất nhiều người đã gục ngã trên đường về cố quốc, mà không bao giờ còn đứng lên được nữa.
Sư phụ Tuyết Sơn đã biết mọi chuyện, nhưng người không ngờ chiến tranh lại lan nhanh như thế. Sư phụ như đứng ngồi không yên. Ngôi làng nhỏ dưới kia thì đã vắng teo, và mấy đứa học trò nhỏ của ông cũng vẫn chưa về. Sư phụ quyết rằng làm sao phải đánh bại đội quân ma quái kia, thì quân ta mới có thể tiến lên được. Trong khi đó, nhà vua vẫn không hay biết gì về những điều quỷ quái này. Người đã điều tất cả bộ máy chiến tranh của triều đình lên đây, nhưng vẫn thất bại tổn quân mất tướng. Nhà vua đã điên tiết đập bàn giữa buổi họp mà hét lên rằng: “Các khanh hãy quay lại cái vùng núi quỷ quái đó, và hãy đánh tan quân thù cho ta! Nếu không chính ta sẽ phải thân hành đi đến đó cho các khanh xem”.
Thế là lão gia tổng binh điện về cứu viện sư phụ. Sư phụ nói: Hiện giờ tôi chưa thể đi đánh cái mụ phù thủy Linh Cẩu đó được. Vì tôi còn chờ các học trò của tôi. Tôi sẽ cử ông Thiên Bình Tự Tại đến giúp ngài. Nhưng ngài tạm thời nên chớ tấn công bọn chúng, mà phải cố thủ không đánh. Dĩ nhiên chúng ta sẽ tổn thất, khi chúng pháo kích và bắn tên lửa sang phòng tuyến chúng ta. Còn đội quân ma quái kia thì chúng chỉ quanh quẫn trong khe núi sâu, và sẽ không tiến xuống đồng bằng đâu. Ngài hãy chờ đợi. Tôi đã có cách đối phó với chúng rồi.
Vậy là lão gia tổng trấn cùng hai ông Công phu Tào Ngưu và Thiên Bình Tự Tại cố thủ không đánh. Lúc này tướng quân Lý Huệ Bình đã chết tại nhà thương. Đức vua đã sai tướng quân Hắc Thổ lên thay làm tổng chỉ huy mặt trận. Tướng quân Hắc Thổ là một tướng lĩnh kiêu hùng nhưng sáng suốt, khi chịu nghe lời của quan tổng trấn là cố thủ chứ không đánh. Mặc cho nhiều điều đàm tiếu khắp nơi, đang bay về triều đình đến tai đức vua.
8. Vậy là qua nhiều ngày nữa, mà lũ trẻ vẫn không tìm ra cái gì cả. Một hôm có một người thợ rừng đang bệnh rất nặng. Ông ta chỉ kịp đi tới cổng chùa là té xuống nằm mê man. Bọn trẻ từ trong chùa chạy ra cứu ông lão vào chùa chăm sóc. Ông ta trong cơn hấp hối cứ la hét đầy sợ hãi, làm bọn trẻ cũng mệt đừ, vì phải canh chừng ông lão suốt ngày đêm. Đêm đó khi các bạn đã ngũ say, Đại Hương nằm mộng thấy mình đi lên các từng trời, gặp một vị trời đang đi dạo trong vườn. Đại Hương đến hỏi, thì vị trời đó cho biết rằng, kẻ thù của ông ta đã sắp chết rồi. Đó chính là ông lão thợ rừng kia. Vì xưa kia, khi vị trời này là một con chim, ở trong vùng núi Tuyết Sơn này, thì ông thợ rừng đó đã phá tổ chim, bắt các chim con và bắn chết con chim mái là vợ của ông ta. Chính ông ta là con chim trống, đã bị lão thợ rừng đem về nhốt trong một cái lồng suốt mười bảy năm trời. Sau đó vì quá đau buồn ngột ngạt, nên con chim trống đó đã đập đầu vào cái lồng mà chết. Bây giờ được sinh lên cỏi trời cai quản ba cung điện xinh đẹp này đây. Nghe tới đó, thì Đại Hương mới hỏi có cách gì cứu ông lão đó không? Thì vị trời đó mới trả lời: Chỉ có một cách là xuống địa ngục, hỏi trong sổ vua Diêm Ma xem có cách nào cứu không, chứ ông ta đã tới số rồi. Thế là Đại Hương hỏi đường xuống địa ngục. Vị trời đó nói rằng: Ngày mai con hãy ra sau núi tìm xem có một cái miếu nhỏ thờ một ông thần rừng rất linh thiêng. Chắc có lẽ ông thần đó sẽ chỉ cách cho con đường đi xuống địa ngục. Nghe tới đây thì Đại Hương tỉnh mộng nhìn quanh, chỉ thấy mình đang nằm ngũ cùng các bạn trong chùa. Đại Hương nằm im sau giấc mộng lạ kỳ, để lắng nghe những âm thanh thiên nhiên thức dậy. Lúc này khắp rừng núi đã vang lên tiếng gà gáy sáng…Trời cũng đã hừng đông.
Sáng hôm sau, trong khi các bạn vẫn đang chăm sóc cho ông lão thợ rừng hấp hối, thì Đại Hương một mình lần ra sau núi, đi tìm cái miếu nhỏ thờ ông thần rừng kia. Cậu bé đi mãi, đi mãi và đã trèo qua mấy tảng đá lớn, cùng mấy con suối vẫn không tìm ra cái miếu nào cả. Cậu ta mệt lã rồi gục ngã nằm ngũ thiếp đi lúc nào không biết. Nhưng khi cậu ta thức dậy, thì thấy mình đang nằm trước cửa một ngôi miếu hoang giữa núi rừng thênh thang.
Đại Hương đi vào trong miếu, thì thấy nơi đây hoang phế rợn người. Mạng nhện giăng đầy trên những pho tượng quỷ thần đổ nát. Không gian bên trong ngôi miếu âm u sáng tối chập chùng. Ở giữa miếu có một bộ đồ đội mũ quan tướng xanh đỏ, đặt trên một cái ngai đã gãy đỗ. Đại Hương chẳng biết phải làm sao, nên đến quỳ lạy bộ đồ mũ quan đó. Bổng nhiên bộ đồ đó nhúc nhích và cất tiếng nói: Con hãy với tay lấy cái đầu dùm ta coi? Ta bị kẹt ở đây chả làm gì được cả con ơi! Như bị sai khiến bởi tiếng nói âm u đó, nên cậu bé làm theo như một cái máy. Cậu ta cuối xuống đất, thì thấy một cái đầu lâu, còn dính một ít da thịt và râu ria, cùng hai hàm răng trắng nhỡn đang nói: Nhanh nên nào cậu bé! Cậu gắn đầu ta vào cái xác ta đang ngồi trên ghế kia đi. Rồi cậu muốn gì thì ta sẽ giúp cho. Đại Hương liền cầm cái đầu lâu lên, và gắn vào cái thân của ông ta. Cái đầu xoay một vòng và dính lại ngay ngắn vừa vặn làm sao. Đại Hương nói: Thưa ngài thần miếu. Ngài có thể giúp tôi được không. Bây giờ tôi muốn xuống địa ngục để làm một số việc rất gấp. Ông thần miếu nói: À là ra thế sao? Con hãy nhắm mắt lại, và lao mình xuống cái giếng sau tảng đá này, là đi tới địa ngục ngay. Nhưng khoan đã nào! Đã lâu lắm rồi ta không nói chuyện với ai cả. Ta thấy con là một cậu bé tình cảm, và có lòng thương người. Con hãy đến đây với ta. Trong khi ông thần núi nói chuyện, thì hai ống tay áo của ông ta vẫy vẫy, cái đầu ông ta lắc lư như muốn rớt xuống đất, còn hai hàm răng trắng nhỡn thì lung lay không ngừng. Đại Hương hơi thấy sợ và nghĩ: Thật khủng khiếp quá! Ở đây chẳng khác nào địa ngục rồi, còn đi đâu nữa? Cậu bé đang nghĩ tới đó, thì ông thần miếu nói tiếp: Tình yêu thương con người, là một phép thuật linh diệu nhất! Nó có thể chữa lành mọi vết thương. Nó có sức mạnh vô địch. Ta gặp con, cũng vơi bớt rất nhiều nỗi cô đơn một mình ở trong cái miếu hoang này. Thôi con đứng dậy và đừng quỳ lạy ta nữa. Con hãy đi về và xô ngã cái tượng Phật trong chùa kia đi. Hãy mạnh dạn bước đi thì con sẽ tìm được quyển sách phép thuật. Khi con ra trước cửa miếu, thì ở đó có một con ngựa trắng có cánh đang chờ con đó. Con hãy vuốt bờm nó ba lần, thì có thể cưởi nó bay về nhà. Thôi con hãy đi đi.
Thế là Đại Hương từ tạ ông thần núi ra về, và không quên cưởi con ngựa trắng có cánh ra đi. Khi Đại Hương trở lại ngôi chùa hôm trước, thì nghe nói lão thợ rừng kia đã khỏi bệnh một cách thần kỳ. Lão ta đã vác một bó củi to và đã đi rồi. Tiểu Hoa đã tìm được chiếc gương thần. Bạch Ngọc đã tìm được cái chuông vàng. Thiên Hùng đã tìm được thanh kiếm đá linh thiêng. Đại Lực thì tìm được bộ cung tên trên vách núi sau chùa. Tuy nhiên quyển sách phép thuật thì chưa ai tìm ra cả.
Gặp lại các bạn, Đại Hương liền thuật lại tất cả câu chuyện mình đã trãi qua. Lúc này con rồng dữ cũng đã hóa thành chàng trai Thiết Long dũng mãnh. Thiết Long nói: Nếu điều bí mật kia, nằm dưới tượng Phật đó, thì không thể nào chúng ta lấy được đâu, vì tượng Phật nặng lắm. Nhưng chúng ta cũng phải thử thôi. Thế là cả bọn kéo nhau lại khiêng tượng Phật lên. Cả bọn khiêng hoài nhưng cũng không được, nên đành bỏ cuộc. Đại Hương nghĩ: Phải có điều gì bí ẩn ở đây chứ? Nghĩ thế nên cậu ta một mình đến khiêng tượng Phật lên, mà trong lòng vẫn nghĩ đến ông lão thợ rừng nghèo khổ kia? Ông ta có còn ngã bệnh nữa không? thì tự nhiên cậu ta khiêng tượng Phật lên được.
Và quyển sách phép thuật sáng chói hào quang đã nằm trong tay cậu ta rồi.
Mụ phù thủy Linh Cẩu
9. Vậy là theo đề nghị của sư phụ, quân ta không đánh mà chỉ cố thủ thôi. Nhưng dĩ nhiên quân thù vẫn không thể nhích lên được chút nào. Ở mỗi khe núi tướng quân Hắc Thổ đều cho đặt pháo lớn và xe tăng án ngữ. Đêm đêm thì có máy bay thay phiên nhau thả những chùm pháo sáng, để quân ta biết đường chuyễn quân. Đạn vẫn nổ, xác người vẫn ngã xuống, và chiến tranh vẫn không thôi hả cái họng quái vật của nó ra, ngoạm lấy cả một vùng làng quê thanh bình này. Bọn quỷ quái trong khe núi do mụ phù thủy Linh Cẩu cầm đầu thì ra vẻ đắc thắng lắm. Chúng biến hóa ra hàng đàn linh cẩu con đứng trên hai chân người, tay cầm những khúc xương trắng, mà miệng thì la hét hỗn loạn không ngừng. Khi màn đêm buông xuống, từ các khe núi chúng tràn ra hàng đàn linh cẩu, với những đôi mắt sáng lòa cả một vùng đồi. Những tiếng hú dài của chúng trôi đi trong đêm, như những nhát dao cứa vào lòng người, làm trào ra tất cả sự sợ hãi hoang mang kinh khiếp nhất.
Lúc này sư phụ Tuyết Sơn cùng ông sứ thần đức vua bèn đi xuống núi. Ngài đã cùng mọi người băng bó vết thương cho thương binh được chuyễn về đây. Sư phụ đã dùng phép thuật và tình thương của mình, làm cho những người bị thương hết đau, da thịt rách nát thì lành lại, người cụt chân thì mộc ra một cái chân mới. Người đã biến hóa ra lương thực thuốc men để dùng trong quân. Những con thú bị động rừng chạy về đây, thì người hóa phép biến chúng thành những chàng trai cô gái xinh đẹp mạnh khỏe. Từng đàn cừu bị bỏ lại bởi dân làng, thì sư phụ biến chúng thành một đoàn quân gươm giáo sáng ngời. Giờ này sư phụ đã có quân đội trong tay, và chỉ chờ mấy đứa học trò trên núi xuống nữa mà thôi.
Khi đức vua ở triều đình, hay tin quân ta đang án binh bất động, thì người lấy làm không vui, nhưng người không phản ứng ngay, mà cho người đi thăm dò theo dõi tình hình. Thì ra quân tình đã có sự thay đổi lạ thường. Tuy chúng ta chưa thể tấn công quét sạch quân thù, nhưng ở hậu phương thì tất cả thương binh đều mạnh khỏe trở lại. Hoa đã nở khắp núi đồi và màu tang tóc cũng đã đi qua. Đức vua nghe tin này rồi thì rất vui, nên đã thân chinh về vùng núi này xem sao.
Đức vua cùng đoàn tùy tùng của mình đi trên một chuyên cơ về đây. Sau khi đã đi thị sát mặt trận. Gặp tướng quân Hắc Thổ báo cáo tình hình chiến sự, đồng thời người không quên đi ủy lạo binh sỹ, thăm hỏi đồng bào trong vùng bị nạn. Người nóng lòng muốn gặp ông lão Tuyết Sơn để biết hư thực ra sao?
Sư phụ đã biết mình sẽ gặp đức vua, nhưng người vẫn chăm sóc cho người đau bệnh không phút nghỉ ngơi. Vậy là đức vua cũng đã tới cùng với quan đại thần Xích Vân Tử, từ bên nước Xích Tử sang giúp nhà vua. Quan đại thần thông báo cho sư phụ rằng đức vua đã đến. Khi gặp đức vua sư phụ nói: Đại Vương vạn tuế! Đức vua nói: Xin tiên sinh hãy bình thân! Đây là quan đại thần của trẩm, là nhà triết học thiết kế thể chế chính trị của đất nước ta đó. Ông ta là tướng quân của nước Xích Tử tới đây, giúp ta xây dựng một chế độ bình đẳng, mọi người đều được hạnh phúc, không có người bốc lột người. Sư phụ nói: Xin chúc mừng đại vương! Đức vua nói: Ta biết ông là một người hiểu biết, vậy theo ông điều gì là cần thiết nhất và quý nhất lúc này? Sư phụ nói: Đại Vương hỏi như thế là nhằm vào những cuộc chiến tranh rồi.? Phải không? Đúng thế! Đức vua trả lời! Sư phụ nói: Thưa đại vương! Xưa kia khi con người không được biết đến những hệ tư tưởng triết học, thì người ta chỉ sống trong tình cảm nhiều hơn là tư tưởng. Nhưng tình cảm chứ không phải là tình yêu thưa đại vương! Tình cảm đó thì có tình cảm xấu và tình cảm tốt. Tình cảm xấu là do sự tham lam tính toán của tâm trí con người gây ra. Tình cảm xấu luôn nhiều hơn tình cảm tốt, vì ai cũng muốn xưng hùng xưng bá mà.
Những dân tộc mạnh hơn, thì muốn bắt những dân tộc yếu hơn làm nô lệ cho mình. Hoàng đế và tầng lớp người cai trị tham lam vơ vét của dân. Bắt dân chúng phục dịch cho mình, thưa đại vương! Đó là cái tình cảm xấu tạo ra mà tôi gọi là nghiệp chướng của loài người. Nhưng thưa đại vương! Chỉ có tình yêu là cứu được nhân loại thoát vòng giết chóc lẫn nhau mà thôi. Đó là tình yêu xuất phát từ chân lý, chứ không phải thứ tình yêu ích kỷ chủ quan, chỉ biết lợi cho mình. Thưa đại vương!
Nhà vua nói: Vậy thế nào là chân lý thế nào là lý tưởng? Sư phụ nói: Theo tình hình hiện nay tôi xin nói xoay quanh vấn đề chiến tranh thôi. Vì nói về hai cái đó rất là dài không thể nào nói hết được. Này nhé! Thưa đại vương! Khi nhân loại đã sinh ra các nhà tư tưởng chứ không phải là một Đức Phật! Thì các nhà tư tưởng này đã đề ra những học thuyết để cải tạo xã hội. Thời xưa thì những học thuyết đó là để bảo vệ cho lợi ích của những kẻ cầm quyền! Nhưng sau cuộc cách mạng tư sản trên thế giới, thì các học thuyết đó đi tới tham vọng tốt đẹp hơn. Chính vì thế giới có nhiều hệ tư tưởng quá, nên các thế lực cầm quyền mù quáng dùng nó rồi gây ra chiến tranh. Đến cả tôn giáo mà xuất phát từ lý tưởng gọi là Đạo Thánh, thì cũng đánh giết lẫn nhau đẫm máu lắm. Như đại vương đã biết rồi đó. Vì lý tưởng là người ta chuốt nhọn cái ham muốn của mình thành mũi dao sắc bén mà thôi. Là tư duy một chiều, nên khi ham muốn vui thích thì tư duy tới thiên đàng. Khi buồn chán đau khổ thì tư duy đến ngày tận thế. Thưa đại vương! Nhưng sự thật không phải vậy đâu. Thưa đại vương! Con người lý tưởng là cực đoan lắm. Đại vương hãy lựa chọn giữa việc xây thêm nhà tù hay sửa đổi chính sách cai trị của mình đi, nếu đại vương thấy cái nào có lợi hơn thì làm. Vì nhà tù cũng không chứa hết những con người lý tưởng cực đoan đâu. Vì biện pháp đó cũng không khuất phục được họ đâu. Thưa đại vương! Người ta xây dựng một lý tưởng là con người siêu nhân, đứng trên những dân tộc khác thì đã thất bại rồi. Người ta xây dựng một học thuyết con người vô sản, làm chủ thế giới thì cũng đã thất bại luôn. Ai cũng lý tưởng hết, ai cũng bênh vực cái đúng của mình hết, nên sinh ra đánh nhau thành ra chiến tranh. Thưa đại vương!. Cái đó tôi gọi là chiến tranh của một thế giới phát triển văn minh nhưng mù quáng. Còn ngày xưa là chiến tranh của một thế giới lạc hậu tối tâm vì lòng tham. Thưa đại vương!
10. Đức vua nghe xong nhưng vẫn có điều thắc mắc nên hỏi: Ta phải về triều làm nhiều việc nữa. Vậy ngài hãy nói rỏ lý tưởng và chân lý khác nhau chổ nào? Và ta luôn định hướng cho chế độ chính trị của ta theo một lý tưởng tốt đẹp thì có sai không? Vậy thôi. Còn nhiều việc sau này ta sẽ hỏi ngài thêm. Sư phụ nói: Thưa đại vương! Lý tưởng là do người ta tư duy một chiều từ ý thức vào trong mà thành. Nên nó là một con đường với hai giới hạn, là âm và dương ở hai đầu. Đầu dương là phân tích chia nhỏ ra càng ngày càng nhiều thêm. Đầu âm là ngược lại cũng như thế. Làm sao bạn xác định được cái kết quả tận cùng này? Bạn tìm cái nhỏ nhất thì vẫn còn có cái nhỏ hơn. Bạn tìm cái lớn nhất thì vẫn còn cái lớn hơn? Vậy lý tưởng là chấp vào hai giới hạn đó rồi. Vì đi mãi theo nó nên người ta tuyệt vọng và sinh ra cực đoan. Người ta đấu tranh là để được cái gì? Hay như một người cả đời ảo tưởng nhìn thấy cái cối xây gió mà tưởng là kẻ thù, và cứ chiến đấu với nó mãi. Chính những con người phát hiện ra điều này, thì cuối cùng thất vọng rồi tìm đến cái chết. Cho dù họ công danh tiếng tăm tiền bạc đầy nất. Thưa đại vương! Lý tưởng thì có nhiều loại lý tưởng khác nhau. Vì trên cái đoạn tư duy một chiều đó, người ta cắt ra từng đoạn khác nhau nên nó khác nhau thôi. Do đó mới gây ra tranh chấp rồi chiến tranh trên khắp cả địa cầu, như đại vương đang chứng kiến đây. Thưa đại vương! Còn chân lý thì ngược lại điều này. Nó không chấp vào hai giới hạn đó, mà nó là tương quan nằm ở giữa hai giới hạn đó. Nó xác định cái giá trị tìm được do hai giới hạn đó sinh ra trong hiện tại. Chân lý chỉ có một mà thôi. Người chạm tới chân lý là người đã “tư duy ngược” từ trong ra ngoài. Cái “tư duy ngược” đó tôi gọi là thiền, vì nó hiểu được cái bất hợp lý trên đời, đó là sự thật. Thưa đại vương! Chân lý là một, vì khi hai dòng tư duy đó gặp nhau tại một điểm ở giữa, thì nó bằng không (hư không) theo cái nhìn nhị nguyên. Nhưng từ bên trong nó lại nhìn ra cái nhất nguyên. Vì sao có cái nhất nguyên này? Thưa đại vương! Vì cái gì tương đồng từ ngoài chạy vào giữa thì biến mất. Đó là niết bàn. Là cái chân tâm của con người. Là cái bất biến. Từ đó mới có cái gì khác biệt từ giữa chạy ra ngoài là sinh ra. Tôi gọi đó là thực tại. Là sự chuyễn động của thiên nhiên bên ngoài. Là cái vô thường. Khi hai cái đó đặt trùng khít lên nhau là hư không, và cũng là một. Là không chấp vào hai giới hạn hai đầu nữa. Là vô sinh bất diệt. Thưa đại vương! Từ điểm này mà chúng ta có thể suy ra tất cả mọi việc trên đời. Vì tạo hóa chính là đây. Sinh diệt cũng từ đây. Thưa đại vương! Chân lý là tư duy hai chiều thấu suốt tất cả mọi việc trên đời nên nó cân bằng. Vì thế dùng nó để cải tạo thế giới thì sẽ có hòa bình. Thưa đại vương! Lý tưởng  là tuyệt đối thì sinh ra triết học, còn chân lý là tương đối thì sinh ra minh triết. Các nhà triết học thì rất đông, họ như đám khán giả ngồi xem một vở tuồng trên sân khấu tạo hóa. Còn nhà hiền triết là người đứng sau sân khấu, và đạo diễn của vở tuồng này. Thưa đại vương!
Còn điều thứ hai đại vương hỏi rằng lý tưởng theo sự phân tích kể trên là sai sao? Thưa đại vương! Nó là thế này! Có thể nói nó đúng như một sự định hướng, và nó sai ở điểm tận cùng vì nó dẫn con người ta đi đến bế tắc (như triết học đã bế tắc). Như đại vương định hướng cho chế độ chính trị của mình, theo một lý tưởng tốt đẹp là không sai. Và đại vương cứ đi theo con đường đó, đến khi nào thấy sai rồi thì sửa có sao đâu. Vì sao tôi nói điều này. Vì tất cả loài người đều tư duy theo kiểu nhị nguyên lý tưởng cả, chỉ trừ mình tôi ra. Vì thế nên Đức Phật Thích Ca mới nói kinh A Di Đà để cho chúng sinh tu theo lý tưởng tịnh độ, để hy vọng được lên thế giới cực lạc. Do đó tôi tin những sự tính toán của Đức Phật Thích Ca là đúng chứ không sai được. Cho nên việc đại vương đang làm là không sai.
Đức vua nghe xong trầm ngâm giây lát và hỏi tiếp: Vậy con đường của tiên sinh là gi? Tiên sinh đưa ra cái học thuyết gì? Ta thấy trên thế giới, người ta đưa ra những cái mới. Còn tiên sinh nói về đạo lớn thì người ta cũng đã nói rồi? Vậy cái gì là mới trong trong cách nghĩ của tiên sinh? Nghe vậy sư phụ Tuyết Sơn bật cười ha hả và trả lời rằng: Thưa đại vương! Trước tiên là tôi xin nói rằng, con đường của tôi đi là con đường của tình yêu. Là con đường chung xưa nay của loài người, nên không có gì mới cả. Tuy nhiên như tôi đã nói nhiều rồi, Tôi dùng đạo lớn để cải tạo đời sống. Ở điểm này thì có thể gọi là mới.. Cái này nó cũng do sự đòi hỏi của thời đại mà ra, chứ không phải do tôi. Thưa đại vương! Nhưng mới hay củ cũng khó nói lắm! Vì nói đi nói lại một vấn đề theo nhiều cách khác nhau, thì cũng là mới. Mà cái mới này là cái mới ở ngoài như một thứ thời trang. Nhưng thật ra loài người tới thời điểm này, thì người ta đã biết hết rồi. Cho nên tôi cho rằng, mọi lý thuyết trên đời này đều đã củ. Chỉ có cái mới ở đây là sự thực hành và chứng ngộ. Vì tất cả cái hệ thống lý thuyết kia, là do những người đứng bên ngoài khu vườn đó để ngắm nhìn, chứ họ chưa từng bước chân vào để hái được một bông hoa. Thưa đại vương! Người chứng ngộ, mới đủ niềm tin để nói lên sự thật một cách dứt khoát là đúng sự thật. Người đứng bên ngoài khu vườn kia, thì là người gìn giữ và trao lại cho người sau. Mới hay củ thì khác nhau chổ đó. Một người nói chính xác về sự thật, thì khác với cái hệ thống lý thuyết củ kia chứ. Cái đó gọi là cái mới ở bên trong. Nó khác với cái mới ở bên ngoài, là sự rối rắm bóng bẩy và khó hiểu. Thưa đại vương! Còn điều này nữa Tôi xin nói rỏ rằng, là tôi không đập đổ một hệ tư tưởng nào cả, Mà tôi biết cách sửa chửa được tất cả các hệ tư tưởng đó. Vì có thể nói mục đích của tôi là cân bằng. Là hướng con người đi theo quy luật của tự nhiên. Còn ngoài điều đó ra đều là ảo tưởng. Vì ảo tưởng là sẽ có ảo tưởng tiếp theo. Ảo tưởng mà có thực hiện được thì nó cũng là ảo tưởng. Vì nó không cần thiết. Vì mục tiêu tối hậu là con người. Nếu bạn chế ra một cái máy thông minh hơn con người, thì chỉ để nó quay lại sát hại con người mà thôi. Tận cùng của ảo tưởng là cái ác, cho dù nó nhân danh điều gì đi nữa? Vì thế tôi luôn đề cao cái bình thường, và chống lại cái ảo tưởng. Thưa đại vương!
11. Sau khi chia tay với đức vua, sư phụ Tuyết Sơn liền trở về đi cứu giúp mọi người đang khó khăn ở đây. Ngôi làng nhỏ dưới chân núi giờ đây là một trại tỵ nạn lớn. Nhà nào cũng đầy thương binh băng bó trắng toát. Người ta treo võng đầy trên các thân cây trong vườn, để thương binh nằm nghỉ. Những chàng trai cô gái y tá do sư phụ biến hóa ra, chạy tới chạy lui khắp nơi để băng bó cho mọi người. Những chiếc áo rách rưới bạc màu còn khét mùi thuốc súng, giờ được thay bằng những chiếc áo mới. Những gương mặt đau đớn tuyệt vọng, đã được thay bằng những khuôn mặt tươi cười ấm áp cả không gian. Như một phép màu, sự sống đã được hồi sinh sau lưỡi rìu của thần chết.
Bọn trẻ từ ngôi chùa trên núi cũng đã xuống đây. Con rồng Thiết Long cũng xin đi theo, cùng với con chó đen to lớn dữ tợn.Vậy là trong bọn đã có sáu người. Thiết Long là anh trai lớn nhất. Nhỏ nhất là cô bé Bạch Ngọc xinh đẹp như một bông hoa.
Sư phụ Tuyết Sơn rất mừng khi gặp lại bọn trẻ. Đại Hương dâng lên sư phụ quyển sách phép thuật, nhưng người nói: Này Đại Hương! Ta rất tự hào về con, vì con là người đã lấy được quyển sách phép thuật này. Đây là một cuốn sách trời. Trên đời khó lòng ai mà lấy được nó lắm! Không phải bằng sự cố gắng hay sự khôn ngoan, mà là bằng một tấm lòng chân thực biết yêu thương con người. Và điều này rất khó nhận ra bằng con mắt bình thường. Con hãy cất giữ trong ngực nơi trái tim mình. Khi con cần làm việc gì thì lấy ra, tất nó sẽ giúp ích cho con.
Các bạn khác cũng đưa cho sư phụ xem những cái bửu bối của mình. Tiểu Hoa thì đưa ra chiếc gương thần. Bạch Ngọc thì đưa ra chiếc chuông vàng. Thiên Hùng thì đưa ra thanh kiếm đá linh thiêng. Còn Đại Lực thì đưa ra một bộ cung tên kỳ diệu.
Sư phụ nói: Những thứ bửu bối này ta đã chế tạo ra, và cất dấu nơi ngôi cổ tự đó, nay các con đã có nó rồi, thì hãy dùng nó vào việc có ích nhé! Bây giờ ta sẽ dạy cho các con phép biến hình, và phép biến hóa. Thuật phong hành nương theo sức gió mà bay đi. Cũng như phép độn thổ đi trong lòng đất. Phép biến hình, là phải có một vật nào đó rồi, thì các con sẽ biến nó thành một cái khác. Phép biến hóa, là từ chổ không có gì biến thành có tất cả. Một cái là dựa vào tha lực, còn một cái thì dựa vào tự lực của các con. Còn phép phong hành là phải biết làm mất đi thân xác mình, thì tự nhiên các con sẽ bay được trên không rất nhanh. Phép địa hành độn thổ, là phép hóa thân thành đối tượng kia, thì con sẽ hòa vào nó mà đi xuyên qua nó được. Ví dụ như các con phải hóa thành đất, thì đất sẽ không bỏ các con lại mà nó sẽ mang các con đi. Cứ như vậy các con muốn đi xuyên qua bức tường, cây cối hay núi đá thì các con cũng phải làm y như thế. Còn những phép thuật như hóa to khổng lồ, hay thu nhỏ tý tẹo, thì các con phải biết nghiêng đổ bên nào có lợi hơn, ngã theo bên đó thì các con sẽ làm được thôi. Ví như cái cây nó ngiêng bên phải, thì tất nhiên sau này nó sẽ ngã bên phải. Nhưng khổ nổi là cái cây đó, tự nó không quyết định được. Nhưng còn các con học phép thuật, thì phải quyết định được điều này. Do đó các con sẽ biến thành to lớn, hay nhỏ bé đều rất dễ dàng. Còn phép thuật biến ra lửa, thì vể bản chất các con phải có ngọn lửa trong tay, rồi mới biến ra lửa được, Muốn hóa ra gió mưa sấm chớp thì cũng tương tự như thế. Muốn hóa ra bão tố phong ba, thì các con phải ra biển mà làm. Căn bản phép thuật trên đời chỉ có bao nhiêu đó thôi. Nhưng nhờ luyện tập công phu, cũng như cần có trí tuệ xử lý tình huống khéo léo, thì các con mới thành công được. Các con học cái gì nhiều ít không quan trọng, nhưng các con phải biết cách nối liền những cái đó lại với nhau, như người ta muốn qua sông, thì phải kết nhiều chiếc bè thành một mảng. Nhưng các con nên nhớ rằng, phép thuật là xuất phát từ tâm, từ trái tim, từ tình yêu, thì đó là phép thuật chân chánh. Còn phép thuật xuất phát từ tâm trí toan tính hơn thua, hãm hại lẫn nhau là phép thuật tà đạo. Các con đã biết hết chưa? Vậy là cả bọn đáp: Dạ! Chúng con biết rồi ạ!
Sư phụ nói tới đây, thì bọn trẻ đã thông suốt hết tất cả cái gọi là phép thuật rồi. Cái mà lâu nay chúng cứ tưởng là khó khăn lắm mới có thể học được.
Khi đã học phép thuật xong, thì Tiểu Hoa mới hỏi sư phụ: Thưa sư phụ! Như con có được chiếc gương thần thì để soi mặt hay để làm gì đây? Sư phụ đáp: À đó là cái  gương thần hả? Nó chỉ là cái dụng cụ hổ trợ mà thôi. Thay vì con phải dùng tư duy để suy đoán, thì cái gương thần kia sẽ cho con biết ngay chính xác, quá khứ và hiện tại của bất cứ ai. Hay không? Sư phụ tiếp: Cái chuông vàng nếu con lắc nó lên thì sẽ làm rối trí quân thù, vì âm thanh của nó ghê gớm lắm. Thanh kiếm đá thì tự nó sẽ dẫn đường cho các con đi vào hang núi quanh co, và nó là thứ vũ khí có suy nghĩ rất sắc bén. Bộ cung tên thì bắn trăm phát trúng cả trăm. Vậy thì các con luyện tập đi, ngày mai chúng ta sẽ dẫn quân đi đánh mụ phù thủy Linh Cẩu độc ác.
12. Hôm nay tướng quân Hắc Thổ bàn việc quân để đánh địch, chứ không thể cố thủ nửa. Các tướng trong quân đều nhất trí là sẽ đánh, nhưng còn ngại lũ quỷ ở rừng ở mả kia thôi. Lão gia tổng trấn có ý kiến: Tôi đã được ông lão Tuyết Sơn cho biết là ông ấy đã có cách đánh bọn ma quỷ rồi. Ông ta đã biến cả đàn cừu thành một binh đoàn sấm sét. Như vậy ta phải bàn kỷ với ông ấy rồi quyết định. Theo tôi thì lần này bọn chúng sẽ chủ quan, vì cái đội quân quỷ quái ấy là bất khả chiến bại mà. Tướng quân Hắc thổ nói: Vậy cho mời ông lão Tuyết Sơn đến đây bàn việc quân luôn. Như vậy là lệnh được truyền đi, Và lão trượng Tuyết Sơn đã đến dự họp cùng với mấy đứa học trò của ngài.
Tướng quân Hắc Thổ là một người mạnh mẽ và táo bạo. Ông ta có một khuông mặt như một bức tượng đồng, với hàm râu cứng dày đen rất đặc biệt. Ông ta đã trãi qua nhiều trận chiến ác liệt, nhưng nay phải cố thủ ở đây thì cảm thấy không thoải mái lắm, ông ta nói: Tôi đề nghị đánh thẳng qua, chọc thủng phòng tuyến địch một cách bất ngờ, và nhanh chóng nhất. Muốn làm được như thế thì chúng ta phải dồn quân lại, tạo thành một cú đấm thật mạnh mới được. Điều đó phải cần sự hành binh rất nhanh và táo bạo. Chúng ta phải vượt qua khu rừng mịt mù này. Các vị có ý kiến gì không? Ông lão Thiên Bình Tự Tại nói: Khi giao chiến là đúng thời cơ. Nhưng khó khăn nhất trong nghề quân sự là việc hành binh. Chúng ta phải hành binh làm sao, mà kẻ thù không thể phán đoán được, đồng thời dẫn dắt quân địch đi vào trận địa của ta. Rồi lúc đó mới tung ra cú đấm cực mạnh, như tướng quân đã nói. Đúng vậy! Sư phụ Tuyết Sơn nói. Việc này là do tướng quân Hắc Thổ trực tiếp chỉ huy. Còn tôi thì đem quân vào gần sát núi Sọ Trắng mai phục ở đó. Khi nào quân ta hành binh ngang qua, thì chúng tôi sẽ bảo vệ cho. Nếu mụ phù thủy Linh Cẩu lú đầu ra, thì chúng tôi sẽ tiêu diệt ngay. Bây giờ chúng tôi đã sẳn sàng rồi. Tướng quân hãy bắt đầu bàn cách tấn công đi. Tướng quân Hắc Thổ nói: Vậy thì tôi sẽ chia quân thành bốn mũi, tiến đánh và bao vây quân thù. Mũi thứ nhất do lão gia tổng trấn cầm quân, đi vòng ra sau núi dừng lại ở đó chờ lệnh. Khi nào nghe tiếng pháo binh vang rền, thì tấn công lên. Mũi thứ hai do tướng quân Công Phu Tào Ngưu chỉ huy đi vào trong núi, nhưng chỉ để nhử mụ phù thủy Linh Cẩu ra thôi. Sau đó sẽ hợp lại cùng Sư phụ Tuyết Sơn, mà tiêu diệt hết cái đám ma quỷ đó. Và từ đó đánh thẳng thọc sâu qua biên giới. Mũi giáp công thứ ba do ông Thiên Bình Tự Tại chỉ huy. Có nhiệm vụ đánh vu hồi phía tây, rồi hội quân tại biên giới, sau đó cùng tôi đại tấn công quân địch. Mũi tiến công thứ tư do sư phụ Tuyết Sơn chỉ huy. Mũi tiến công này là đòn đánh quyết định đây, là điều mà quân thù không sao ngờ được, khi chúng ta cũng dùng phép thuật để đánh. Sư phụ Tuyết Sơn phải chắc thắng trận này, thì toàn chiến dịch chúng ta mới chắc thắng được. Khi đội quân linh cẩu bị tiêu diệt rồi, thì toàn bộ đại quân do tôi chỉ huy sẽ đánh thắng qua biên giới, thọc sâu vào sào huyệt quân thù. Những cánh quân khác thì lúc đó theo tình hình chiến sự, mà vừa tấn công vừa bao vây vừa truy kích, không cho chúng chạy thoát tên nào. Tiểu đoàn xe tăng sẽ đi xuyên qua núi tràn lên. Máy bay oanh kích và pháo binh hổ trợ mở đường. Trận này chúng ta thề quét sạch quân thù ra khỏi biên cương đất nước mới thôi.
13. Cánh quân của sư phụ Tuyết Sơn đã sẳn sang rồi. Đại Hương lấy quyển sách phép thuật ra đọc, nhưng thấy nó không có chử nào nên cất vào trong ngực áo. Đại Hương nhường con bạch mã có cánh cho sư phụ cưởi. Còn anh Thiết Long thì lại hóa thành một con rồng to chở tất cả bọn trẻ đi. Con chó đen khủng khiếp của anh Thiết Long cũng có mặt hôm nay. Nó sủa lên mấy tiếng ầm ầm làm mọi người hết hồn. Nhưng trong quân hôm nay, còn có ông sứ thần của đức vua nữa. Ông ta cưởi một con ngựa màu đen đi bên cạnh sư phụ Tuyết Sơn.
Khi đoàn quân bắt đầu tiến ra biên giới. Thì tranh thủ lúc đang đi, ông sứ thần của đức vua mới hỏi sư phụ rằng: Hôm trước ngài nói tới chổ hữu vi và vô vi. Vậy ngài hãy nói tiếp cho tôi biết nữa đi. Sư phụ nói: Được! Vậy thì ông hãy nghe ta nói đây: Tình thần con người gồm có ý thức ở ngoài, tiềm thức ở giữa, và vô thức ở trong. Cái hữu vi là ý thức. Cái vô vi là vô thức ở trong. Cái tiềm thức ở giữa là nữa hữu vi, nữa vô vi. Vì trong tiềm thức ban đầu thượng đế đã gửi vào đó một cái gọi là linh hồn, là cái chân tâm bất tử của con người chúng ta đó. Cái ý thức ở ngoài như một cái phòng khách ngập tràn ánh sáng. Khi con người vừa sinh ra, thì ý thức nhận được một tín hiệu gì đó, thì nó liền dội vào tiềm thức. Và ngay lúc đó nó tạo ra siêu hình. Cái siêu hình này là cái bóng của ý thức, Nhưng nó lớn gấp trăm ngàn lần ý thức. Nó liền tràn ngập cả tiềm thức và bắt đầu che lấp cả chân tâm. Từ đó tinh thần con người mới sinh ra làm hai cái: Âm và dương đấu tranh với nhau, gọi là tư duy nhị nguyên. Vì thế nếu như người phương tây có ý thức lớn mạnh, thì cũng có cái siêu hình rất lớn mạnh theo. Vì cái hình và cái bóng luôn đi đôi với nhau mà.
Vậy thì tinh thần con người sẽ như một quyển sách, mà cái hữu hình là cái bìa sách, là ý thức. Cái ruột quyển sách kia là cái vô hình, gồm cả tiềm thức và vô thức luôn. Nếu quyển sách mất đi cái bìa sách, thì bạn sẽ không biết đó là quyển sách gì. Cũng như con người mà mất đi ý thức, thì sẽ không còn biết mình là ai nữa. Là mất ý thức, và trở thành một người điên rồi.
Vậy khi bạn đi học chử, là bạn học tập bởi ý thức, đem vào mình thật nhiều kiến thức. Bạn học tập bởi kiến thức, thì bạn có được kinh nghiệm. Khi kinh nghiệm của bạn mất đi, thì bạn sẽ được thay thế bằng một cái khác, gọi là sự trãi nghiệm. Cái đó làm nên tri thức của bạn. Cái tri thức này nó đồng với tri thức của  nhân loại. Vậy kiến thức và kinh nghiệm là pháp hữu vi. Tri thức và sự trãi nghiệm là pháp vô vi. Kinh nghiệm thì làm ra khoa học kỷ thuật. Còn trãi nghiêm thì làm ra nghệ thuật và văn hóa. Nhưng muốn làm được điều gì, thì cũng phải phối hợp hai pháp hữu vi và vô vi lại với nhau thì mới thành công được.
Nghe vậy, ông sứ thần mới hỏi tiếp: Vậy thưa ngài cái linh hồn của con người nó nằm ở đâu? Ngài nói nó là cái chân tâm, vậy làm thế nào chúng ta biết được nó? Sư phụ đáp: Nhờ phát hiện ra nó, mà tôi biết rằng linh hồn con người là bất diệt, cho nên bạn mới có nhiều kiếp sống là vậy. Nó như có sẳn trong tiềm thức của chúng ta rồi. Đó là cái bản tâm hồn nhiên không thiện không ác. Cái linh hồn này rất vĩ đại và lớn lao bằng khắp cả trời đất. Khi còn bị giam giữ trong thân xác con người, thì nó là tiểu hồn. Khi nó thoát ra ngoài thân xác bằng con đường đạt đạo, thì nó là đại hồn, lúc đó nó lại trở về ở khắp trời đất. Này nhé: Vậy thì chân tâm bị che lấp bởi hai cái. Đó là kiến thức ở ý thức, và siêu hình ở tiềm thức. Một cái là danh, một cái là lợi. Nhưng chưa hết đâu. Còn một cái khác nữa là cái thân xác của bạn. Nó đã bị quen mùi dục lạc mà các giác quan tạo ra rồi…
Vậy thì để đi đến chân tâm của mình, bạn phải vượt qua ba giới hạn: Ý thức là đúng sai. Tiềm thức là yêu ghét. Vô thức là tâm linh và tâm thức. Có nghĩa là bạn phải đi đến tâm thức rồi, thì mới chạm tới cái chân tâm. Đó chính là sinh mệnh của con người.
Bạn hãy bỏ đi đúng sai trong ý thức, bỏ đi sự hiểu biết về ngoại giới như tất cả sự học tập của bạn từ sách vở. Tất cả những thứ đó đã trở thành con đường trong ý thức của bạn rồi, mà tôi gọi nó là kinh nghiệm. Trước tiên bạn hãy bỏ cái đó đi. Kế đến bạn phải bỏ đi cái tình cảm yêu ghét bên ngoài. Có nghĩa là bản thân bạn đã có sẳn cái tình yêu thần thánh trong mình rồi. Cái tình cảm bên ngoài, là do bạn quen biết với người khác lâu dần thành tình cảm yêu ghét. Cái đó là “thói quen tâm lý” mà thôi. Đồng thời, nó còn bị ràng buột bằng sợi dây văn hóa truyề thống từ bao đời. Bạn bỏ đi cái đó thì bạn sẽ có tình yêu.
Thứ ba, là bạn hay thích hưởng thụ bằng các giác quan của mình. Cái đó tôi gọi là “thói quen của các giác quan”. Đó chính là thân xác. Nó tạo ra cảm giác nơi tâm linh của con người bạn. Đây là cái ải cuối cùng khó khăn nhất, mà hiếm ai vượt qua được lắm. Vì ở chỗ này, thân xác và linh hồn cứ giằng co với nhau, nên làm bạn đau khổ tuyệt vọng. Đó là giới hạn cuối cùng của lý tưởng. Bạn phải vượt qua cái này, thì bạn sẽ chạm tới chân tâm, tới linh hồn bất tử. Có nghĩa là bạn đã chạm tới chân lý. Là thực tại và niết bàn. Thực tại là luôn sinh ra cùng lúc với sự mất đi của niết bàn, vì nó trùng khít lên nhau. Thực tại là cái hữu hình, là pháp hữu vi. Niết bàn là cái vô hình, là pháp vô vi. Thực tại là sự chuyển động của thiên nhiên bên ngoài. Còn niết bàn là sự tỉnh lặng của chân tâm bên trong. Thực tại là vô thường, niết bàn là bất biến. Hai cái đó gộp lại gọi là tỉnh thức.
Sư phụ nói tới đây cho ông sứ thần nghe, thì đoàn quân cũng đã đi tới vùng núi biên cương rồi. Người ra lệnh dừng quân và cắm trại tại đây.
14. Đức vua sau khi gặp sư phụ Tuyết Sơn rồi, thì trong lòng rất vui, đồng thời người cũng biết tướng quân Hắc Thổ đã quyết định tấn công. Vậy nên người cũng ở lại ngôi làng nhỏ này để theo dõi tình hình chiến sự.
Tướng quân Hắc Thổ sau khi từ biệt đức vua thì lên đường ra mặt trận. Những quân đoàn đã được lệnh phiên chế lại. Trung đoàn kỵ binh hoàng gia sẽ ưu tiên đi tiên phong, vì địa hình rừng núi ở đây rất thích hợp đánh cơ động bằng kỵ binh. Đạn đã  được lên nòng. Pháo đã được chuyễn lên những điểm cao để sẳn sàng nhả đạn. Những tiểu đoàn trinh sát đã được tung đi khắp nơi. Và có một lực lượng chủ lực đi theo cánh quân của sư phụ Tuyết Sơn, để khi có thời cơ thì phủ kín khe núi quỷ quái này, bằng tất cả hỏa lực mạnh nhất. Đồng thời tiểu đoàn tăng thiết giáp cũng đặt ở vị trí trung quân, để tấn công chính diện theo lệnh của tướng quân Hắc Thổ.
Sư phụ Tuyết Sơn hạ trại kín đáo sau hẽm núi. Đại Hương được lệnh đem quân đi trinh sát phía trước, cùng Tiểu Hoa và Bạch Ngọc. Còn Đại Lực và Thiết Long dẫn theo con chó đen thì đi sau yểm trợ. Thiết Hùng thì đóng quân phía sau lưng sư phụ khoảng năm dặm để đề phòng bất trắc. Tướng quân Công Phu Tào Ngưu thì đem kỵ binh áp sát sườn núi, để cơ động tràn lên tiêu diệt những khẩu đội pháo binh của quân thù.
Khi Đại Hương và Tiểu Hoa, Bạch Ngọc dẫn quân vô sâu hẽm núi trinh sát, thì Tiểu Hoa lấy chiếc gương thần ra xem. Trong gương mụ phù thủy Linh Cẩu đang ngồi trên một cái ngai lớn bằng rễ cây, và những con rắn quấn quanh. Mụ ta khoác một chiếc áo choàng màu đen, với hai cánh tay xương xẩu đầy long lá chỉa ra ngoài. Cái miệng của mụ há hóc đầy răng nhọn, cùng hai con mắt lồi đỏ chói trong rất dễ sợ. Trên cái cổ gân guốc của mụ, quấn quanh mấy con rắn nhỏ xanh lè. Trong khi đó những con linh cẩu con, xúm xít vây quanh kêu la chí chóe. Tiểu Hoa thấy cảnh tượng đó thì cũng kinh khiếp quá. Đại Hương chăm chú xem thử trong gương còn hiện ra cái gì nữa không? Thì phát hiện trong hang động của mụ phù thủy, có cả một bày chó sói đi bằng hai chân, và một lũ khỉ mặt đỏ múa may quay cuồng đi tới đi lui. Mụ phù thủy Linh Cẩu nói: Đêm nay chúng ta lặng lẽ ra ngoài, tấn công vào chính giữa, tiêu diệt ngay thằng cầm đầu. Vì súng đạn có làm gì được chúng ta đâu. Phải biến hóa ra hai đội quân để đánh lừa chúng nó..ha ha! Nói xong mụ ta cầm cây gậy có cái đầu lâu rung lên một hồi, lũ linh cẩu con bèn kêu la chí chóe inh ỏi…Đại Hương lập tức về báo cáo sư phụ. Sư phụ nói: Ta biết rồi, cái gương đó do chính ta chế tạo ra mà. Đó chỉ là hình ảnh giả tạo để đánh lừa mụ ta thôi. Đó là những ảo giác lo lắng trước khi lâm trận. Mụ ta cũng ranh mãnh diễn một màn kịch trong gương, cho các con thấy đó. Cho nên chúng ta cũng chẳng biết thật sự mụ ta sẽ làm gì đâu?
Đêm đó trăng non đầu tháng đã lên cao, núi rừng vắng lặng xạc xào, mây đen kéo về đầy núi. Đâu đó vang lên tiếng vỗ cánh lạch bạch của bầy dơi bay đi ăn đêm. Sư phụ tập hợp binh mã mai phục sau núi. Tất cả đã vào vị trí xuất phát xong, thì từ phía những ụ pháo đã bắt đầu nhả đạn. Sư phụ nói: Chúng ta có nhiệm vụ ngăn chặn mụ phù thủy, tấn công vào các binh đoàn chính quy của chúng ta thôi. Có nghĩa là chúng ta chờ chúng ra để đánh, và bóp nghẹt bùa phép của chúng, để mở đường cho quân ta tấn công. Các con hãy bình tỉnh. Còn Thiết Long! Con hãy bay lên đỉnh núi quan sát, có gì phun lửa tấn công vào cánh quân vũ trang của chúng. Chúng ta nhất định phải thắng trận này. Hãy quan sát trận địa và theo lệnh ta! Tướng quân Hắc Thổ đã khai hỏa rồi đó.
Khi những khẩu pháo dội bão lửa vừa dứt, thì quân ta tiến lên. Tiểu đoàn xe tăng đi đầu càn vô trong núi. Những chiến xe tăng tiến công thật mãnh liệt, chúng đã quần nát cả một vùng cỏ cây ở đây. Kỵ binh chia làm nhiều tốp nhỏ dựa vào địa hình mà xông lên. Quân địch bất ngờ bị đánh bật khỏi những điểm cao, nên rút lui trong hổn loạn. Từ trên khắp mặt trận từng đoàn quân lần lượt xông lên, theo lệnh của tướng quân Hắc Thồ. Lúc này sư phụ cũng đã dàn quân chờ đợi mụ phù thủy Linh Cẩu. Bỗng nhiên từ trên  núi có một luồng khói đen tràn xuống phía trận địa. Mụ phù thủy Linh Cẩu xuất hiện, đem theo một mùi hôi thối không sao chịu nổi. Đám quân linh cẩu và chó sói tràn vào cấu xé quân ta. Nhưng may thay từ trên cao, con rồng Thiết Long khổng lồ bay xuống phun lửa vào đám Linh Cẩu ào ào. Sư phụ sai Đại Hương cưởi con ngựa trắng có cánh, bay lên đón đánh mụ Linh Cẩu chúa. Mụ phù thủy Linh Cẩu thét lên một tiếng, thì hai con rắn nhỏ quấn quanh cổ mụ, hiện ra to lớn khổng lồ, bay xuống đón đánh Đại Hương. Lúc này Thiết Hùng thấy Đại Hương nguy kịch, thì tung cây kiếm đá linh thiêng lên trời. Cây kiếm đá bay tới chặn đánh hai con mãng xà, và cứu nguy cho Đại Hương. Mụ phù tủy Linh Cẩu liền rung cây gậy đầu lâu lên, thì nó phát ra tiếng động inh tai nhức óc và mùi hôi thối vô cùng. Sư phụ không chịu nổi cái mùi hôi thối này, nên ra lệnh rút quân. Đồng thời sai Đại Lực nhắm bắn mụ phù thủy Linh Cẩu một phát. Mụ ta bị bắn bất ngờ nên té bịch xuống đất. Con chó đen to lớn của Thiết Long xông tới vồ lấy mụ ta. Bạch Ngọc thừa cơ hội quân địch đang tán loạn, thì rung cái chuông vàng lên.Tiếng chuông vang lên át cả tiếng bom đạn đang nổ vang rền trên trận địa. Mụ phù thủy Linh cẩu cuống cuồng vội thu quân chạy vào trong hẽm núi ần nấp.
Từ khắp các nẽo đường rừng núi nơi mặt trận Tuyết Sơn. Từng đoàn quân dũng mãnh của tướng quân Hắc Thổ tràn xuống, tiêu diệt và truy kích quân thù chạy tán loạn khắp nơi…
15. Đức vua ở hậu phương nghe tin chiến thắng báo về thì rất vui. Nhưng tướng quân Hắc Thổ nói: Phải càn quét sạch sẻ vùng này, và bắt cho được mụ phù thủy Linh Cẩu mới thôi. Trong khi đó quân địch đã bị đánh tan tác. Tướng quân Hắc Thổ đã giáng một đòn chí tử vào quân thù. Đẩy lui chúng về phía rất xa bên kia biên giới. Đức vua ra lệnh ngừng cuộc tiến công. Vì không nên xâm phạm lãnh thổ của nước khác. Đồng thời sai tướng Hắc Thổ hãy làm sạch vùng núi này, để không còn mùi hôi tanh của lũ quỷ quái nữa.
Vậy là sư phụ Tuyết Sơn cũng cho lui quân về năm dặm để ổn định quân tình, và người biết rằng mụ phù thủy đã bị thương, nhưng vẫn còn ở trong hang núi kia.
Vậy là đã ổn. Sư phụ liền cho gọi họp bàn trong quân. Sư phụ nói: Việc bắt được mụ phù thủy Linh Cẩu thì trong nay mai thôi. Ta sẽ trao nhiệm vụ này cho các con để các con lập công với đức vua. Ta phải về để bàn với đức vua kế sách an dân. Ở đây Đại Hương hãy thay ta chỉ huy chiến đấu. Quyển sách Phép thuật của con cũng không phải kỳ lạ gì, mà nó chỉ có hiệu lực là sai khiến được các thần trong vùng này đến giúp con. Con cứ liệu đó mà làm! Điều gì tha được thì tha. Càng ít giết chóc thì càng tốt. Đạo hiếu sinh ở đời ai cũng muốn sống cả chứ chẳng ai muốn chết đâu. Nếu tướng quân Hắc Thổ muốn bắt phải giao mụ phù thủy Linh Cẩu cho ông ta, thì con hãy hóa phép làm sao đó để vừa lòng ông ấy. Thôi ta đi đây.
Vậy là sư phụ về lại hậu phương cùng với ông sứ thần của đức vua, còn việc đánh mụ phù thủy, thì giao lại cho bọn trẻ quyết định.
Vùng núi Tuyết Sơn sau cơn binh lửa thì nay đã trở lại êm đềm. Buổi sáng trên đồng cỏ thật vắng lặng. Gió thổi nhè nhẹ lướt thướt trên các cành cây. Những con chim nhỏ bay ra khỏi tổ, chúng ngó nghiêng đây đó rồi cất lên tiếng hót ríu rít rộn ràng. Chúng vỗ những đôi cánh bé xíu bay lên trời cao, trong một buổi sáng mát mẻ thanh bình. Đại Hương và các bạn đang ở trong lều trên đồi, thì bổng nhiên nghe thấy tiếng nước chảy róc rách đâu đây. Sau đó thì từ trong các khe núi phát ra tiếng ầm ầm nho nhỏ và lớn dần… Rồi bổng chóc những tiếng động đó hiện nguyên hình là những dòng thác nước đổ cuồn cuộn, ào ào từ trong núi đổ ra bốn bề đầy nước là nước. Nước bao quanh lấy đội quân của Đại Hương, và nó gầm thét như muốn nhấn chìm tất cả. Đại Hương và các bạn cuống cuồng không biết làm sao. Bất giác Đại Hương nhớ lời sư phụ dặn, liền thò tay vào ngực áo lấy ra quyển sách phép thuật ra. Và hét lên: Các thần núi thần rừng thần sông thần suối hãy về đây gặp ta! Vậy là các thần hiện ra chung quanh bọn trẻ, trong khi đó thì nước vẫn không ngừng dâng lên. Thần núi nói: Mụ phù thủy Linh Cẩu đã cầu viện được ông thủy thần ở đây, dâng nước lên cuốn trôi chúng ta đó. Thôi đại quân của tướng Hắc Thổ lâm nguy đến nơi rồi.
Đại Hương nói: Này thần núi! Thứ nhất, ông hãy xoay chuyển núi rừng đất đá ở đây ngăn dòng nước lại, không cho tràn qua nơi đóng quân của tướng Hắc Thổ. Thứ hai hãy dâng đất ở đây cao lên khỏi mặt nước để cứu quân ta. Thứ ba hãy lăn đá bịt kín các khe suối hồ nước trong vùng này. Ông hãy làm đi. Còn thần sông thần suối thì hãy cho dòng chảy chạy ngược về hướng khác. Thần rừng thì gom tất cả cây rừng lại, làm thành một cái đập lớn ngăn ngay dòng chảy của nước lũ. Đại Hương nói xong. Lập tức các thần liền hóa phép theo sự chỉ đạo của Đại Hương. Con rồng Thiết Long gầm lên một tiếng vang động đất trời, rồi nó chở Đại Hương và các bạn bay vào trong núi tìm mụ phù thủy Linh Cẩu. Trong khi đó nước dâng tới đâu thì núi càng cao tới đó, và tất cả mọi người đã được yên ổn đứng trên cao.
Lâu đài trắng trong rừng sâu
16. Sư phụ Tuyết Sơn đã rời mặt trận quay về ngôi làng nhỏ. Giờ đây ngôi làng nhỏ ấy như đã trở lại dáng dấp ngày xưa, vì nhân dân đã về sinh sống trong làng rồi. Bây giờ trời đã sang thu, những hàng cây trút lá nghi ngút khắp trời. Những chiếc lá vàng như là những tấm thiệp mừng báo tin mùa thu đại thắng. Nhân dân trong làng ai cũng vui mừng hớn hở. Còn đức vua đóng đại bản doanh tại nhà quan tổng trấn. Gặp lại sư phụ Tuyết Sơn đức vua mừng lắm, và cho dọn tiệc khoản đãi người. Trong bửa tiệc, đức vua nói với sư phụ Tuyết Sơn: Tiên sinh hãy nói cho trẫm nghe thế nào là một ông vua tốt? Thế nào là một nhà nước tốt? Trẫm nhọc lòng cai quản muôn dân rất khổ sở, ngày đêm chỉ muốn dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Nhưng trong dân chúng cũng còn lắm kẻ bất bình, chống đối chỗ này chỗ nọ…Nên làm lòng trẫm không yên! Hôm nay nhân đi thị sát vùng này mà trẩm cảm thấy vui sướng lắm! Trẩm ở trong cung mãi cũng buồn!
Sư phụ nói: Thưa đại vương! Ở trong nhà mãi nó khác với đi ra ngoài đường. Vậy thì lý thuyết dĩ nhiên nó khác với thực tế rồi. Người ta ở trong cái thực tế của thế kỷ mười chín, để xây dựng nên một lý thuyết cho ngày hôm nay. Nhưng ngày hôm nay thì tư tưởng loài người đã khác, đã đi tới chỗ hội nhập rồi. Đại Vương ở trong triều không biết tình hình chiến sự ngoài mặt trận, mà cứ áp đặt bắt người ta phải đánh. Đại vương làm việc như vậy, là tự dựng lên một khoảng cách chủ quan, bao bọc lấy tư tưởng của mình. Đại vương cai trị đất nước như thế là theo lý thuyết suông, chứ không theo tình hình thực tế đòi hỏi. Như đại vương đã biết rồi. Niết bàn thì bất biến, còn thực tại là vô thường. Cái vô thường này là để chỉ cái tình hình thực tế trên thế giới, đang thay đổi rất nhanh chóng đó. Còn cái niết bàn kia là để chỉ con đường lớn, mà đại vương sẽ đưa dân tộc ta đi. Là kiên định lập trường vững chải, mà tiên đế đã lựa chọn. Vậy chân lý là: Nhất bất biến, ứng vạn biến. Trong Phật Pháp có những pháp tu đối trị gọi là quán nhân quả. Ví dụ nếu bạn say mê một gương mặt đẹp, thì bạn hãy quán, khi nó đã xấu đến lúc nó héo tàn không còn đẹp nữa. Lấy cái xấu để sửa cái đẹp, và ngược lại. Vậy thì hai hệ thống chính trị khác nhau, thậm chí đối lập nhau, đều có ích cho nhau, Nếu như những người cầm quyền sáng suốt. Lấy cái này để sửa chửa cái kia. Lấy cái kia để sửa chửa mình. Chứ không phải đối đầu để tiêu diệt nhau, vì đó là những quyết định lớn lao mà sai lầm. Thưa đại vương! Thực tế ngày nay đại vương đã thấy rồi? Chính đại vương đã sửa đổi và người ta cũng đã sữa đổi, để đi tới chổ có một nhà nước tốt đẹp hơn. Mục đích nó nằm ở nội dung chứ không phải là hình thức. Đại vương làm cách nào không cần biết, nhưng chỉ làm cho dân chúng ấm no hạnh phúc là được rồi. Hạnh phúc của con người, là được đầy đủ cả vật chất và tinh thần. Làm chính trị là xét việc lợi hại trong từng tương quan hoàn cảnh mà xử đoán. Nếu như đại vương sửa đổi vài chử (như tiên đế đã từng làm) trong cái khẩu hiệu kia, để khỏi phải xây thêm nhà tù trại giam nữa, thì đại vương hãy làm, vì nó có lợi hơn, ít tốn kém hơn. Trên thế giới này người ta làm chính trị đều giống nhau hết. Nếu có khác nhau, chỉ là khác cái phương pháp cai trị mà thôi. Từ đó tôi không hề ảo tưởng rằng, sẽ có một thể chế chính trị nào tốt đẹp hơn cái nào cả. Thưa đại vương! Vậy thì một nhà nước tốt là như thế nào? Tôi nói: Nó phải phù hợp theo quy luật của tự nhiên. Thưa đại vương! Điều này nó khác với cái mà con người vì quá khổ sở rồi mơ ước cảnh thiên đàng. Vậy theo quy luật tự nhiên là gì? Là theo cái bản chất của con người và quy luật của tạo hóa. Thưa đại vương! Bản chất của con người là: Khi một đứa bé mới sinh ra đời, bàn tay của nó đã nắm chặc lại rồi. Cái đó biểu thị cho cái bản chất chiếm hữu của con người. Vậy thì con người là có tâm lý chiếm hữu. Còn thiên nhiên thì có quy luật cân bằng. Có nghĩa là con người là ham muốn chinh phục thiên nhiên. Còn thiên nhiên thì luôn chia sẻ với con người, như nước luôn chảy từ chỗ cao xuống chỗ thấp, sang bớt từ chỗ nhiều qua chỗ ít. Vậy thì một nhà nước tốt là gì? Là phải biết khơi dậy sự phấn đấu làm giàu của nhân dân. Phải biết mở đường để khoa học văn học nghệ thuật phát triển, chinh phục những đỉnh cao trí tuệ của loài người. Đó gọi là quy luật từ thấp dâng lên cao theo bản chất của con người. Khi có nhiều người dân giàu có rồi, thì xã hội đó là xã hội phát triển, nhưng nó sẽ phát triển không đồng đều. Do có một số đông thất thế trong xã hội sẽ trở nên nghèo khổ. Vậy cái này phải tính làm sao đây? Cái này là do nhà nước phải lo. Có nghĩa là nhà nước phải có một chế độ an sinh xã hội rộng khắp lo cho toàn dân. Tôi gọi cái này là quy luật từ trên cao chảy xuống thấp của tự nhiên. Thưa đại vương! Vậy một nhà nước tốt, là một nhà nước biết dùng cái ý chí làm giàu của nhân dân, và lấy đó để giúp đở những người dân nghèo khổ hơn. Nhà nước đó biết cách cân bằng mọi mặt lợi ích trong nhân dân, thì đó là một nhà nước tốt, cho dù nó có mang một cái nhãn hiệu gì không quan trọng. Thưa đại vương!
Đức vua nghe sư phụ nói xong liền thấy vui lắm, nên vui vẻ chia tay với sư phụ Tuyết Sơn.
17. Sau khi thủy nạn đã được chặn lại, và đội quân của tướng Hắc Thổ vẫn an toàn thì tình hình đã không còn nguy hiểm nữa. Con rồng Thiết Long chở bọn trẻ bay vòng vòng trong núi kiếm tìm mụ phù thủy Linh Cẩu. Tiểu Hoa lấy cái gương thần ra xem, thì thấy mụ ta đang nằm rên trong hang núi. Lão thủy thần ngồi kế bên mụ ta run cầm cập. Đại Hương thấy vậy liền lấy quyển sách phép thuật ra và kêu tên lão. Nhưng lão ta cố tình không ra. Đại Hương bèn đọc lên mấy câu thần chú: A ba ca ra - nóc bi - cô ri ta ra - hắc ma la - tán ba la úm bà là…Đại Hương đọc thần chú ba lần thì lão thủy thần mới chịu ló đầu ra. Mặt mũi lão xanh xao như người chết trôi, lão là cái giống thủy thần gì, mà giống như nữa người nữa cá và hà mã. Trên mình lão có vảy và da sần sùi như da cá sấu. Hai bàn chân với những ngón chân có màng như chân vịt. Mặt mủi đầy râu ria, còn trên tay thì cầm một cây đinh ba bằng vàng sáng chói. Lão ta xin Đại Hương tha mạng. Lão ta nói: Tôi với mụ phù thủy Linh Cẩu có qua lại với nhau, lâu dần có một đứa con. Trong vùng núi này mụ ta luôn ức hiếp chúng tôi. Bắt tôi hầu hạ cho mụ riết thành quen thân. Ngặc nỗi mụ ta đã cho tôi uống một viên thuốc độc. Nếu tôi phản bội mụ, thì tôi sẽ ngứa ngáy mà chết. Tôi xin ngài có cách gì cứu tôi với. Đại Hương nói: Ngươi tiếp tay cho loài quỷ quái vậy thì biết tội chưa? Bây giờ ngươi hãy hóa phép rút hết nước đi. Vậy là lão thủy thần làm phép rút hết nước trả lại cánh đồng khô cạn bình thường. Xong, Đại Hương cho lão một viên thuốc để uống trừ độc. Lão liền vồ lấy và uống ực ngay tức khắc. Lão uống xong Đại Hương cho lão ta đi. Ông thần núi cũng làm núi đồi đất đá trả lại như củ. Trong khi đó mụ phù thủy đã gượng dậy và rút mũi tên ra. Mụ ta khoác chiến bào màu đen vào, và cầm cây gậy đầu lâu lên. Mụ ta nói: Này các con, Các con còn được bao nhiêu đứa? Đứa nào muốn bỏ đi thì đi đi. Ta sẽ hóa phép cho các con thành những người đốn củi, và đi ra khỏi khu rừng này. Các con cứ đi về hướng đó,  khi nào gặp một tòa lâu đài màu trắng, thì vô đó xin việc làm. Còn đứa nào theo ta đi tử chiến thì đi. Vậy là bọn linh cẩu trong núi có đứa đi đứa ở, tình cảnh chia ly như con người… Tất cả những cảnh tượng đó, đều hiện ra trong chiếc gương thần của Tiểu Hoa.
Nhân khi nước đã rút hết, Đại Hương mới rủ Tiểu Hoa đi dạo trong rừng. Tiểu Hoa cứ chạy đi trước vì cô bé đang đuổi theo một đàn bướm đẹp. Thấy vậy Đại Hương liền đi theo sau lưng và gọi Tiểu Hoa về. Tiểu Hoa nói: Em đói bụng quá anh Đại Hương ơi! Đại Hương liền trèo lên cây hái những trái mận rừng cho Tiểu Hoa ăn. Cậu ta còn không quên cài lên mái tóc của cô bé, mấy cánh hoa màu trắng thật địu đàng. Tiểu Hoa nũng nịu ngồi mãi một chổ không chịu về, nên làm Đại Hương rất lo. Tiểu Hoa nói: Em muốn nằm ngũ ở đây à! Anh cứ về đi không có sao đâu. Thế là cô bé nằm ngũ giữa rừng còn Đại Hương thì ngồi kế bên canh chừng. Trong khi đó mụ phù thủy Linh Cẩu đang lần mò đi ra khỏi hang.
Lúc này trong quân của Đại Hương mỗi người đi một nẽo. Đại Lực thì đi bắn chim cùng Bạch Ngọc. Thiết Hùng thì ngồi chơi với con chó đen và anh rồng Thiết Long. Vì mọi người nghĩ rằng theo như những gì thấy được trong chiếc gương thần, thì mụ phù thủy đang ốm sắp chết rồi.
Đại Lực cầm bộ cung tên thần, cùng Bạch Ngọc đi bắn chim trong rừng. Hai cô cậu đi sâu vào rừng, vừa đi vừa nói chuyện. Bạch Ngọc nói: Bây giờ mình đi tìm anh Đại Hương và chị Tiểu Hoa nha? Hai người đó đi đâu lâu quá chưa về. Đại Lực trả lời: Đi thì đi, nhưng đi xa quá thì nguy hiểm lắm. Không có sư phụ ở đây, nên tụi mình mạnh ai nấy đi chơi là không tốt đâu. Nói vậy nhưng hai cô cậu cứ đi sâu vô rừng.
Lúc này mụ phù thủy Linh Cẩu trong rừng đi ra, và gặp ngay Đại Lực đang cầm bộ cung tên thì hết hồn. Nhưng lúc đó trong đầu mụ ta lóe ra một mưu kế ranh mãnh. Mụ ta tự nhủ: A cái thằng nhóc này hôm qua lấy cung tên bắn lão bà bị thương, vậy thì hôm nay tao cho mày bắn nữa nha! Thế là mụ Linh Cẩu liền hóa phép, làm ra hai mụ Linh Cẩu giống hệt nhau. Và cố ý bỏ chạy, dụ cho Đại Lực đuổi theo cái mụ Linh Cẩu giả. Đại Lực thoáng thấy Mụ Linh Cẩu thì liền đuổi theo. Cậu ta chạy theo mãi, và bỏ quên cô bé Bạch Ngọc luôn. Cậu ta chạy gần tới mụ Linh Cẩu và giương cung bắn một phát. Khi mụ Linh Cẩu ngã xuống, hóa ra đó chỉ là cái áo đen của mụ ta thôi. Đại Lực hết hồn nhìn lại, thì Bạch Ngọc đã bị mụ ta bắt đi rồi.
Lúc này, Đại Lực đã biết mình trúng kế của mụ phù thủy Linh Cẩu, nên vô cùng hoang mang. Vừa về đến trại quân thì gặp tất cả mọi người ở đó, nhưng chỉ trừ Bạch Ngọc ra. Đại Lực vừa khóc vừa kể lại sự tình cho mọi người nghe. Tiểu Hoa liền lấy cái gương thần ra xem, thì thấy Bạch Ngọc bị mụ phù thủy trói lại ở trong hang. Nhìn thấy cảnh tượng đó, tất cả bọn trẻ đều rơi nước mắt, khóc thương cho cô bé Bạch Ngọc xui xẻo làm sao.
18. Sự kiện Bạch Ngọc bị bắt đi, làm bọn trẻ đau khổ và hoang mang quá chừng. Đại Hương đứng ngồi không yên, liền sai người về báo cho sư phụ hay. Sư phụ liền gọi hai ông lão Thiên Bình Tự Tại và Công Phu Tào Ngưu lên giúp bọn trẻ. Được tin Đại Hương mừng lắm, và hỏi kế ông Thiên Bình Tự Tại phải làm sao đây? Ông ta nói: Điều trước tiên là giải cứu cô bé Bạch Ngọc, nhưng đừng có rút dây động rừng. Bây giờ trước tiên phải hóa phép thành người của chúng, mà trà trộn vào đó báo cho Bạch Ngọc biết cái đã. Điều này phải chính Đại Hương đi mới được.
Vậy là Đại Hương hóa thành một con Linh Cẩu con, vào hang của mụ Linh Cẩu mẹ. Đại Hương ở đây cũng ổn, nhưng không thể chịu đựng được cái mùi hôi thối đặc trưng của cái loài này. Loài Linh cẩu thật lạ, chúng sống theo chế độ mẫu hệ, và Đại Hương là con linh cẩu đực, nên phải hầu hạ mụ phù thủy thôi.
Một hôm Đại Hương mò xuống chổ Bạch Ngọc bị trói, và nói nhỏ với Bạch Ngọc rằng, anh là Đại Hương đây. Bạch Ngọc nghe thế rất mừng và nói: Mụ phù thủy Linh Cẩu, lợi hại là bởi cái cây gậy đầu lâu của mụ thôi. Anh phải nghĩ kế lấy được cái cây gậy đó, thì sẽ sai khiến được tất cả bùa phép ở đây. Thôi anh hãy đi đi.
Lúc này ở ngoài trại quân, mọi người xúm quanh cái gương thần của Tiểu Hoa theo dõi tình hình. Ông lão Công Phu Tào Ngưu nói: Chúng ta giả đò buông lơi ở ngoài này, để mụ phù thủy Linh Cẩu sanh ra chủ quan. Khi nào Đại Hương lấy được cây gậy đầu lâu rồi, thì lúc đó sẽ tính. Vậy là ở trại quân, mọi người giả đò buồn bả, lơi lỏng không bao vây hang núi nữa. Trong núi, mụ phù thủy Linh Cẩu thấy đối phương không dám gây sức ép, nên cũng an tâm. Vì mụ ta biết, nếu có điều gì xảy ra với mụ, thì mụ ta sẽ giết Bạch Ngọc. Mà mụ ta mà giết thật, thì coi như mụ ta cũng chết luôn. Cho nên Bạch Ngọc còn ở lại trong hang động của mụ được ngày nào, thì mụ vẫn còn làm chủ tình hình, và sẽ thương lượng được. Thế là mụ ta mở tiệc ăn mừng. Trong buổi tiệc, mụ ta uống rượu say và la hét lũ linh cẩu con inh ỏi. Lúc đó Đại Hương là một con linh cẩu đực, bưng rượu mời mụ ta uống. Thừa lúc mụ ta ngã nghiêng đi đứng không nổi, thì Đại Hương đến nâng đở mụ, và cầm dùm mụ cây gậy đầu lâu. Thế rồi cậu bé đã đánh tráo cây gậy đầu lâu, bằng một khúc gổ và bỏ ra ngoài hang.
Qua ngày hôm sau Đại Hương ngồi trên mình con rồng Thiết Long bay lượn trên không. Cậu ta bay đến cửa hang núi của mụ Linh Cẩu, tay đưa cây gậy đầu lâu ra nói: Tất cả loài linh cẩu, chó sói và khỉ báo hãy theo lệnh ta! Vậy là cả hang động linh cẩu đều chạy ra ngoài hang, đứng về phía Đại Hương hết. Còn mụ Linh Cẩu ở lại một mình. Lúc này ở trại quân vẫn im ắng như tờ. Thiết Hùng liền thả cây kiếm đá linh thiêng ra, cho nó bay vào hang động đi tìm Bạch Ngọc. Khi đó mụ phù thủy kinh hồn vì đã mất hết bùa phép, thì chạy ngay tới chỗ giam giữ Bạch Ngọc. Nhưng thanh kiếm đá linh thiêng đã cứu cô bé đi mất rồi.
Mụ phù thủy Linh Cẩu vô cùng bối rối, vì chỉ còn có một mình tay không tấc sắc. Mụ biết đầu hàng thì tướng quân Hắc Thổ sẽ giết mụ. Mụ đau khổ không biết tính sao, thì lần mò ra ngoài cửa hang ngó nghiêng qua lại. Song lạ kỳ thay, là mụ ta chẳng thấy gì cả? Mụ mò ra thẳng trại quân của bọn trẻ, thì được mấy con linh cẩu con nói rằng, mụ đã được tha và muốn đi đâu thì đi. Nhưng trừ một chỗ, là nơi đóng quân của tướng Hắc Thổ đấy nhé!.
19. Lúc này toàn mặt trận đồi núi Tuyết Sơn đã được giải phóng. Tướng quân Hắc Thổ đã được lệnh rút quân. Vậy là toàn quân lần lượt rút đi, để lại trên chiến trường ngổn ngang xác giặc. Vì mặt trận này kéo dài suốt miền biên giới, nên có rất nhiều làng mạc thôn bản nằm trong vùng chiến tranh. Đâu đâu cũng thấy vết đạn và hố bom. Những chiến xe cơ giới bốc cháy vẫn còn lên khói. Cỏ cây cháy trụi cả một vùng rộng lớn. Những xác người chết đã bắt đầu phân hủy, bốc lên mùi tử khí khủng khiếp làm sao. Đại Hương và các bạn đang đi qua vùng này. Nhìn thấy cảnh tượng ấy lòng đau như cắt. Cậu ta nghĩ: Chiến tranh! Chiến tranh thật phi lý? Nếu chúng ta không đánh chúng, thì chúng sẽ tràn qua đây xâm lược chúng ta. Nhưng chiến tranh là một thất bại của lương tri con người, của nghề làm chính trị. Làm chính trị giỏi là tránh được chiến tranh, nhưng vẫn bảo vệ được chủ quyền đất nước. Chiến tranh nhân danh điều gì cũng là vô nghĩa. Vì kết quả của nó là chết chóc tang thương. Khi tướng Hắc Thổ giải cứu được một nhà tù, thì cảnh địa ngục trần gian hiện ra. Bọn giặc cướp nước đã nhốt những người tù yêu nước, trong những cái hố hẹp đầy chất thải và giòi bọ. Rồi có cả một dãy xà lim dưới lòng đất. Ngày hè oi bức thì chúng đổ nước vôi bột xuống làm lột da. Chúng đóng đinh vào xương cho đến chết. Chúng cưa chân chặc tay tra khảo thật dã man. Chúng phơi nắng tù nhân và cho nhịn đói. Ai sống được cũng thoi thóp bơ phờ như mất hồn. Chúng làm cho tù nhân phải phát điên lên mà chết. Vì thế sự ác độc của con người là vô tận.
Đại Hương và các bạn lần đầu tiên nhìn thấy cảnh ấy đều bưng mặt khóc. Vì tâm hồn của những đứa trẻ này mềm mại như những cánh hoa.Vậy mà chúng phải hiểu rằng, thật sự con người còn có một nữa là dã thú. Vì người ta yêu đất nước mình, người ta mới đấu tranh chống xâm lược. Vì bạn cũng sinh ra từ dân tộc của bạn, và bạn luôn yêu quý nó. Vậy những người này có tội gì lớn mà hành hạ người ta như thế? Cũng là con người như nhau, ai cũng biết đau đớn như nhau? Mà không biết thông cảm cho nhau sao? Sự độc ác nó dâng lên cái khoái cảm dã thú trong lòng người chóc lát. Nhưng nó sẽ tàn phá tâm hồn chúng ta mãi mãi. Đại Hương thấy cảnh đó thì chịu không nổi nữa, mới lấy quyển sách phép thuật ra và được nó trả lời: “Quyền năng của thượng đế cũng không đi tới địa ngục, Ân sủng của chúa trời cũng không lên được thiên đàng”. Tất cả là do con người gây ra và hãy gánh chịu lấy.
Thế là bọn trẻ cứ đi, cứ đi qua mọi thứ ngỗn ngang của hiện thực đen tối. Chúng đi qua cuộc chiến tranh này như một ác mộng. Như một chuyến tham quan đến địa ngục,  nó khác xa với những mơ mộng khi đứng trước cuộc đời rộng lớn. Và cuối cùng chúng hiểu rằng, thực tế khác xa với điều chúng ta nghĩ. Những gì chúng ta mơ mộng chỉ đều là vọng tưởng. Chỉ có tiếp xúc trực tiếp với hiện tại thì con người mới là đang sống. Vì sống chính là đạo rồi. Nhờ nhận thức được hai mặt của cuộc sống này, mà Đại Hương đã trưởng thành hơn. Cậu ta đã có quyển sách phép thuật trong tay, vì thế cậu ta có nguyện ước rằng, sẻ đi bất cứ đâu để đấu tranh cho hạnh phúc của con người.
Bọn trẻ và hai ông lão cố hết sức đi qua cái vũng lầy đời sống này, nhưng đi mãi mà cái dấu vết chiến tranh kia, như vẫn còn đang lở loét ra. Bổng nhiên họ nhìn thấy một đoàn người rách rưới bẩn thỉu, trên người còn đầy vết roi vọt đang chạy trốn. Đại Hương chặn họ lại và hỏi han. Bọn người đó nói: Chúng tôi đang trốn chạy khỏi một cái công trường nô lệ, cách đây ba ngọn núi về phía này. Tên chúa rừng đã bắt chúng tôi lao động khổ sai trong các hầm mỏ rất khổ sở. Vì thế chúng tôi đã trốn bỏ đi, đã có rất nhiều người ngã gục trên đường chạy trốn rồi. Nếu các bạn muốn biết sự tình, thì hãy đi về hướng đó. Nơi đó không có sự đón chào con người, mà chỉ thu nhận những kẻ hèn mọn để làm nô lệ thôi. Các bạn sẽ được thay đổi hoàn toàn khi sống ở đó. Vì người ta không chấp nhận các bạn, như những con người bình thường đâu. Nghe vậy lòng Đại Hương càng dâng lên một niềm u uẫn khó tả. Cậu ta nghĩ. Nhất định sẽ cùng các bạn đi đến đó xem sao?
20. Sau khi cuộc chiến tranh biên giới kết thúc, ông sứ thần của đức vua lúc nào cũng ở bên sư phụ Tuyết Sơn. Một hôm nhân lúc nhàn rỗi, ông sứ thần mới hỏi sư phụ rằng: Thưa tiên sinh! Như tiên sinh đã nói, Muốn đi tới chân tâm thì phải bỏ đi ba thứ: Kiến thức, tình cảm và thân xác. Vậy bỏ đi là bỏ đi thế nào? Tôi không hiểu lắm…Ví dụ như làm người, là phải có tình cảm mới sống trong xã hội con người được, còn nếu bỏ nó đi, thì sai với đạo đức luân lý rồi? Thì làm sao làm người được thưa tiên sinh! Sư phụ nghe ông sứ thần hỏi thế, thì bật cười lên ha hả mà rằng: Ông nói không sai. Nhưng nó chỉ đúng ở sự nhận thức hữu lậu mà thôi. Có nghỉa là nhận thức của tình cảm trên bề mặt. Ý ta nói đây là đi vô cái vô vi rồi, nên rất khó hiểu… 
Này nhé! Vậy ta sẽ bắt đầu từ khi một đứa bé sinh ra, là không thiện không ác, yêu ghét hay toan tính đúng sai gì cả, mà chúng chỉ có một linh hồn trong sáng thôi. Từ đó nó lớn lên và bắt đầu đi học. Này nhé! Tất cả cái gì từ ngoài đi vào tinh thần của con người, đều là nghiệp chướng. Từ sự học tập kiến thức trong sách vở nhà trường, đến văn hóa truyền thống gì, cũng là nghiệp chướng hết. Cái này nó chất đầy tại ý thức của bạn. Còn cái bóng của nó thì chất đầy ở tiềm thức, mà ta gọi là siêu hình. Nếu người nào học quá nhiều, mà không thể giải trừ được kiến thức, thì nó sẽ trở thành gánh nặng tinh thần, và bằng chứng là, có nhiều người chịu không nổi thì điên luôn vì cái sự học.
Nghiệp chướng thứ hai mà bạn phải vượt qua là tình cảm. Nó là cái nghiệp chướng nặng nề nhất. Khi bạn lớn lên, bạn có bạn bè và người yêu. Bạn say mê và yêu thương cho bằng được. Cái tình yêu đó là tình yêu ích kỷ của con người. Nó bị siêu hình thổi bùng lên ngọn lửa đam mê, trong một ngôi nhà bốn bề làm bằng kiếng. Nó phản chiếu hình ảnh của mọi tình cảm vui buồn hờn ghen của bạn, thành những cái ảo tưởng mơ hồ đẹp đẻ mà bạn cứ tưởng là thật. Ở đâu bạn cũng nhìn thấy nó. Nó không ngừng tăng lên trong tâm lý của bạn, và trở thành hỗn loạn, và bạn rất đau khổ khi phải chịu đựng điều đó. Đó chính là con ma siêu hình. Nếu bạn bị mất tình cảm thì bạn sẽ đau đớn, vì nó đi ngược lại cái ham muốn của bạn mà. Cái gì đi ngược lại tình cảm của bạn, thì bạn ghét người ta. Còn nó thuận theo ham muốn của bạn, thì bạn yêu thương. Chính điều này làm bạn đau khổ nhất. Nhưng bạn hãy nên nhớ rằng, đó là những thứ tình cảm từ bên ngoài đi vào tinh thần bạn mà thôi, lâu dần bạn đã xây dựng cho nó trở thành một biểu tượng. Tôi gọi đó là “những thói quen của tình cảm”. Nếu bạn bỏ nó đi, thì bạn sẽ mở ra được cánh cửa của tình yêu sâu thẳm bên trong. Cái tình yêu này nó khác với cái tình yêu bên ngoài, là yêu rồi ghét. Còn nó là yêu mãi mãi. Đó là cái tình yêu có sẵn trong bạn rồi. Nó ở nơi cái chân tâm của bạn. Tình yêu đó rất lớn lao, chứ không phải là cái tình yêu bình thường. Vì thế bạn sẽ không trở thành một kẻ phản bội, khi đã bỏ đi những tình cảm yêu ghét thông thường.
Điều thứ ba là sự hưởng thụ của thân xác mà bạn đã quen rồi. Ví dụ như bạn thích ăn uống, ngủ nghỉ và giải trí. Bạn thích vẽ đẹp con người, bạn thích yêu đương ân ái, bạn thích ngắm nhìn, hay lắng nghe những gì phù hợp với bạn…Riết thành thói quen. Bỏ đi thì bạn không chịu được. Tôi gọi đó là “các thói quen của các giác quan”. Vì thân xác bạn đã quen mùi dục lạc mãi, nên bạn đã đâm nghiện và nó đã sai khiến cả con người bạn luôn. Điều này là cái nghiệp chướng tồi tệ nhất. Sự đòi hỏi không ngừng của thân xác, sẽ gây nên áp lực cho tinh thần bạn…Từ đó làm bạn đau khổ nhiều hơn là vui sướng hưởng thụ.
Bạn nên biết rằng, tinh thần luôn đi trước thân xác. Nó luôn bị thân xác trì kéo xuống thấp, bằng cái bản năng động vật vốn có của nó. Từ đó trong tâm lý bạn, luôn có cuộc đấu tranh giằng co giữa thân xác và tinh thần. Cái đau khổ đó nó bốc hơi lên thành cái “cảm giác” ở tâm lình. Từ cái cảm giác này, mà bạn bị lôi trược đi theo ngoại cảnh mà bạn không thể nào dừng lại được. Bạn bị nhốt trong chốn mịt mù của cảm giác, nên bạn rất đau khổ. Vì thân xác bạn không ngừng đòi hỏi, là để thỏa mãn ham muốn do siêu hình tạo ra. Do đó, lúc nào bạn cũng ở trong một cái vòng luẫn quẫn không thoát ra được, nên bạn đau khổ mãi…Bạn quá đau khổ, cho nên bạn tự dựng lên những cảnh giới mộng mị tạm thời để xoa dịu khổ đau…Cứ thế bạn đã bị ràng buộc và tự thỏa mãn trong vô minh.
Như vậy, ba cái này đều từ bên ngoài đi vào con người bạn, nên nó là nghiệp chướng. Bạn bỏ đi được ba cái này, thì bạn sẽ trở về với cái bản tâm sơ sinh lúc ban đầu, và kết thúc “một vòng trần gian”. Bạn bỏ đi cái này, thì phải có cái khác thay thế. Cái đó là cái vô vi. Cái vô vi này nó không “chiếm chổ” trong tinh thần bạn. Nhưng khi bạn cần, thì nó sẽ hiện ra.
Bạn nên nhớ rằng, cái có sẳn trong con người bạn mới chính là bạn. Nó là quê nhà yêu dấu của bạn. Bạn quay về đó, là bạn có được sức mạnh lớn lao của chính mình, vì nó không phải là những thứ tạm bợ từ ngoài đi vào. Bạn hãy dũng cảm lên mà bước đi. Tất nhiên bạn sẽ đến nơi huy hoàng mà bạn muốn.
22. Khi nghe bọn người khốn khổ kia kể chuyện, và chỉ hướng đi đến cái nơi mà con người bị đày đọa, thì lúc đó Đại Hương và các bạn, cùng hai ông lão Thiên Bình Tự Tại, và Công Phu Tào Ngưu, đã quyết tâm đi về hướng đó.
Họ quay lại, và đi về hướng ba ngọn núi trong rừng sâu, nhưng họ vẫn nhìn thấy cảnh tượng khốn khổ của con người rãi rác đâu đây. Đại Hương bảo các bạn rằng: Bây giờ chúng ta cứ đi, nhưng khi gặp những người mắc nạn trên đường, thì chúng ta cứ cứu giúp, chúng ta không thể giả lơ trước những việc đau lòng này được.
Vậy là bọn trẻ cùng hai ông lão chia nhau đi giúp đở mọi người. Tiểu Hoa và Bạch Ngọc đi tắm cho những đứa trẻ, và cho chúng ăn cơm. Đại Lực và Thiên Hùng cất nhà, và trồng cây thành những ngôi làng mới. Đại Hương và anh rồng Thiết Long hóa phép đem nước từ các sông suối về làng. Hai ông lão Công Phu Tào Ngưu và Thiên Bình Tự Tại, thì kéo quân đi dọn dẹp rác rến, cỏ lá sú uế còn sót lại sau cuộc chiến tranh. Cứ như vậy, bọn trẻ và hai ông lão đã giúp đở được rất nhiều người, và đã xây dựng được rất nhiều ngôi làng đẹp.
Một hôm bọn trẻ đang cứu giúp mọi người, thì mụ phù thủy Linh Cẩu xuất hiện. Mụ ta nói: Bây giờ tôi không còn phép thuật gì nữa, và cũng chẳng biết đi đâu. Vậy các bạn hãy nhận tôi cùng đi với. Tôi biết đường đi đến ba ngọn núi trong rừng sâu, có tòa lâu đài màu trắng. Nơi đó rất thú vị với các bạn đó. Đại Hương nói: Vậy cũng được, nhưng ngươi vốn là loài linh cẩu tinh ranh, ngươi có cách gì chỉ cho ta để ta cứu những người khốn khổ ở đó nhé! Mụ Linh Cẩu gật đầu đồng ý. Thế là trong đoàn đã có thêm mụ phù thủy Linh Cẩu nữa.
Đại Hương cho người về quê nhà xin phép sư phụ Tuyết Sơn được tiếp tục lên đường. Sư phụ đồng ý, và không quên căn dặn rằng; Các con cứ ra đi để cứu giúp mọi người bớt khổ. Nhưng hãy hạn chế sử dụng phép thuật đó nghen. Vì phép thuật là quyền năng bề trên ban cho, chứ không phải do ta mà có được. Do đó, nếu sài nhiều quá sẽ không được tốt đâu.
Đại Hương dẫn các bạn đi sâu vào trong rừng, và đến giáp biên giới, nơi đây là bản làng của những người dân tộc thiểu số. Họ là giống người man rợ. Họ có những buổi tế lễ rất dã man. Vào một đêm trăng sáng nào đó, họ tổ chức buổi tế lễ. Họ đốt một đống lửa to giữa sân, và cột sẳn một con trâu vào đó. Họ vẽ mặt mày vằn vện, vừa múa hát vừa uống rượu, vừa cầm giáo mác vây quanh đâm chém con vật, làm máu đỏ tuôn ra khắp cả sân. Thật kinh hoàng thay khi bọn trẻ nhìn thấy cảnh ấy. Con vật khốn khổ kinh hoàng chả hiểu điều gì xảy ra? Nó ngước đôi mắt đẫm lệ nhìn quanh, rồi gục ngã dưới những nhát chém tàn bạo của của con người.
Mụ phù thủy Linh Cẩu nhìn thấy cảnh hân hoan giết chóc đó thì rất vui. Mụ ta dắt một đám linh cẩu con nhảy vào cùng la hét, và đâm chém cái xác chết của con vật xấu số kia. Thấy vậy Tiểu Hoa mới nói với Đại Hương rằng: Anh Đại Hương à! Làm sao ở thời đại văn minh, mà còn có những cái lễ hội dã man thế này được. Người ta nói là văn hóa, nhưng em không tin đâu. Đây là sự háo sát giết chóc mà thôi. Nó phản ảnh cái tâm lý độc ác, bấn loạn và sợ hãi của con người. Đại Hương nói: Thôi ta phải ngăn chặn cái “truyền thống văn hóa tàn bạo” này lại thôi. Lạy chúa! Hãy cho con sức mạnh, và khôn ngoan để con làm được việc này. Nói rồi Đại Hương nhảy vào can ngăn bọn người dân tộc kia, và không cho họ giết chóc nữa. Đồng thời cậu ta ngầm ra hiệu cho ông lão Công Phu Tào Ngưu dàn quân sẳn xung quanh. Tức thì bọn người dân tộc liền phản ứng. Chúng hò reo và kéo nhau xông vào đánh lại Đại Hương và bọn trẻ. Đại Hương thét lên: Hãy bắt bọn chúng quy phục, chứ không được làm chúng bị thương! Các bạn ơi! Hãy làm đi!
Thế là hai bên hỗn chiến. Mụ phù thủy Linh Cẩu dẫn đoàn quân linh cẩu hôi hám bao vây bọn chúng lại. Trong khi đó thì tiếng chiên trống của bọn người dân tộc vang lên khắp nơi!leng keng leng keng! tùng tùng tùng tùng! Từ các ngõ ngách núi rừng, chúng xông ra vây đánh đoàn quân của Đại Hương tơi bời khói lửa. Đại Hương liền ra lệnh cho hai ông lão đem quân ập đến, chia cắt chúng thành từng nhóm nhỏ mà đánh. Dần dần với chiến thuật khôn ngoan hơn, Đại Hương đã bắt được tất cả bộ tộc dã man này phải quy hàng.
Sau khi bắt trói tất cả rồi. Đại Hương giải thích rằng, cậu ta và các bạn không hề muốn làm hại họ, mà chỉ khuyên họ sau này không được tổ chức lễ hội đâm trâu nữa. Đó là một thói quen dã man cần loại bỏ. Thế thôi. Văn hóa phải cần bỏ bớt đi mới phù hợp với sự phát triển của văn minh. Con người càng tiến bộ thì phải càng có lòng thương yêu nhau, thương xót đến cả những con vật nuôi của mình. Có như thế, thượng đế mới phù hộ chúng ta được sống yên bình. Bọn người kia nghe vậy, thì vui mừng lắm. Sau đó Đại Hương và các bạn, lại giúp đở họ nhiếu thứ khác nữa, rồi mới chia tay lên đường.
Vậy là bọn trẻ và hai ông lão lại tiếp tục cuộc hành trình. Mụ phù thủy Linh Cẩu thì  dẫn đường phía trước. Sau khi vượt qua ba ngọn núi. Mọi người bắt gặp một con sông dài uốn quanh…Phía xa xa bên kia sông là một cái căn cứ núp dưới những tán cây râm mát. Bên trong căn cứ còn có cả một ngôi nhà thờ màu hồng, với tháp chuông hai bên. Ở chính giữa nổi bật lên một tòa lâu đài màu trắng thật tráng lệ, nằm ẩn mình trong rừng sâu.
Chúa tể rừng xanh Ma Lai Tang Tang
23. Nói về đức vua còn ở lại ngôi làng nhỏ dưới chân núi. Đáng lẽ người đã về triều từ lâu, nhưng trong lòng người vẫn còn lấn cấn. Vì thực chất đức vua là một ông vua tốt, rất biết lắng nghe và sửa đổi. Một hôm người cho gọi sư phụ Tuyết Sơn vào để hỏi chuyện.
Gặp sư phụ Tuyết Sơn đức vua hỏi: Này tiên sinh! Trẩm vẫn còn có điều này muốn hỏi tiên sinh. Sư phụ nói: Thưa đại vương người cứ hỏi. Nếu tôi trả lời được thì tôi sẽ sẳn sàng trả lời cho đại vương nghe. Đức vua nói: Theo tình hình thế giới bây giờ, thì người ta hội nhập, và ở đâu người ta cũng theo đa nguyên. Theo ý trẩm, thì có phải là chính quyền của trẩm không giống với người ta không? Vậy có nên làm theo người ta không? Hay như cách cai trị của trẩm hiện giờ thì đã sai rồi sao?
Sư phụ nói: Thưa đại vương! Trăm sông cũng suôi về biển. Khi về đến biển rồi, thì tất cả đều hòa vào nhau làm một, mà trong lòng nó có chứa tất cả các dòng sông kia. Đó là thời hội nhập ngày nay đó. Thưa đại vương! Thời hội nhập ngày nay, xảy ra là do tác động va chạm, và nhu cầu phát triển trên bề mặt đời sống này tạo ra. Có nghĩa là về kinh tế đầu tiên. Thế giới bây giờ đã dần liên kết với nhau chặc chẻ hơn, và nó muốn có được sự chia sẻ của những dòng chảy vật chất, đến khắp mọi nơi trên bề mặt thế giới. Khi vấn đề kinh tế được giải quyết xong, thì nó sẽ dẫn tới vấn đề bên trong. Có nghĩa là vấn đề tinh thần của con người. Là vấn đề dân chủ đó thưa đại vương! Nhưng đó là toàn cảnh của sự chuyển dịch này.
Sư phụ nói tiếp: Như đại vương đã biết, tư tưởng nhân loại xưa nay chỉ có nhị nguyên và nhất nguyên thôi, chứ không có cái gọi là đa nguyên đâu. Một cái là lý tưởng, của nhiều hệ ý thức triết học dựng nên. Còn một cái là chân lý, là có tất cả các hệ ý thức triết học đó gộp lại mà thành. Đó là minh triết.
Thưa đại vương! Các hệ ý thức triết học, tạo ra sự sôi nổi của đời sống tư tưởng của con người, chỉ là tạm thời. Cái đó ngươi ta gọi là đa nguyên. Nó như những dòng sông ở khắp nơi trên mặt đất, mà chưa về biển được. Nhưng vì nó là tạm thời như những phát hiện, trên từng giai đoạn tinh thần của con người. Nó sẽ cương quyết tranh chấp, hay sẽ nhạt nhòa khi xuất hiện những cái mới hơn. Vì thế cái đa nguyên cũng là tạm thời, như những chiếc áo nhiều màu sắc mà thôi.
Thưa đại vương! Khi trăm sông đổ về biển rồi, là quá trình nhân loại đã đi đến ngày hôm nay, thì đó là chân lý, là nhất nguyên. Đó là cách giải quyết triệt để mọi tranh chấp, là giải thoát, chứ không phải cách giải quyết để chịu đựng lẫn nhau trên bề mặt. Như cách mà người ta nói đến, với cái gọi là đa nguyên. Nhưng dù sao thì nổ lực hòa hợp, để chịu đựng nhau cũng tốt hơn là đối kháng với nhau.
Thưa đại vương!Nhiều trường phái triết học, sinh ra nhiều hệ ý thức khác nhau. Nhưng bây giờ, nó vẫn không thôi sinh ra nhiều hệ ý thức mới nữa. Điều đó sẽ xảy ra hai xu hướng phát triển để hình thành: Một là người ta kết hợp lại, bởi những cái đồng nhất, và hai là triệt tiêu nhau bằng những cái khác biệt. Giải quyết bằng hai cực đoan này cũng dẫn tới bế tắc. Đó là lý do để minh triết ra đời, và giải quyết cái bế tắc này.
Thưa đại vương! Vậy thì ngài hãy yên tâm trị vị với cái thiết chế chính trị của ngài hiện nay đi, mà không cần lo sợ lỗi thời gì cả. Tuy nhiên, ngài hãy lắng nghe tiếng nức nở sinh sôi của thời đại mà chúng ta đang sống. Cái gì ào tới đều xảy ra trên bề mặt trước tiên, sau đó nó mới tác động vào bên trong. Người phương tây họ tìm đủ mọi cách để giải quyết trên bề mặt thật tốt. Điều đó rất đúng, nên chúng ta cần phải học tập họ. Tuy nhiên, họ vẫn có lắm sai lầm mà chúng ta nên tránh, như vấn đề ngộ nhận  về cái đa nguyên. Theo tôi, cái đa nguyên là một danh từ nói cho vui thôi, theo quá trình phân tích mà sinh ra. Vấn đề là ngài hãy là biển, nhưng vẫn mang tên một dòng sông quê hương thì cũng được. Có nghĩa là ngài hãy vận động theo tiếng gọi của thời đại, và giữ vững con đường độc lập tự chủ của dân tộc mình, con đường mà nhân dân đã chọn. Nhưng ngài hãy dứt khoát phải tránh hai điều: Là không bị lệ thuộc, và độc tài. Vì hai cái này, là nguyên nhân dẫn đến mất nước trong thời đại hôm nay.
Thưa đại vương! Ngài đi theo con đường nhất nguyên là đúng đắn nhất. Đó là con đường của chân lý, của minh triết, chứ không phải của một hệ ý thức triết học nào. Tuy nhiên, ngài không nên phủ nhận tất cả những cái khác được, mà phải sử dụng nó như những công cụ để tiếp cận thế giới, và để giải quyết công việc trong nước của mình.
Thưa đại vương! Tôi không hề ủng hộ những cuộc bạo động của dân chúng chống đối chính quyền, cũng như không yên tâm khi chính quyền dùng bạo lực để đàn áp nhân dân. Cả hai điều đó xảy ra điều bất lợi. Vì hai điều đó xảy ra, là chỉ để châm ngòi cho những động cơ bất minh nổi lên làm hại nhân dân, làm hại đất nước mà thôi. Tôi chỉ xin nhắn nhủ ngài rằng, hãy chuẩn bị mọi thứ trước khi giông bão tới. Không phải chờ nước đến chân rồi mới nhảy, thì đã muộn rồi. Có nghĩa là ngài hãy sáng suốt tháo gở từng chút một, đến khi sóng thùy triều tới, thì ngài sẽ hòa chung vào biển lớn một cách êm đềm nhất. Thưa đại vương!
Sư phụ nói tiếp: Còn một điều này nữa, đại vương hãy lưu ý chớ có lẫn lộn. Đó là vấn đề hội nhập và tạo ra một thế giới phẳng. Như tôi đã nói ở trên. Hội nhập là người ta tìm cách chia sẻ từ chổ cao chảy xuống chổ thấp trên bề mặt thôi. Nó tràn đầy, và dịch chuyễn đi khắp nơi, để cân bằng về kinh tế chính trị xã hội. Sau đó dần dần mới đến tư tưởng văn hóa, và những cái khác sâu sắc bên trong. Hội nhập là hòa hợp cái yếu chạy theo cái mạnh, chứ không phải áp đặt tất cả đều như nhau hết. Vì lịch sử dân tộc mỗi nước khác nhau, thì không thể nào giống nhau cả hai mặt được. Nếu tinh thần dân tộc chổ này đặc sắc và mạnh mẽ, thì những cái khác đi vào, sẽ bị nó nhấn chìm. Cái đó gọi là chia nhỏ ra để đi sâu vào tính địa phương. Và ngược lại cũng như thế. Vì thế giới có những cựu lục địa và tân lục địa mà…Thưa đại vương!
Đức vua nghe sư phụ nói đến đây thì cảm thấy rất vui và bỏ vào trong…
24. Đoàn quân của Đại Hương đã đến bên bờ sông. Ông lão Thiên Bình Tự Tại, xin cho dừng quân để dò xét tình hình. Đại Hương đồng ý, và bảo rằng, tất cả phải chia nhỏ ra, rồi ẩn núp trong rừng rậm thì sẽ ổn hơn. Ông lão Thiên Bình Tự Tại lấy bản đồ ra để xác định địa giới vùng này, thì thấy rằng, đây là vùng đất nằm giữa khu tam giác, nối tiếp ba nước. Địa hình ở đây rất phức tạp, nên chính phủ các nước vẫn chưa thể tấn công vào đây được. Do đó Đại Hương bàn với mọi người rằng, hãy theo dõi quan sát đối phương, rồi mới lập kế hoạch tiến công.
Lúc này tên chủ nhân của tòa lâu đài màu trắng đã biết hết rồi. Hắn đứng trên một cái chòi canh rất cao, cầm ống nhòm nhìn xuống quan sát. Hắn ra lệnh cho những tên thuộc hạ chuẩn bị vũ khí như tên lửa cầm tay, và xe deep chở quân biệt kích. Đồng thời gã phi công lái trực thăng của hắn cũng phải sẳn sàng.
Căn cứ của tên chúa tể rừng xanh này, được xây dựng trên một quả đồi giữa rừng sâu, bốn bên là núi đá cao vút, và bao bộc bởi môt con sông hung dữ. Con sông này khô cạn vào mùa nắng, nó sâu đến nổi mà những cái cây cổ thụ mọc dưới lòng sông, còn cái ngọn của nó ở trên bờ. Do đó, nó là nơi đồn trú bên trong, để chiến đấu rất hiệu quả. Đó chỉ là vòng ngoài của căn cứ mà thôi. Còn bên trong căn cứ, là một tổ hợp nhà cửa kiến trúc hoàn chỉnh và độc đáo. Tòa lâu đài có nhiều tầng xây theo kiểu gothic bằng đá trắng toát. Phía trước dinh thự này là một cái sân trống như quãng trường, ở giữa có đặt một bức tượng của lão triết gia điên khùng mà hắn say mê. Bức tượng đứng hiên ngang giữa trời, tay cầm một cái búa, và một tay cầm quả địa cầu giơ lên cao. Bức tượng với khuông mặt sắt đá, có hàm râu rậm cong vễnh ra phía trước. Nó như một sự khẳng định về sức mạnh siêu nhiên của con người chinh phục thế giới. Những người nô lệ nơi đây, mỗi khi đi qua bức tượng này, đều thấy hoang mang lo lắng sợ hãi vô cùng. Phía xa hơn khu vực trung tâm của căn cứ, là những dãy nhà thấp bít bùng dùng để nhốt nô lệ. Nó xếp thành nhiều dãy kéo dài vô tận, và được đánh số. Khu nhà máy thì rộng rãi, và đầy đặc những người nô lệ đang làm việc. Sau đó nữa là những con đường mù mịt khói bụi, dẫn ra các hầm mỏ khai thác khoáng sản. Xa hơn là những cánh đồng hoa anh túc đầy quyến dụ và mê hoặc.
Tên chúa tể rừng xanh trầm ngâm suy tính, ý nghĩ của hắn như những con rắn bò quanh trong đầu. Tên hắn là Ma Lai Tang Tang. Hắn có bề ngoài giống như một nghệ sỹ hơn là một tên tội phạm. Hắn mặc một chiếc áo khoác màu đen dài chấm gót, tóc tai long lá phủ đầy gương mặt đẹp như một bức tượng. Hắn mang một đôi ủng cao màu đen, còn bên hong lúc nào cũng kè kè một cây súng tiểu liên và chiếc roi da. Tướng hắn cao lớn lừng lững giữa những kẻ tôi tớ thấp hèn, lúc nào cũng cúi gầm mặt xuống đất. Hắn là một kẻ cô độc không có trái tim. Hắn luôn dùng bạo lực và trí khôn, để bắt người khác làm nô lệ. Hắn là người biết hưởng thụ khoái cảm thể xác, và tinh thần. Hắn có nhiều bà vợ nô lệ tình dục, và biết làm thơ siêu thực, vẽ tranh chơi đàn. Hắn yêu cái đẹp lộng lẫy hùng tráng, say sưa làm giàu và chà đạp giết chóc. Hắn tự cho mình là loại người thượng đẳng. Hắn là kẻ lang thang trên sa mạc, để hấp thụ sức mạnh thiêng liêng của bóng đêm. Bây giờ trước mũi súng của hắn, là những người lạ. Điều trước tiên, là bắt những kẻ kia làm nô lệ trong các hầm mỏ, và trên cánh đồng anh túc của hắn.
Hắn đứng trên cao quan sát, và dùng bộ đàm ra những mệnh lệnh. Hắn bắt đầu di chuyển những tiểu đội biệt kích ra ngoài tòa lâu đài. Súng đạn đã sẵn sàng. Hắn thầm đếm đến cái giây phút tối tăm của đối phương…Nhưng bổng nhiên hắn chẳng thể nào nhìn thấy đối phương được nữa. Không phải hắn bị mù, mà đối phương đã biến mất. Thế là hắn ra lệnh cho toán quân biệt kích, và chó săn xông ra lung sục khắp xung quanh. Đồng thời hắn lên máy bay, bay đi vòng vòng khắp khu rừng.
Sau khi đi trinh sát quay về, hắn bực bội la hét om xòm. Toán biệt kích và chó săn tiu nghỉu không biết việc gì xảy ra. Hắn nghĩ, có thể nào vì quá đa nghi mà hắn đã có ảo giác? Nhưng không phải vậy. Vì rỏ ràng đám người kia đã đến đây mà? Đã ẩn núp đâu đó trong các lùm cây, mà hắn đã nhìn thấy rất rỏ qua ống nhòm.
Đêm xuống trong rừng sâu thật âm u tịch mịch. Những ngôi sao lấp lóe trong các khoảng trống của cành lá. Gió xào xạc vờn quanh. Những chiếc lá động chạm nhau trong đêm trở nên gần gủi hơn. Tiếng những con thú ăn đêm rục rịch. Đời sống rừng sâu về đêm bắt đầu. Phía sau những gốc cây to, là những đôi mắt thú chập chờn di động nhảy múa liên hồi. Tiếng chim đêm vang lên thảng thốt, dồn dập, bấn loạn…
Trong dinh thự của tên Ma Lai Tang Tang đèn đuốc sáng trưng. Giờ này hắn đang nghỉ ngơi và uống rượu. Hắn ngồi vào chiếc đàn dương cầm chơi một điệu nhạc buồn u uất. Tiếng đàn vang ra ngoài tòa lâu đài bay đi khắp núi rừng. Tiếng đàn cô đơn rơi tỏm vào trong đêm âm u mềm mại, như nỗi lòng của một lữ khách ghé qua trần gian này. Tiếng đàn lấp lánh buồn bã làm sao…
Những người nô lệ trong các hầm mỏ giờ này đã thay ca. Họ như những con kiến trên công trường. Họ cúi gầm mặt xuống đất mà đi, và nghe tiếng đàn ma quái kia. Ở một điểm nào đó, thì ông chủ của họ cũng mang thân phận đau thương giống như họ vậy. Những người nô lệ, bị xiềng xích vào nhau thành một bầy người đi về chổ ngũ. Niềm hạnh phúc của họ là những giấc mơ không bị xiềng trói vào một hiện tại nào cả. Những chiến xe chở nặng quặng mỏ, vẫn chạy loanh quanh trong sân nhà máy. Những tên lính áo đen, như những thay ma bước đi chậm rãi xung quanh mọi vật. Chúng luôn bất ngờ vút lên những làn roi tứa máu vào đám người nô lệ. Chúng như những con thú vô tri, trước những khổ đau khốn cùng của con người.
25. Khi bọn trẻ và hai ông lão, đã nhìn thấy toàn bộ cơ ngơi của tên chúa rừng rồi, thì mọi người mới họp bàn. Ông lão Thiên Bình Tự Tại nói: Chúng ta tấn công vào đây phải dùng ít đánh nhiều, điều đó cũng phù hợp với lực lượng chúng ta hiện nay. Tất cả chúng ta, mỗi người chỉ nên đem theo một ít quân thôi, chia nhau xâm nhập vào căn cứ. Còn tất cả quân lính đều giao cho ngài Công Phu Tào Ngưu đây nắm giữ, ẩn nấp trong rừng sâu, ở phía xa hơn tầm đại bác của chúng. Mụ phù thủy Linh Cẩu, thì chỉ huy đội quân linh cẩu đi trinh sát, và có nhiệm vụ làm rối loạn quân tình của đối phương. Đại Hương nghe thế thì mới hỏi mọi người xem có khả thi không? Tiểu Hoa nói: Ngài Thiên Bình Tự Tại nói vậy là phù hợp rồi. Chúng ta hơn hẳn bọn chúng, là chúng ta có phép thuật. Nhưng những đội quân đông đảo của chúng ta, thì không thể biến mất được. Vậy bây giờ ngài Công Phu Tào Ngưu hãy đem quân đi ẩn nấp mau đi. Thế là ông Công Phu Tào Ngưu đem quân đi ra xa. Đại Hương nói: Như vậy cũng được, nhưng trước mắt chúng ta phải lui ra xa để nghi binh. Làm như vậy để chúng tăng thêm nghi ngờ, và phán đoán lung tung. Chúng ta phải chờ đêm xuống mới có thời cơ. Vậy thì Đại Lực và Thiên Hùng dẫn quân đi về phía bên trái, vòng ra sau căn cứ, rồi ẩn núp kín đáo ở đó chờ lệnh. Bạch Ngọc thì đi theo anh rồng Thiết Long đi qua bên phải căn cứ, và chờ ở đó. Tiểu Hoa đi cùng ông Thiên Bình Tự Tại, thì ẩn núp vào ngọn núi này, Tiểu Hoa hãy xem trong chiếc gương thần, có gì thì báo cho mọi người biết. Riêng tôi thì đêm nay sẽ đột nhập vào căn cứ xem sao.
Bàn tính xong xuôi, thì mọi người chia nhau đi ẩn nấp hết. Đêm đã xuống chập chùng khắp nơi. Tất cả chỉ còn lóe sáng bởi ánh đèn điện nơi tòa lâu đài màu trắng kia. Đại Hương liền lấy quyễn sách phép thuật ra, và cho đòi thần núi ở đây đến hỏi tình hình. Thần núi xuất hiện và thưa rằng: Những ngọn núi này rất linh thiêng. Nó chứa rất nhiều oan hồn của những người nô lệ ở đã chết ở đây. Sở dĩ tên chúa rừng sống được, là vì mỗi ngày hắn thường cúng tế cho bọn quỷ rừng đầy đủ. Bọn quỷ rừng đói khát ở đây rất hung dữ, chúng thường ăn xác chết, và linh hồn của những người nô lệ. Chúng kêu hú vang động núi rừng suốt ngày đêm. Chúng về hùa với tên chúa rừng độc ác này, nên sức mạnh của chúng cũng tăng lên nhờ vào cái lực lượng cỏi âm kia. Vậy thì ngài hãy thận trọng. Giờ này đội quân của ông Công Phu Tào Ngưu đã có chuyện với chúng rồi. Đại Hương nghe nói thế thì giật mình lo lắng. Lúc đó Tiểu Hoa báo lại rằng, thông qua chiếc gương thần cho biết, thì đội quân của ông Công Phu Tào Ngưu đã đi lạc vào đám cây ngãi ma, và bị chúng ăn tươi nuốt sống gần hết rồi. Bọn quỷ rừng hiện ra la rú inh ỏi. Chúng là những bộ xương trắng bay phất phới khắp nơi. Quá kinh hoàng, Đại Hương liền ra lệnh tập hợp mọi người lại, đi cứu ông lão Công Phu Tào Ngưu. Mụ phù thủy Linh Cẩu nói: Ngài hãy trao lại cho tôi cây gậy đầu lâu đi. Tôi sẽ đi chặn bọn ma quỷ rừng rú này lại. Tôi sẽ không phản bội các người đâu. Vì đây là cơ hội để tôi tạ ơn các người đã tha chết cho tôi. Đại Hương nghe thế thì cũng thấy ổn, nên đã trao lại cây gậy phép thuật cho mụ phù thủy Linh Cẩu. Vậy là mụ ta tức tốc dẫn quân đi đánh bọn ma quỷ rừng rú đó.
Đại Hương nói: Chúng ta tạm thời vẫn phải quan sát tình hình cái đã. Mọi người hãy cảnh giác, không nên chủ quan. Vì tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang này, còn nhờ cậy vào cả thế giới âm hồn nữa. Xung quanh đây, tất cả đều là cạm bẩy. Này nhé! Anh Rồng Thiết Long hãy dẫn theo con chó đen bay đến cứu ông lão Công Phu Tào Ngưu đi. Hãy chở ông ấy về đây, còn mọi việc ở đó thì giao cho mụ phù thủy Linh Cẩu giải quyết.
Vậy là anh rồng Thiết Long cùng con chó đen bay đi…Từ đàng xa mọi người đã nghe thấy tiếng kêu la, phát ra từ trận chiến của mụ phù thủy linh cẩu, và bọn ma quỷ rừng rú rồi.
Lúc này ở trong tòa lâu đài, tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang đã thôi đàn. Hắn đang ngồi chờ đợi tin báo của những toán biệt kích. Trong căn cứ mọi việc vẫn xảy ra bình thường. Chuông nhà thờ vẫn đổ, như những giọt nước mắt không thôi thảy xuống. Hắn đi ra nhà thờ và bắt đầu buổi cầu kinh. Thực ra đây là con đường để hắn giao tiếp với thượng đế. Vì trước đây hắn đã đánh chiếm những bản làng người dân tộc, và bắt luôn cha xứ về đây, phục vụ cho nhu cầu tân linh của hắn. Những người nô lệ ở đây hằng ngày vẫn có tí thời gian để cầu nguyện. Và như thế, thay cho những lời hắn nói, là cha xứ phải nói rằng: Hãy cám ơn chúa vì chúng con vẫn còn sống trên đời!
Tên Ma Lai Tang Tang cầu kinh xong, và đang ra những mệnh lệnh gì đó cho bọn thuôc hạ. Liên tục hắn chậm rãi đi dạo quanh nhà thờ. Các toán biệt kích thay nhau lũi đi vào bóng đêm, và quay về báo cáo tình hình cho hắn. Hắn châm thuốc hút và mĩm cười. Có lẽ những dự đoán của hắn đã đúng, và đã thu về kết quả.
Bổng nhiên hắn đi ra phía sau nhà thờ, và vỗ tay mấy cái. Tức thì một con chim đại bang to lớn, từ trên tháp cao của nhà thờ bay xuống đậu vào tay hắn. Hắn nâng niu vuốt ve con chim quý, và thả cho nó bay đi.
Đại Hương và các bạn của mình đang núp sau một tảng đá, thì bất thình lình có mấy con chim đại bàng xà xuống tấn công. Quá bất ngờ mọi người cuống cuồng chống đở. Đại Lực vội lấy bộ cung tên thần ra bắn. Đại Hương liền ngăn lại và nói: Đại Lực! Em đừng giết chúng mà uổng những mũi tên vàng. Này Thiên Hùng, em hãy lấy thanh kiếm đá linh thiêng ra đi, để nó bay lên chống đở với bọn ác điểu này. Tức thì Thiên Hùng liền tung thanh kiếm đá linh thiêng lên trời, nó bay lượn chống trả lại mấy con đại bàng hung dữ kia.
Nhưng mấy con chim đại bàng kia, không phải là những con chim bình thường, mà chúng là những con chim ma. Khi bị thanh kiếm thần tấn công thì chúng kêu lên những tiếng thất thanh. Tức thì hàng đàn chim là chim, là những cái bóng đen chập chờn bay về rợp cả một góc rừng. Chúng vỗ cánh rào rào như một cơn bão trên cao. Đã có rất nhiều người chết dưới những cái móng vuốt của chúng. Lúc đó Bạch Ngọc mới lấy cái chuông vàng ra lắc leng keng…leng keng…Tiếng chuông vàng như những mũi tên đâm xoáy vào tai chúng. Bạch Ngọc càng lắc thì lũ chim đó đã có dấu hiệu chao đão và rối loạn... Và như thế Bạch Ngọc cứ lắc liên hồi leng keng…leng keng…
26. Nói về sư phụ khi nghe tin bọn trẻ đã đi tới tòa lâu đài màu trắng rồi, thì sư phụ nghỉ rằng, chúng đã lớn thì hãy tự giải quyết lấy. Thắm thoát thời gian trôi qua đến nay đã hơn ba năm. Bây giờ Đại Hương đã là một chàng trai hai mươi tuổi. Còn hai cô bé kia cũng đã trở thành  hai thiếu nữ xinh đẹp dịu dàng. Đại Lực và Thiên Hùng cũng trạc tuổi đó, nên tất cả đều đã lớn, đã trãi qua đấu tranh, đã hiểu được hai mặt của cuộc sống, và đã trưởng thành. Chúng còn nhỏ mà tấm lòng luôn dành cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ trong xã hội. Nghĩ vậy sự phụ cũng thấy vui! Nhất là Đại Hương, một chàng trai có trái tim nhân hậu quả cảm. Sư phụ tin tưởng nhất cậu bé này, và giao phó mọi người vào tay cậu ta. Nhưng người cũng không quên gửi gắm hai ông bạn già của mình đi theo giúp đỡ.
Hôm nay sư phụ ngồi uống trà và đạm đạo với ông sứ thần của đức vua. Ông sứ thần nói: Theo như tiên sinh nói: Thì tất cả mọi thứ từ ngoài đi vào con người ta đều là nghiệp chướng. Vậy thì có phải tất cả điều đó đã làm chúng ta khổ phải không? Và xin ngài cho biết rỏ hơn, về đau khổ của con người. Sư phụ nghe xong thì nói rằng. Đúng thế! Sư phụ tiếp: Tôi sẽ nói rõ điều này cho ông nghe. Này nhé! Con người sinh là chưa có gì hết, có nghĩa là không thiện không ác và cũng chưa có ý thức. Nhưng bên trong nó đã có cái chân tâm, là cái linh hồn bất tử đó. Khi nó bắt đầu sống, là nó bắt đầu tạo ra những cái khác như ý thức, đau khổ và tình yêu. Vậy thì ngay khi nó có được ý thức, thì nó cũng có ngay đau khổ. Vì nó là cái bóng của ý thức, đó là siêu hình. Cái đau khổ này nó hình thành rất tự nhiên trong con người, song song với tình yêu. Hai cái này là căn bản để có tư duy nhị nguyên. Từ đó con người cũng tạo ra hai lớp trí khôn. Cái trí khôn bên ngoài là ý thức. Cái trí khôn bên trong là tâm thức. Cái trí khôn bên ngoài là cái nghiệp chướng, của cái trí khôn bên trong. Ý thức là cái trí khôn có nhiều ít, hơn kém khác nhau, như người này thông minh hơn người kia. Còn cái trí khôn bên trong là tình yêu, là cái trí khôn mà bất cứ ai đi vào tới đó đều bằng nhau. Vì đây là điểm để xét rằng tất cả con người chúng ta đều bình đẳng như nhau. Vì đều có giá trị như nhau hết. Từ đó con người cũng có hai cái đau khổ, bên ngoài và bên trong, hai cái tình yêu cũng như vậy. Và nó cũng thích ứng với hai cái trí khôn mà tôi đã nói ở trên.
Vậy thì mấy cái này có liên hệ với nhau thế nào? Như tôi đã nói: Đau khổ là do nghiệp chướng sinh ra. Từ đau khổ mới sinh ra tình yêu. Và từ đau khổ cũng sinh ra tội ác. Cái đau khổ bên ngoài là cái đau khổ thường ngày, như đụng chạm nhau trong cuộc sống, hơn thua tranh quyền đoạt lợi, yêu đương mất mác. Đó là do cái trí khôn bên ngoài gây ra, nên nó là nghiệp chướng. Kẻ phàm phu thường đau khổ với cái đau khổ này, triền miên không dứt. Cái đau khổ này, nó tương tác với cái tình cảm yêu ghét bên ngoài. Là cái tình yêu ích kỷ chỉ muốn cho mình thỏa mãn mình thôi, nó là nghiệp chướng. Từ đó như bị kéo theo một sức mạnh ma quỷ, mà tôi gọi là nghiệp lực. Cái nghiệp lực này tạo ra cái đau khổ bên ngoài. Người ta không buông bỏ, không dừng lại được, nên xảy ra tranh chấp và bạo lực, hoặc dồn nén vào trong, trở thành cừu hận, thành tội ác. Từ đây mới bắt đầu giai đoạn đau khổ triền miên của con người.
Còn cái đau khổ, cái trí khôn và cái tình yêu bên trong là gì? Ba cái này cũng ở cùng một chổ, mà nó bị ba cái trí khôn, tình yêu và đau khổ bên ngoài kia che lấp, thì làm sao mà ta đi vô tới đây được. Phật nói chúng sanh đau khổ triền miên, là nói ba cái ở ngoài này. Nó là tham, sân, si. Bỏ ba cái ở ngoài này đi, thì bạn đi vào trong thì gặp ba cái trí khôn, tình yêu và đau khổ bên trong.
Vậy thì ba cái ở ngoài là hữu tướng, ba cái bên trong là vô tướng. Ba cái vô tướng bên trong này rất linh diệu. Nó sạch sẽ tinh khiết hơn ba cái bên ngoài, vì nó không vì những cái bên ngoài đời sống mà nó đau khổ, vì cái bên ngoài mà nó yêu, và cái trí khôn cũng vậy. Thứ nhất nó đau khổ tìm tàng từ đâu đó lâu rồi, mà thiên chúa giáo gọi là “tội tổ tông” nên nó đau khổ hoài. Nó đau khổ rất tự nhiên, không vì cái gì hết. Vì nó đau khổ, nên nó phát sinh tình yêu để xoa dịu cho chính nó. Nhưng đồng thời cái tình yêu này, là cái tình yêu lớn lao cho mọi người. Nhờ có cái tình yêu lớn đó, mà nó cũng có cái trí khôn lớn lao hơn cái trí khôn bên ngoài. Người thiện trí thức thường đau khổ với cái đau khổ này, yêu thương cũng bằng cái tình yêu này, và trí khôn lớn lao cũng bằng cái trí khôn này. Như tiên đế đã từng nói: “Cái đau khổ của tôi nó bằng với tất cả đau khổ của nhân dân cộng lại” là như thế đó. Đó là những người vì quê hương, đất nước dân tộc mình, mà yêu thương, mà đau khổ vậy.
Sư phụ tiếp: Nhưng vẫn chưa hết đâu. Tôi nói tới đây là nói tới người thiện trí thức, đạt đến tận cùng của lý tưởng thôi. Chứ không phải nói tới sự giải thoát hoàn toàn, như người đã mặc khải chân lý. Người đạt đến tận cùng của lý tưởng, là những thiên tài thành công chất ngất về đời sống. Ở phương tây có những người, khi đứng trên đỉnh cao của danh vọng tiền tài rồi, và đồng thời họ cũng phát hiện ra nỗi đau truyền kiếp của mình, không sao chấm dứt được. Vì con người lý tưởng, là như một mũi tên thoát ra khỏi dây cung. Họ lao đi tới tận cùng, nhưng tận cùng là gì? Là không phải cái hữu tướng bên ngoài mà họ đạt được. Họ như một người đánh cá, nhưng khi kéo mẻ lưới cuối cùng lên, thì chỉ thấy một bộ xương cá mà thôi. Đức Phật nói: Cái hữu tướng như bào ảnh chớp điện là vậy. Vì nó không thực. Nó là cái vô thường của thực tại. Có rồi sẽ mất. Cái còn lại là cái niết bàn kìa. Đó là cái bất biến. Là cái linh hồn bất tử của con người.
Vậy thì tới đây chung quy con người vẫn còn đau khổ không dứt. Vì bản chất trong tim bạn còn có tình yêu, là còn có đau khổ. Nếu bạn xóa bỏ luôn cái tình yêu này đi, thì bạn sẽ chấm dứt đau khổ. Là được giải thoát hoàn toàn. Vì trong bạn không có hai cái để mâu thuẫn, để sinh ra đau khổ nữa. Mà lúc đó tinh thần bạn, đã trở về cái bản tâm sơ sinh lúc ban đầu. Đó là chân tâm, là cái linh hồn bất tử. Khi đó linh hồn bạn, không còn bị giam giữ trong cái thân xác nhỏ bé tạm thời nữa, mà nó như cơn gió bay đi khắp đất trời, khắp nhân gian. Nó sẽ dễ dàng đến bất cứ nơi đâu mà nó muốn. Và đó chính là cái tình yêu bao la…
Sư phụ nói tới đây thì ngừng lời, ông sứ thần đức vua cảm tạ lui ra.
27. Khi mụ phù thủy Linh Cẩu kéo quân tới nơi, thì đoàn quân của ông Công Phu Tào Ngưu, đang sa lầy trong một cái đầm nước tối đen như mực. Xung quanh bốn bề mọc đầy cây ngãi ma ăn thịt người. Mụ phù thủy gào to: Tướng quân Công Phu Tào Ngưu ơi! Đã có lão bà đến cứu ông đây! Tức thì, đám hồn ma bóng uế hiện ra nguyên hình, là những con quỷ mắt lồi, đầu to, mồm rộng đầy máu kêu lên hú hú. Thân thể chúng ốm tông ốm teo, mà cái đầu to tổ chảng. Chúng khua khua những cái que xương xẩu, chạy tới bao vây lấy mụ phù thủy Linh Cẩu. Mụ phù thủy liền cất lên một tràng cười man dại, làm lũ quỷ kia cũng hoảng hồn. Đám cây ngãi lắc lư những chiếc lá như những lưỡi gươm, đang rùng rùng chuyễn động khắp nơi. Phía dưới đầm nước ông lão Công Phu Tào Ngưu, đang vung gươm chém loạn xạ vào đám ngãi ma. Thân người ông đang chìm dần xuống nước. Đám quân của ông giờ đây đã bị bọn quỷ, và cây ngãi ma ăn thịt gần hết. Chúng hú hét khoái trá khi xông vào những con mồi đang mắc bẩy…Mụ phù thủy Linh Cẩu cười xong thì thét lên! Các con ơi hãy xông vào cắn xé bọn chúng đi. Mụ ta vừa dứt lời, thì đám linh cẩu con kêu lên chí chóe rồi xông vào cắn xé lũ quỷ. Còn mụ phù thủy Linh Cẩu, thì lắc lư cây gậy đầu lâu liên hồi, và bay tới bay lui trên trận địa. Lập tức trong hai hóc mắt của chiếc gậy đầu lâu, phát ra những tia sáng xanh đỏ lập lòe, chiếu thẳng vào đám ma quỷ, làm chúng bị đui mắt rớt tỏm xuống đầm nước vô số. Đồng thời hai con rắn nhỏ quấn quanh cổ mụ hiện ra to lớn khổng lồ, rồi xông vào bọn quỷ mà ăn thịt chúng…Bổng nhiên từ trên trời phát ra một luồn lửa chói lòa khắp mặt đất. Con rồng Thiết Long đã tới. Nó xà xuống đám ngãi ma, phun tiếp ra một luồng lửa nóng hổi nữa. Đám ngãi ma bốc cháy và co cụm lại, để chừa ra một chổ trống xung quanh ông lão Công Phu Tào Ngưu. Con chó đen khổng lồ sủa lên một tràng dài đinh tai nhức óc. Con rồng Thiết Long vội đáp xuống chổ đầm nước, cứu ông lão Công Phu Tào Ngưu đi.
Lũ quỷ bị đánh bất ngờ từ trên cao xuống, nên chúng đã bị rối loạn đội hình. Chúng chạy tứ tung khắp nơi và kêu la thảm thiết. Mụ phù thủy Linh Cẩu thừa thắng xông lên. Mụ ta hóa phép ra hàng đàn linh cẩu bay nhảy la hét, và bao vây lấy bọn quỷ. Nhưng cái bọn quỷ này là những linh hồn sa đọa, chúng không chết mà cứ chập chờn xung quanh mụ phù thủy hoài. Mụ ta chiến đấu kiên cường bao nhiêu, thì đối phương cũng chập chờn lởn vởn bấy nhiêu. Đánh một hồi, mụ phù thủy mệt quá đáp xuống đất ngồi nghỉ. Còn đám ma quỷ, thì rút lên êm đềm trên những ngọn cây. Chúng như những làn khói âm u đang tan vào bóng tối. Phía dưới đầm nước thì đám ngãi ma cũng đã biến mất hết rồi.
Lúc này đầm nước đang chìm vào im lặng một cách kỳ quái. Những vết tích của cuộc giao chiến cũng đã biến mất. Mụ phù thủy Linh Cẩu ngồi im và không hiểu gì cả? Đám linh cẩu con cũng hết kêu la. Chúng đứng thành từng đám dựa lưng vào nhau và quan sát xung quanh. Không khí im lặng hãi hùng bao trùm lấy bầy linh cẩu đang hồi hộp. Mụ phù thủy tưởng rằng phút giây này không bao giờ trôi qua được nữa. Thời gian bây giờ như một ảo ảnh khó nắm bắt. Nó như bị hút vào một cái hang hóc âm u nào đó rồi.
Mụ phù thủy Linh Cẩu là một kẻ thông minh ma mãnh. Trong cái thế giới âm hồn này mụ ta quá hiểu. Rằng bóng đêm là kẻ động lõa với tội ác, và những trò lừa mị quyến dụ đầy nguy hiểm. Mụ ta ngồi đây giữa rừng sâu, cũng chưa biết ra sao? Nhưng kéo quân đi, thì có thể lạc vào cạm bẩy của bọn chúng. Ở không được, mà đi cũng không xong. Thật là ma đưa lối quỷ dẫn đường nên mới đi tới chốn này.
Thế là đội quân linh cẩu còn lại một mình trơ trọi trong rừng sâu. Chúng mong cho đêm qua mau, để thoát khỏi khu rừng ma ám này. Những tán lá rừng in hình lên bầu trời đêm, như những con quỷ khổng lồ đen đủi đang tiến tới. Gió đêm lay động lung lay cành lá rì rầm, như có hàng ngàn giọng nói từ âm phủ dội lên. Lần đầu tiên mụ Linh Cẩu biết sợ…Mụ sợ tiếng gió, sợ tiếng lá rơi, sợ tiếng các cành cây khẻ khàng va chạm vào nhau. Mụ sợ lũ quỷ lại xuất hiện đem theo những lời nguyền đen sẽ bám riết lấy cuộc đời mụ.
Và đúng như mụ linh cảm. Từ trên cao có một luồng khói đen bay tới, rồi tụ lại thành một bóng đen mờ nhạt, lúc xa lúc gần như một ảo ảnh. Bóng đen bay lởn vởn trên đầu mụ và che lấp cả bầu trời. Mụ phù thủy Linh Cẩu như thấy trời sắp sập tới nơi. Các dây thần kinh trong cái đầu khô héo của mụ căng lên hết cở. Và cái bóng đen kia lại hiện ra ngày một gần hơn, rỏ hơn. Nó là cái bóng của một con thú hình người có hai sừng. Nó cất tiếng nói: Này con! Con không chào hỏi ta sao? Nay con đã phản bội lại lời nguyền của loài phù thủy, và đã đi theo kẻ khác rồi. Dĩ nhiên ta chẳng còn lời gì để nói với con nữa. Luật lệ của phù thủy thì con đã biết. Nay ta hỏi con lần cuối. Hãy quay lại, hay là nhận lấy cái chết? Tiếng nói đó nhẹ nhàng thoang thoảng như một sợi dây thép nung đỏ, đâm xuyên qua lổ tai của mụ phù thủy Linh Cẩu. Mụ rờ vào trái tim mình thì nó vẫn đập…Và kỳ lạ thay, chính điều đó làm mụ ta bớt sợ. Mụ biết lão già phù thủy Hắc Ám đã tới. Bởi vì lão ta là quỷ vương mà. Không có gì có thể giết chết được lão. Linh hồn của lão đã sống qua ba ngàn năm rồi, và lão cũng đã mệt mõi với những cái chết.
28. Lũ chim ma quái rối loạn bay tứ tung, không dám đáp xuống tấn công nữa. Thì từ trên cao có một con đại bàng chúa, với đôi mắt xanh lè bổ nhào xuống ngay đầu Bạch Ngọc. Nó giương những cái móng vuốt nhọn hoắc ra, chụp ngay vào cái chuông vàng trên tay cô bé. Bạch Ngọc cố nắm chắc cái chuông không thả, thì nó liền cắp cả Bạch Ngọc bay lên cao. Mọi người kinh hãi không biết làm sao, thì lúc đó Đại Lực liền dương chiếc cung thần ra bắn ngay một phát. Mũi tên xé gió lao đi như một tia chớp, tức thì con ác điểu bị rớt ngay xuống đất.
Lũ chim thấy con đại bang chúa bị bắn chết thì hốt hoảng, chúng kêu la ầm ầm rồi kéo nhau bay đi. Đại Hương đến đở Bạch Ngọc dậy. Tiểu Hoa liền lấy thuốc ra xoa lên những chổ xây xát của Bạch Ngọc. Lúc này anh rồng Thiết Long cũng đã cứu được ông lão Công Phu Tào Ngưu đem về. Còn mụ phù thủy Linh Cẩu ở lại chiến đấu thì không biết ra sao?
Thấy vậy Tiểu Hoa liền lấy chiếc gương thần ra xem. Toàn cảnh trong căn cứ tên chúa tể rừng xanh Ma Lai Tang Tang vẫn im lìm. Hắn đang ngồi bất động hút thuốc, và nhịp nhịp cái roi da. Trong gương lại hiện ra tiếp cảnh mụ phù thủy Linh Cẩu, đang đứng như trời trồng dưới cái bóng đen có sừng ở trên cao. Mọi người không hiểu vì sao, trận chiến đấu của mụ phù thủy Linh Cẩu lại lạ lùng đến thế. Đám ma quỷ đã bay đi đâu mất rồi. Đám cây ngãi ma cũng đã tan biến, bây giờ lại xuất hiện thêm cái bóng đen dã thú có sừng kia? Đại Hương nói: Chúng ta không ngờ mọi việc đều xảy ra, khác với mọi dự tính của mình. Nơi cái chốn rừng rú này, sao lắm loài yêu quỷ đến thế? Bây giờ tôi và Thiên Hùng cùng anh rồng Thiết Long bay đến đó. Mọi người ở đây hãy ẩn nấp trong cái hang núi này, mà trị thương cho Bạch Ngọc và ông lão Công Phu Tào Ngưu. Mọi người nhất định không được ra ngoài, khi tôi chưa trở về.
Thế là anh rồng Thiết Long chở Đại Hương và Thiên Hùng bay đi. Khi mọi người bay đến chổ giao chiến của mụ phù thủy Linh Cẩu, thì thấy một cột khói đen cuộn bay lên trời, như một cơn lốc xoáy. Cây rừng ngã nghiên, cỏ lá ngã rạp sát đất. Cảnh tượng hiện ra thật hãi hùng. Mụ phù thủy Linh cẩu bây giờ là một xác chết, cháy đen thành than vẫn còn đang đứng. Lũ linh cẩu con thì đã chết hết nằm lăn lốc đầy ngập xung quanh. Cây gậy đầu lâu thì đang chảy máu, từ hai hóc mắt của nó tuôn ra như suối. Đại Hương đau lòng quá liền lấy quyển sách phép thuật ra xem, thì được nó trả lời: “Nghiệp chướng! Ai vay thì người đó trả. Cái chết đôi khi là một điều tốt lành. Chứng tỏ rằng, cái giá để làm người tốt thì phải trả bằng cái chết.” Vậy là Đại Hương đã hiểu ra tất cả. Làm người không có ai thoát khỏi luật nhân quả. Dù bạn có tài năng đến đâu đi chăng nữa, cũng không thể thoát khỏi nghiệp chướng của số phận, đã sắp sẳn trên đường đi. Bóng đêm vẫn còn dài, và lũ ma quái vẫn còn đó. Cậu ta đã có quyển sách phép thuật, vậy mà cũng phải chịu thiệt thòi. Nguyện ước cứu giúp những người nghèo khổ bị đọa đầy kia chưa làm xong, thì đã phải chịu nhiều đau đớn trong lòng, quá sức chịu đựng. Đại Hương biết rằng, hiểm nguy sẽ xảy ra bất cứ lúc nào trong đêm. Hãy cẩn thận với bóng đêm. Cậu ta rất đau lòng khi biết được mụ phù thủy Linh Cẩu, là một người bạn tốt nhất trên đời. Là bạn thì chúng ta có thể chết, chứ không bao giờ phản bội bạn bè. Mụ phù thủy Linh Cẩu đã chọn một cái chết oanh liệt, để nói lên điều đó.
Giờ đây núi rừng lại trở nên yên lặng khác thường…Đại Hương nói: Cái chốn rừng sâu nước độc này có những việc không thể lường trước được. Bọn ma quỷ tan biến vào bóng tối rồi lại có thể hiện ra, không nơi này thì nơi khác. Vậy thì chúng ta hãy mau mau rời khỏi nơi này thôi. Nói đoạn, Đại Hương cùng Thiên Hùng ôm lấy thi hài của mụ phù thủy, cưởi con rồng Thiết Long bay về.
Tiếng đàn trong đêm
29. Khi con rồng Thiết Long chở Đại Hương và Thiên Hùng quay về chổ tảng đá thì trời vừa sáng. Mọi người rất hoang mang. Vì chưa có mở màng tấn công vào tòa lâu đài, mà quân ta đã thiệt mạng hơn một nữa. Mụ phù thủy Linh Cẩu đã chết rồi. Mọi người im lặng an táng cho mụ. Trên tấm bia mộ có ghi dòng chử “Mãi mãi tưởng nhớ một người bạn tốt”.
Bây giờ mọi người nhìn nhau bối rối, Những phép thuật học được giờ đây chỉ xem như là những trò chơi. Cái bóng đêm khủng khiếp hôm qua như vẫn còn bao phủ cả bầu trời. Ông Thiên Bình Tự Tại nói: Thật ra tôi đã quá chủ quan, Tôi là người hiến kế cho các bạn chiến đấu, nhưng đã không lường trước được mọi việc. Theo tôi nghĩ: Ở đây âm khí quá nặng, mà đêm xuống nó càng nặng hơn. Trước mắt chúng ta, là cái bóng đen dã thú mờ mịt kia là đáng sợ nhất. Nó đã giết mụ phù thủy Linh Cẩu nhanh như chớp mắt. Nó là tổng hợp của một lực lượng hắc ám to lớn nhất, mà trước nay chúng ta chưa từng gặp. Việc này nằm ngoài khả năng hiểu biết, và đối phó của chúng ta…Đại Hương nói: Điều đó tôi biết rồi, nhưng tôi quyết không bỏ cuộc. Bạn có sống yên ổn được không, khi bao nhiêu người còn bị cái ác bao vay chà đạp, ức hiếp. Bây giờ chỉ có một cách, là về hỏi ý kiến sư phụ thôi. Hiện tại chúng ta ẩn nấp kín đáo ở đây đi. Tiểu Hoa nói: Chúng ta thất bại là do mưu tính muốn lợi dụng bóng đêm để hành sự. Mà những kẻ đi đêm, thì toàn là loại người xấu không à! Vô tình chúng ta đã đi đúng vào cái bẩy của chúng giương ra. Vậy thì bây giờ, chúng ta sẽ tấn công vào ban ngày, thì lũ ma quỷ kia không thể làm hại chúng ta được nữa. Vì ma quỷ vốn rất sợ ánh sáng mặt trời mà! Tiểu Hoa nói vừa dứt lời, thì nghe bên trong tòa lâu đài vang lên tiếng đàn dương cầm thật êm ái. Tiếng đàn bay ra khắp núi rừng rồi chìm vào không gian tĩnh lặng. Tiếng đàn của tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang nghe nức nở như cỏi lòng tan nát của ai đó…
Mọi người lắng nghe tiếng đàn thấy trong lòng nặng trỉu. Tiếng đàn trong đêm hiu quạnh như nhóm lên tia hy vọng mong manh của tình người. Nhưng bây giờ tình hình quá gấp rồi, nên mọi người phải họp bàn. Thiên Hùng nói: Tôi có một ý kiến này. Trước đây chúng ta chiến đấu theo ý của mỗi người thôi, mà không có cách đánh tổng hợp. Ví dụ như khi chúng ta gặp kẻ thù quá mạnh, thì chúng ta hãy dồn hết các phép thuật, và bảo bối vào một chổ, rồi tung ra một lượt. Như vậy nó sẽ mạnh hơn và có hiệu quả hơn. Chúng ta không chia nhỏ quân ra nữa, vì quân ta còn rất ít rồi. Đại Hương nghe thế, thì cũng thấy đồng ý được một nữa, và nói: Ý đó rất hay, nhưng phải tùy vào tình hình mà biến hóa cách đánh. Khi nào thì tập hợp lại, và khi nào thì chia quân ra. Lúc nào chúng ta cũng phải chủ động được hai điều này, thì mới là tốt nhất. Bạch Ngọc nói: Em nghĩ nên về hỏi ý kiến sư phụ đi. Bây giờ chúng ta không bỏ cuộc, nhưng ở đây thì cứ núp hoài à? Còn đánh thì biết kẻ địch ra sao mà đánh? Thiết Long nói: Hay để tôi bay về gặp sư phụ cho nhanh? Đại Hương nói: Không được đâu. Anh Thiết Long phải ở lại, có gì còn chở tất cả mọi người chạy trốn, khi nguy hiểm tới. Nói xong, Đại Hương liền lấy cuốn sách phép thuật ra, và gọi tên thần gió. Vậy là thần gió tới. Thần gió nói: Ngài có việc gì cần đến tôi chăng? Đại Hương nói: Ông hãy bay nhanh về núi Tuyết Sơn, gặp sư phụ Tuyết Sơn Minh Hạnh Túc dùm ta. Ông hãy nói rằng, chúng ta đang gặp nhiều khó khăn như vậy đó… Thôi ông đi đi.
Thế là thần gió bay đi đến núi Tuyết Sơn để gặp sư phụ. Sư phụ nói: Ta biết rồi, chuyến đi vô rừng sâu đó ta không ngăn cản, nhưng cũng không ủng hộ. Nay gặp khó khăn rồi, thì về đây tìm ta. Thôi cũng được, dù sao thì đó cũng là học trò của ta, ta làm lơ sao được. Ở đời luôn có hai thế lực bóng tối và ánh sáng đan xen vào nhau. Bọn trẻ còn nhỏ, với lý tưởng trong sáng, thì cứ tưởng rằng có thể dẹp tan bóng tối này được sao? Người ta sống trong cuộc sống đó quen rồi, và nó cũng trở nên bình thường. Người ta có quyền lợi của người ta. Họ có tất cả là nhờ vào sự gầy dựng rất lâu mới có được. Bây giờ ta đến đạp đổ hết, thì sao không khỏi gây ra chiến tranh. Người ta không biết đúng sai thế nào đâu. Mà chỉ biết rằng, điều ta làm có hại cho họ, là họ giết chết. Đúng sai chỉ là những giới hạn mơ hồ, hôm nay đúng thì ngày mai sẽ sai. Hai cái đó nương nhau mà có, từ đó mới hình thành nên suy nghĩ của con người. Đúng sai chỉ tồn tại trong hoàn cảnh, trong hiện tại mà thôi. Nó là tương quan của nhiều sự việc, nhiều yếu tố hợp thành.
Nói xong, sư phụ vào trong gặp đức vua chào từ biệt ra đi. Đức vua rất yêu mến tài trí của con người này, nhưng người không thể đi theo sư phụ được. Nên người cũng khởi hành về triều. Sư phụ nói: Đại vương hãy về triều lo việc chính sự, sau này cần tôi, thì tôi sẽ đến với đại vương. Tôi rất muốn cùng đại vương nhìn về một hướng, để quê hương đất nước ta, một ngày nào đó sẽ bừng sáng như mặt trời. Đức vua nói: Ta đã làm nhiều việc như tiên sinh đã nói, và thật lạ lùng thay, nó đã đạt được những thành quả rất đáng khích lệ. Như về vấn đề ngoại giao và kinh tế, vấn đề tự do tôn giáo và an sinh xã hội cùng rất nhiều vấn đề khác nữa. Ta biết tiên sinh là người có tấm lòng với đất nước. Trong yên lặng, tiên sinh đã nhắn gửi và mong muốn cho ta cai trị đất nước tốt hơn. Bằng sự khéo léo và nhẫn nại. Ta khâm phục và biết ơn tiên sinh rất nhiều. Hy vọng sau này, chúng ta sẽ còn gặp lại nhau. Sư phụ nghe đức vua nói như vậy thì cảm tạ lui ra.
Thế là đức vua đã rời vùng biên giới sơn cước Tuyết Sơn về triều. Còn quan đại thần Xích Vân Tử và ông sứ thần, thì đi theo sư phụ vô núi cứu bọn trẻ. Lão gia tổng trấn thì ở lại, cai quản cả vùng biên cương trong dãy núi Tuyết Sơn.
30. Sư phụ Tuyết Sơn, cùng quan đại thần Xích Vân Tử, đi tập hợp binh mã quanh vùng, được mấy ngàn người. Súng đạn, máy bay, xe cộ cũng có đủ. Ông sứ thần thì lúc nào cũng đi bên cạnh sư phụ. Sư phụ thì cưởi con bạch mã có cánh lên đường. Sư phụ nói: Chuyến này đi vào chốn rừng sâu núi thẳm, địa hình hành quân hiểm trở nên hành quân phải gọn nhẹ thôi. Ngài đại thần Xích Vân Tử nên dẫn quân đi trước, theo bản đồ địa hình mà đi. Lần này chúng ta phải quét sạch cái hang ổ tội phạm này mới được.
Vậy là trong quân có sự lựa chọn kỷ càng hơn, những người có vợ con gánh vác gia đình thì ở lại. Những ai xung phong đi, thì sẽ được đi. Bởi vì đây là đoàn quân tình nguyện. Là những toán quân biệt kích đánh được trên mọi địa hình.
Sư phụ đi cùng ông sứ thần của đức vua. Ông sứ thần nói: Vậy cái khổ đau lớn lao trong con người, có có lợi gì và có hại gì. Cái tiên sinh nói là nghiệp lực đó là gì? Vì sao chúng ta sống, là cả một cuộc đấu tranh với khổ đau? Theo tôi nghĩ, làm người thật là khổ phải không? Sư phụ nói: Đúng vậy! Chúng ta khổ, vì phải làm người, vì phải đấu tranh với ngoại giới, và cả với chính mình. Có nghĩa là, cho mình và cả cho mọi người nữa, thì mới đúng nghĩa làm người. Nếu bạn cứ nghĩ cho mình mãi, thì bạn càng khổ đau hơn. Bạn cứ loanh quanh mãi trong vũng lầy tinh thần u mê, không thể nào thoát ra được. Nếu bạn thoát ra được điều đó, thì bạn đã biết nghĩ tới người khác rồi. Đó chính là cái tình yêu lớn lao, vì cái khổ đau lớn lao của mọi người.
Sư phụ tiếp: Này nhé! Con người luôn tư duy một chiều, nên đứng trước thế giới này, thực chất là chỉ biết một nữa của nó mà thôi. Cái không biết được, nó rất to lớn. Nó là cái vô hình đó. Người ta biết cái bên ngoài, thì có nhiều có ít, nên có người thành công và thất bại. Nhưng điều đó không phải là mục tiêu để giải quyết khổ đau, cho dù bạn có rất nhiều tiền tài và danh vọng. Mục tiêu tối hậu, là bạn phải khám phá cái vô hình trong tinh thần của bạn. Đó là con đường rất dài và gian nan.
Sư phụ tiếp: Như tôi đã nói, tất cả những gì bên ngoài đi vào tinh thần, đều là nghiệp chướng hết. Nó càng nhiều, thì nó càng gây nên áp lực đè bẹp cái vô hình, chứ không phải là để khám phá cái vô hình. Cái ẩn trong cái vô hình, là một nguồn năng lượng cần phải được giải thoát. Đó là cái năng lượng tụ lại do trãi qua đấu tranh đời sống mà thành. Cái đó nó đi ngược lại với cái “ham muốn bên ngoài” của chúng ta. Nó quá nhiều, mà không được giải quyết, thì nó dồn nén lại và trở thành cái “khí uất”. Cái khí uất này, nó là động lực thúc đẩy con người vượt lên trên để tìm kiếm tự do, để giải thoát là chính. Nhưng nó cũng có hai mặt lợi hại, nếu như bạn không có trí tuệ sáng suốt để sửa đổi. Nếu bạn biết cách giải quyết cái khí uất này, thì đó là khi bạn sáng tạo. Bạn sáng tạo, là để giải phóng cái năng lượng tâm lý dồn nén này ra ngoài, đồng thời từng bước khám phá cái vô hình. Còn nếu bạn không giải phóng được nó, thì bạn sẽ bị ức chế, lâu dài nó thấm vào trong thành điên khùng. Cái khí uất này là vô cùng. Nó dẫn bạn đi tới con đường sa đọa thành tội phạm, hay thành thiên tài sáng tạo, là đều do bạn lựa chọn. Nhưng chung quy là khó ai thoát ra được nó, vì nó là nghiệp chướng mà.
Sư phụ nói tiếp: Cái khí uất này là nổi khổ căn bản của con người. Những thiên tài, là có cái khí uất này vô tận. Đó là những con người ý thức được mình, và biết hướng thiện. Họ sáng tạo không biết mệt mõi, như đi sâu vào bóng tối thăm thẳm. Họ vào đó chỉ thấy toàn là sa mạc hoang vu, hay cảnh hoang tàn sụp đổ, hay đầm lầy ngập ngụa. Họ đã lỡ bước chân vào đó rồi, mà ra thì không được, còn ở cũng không xong. Nên họ quyết định nhận tạm trú tại đây. Họ tự dựng lên những lâu đài xoa hoa lộng lẫy, để mua vui, để an ủi, và xoa diệu nỗi đau trầm kha của mình. Như vậy thì nghiệp chướng đó càng tăng. Đó là những con người duy mỹ. Họ chính là những thiên tài vô minh. Vì họ đã đóng cây đinh số phận xuống sâu quá rồi, không thể nào rút ra được nữa. Vì thế Đức Phật không chấp nhận cái khí uất này. Khi bạn bỏ đi được cái khí uất này, thì bạn đã được giác ngộ. Đó là con đường thoát khỏi sự vô minh. Có nghĩa là thoát khỏi những quyến dụ của siêu hình, và sự bám rễ của ý thức, cùng cái thân xác nhỏ bé của chúng ta.
Sư phụ nói tiếp: Vì thế làm người là khổ. Cái khổ này từ bên ngoài đi vào là do bạn. Cái khổ bên trong thì ai cũng có là do trời. Nhưng bạn phải ý thức rằng, với trí tuệ, sự khiêm tốn, cùng với nghị lực và tình yêu, bạn có thể vượt qua tất cả, để được giải thoát hoàn toàn, thì bạn mới hết khổ. Còn nếu không được giải thoát, thì khi đối diện với cái hố thẳm tư tưởng của mình, bạn có thể sẽ chết. Bạn chết đi trong căn nhà xinh đẹp của mình, như ôm trăng trầm mình đáy nước. Một cái chết đẹp đẽ như thơ, vì không chịu đựng được, nỗi thống khổ của kiếp người.
Sư phụ nói tiếp: Tôi nói tới cái khí uất ở trên, là nói tới cái nghiệp lực bên trong. Cái nặng lượng lớn lao của con người. Vì nó là ngọn lửa sáng thiên thu trong lòng bạn, và lan truyền qua nhiều thế hệ, để cùng nhau chinh phục thế giới. Sở dĩ con người có cái ngọn lửa này, là để thắp sáng thế giới, và cũng để thiêu cháy thế giới, là do con người lựa chọn. Vì có kẻ không dùng nó để làm việc có ích cho cộng đồng, mà chỉ tổ chức ra một thế giới ngầm đầy tội ác, đối trọng với cái thiện. Nên thế giới này luôn có hai mặt, thiện ác là vậy.
Còn một cái nghiệp lực khác nữa, đó là lòng tham. Nguyên nhân của cái nghiệp lực này, là nó ở ngoài đi vào con người chúng ta. Trừ những bật thánh ra, thì thế gian ai cũng bị nó kéo đi lê lết không dừng lại được. Bạn ganh đua nhau làm giàu, tranh quyền đoạt lợi, tranh giành người yêu. Và mỗi ngày bạn mỗi nâng cấp nó lên mãi. Như vậy cho nên nó lôi kéo bạn đi mãi. Cái sức mạnh của nó làm bạn không thể nào cưởng lại được. Vì thế mới gọi là nghiệp lực. Người phương đông có câu: “Biết dừng đúng lúc thì còn”. Là nói tới cái nghiệp lực này. Vì nó là cái đời sống bên ngoài mà. Vì nhu cầu sống của bạn nó đơn giản hơn nhiều, cái mà bạn nghĩ. Còn cái mà bạn tưởng là nhu cầu của bạn cao hơn người khác, thì đều là ảo tưởng vậy.
Sư phụ nói đây, thì đoàn quân cũng đã đi sâu vào trong núi rồi. Ông sứ thần đức vua lắng nghe và không rời sư phụ nữa bước.
31. Bạch Ngọc được nhường cho một chổ nằm êm ái, và được nhiều người quan tâm chăm sóc. Những vết thương trên tay cô bé cũng đã lành. Cô bé chỉ chịu cho Đại Hương chăm sóc mình thôi. Điều đó làm Tiểu Hoa thấy buồn buồn. Tiểu Hoa cũng tự hỏi lòng mình bao nhiêu lần, rằng anh Đại Hương sao không quan tâm đến mình bằng Bạch Ngọc? Trong khi đó thì Đại Lực luôn ở bên Tiểu Hoa, nói chuyện này kia đủ thứ. Còn Thiên Hùng thì lúc nào cũng muốn ở gần bên Bạch Ngọc để chăm sóc. Nhưng ở đây có tới hai người ốm cơ mà. Mọi người cũng còn phải canh chừng lũ quỷ, và chăm sóc cả cho ông lão Công Phu Tào Ngưu nữa chứ? Ông lão Công Phu Tào Ngưu thì cũng đã hồi sức. Ông ta nói: Đời tôi chinh chiến đánh đông dẹp bắc, chẳng ngại nguy nan. Nhưng tôi cũng chưa từng gặp cái loại quỷ quái này bao giờ. Đêm đó khi tôi kéo quân đi, và dừng lại sau núi, thì thấy đã ổn. Vậy mà tự nhiên bốn bề khói sương bốc lên mù mịt. Rồi kế đó là những tiếng kêu la kỳ quái. Núi đá ầm ầm lăn đổ và biến đâu mất. Tức thì đoàn quân lọt thỏm vào giữa đầm nước, rồi trời chuyễn sang tối đen như mực. Tôi bổng nghe đám quân lính kêu la thảm thiết. Thì ra, là từng đám ngãi ma đang di động bao vây chúng tôi lại. Những chiếc lá của loài ngãi ma này sắc bén như gươm. Chúng tràn vào đoàn quân mà chém giết rồi ăn tươi nuốt sống tất cả. Ai nhanh tay thì rút gươm chém đứt ngang bọn chúng. Nhưng chúng nhiều như cỏ dại trên thảo nguyên, thì làm sao giết hết chúng được. Vã lại, từ trên cao những linh hồn sú uế hình hài dị dạng, bay tới rợp cả trời, chúng kêu hú điên cuồng xông vào chúng tôi. Chúng tôi chiến đấu trong vô vọng, thì may thay có mụ phù thủy đến cứu viện. Trong khi đó toàn quân lớp thì chết, lớp thì chìm dần xuống đầm nước sâu. Ông lão Công Phu Tào Ngưu nói đến đây, thì trong tòa lâu đài lại vang ra tiếng đàn da diết của tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang. Tiếng đàn như đưa dòng suy nghĩ của con người rời xa thực tại. Tiếng đàn ma quái cứ chập chờn, chập chờn…
Mọi người lắng nghe tiếng đàn giây lát thì lấy làm lo lắng. Vì nơi đây bùa ngãi của quỷ dữ còn ghê gớm lắm, nên chả biết trước được điều gì có thể xảy ra. Đại Hương nói: Sao lâu quá sư phụ cũng chưa tới? Ở đây chẳng an toàn tý nào. Thôi để tôi gọi thần núi tới xem có cách gì giúp ta không? Vậy là Đại Hương lấy quyển sách phép thuật ra, gọi thần núi tới. Thần núi tới và nói: Nếu ngài và các bạn muốn tôi giúp đở thì cũng được, nhưng phải thật cần thiết kìa. Vì lão già quỷ vương Hắc Ám ở đây có phép thuật vô biên. Hắn khống chế tất cả các thần định cư ở vùng này. Chỉ riêng thần gió, thì hắn không nắm bắt được. Còn chúng tôi làm trái ý hắn, là hắn đày đọa chúng tôi khổ sở lắm, rượt đuổi đánh đập chúng tôi thê thảm, đến khi nào chúng tôi quỳ lạy hắn mới thôi. Nhưng may thay, là hắn lúc nào cũng ngũ. Hắn ngũ cả chục năm không thức dậy. Mỗi lần hắn thức dậy, là kinh động đất trời. Khổ thế đó! Đại Hương nói: Ý ông nói, nếu xoay chuyễn núi đồi, thì làm động giấc ngũ của hắn chứ gì? Đúng thế. Thần núi trả lời. Thần núi nói tiếp: Vậy tôi có kế này. Tôi sẽ chỉ đường cho ngài đi sâu vào khe núi, mà lũ quỷ con sẽ không tìm ra đâu. Ở đó có một cái hang động, ngài và các bạn có thể yên tâm ở đó, chờ sư phụ của ngài tới. Đại Hương nói: Vậy ông dẫn đường đi. Thế là nhóm người của Đại hương chuyễn đi. Đại Lực là người có sức khỏe nhất nên lãnh nhiệm vụ là cỏng Bạch Ngọc. Đại Hương dìu ông lão Công Phu Tào Ngưu đi. Còn anh rồng Thiết Long không biến thành con rồng nữa, mà cùng đi với mọi người. Chỉ còn mụ phù thủy Linh Cẩu là ở lại trong nấm mồ của mình.
Lúc mọi người dọn đi, thì Tiểu Hoa phụng phịu không chịu đi. Mọi người năng nỉ mãi mà cô nàng cũng không đi. Đại Hương biết ý nên đến bên Tiểu Hoa nói rằng: Tiểu Hoa ơi! Sao em không đi? Ở đây nguy hiểm lắm em biết không? Em thương anh thì em hãy đi cùng tụi anh đi! Nha!? Đại Hương cuối xuống cầm tay cô nàng kéo lên, và nói: Từ nay anh sẽ để ý chăm sóc em nhiều hơn. Chịu chưa? Thế là Tiểu Hoa mĩm cười đứng dậy, và đi cùng mọi người. Cuối cùng thì mọi người đã an ổn, ẩn nấp trong hang đá một thời gian, để chờ sư phụ mang viện binh tới cứu.
Lúc này, trong căn cứ của tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang, vẫn bình thường. Những người nô lệ khai thác quặng mỏ, thì vẫn căm lặng làm việc. Toán lính áo đen vẫn đi tới đi lui trong sân. Và trên các vọng gác, cũng có mấy thằng lính áo đen đứng đó bất động suốt ngày. Những chiếc xe chở quặng mỏ vẫn chạy ầm ầm vào các nhà máy trong căn cứ. Cái đám biệt kích cùng chó săn, cũng được thả đi dò xét và trở về tay không? Chúng gặp tên chúa rừng, là lãnh ngay mấy phát roi da vô đầu. Chúng ôm đầu chạy đi, và những tên khác quay lại, cũng lảnh được cái phần như thế. Tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang đứng ngồi không yên. Hắn cắn dập nát điếu thuốc trên môi, vì chả hiểu sao, cái đám người kia biến đi đâu mất tiêu? Hắn cũng biết quỷ thần đêm qua đã tiêu diệt gần hết đám người đó rồi. Mấy tên còn lại giờ này chắc đã kinh hồn khiếp vía. Nhưng hắn vẫn chưa bằng lòng. Hắn muốn tiêu diệt tất cả. Hắn nghĩ rằng. Cái điều hắn liên minh với ma quỷ thì thật có lợi, ngoài dự đoán của hắn. Nhưng có một điều đáng tiếc, là con đại bàng chúa của hắn đã chết. Vậy là đội quân ác điểu của hắn không thể dùng được nữa. Nhưng không sao. Trong tay hắn vẫn còn cả một bầy rắn độc, mà lâu nay hắn vẫn chưa dùng tới. Nghĩ vậy, hắn cảm thấy yên tâm, và đi tới cây đàn dương cầm chơi một bản nhạc tươi vui hào hứng.
Tên chúa rừng quyết định lên máy bay, bay đi một vòng xem xét tình hình. Hắn cho nạp đạn rocket vào đầy trong các khẩu súng, để hắn tiêu diệt quân thù từ trên không. Các toán biệt kích và chó săn, cũng được thả đi yểm trợ. Vậy là hắn xuất phát tìm diệt ngay quân thù trong ngày hôm nay.
Lúc này trong hang động, mọi người xúm quanh chiếc gương thần của Tiểu Hoa. Tức nhiên mọi việc làm của tên chúa rừng, đều hiện ra trong gương. Tiểu Hoa nói: Chúng ta hãy dùng kế “giả chết” cho bọn chúng khỏi tìm nữa. Chừng nào sư phụ lên tới đây rồi, thì tính sổ với bọn chúng luôn. Ồ! Mọi người đều nhất trí với mưu kế này. Đại Hương nói: Phải làm ra những hình nộm, và để anh hóa phép cho. Thế là Đại Hương đã hóa phép tất cả đám hình nộm, thành một đám người giống hệt như nhóm của mình, rồi thả ra đi lại ngoài hang động.
32. Từ trên máy bay, tên chúa rừng nhìn thấy cái đám người mà hắn đang săn duổi dưới đất. Lập tức hắn cho máy bay rà thấp xuống, bắn xối xả vào mục tiên. Bọn biệt kích cũng được lệnh xông lên. Chúng quần nát khu rừng và giết chết sạch sẻ đám người kia. Tên Chúa rừng Ma Lai Tang Tang cất lên một tràng cười khoái trá. Tiếng cười của hắn chưa dứt, thì bổng nhiên từ phía xa có hàng loạt đạn tên lửa bay tới. Hắn không hiểu vì sao, thì dưới đất đạn nổ ầm ầm. Hắn như không tin vào mắt mình nữa, khi thấy toán quân biệt kích của hắn bị tiêu diệt trong nháy mắt. Trên trời có mấy chiếc máy bay, bay vào căn cứ bắn xối xả vào các tháp canh. Đạn nổ khắp nơi bốn phía ngập trời. Hắn ra lệnh rút quân quay về căn cứ gấp.
Trong hang đá Đại Hương đã chợt hiểu. Quân viện binh của chúng ta đã tới nơi rồi. Dẫn đầu đoàn quân, là quan đại thần Xích Vân Tử của đức vua. Đại Hương và các bạn chạy ra khỏi hang. Ông lão Công Phu Tào Ngưu liền hết bệnh, đứng dậy rút gươm ra. Tiểu Hoa xem trong gương thần, thì thấy sư phụ cũng sắp tới. Người vẫn ung dung cưởi ngựa và nói chuyện với ông sứ thần. Sư phụ nói với Tiểu Hoa thông qua chiếc gương thần: Này con hãy an tâm, con hãy dặn các bạn không được dùng phép thuật để đánh. Vụ này hãy để cho ngài đại thần giải quyết. Phép thuật thì hãy chờ đến đêm mà đánh. Tụi ma quỷ ở đây đông đảo lắm các con khỏi lo đi.
Cuộc tấn công vũ bão vào pháo đài bắt đầu. Ngài Xích Vân Tử đã cho quân tấn công ngay. Vì ở đây kéo dài dây dưa là thất sách. Tất cả các khẩu pháo của quân ta đồng loạt gầm lên, rút bão lửa vào trong pháo đài. Quân ta chia làm ba hướng tấn công vào căn cứ, Những toán biệt kích trên máy bay nhảy dù vào trong quảng trường. Một toán thì tìm cách vượt sông. Một toán khác nữa đi vòng ra sau ngọn đồi tấn công tập hậu. Cứ thế quân ta tiến lên, và cũng gục ngã trước những làn đạn của quân thù. Mấy toán biệt kích của ta nhảy dù vào trong, đều bị chúng tiêu diệt hết. Tất cả các khẩu pháo trong pháo đài đều nhả đạn. Trận tấn công đã mấy lần bị quân thù đánh bật ra. Nhưng ngài Xích Vân Tử vẫn cho quân xung phong lên không ngừng.
Đã ba lần tấn công vô căn cứ của tên chúa rừng, đều bị đánh bật ra, vì địa thế núi rừng ở đây hiểm trở quá. Tốp quân đi đầu đã chết hết, nhưng đến lúc này quân ta cũng đã vượt được qua sông. Đã có ba chiếc máy bay của quân ta bị bắn cháy. Tổn thất bước đầu như vậy là quá lớn, nên quan đại thần cho ngừng cuộc tấn công, mà cho quân bao vây bốn phía quanh pháo đài. Lúc này sư phụ Tuyết Sơn cũng đã tới nơi.
Sư phụ nói: Tấn công ngay là một chiến thuật rất hay, vì nó có được yếu tố bất ngờ. Nhưng cái yếu là quân ta chưa được chuẩn bị kỷ càng. Chiến thắng mà không cần súng đạn, thì mới là chiến thằng vĩ đại nhất. Tuy nhiên, kẻ thù của chúng ta là những tên tội phạm cực đoan vô cùng bảo thủ. Chúng không dễ dàng gì mà đầu hàng đâu.
Quan đại thần Xích Vân Tử nói: Tôi cần mọi người hiến kế cho tôi, để tôi mau tiêu diệt cái hang ổ tội phạm này. Thời buổi dân chủ ngày nay, mà vẫn còn những nơi bốc lột nô lệ như thế này, là không thể chấp nhận được. Sư phụ nói: Nhưng hiện nay đại quân đã kéo tới đây rồi. Bọn địch trong căn cứ đó không đáng sợ bằng bùa phép của lũ quỷ rừng rú. Vậy thì thế này. Tôi sẽ viết thật nhiều lá bùa cắm xung quanh trại quân, tạo ra một hàng rào bảo vệ cho quân ta khi đêm xuống. Bây giờ cũng chưa tới thời khắc quyết định, dóc toàn lực đánh chiếm pháo đài mà.
Đại Hương nói: Thưa sư phụ, con có nên dùng quyển sách phép thuật kêu gọi các thần đến đây giúp đở quân ta không? Sư phụ nói: Chưa cần, nếu làm thế sớm quá, thì lão quỷ vương sẽ thức dậy, thì chúng ta khó mà đánh chiếm pháo đài được. Tuy nhiên, con hãy gọi thần sông đến đây gặp ta. Nghe sư phụ nói thế, Đại hương liền lấy quyển sách phép thuật ra, gọi thần sông tới. Sư phụ nói: Ông hãy làm cho nước sông dâng lên cao đi, hãy làm một cách âm thầm nhẹ nhàng, đừng cho kinh động đất trời. Thần sông nói: Dạ tôi sẽ về làm việc đó ngay.
Khi thần sông đi rồi, thì sư phụ nói với quan đại thần Xích Vân Tử: Ngài hãy sai tướng quân Công Phu Tào Ngưu, làm thật nhiều chiếc bè lớn hình vuông, Mỗi bè cho hai chiếc ca nô kéo đi. Trên bè đặt một khẩu pháo để mà cơ động bao vay căn cứ của chúng. Còn nữa, ngài hãy chọn ra những đội thủy quân thiện chiến, lặng sâu dưới nước, mà tìm các con đường hầm từ căn cứ nối ra bên ngoài. Kế đó ngài cần có một toán biệt kích dũng cảm, ôm bộc phá chờ sẳn để đánh sập các bức tường, điều đó sẽ mở đường cho quân ta xông lên. Tuy nhiên những đội quân nhảy dù, sẽ tùy thời cơ mà nhảy vào bên trong. Khi tất cả đồng loạt nổ súng, thì quân địch sẽ trở tay không kịp. Nhưng ngài nên nhớ điều này. Không được bắn nhằm vào khu nhà ở của những người nô lệ  đấy nhé!
Ông quan đại thần nghe thế thì cho người đi sắp đặt mọi chuyện. Ở những trại quân đều được dán dày đặc những lá bùa trừ ma quỷ. Đồng thời phía trên cao đều được giăng lưới kín đáo. Quân ta án binh bất động và chuẩn bị kỷ càng. Phía trong pháo đài thì tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang, vẫn ngồi vào chiếc đàn dương cầm, chơi một bản nhạc buồn vô cùng say mê.
33. Đêm xuống, bọn ma quỷ cũng hiện ra triêu ngươi thật khủng khiếp, Nhưng khi chúng chạm mặt vào những lá bùa thì sợ hãi lui ra. Đại Hương thấy những kế hoạch của sư phụ thật là hay. Người đến đây chắc có điều gì quan trọng lắm đây. À! Đúng rồi. Cái lão quỷ vương có phép thuật vô biên kia, giờ này đang ngũ vùi ở chốn nào? Quả là mọi phép thuật trên đời, đều không thể làm gì được lão, cho nên sư phụ mới vượt đường xa đến đây.
Ở trại quân tất cả đã sẵn sàng, mọi người chỉ ngũ bằng một con mắt. Không gian lại trở nên im lặng như tờ. Đêm đêm tiếng đàn ma quái trong tòa lâu đài trắng vẫn vang ra bay khắp núi rừng. Tiếng đàn ai oán não nùng và có nhiều uẫn ức lo sợ trong đó. Quân ta dõng tai nghe tiếng đàn êm đềm tan loãng vào đêm. Tiếng chuông nhà thờ vẫn rơi từng giọt nặng nề. Tiếng đàn thống thiết thê lương hòa lẫn vào tiếng chuông nhà thờ, như tiếng hát của những linh hồn sa đọa đang khóc. Có lẽ những linh hồn nô lệ giờ này đã ngũ say. Có thể họ đang mơ tới một ngày, sẽ có người đến giải thoát cho họ. Họ mơ tới những khúc hát vang lừng trên cánh đồng cỏ ở quê nhà. Họ mơ tới những mùa lúa chín, những đêm hội hè, những ngày gió lớn. Họ mơ tới những hẹn hò dưới trăng, những ánh mắt nụ cười ấm áp. Họ mơ tới những bước chân âm thầm của kẻ đang yêu đi trên đường. Ôi! Những giấc mơ nồng nàn xóa mờ những đêm dài tịch mịch. Những giấc mơ để quên đi những tiếng thét đau thương bởi roi vọt.
Đêm nay trăng sáng lạ lùng. Ông quan đại thần ngũ không được, nên đi lang thang quanh các trại quân. Tiếng gió reo mang theo tiếng hơi thở của rừng già về đêm thật mệt mõi. Những tảng đá nín thở đứng sừng sững lạnh lùng. Những tán cây lá ngũ say dưới trăng. Mùi hương rừng theo gió bay đi thơm ngát. Ông quan đại thần đi sang trại quân của sư phụ uống trà. Ông ta nói: Tôi là thừa tướng trong cung, mà cũng là nhà thiết kế hệ thống chính trị cho đức vua. Tôi thấy mình đã làm hết sức, để đất nước tốt đẹp hơn. Vậy mà tôi vẫn không thể hiểu hết vấn đề dân chủ. Tôi thấy mô hình dân chủ của các nước khác, không thích hợp với đất nước ta. Nhưng tôi cũng từng bước mở ra dân chủ mà. Nếu làm cái ào thì đất nước sẽ loạn, còn không làm thì người ta kêu la quá. Tôi cũng chẳng biết tính sao nữa. Vì bây giờ là thời đại hội nhập mà.
Nghe quan đại thần nói vậy, sư phụ trầm ngâm không nói. Vì đây là vấn đề rất nhạy cảm. Vì lịch sử đấu tranh của loài người đi đến ngày hôm nay, là hơn cả một giấc mơ đẹp rồi. Lịch sử thế giới đã trãi qua những đêm dài tội lổi của lòng tham, của những cuộc xâm lược của bọn thực dân, đế quốc và phát xít, đã đẩy thế giới vào con đường cùng. Đã làm con người cam chịu đau khổ, bởi bọn phong kiến tôn giáo thần quyền ác đạo. Những dân tộc giàu có, thì kề đó là những dân tộc nghèo đói xơ xác, trong kiếp nô lệ. Ngày hôm nay bề mặt thế giới đã đổi thay, nhưng bên trong chiều sâu của nó vẫn còn bạo quyền, bất công và mất dân chủ. Nghĩ tới đây sư phụ mới nói: Thưa đại nhân! Theo quy luật của lịch sử, thì cuộc cách mạng dân chủ trên toàn thế giới, trong tương lai, tất nhiên sẽ phải xảy ra. Nhưng nó còn lâu lắm thưa đại nhân! Ngài hãy yên tâm đi. Sư phụ tiếp: Tôi biết đại nhân rất đau khổ. Bởi vì con người khó tính là con người không hạnh phúc. Đại nhân hãy cứ để tự nhiên cho mọi việc xảy ra, và luôn theo dõi nó. Như đại nhân nói: Mỗi nước có hoàn cảnh mỗi khác nhau, nên những mô hình dân chủ cũng phải khác nhau. Điều đó rất đúng. Vì bạn không thể áp đặt tinh thần của một nước đã có nền độc lập mấy trăm năm, lên một nước khác có nền độc lập mới mấy chục năm được. Nhận thức dân chủ của một nước có dân trí thấp là tùy tiện hơn là tự do. Là họ nằm trong cái tâm lý phản kháng luẫn quẫn, hết chửi rủa bên này rồi tới đập phá bên kia. Họ như những người say rượu luôn làm khổ vợ con, gia đình và hàng xóm. Chưa nói là tâm tính con người mỗi xứ xở mỗi khác nhau. Người ta nói thế giới chuyễn động, là sự chuyễn động trên bề mặt thôi. Có nghĩa là về vấn đề kinh tế trước tiên. Còn lịch sử tâm linh của mỗi nước khác nhau, thì không thể nói là sửa đổi ngay được. Vì đa số vẫn sống là đấu tranh với ngoại giới, để có nhà cửa tài sản vật chất trước, rồi mới lo đến vấn đề tinh thần sau. Đất nước ta mới thoát ra những cuộc chiến tranh tàn khốc, thì vẫn còn nghèo. Con người phải cần đầy đủ vật chất trước, và song song đó cũng là vấn đề tinh thần, được cải thiện hơn. Khi con người thật sự đòi hỏi tự do, thì chính những người của triều đình sẽ đứng lên đấu tranh, chứ không phải là những kẻ đối lập bât mãn chế độ. Vì ai cũng là con người mà, nếu thiếu tự do, thì ai cũng phải đấu tranh cả. Nhưng một chính quyền non trẻ, vẫn còn quá nhiều kẻ thù rình rập, tìm cách phá hoại. Vậy thì ngài phải tùy theo hoàn cảnh đất nước của ngài, mà hành xử sao cho có lợi nhất. Những kẻ khủng bố căm thù chế độ ta, vẫn thường khoác những mỹ từ dân chủ, để tìm cách chống phá nhà nước. Vì tất cả những kẻ đó, không đặt quyền lợi của dân tộc lên hàng đầu. Mà là bị xúi dục bởi những kẻ mù quáng, không nhìn thấy con đường sáng láng của dân tộc ta đang đi.
Ông quan đại thần nghe sư phụ nói tới đây, thì như dở được gánh nặng trong lòng. Ông ta nói: Tôi biết những quan điểm triết học của tôi trước đây đã sai. Cái gì sai là sai thôi, không thể lấy gì che lấp được, không thể lấy quyền lực ra để khẳng định nó là đúng đắn được. Thế giới có hàng tỷ cái đầu thông minh, và hàng tỷ đôi mắt nhìn vào chúng ta. Thế giới đã đổi khác, theo quy luật phát triển tự nhiên, vậy mà chúng ta cứ khăng khăng như vậy là sao? Chúng ta cứ ở một chỗ như cái đất nước Xích Quỷ kia, cha truyền con nối, đi theo con đường độc tài mãi, thì ai mà ủng hộ được, không có ai ủng hộ, thì nghèo đói và kêu gào viện trợ. Từ đó mới bị cô lập rồi sinh ra sợ hãi, rồi bắt nhân dân nhịn đói để chế bom nguyên tử, hầm hè lăm le đối đầu, chứ không hề biết mở lòng ra. Tôi biết, độc tài chỉ nuôi dưỡng một bầy phản bội mà thôi, Vì nó xuất phát từ cái yếu, cái sợ hãi, nên đi kềm nén người ta, và con người thì như nhau cả, nếu bị kềm nén và áp bức quá mức, tất nhiên họ sẽ đứng lên đấu tranh.
Sư phụ nói: Nhưng may thay đất nước ta không có độc tài. Độc tài thì trước sau gì cũng gây ra chiến tranh. Nói thật ra, chiến tranh bây giờ là trò chơi của các nhà giàu. Nhà giàu mà còn chịu không nổi, huống gì chúng ta? Chiến tranh là sự tính toán thiệt hơn, lời lỗ, chứ không đặt trên một tinh thần đạo đức nào đâu. Những kẻ buôn bán vũ khí muốn có người đặt hàng, thì tìm cách giật giây để các nước lạc hậu gây ra chiến tranh. Nghèo đói lạc hậu, là thị trường béo bở cho những kẻ mua bán cái chết. Chiến tranh là đếm xác người, như là mục tiêu kinh doanh có hiệu quả. Tôi nói rằng, những kẻ có trí thông minh hơn người, mà không có trái tim, thì đó là tai họa cho loài người.
Sư phụ nói tới đây thì bổng im lặng. Người đang lắng nghe tiếng đàn trong đêm cứ vang lên thật buồn bã mộng mị làm sao…
Tháp tử vong bốc cháy
34. Khi những khẩu đại bác, được đặt trên những chiếc bè trên dòng sông, đã chuẩn bị xong. Đội thủy quân cũng đã phát hiện ra hai con đường hầm trong pháo đài, thông ra ngoài. Được tin báo, ông quan đại thần Xích Vân Tử sai người đem đặt bộc phá vào trong đó. Toàn quân bao vây pháo đài chờ lệnh. Những toán biệt kích đã lên máy bay chờ sẳn. Những toán lính chuẩn bị phá tường thành cũng đã sẳn sàng…thì bổng nghe trong quân rối loạn. Quân lính không giữ được đội hình chiến đấu nữa mà chạy nhảy tứ tung. Đã có nhiều người chết ngã xuống, mà thân người bầm tím. Quá kinh ngạc, ông quan đại thần ra lệnh lui quân, để tìm hiểu tình hình…Thì ra là có hàng đàn rắn độc bò ra cắn chết quân ta. Quân ta chỉa súng xuống đất bắn chết chúng vô số, nhưng chúng cứ tràn lên. Từ trên pháo đài tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang cũng cho nhả đạn. Thế là trận chiến bắt đầu, quân ta đã bị đánh dạt về một phía trong rối loạn. Toán quân pháo binh trên bè, cũng bị lũ rắn nước bò lên cắn chết. Lúc này sư phụ mới nói: Hỏng rồi! Hỏng rồi! Quân ta bị đánh bất ngờ nên lui lại rất xa, không còn thế tấn công được nữa. Ông quan đại thần Xích Vân Tử kêu trời vò đầu bức tai. Nhưng sư phụ bình tĩnh nói: Ngài yên tâm! Tôi nhớ ra rồi. Đây là xà trận. Chúng đánh ta bằng rắn độc, thì ta sẽ lấy độc trị độc, Nói xong sư phụ huýt sáo lên vang lừng…Thế là trong rừng sâu hàng đàn chim chóc bay về, xà xuống chổ lũ rắn mà cắn mổ bọn chúng. Trận chiến xà – điểu bắt đầu. Lũ rắn bị bầy chim cắn mổ không thương tiếc. Cứ thế lũ chim bay về càng ngày càng đông, tấn công lũ rắn. Những con chim dũng cảm đã bay lượn trên sông, rồi cắm đầu xuống nước để bắt rắn. Trong chóc lát, lũ rắn đã bị tiêu diệt gần hết, mà chỉ còn khoảng một trăm con đang co cụm lại, ở giữa vòng vây của lũ chim. Lúc này sư phụ mới rút trong tay áo ra một cái ống sáo, và bắt đầu thổi một bản nhạc lạ kỳ. Tức thì lũ rắn ngóc đầu lên nghe ngóng….Sư phụ cứ thổi dập dìu, còn lũ rắn thì cũng đu đưa theo…Sư phụ liền giơ cây gậy lên, và múa theo điệu nhạc của tiếng sáo. Lũ rắn như bị thôi miên, liền vươn cao những cái đầu lên mà múa, chúng múa say sưa như vừa nhận được một mệnh lệnh huyền nhiệm. Bổng sư phụ ngừng thổi sáo, và vẫy vẫy cây gậy mấy cái, thì lũ rắn bò đến bên chân sư phụ hết. Lúc đó ông quan đại thần ra lệnh: Tất cả mọi người ở đâu trở về chổ đó chờ mệnh lệnh tấn công.
Vậy là mấy lần chuẩn bị sắp sửa tấn công pháo đài đều bị hỏng, quân ta cũng bị thiệt hại một số ít. Vì thế bây giờ không được dễ ngươi. Ông quan đại thần nói: Thôi cứ theo đội hình mà đứng đó. Tuy nhiên hãy lui quân ra xa ngoài tầm đại bác của chúng. Chúng ta nghỉ ngơi. Ngày mai sẽ tấn công.
Ông quan đại thần tỏ ra mệt mõi về trại quân nằm. Sư phụ cũng cho kiểm điểm quân số. Thì ra trong trận rắn độc đó, ông Thiên Bình Tự Tại đã bị rắn độc cắn vào chân. Hiện giờ tính mạng đang nguy cấp, vì toàn thân ông ta đã xưng phù lên và tím tái, ông nói trong hơi thở mệt nhọc: Hởi anh em! Hãy đừng quan tâm đến tôi, mà hãy tiêu diệt bọn chúng đi. Các bạn hãy vì tôi mà chiến thắng. Các bạn hãy vì tôi mà cứu nguy cho nhiều người còn bị giam cầm trong đó. Tôi đã không xong rồi…Thấy vậy Tiểu Hoa liền bưng mặt khóc nức nở. Bạch Ngọc cũng khóc, Đại Hương cũng khóc, Đại Lực cũng khóc, Thiên Hùng cũng khóc, và nhiều người khác cũng khóc theo. Lúc này ông Thiên Bình Tự Tại đã tắc thở rồi.
Ông quan đại thần Xích Vân Tử liền cho người mang thi hài ông Thiên Bình Tự Tại về nhà an táng. Trong quân đều treo cờ rũ. Vì ông Thiên Bình Tự Tại này, là một văn tướng cả đời sống liêm khiết trong sạch. Ông Ta đã theo tiên đế chinh chiến lập nên quốc gia này. Về già đáng lẽ phải được nghỉ hưu, vậy mà ông ta vẫn còn đi đánh giặc, thật là một tấm gương trung kiên vì nước vì dân.
Thi hài ông Thiên Bình Tự Tại, đã được đưa về quê. Đại Hương và các bạn vây quanh sư phụ, trong trại quân bàn kế đánh địch. Đại Hương nói: Tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang này thật khôn ranh, hắn đã xây dựng căn cứ của mình ở nơi hiểm trở này. Chúng ta quân đông thế mạnh như vầy, mà tấn công vào đây cũng không nổi. Huống gì những người dân tay không tất sắt. Chúng là những tổ chức tội phạm lớn xuyên biên giới. Chúng khai thác vàng trái phép và trồng cây anh túc. Chúng gieo rắc cái chết đi khắp nơi, thật là đáng chết quá mà! Tiểu Hoa nói: Trước giờ chúng ta đánh chúng, là vì chưa xâm nhập vào trong căn cứ nắm tình hình. Hay bây giờ chúng con giả dạng những tên lính áo đen, đi theo đường ngầm vào trong căn cứ. Chúng con sẽ vẽ lại bản đồ đi lại trong đó, đem về cho sư phụ và quan đại thần coi! Sư phụ nói: Như vậy cũng được. Để sư phụ bàn lại với ông quan đại thần xem sao.
Ông quan đại thần khi nghe sư phụ nói về việc vẽ lại bản đồ thì thich lắm. Ông ta nói: Vậy tôi sẽ điều chỉnh lại cách đánh một chút, và chờ đợi khi đã có bản đồ là quyết định luôn. Thôi ngài hãy cho người đi làm việc đó ngay đi.
Ngay sau lúc sư phụ ở bên trại quân của ông quan đại thần về, thì nhóm của Đại Hương lên đường. Sư phụ nói: Tiểu Hoa và Bạch Ngọc ở lại trại quân lo việc chăm sóc thương binh. Còn Đại Hương, Đại Lực và Thiên Hùng đi thôi. Vậy là ba chàng trai ra đi làm nhiệm vụ vẽ bản đồ. Đại Hương liền lấy quyển sách phép thuật ra gọi thủy thần tới dẫn đường. Thủy thần rẽ nước đi băng băng dưới lòng sông, sau đó dẫn ba chàng trai đi vào một cái hang động sâu hút, rồi trồi lên bên trong căn cứ của tên chúa tể rừng xanh Ma Lai Tang Tang.
35. Hôm nay trong quân đã ổn. Quan đại thần đi duyệt lại các đội hình chiến đấu, và thăm hỏi thương binh. Ngài đã cho đi mời thần y chữa bệnh rắn cắn vào doanh trại, để chữa trị cho binh sỹ. Các binh sỹ bị thương nhẹ thì cũng được chữa khỏi. Còn những người bị nọc rắn độc ngấm vào tim, thì lần lượt hy sinh. Ông lão Công Phu Tào Ngưu tức lắm! Ông ta nói: Sao ở đây lắm trò yêu ma quái quỷ đến thế không biết? Đôi bên đối đầu đánh nhau, thì ta không sợ, mà chỉ sợ mấy kiểu đánh lén thả rắn, thả ma thả quỷ ra đánh nhau kiểu này, thì trong binh pháp không thấy nói tới. Thật là không tưởng tượng được. Con người mà còn liên minh với ma quỷ và loài rắn độc, thì sao mà không đáng sợ cho được.
Ông quan đại thần đi qua bên trại quân của sư phụ bàn chuyện quân tình. Việc quân bàn xong. Ông quan đại thần hỏi sư phụ: Tại sao mọi chuyện xáo trộn tranh chấp, chiến tranh nghèo đói khổ sở quá là do đâu? Sư phụ nói: Thưa đại nhân! Đó là do mất cân bằng gây ra. Này nhé! Từ cái chính yếu là bởi trong tinh thần con người luôn mang một cái ảo tưởng thái quá. Từ nhận thức rằng, người này cao hơn người kia. Và xác định nhiều cái giá trị lẫn lộn quá, nên sinh ra mâu thuẫn luẫn quẫn mãi. Từ đau khổ này sinh ra đau khổ kia, và kéo nhiều người đau khổ theo. Thực chất là do không thấu hiểu hết những giá trị cơ bản của con người. Người ta luôn khám phá ra ngoài con người, mà cứ tưởng là cao hơn con người, nên sinh ra ảo tưởng. Rồi tự đề cao cái ảo tưởng đó quá đáng, nên sinh ra “bệnh tinh thần” trầm kha. Trong bản chất tự nhiên của chúng ta là luôn cân bằng. Nếu bạn mất cân bằng tâm lý, là sinh ra đủ chuyện thái quá không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, do con người sống trong tư duy nhị nguyên, luôn chạy theo giới hạn, nên mất cân bằng là điều tất nhiên. Nếu biết như vậy, tại sao chúng ta không tạo lập một sự cân bằng trong tâm hồn. Khi đó bạn sẽ sáng suốt, trí tuệ mở rộng, và sẽ phát sinh tình yêu một cách rất tự nhiên. Khi bạn ảo tưởng rằng mình là “ngôi sao”, thế là tinh tướng chửi rủa đủ thứ. Rất nhiều cuốn sách triết học ngu xuẫn, đã không bằng lòng với con người bình thường. Có nghĩa là con người phát triển tự nhiên theo nhân tính. Mà mong muốn tạo ra những con người mới, những con người “siêu nhân”. Có nghĩa là tạo ra cái giống quái đản gì đó, cao hơn con người. Những kẻ bạo quyền lại nương theo đó mà áp dụng. Lẽ ngu xuẫn dĩ nhiên, là trái ngược với sự phát triển bình thường của con người rồi. Vậy là anh không thể nằm gọn trong cái khuông mẫu đó, thì bị giết chết. Đó là sự độc tài. Từ tham vọng đen tối đó, mà sinh ra sự dã man tàn ác, là xâm chiếm những dân tộc khác hiền hòa dễ thương hơn. Làm cho những dân tộc này, cũng đứng lên bảo vệ quê hương mình. Thế là gây ra chiến tranh bất tận, và lòng hận thù sâu nặng. Nếu bạn có thì giờ êm đềm ngồi ngắm mây bay. Mây cứ nhẹ nhàng trôi đi, không kể ngày tháng. Và bạn hãy nhìn vào bên trong con người mình, một cách chân thật tự nhiên như thế. Thì bạn sẽ thấy con người mình thật bình thường. Cái đó làm bạn yên ổn hơn, là những cái ảo tưởng từ bên ngoài tác động vào tinh thần bạn. Vì con người biết suy nghĩ hơn mọi loài, và biết cách để sống cho mình hơn mọi loài. Nhưng loài vật chúng cũng có tình cảm với nhau. Còn con ngưởi thì có tình yêu thương.
Sư phụ tiếp: Cái danh là quyền lợi tinh thần. Cái lợi là quyền lợi vật chất. Hai cái này thường che lấp sinh mệnh con người. Sinh mệnh là cái nhân bản đó. Bạn bị che lấp mất cái sinh mệnh, là che lấp mất cái sự thật bạn là người. Vì hai cái kia nếu có, thì nó sẽ cho bạn cái ảo tưởng rằng, bạn cao hơn con người. Nếu bạn không có nó, thì bạn cho rằng mình thấp kém. Hai cực đoan này, đều là ảo tưởng mà bạn cho rằng đó là số phận. Chính vì người ta coi trọng những giá trị tạm thời này quá, nên mới có phân biệt giai cấp. Nhưng những giá trị đó là ở bên ngoài con người, không phải là để xét con người đâu. Nếu người ta hiểu được điểu này, thì xã hội sẽ có công bằng.
Sư phụ tiếp: Con người ảo tưởng là do mất cân bằng về tâm lý. Đó là khi bạn vác những tảng đá lớn nặng nề đi giữa cuộc đời, mà bạn không biết. Nếu có ai đó muốn dắt bạn ra khỏi con đường sai đó, thì bạn không muốn, vì nó sai với cái ảo tưởng của bạn mà. Như vậy là bạn đang mang những tảng đá lớn kia, đi vào đầm lầy. Điều đó làm bạn không tránh khỏi cực đoan. Điều đó làm thế giới không tránh khỏi chiến tranh và hỗn loạn.
Sư phụ tiếp: Tôi nói đó là nguyên nhân gây ra một thế giới hổn loạn thôi, chứ tôi không bao giờ nói, sẻ có một xã hội lý tưởng là hoàn toàn tốt đẹp cả. Vì điều đó cũng là một ảo tưởng, của các nhà đạo đức học tạo ra.
Sư phụ nói tiếp: Cái này là do cái kia sinh ra. Và cái kia tồn tại được là do cái này ở bên cạnh nó. Vì thế con người hãy nương tựa vào nhau mà sống. Từ quan điểm này, ta biết rằng con người luôn cần có nhau. Và không có con người nào tự mình là vĩ đại cả. Đức Phật Thích Ca không khi nào cho rằng mình như thế. Nếu bạn mặc nhiên nghĩ như thế, là bạn đã bị hoang tưởng rồi. Một đất nước mà người lãnh đạo nghĩ như thế, là không thể hòa hợp với thế giới. Vì thế giới hôm nay gần như là nhỏ bé hơn ngày xưa, Tất cả mọi người đã xích lại gần nhau hơn. Và, nếu biết nương tựa vào nhau hơn, thì sẽ phát triển tốt đẹp hơn, và sẽ có hòa bình.
Sư phụ nói tiếp: Trong xu hướng phát triển kinh tế ào ạt của máy móc hiện nay. Tri thức là sức mạnh. Nhưng người ta lầm tưởng rằng, thế giới phẳng là chia đều tri thức cho mọi người. Điều đó thật sai lầm. Cái được chia đều cho mọi người là kiến thức và thông tin thôi. Vì đó là cái bên ngoài. Còn tri thức là cái tự vận động bên trong của mỗi con người. Là cái mà số đông nhiều người vẫn thiếu. Vì thế khi kinh tế phát triển càng nhanh, thì số đông những người không có tri thức, không có sức khỏe, và không có chổ đứng trong xã hội, sẽ bị gạt ra bên lề của sự phát triển đó. Vì người ta nghĩ rằng, người mạnh sẽ thắng. Sự mất cân bằng này tạo ra sự phân hóa xã hội sâu sắc. Càng ngày càng tồi tệ hơn. Do đó, nó càng làm tăng trưởng cái ảo tưởng, trong mỗi con người ngày càng lớn hơn. Từ đó sinh ra nghèo đói tha phương cầu thực, và những kẻ trọc phú xem người như cỏ rác. Lúc này là lúc xã hội đã đi vào hỗn loạn rồi, tuy rằng nó không ngừng phát triển. Từ chỗ mất cân bằng này, mà chính phủ các nước không ý thức được, thì chỉ có việc xây thêm nhà tù, trường bắn và trại giam mà thôi…
Sư phụ nói tới đây thì ông quan đại thần như muốn rơi nước mắt. Ông ta cảm ơn sư phụ và xin phép trở về trại quân của mình.
36. Khi Đại Hương và Thiên Hùng cùng Đại Lực, đặt chân lên lãnh địa của tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang rồi. Thì cả ba liền hóa phép thành những tên lính áo đen canh gác lâu đài. Hằng ngày ba chàng trai phải bồng sung, đi lui đi tới một chổ mãi. Một hôm Đại Hương nói: Thôi anh sẽ biến thành những tên hầu cận của tên Ma Lai Tang Tang. Còn Đại Lực thì biến thành những tên lái xe chạy khắp trong các khu nhà máy. Thiên Hùng thì đứng đây vẽ bản đồ khu vực này. Mỗi người mỗi việc, tự biết mà làm. Làm xong chúng ta sẽ lui ra ngoài nộp bản đồ cho ngài quan đại thần.
Vậy là nhiệm vụ đã phân công. Đại Hương lúc nào cũng đi kè kè bên tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang. Đại Hương đã nắm hết tất cả các nơi bố trí phòng thủ trong pháo đài. Tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang rất tinh ranh. Nó đã cho chuẩn bị sẵn một số quân lính rất đông, ẩn nấp trong đường hầm, để bất ngờ xông ra tiêu diệt quân ta. Đồng thời trên các ụ súng xung quanh pháo đài, là những nơi tập trung hỏa lực mạnh nhất. Kế đó, những toán biệt kích và chó săn cũng được chuẩn bị sẵn.
Hôm nay tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang đang ngồi hút thuốc, hắn dở những tờ báo ra xem. Hắn cứ chăm chú nhìn vào Đại Hương không chớp mắt…Hắn sinh nghi ngờ, vì hành động của tên lính cận vệ này thật khác lạ. Hắn liền lấy cái kính chiếu yêu ra. Cái kính nhỏ bé như là một cái kính lúp. Hắn ngoắc Đại Hương lại gần và đưa cái kính chiếu yêu lên. Song hắn rút cây roi da ra đánh vào người Đại Hương túi bụi, và sai lính bắt Đại Hương lại, đem treo lên cái tháp tử vong sau lâu đài.
Khi nghe Đại Hương bị bắt rồi, Thì Đại Lực và Thiên Hùng vô cùng bối rối. Cả hai cũng đã vẽ bản đồ xong. Nên bắt đầu tìm cách cứu Đại Hương. Đêm nay cả hai bò tới dưới chân cái tháp tử vong và gọi: Anh Đại Hương ơi! Chúng em tới cứu anh đây! Đại Hương nói: Hỏng rồi. Các em đã lọt vào bẩy của hắn rồi. Bây giờ hai em hãy chạy nhanh đi. Hãy chạy thẳng vô tòa lâu đài nơi tên chúa rừng ở, mà bất ngờ tấn công hắn. Hãy dùng bửu bối của mình đi.  Làm sao lấy lại quyển sách phép thuật cho anh. Đại Hương vừa dứt lời thì nghe có tiếng bước chân chạy rầm rập. Bọn lính áo đen xuất hiện chặn đường hai chàng trai kia lại. Lúc đó Thiên Hùng vội tung thanh kiếm đá linh thiên lên. Thanh kiếm đá bay lên và hóa ra rất nhiều thanh kiếm khác. Nó bay tới chặn bọn lính áo đen lại. Lúc này trong pháo đài rất hỗn loạn, tiếng súng nổ ầm ầm khắp nơi. Thiên Hùng và Đại Lực chạy đâu cũng thấy quân địch, nên chẳng có cách gì kiếm được tên chúa rừng cả. Lúc đó bọn lính áo đen quá đông đã đuổi theo rất gấp…Nhưng bổng nhiên có một loạt tiếng nổ vang lên ầm ầm. Bức tường phía sau pháo đài đã bị đánh sập. Và từ đó đoàn quân của quan đại thần tiến vào bắn phá tứ tung.
Đại Hương bị trói trên tháp tử vong không biết làm sao. Thì từ xa có mấy chiếc máy bay của quân ta bay tới. Nó vừa bay vừa xả súng quần nát khu vực xung quanh cái tháp tử vong. Một toán lính nhảy dù nhảy xuống, rồi leo lên tháp cắt dây trói cho Đại Hương. Lập tức Đại Hương hóa phép thành một con chim bồ câu bay vút lên chóp cao nhà thờ.
Ở ngoài trại quân. Tiểu Hoa lấy cái gương thần ra xem, thì thấy được mọi việc trong pháo đài diễn ra như vậy đó. Đại Hương đã bị bắt, nên Tiểu Hoa ôm mặt khóc hu hu! Thấy vậy, sư phụ mới đến xem và báo cho quan đại thần hay. Vậy là quan đại thần ra lệnh tấn công luôn…
Lúc này thủy thần đã dâng nước lên cao. Các chiếc bè pháo binh của quân ta đồng loạt nhả đàn liên hồi. Như một trận cuồng phong lớn nhất lịch sử. Bão lửa trút xuống căn cứ của tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang thật khủng khiếp. Khói lửa chưa tan, thì phía sau căn cứ tiếng bộc phá nổ ầm ầm vang trời. Trời đêm sáng rực lửa là lửa. Bọn lính trong pháo đài cũng chống cự mãnh liệt. Quân ta hô xung phong và tràn lên như thác lũ. Tên Ma Lai Tang Tang thì biến đi đâu mất không ai tìm ra.
Lúc này sư phụ đã biết lũ ma quỷ sắp sửa kéo tới rồi, nên người đọc thần chú liên hồi. Tiếng thần chú chưa dứt, thì mây đen kéo tới ùn ùn che lấp cả ánh trăng. Lũ quỷ đói hiện ra khắp nơi, tay chân chúng khua khua bay đi rập rờn. Chúng mang theo mùi hôi tanh của đầm lầy, cùng những tiếng la hét náo loạn. Quân ta kinh khiếp giương súng bắn. Nhưng chúng như những làn khói mõng manh cứ chập chờn la hét mãi. Tiểu Hoa nói: Sư phụ ơi! Con biết rồi. Cái lũ ma quỷ này chẳng qua là những linh hồn đói khát, chúng bay đến đây là để kiếm ăn. Bởi vì chết chóc là bữa tiệc của chúng mà. Chúng chỉ là nhũng ảo ảnh đen tối, để hù dọa chúng ta thôi, chứ chẳng làm hại gì được chúng ta đâu. Con xin sư phụ hãy loan báo cho toàn quân đừng có sợ. Sư phụ nói: Con nói đúng, đúng lắm! Nói xong sư phụ tiếp tục đọc thần chú. Bổng nhiên trời sáng hẳn lên. Mặt trời hiện ra một cách kỳ lạ, và bóng đêm đã bị xua đi hết, cùng với đám ma quỷ đói khát kia.
37. Theo lệnh của ông quan đại thần Xích Vân Tử, ông lão Công Phu Tào Ngưu dẫn đầu đoàn quân tràn vào đánh chiếm lâu đài. Những chiếc máy bay của quân thù không sao cất cánh được. Các ụ súng phòng ngự của chúng cũng bị tiêu diệt nhanh chóng. Máy bay của quân ta thì tấn công các tháp canh, làm những tên lính áo đen đứng trên đó rơi rụng hết. Toán lính nhảy dù thì đổ bộ vào quảng trường, và nhanh chóng khống chế trung tâm đầu não của địch. Bức tượng giữa quảng trường đã bị đại bác bắn sụp đổ. Nó ám đầy khói đen như một con quái vật, ngã sập xuống đất, kềnh càng trong thật thảm hại.
Quân ta tràn vào bên trong căn cứ như thác đổ. Ngài quan đại thần Xích Vân Tử ra lệnh, đi khắp nơi giải thoát cho những người nô lệ. Những con người gầy ốm xanh xao này, bổng chóc mạnh mẽ lên. Họ kéo nhau đi từng đoàn, ca hát nhảy múa trong khi súng đạn vẫn nổ tưng bừng. Ông quan đại thần ra lệnh đi tìm xem tên chúa tể rừng xanh Ma Lai Tang Tang trốn ở đâu? Mọi người tìm mãi mà không thấy hắn đâu? Nhưng ở đây vẫn còn rất đông bọn lính áo đen cố thủ, trong các căn hẩm dưới đất, chúng trồi lên bất ngờ tấn công quân ta. Chúng tràn lên không dứt, hết lớp này đến lớp khác. Chúng lấy những người nô lệ làm lá chắn sống để che đạn cho chúng. Chúng ngoan cường chiến đấu rất đáng khen, vì chúng mù quáng và luôn tin tưởng rằng, chúng là người chiến thắng.
 Lúc này, sư phụ được tin báo là Đại Hương biến đi đâu mất tiêu rồi. Sư phụ vội cưởi con ngựa trắng có cánh, bay vòng quanh khắp lâu đài để tìm Đại Hương, Còn Thiên Hùng và Đại Lực đã chạy ra ngoài từ lâu. Trận chiến đấu vẫn còn tiếp diễn, cho dù quân ta cũng đã hy sinh rất nhiều.. Ông quan đại thần điên tiết vì không tìm ra tên đầu sỏ gian ác, nên la hét ầm ầm. Ông ta nói: Hãy lùng sục khắp các ngõ ngắch trong căn cứ này, để tìm cho ra hắn cho ta. Hắn có bay lên trời, hay xuống biển, cũng phải tìm thấy hắn cho được. Nghe không?
Vậy là quân lính túa đi tìm, con chó đen của anh rồng Thiết Long  dẫn đầu. Nó đã cắn chết biết bao con chó săn của bọn biệt kích rồi, làm cho đám lính biệt kích đó cũng đầu hàng. Giờ này toàn căn cứ đã được bình định xong. Tiếng súng nổ đã thưa thớt. Ông quan đại thần đi lui đi tới trong căn cứ thì đụng đầu ngay sư phụ. Cả hai ngồi xuống nghỉ dưới bóng mát của tòa lâu đài. Ông quan đại thần nói: Tôi đi tới đây rồi mới thấy cái thực và cái ảo lẫn lộn làm sao. Nó như rối tung lên không có hệ thống gì cả. Tôi luôn suy luận lô gich, vậy mà khi bày trận thì nó lộn xộn hết trơn à! Sư phụ nói: Cái thực và cái ảo, luôn song hành với nhau. Nó luôn “dính” với nhau không tách rời ra được. Bây giờ ngài thấy là thực, nhưng chút nữa nó là ảo rồi. Có nghĩa là nó biến mất đi, và sinh ra trong thực tại. Đó là cái vô thường. Người ta thấy cái vô thường, là nhìn thấy một mặt của nó thôi. Khi nó biến đi thành cái ảo rồi, thì người ta không thấy nó nữa. Nhưng thật ra ảo và thực chỉ là một. Nếu bạn nhìn thấy được cả hai mặt đó, thì nó sẽ khác đi nhiều. Nhưng bạn luôn thấy thời gian quá dài, một cách nhàm chán, rồi sinh ra hoang mang. Bạn nhìn cái thực nhàm chán đó, riết thành ra nó ảo. Nó ảo hay thực, đó là do sự chủ quan của bạn, chứ không phải do chính nó. Như thế bạn thấy cái gì cũng hoang mang hết.
Bạn hoang mang vì bạn thấy nó quá ảo, vì bạn hy vọng quá nhiều vào cái thực, nên đến khi nó biến thành cái ảo rồi, thì bạn hoang mang. Bạn đi sâu vào cái ảo, bạn chẳng thấy gì cả. Bạn chỉ thấy sa mạc hoang vu, hay đầm lầy không lối thoát. Cái đó là do bạn bị lừa rồi. Vì bạn tách bạch nó ra làm hai. Bạn gọi đó là cái hư vô, Nhưng nó có hư vô tróng rổng không, hay không có ý nghĩa gì cả? Khi bạn đứng ở trong hoang mạc, mà luôn mơ về một nguồn nước mát, một ốc đảo trú thân, nhưng chẳng thể nào có được. Bạn cứ mơ thôi, mà bạn không dấn bước đi qua cái hoang mạc đó. Vì hoang mạc có nhiều ảo ảnh. Lần thứ hai sai lầm nữa, là bạn lại thấy những cái ảo ảnh đó là thực. Vì bạn đang khao khát cái thực quá mà? Vì bạn nóng lòng quá, nên chấp nhận tất cả cái ảo ảnh kia như là cứu cánh. Bạn sống trong nó mãi, và nó không ngừng nhân lên. Bạn thấy bốn bề là khói sương hư ảo, từ cái này nhảy qua cái kia, từ cái kia vụt biến thành cái này. Bạn luôn bị trôi tuột theo nó mãi không dứt, và trong cái vòng luẫn quẫn đó, bạn không rút chân ra được, nên bạn tuyệt vọng. Bạn đau khổ hoài, như một người vác một tảng đá trèo lên núi cao và thả xuống. Cứ như thế, bạn phải làm mãi như một tên nô lệ, cam chịu số phận của mình. Nhưng điều đơn giản là, cái thực nó không biến đi đâu hết. Nó chính là bạn, mà cái không gian bên ngoài mới là ảo đó.
Sư phụ nói tiếp: Ảo hay thực nói cho cùng là do bạn tự dựng lên thôi. Bạn hãy đi đường thẳng, thì sẽ đi xuyên qua mấy cái đó hết. Có nghĩa là bạn phải vượt qua đầm lầy, rồi đến hoang mạc, Bạn phải luôn tỉnh táo để tránh khỏi những cạm bẩy tinh thần, luôn giăng ra trên khắp con đường đi.
Sư phụ tiếp: Cạm bảy đầu tiên, mà con người ai cũng bị vướng vào, là cảm bẩy đầm lầy của đời sống. Nó cứ loanh quanh mãi, và nhấn chìm con người bạn luôn, Từ đó bạn có thể nhận ra được rằng, đời sống chính là cái ảo lớn nhất mà không ai thoát ra được. Bạn có thành công hay không, thì tinh thần bạn cũng bị nó lôi kéo. Bạn nghĩ về nó muốn điên đầu, với những thuật thắng thua loanh quanh với những con người đầy nhàm chán. Nó là thực đi nữa thì nó cũng là cái thực khó nắm bắt. Vì hôm nay nó thế này, và ngày mai nó sẽ thế khác. Cuộc sống cứ trôi đi, và mọi người cứ chập chờn trong giấc mộng nhân sinh của bạn. Bạn luôn tự hỏi ta là ai, mà sống trên cỏi đời này? Bạn đừng lầm tưởng rằng, mình luôn nhìn vào bản thân mình, mà là bạn chỉ biết mình thôi, mà không biết tới những người khác. Đó là lý do bạn luôn nhìn sự vật với cái nhìn thực ảo lẫn lộn không dứt.
Sư phụ nói tiếp: Khi bạn sống trong ảo giác quá nhiều, thì đã quen thuộc với những con đường mềm mại như thế. Một chút gió lay động cũng làm bạn đau thương. Chuyện nhân tình thế thái tác động vào đó, như là những mồi lửa làm bùng cháy lên cái khao khát được sống của bạn. Bạn khóc than trong cái tinh cầu của bạn. Bạn đau khổ mãi vì mộng mị che phủ lối về. Nhưng lối về thênh thang lắm, nếu như bạn muốn. Bạn hãy làm sao biến tất cả ảo mộng kia trở thành cái thực. Cái đó là con đường của tình yêu.
Sư phụ nói tiếp: Tình yêu trong lòng bạn sẽ mở lối cho bạn đi. Tình yêu của bạn vẫn còn đó, vì nó là cái vô hạn cho mỗi người. Ngọn lửa tình yêu mới đầu bé nhỏ, nhưng bạn hãy cầm chắc nó trên tay, thì dần dần nó sẽ xua tan đi hết cái bóng tối trong lòng bạn. Nó làm cái mộng mị kia tan biến, và mở ra một con đường thênh thang để bạn đi tới. Cái đó là cái thực hoàn toàn cho dù ngoại giới xảy ra điều gì đi nữa…
Sư phụ nói tới đây thì ông quan đại thần ngồi thừ ra giây lát và nói: Thưa ngài tôi chả hiểu gì cả?
38.  Lúc này trời đã sáng, quang cảnh trong căn cứ đổ nát, chỉ còn lại cái tháp chuông nhà thờ là nguyên vẹn. Trên quảng trường xác những tên lính áo đen nằm chết la liệt. Trong các đường hầm cũng đầy xác chết. Cái lâu đài trắng bây giờ in đầy vết đạn, nó không còn cái dáng dấp hiên ngang kiêu hãnh nữa. Nó đã gục ngã trước những trận bão lửa của những khẩu đại bác trên sông. Những chiếc xe cơ giới bốc cháy vẫn còn lên khói, chúng lật nghiêng sang một bên đường. Bên trong từng dãy nhà dính đạn sụp đổ tan tành, chỉ còn là những đống gạch vụn. Quả là ông quan đại thần ra tay ác quá. Chỉ một đêm đã đánh sập pháo đài.
Bổng nhiên chuông nhà thờ lại đổ. Tiếng chuông ngân nga thánh thót vang lên khắp không gian. Cha đạo đã đến giờ cầu kinh sáng. Ông ta chỉ có một mình với Chúa trong nhà thờ. Ông ta cầu nguyện cho những linh hồn xấu số trong trận chiến này, sẽ được lên thiên đàng. Những kẻ đã bắt cả chúa lẫn ông ta đem về đây, để để phục dịch cho chúng. Tiếng chuông nhà thờ sáng hôm nay như một dấu hiệu chào mừng một ngày mới bắt đầu. Đó là một ngày đầy ánh sáng mặt trời tỏa chiếu khắp nơi nơi.
Sau cuộc tấn công, khu căn cứ đã trở lại bình yên, những kho vàng đã được phát hiện. Ông quan đại thần ra lệnh niêm phong lại để chở về triều đình. Ôi rất nhiều vàng, vàng nhiều đến lóa mắt, vàng được đúc thành từng thỏi lớn bằng nắm tay xếp đầy kho, hết kho này tới kho kia. Đó là thành quả lao động của biết bao nhiêu người nô lệ. Là mồ hôi nước mắt, và cả máu của họ đã đổ xuống, để đúc nên những thỏi vàng này. Những thỏi vàng hôm nay lấp lánh như ngọn lửa, vì nó đã từng đốt cháy tâm can của biết bao nhiêu người.
Bây giờ ở quảng trường, người ta đang bắt tù binh đứng thành từng đám đông nghẹt. Ông lão Công Phu Tào Ngưu đang làm việc này. Ông ra lệnh băng bó cho những tù binh bị thương, và giải chúng ra bên ngoài căn cứ chờ đó. Còn đám tù binh không bị thương, thì nhốt lại trong những ngôi nhà dành cho nô lệ trước kia.
Những người nô lệ được giải thoát, mừng vui khôn xiết ôm chầm lấy nhau. Họ bây giờ đã được tự do, và được chăm sóc sức khỏe. Bạch Ngọc liền ngồi vào chiếc đàn dương cầm chơi một bản nhạc tha thiết về tình yêu. Thiên Hùng thì huýt sáo véo von. Tiểu Hoa thì nũng nịu thật dễ thương. Còn Đại Lực và sư phụ thì đi tìm Đại Hương khắp nơi.
Lúc này ở trên tháp cao nhà thờ có một cuộc không chiến đang xảy ra…
… Tên chúa tể rừng xanh hóa thành một con quạ đen, bay lên nóc nhà thờ ẩn nấp, thì nó đụng đầu ngay một con chim bồ câu đang đậu trên đó. Con chim bồ câu này chính là do Đại Hương biến hóa ra. Thế là bồ câu và quạ đen lao vào nhau cắn xé. Con chim bồ câu bé bổng, không thể nào chịu nổi những cú đánh của loài ác điểu. Nó vừa đánh vừa né những đòn hiểm độc của con quạ đen. Con quạ đen vỗ đôi cánh hung tàn của nó bay lên cao, rồi vồ chụp xuống đầu con chim bồ câu. Con chim bồ câu né được, và bay ra khỏi tháp chuông nhà thờ.
Mới đầu mọi người cứ nghĩ, đó là do loài chim chóc đánh nhau. Nhưng khi Tiểu Hoa đưa chiếc kính chiếu yêu ra, thì thấy ngay đó là anh Đại Hương và tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang. Sư phụ bèn hỏi chiếc kính chiếu yêu này ở đâu? Tiểu Hoa nói rằng, cô đã nhìn thấy nó trên chiếc đàn dương cầm trong lâu đài…Trong khi đó thì hai con chim vẫn còn đánh nhau ở trên trời..
Con chim bồ câu đã thấm mệt, liền bay đi vòng vòng, trong khi đó con quạ đen không thôi đuổi riết. Nó tấn công thật dũng mãnh, làm con chim bồ câu chao đão bay ra khỏi tháp chuông nhà thờ. Con bồ câu bay sang các tháp canh, thì con quạ đen cũng bay theo qua các tháp canh. Con bồ câu bay núp vào tòa lâu đài, thì con quạ đen cũng bám riết theo nó, sang tận tòa lâu đài. Bí quá nó bay ra ngoài khu rừng, thì con quạ đen cũng vẫn đuổi theo cấp tập. Vậy là nó dừng lại chiến đấu với con qua đen độc ác kia thêm một hồi nữa, nhưng vẫn phải lãnh những đòn đau vào ngực…Cuối cùng nó không biết làm sao, liền bay vào cái tháp tử vong ẩn núp…
Ở dưới mặt đất, mọi người không biết làm sao để cứu Đại Hương đây, khi nhìn thấy con quạ đen kia đã sắp cắn chết con chim bồ câu rồi. Tức thì sư phụ mới nhớ ra, là Đại Lực có cây cung thần, bắn phát nào cũng trúng, nhưng phải nhớ ghi tên đối phương lên cây tên, thì mới chắc ăn. Sư phụ nói: Đại Lực ơi! Con hãy đưa cây cung thần cho ta. Thế là Đại Lực đưa cây cung thần cho sư phụ. Lúc đó Tiểu Hoa liền viết hai chử “Quạ đen” dán lên cây tên thứ ba, và đưa cho sư phụ ngắm bắn con quạ đen.
Lúc này ở trên tháp tử vong, con quạ đen đã cắn ngay cổ con chim bồ câu vật xuống sàn. Con bồ câu kinh hãi giẫy dụa hòng thoát khỏi tay thần chết. Nó thấy đất trời u ám, những gương mặt bạn bè làng xóm quê nhà lần lượt hiện ra. Nó nhắm mắt lại để chờ cái chết. Nhưng ngay lúc đó, nó bổng thấy con quạ đen mềm đi và buông nó ra. Thì ra con quạ đen đã bị một mũi tên bắn trúng rồi. Nó ngã xuống và trong người nó rơi ra quyển sách phép thuật rớt xuống đất. Đại Lực liền chạy tới nhặt lên đem về.
Khi con quạ đen bị trúng tên ngã xuống sàn, thì con bồ câu cũng đã thoát nạn. Con quạ đen giờ đã hiện nguyên hình, là tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang đang bị thương vào ngực. Hắn cố đứng vững và châm thuốc hút. Hút xong điếu thuốc thì hắn chăm lửa đốt luôn cái tháp tử vong. Mọi người đứng sửng trong sân tòa lâu đại chứng kiến cảnh đó, như xem một đoạn phim…Lửa bắt đầu lan rộng và bao trùm lên tên chúa tể rừng xanh Ma Lai Tang Tang. Tháp tử vong bốc cháy rần rần.
Bóng đen quái thú xuất hiện
39. Khi tên chúa tể rừng xanh chết rồi, thì tự nhiên các ngọn đèn trong tòa lâu đài cũng tắt hết. Đêm về toàn bộ căn cứ chìm trong bóng tối. Vậy là ông quan đại thần ra lệnh thắp đuốc lên. Người ta đã đốt một đống lửa to ở giữa quảng trường, ngay bên cạnh bức tượng sụp đổ. Ánh sáng của ngọn lửa lung linh làm khuông mặt của nó trở nên thật bi tráng. Cái khí huyết của đá núi như vẫn còn leo lét đâu đây. Nó kết thành những đám mây đen ở phía trên cao. Nó là sấm chớp bảo bùng của trần gian. Linh hồn nó lang thang ở chốn nào. Mãi mãi không thể tẩy rữa được...
Đại Hương nhìn thấy bức tượng sụp đổ, nên cảm thấy mũi lòng. Sư phụ thì bảo tất cả các học trò đứng bên đống lửa, để mặc niệm cho những người đã chết… Trong khi đó trong nhà thờ, đang vang lên khúc thánh ca thật nhẹ nhàng ấm áp. Quả là chúa vẫn đi con đường của chúa, chẳng có gì ngăn trở được ngài. Chúa vẫn đứng trên cao chịu khổ hình cho nhân gian. Chúa đang hát bài ca của chúa thật dịu dàng làm sao. Trong nhà thờ các con chiên sắp thành từng hàng trong lễ cầu kinh. Tiếng kinh cầu vang lên đều đều như tiếng gõ nhịp của thời gian nặng trỉu. Như dòng suối đang ngấm vào lòng đất, để cho cây cỏ tốt tươi. Hôm nay Đại Hương và các bạn cũng đi lễ nhà thờ. Còn sư phụ ở lại trong tòa lâu đài nghỉ ngơi. Đại Hương và Tiểu Hoa mặc những bộ quần áo mới. Bạch Ngọc và Thiên Hùng, Đại Lực cũng vậy, Mọi người đều ăn mặc đẹp đẽ, như những bó hoa vừa mới hái. Riêng anh rồng Thiết Long và con chó đen thì vui đùa quanh quẫn trong sân. Đại Hương và Tiểu Hoa đứng bên nhau chấp tay nguyện cầu. Không biết cô nàng Tiểu Hoa cầu nguyện điều gì, mà mặt cô nàng ửng hồng. Còn Đại Hương thì chỉ nguyện cầu cho quốc thái dân an, mọi người đều được hạnh phúc. Giây phút cầu nguyện đã xong, thì cha xứ nói: Thưa các bạn! Hôm nay là một ngày mới, nhờ ơn chúa tốt lành! Chúng ta đã thoát khỏi kiếp nô lệ, và kẻ thù cũng đã bị phán xét. Nhờ ơn của đức vua, đã đem quân đến đây giải phóng cái địa ngục trần gian này. Hôm nay tôi rất lấy làm sung sướng, biết rằng mình vẫn còn sống... Thôi chúng ta cùng hát lên bài hát kính mừng đức chúa, đã cho chúng ta bầu trời tự do..la la la nào! Thế là cả thánh đường cùng hát. “Ôi chúa trên cao...gieo lời êm đềm đến với chúng con A men! Chúa là vừng mây sáng tốt lành đẹp đẽ... Chúa đã không quên chúng con..A men! Chúa đưa bước chân chúng con đi cùng… Chúa kính yêu chúng con biết ơn ngài”…la la la..Tiếng thánh ca chưa dứt lời, thì đức cha liền ngã lăn đùng ra giữa nhà thờ ngất xỉu…? Những ngọn đuốc trong nhà thờ vụt tắt. Từ trên tháp cao nhà thờ bổng vọng xuống một tiếng cười man dại. Mọi người sợ hãi ngất xỉu ngay lập tức. Còn lại một số khác thì bò lết ra khỏi nhà thờ. Đại Hương cũng bàng hoàng, còn Tiểu Hoa thì mặt mày xanh như tàu lá…Vậy là Đại Hương đứng im chờ đợi…Tiếng cười man dại chứa nhiều ấm ức đau khổ trong đó. Bây giờ tiếng cười kia đã đứng trước Đại Hương, nơi chổ cha xứ đang nằm. Đó chính là linh hồn của tên chúa tể rừng xanh Ma Lai Tang Tang hiện về. Nó vẫn như củ, như chưa từng bị cái chết cắt ngang cuộc đời nó. Nó đứng đó trong vùng lửa đỏ vây bủa xung quanh, nhưng là cái hình bóng nhạt nhòa xa xôi với trần gian này. Nó nói: Ta trở về đây không phải là để đòi nợ các ngươi. Ta đã đi vào một thế giới khác rồi. Lửa đã đưa ta đi về lại nơi rực sáng. Lửa đã đốt cháy linh hồn ta thành tro bụi…Nói đoạn nó đi thẳng về phía Đại Hương và ra khỏi nhà thờ.
Lúc này ông quan đại thần Xích Vân Tử nghe tin báo thì thất kinh. Ông ta vội chạy đi tìm sư phụ. Sư phụ cũng ngỡ ngàng đứng dậy chờ đợi, thì nhìn thấy cái linh hồn của tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang đang đi tới. Sư phụ rảo bước ra đón hắn và đưa tay lên chào. Hắn im lặng chìa tay ra, và ngọn lữa bổng sôi lên rạo rực trong lòng bàn tay của sư phụ. Sư phụ nói: Mời ông ngồi. Hắn gật đầu và đi đến bên cây đàn dương cầm, rồi ngồi xuống. Hắn bắt đầu gỏ những ngón tay lửa lên phím đàn. Rồi tiếng đàn lại cất lên cao vút, lượn quanh trong không gian của tòa lâu đài, rồi nó đáp xuống thiêu cháy các đồ vật xung quanh. Khi tiếng đàn cuối cùng chấm dứt, thì hắn nói: Ngài đã sai lầm khi ngài nghĩ rằng, ngài đã chấm dứt mạng sống của ta, là giết được ta sao? Ta xót thương cho ngài, vì ngài luôn nghĩ điều đó là đúng. Linh hồn ta là bất tử. Trái tim ta được nuôi lớn bằng âm nhạc, và thời gian mơ mộng của ta. Ta hỏi ngài, nghệ thuật là gì? mà khi ta chết đi, thì vẫn còn yêu thương nó. Ta càng đau khổ, thì ta càng yêu quý nghệ thuật hơn. Cái sự làm ăn của ta chỉ là trò chơi trần gian, nó không thể nào sánh bằng nghệ thuật được đâu? Nghe hắn nói xong. Sư phụ trầm ngâm hồi lâu, thì mới trả lời: Thưa ngài! Tôi không bao giờ nghĩ rằng, cá nhân mình muốn chiến thắng ai cả. Và càng không hề muốn chiếm đoạt mạng sống của ngài.Tôi vẫn tin rằng linh hồn là bất tử. Nhưng thưa ngài! Vì linh hồn ngài vẫn còn sống trong lửa đỏ, nên ngài mới cần đến nghệ thuật, như một dòng nước mát, tắm gội cho nó được sạch sẽ hơn! Tôi nghĩ: Nghệ thuật chỉ là cứu cánh cho linh hồn mà thôi. Nó như một liều thuốc giảm đau, chứ không thể làm hết bệnh được. Từ khổ đau, mà chúa đã chế tạo ra một phương thuốc để chửa trị nó, để xoa dịu cái thống khổ lồng lộng của kiếp người. Ngài đã tự tay mình chọn lấy cái chết, và ngài sẽ được yên nghỉ trong đó. Ngọn lửa đó nằm trong tay ngài, và ngài đã từng dùng nó để thiêu đốt nhân gian, thì bây giờ nó trở lại thiêu đốt chính ngài. Vì thế tôi hoàn toàn không có can dự vào cuộc đời ngài. Vì đó là của ngài, và chính do ngài quyết định. Nhưng tận đáy lòng thô thiển của con người tôi. Tôi khâm phục tài năng nghệ thuật của ngài…
Sư phụ nói tới đây, thì ngọn lửa đỏ bao quanh tên chúa tể rừng xanh Ma Lai Tang bốc cháy lên rừng rực. Nó nhanh chóng thiêu cháy cái linh hồn tội lỗi kia thành tro bụi, rồi rơi rớt lại trong tòa lâu đài màu trắng.
40. Bây giờ ông quan đại thần  đã bình tỉnh lại rồi. Ông hô hét quân lính hãy nhanh chóng mang số vàng  lấy được chở về triều đình. Đồng thời ra lệnh phóng hỏa đốt hết những cánh đồng hoa anh túc ngoài kia. Ông ta cầm cái khăn lau những giọt mồ hôi đang đổ xuống như mưa, vừa thở hổn hển và nói với sư phụ: Thưa ngài, tôi không thể nào hiểu nổi những sự việc đang xảy ra ở đây? Trước đây, trong tư tưởng của mình, tôi thấy mọi việc đều đơn giản. Ở triều đình làm thừa tướng cũng vậy. Nhưng nay ra ngoài nhân gian, sao lắm chuyện lạ lùng đến thế? Sư phụ đáp: Tư tưởng của ngài là một tư tưởng mới, nó không kế thừa trên cái tâm hồn nhân gian, mà nó là thứ ngôn ngữ hàn lâm trong sách vở. Ngài được học hành chu đáo, và hiểu nó một cách lô gich chính xác. Nhưng cái tâm hồn nhân gian nó lại không như thế. Nó là sự hấp thụ âm thầm, từ truyền thống cổ xưa đến ngày hôm nay. Ngài không đi ra ngoài, nên ngài thấy đơn giản, cứ như vậy như vậy mà làm. Còn cái tâm hồn nhân gian thì nó phức tạp hơn. Người ta tin vào quỷ thần, là để phù hợp với cái tâm lý lo sợ, và mông muốn được giúp đở bởi thần linh. Tinh thần dân gian là cái gần gủi ở bên họ, nó là cái trong tầm tay của họ, nó có thể giải thoát được cho họ. Nó không phải những trang sách kinh điển, dày hàng ngàn trang, mà lúc nào cũng còn tranh cải. Con người bình thường khi bị ức hiếp bởi kẻ mạnh, mà họ không thể chóng cự lại được, thì họ cầu cứu đến quỷ thần. Họ không có tất sắc trong tay, thì làm sao họ chóng lại bọn quan quyền bạo ngược. Mệnh lệnh của ngài đối với kẻ này là sự trừng phạt, nhưng với kẻ kia, là sự cướp bốc và ức hiếp người ta. Tôi xin khuyên ngài rằng, từ nay làm cái gì, ngài cũng phải thấu tình đạt lý. Có nghĩa là suy nghĩ của ngài phải cân bằng. Vì luật pháp trần gian, chỉ có thể giải quyết được trên bề mặt mà thôi. Song song với luật pháp, ngài phải biết cách giáo dục nhân dân, hiểu biết luật pháp nữa. Hãy lấy sự rộng lượng để mua lòng người. Hãy lấy sự nhân từ để nuôi dưỡng nhân tâm. Hãy xem xét từng hoàn cảnh của người dân mà xét đoán. Việc đó rất vất vã nhưng ngài phải làm. Vì nhân dân đóng thuế cho ngài làm việc đó mà? Hay là ngài không nhìn thấy gì hết?…Ngài cứ thả nổi các tai họa khắp nơi, rồi ngài ngồi một chổ, lấy cái gông xiềng ra để bắt bớ, dùng cái luật pháp ra để trừng trị mãi. Như vậy ngài giống như một kẻ đi săn thú hoang, hơn là người chăn dân. Nghe tới đây thì ông quan đại thần nói: Ngài nói đúng lắm! Nhưng sự tình phức tạp quá, ngoài khả năng giải quyết của tôi. Ví dụ như tên chúa rừng Ma Lai Tang Tang kia. Tưởng nó chết rồi chứ, nhưng nó vẫn hiện về làm bao người kinh khiếp? Sư phụ nói: Không có gì là dễ lãng quên được hết. Cái chết, chỉ cắt ngang một quá trình sống của con người thôi. Nhưng lịch sử vẫn dõi theo nó. Vì cái linh hồn, thì nó vẫn còn sống mà. Những gì đã đi vào thời gian về sau, thì gọi là quá khứ. Quá khứ sau khi chết, đôi khi nó còn huy hoàng hơn là khi nó đang sống, hoặc là ngược lại. Cái quan trọng là cái mãi mãi, chứ không phải cái tạm thời. Nhiều người sống trên đời, ôm mộng bá vương hùng cứ một phương. Nhưng đến khi chết rồi, thì tiếng xấu lưu lại muôn đời. Vì vậy, ngài là ông quan chăn dân, thì hãy lấy điều này làm trọng. Số vàng kia là thuộc về nhân dân. Cái đó để làm an sinh xã hội, và nuôi trồng con người, để kế thừa thế hệ của ngài. Ngài phải biết quý trọng người tài, và làm sao khai thác hết tài năng của họ, để giúp đở đất nước. Giang sơn gấm vóc này, là của chung của nhân dân ta. Ai lãnh phần chăn dân, thì phải chịu khổ hơn nhân dân, Chứ không phải lấy quyền lực, để vun vén cho mình, và đàn áp nhân dân. Cái đó trái với đạo lý làm người, và nhất là với một quân vương. Bởi vì nước đưa thuyền lên, thì nước cũng có thể làm lật thuyền. Cá không có nước thì cá chết, nhưng nước không có cá, thì nước vẫn là nước. Lịch sử là điều còn sống mãi mãi, cho dù con người đã chết. Vì thế khi nhìn thấy linh hồn của tên Ma Lai Tang Tang hiện về, thì tôi không hề ngạc nhiên gì cả. Bởi vì khắp nhân gian, từng cái cây ngọn cỏ đều hướng về con người. Cái đó tôi gọi là lịch sử không thể thay đổi được
Nghe thế ông quan đại thần nói: Ngài nói thế làm tôi đau lòng lắm. Nhưng làm người, nhất là làm quan như tôi, thì phải biết đau cái đau của nhân dân, mà nén lòng lại. Người khen tôi thì nhiều vô số kể, còn người phê bình tôi thì rất ít. Vã chăng người ta sợ tôi trả thù? Nhưng là người, ai lại đi trả thù những việc nhỏ nhặt như thế? Chẳng qua tôi là kẻ tiểu nhân à? Làm sao mà là một ông quan chăn dân cho được. Bây giờ tôi biết trong dân chúng, có rất nhiều người tài giỏi. Nhân dân luôn quan sát chính phủ, và góp ý phản biện cho chính phủ, để giải quyết việc nước tốt hơn. Tôi còn rất nhiều việc để hỏi ngài. Nhưng tôi phải đi làm công vụ nữa. Số vàng này tôi sẽ đem về cho đức vua, tùy đức vua quyết định.
Nghe thế sư phụ mới nói: Vậy còn việc gì băng khoăng thì ngài hỏi luôn đi? Ông quan đại thần đã bước đi rồi, nhưng vội vàng quay lại nói: À vậy thì tôi sẽ hỏi ngài luôn. Này nhé! Trong thời đại kinh tế thị trường ngày nay, thì đức vua quyết định làm kinh tế nhiều thành phần. Có nghĩa là chấp nhận nhân dân làm giàu, chấp nhận tầng lớp tư sản có mặt trong xã hội chúng ta. Rồi hình thức đầu tư liên doanh với nước ngoài vv và vv Nhưng cái chính, là đức vua đã lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Điều này dẫn đến nhiều nhà kinh tế học phản đối. Nhưng bây giờ theo ngài thì sao? Sư phụ nghe ông quan đại thần hỏi như vậy thì không trả lời ngay, mà đi lấy một bình nước, rót vào các ly nước trên bàn. Song người nói: Tôi không phải là một nhà kinh tế học, do đó tôi rất tôn trọng ý kiến của họ, vì đó là chuyên môn của họ mà. Nhưng theo tôi thì, đây là cái bình nước tượng trưng cho nhà nước, Còn các ly nước này, tượng trưng cho các thành phần kinh tế trong nước. Giả sử khi tôi rót nước trong bình ra, thì có một vài ly nước đã đầy rồi, thì tôi không rót nữa. Vậy thì kinh tế nhà nước là chủ đạo, thì cũng như vậy thôi. Bằng một tấm lòng trong sáng tôi nói rằng: Đường lối kinh tế của đức vua, như vậy là đúng chứ không sai. Cái sai là cái bình nước này có hạn, nên nó không thể “bao cấp” hết được.
Như tôi đã nói. Muốn xã hội phát triển, mà không hỗn loạn, thì phải phát triển cân bằng. Có nghĩa là những người dân bị loại ra dòng phát triển kia, thì phải được nhà nước lo. Vậy thì nhà nước là cái nguồn nước mát tưới tắm xuống muôn dân. Vì thế nhà nước phải có nhiều tiền để lo cho dân. Số tiền đó cũng từ nhân dân mà ra, và sẽ chảy về đồng đều khắp trong nhân dân. Nguồn tiền đó, không thể là cái sân sau của hoàng gia, mà nó là cái công cụ để bảo vệ đất nước, bảo vệ nhân dân. Tôi biết đức vua cũng nghĩ như vậy, vì người cần có nhân dân mà? Và có thể nhân dân không cần người, nếu người làm nhân dân bất mãn. Nhưng có điều, trong dân chúng kể cả các nhà trí thức, đều không nghĩ như tôi. Nên họ chống đối. Bản thân tôi thì không hề chóng đối ai hết. Tôi chỉ muốn nói lên cái sự thật chân xác, mà tôi nắm được. Vì theo thời gian, lời nói của tôi còn đó. Và tôi tin rằng, con đường của đức vua dẫn dân tộc ta đi, là hoàn toàn đúng đắn. Vì đó là con đường của nhân dân ta đi.
41. Tiểu Hoa đang nghĩ vơ vẫn, thì cảm thấy buồn ngũ quá chừng. Thế là cô nàng đi ngũ. Cô nàng mơ thấy mình cưởi con ngựa trắng có cánh, cùng với một chàng trai tinh anh tuấn tú. Con ngựa trắng cứ bay nhanh qua các từng mây long lánh sắc màu. Nó cứ bay mãi, và Tiểu hoa thấy gió mát mẽ khắp xung quanh. Rồi từ xa, cô nàng nhìn thấy cái cổng trời cao vút. Đó là chiếc cầu vồng bảy sắc rực rở. Chàng trai dừng con bạch mã lại, nơi chân cầu vồng, và dắt cô nàng vào trong đó chơi. Ồ! Đó là một thế giới tuyệt đẹp. Cái gì cũng trong suốt lung linh huyền ảo lạ kỳ…Hai người dắt tay nhau đi dạo trong đó một đoạn, thì thấy một chiếc cầu bằng vàng sáng lóng lánh. Xa hơn chiếc cầu, là một khu vườn hoa đào đang nở đỏ thắm. Tiểu Hoa và chàng trai của mình đi vào trong đó chơi, thì thấy khu vườn hoa đào chìm ngập trong mây. Tiểu Hoa thích quá mới vóc từng đám mây tung lên mù mịt. Chàng trai cũng chạy trốn vòng quanh những cây đào. Hai người đang đùa vui hào hứng, thì Tiểu Hoa liền phát hiện ra những cái hố to, chìm ngập trong mây nối dài đi rất xa. Chàng trai đi tới nhìn thấy những cái hố đó thì trở nên lo lắng. Chàng hoàn tử nói: Em ơi! Đây là những dấu chân kỳ lạ lắm. Nó có mống vuốt, và quá to ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Nó như một cái hố bom ở trên mặt đất vậy. Hai người đứng bên cái hố đó một lúc lâu, thì tính bỏ đi. Nhưng tại sao không thể cất chân lên được, và như có một hấp lực vô hình, kéo tuột hai người xuống cái hố đó luôn.
Tiểu Hoa bừng mắt thức dậy, thì thấy xung quanh náo loạn vô cùng. Cô nàng chẳng thấy Đại Lực, Thiên Hùng hay Bạch Ngọc đâu nữa. Sư phụ và Đại Hương cũng mất tiêu. Ông lão Công Phu Tào Ngưu, thì đang khóc nức nở. Ông quan đại thần Xích Vân Tử thì lấy một cái thúng úp lên đầu. Quái! Kỳ lạ quá? Hay có chuyện gì đây? Tiểu Hoa chạy ra sân thì thấy trời tối mịt, gió ù ù thổi nghe đinh tai nhức óc. Lá rừng bay ào ào, như trăm ngàn lưỡi dao chạy trên sân. Núi rừng rung chuyễn, sấm chớp ầm ầm. Mây đen từng cuộn, từng cuộn đổ về, trong chớp lóe của nắng chiều thật dễ sợ. Tất cả mọi người đều bỏ chạy tán loạn. Quân lính vứt hết vũ khí xuống đất, mà chạy vào các đường hầm để lẫn trốn. Bổng Tiểu Hoa nhìn thấy sư phụ, đang nói chuyện với mấy người, có dáng dấp quái lạ làm sao. Tiểu Hoa mừng quá chạy tới đó, thì thấy sư phụ đang an ủi những kẻ kia. Thì ra đó là mấy ông thần sông, thần suối, thần núi, thần rừng, đang bưng mặt khóc hu hu. Sư phụ nói: Không sao. Không sao mà! Có ta ở đây thì không có sao đâu mà! Đừng khóc nữa! Mấy ông thần đó nói: Ông nhìn kìa. Trời đất còn rung chuyễn hết trơn. Lão già quỷ vương Hắc Ám đã xuất hiện rồi. Lão ta ngũ thì thôi. Ai mà làm động giấc ngũ của lão, thì lão làm hại khổ sở lắm đó. Chúng tôi lâu lâu cũng bị lão hành hạ đau đớn lắm. Chúng tôi sợ lắm ông ơi! Nói rồi các vị thần vẫn khóc hu hu và run cầm cập…
Lúc đó Đại Hương đã xuất hiện. Cậu ta cưởi con bạch mã có cánh vút bay lên trời. Một tay cậu ta cầm chiếc khiêng đồng, còn một tay thì cầm một cây giáo dài sắc bén. Hình ảnh đó hiện ra trong ánh chiều tà, thật là như một bức tranh, vẽ một hiệp sỹ kiêu hùng, đang ác chiến với quái vật để cứu nhân gian. Chàng hiệp sỹ đó, đang đối đầu trước một sức mạnh hắc ám khủng khiếp, đang ập xuống. Nhưng chúa ơi! Hình ảnh kiêu hùng đó, chưa kịp in vào tâm trí của mọi người, thì Đại Hương đã bị đánh rơi xuống đất rồi. Cậu ta đã bị thương và gương mặt thì đầy máu. Con bạch mã có cánh thì nằm im một bên. Tiểu Hoa la lên một tiếng Á thì ngất xỉu…Từ trong chân mây, một hình hài từ cỏi xa xăm nào hiện ra. Hắn là một con quái thú, có dáng dấp giống như con người. Hắn có gương mặt của loài hổ báo, Hắn đeo một cái mặt nạ, để lộ ra đôi mắt sáng chói, trên đầu có một cặp sừng nhọn hoắc. Hai tay hắn đầy móng vưốt sắc nhọn, và long lá rậm rạp. Hắn khoác một chiếc áo choàng màu đen dài chấm đất. Hắn mờ ảo như một bóng sương. Hắn bước những bước chân chậm rãi đi về phía tòa lâu đài. Hắn đến gần hơn, thì người ta thấy hắn đang cầm một cái búa lớn…Lúc này sư phụ đang ôm Đại Hương vào lòng, và tìm cách chữa trị cho cậu ta. Sư phụ đang dùng phép thuật để cầm máu lại. Những hình bóng bên ngoài đang mờ dần trong đôi mắt của cậu ta. Cậu ta đã bị mất máu quá nhiều, và còn có thể bị chấn thương sọ não. Sư phụ gọi ông Lão Công Phu Tào Ngưu lại ẳm cậu ta vào bên trong. Còn Tiểu Hoa thì được Thiên Hùng và Bạch Ngọc đưa đi chăm sóc.
Bóng đen quái thú đó đáp xuống mặt đất, nơi quảng trường trước tòa lâu đài. Đó là một làn khói đen mờ ảo, bao quanh một khối đá của địa ngục. Khối đá đó bốc khói không ngừng. Gương mặt nó mờ mịt như đã ở từ kiếp nào đến đây. Nó có dáng dấp lụm cụm của một lão già. Cứ thế lão già đó hiện ra rõ nét hơn. Lão đứng bên bức tượng sụp đổ. Lão lấy chân đá vào bức tượng và cười khẩy. Lão không nói gì, và cũng không thèm nhìn ngó gì đến ai cả. Lão cứ đi đi lại lại trong sân. Bổng nhiên lão ho lên sù sụ, và dụi mắt vẻ ngái ngũ. Lão ta nói: Tại sao lũ bây làm động đến giấc ngũ của ta? Xưa kia ta đã bị mất ngũ hàng trăm năm rồi. Mấy bữa nay ta mới uống thuốc ngũ, thì ngũ được một chút, vậy mà các ngươi dám chọc ghẹo ta? Dám quấy rối ta, thì các ngươi sẽ biết được hậu quả như thế nào rồi mà? Ta rất khó ngũ, các ngươi có biết không? Hởi thần sông, thần suối, thần núi, thần rừng có nghe lời ta nói không? Các ngươi đã quên sức mạnh của lão già Hắc Ám này rồi sao? Nói xong lão vụt cười lên ha hả. Làm đá núi bốn bề rơi xuống ầm ầm. Lúc này mọi người trong tòa lâu đài quá khiếp sợ nên chạy ra xa hết. Nhưng tiếng nói của lão như những mũi tên bay cắm vào núi đá. Tiếng nói lồng lộng bao la như gió thổi. Như những kí ức khổ đau dội về trong tâm khảm con người. Lão nói chậm rãi từng tiếng một, và cũng chậm rãi bước đi. Lão nói tiếp: Cả ngàn năn trước khi ta còn trẻ, ta cũng mơ về những vùng đất tươi sáng. Ta cũng mơ về một đời sống thanh bình. Nhưng cơn gió cuồng phong của thời đại đó đã cuốn ta đi. Ta đi mãi, đi mãi và đến nay ta cũng đã già rồi. Ta cũng đã mệt mõi với những cái chết của nhân gian. Bây giờ đối với ta quý nhất là giấc ngũ thôi. Vậy mà các ngươi cứ quấy phá ta hoài!
Lão nói xong liền đến ngồi lên bức tượng đang nằm dài giữa sân.
42. Lúc này ông quan đại thần đã rời khỏi cái thúng úp lên đầu, ông ta đã bình tỉnh trở lại, và lên tinh thần hơn. Ông ta thét bọn lính: Hãy xem xét các kho vàng, có còn đó không? Hãy kiểm tra thật kỷ, không chừng lão quỷ vương đã cuổm đi một ít rồi.Vậy là quân lính đi kiểm tra các kho vàng, thì thấy nó vẫn còn nguyên. Vậy là ông quan đại thần yên tâm. Ông ta nhìn ra sân, thì thấy cái bóng đen quái thú vẫn còn đó. Nó đang dụi mắt ngái ngũ nhìn xuống đất, nơi có mấy chiếc lá khô đang nằm. Ông ta bổng nén hết sự sợ hãi vào lòng, và ra lệnh cho quân đội nghênh chiến. Đầu tiên, ông ta ra lệnh cho một trung đoàn lính thiện chiến nhất, vào bao vây lão quái thú kia lại. Kế đó tất cả pháo binh được điều đến, đều chỉa nòng vào lão. Còn ông ta thì leo lên một cái tháp cao để chỉ huy trận đánh. Trong khi đó thì lão quái thú vẫn ngồi im, bên cái búa của mình. Lão ta chả thèm ngó ngàng gì tới cái đám lính đang vây quanh. Những tên lính bất đắc dĩ phải tuân lệnh mà vào đây, cho nên tên nào tên náy đều run lên cầm cập. Còn lão quái thú thì như đang chờ đợi một điều gì đó…
Từ trên một cái tháp cao, ông quan đại thần Xích Vân Tử đang cầm một lá cờ, và chuẩn bị phất một cái…thì sư phụ Tuyết Sơn từ trong tòa lâu đài chạy ra la lớn…Khoang đã đại nhân! Tôi xin đại nhân đừng ra lệnh tấn công. Điều đó chả có hiệu quả gì đâu. Lúc đó ông quan đại thần Xích Vân Tử ngoái lại nhìn sư phụ, và leo xuống khỏi cái tháp canh...Sư phụ nói: Chả có gì đâu. Đây là ông bạn tiền kiếp của tôi. Chúng tôi cần nói chuyện với nhau hơn là đánh nhau. Chúng tôi già rồi, chuyện đánh đấm thì cho bọn trẻ nó làm, vì tụi nó thích giải quyết với nhau bằng bạo lực mà. Vậy bây giờ ngài hãy cho lui quân ra ngoài hết đi. Mấy khẩu đại bác cũng quay nòng đi chổ khác, vụ này để tôi giải quyết cho.
Nghe thế thì ông quan đại thần bèn quay nòng mấy khẩu pháo binh đi chổ khác, và cho tốp lính trong sân cũng rút êm ra ngoài…Bấy giờ lão quỷ vương mới ngẫng đầu lên và cười ha hả. Lão nói: Ở đây hình như vẫn có một kẻ, có đầu óc thì phải..ha ha! Hay lắm! hay lắm! Lão ta nói: Thật ra ta cũng đâu muốn sống một mình? Nhưng sống với nhiều người ồn ào quá, thì ta không chịu được...Nào kẻ nào muốn ra đây thì ra mau đi?
Lão ta vừa dứt lời, thì thấy một cái bóng trắng xóa trong tòa lâu đài đi ra. Cái bóng trắng kia lướt nhẹ trên mặt sân, như không chấm gót xuống đất. Xung quanh cái bóng trắng ấy, cũng có một làn khói sương mờ ảo bao quanh. Thấy vậy lão quỷ vương như tỉnh ngũ hẳn, và cũng đứng dậy. Thế là hai cái bóng một đen, một trắng, mờ ảo khói sương dắt nhau đi vào trong nhà thờ…
Bấy giờ trong nhà thờ vắng teo, chúa cũng đã đi vắng đâu rồi. Đó là một cái nhà thờ tróng trơn, không có chúa, không có cha xứ, không có con chiên, không có hành lễ gì hết. Chuông nhà thờ cũng lặng câm. Hai cái bóng đó bây giờ mới vào trú ngụ ở đây.
Lão quỷ vương mở đầu trước. Lão nói: Ý ngài là muốn tiêu diệt hết cái bóng tối ở trên trần gian này sao? Có nghĩa là ngài muốn giết chết ta sao? Ha ha ha! Ngài nhân danh cái gì, mà dám làm điều đó hả? Ta không hiểu những con người thánh thiện kia sợ hãi điều gì, mà cứ muốn chống lại ta? Thật ra các ngươi, vì không có con mắt sáng rực như ta, để nhìn thấu suốt tận cùng bóng đêm, nên mới sợ hãi. Ta chỉ ngũ suốt ngày thôi, có làm gì các ngươi đâu? Cái chính là các ý nghĩ sai lệch của các ngươi về ta kìa, nên mới làm cho các ngươi sợ hãi. Hỡi những kẻ thánh thiện nghe đây? Chúa của các ngươi gặp ta, thì cũng đã vội đi rồi. Ta là chúa tể bóng đêm, làm nên một nữa thế giới này. Lão vừa dứt lời thì sư phụ cũng cười lên ha ha ha! Sư phụ nói: Ngài đến đây để hăm dọa nhân gian này sao? Ngài đã gieo rắc cái chết, chiến tranh, dịch bệnh tràn lan khắp thế giới. Việc đó có ý nghĩa gì nào? Bản thân tôi, không hề phủ nhận, sự có mặt của ngài trên cỏi đời này. Nhưng ngài quá lắm! Bản thân ngài, đã sống quá nhiều năm trong bóng tối rồi, nên ngài không biết gì cả. Ngài cứ cho rằng thiên hạ sẽ sợ hãi ngài sao? Nhưng thật ra ngài là kẻ đáng thương. Vì ngài là cái chiếc bóng lẽ loi trên cuộc đời này,  Một cái bóng đen khổng lồ phủ trùm xuống nhân gian. Ngài luôn tự huyễn hoặc mình, về cái sức mạnh diệu kỳ mà ngài có được. Đó là cái sức mạnh sẽ tự hủy diệt chính ngài. Cái sức mạnh  đó có được bởi lòng căm thù sự sống. Nhưng ngài thấy đấy? Sự sống vẫn đang sinh sôi nẩy nở từng giờ từng phút, bất chấp cái sức mạnh hủy diệt kia. Lão quỷ vương đáp: Cái việc ta làm cũng là do lòng người muốn thế. Nó không có ý nghĩa gì với ta hết. Mà nó có ý nghĩa chăng, là với các người thôi. Các ngươi gieo trồng, thì các ngươi sẽ gặt hái. Một hạt giống màu đen, thì không thể nào nở ra hoa đẹp được, có chăng chỉ có trong những câu chuyện cổ tích mà thôi. Ta đã đi qua nhân gian này, bốn ngàn năm rồi. Mỗi lần cái búa của ta giáng xuống, là kết thúc một giai đoạn lịch sử. Lịch sử đã sinh ra ta, để tan vào những tham vọng đen tối của loài người. Lịch sử đã cần ta, để quét dọn trần gian. Nhưng hôm nay ta được gặp ngài, là kẻ duy nhất không biết sợ ta. Nghe lão nói thế bổng nhiên sư phụ bật cười lên ha hả mà rằng. Không có lịch sử nào nhớ đền ngài đâu mà ham! Lịch sử chỉ ghi dấu những huy hoàng, của những thời đại thịnh đạt, Và người làm nên sự thịnh đạt đó, chính là ta. Ha ha ha! Còn ngài sẽ bị tan vào bóng tối vĩnh viễn mà thôi. Sư phụ nói tới đây, thì bật cười lên ha hả rất sảng khoái. Và bổng nhiên, cánh cửa nhà thờ bật mở. Đại Hương chạy ào vào trong tìm kiếm sư phụ, vì sợ rằng sư phụ sẽ bị lão quỷ vương kia hại chết. Nhưng kỳ lạ thay? Cậu ta chỉ nhìn thấy, cả sư phụ lẫn lão quỷ vương, đều tan rã thành một làn khói cuộn bay lên trời...
43. Ông quan đại thần Xích Vân Tử vội chạy theo Đại Hương, nhưng Đại Hương chạy nhanh quá, ông ta không đuổi kịp.  Lúc này mọi người trong căn cứ đã hoàn hồn, nhìn theo làn khói bay lên từ nhà thờ. Sau đó mọi người đều vây quanh Đại Hương, để hỏi thăm tin tức của sư phụ. Nghe Đại Hương kể lại. Tiểu Hoa, Bạch Ngọc đều khóc như mưa. Thiên Hùng và Đại Lực thì cứ chạy quanh khắp nơi trong căn cứ, để tìm kiếm sư phụ. Còn ông lão Công Phu Tào Ngưu, thì đấm ngực rầm rầm mà khóc. Ông quan đại thần thì bắt đầu tính tới những việc tiếp theo. Riêng anh rồng Thiết Long thì không nói gì cả, chỉ im lặng đứng nhìn rất lâu lên bầu trời.
Hôm nay, ông quan đại thần mới ra lệnh thu dọn chiến trường. Vì sau khi tên chúa tể rừng xanh Ma Lai Tang Tang chết. Tòa lâu đài tan tành ngỗn ngang chưa thu dọn gì hết. Tuy nhiên những cái xác chết quá nhiều, thì không biết để đâu. Ông quan đại thần bèn ra lệnh, đem ra ngoài rừng chôn. Lệnh thu dọn chiến trường được truyền đi, và người ta hè nhau, vào khiêng hết những xác chết kia ra ngoài rừng. Lúc này Đại Hương đã tỉnh trí lại rồi. Cậu ta đã trở về cái thực tại này, để còn lo nghĩ đến những người khác nữa. Nhưng khi nhìn thấy những chuyến xe chở xác chết đến bờ sông, thì trái tim cậu ta đau nhói. Cậu ta mơ hồ nhìn thấy hai bàn tay mình nhuộm đầy máu. Mùi máu tanh đang thấm vào trái tim cậu ta, làm nó không đập được nữa. Cậu ta thét lên: Hãy khoan đem chôn những xác chết này đã. Hãy để ta thử dùng phép thuật xem sao? Nhưng quân lính bảo: Đây là mệnh lệnh của quan đại thần. Đại Hương nói: Ta không theo mệnh lệnh của ai hết. Ta chỉ theo mệnh lệnh của trái tim mình mà thôi. Nói xong, Đại Hương liền lấy cuốn sách phép thuật ra… và bắt đầu đọc thần chú…
Và kỳ lạ thay? Những xác chết kia bắt đầu động đậy, và sống lại. Bọn lính thấy vậy la làng bỏ chạy tứ tung. Từ khắp nơi trong căn cứ, người ta đồn thổi lên rằng, tất cả các thây ma kia đã sống lại rồi. Ông quan đại thần quýnh quáng chịu không nổi, và không biết tính sao? Vì bây giờ sư phụ cũng đã ở nơi nào. Biết tìm ai mà hỏi đây? Quá lo sợ, ông quan đại thần tính rủ ông lão Công Phu Tào Ngưu đi trốn. Nhưng chiếc máy bay trực thăng chưa kịp cất cánh, thì bọn người “thây ma” kia đã nắm hai càng của máy bay kéo xuống. ông quan đại thần lúc này nhắm mắt lại, và hơi thở của ông ta rất nhẹ…Ông ta đã ngất xỉu.
Khi ông quan đại thần Xích Vân Tử tỉnh lại, thì thấy xung quanh mình đầy hoa… Mọi người xếp hàng giơ tay chào vị tổng tư lệnh của mình. Những tên lính áo đen “sống lại” bây giờ đã thay những bộ quân phục mới. Chúng đứng xếp hàng chờ lệnh. Vì công việc thu dọn chiến trường cũng đã xong. Ông quan đại thần dụi mắt liên tục và cứ tưởng mình đang nằm mơ. Nhưng chả có giấc mơ nào cả…mà nơi đây chỉ là một vở kịch lớn. Còn ông ta chỉ là một nhân vật trong cái vở kịch đó mà thôi.
… Anh rồng Thiết Long như không còn ở trong đám người kia nữa, mà anh ta ra bờ sông đứng nhìn lên bầu trời mãi không chớp mắt. Anh ta nhìn mãi và từ từ nhìn thấy có một con đường đi lên đó. Con đường đó rẽ mây mà đi, Và anh biết rằng mình sẽ phải đi, vì anh ta là một con rồng mà. Anh ta nhớ lại cuộc đời của mình, như một tên tội phạm của triều đình. Từ nhỏ đã chịu nhiều khổ cực, để phấn đấu trở thành một người tốt. Nhưng sao cái xã hội của anh ta đang sống, những người có trái tim, đều dễ đi vào con đường phạm pháp, hơn là được làm một con người tốt. Anh ta đi học thì bị  xua đuổi, từ đó anh ta không thể đi học nữa, mà ra sống ngoài giang hồ. Từ từ anh ta đã trở thành một tên cướp, lúc nào không hay. Vì anh ta chứng kiến bao sự đọa đầy của thế gian, bọn cường hào ác bá ức hiếp dân lành quá đáng. Sẳn có võ công cao cường. Anh ta đã đánh bọn chúng một trận tơi tả, nhưng anh ta cũng bị thương, và bị quan binh đuổi gấp lên núi Tuyết Sơn. May nhờ có sư phụ Tuyết Sơn Minh Hạnh Túc cứu mạng. Vậy mà giờ đây sư phụ đã đi đâu rồi? Hay là sư phụ bị lão quỷ vương kia ức hiếp? Suy nghĩ tới đó thì thoắt một cái, anh ta biến thành con rồng bay lên đó luôn.
Khi con rồng Thiết Long bay lên trời, thì nó cũng thấy một cái cầu vồng bảy màu rực rỡ. Vậy là nó bay vô trong đó. Nó cũng gặp một chiếc cầu bằng vàng sáng lóng lánh, những đám mây bềnh bồng xung quanh. Bên xa kia là mấy khu vườn cây trái trỉu quả. Một cánh đồng đầy hoa đào đang nở đỏ thắm. Ở dưới một gốc đào to, thì nó thấy có hai ông lão đang ngồi đánh cờ, cười vui hỷ hả, Một ông mặc áo đen, và một ông mặc áo trắng. Hai người đánh cờ và rượt đuổi nhau như con nít thật là vui. Khi Thiết Long tới, thì ông lão áo trắng nói: Này nhé! Ba ván rồi đấy nhé! Ông đã thua tôi ba ván cờ rồi, vậy tôi không chơi với ông nữa đâu! Bây giờ có thằng cháu lên đây, thì tôi về nhà thôi ha ha! Cười xong ông lão áo trắng lấy từ tay áo ra ba viên thuốc, rồi đưa cho ông lão áo đen và nói: Đây là thuốc ngũ, nó là loại linh đơn quý lắm đó!ha ha! Ông hãy uống nó, và ngũ luôn đi cho cả thế gian này được nhờ! Ha ha! Ông lão áo đen mừng lắm liền cảm tạ ông lão áo trắng, và nói rằng: Ông về dặn dò bọn trẻ đừng quấy rối ta nữa nhé! Ha ha! Vậy là hai ông lão ôm hôn nhau thắm thiết, rồi từ biệt nhau, và đi mỗi người mỗi ngã…
Bộ tộc đầm lầy
44. Khi con rồng Thiết Long chở sư phụ quay về, thì không còn thấy gì nữa. Đường đi thành lũy cung các, nhà cửa lâu đài kho bãi, đều đã biến đi đâu mất hết trơn? Cả cái đám lính áo đen kia cũng đã lên đường. Cái quãng trường giờ đây là một bãi cỏ xanh. Mọi người ngơ ngác, tụm năm tụm ba xì xầm nói chuyện. Nhưng lạ kỳ thay, cái nhà thờ màu hồng thì vẫn còn đó. Cha xứ vẫn đến nhà thờ cầu kinh. Chuông nhà thờ vẫn đổ, nhẹ nhàng thanh thoát, hân hoan làm sao! Nhưng điều đáng buồn nhất là những kho vàng của ông quan đại thần Xích Vân Tử đã biến mất. Ông ta kêu trời vì tiếc của. Ông ta nói: Quái quỷ! Đời tôi đã đạt đến tột đỉnh vinh hoa phú quý, nhưng chưa bao giờ được nhìn thấy, nơi nào có nhiều vàng như thế? Ôi vàng của tôi! Vàng đã đi đâu rồi. Phải chăng trong cuộc chiến này, tất cả đều vô nghĩa. Tất cả đều tan biến hết trong tay, cái mà khi chúng ta đã chạm được tới nó. Ôi vinh quang ngày hôm qua đâu rồi? Ôi quân lính của ta! Các bạn đã cùng ta chiến thắng! Các bạn đã cùng ta khắc tên mình lên vách thiên thu! Vậy mà bây giờ, phải chấp nhận một sự thật như thế này sao? Nói xong ông ta bưng mặt khóc nức nở. Thấy vậy, ông sứ thần đức vua mới chạy tới an ủi! Thưa ngài! Số vàng kia có phải của riêng ngài đâu, mà ngài đau lòng đến thế. Nó là của đức vua, của nhân dân kia mà! Ông quan đại thần Xích Vân Tử nói: Ta đội ơn mưa móc của hoàng đế, thì ta phải dóc lòng vì người, hãy xem của người là của ta, của nhân dân cũng là của ta, thì ta mới đau tiếc như thế! Người nắm binh quyền như ta, phải biết xót xa cho những mất mát của nhân dân. Ta đâu phải như ông, mà bàng quan vô trách nhiệm được đâu. Trong triều đình, có vô số kẻ làm việc cho đức vua, hưởng lương cùa nhà nước, mà tối ngày nói xấu, chê bai sau lưng đức vua hoài. Nếu bất mãn triều đình thì sao không xin thôi việc đi? Loại người đó trong xã hội, ngày nay nhiều vô số kể. Họ không chấp nhận đường lối chính sách của đức vua, là vì họ bị ức chế mà thôi, chứ chẳng phải là vì dân vì nước gì đâu. Đối với họ, cái gì cũng sai hết. Cái đó là cái tư tưởng luẫn quẫn trong đầm lầy, chứ chẳng phải làm cách mạng gì cả. Ông ta tiếp: Càng nghĩ ta càng đau lòng. Nhưng bây giờ về triều, thì ta ăn nói với đức vua, với nhân dân thế nào đây?  Vì trong quốc hội, có ai tin được chuyện bùa phép quỷ thần. Họ sẽ nói ta tham nhũng số vàng kia mà thôi…Nói xong, ông quan đại thần lại khóc tiếp.
Ông quan đại thần Xích Vân Tử này, là một nhà chiến lược có ăn học đàng hoàng. Ông ta đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho cách mạng. Ông là một vị quan thanh liêm trong sạch. Về văn trị ông cũng là một người xuất sắc. Nhưng ông ta cũng là một đại tướng trong quân đội. Những trận đánh lẩy lừng nhất đều ghi tên ông ta. Bây giờ, đứng trước tình cảnh tiến thoái lưỡng nan thế này, ông ta chả biết làm sao, mà cứ đứng khóc hoài. Thấy vậy sư phụ bèn tới an ủi. Sư phụ nói: Thưa đại nhân! Việc đâu còn có đó, đại nhân đừng đau lòng quá, mà hại đến sức khỏe của người. Bây giờ trước mắt chúng ta, vẫn còn nhiều việc phải làm. Đại nhân có thấy không, có biết bao con người tồn tại ở đây, đều còn phải nhờ cậy tới đại nhân. Họ biết đi về đâu, khi người lãnh đạo của họ sụp đổ. Theo tôi, thì số vàng kia nghĩ cũng tiếc thật, nhưng thanh danh liêm khiết của đại nhân, bị hiểu lầm thì càng đáng tiếc hơn. Nhưng thôi kệ nó đi! Đại anh hùng đứng trong trời đất, gan ruột bày ra với trời xanh. Không có gì phải sợ hết. Tới đâu tính tới đó. Bây giờ cứ đứng đây, mà than khóc mãi, cũng chẳng ích gì! Vã lại trên đời, chuyện đổi thay cũng là bình thường. Ngài học triết nhiều mà ngài không biết sao? Mọi vật đều vô thường. Có đó rồi mất đó. Cuộc chiến vừa qua của chúng ta, chẳng qua là một ảo ảnh mà thôi. Mục tiêu chiến đấu của chúng ta là không phải những thỏi vàng kia. Mà nó vì con người. Con người thì bây giờ đang đứng đầy nghẹt đây nè!
Sư phụ tiếp: Con người chúng ta ngày đêm ngóng cổ lên cao. Nhưng trên cao đó có gì nào? Niềm hạnh phúc là khi ta còn khoác trên mình chiếc chiến bào, và ngồi trên mình ngựa kìa. Đó là niềm hạnh phúc thúc dục ta lao tới phía trước. Khi bạn chìm trong đam mê, thì bạn không biết gì cả. Bạn chỉ nghe tiếng gió ào ào lướt qua bên tai. Bạn cứ lao tới phía trước, mặc cho sấm sét vang rền xung quanh. Bạn là một chiến binh lạnh lung đi trong đêm tối. Bạn ra đi, là để biến giấc mơ ở cuối con đường kia thành sự thật. Nhưng khi bạn gần như đến đích rồi, thì cái sự thật kia hiện ra, là một hiện thực trái ngược với những điều bạn nghĩ. Nếu bạn cảm thấy thõa mãn, thì bạn như ngừng sống. Bạn ngừng thở, và bạn trở thành một cổ vật trong bảo tàng thật đáng thương. Nhưng đa số khi người ta chạm đến cái sự thật bẽ bàng đó, thì người ta vẫn thường khóc như ngài. Vì cái giấc mộng kia là những phù phiếm, tô điểm cho trí tượng của con người mà thôi. Vì nó luôn là một ảo giác trước mũi của một con ngựa bị che mắt hai bên, để mà lao đi.
Lúc này ông quan đại thần Xích Vân Tử đã ngừng khóc, và nói: Vậy nhìn thấy nó biến mất tất cả như vầy, sau cuộc chiến đấu gian khổ của chúng ta, là một dấu hiệu tốt sao? Đạo lý nào mà kỳ cục thế? Sư phụ nói: Nó biến mất hay không là do ngài nghĩ mà thôi. Cái linh ứng của tinh thần nó nằm ở chổ đó. Có nhiều người, vì quá chấp mà không biết buông bỏ, tất nhiên họ sẽ trở nên khủng hoảng tinh thần trầm trọng, và họ đã không chịu đựng nổi, nên họ mới tìm đến cái chết, để kết thúc một quảng đời vô nghĩa. Cái quảng đời mà xưa kia, họ là một kẻ lẫy lừng, với những chiến thắng trên vùng đầm lầy, hay hoang mạc, và thảo nguyên. Họ có tất cả. Họ được người đời xem như là những chiến binh dũng cảm. Nhưng thật ra tận cùng trong trái tim họ, vẫn thổn thức từng đêm. Họ vẫn phải đối diện với cái vực thẳm đen tối của mình từng đêm. Họ như bừng tỉnh và không còn thời gian nữa rồi. Thế là họ lao xuống cái vực thẳm kia, như là một cú nhảy kết thúc một cuộc chơi…
Sư phụ tiếp: Cái ngài nhìn thấy bằng con mắt thường, là không thấy gì cả. Vì chớp mắt một cái là nó biến mất liền à. Cái mà ngài không thấy, thì mới là thấy đó. Thế bây giờ ngài muốn về triều đình, hay ngài sẽ đi cùng tôi cho vui?
45.Bây giờ thực tế cũng đã khác rồi, mọi người phải chấp nhận như vậy thôi. Nhưng cái đằng sau cơn mộng khói lửa kia, là hàng ngàn người nô lệ đã được giải thoát. Đó là cái thành quả đáng tự hào nhất, và cũng đáng trân trọng nhất. Ông quan đại thần Xích Vân Tử bây giờ đã tỉnh trí hơn. Ông không còn ngồi than khóc nữa, mà đang đi điều động sắp xếp mọi việc dân binh ở đây. Trước mắt, ông sai tướng quân Công Phu Tào Ngưu, và ông sứ thần đi đốn cây làm nhà. Ông ta muốn xây dựng nơi đây trở thành một ngôi làng kinh tế mới. Những người nô lệ tự do bây giờ, đã cùng binh lính lao vào làm việc. Họ hăng say lao động ngày đêm không biết mệt, vì bây giờ chẳng còn ai bốc lột họ nữa. Họ đã là chủ nhân của chính mình, muốn làm thì làm, không muốn làm thì thôi. Họ vừa làm vừa ca hát, và nắm tay nhau nhảy múa. Đêm về, họ còn được thưởng thức văn nghệ, được tổ chức trong nhà thờ. Dàn nhạc nhà thờ, bây giờ được đem ra phục vụ nhân dân. Chúa cũng vui mừng bước xuống gần hơn với loài người. Ngài không còn ở trên cây thánh giá nữa, mà ngài hiện thân là một con người yêu đời, vui vẻ lạc quan. Ngài tự mình rao giảng những điều răn trong kinh thánh. Bây giờ đức ngài như là một biểu tượng của tình yêu thương mà con người đang hướng về. Ngài đã đề nghị với quan đại thần Xích Vân Từ rằng, hãy đem hết súng đạn đại bác, mà dẹp sang một bên đi. Thế là ông quan đại thần Xích Vân Tử ra lệnh, đem hết súng đạn, và tất cả cái gì dính tới bạo lực, đều dẹp qua một bên hết.
Một hôm, khi sư phụ cùng đám học trò của mình cũng đang cuốc đất. Bổng nghe được tin cấp báo rằng, trên dòng sông, có một toán người thổ dân đi trên những chiếc thuyền độc mộc, đang tiến vào đây. Bọn chúng ở trần, và vẽ lên mặt mày vằn vện kinh khiếp lắm... Chúng cầm giáo dài và cung tên. Chúng vẫn còn ở dưới sông, chứ chưa đặt chân lên bờ. Nghe vậy sư phụ liền liệng cái cuốc, mà chạy đi tìm ông quan đại thần Xích Vân Tử bàn việc đối phó. Đại Hương, Thiên Hùng và Đại Lực cũng chạy theo sư phụ. Tiểu Hoa và Bạch Ngọc, thì sợ quá nên chạy vô nhà thờ cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi. Vì chuyện binh đao đã quá đủ rồi…
Ông quan đại thần Xích Vân Tử nói: Bây giờ có hai việc có thể xảy ra, mà chúng ta phải làm. Thứ nhất ta không biết họ đến đây có ý định gì? Nếu mà muốn đánh nhau thì việc đó ngài hãy để cho tôi. Còn nếu họ đến đây với tinh thần hòa bình, thì việc đó sẽ trong cậy vào ngài. Sư phụ nghe vậy thì đồng ý ngay. Thế là ông quan đại thần Xích Vân Tử, thì chạy đi lo việc đề phòng bất trắc. Còn sư phụ thì chạy ngay ra bờ sông.
Khi sư phụ chạy ra tới bờ sông rồi, thì thấy bọn thổ dân kia, còn ở cả trên thuyền. Chúng trao đổi với nhau bằng thứ tiếng thổ ngữ rất khó nghe. Chúng lấy gươm giáo trỏ về phía sư phụ và nói: Ôtôôba, acara, xabara, balama, talatala, …
Sư phụ nghe thế thì chả hiểu gì cả. Lúc đó Đại Hương vội rút quyển sách phép thuật ra, và nó giải thích thế này: Chổ của ông có rộng không? Cho chúng tôi lên chơi với? Vậy thôi. Sư phụ nghe thế thì gật đầu. Thế là bọn thổ dân bỏ thuyền leo lên bờ. Bọn chúng lấy dưới thuyền ra nào là chim chóc, và thú rừng rất nhiều. Đó là những thứ quà biếu mà chúng, đã đánh bẩy được. Đại Hương ,Thiên Hùng, và Đại Lực vội chạy tới, đở lấy những thứ quà biếu đó. Đồng thời sư phụ cũng mời họ lên bờ.
Ông quan đại thần Xích vân Tử chuẩn bị xong xuôi rồi, nhưng thấy tình hình thay đổi, thì thở phào nhẹ nhõm, nên ra lệnh cho quân lính giải tán. Ông ta chạy tới chỗ sư phụ, và đón tiếp phái đoàn của cái bộ tộc kia.
Lúc này mọi người đã được mời vào trong một căn nhà lớn. Lão tộc trưởng của bộ tộc kia ngồi đối diện với ông quan đại thần Xích Vân Tử. Lão tộc trưởng đó cứ nói huyên thuyên, mà ông quan đại thần Xích Vân Tử thì cứ ngơ ngắc như vịt nghe sấm. Ông ta khều khều sư phụ mấy cái, rồi xin phép đi ra đàng sau.
Lão tộc trưởng nói tiếp: Áábalataha, catarabaka, tahacaraba, Acta, curatalamaga. v.v... và v.v... Nghe thế sư phụ liền khều vai Đại Hương. Đại Hương liền xem trong quyển sách phép thuật xong, rồi nói nhỏ vào tai sư phụ gì đó. Tức thì sư phụ gật đầu với lão tộc trưởng kia, và mọi người đứng dậy đi ra ngoài.
Ông quan đại thần Xích Vân Tử khi thấy sư phụ giải quyết vụ việc trên quá hay, thì mừng lắm. Ông ta nói: Họ là người dân tộc ăn long ở lỗ lạc hậu quá mức, họ sống heo hút trong cái đầm lầy đó thật là dễ sợ. Tôi cũng không biết làm sao, mà họ sống được nữa? Sư phụ nói: Họ là một dân tộc, trong số tất cả các dân tộc anh em, trên đất nước chúng ta. Tuy họ vẫn còn sống đời sống hoang dã, nhưng họ cũng là người của dân tộc mình. Chỉ vì nhà nước chưa biết tới họ mà thôi. Ngài là thừa tướng, thì ngài nên nhìn họ như ruột thịt. Ngài có thấy họ là một bộ tộc tốt bụng không? Họ ở đó lẽ loi một mình thật tội nghiệp, họ cũng muốn đi ra ngoài, và liên hệ với thế giới này. Tuy nhiên, quê hương của họ là cái đầm lầy ở hạ nguồn, nên chẳng thể nào thoát khỏi bị ô nhiễm được. Ông quan đại thần nói: Vậy là chúng ta sẽ xuôi về hạ nguồn thăm họ à? Thôi tôi không đi đâu. Cái giống mọi rợ này, biết gì mà nói chuyện với chúng. Tôi nghĩ, mong muốn họ hiểu biết được như chúng ta, là một điều hoang tưởng của tình thương. Ngài giàu tình thương người, nên ngài nghĩ thế thôi. Nhưng tôi thì chả có hy vọng gì, vào cái bọn người này đâu. Sư phụ nghe thế thì ôn tồn nói: Ngài nghĩ như thế thật à? Riêng tôi thì thấy mỗi giống người, dù không có chung nguồn gốc, nhưng họ đều có sự hiểu biết. Vì đều là con người như nhau. Chỉ khác nhau, là cái cách thể hiện sự hiểu biết đó, khác nhau mà thôi. Tôi nhìn thấy trong đôi mắt của ngài tộc trưởng của bộ tộc này, chứa đựng một cái tình yêu, và một sự hiểu biết sâu sắc, ngoài cả khả năng của con người văn minh chúng ta. Đó là sự thông thái, gần với thần linh hơn là con người. Trong đôi mắt đó, luôn dõi theo những sấm chớm giông bão trên trời, để lo lắng cho mọi người trong bộ tộc. Ông  ấy có sự thể nghiệm của cái tinh thần hùng tráng nhất, là dám đối mặt với trời đất, để sống hiên ngang trần trụi giữa thiên nhiên. Tôi nghĩ các vị thần linh cũng kính nể ông ta, chứ sao nói rằng họ không hiểu biết được…
46. Đại Hương, Thiên Hùng và Đại Lực cùng với Tiểu Hoa, Bạch Ngọc đang vui đùa với những con thú rừng. Những con thú hoang này, là do bộ tộc đầm lầy dâng tặng. Những con vật này, như hiểu được những tình cảm của con người. Chúng mừng rỡ, quấn quýt bên con người, như những người bạn thân. Nào hưu nai, chồn cáo và chim chóc, nào thỏ, nào cọp beo và cả chim đại bàng, chim hồng hoàng, chim họa mi, quạ đen, và bồ câu, nào cá sấu cá chép đủ loại.  Chúng bay đi loạn xạ và kêu ầm ầm như là sung sướng lắm. Khi vừa được đem về đây, chúng cảm thấy rất sợ hãi. Vậy là Đại Hương và các bạn liền đem thả chúng về rừng. Nhưng mà qua hôm sau, chúng đã trở lại đầy đủ, như không hề sợ cảm bẩy của con người. Anh rồng Thiết Long thấy thế thì rất vui. Vì từ nay loài rồng đã cùng chung sống chung với mọi loài khác rồi. Nhưng duy nhất có một điều, là anh ta sẽ không phun lửa nữa đâu.
Nơi này bây giờ, không thể gọi là cái gì cho có một cái tên chính xác được. Vì từ khi tòa lâu đài màu trắng biến mất, thì nơi đây đã trở thành một ngôi làng mới. Mọi người đi xa hơn về xung quanh, và họ mới thấy hết sự hùng vĩ của núi non của vùng đất này. Những cánh đồng hoa anh túc trước kia, bây giờ là những cánh đồng lúa. Người ta khai phá những thữa ruộng bậc thang, từng từng lớp lớp uốn quanh các ngọn đồi. Hoa thì nở khắp nơi, mà con người thì cùng với loài vật sống chung thật đầm thắm. Mấy người của bộ tộc đầm lầy ở tạm nơi đây, cũng thật dễ thương. Bọn họ đi đi lại một chổ, mà xầm xì chỉ trỏ lung tung. Ở đây đã được ông quan đại thần Xích Vân Tử xây dựng theo kiểu áp dụng khoa học kỷ thuật, vào thực tiễn đời sống miền núi. Ông ta dùng xe cơ giới, chở vật liệu từ xa về làm nhà. Cho nên, ngôi làng cũng khang trang lắm. Những binh lính của ông ta là những người đi trước, họ đi phá đá làm đường, và xây dựng nhà máy. Còn những người nô lệ trước kia, thì là những người dân đông đảo nhất trong làng...
Ông lão Công Phu Tào Ngưu nói: Tất cả thuyền bè đã được làm xong hết rồi. Vậy chừng nào, mình mới khởi hành đi xuống hạ nguồn đây? Ông quan đại thần Xích Vân Tử nói: Vậy coi như tôi ở đây luôn rồi, mọi người đi đâu tôi đi đó. Chuyện ở triều đình thì để đức vua lo. Ở đây mọi người đều lắng nghe ý kiến của ngài Tuyết Sơn đây mà. Sư phụ nói: Vậy ông không về triều làm thừa tướng nữa sao? Tôi còn đi du ngoạn đây đó nhiều lắm đó. Ông quan đại thần nói: Ông đi đâu thì tôi đi đó. Đi giang hồ vậy mà vui ghê. Vã chăng, tôi vẫn còn quân đội trong tay mà lo gì? Lúc này ông lão Công Phu Tào Ngưu mới hối: Thưa ngài! Chừng nào thì ngài đi thăm bộ lạc đầm lầy đây? Sư phụ nói: Ngày mai đi. Chúng ta phải chuẩn bị thật kỷ càng, ngày mai lên đường. Ông quan đại thần nói: Ngày mai tôi không thể đi được, tôi phải cùng người dân xây dựng con đập làm thủy điện cho làng nữa. Lạy chúa! Không biết tôi xây dựng ngôi làng này xong, thì nó có biến mất đi nữa không? Nếu điều đó mà xảy ra thì tôi nói thiệt ngài rằng, tôi không cần sống nữa đâu. Sư phụ nghe thế thì cười ha hả. Sư phụ nói: Thôi ông cứ ở đây lo việc làng. Tôi và ông sứ thần cùng đám học trò lên đường là được rồi. Ông hãy bảo ông Công Phu Tào Ngưu lo những việc nặng nhọc. Tôi hy vọng ông ấy làm được nhiều việc lớn cho ông. Này nhé! Nếu ông sợ ngôi làng này sẽ biến mất, như cái tòa lâu đài màu trắng kia, thì nó cũng có thể xảy ra đấy..ha ha ha! Cái đó là tùy thuộc vào suy nghĩ của ông thôi. Vì sự cảm ứng của tinh thần là rất tự nhiên. Như khi ông đi vô sâu trong núi, thì tiếng nói của ông sẽ vang dội trở lại. Vì thế, tất cả những gì ông suy nghĩ bởi ý thức, đều được hồi đáp tại tâm thức. Tại nơi bên trong sâu thẳm của tinh thần ông, nó cũng vang dội y như trong lòng đá núi.Vì tương tác qua lại này là không mất đi. Nó cứ nhận được một, thì sẽ hồi đáp lại một. Nếu ông gây ra tội ác, thì chính ông sẽ có nhận thức về việc đó, một cách tự nhiên ở trong lòng. Cái đó nó vi tế đến nổi, ông khó có thể nhận ra. Hai cái đó cảm ứng qua lại liên tục, y như là có người ghi chép hết tất cả các hành động và suy nghĩ của ông vậy. Nhưng nó không phải do ông…Mà nó như là có thánh thần ngự ở hai vai, luôn theo dõi và làm việc này. Cái đó tôi gọi là luật nhân quả. Vì thế người ta nói: Lưới trời lồng lộng, là nói tới cái này đó. Bây giờ ông đã hiểu hết chưa, vì sao ngôi làng của ông đang xây dựng, thì nó cũng có thể biến mất. Ông cứ tưởng rằng nó tách rời khỏi ông, nhưng thật ra, nó cũng chính là suy nghĩ của ông, là con người của ông đó.
Ông quan đại thần Xích Vân Tử nghe tới đây thì quả là rối rắm lắm rồi. Ông ta nói. Có là có, không là không. Ngài nói như vậy tôi mơ hồ hiểu ra là, có thì cũng không có. Mà không có cũng chẳng phải không có? Thế nó là cái gì? Cái làng là cái làng, mà tôi là tôi chứ? Thôi cứ mặc nó có biến mất hay không, tôi cũng không quan tâm. Nói cho nhanh thế này: Ngày mai ngài hãy đi thăm cái bộ lạc đầm lầy kia đi. Còn tôi ở nhà, cùng ông Công Phu Tào Ngưu lo xây dựng ngôi làng. Nói thật. Mới gặp ngài thì tôi rất thích...Nhưng dần dần nghe ngài giải thích, thì tôi đâm ra rối luôn. Mỗi người có cái thế mạnh tư duy khác nhau. Người ta nói có tới bảy kiểu tư duy. Tư duy sáng tạo, tư duy vận động, tư duy chính xác, tư duy mềm, tư duy cứng, tư duy này kia đủ thứ… Cái nào nó phải ăn khớp với cái đó chứ, đâu thể chung chung như ngài được…
Khi nghe ông quan đại thần Xích Vân Tử nói tới đây thì sư phụ giật mình, và choáng váng mặt mày...Nhìn thấy sư phụ xuống nước không còn dở giọng dạy đời nữa, ông ta nói tiếp: Tôi có niềm tin của tôi, và tôi làm vì điều đó. Mất hay còn không quan trọng, vì tôi hiểu rằng, con người tôi thích hợp với những điều đó. Tôi cũng chẳng cần biết tôi là ai, với những cái lãi nhãi của ngài thường nói: Tôi lấp tất cả thời gian mơ mộng, đau khổ, hay tươi vui, hạnh phúc của tôi, bằng niềm đam mê của tôi. Tôi biết trái tim tôi không lớn bằng trái tim ngài, nhưng đầu óc tôi biết suy nghĩ cho lẽ phải, cho lợi ích của nhân dân…Cái mà ngài luôn lấy tình yêu ra mà nói đó. Ngài không làm gì cả. Mà ngài cứ ngồi đó mà nói hoài về tình thương yêu thì làm được gì? Người ta nghe xong có được no cơm ấm áo không? Hay chỉ vào nhà thờ để cuối cùng phải nghe rằng “đó là lời chúa”? Ông ta nói tiếp: Tôi nói thật, xin ngài đừng buồn! Đối với tôi, tôn giáo chỉ là tiếng thở dài của nhân gian, người ta cùng đường rồi mới chạy đi cầu cứu chúa. Vậy tại sao không dùng trí tuệ sắc bén của mình, để giải quyết tất cả khó khăn đi? Chúa đứng đó có động đậy gì được đâu? Hay chúa là những tin đồn truyền đi theo sấm chớp của thời gian… dần dần nó kết tụ thành đức tin, thành một biểu tượng, khó phai mờ trong tâm hồn của con người. Tôi nghĩ, mơ mộng và suy nghĩ vu vơ, cũng phải có giới hạn, vì cuộc sống ngắn ngũi lắm không chờ đợi ai cả. Tôi là con người hành động. Suy nghĩ của tôi cũng là những suy nghĩ hành động. Tôi rất ghét những suy nghĩ xa vời không thực tế. Vì nó là con đường thăm thẳm mịt mờ, mà khi người ta đi lạc vào đó rồi, thì trở nên vô dụng mà thôi. Tuy nhiên với sự cảm nhận sâu sắc của tôi về ngài. Tôi xin nói rằng: Tôi rất quý trọng ngài…
Ông ta nói xong thì sư phụ thẫn thờ ngôi im lặng không nói gì nữa…
47. Hôm nay dưới bến sông rộn rã hơn thường ngày. Ông sứ thần của đức vua, đi nhận chuyễn giao thuyền bè, từ tay ông lão Công Phu Tào Ngưu. Sư phụ đi ra bến sông thẩn thờ như một chiếc bóng. Người nghĩ rằng. Có lẽ ông quan đại thần kia cả nể không nói, đó là vì sự tôn trọng, chứ không phải ông ta không biết gì. Nếu ông ta không biết gì, thì tại sao đức vua tin cậy và trao chức thừa tướng cho ông ta. Ông ta nói đúng lắm. Sự việc để suy nghĩ ở trên đời là vô hạn. Nhưng sự việc cần giải quyết, thì nó cứ nối đuôi nhau đi tới không ngừng. Vậy nên, con người hiểu biết, là phải dùng nó để giải quyết công việc. Chứ không phải để nói huyên thuyên làm trang sức cho mình. Cái gì cần thiết thì mới nói. Cái gì nói nghe hay ho êm tai mà vô ích, thì thôi. Cái đó không nói ra thì tốt hơn. Vì khi bạn nói ra điều đó, là chỉ làm rối thêm lên. Mãi suy nghĩ, nên sư phụ không biết rằng mình đã ngồi lên thuyền rồi. Bổng nhiên, ông lão tộc trưởng của bộ lạc đầm lầy, cất tiếng nói một tràng: Tabalahamachacha, tahabaccaralama, hahamamabala, maombalaom, umkatakyty, limikhalaba, ubankhatami, sumikalrama..vv và vv. Vậy là cả đám người thổ dân kia, cùng cười nói rộ lên một lượt thật là vui…Nói xong, bọn họ vừa chèo thuyền vừa hát rất nhịp nhàng. Đám học trò của sư phụ mới đầu ngồi im, không dám nhúc nhích. Vì xung  quanh toàn là bọn người thổ dân, đóng khố vằn vện thấy mà ghê. Nhưng thấy những con người kinh dị này, cũng cười nói ca hát rôm rả, thì bọn trẻ cũng cười và hát theo. Nghe vậy ,Đại Hương bèn lấy thanh gươm gõ vào mạn thuyền và cùng hát...A a a, bà bô đi xa..a a a.Ái chà chà chòm lá lá lá…A a a Ta đi bao la a a a..khà khà..cha cha cha! Tiếng hát rập rờn xuôi về hạ nguồn, thuyền đi nước đẩy tiếng hát xuôi dòng. Thế là đã ba ngày, đoàn thuyền ra đi quanh co trong rừng núi. Sáng nay thuyền đã ra tới một con sông lớn. Đó là con sông hợp lưu bởi nhiều con sông, trên vùng núi chảy về. Nước sông lớn cuộn chảy ầm ầm sủi bọt trắng xóa. Nó có màu đỏ bởi phù sa, chứ không còn trong veo như khi còn ở trên núi. Bổng ông lão tộc trưởng, ra hiệu cho thuyền chạy quanh vô một vùng ao đầm cỏ cây cao vút. Thuyền đi vượt lên lau sậy mà đi, cỏ cây mọc nhiều quá lấp mất tầm mắt rồi. Đoàn thuyền chạy quanh co trong đám lau sậy đó nữa ngày, thì mới tới nơi. Sư phụ nói: Các con có nhớ đường ra không? Đại Hương lắc đầu. Tiểu Hoa và Bạch ngọc đều ngơ ngác chẳng biết mình đi đâu. Thiên Hùng nói: Tụi nó mà muốn nhốt mình ở đây luôn, thì phải chịu thôi. Ông sứ thần nghĩ bụng: “Cái lão quan đại thần Xích Vân Tử kia thật thông minh. Ông ta chẳng tin vào cái đám thổ dân này thật đúng quá. Vô đây rồi không làm mồi cho cá sấu, thì cũng bị treo trên cây như những cái xác chết kia mà thôi”. Ở đây toàn nước là nước, và cây cỏ um tùm rạm rạp, nên mọi người đều phó thác số phận mình cho những tên thổ dân đang hú hét om sòm kia.
Bữa ăn đầu tiên trong đầm lầy, là thịt chim nướng và cá nướng, gói trong một mớ lá xanh chua lè. Tiểu Hoa và Bạch Ngọc không ăn được, nên nhăn mặt. Thấy vậy lão tộc trưởng mới lấy mấy củ rừng luộc, ra đưa cho ăn. Mọi người ăn trong im lặng, và lắng nghe tiếng cá thở dưới nước, tiếng những con rắn to kêu khò khè đâu đây. Chim chóc thì về đầy trên đầu. Bây giờ thuyền đã ở rất xa nhà của tộc trưởng. Nên muốn trốn đi thì cũng không tiện đâu.
Nhà của tộc trưởng là cái chòi lá to làm trên cây. Xa xa trong các lùm cây khác, cũng có những cái tổ như thế, nhưng nhỏ hơn một chút, Bọn thổ dân cũng sinh con đẻ cái đầy đàn, chúng chỉ ở trên thuyền hoặc ở trên cây mà thôi. Những đứa trẻ như những con thú trần truồng đen đũi. Thuyền của chúng là những khúc cây, được đẽo rỗng ruột, chỉ chở được hai ba người. Chúng chèo thuyền đi vun vút qua lại trong các lùm cây, và đem về cho tộc trưởng những con thú vừa bị giết. Thế là tộc trưởng treo đầy trong “nhà” mặc cho nó khô héo, hay là sình trương lên. Mấy ngày ngồi trong nhà tộc trưởng, mà bọn trẻ lúc nào cũng bịt mũi, vì cái mùi hôi thối được treo trên tường kia. Sư phụ nói: Ráng đi các con, trãi nghiệm đầm lầy là một điều tốt. Cái thiếu của xã hội văn minh chính là nơi này đây. Vì đây chẳng khác nào “khu du lịch sinh thái”mà. Ông sứ thần nói: Ôi đầm lầy, là cái chốn quanh quẫn tối ngày mù mịt với sình lầy, và cây cỏ. Ở đây mà mưa xuống một cái, thì chả biết làm sao. Đầm lầy là nơi chôn chân một chổ mãi, mà chẳng biết đường nào ra. Tôi chả hiểu làm sao mà đám người này, lại mời chúng ta đến đây nhỉ? Sư phụ nói: Ở đây thú vị đó chứ. Vì mắc kẹt ở đây, nên tinh thần con người sẽ phải mạnh hơn mà sống. Sẽ phải đề kháng được các hiểm nguy, có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì quanh quẫn nơi này mãi, mà con người ta phải thích nghi, vì bản năng sinh tồn mà. Vì ta ở chổ khác tới, nên chúng ta mới nghe nó hôi thối. Chứ họ ở đây lâu ngày quen rồi, nên mới cho là thơm. Mùi cá nướng tanh tưởi thế kia, mà họ khen ngon, và mời chúng ta ăn món đặc sản đó. Cái đó là lòng tốt của họ, chúng ta cần ghi nhận. Này các con, nên nhớ ghi nhận tấm lòng đơn sơ của họ, quý như là tình người. Các con đừng nhìn mà phân biệt, cái bên ngoài khác nhau, mà phụ tấm lòng tốt của họ. Các con có thấy không? Họ chọn những con cá ngon nhất, cho chúng ta ăn. Họ nướng những con rắn to nhất, mời chúng ta. Họ cứ nghĩ ta như họ thôi. Họ nghĩ đơn giản như vậy, mới nhìn qua thì tưởng là khờ khạo, nhưng khi nhìn sâu hơn, thì mới thấy họ thật thông thái khác thường! Cái đó là tình cảm của con người. Ở đâu nó cũng như nhau hết. Và điều này thì con người văn minh chưa chắc đã hiểu được đâu...
48. Ban đêm trong đầm lầy thật kinh khủng, bốn bề chập chùng toàn là bóng đêm đậm đặc. Hình như ông trời đã đem hết bóng tối dồn vào đây vậy. Vì đâu đâu cũng được phủ đầy, bởi một màu đen như mực. Mọi người ngồi kề bên nhau, mà chẳng thấy được nhau. Ở trong cái màn đêm ấy, đâu đó nhấp nháy lên những đôi mắt của những con thú rừng sáng như sao. Và cả trên cao, trong các chòi tranh, cũng có những đốm sáng như thế, hoặc là những đốm lửa đỏ. Những người đàn ông ở đây, ngồi im lặng hút thuốc trong đêm. Ngoài trời thì lúc nào cũng vang vọng lại tiếng sấm sét, và tiếng vỗ cánh của bầy chim đêm bay về như đi trẩy hội.
Người chết trong cái bộ lạc đầm lầy này, thường được điểu táng. Họ sống trên cây rồi cũng chết trên cây. Khi có người trong bộ tộc qua đời, người ta liền đem xác chết treo lên cây, ở một khu riêng biệt. Vậy là mỗi cái chết của con người, là một bữa tiệc của lũ chim rừng. Chúng bay về đây từng đàn tranh nhau ăn xác chết. Chúng xé rách màn đêm bằng những tiếng kêu tan nát cỏi lòng, của những người đang sống. Chúng làm rơi vãi những miếng thịt vụn khắp nơi. Thật là kinh hoàng làm sao, cái đời sống hoang dã ở đây. Thật sự con người đã tan vào thiên nhiên, như những giọt mưa rơi vào biển cả. Họ chính là một phần của thiên nhiên mà. Lão tộc trưởng lúc nào cũng hút thuốc, và lâu lâu lại cất lên một tràng thổ ngữ, nghe như tiếng thú hoang kêu gào. Lão ra dấu cho mọi người yên tâm, rồi lão nhảy xuống một chiếc thuyền độc mộc và chèo đi biệt tăm.
Sư phụ là người duy nhất còn giữ được bình tỉnh. Vì bọn trẻ và ông sứ thần thì đã hoang man lắm rồi. Tiểu Hoa nói: Nếu sư phụ không sớm quay về, thì chúng ta sẽ nhiễm bệnh mà chết thôi, vì ở đây mất vệ sinh quá. Bọn họ đã được đề kháng với bệnh tật từ nhỏ. Nếu đứa nào không chịu nổi, là chết từ lâu rồi. Còn mấy đứa còn sống đến bây giờ, thì cứ sống như cây cỏ vậy thôi. Ông sứ thần nói: Những thói quen man rợ này, mà người ta còn nói là văn hóa cần phải gìn giữ. Tôi không hề đồng tình với những ý kiến đó đâu. Tôi nghĩ, nhà nước nên cho người đến đây khai hóa cho họ, hay cứ để họ sống biệt lập ở đây luôn đi. Chỉ có hai cách đó thôi, chứ làm gì cũng khó thay đổi được những bộ óc sình lầy này lắm. Sư phụ nói: Cái gì cũng có thời gian. Có thể chúng ta nói bọn họ không nghe đâu, nhưng chính những người trong bộ tộc của họ, về nói lại dần dần họ sẽ nghe, tôi tin rằng sẽ cải hóa được họ.
Sư phụ nói tiếp: Thật ra con người văn minh của chúng ta, xưa kia cũng đi lên từ cái vũng lầy này đây. Từ xa xưa, khi xã hội con người bắt đầu hình thành, thì trong nhân gian đã có những đám mây mờ thoáng qua đầu óc con người...Đó là những con người mà chúng ta đang nhìn thấy đây. Họ tư duy sơ khai như một giấc mơ luẩn quẫn trong đầu, và cùng tồn tại với thiên nhiên...Vì họ tồn tại, và đi theo sự dẫn dắt của linh tính, nhiều hơn là ý thức...Từ đó dần về sau, mới phát sinh cái gọi là các triết thuyết tâm linh. Là những cái mơ mộng sẽ được thần linh luôn bên họ, bảo vệ và dẫn dắt họ đi ra khỏi hiểm nguy và đau khổ. Những tộc trưởng, và sau này thành lập vương quốc riêng, đều lãnh đạo mọi người theo kinh nghiệm sống của bản thân, chứ chưa hề theo một lý tưởng gì cả..Vì thế, thời sơ khai thường có hàng ngàn vương quốc nhỏ bé tồn tại trên một lãnh thổ...Và cho đến khi con người thực sự đã làm được, hoặc cải tạo được các triết thuyết tâm linh, trở thành triết học đời sống, để cải tạo đời sống. Thì các hoàng đế hung bạo, mới thống nhất thiên hạ, và lập ra các thể chế nhà nước. Cái thể chế nhà nước đó, chỉ có lợi cho giai cấp thống trị mà thôi. Vậy là các nhà cải cách xã hội sau này, luôn muốn xã hội công bằng văn minh. Họ luôn cố gắng làm sao, cứu lấy số đông con người bị thiệt thòi đó. Họ đã nóng vội và làm theo cách, mà con người áp đặt lên lẽ vận hành của tự nhiên. Từ đó xã hội luôn xáo trộn và mất cân bằng, cho đến ngày nay vẫn chưa chấm dứt...
Sư phụ nói tới đây, thì thấy ông tộc trưởng quay về với mấy người nữa. Ông ta leo lên căn nhà của mình và ra dấu cho mọi người hiểu rằng, bộ tộc của ông ta sẽ phải dời đi nơi khác.
Đào hoa thôn
49. Ông quan đại thần Xích Vân Tử, xây dựng ngôi làng đến nay cơ bản đã xong. Trong làng đã có điện thắp sáng khắp nơi. Đó là nhờ vào cái đập thủy điện trên dòng sông bao quanh làng. Những ngôi nhà khang trang chạy dài tít tắp. Trường học và nhà trẻ cũng đã có. Các cửa hàng chất đầy rau quả, và thức ăn từ miền xuôi chở lên. Có cả một cái chợ to nữa. Khu trung tâm hành chính của ngôi làng, là ở chỗ cái nhà thờ màu hồng. Cha xứ phấn khởi lắm cứ đọc kinh suốt ngày. Con chiên bây giờ cũng rất đông, họ đến đây vào mỗi sáng chủ nhật để gặp chúa, và cũng để gặp nhau luôn.
Lúc này, người ta bầu ông Công Phu Tào Ngưu làm trưởng làng, và dĩ nhiên vẫn phải dưới quyền của ngài quan đại thần rồi. Ngài trưởng làng Công Phu Tào Ngưu này, suốt ngày mê mẫn với ngôi làng mới của mình. Vì mỗi ngày, đời sống của người dân nơi đây, đã được nâng cao rất rõ. Ông ta chạy đi lo việc làng như con thoi, mà trên gương mặt lúc nào cũng nở nụ cười tươi thắm. Ông ta nói với ngài quan đại thần: Chúng ta phải mở rộng ngôi làng này lên gấp mấy lần nữa. Phía đông kéo dài đi lên tới thượng nguồn dòng sông. Và bắt mấy cây cầu treo ở đó. Phía nam thì mở rộng ra khắp vùng núi đồi trung du này. Chúng ta sẽ sáp nhập những người dân địa phương ở đây vào luôn. Chúng ta sẽ cho họ có được chế độ chính sách như mọi người, để cùng nhau phát triển. Và chúng ta cũng sẽ khuyến khích, những người dân ở miền xuôi lên đây lập nghiệp. Tôi thấy vùng đất này khí hậu ôn hòa, nên rất phù hợp để trồng hoa. Vậy chúng ta sẽ biến ngôi làng này thành một vườn hoa đẹp nhé! Ông quan đại thần Xích Vân Tử nói: Ý đó rất hay, nhưng ngài tính trồng hoa gì? Theo tôi nghĩ, trồng hoa thì trồng hoa, nhưng phải có một loại hoa chủ đạo chứ. Như vậy mới có cái đặc trưng của mình, nếu sau này phát triển lên thành thương hiệu, thì có cái mà nói. Cái đó nó sẽ ghi dấu ấn trong lòng người, khi đã đặt chân tới đây. Vậy là ông lão Công Phu Tào Ngưu mới vỗ tay cái bốp mà rằng: Ngài nói đúng lắm! Đúng lắm!  Đúng là ngài nhìn xa trông rộng hơn tôi. Tôi nghĩ, vậy thì mình nên trồng hoa đào. Hoa đào sẽ nở đỏ thắm, khắp đường thôn ngõ xóm trong  ngôi làng của chúng ta! Hoa đào là biểu tượng của mùa xuân ấm áp, của lòng người hân hoan sum vầy bên nhau. Như thế là sự sống tốt đẹp, sẽ sinh sôi nẩy nở trên vùng đất này rồi.. Ông quan đại thần nói: Vậy thì ta sẽ đặt cho ngôi làng này một cái tên. Tên của nó là, Đào Hoa Thôn! Ông nghĩ sao? Ông lão Công Phu Tào Ngưu nghe vậy, thì gật đầu lia lịa. Ông ta nói: Hay lắm! Đào Hoa Thôn!…Đào Hoa Thôn là một ngôi làng thanh bình nở đầy hoa đào. Nó sẽ xóa nhòa hết, cái ký ức chiến tranh hãi hùng ngày xưa. Nó sẽ mở ra một cách làm mới, kết hợp giữa kinh tế, văn hóa và du lịch. Thôi Xin ngài bảo trọng! Còn tôi phải lo đi trồng hoa đào đây.
Vậy là ngài trưởng làng Công Phu Tào Ngưu, chạy đi lo trồng hoa đào. Mọi người  nghe trưởng làng phổ biến kế hoạch trồng hoa đào khắp nơi, thì vui mừng lắm. Không chờ ngài trưởng làng phải hối thúc. Họ chia nhau về xuôi tìm giống hoa đào. Từng ngày, từng ngày, từng đoàn xe chở cây đào giống về đây tấp nập. Người ta bắt đầu trồng hoa đào khắp nơi. Từ trong nhà thờ ra tới chợ, từ nhà trẻ đến sân trường học, đều được trồng đầy hoa đào, Người ta trồng hoa đào, suốt hai bên đường đi ra tận bờ sông. Những cây cầu, cũng ẩn mình dưới những tán hoa đào tươi tốt. Thế là hình ảnh của một Đào Hoa Thôn xinh đẹp, ngày càng rõ nét hơn.
Lúc này, con rồng Thiết Long mới rời khỏi những người bạn của mình, để ngắm hoa đào nở. Nó nói với mấy con chim hồng hoàng, bồ câu và quạ đen, se sẻ và họa mi. Chúng ta phải cùng chung tay giúp đở mọi người nhé! Chúng ta ở đây chung một nhà mà! Con chim bồ câu trả lời! Đúng vậy! Muôn thú đã tụ hội về đây rồi, Các bạn cứ đi kêu mấy bạn sói, gấu, beo, cọp, chồn cáo, hưu nai làm gì thì làm đi! Còn tôi sẽ bay vô rừng gặp lão sư tử, và ông voi, rủ bọn họ về đây luôn. Mọi người ở đây không có giăng bẩy để hại chúng ta, như bọn thổ dân độc ác kia đâu. Vậy là con chim bồ câu bay vô trong rừng sâu.
Bọn gấu beo, chồn cáo hưu nai, nghe con rồng Thiết Long rủ đi giúp con người, thì thích lắm. Con nai nói: Lúc trước tôi ở trong rừng, có làm hại ai đâu, mà suốt ngày bị người ta săn bắn, phải chạy trốn khắp nơi. Bây giờ về đây, sống chung với con người thật là vui. Con cọp nói: Ta là cọp suốt ngày ở trong hang, với những toan tính đen tối, hôm nay về đây với các bạn như được đổi đời. Ngọn gió đổi mới đã mở rộng lòng ta ra. Ta sẽ không ức hiếp các bạn nữa đâu. Nghe thế, con bạch mã có cánh mới cất tiếng hát: Là lá la..Chúng ta là những con thú rừng rất ngoan..là lá la chúng ta cùng sống bên nhau mãi mãi..là lá la…Thế là bọn chồn cáo, khỉ vượn hưu nai, liền kêu lên chí chóe, vì chúng quá hưng phấn. Con rồng Thiết Long nói: Này các bạn, mỗi người mỗi việc hãy đi làm đi. Các bạn chim, thì bay đi bắt sâu trên các cành lá của cây đào. Các bạn khỉ, thì đi vào rừng, bẻ cành cây khô về đây làm hàng rào, Hưu nai, thì đi trồng cỏ xanh, hai bên đường nhé! Bạn cọp và bác gấu, thì làm bảo vệ canh giữ vườn đào. Còn tôi sẽ bay đi hút nước dưới sông lên, để tưới cho những cây hoa đào tươi thắm này. 
Thế là các con vật cùng nhau làm việc, trong một tình yêu thương thật ấm áp nồng nàn. Lũ chim trời tung cánh bay đi khắp nơi để báo tin mừng, vì đã có một Đào Hoa Thôn tươi đẹp nhất trần gian đã xuất hiện…
Trong khi đó thì lão sư tử và bầy voi, đang nhằm hướng Đào Hoa Thôn mà tiến tới…
50. Ông lão tộc trưởng, đưa sư phụ và mọi người ra nơi con sông lớn. Lão ta cầm cái tẩu thuốc chỉ trỏ gì đó, ra dấu cho sư phụ biết đường mà về nhà…Rồi lão ta chỉ lên trời mấy cái, rồi lại chỉ xuống đất mấy cái. Xong lão ta ra dấu cho mọi người biết rằng, lão ta sẽ phải đưa bộ tộc của mình đi tới một cái đầm lầy khác.
Vậy là sư phụ cùng ông sứ thần, và đám học trò của mình trở về. Ông sứ thần nói; Thật là một giấc mơ hãi hùng. Ôi cái đầm lầy kia, mà vẫn có những con người còn sống sót trong đó. Lạy chúa! Có phải chăng thần linh đã bảo vệ họ, hay họ cũng chính là thần linh. Họ đi về đâu, nơi suối nguồn đều đổ vào đầm lầy, và có phải chăng, nơi tận cùng của các dòng sông, là quê nhà của chúng ta chăng? Sư phụ nói: Ông nói đúng lắm! Nơi tận cùng của các dòng sông, là quê nhà của chúng ta đó. Dù quê nhà ấy có là đầm lầy hôi thối rách nát thế nào, thì đó cũng là quê nhà yêu dấu của ta. Dù quê nhà đó là biển lớn dạt dào, thì đó cũng là quê nhà của ta. Chúng ta đã sinh ra nơi đó, và cũng lớn lên từ nơi đó, để rồi chúng ta ra đi khắp bốn phương trời. Chúng ta ra đi, để ghi dấu về một tình yêu cháy bỏng trên tay. Cái đó là ánh lửa, để chúng ta tìm đường về quê nhà. Đó là cái nơi duy nhất, mà chúng ta cần phải đến trong cuộc đời này…
Sư phụ nói tới đây, thì đoàn thuyền cũng sắp sửa đến nơi. Bổng nhiên mọi người nghe tiếng ầm ầm như động rừng. Thì ra là một đàn voi rừng chạy ra bờ sông uống nước. Chúng kêu ré lên gọi nhau đi. Con voi chúa bắt đầu vượt sông. Nó rống lên thật to làm vang động núi rừng. Đàn voi nhỏ cứ nối theo cái đuôi nó mà đi. Thấy vậy, sư phụ sợ bị lật thuyền, nên bảo mọi người gấp gấp lên bờ. Mọi người lên bờ xong, thì thấy một con sư tử đang đứng đợi. Thấy vậy Đại Lực mới nói: Nguy hiểm quá sư phụ ơi! Hay để con lấy cung tên ra bắn chết nó nha? Sư phụ nói: Không sao! Hãy quan sát thêm cái đã…
Thật ra con sư tử này đang đợi đàn voi qua sông, chứ nó chẳng phải đang rình mồi. Sư phụ nhìn sâu vào mắt nó, thì đã biết được như vậy. Lúc này, đàn voi cũng đã vượt sông xong rồi. Thế là con sư tử nhảy phóc lên lưng con voi chúa, và chúng nó tiếp tục đi. Bọn trẻ thấy cái cảnh đó thì tỏ ra thích thú quá. Tiểu Hoa nói: Ồ các con vật này thật là dễ thương! Và tại sao chúng lại thân thiện với nhau thế? Ha ha! Anh Đại Hương ơi! Chúng nó đang đi đâu kìa? Đại Lực nói: Vậy mà anh cứ sợ chúng nó làm hại chúng ta chứ. Em nhìn kìa. Chúng nó cứ đi, chứ đâu có làm gì chúng ta đâu. Thiên Hùng nói: Sư phụ ơi! Chúng ta đi theo bầy voi này xem sao? Sư phụ đáp: Ồ, đi thì đi, rồi sư phụ cất tiếng hát: Voi ơi voi! Mi đi đâu. Mi từ rừng sâu về đây. Về đây sống yên vui thanh bình. Về đây voi ơi!...Nghe thế, bọn trẻ cũng bật cười lên ha hả. Lần đầu tiên chúng nghe thấy sư phụ hát. Ôi cái con người với cái đầu thênh thang, và chòm râu bạc trắng kia. Bửa nay lại cất tiếng hát đón chào một bầy voi…
Thế là đoàn người đi theo bầy voi tới một cái cổng lớn, đề ba chử Đào Hoa Thôn. Sư phụ và mọi người ngỡ ngàng, như đi lạc vào một chổ khác, chứ không phải là đang trở về ngôi làng hôm nào. Nhưng mọi người cứ đi theo bầy voi xem sao. Cứ thế, bầy voi đi thẳng vô trong ngôi làng hoa đào luôn. Bầy voi và con sư tử cứ đi thẳng tới trung tâm của ngôi làng. Thế là chúng nó tới trước cái nhà thờ màu hồng. Con voi chúa đi đầu, bổng khụy hai chân sau xuống, rồi thì cả đàn voi làm theo. Con sư tử thì nhảy xuống đi tìm con cọp. Bọn chồn cáo hưu nai, chạy ra đông nghẹt. Trên trời, thì lũ chim rừng cũng về đầy đất. Bầy bồ câu ríu rít hát ca vang lừng..là lá la…là lá la gì đó. Lúc đó cư dân trong làng thấy sư phụ đã về, liền chạy ra chào đón. Ông lão Công Phu Tào Ngưu nói: Dân làng đã bầu tôi làm trưởng thôn rồi. Tôi và ngài quan đại thần đã cho trồng hoa đào khắp nơi trong thôn. Và đổi tên làng ta là Đào Hoa Thôn.
Lúc này con rồng Thiết Long đã được mọi loài vật bầu lên làm thủ lĩnh. Nên nó nói: Tất cả con người và muôn thú từ nay sẽ không còn phân biệt nữa, mà chúng ta sẽ cùng sống chung trong ngôi làng xinh đẹp này. Tôi sẽ lãnh đạo loài vật sống trong làng, hay trên đồng cỏ, hoặc ở trong rừng. Chúng tôi sẽ vào đây phụ giúp con người, xây dựng Đào Hoa Thôn, ngày càng tươi đẹp hơn. Song chúng tôi quay quần ở đây hôm nay, là để vui chơi thỏa thích nha! Nói xong, nó giơ tay ra hiệu. Nào chúng ta cùng hát lên nào. Tức thì tất cả các con vật đều cất tiếng hát vang. Và lạ thay, các cây đào trong làng liền nở hoa một lượt…Cả không gian bổng rực lên một màu đỏ thắm thiết. Vì bây giờ đã là mùa xuân rồi! Tiểu Hoa và Bạch Ngọc mừng vui khôn xiết. Đại Hương, Thiên Hùng và Đại Lực, cùng hai bạn gái liền nắm tay các con vật, quay thành một vòng lớn, vừa nhảy vừa ca hát\say sưa…
Ông quan đại thần Xích Vân Tử tưởng như mình đang mơ, hay đang xem một bộ phim về thế giới động vật. Ông ta liền dụi mắt mấy lần, nhưng có phải mơ đâu. Ông ta nói: Mục tiêu đấu tranh của tôi là con người, chứ có phải cho loài vật đâu. Tôi đi theo mấy người riết, chắc là tôi điên lên mất. Không được. Đào Hoa Thôn này là một vườn hoa tươi thắm, chứ có phải là cái sở thú đâu? Con người không thể nào sống chung với loài vật được, cho dù đây là một địa đàng có thật đi nữa, thì tôi cũng phản đối. Các ông nhìn kìa? Loài hổ báo kia, ai biết được khi nào chúng sẽ ăn thịt chúng ta? Sao các ông lại để cho chúng hiên ngang đi lại trong thôn. Nói đoạn, ông ta ngoắc ông trưởng thôn Công Phu Tào Ngưu lại nói: Ông hãy đuổi hết lũ thú vật kia ra khỏi làng đi. Nghe vậy sư phụ mới nói: Khoang đã, sở dĩ những con vật này sống được, ở đây là do con rồng Thiết Long đã thuần hóa chúng rồi. Điều đó cũng giống như con người chúng ta thôi. Ngày xưa con người chúng ta cũng chỉ là loài vượn. Tổ tiên chúng ta cũng ở trong hang đá, cũng gào thét như chúng bây giờ. Trãi qua một thời gian dài, thì chúng ta mới trở thành con người, như ngày hôm nay. Sở dĩ đám thú hoang này thay đổi nhanh chóng như vậy, là nhờ phép thuật của con rồng Thiết Long đó. Ngài hãy hiểu rõ căn do ngọn ngành, rồi mới phán xét chúng.
Ông quan đại thần nói: Vậy là sao? Ý ngài nói là chúng ta cùng sống chung với loài vật à? Làm sao có điều đó được. Nói gì nói, tôi cũng không thông suốt được điều đó đâu. Nghe vậy, sư phụ thở dài và nói: Bây giờ, phải làm sao giải quyết vụ này, với ông quan đại thần bảo thủ này đây. Thôi được. Ngài trưởng thôn Công Phu Tào Ngưu, hãy nói với con rồng Thiết Long rằng: Hãy đem trả bọn chúng về lại với đời sống hoang dã của chúng trước kia đi. Rừng núi thiên nhiên là ngôi nhà của chúng. Hãy để chúng trở về nhà của mình mà sống, đừng bắt ép chúng nó phải thay đổi. Điều đó cũng chưa hẳn là tốt đâu.
51. Đêm nay Đào Hoa Thôn đèn đuốc sáng bừng. Ông lão trưởng thôn Công Phu Tào Ngưu ăn diện thật đẹp. Ông ta đi tới đi lui trong nhà, vung vẫy hai ống tay áo rộng thùng thình. Sư phụ cũng được mời đến. Ông quan đại thần thì khỏi phải nói. Vì ông đó là niềm tự hào, của cái thôn đào hoa này mà! Đêm nay, là tết nguyên tiêu, trăng sáng tỏ rạng ngời. Người ta treo đèn lồng khắp nơi trong thôn. Nhà nào cũng treo đèn kết hoa thật đẹp. Đêm hội chính thức được tổ chức tại nhà trưởng thôn. Người dân trong thôn, nô nức đi xem hội đông ơi là đông. Tiểu Hoa, Bạch Ngọc và mấy cậu bạn trai, cũng được mời đến. Bọn trẻ được phép ngồi kế bên sư phụ. Nhưng lạ kỳ thay? Tiểu Hoa không hề thấy các con vật thân yêu đâu nữa? Tiểu Hoa định hỏi sư phụ, nhưng người chỉ ra dấu im lặng.
Vậy là từng đoàn người đi vào nhà trưởng thôn. Đó là những chàng trai cô gái tươi tắn, xinh xắn trong những chiếc áo mới. Họ cầm những chiếc đèn lồng trên tay, vừa múa vừa hát..“Mùa xuân sang có hoa anh đào…Lòng ta luôn nhớ thương ngày xưa”. Hết bài này đến bài kia. Ngoài vườn hoa đào nở dưới trăng. Gió mát thổi bốn bề. Trong nhà mọi người say mê ca hát, và uống rượu. Ông quan đại thần Xích Vân Tử nói: Tôi muốn xây dựng Đào Hoa Thôn, trở thành một vùng kinh tế trọng điểm, kết hợp kinh tế văn hóa và du lịch. Vậy các ông thấy thế nào, thì góp ý cho tôi. Bây giờ mình thoải mái bàn luận, thời gian thông thả mà. Mình nói hết, từ thế giới cho đến cái thôn đào hoa bé nhỏ này luôn. Nghe vậy, ông trưởng thôn Công Phu Tào Ngưu nói: Tôi thấy về phát triển kinh tế, thì cứ căn bản trên cái nền đang xây dựng đây mà tiến tới, chúng ta đã mở rộng cây trồng nông nghiệp, và bây giờ thì tiếp tục khai thác khoáng sản. Đặc biệt chúng ta cũng cần phát triển cây trồng công nghiệp, trên vùng núi như cây ăn trái, chè và cà phê. Chúng ta phải có hệ thống tưới tiêu vv và vv. Nhưng hôm qua có một số đông người ở dưới miền xuôi lên. Họ đề nghị xây dựng thêm một ngôi chùa ở đây. Điều này thì tôi xin hỏi thêm ý kiến của quý vị. Ông quan đại thần nghe vậy, thì đưa mắt nhìn sư phụ, nhưng sư phụ không nói gì, mà chỉ gật đầu. Ông ta nói: Xây chùa là chăm sóc phần tinh thần cho người dân. Nếu người dân thấy cần, thì chúng ta sẽ làm theo ý họ thôi. Việc đó không có gì khó, chúng ta hãy vào một ngọn núi gần đây, xây một ngôi chùa thì được rồi. Nhưng vấn đề tôi đang lo lắng đây, là sự hội nhập kinh tế. Hàng hóa nước ngoài tràn vào, có bóp nghẹt sự phát triển của chúng ta không nè?  Sư phụ nói: Khi vật chất lưu chuyễn trong cộng đồng, và ở một giá trị cao. Thì nó đã bắt đầu hình thành suy nghĩ, và con người phải đi theo cái dòng suy nghĩ ấy. Điều đó có nghĩa là: Thời đại hội nhập hôm nay xảy ra, là do sự ứ đọng vật chất, hàng hóa, và tiền bạc ở chổ này quá lớn, nên nó phải cần chảy về những nơi thiếu thốn hơn. Điều này là do nhu cầu phát triển khách quan mà ra. Chứ không phải do con người muốn. Nó tất yếu phải xẩy ra, do đòi hỏi của nhu cầu thời đại này. Đó gọi là, con người phải đi theo vật chất là vậy. Các nước lớn, các nước giàu có, sẽ đầu tư vào các nước nghèo. Rồi hệ thống kinh doanh cũng đi theo. Thế là hàng hóa từ bên ngoài tràn vào đây ào ạt. Bởi thế, cái gì cũng phải nắm theo quy luật vận động kinh tế mà làm, chứ không phải kêu gọi tinh thần truyền thống dân tộc mà được đâu. Cái đó là cái chống đở tạm thời thôi. Nó sẽ không đủ sức ngăn chặn, sự thắng thế của hàng hóa nước ngoài tràn vào đây đâu…
Nghe thế, ông quan đại thần giật mình nói: Vậy là, chúng ta sẽ trở thành cái thị trường béo bở tiêu thụ hàng hóa của họ sao? Sư phụ nói: Đúng vậy! Vì khi vật chất đi trước, thì tiếng nói của nó cũng theo sau. Có nghĩa là, hệ thống thông tin truyền thông, quảng cáo sản phẩm hàng hóa đó, bắt đầu lên tiếng. Nó tạo ra một nếp nghĩ mới trong việc hưởng thụ vật chất, để trở thành những con người sành điệu, là con người văn minh đó. Cái đó lâu dần nó trở thành cái văn hóa tiêu dùng trong dân chúng, như những thói quen tiêu sài của những con người mới. Cái đó cũng chính là phong cách của con người văn minh. Và cái đó, nó thực tế hơn là những câu chuyện cổ tích, trong cái văn hóa truyền thống của chúng ta.
Nghe tới đây, thì ông quan đại thần trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu mà rằng: Vậy thì, chúng ta phải cạnh tranh nâng cao chất lượng sản phẩm của mình thôi. Càng cạnh tranh, thì sản phẩm mỗi ngày sẽ được tốt hơn. Như vậy, dân chúng được hưởng lợi nhiều nhất, chứ còn ai ra. Quyết sách kinh tế hàng đầu của chúng ta là, phải phát triển bền vững. Mọi vấn đề phát triển kinh tế, đều phải xoay quanh cái này, có đúng không? Sư phụ nói: Đúng lắm! Khi nền kinh tế trong nước phát triển, là nó phụ thuộc vào tình hình kinh tế thế giới là nhiều nhất. Nhưng nếu chúng ta không phát triển bền vững  được, thì trong nước sẽ bị phân hóa, ra nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Cái này, nó trì kéo cái kia đi xuống, rồi đến lúc, có thể xẩy ra rối loạn luôn. Vì đa số người nghèo ở nông thôn, đổ dồn về thành phố kiếm ăn. Họ sẽ trở thành cái gánh nặng của xã hội. Vậy là các thành phố năng động nhất, cũng phải gánh chịu những gánh nặng đó. Những người bị gạt ra bên lề của sự phát triển ngày càng đông. Nó tạo thành cái áp lực, cho các thành phố lớn. Nếu chúng ta không ra tay sớm, khi mà nó chưa tạo ra một gánh nặng, chưa tạo ra một áp lực lớn. Thì dĩ nhiên nền kinh tế của chúng ta sẽ phát triển bền vững, mà không bị tắc trách, rồi rơi vào hỗn loạn không có lối thoát. Sư phụ tiếp: Cái đó, là tôi nói cái cách, chúng ta ứng phó với tình hình phát triển kinh tế trong nước thôi. Còn tình hình kinh tế hướng ra thế giới bên ngoài, là cả một câu chuyện trên biển cả mênh mông. Chúng ta giương buồm ra khơi, thì phải luôn quan sát thời tiết, sấm chớp bão bùng thế nào mà đi. Vì xung quanh chúng ta, là cả một thế giới bao la. Thế giới thay đổi, là chúng ta sẽ thay đổi, thế giới chuyễn động hướng nào, là chúng ta sẽ đi về phía đó. Ngài là người thuyền trưởng trên con thuyền đó, thì phải linh động nhạy cảm, với những cái biến động của thế giới. Nhưng mục tiêu của chúng ta đi đâu, thì nó vẫn không thay đổi. Nó như chiếc kim la bàn nằm trong tay của ngài vậy.
Ông quan đại thần Xích vân Tử nghe tới đây thì im lặng. Ông ta đã say lắm rồi. Không biết ông ta say vì rượu, hay say sóng trên con tàu đang nằm trong tâm trí của ông ta.
52. Sáng nay Tiểu Hoa rủ Bạch Ngọc chạy quanh khắp thôn xóm, để tìm kiếm những con vật thân yêu của mình. Nhưng tìm mãi vẫn không thấy đâu. Con bạch mã có cánh nói rằng, các bạn thú rừng kia đã đi hết rồi. Và ở ngoài xa kia, nơi những cánh rừng căng tràn cánh gió, là khoảng không gian tự do dành cho chúng. Chúng mặc sức rong chơi ở đó thỏa thích. Còn trong cái Đào Hoa Thôn này, con người có lắm luồng suy nghĩ khác nhau. Người thì mơ mộng làm thơ, người thì lao động sản xuất, người thì chạy lui chạy tới, lo ăn uống và áo quần xinh đẹp, người thì ngắm mây trời và suy tư miệt mài. Vì ở đây con người không còn sống hoang dã như loài thú, hay giống như cái bộ tộc đầm lầy kia nữa. Mọi người ở đây đang đứng trước tương lai của mình, để mơ mộng về một ngày tươi sáng, và quên đi cái quá khứ đau buồn, do cuộc chiến tranh ngày xưa. Đào Hoa Thôn bây giờ, là một kiểu mẩu của một ngôi làng nông thôn miền núi trù phú nhất. Tất cả những điều đó, thì làm sao các loài thú vật kia hiểu được đây. Do đó chúng cứ sống đời sống của chúng. Còn con người trong này, đang suy nghĩ những điều mới, mà chúng không thể nào hiểu được đâu.
Hôm nay, ông lão trưởng thôn Công Phu Tào Ngưu vác cuốc đi ngoài đường, thì gặp Đại Hương và các bạn. Ông ta chống cuốc xuống giữa đường và hỏi: Các cháu đang làm gì thế? Sao các cháu không cùng ta đi khơi dòng chảy của những con kên mương, trong cái thôn làng này cho thông suốt. Các cháu còn trẻ, các cháu sẽ là cái thế hệ tương lai, thừa hưởng những thành quả của những người đi trước để lại. Nào chúng ta cùng đi, hãy quét sạch rác rưởi làm tắc nghẽn các dòng chảy. Hãy đưa nước mát về khắp thôn làng, cho mọi người dùng. Nếu ai cũng ý thức được như thế, thì không bao lâu nữa, Đào Hoa Thôn này, sẽ tốt đẹp lên thôi. Đại Hương nói: Ngài bão chúng con đi, thì chúng con sẽ đi cùng ngài. Chúng con sẽ làm bất cứ việc gì do ngài chỉ dẫn. Vì chúng ta làm là cho chúng ta mà. Nhưng con thấy Đào Hoa Thôn bây giờ rất tốt rồi, có gì đâu mà lo?! Ông trưởng thôn nói: Tốt thì tốt, là do ta cố gắng làm đẹp cái bề ngoài này thôi. Còn bên trong nó, còn lắm điều khó khăn. Ví dụ như ở dưới những cái ống cống này, mấy hôm nay có lắm chuột. Chúng sinh ra từ đâu, mà đổ dồn về đây đông quá. Chúng đã đào hang, và lập những thành chiến lũy dưới lòng đất, để chống lại chúng ta. Chúng ngày đêm đang gặm nhắm, cái nền móng của ngôi làng xinh đẹp này. Nếu chúng ta không sớm ngăn chúng lại, thì không bao lâu, Đào Hoa thôn này sẽ tan tành hết…
Đại Hương và các bạn, nghe ông trưởng thôn nói thế thì hết hồn. Đại Hương nói: Ngài nói thật đấy chứ? Sao ngài không báo cho quan đại thần Xích Vân Tử biết? Ông lão trưởng thôn nói: Ông ấy cũng biết rồi, nhưng ông ấy không nói gì cả. Ôi đó là suy tính của ông ta, chúng ta không biết được. Nhưng bây giờ chúng ta hãy làm việc của mình đi. Thế là Đại Hương và các bạn đi đánh nhau với lũ chuột. Đại Hương và Thiên Hùng cùng Đại Lực đi làm những cái bẩy chuột rất lớn, có thế bắt được cả bầy của bọn chúng luôn. Còn Tiểu Hoa và Bạch Ngọc, thì đi cầu cứu con rồng Thiết Long. Con rồng Thiết Long này là một kẻ mù quáng nhưng tốt bụng. Nó liền đi thăm dò những cái hang hóc trong thôn, rồi thổi một luồng lửa đỏ nóng hổi xuống đó. Cả ngày, nó cứ cắm đầu vào những cái hang chuột, mà phun lữa xuống. Vậy là lũ chuột chết vô số kể. Ông trưởng thôn được báo cáo tình hình, thì lấy làm vui lắm. Riêng ông quan đại thần không nói gì, mà cũng không ngăn cản con rồng Thiết Long phun lửa. Còn con rồng Thiết Long này thì hăng say quá, nên đã gặp nạn. Một hôm, nó phun lửa xuống cái hang con chuột chúa đang ở, thì con chuột chúa, bèn lấy một tấm gương ra đở ngọn lửa đỏ. Và như vậy là ngọn lữa đỏ kia, đã quay lại thiêu đốt luôn chính nó, cháy xém cả khuôn mặt. Bây giờ nó đã bị thương nặng, và lũ chuột kia bắt đầu hung hăng lên.
Vụ việc giết chuột trong Đào Hoa Thôn vẫn tiếp diễn, thì đến tai sư phụ. Người thật sự kinh hoàng, khi nghe tin con rồng Thiết Long đã sát sanh nhiều như thế. Sư phụ liền cho gọi Thiết Long vào mà rằng: Ta cứu con khỏi kiếp nạn truy bắt của triều đình, là để giữ gìn mạng sống cho con. Bằng tình thương, ta nhìn sự việc đúng sai của con không quan trọng. Vì nếu con là một tên tội phạm đúng nghĩa, thì việc ta cứu con, cũng đã sai rồi. Người ta đứng phía bên kia nhìn lại, thì thấy con là kẻ cướp. Và như vậy cũng giống như con còn ngồi đây nhìn lũ chuột này. Đúng sai, là do sự phân biệt tốt xấu mà thành. Nó nương với nhau mà có. Vậy bây giờ con sát sanh vô số, thì tính sao đây? Tội ấy có phải là do ta cả không? Do ta đã nuôi dưỡng con làm ra tội ác này. Trời ơi là trời! Ta đã bảo. Trời đất có đức hiếu sinh. Tất cả muôn loài đều muốn được sống. Mà sống thì phải ăn. Thì chúng ăn gì mặc kệ chứ, con giết chúng làm gì, để hôm nay thương tích như vầy đây. Thôi con hãy sám hối đi, và từ nay không được sát sanh nữa nghe không?
Thế là, vụ việc giết chuột trong Đào Hoa Thôn đã chấm dứt một cách êm đềm. Và kỳ lạ thay? Lũ chuột cũng đã rút đi ra ngoài rừng hết. Ông quan đại thần nghe tin báo như vậy cũng không nói gì cả. Ông ta đang nhìn xa xăm hơn là những tai họa do lũ chuột kia gây ra…
53. Bọn thú rừng đã bị ông quan đại thần Xích Vân Tử đuổi ra sống ở ngoài khu rừng hết. Tuy nhiên lũ chim rừng thì không thể trói chân bọn chúng được…Chúng cứ bay về Đào Hoa Thôn để thăm viếng, và bắt sâu trên những cành đào. Trong số đó thì lũ chim bồ câu bay về đông nhất. Chúng về và đậu kín trong sân của nhà thờ.
Lũ chim bồ câu ở trong nhà thờ một thời gian, thì chúng nghe lời chúa bay đi khắp nơi để báo tin mừng. Chúng loan báo rằng trên mặt đất này, có một ngôi làng xinh đẹp, nở đầy hoa đào rực rở. Nơi đó, con người sống bên nhau đầm ấm hạnh phúc. Nơi đó, được xây dựng nên bởi, những bàn tay chai sần cùng những trái tim nhân hậu. Nơi đó, là một vườn địa đàng có thật trên thế gian…Nghe lũ chim rừng loan báo như thế, thì rất nhiều người dưới miền xuôi đổ về đây thật đông. Và như thế thì công việc xây dựng thêm một ngôi chùa là việc cấp bách lắm rồi.
… Hôm nay, ông trưởng thôn Công Phu Tào Ngưu, phổ biến kế hoặch xây chùa ở trong núi. Ông ta nói: Người dân làng số đông trước đây là theo đạo Công Giáo. Họ đã có cái nhà thờ màu hồng này để lui tới rồi. Nhưng bây giờ, người dân ở miền xuôi lên đây quá đông. Mà trong số họ thì theo đạo Phật. Tôi nghĩ, tôn giáo thì có khác nhau. Nhưng đức tin thì có một mà thôi. Có nhiều tôn giáo, là để cho cái hình thức rao truyền đức tin, nó phong phú hơn, tươi mới hơn, chứ chẳng có gì đâu. Tôn giáo là chổ dựa tinh thần của con người. Chúng ta xây dựng một cuộc sống ấm no đầy đủ về vật chất, nhưng thiếu thốn về tinh thần, thì con người cũng khô héo. Và tôn giáo đã làm thay chúng ta công việc đó. Là, nó đã tưới tắm cho cái cây khô héo kia, trở nên tươi thắm..Vậy thì làm sao chúng ta không xây chùa cho được.
Nghe ông trưởng thôn nói như vậy, thì mọi người trong thôn liền bắt tay vào công việc ngay. Còn sư phụ và đám học trò của mình đi lên núi, để chọn nơi sẽ được xây dựng một ngôi chùa. Nhưng người dân trong làng cũng đã mời được một vị chân tu về đây nữa. Hôm sư phụ đi lên núi, thì gặp vị chân tu đó cùng đi với một đám người trong thôn. Sư phụ nói: Xin chào thầy! Ngài hãy chỉ dạy cho tôi nhiều việc, để tôi cùng ngài xây dựng ngôi chùa này thật tốt đẹp. Vị chân tu đó nói: Đời tu hành của tôi, trước nay cũng chẳng có chùa chiền gì, mà chỉ là một túp lều tranh, ở trong núi thôi. Nhưng sao dân chúng ngày một tụ họp về quá đông, và bảo tôi nên lập một ngôi chùa cho khang trang mà ở. Và nhân tiện ngài trưởng thôn cũng nói sẽ giúp đở, nên tôi mới lên đây. Này ông có nhìn thấy ngọn núi này không? Nó cao vút và hiên ngang vạm vỡ quá. Thôi ta đặt tên nó là núi Kim Cang nhé! Và ngôi chùa của chúng ta đặt tên là chùa Đại Giác. Sư phụ nghe vị chân tu nói như vậy, thì đồng ý ngay. Và công việc xây chùa cũng đã được tiến hành nhanh chóng.
Ngày ngôi chùa Đại Giác ở trên núi Kim Cang khánh thành, thì cũng là ngày sư phụ và đám học trò của mình, biết được những điều huyền diệu của đạo Phật. Khi buổi lễ an vị Phật xong. Vị chân tu đó nói: Khởi thủy đạo Bụt là đạo tỉnh thức. Tăng đoàn của Thế Tôn lúc đó là một nhóm thầy trò tu học để giải thoát, nó không có giáo quyền và lợi quyền gì. Có nghĩa là không có danh lợi gì cả. Tất cả mọi người đều bình đẳng. Tăng đoàn sống không nhà cửa và chấp nhận lang thang khắp nơi, và ngừng nghĩ bất cứ đâu, về sau mới có chổ ở, thì gọi là "tịnh xá". Tất cả đều tu theo đạo nhất nguyên, là an trú trong hiện tại mà thôi. Ông ta nói tiếp: Nhưng ngày nay thì đã khác rồi. Vì tôn giáo ngày hôm nay, như là một hữu thế gắn bó của xã hội đã hoàn thành. Nó như một tổ chức có hệ thống hẳn hoi. Cái hình thức của nó quá lớn lao, như chùa to Phật lớn, và Phật tử thì đông đão, rãi khắp thế giới. Hệ thống kinh tài và giáo quyền hùng mạnh. Vì thế ở bên trong nó, đã phải xuất hiện hai thứ, là danh và lợi rồi. Mà hai cái này, là hai cái che lấp cái bên trong. Đó là cái chân tâm của con người. Người ta không có, hay không cần hai cái đó, thì dễ tu hơn. Nó không còn cái lý do để tranh đua bên ngoài nữa. Mà mục tiêu của nó, là cái sinh mệnh ở bên trong mà thôi. Vì thế, ngày xưa người đi tu rất đễ thành công hơn bây giờ, tuy rằng nó sơ sài và ít ỏi hơn bây giờ rất nhiều.
Nghe vậy sư phụ liền hỏi: Như vậy thì bây giờ phải tu như thế nào thưa ngài? Vì đời sống hiện đại này, nó khác xa với thời xa xưa mà? Vị chân tu đó trả lời: Nó khác là khác cái bên ngoài thôi, nó khác là khác cái tinh thần thời đại. Chứ chân kinh thì không có gì khác hết. Người ta hay lầm lẫn những điều này, là do cái ý chí cực đoan mà ra. Do đó mới có những dòng tu khắc khổ y như ngày xưa, từ bên ngoài tới bên trong. Rồi họ liên tục phê phán những dòng tu cải cách khác, là đi sai Phật Pháp. Kế đó, cũng có những dòng tu, chỉ chạy theo cái hình thức bên ngoài của thời đại, mà quên đi sự nổ lực bên trong là chính. Đi theo hai con đường đó đều sai hết, đều khó tu hành để sáng đạo được. Vậy thì như chúng ta đã thấy, và theo lịch sử đã chúng minh rằng: Cái hình thức bên ngoài của Phật giáo luôn thay đổi, để thích ứng với truyền thống, văn hóa, tư tưởng của mỗi nước khác nhau, Nhưng con đường tu hành theo giáo pháp Như Lai bên trong, thì luôn giống nhau. Như vậy thì, ngày nay chúng ta đi tu, thì hãy tu theo đúng chánh pháp nguyên thủy của Như Lai, còn tinh thần hoạt động, thì phải theo tinh thần của thời đại này.
Sư phụ nghe tới đây, thì biết rằng vị chân tu kia, là một con người vĩ đại nhất của những người đi tu bây giờ. Trong khi đó ông quan đại thần Xích Vân Tử thì nghĩ khác. Ông ta cứ lo sợ rằng: Cái chùa to lớn này có ngày cũng sẽ biến mất cùng với cái ngôi làng hoa đào xinh đẹp kia…
Túp lều trên thảo nguyên.
54. Từ ngày gặp vị chân tu kia tới nay, con người sư phụ như được giải thoát. Sư phụ bèn đem chuyện này nói lại cho ông quan đại thần nghe. Ông ta đâm chiêu suy nghĩ, và hứa rằng sẽ cùng sư phụ lên chùa lễ Phật mỗi khi rảnh rang…
Bây giờ Đào Hoa Thôn rất là huy hoàng, đường thôn ngõ xóm tươi đẹp tràn đầy. Mọi người cầm tay nhau múa hát và đi lễ nhà thờ. Còn những ai theo đạo Phật thì lên chùa Đại Giác lễ Phật. Cuộc sống của người dân Đào Hoa Thôn ngày một tươi sáng hơn.
Hôm nay, sư phụ rủ ông quan đại thần xích Vân Tử cùng đi lên chùa. Tụng kinh xong, sư phụ đi gặp thầy trụ trì, là vị chân tu kia để nói chuyện. Sư phụ nói: Thật lòng, tôi không hiểu nhiều về Phật pháp, nhất là không hiểu được, bối cảnh tư tưởng xã hội lúc Thế Tôn ra đời. Vị chân tu đó trả lời: Thật ra, tư tưởng thời đại mà Thế Tôn ra đời, rồi chứng đạo và thuyết pháp, thì nó cũng giống như thời đại hiện nay thôi. Nhưng cái khác nhau là: Thời đó người ta chưa có khoa học phát triển như bây giờ, nên không có các học phái triết học, để cải tạo xã hội. Mà chỉ có các triết thuyết về tâm linh, hướng lên các vị thần mà thôi. Lúc đó người ta khám phá cái vô hình, và được giải thích như là thế giới bên kia, thế giới của linh hồn, sẽ về trú ngụ sau khi giả từ cuộc đời này. Ngài biết không? Thời đại đó có hàng trăm giáo phái, tu theo những cái lý tưởng cực đoan. Như tu khổ hạnh, và chịu nhiều đau đớn, vì họ tin rằng như thế sẽ được giải thoát. Nhưng tất cả những người trong số đó, đều không thể đạt được giác ngộ hoàn toàn để giải thoát. Và người đứng trên cái đỉnh cao trí tuệ đó, và đã chạm tới chân lý, thì chỉ có một mình Thích Ca mà thôi. Vì ngài đã ý thức rằng, tất cả các con đường tu hành cực đoan kia đều sai lầm. Vì thế tôi nói thời đại đó nó giống như bây giờ là như vậy đó. Là nó cũng có các trường phái triết học trên thế giới như bây giờ, đã và đang đi vào bế tắc rồi. Nó không còn đủ sức để giải quyết được cái bế tắc này. Vậy thì hiện nay người nào đứng trên tất cả các trường phái triết học đó, thì chính là người mở ra lối thoát cho loài người. Nó giống như là Đức Phật Thích Ca, đã mở ra con đường giải thoát cho chúng sinh vậy.
Sư phụ nghe vị chân tu kia nói thì đã hiểu. Và hỏi vị chân tu kia rằng: Vậy Phật Pháp nói ngắn gọn thì như thế nào? Thưa ngài! Vị chân tu kia trả lời: Phật pháp tóm lại gồm có hai điều. Đó là quyền lợi và sinh mệnh. Quyền lợi thì có quyền lợi tinh thần, và quyền lợi vật chất. Bỏ đi quyền lợi vật chất, thì còn lại quyền lợi tinh thần, bỏ đi quyền lợi tinh thần luôn, thì còn lại sinh mệnh. Giữ được sinh mệnh, là giữ được chân tâm, là đạo. Vậy thôi! Còn tất cả những lý giải dài dòng khác, thì cũng chỉ để nói tới cái này đó. Nhưng để hiểu đạo thì chỉ có một con đường duy nhất, là phải hiểu cái bất hợp lý. Có nghĩa là bạn phải “tư duy ngược”. Cái  “tư duy ngược” đó cũng chính là tư duy của thiền học. Ví dụ: Như Thế Tôn nói: Nó không phải nó, mà là nó. Điều đó chúng ta phải hiểu như thế này. Nó: Chính là là cái hợp lý. Không phải nó: Chính là cái bất hợp lý. Mà là nó: Chính là cái sự thật, nằm bên trong cái bất hợp lý kia.
Vị chân tu kia nói tiếp: Trong ngôi nhà thân xác có một đứa trẻ vô tâm không sinh không diệt. Không tới mà cũng không lui. Không thiện mà cũng không ác, đó chính tâm Phật vậy. Gió bão cuộc đời có thể nhận chìm ngôi nhà này trong cát bụi. Nhưng mãi mãi đứa trẻ kia không bao giờ chết...Vì thế, thân xác của chúng ta như con thuyền đưa người sang sông. Sóng to gió lớn là những cám dỗ của cuộc đời. Bờ bên kia là bờ giác, bờ bên này là bến mê. Mê và giác ở cách nhau một dòng đời ngắn ngũi, nhưng lắm mưa gió bão bùng. Dòng đời đó chứa nhiều đau khổ, mà không có gì gọi là hạnh phúc cả. Cả khi bạn tưởng rằng mình đang vui cười hạnh phúc đó, nhưng thật ra là bạn đang nén đau khổ vào trong lòng mà thôi. Đau khổ vẫn còn đó, nó luôn có mặt cùng bạn đi khắp nơi, trên dòng đời xuôi ngược này. Vì vậy từ bến mê này, bạn phải cố gắng bơi cho đến bờ bên kia, là sẽ được hạnh phúc. Đó chính là quê nhà của bạn. Đó chính là gương mặt muôn đời của bạn, và đó cũng chính là bạn. Còn những thứ mà bạn đã đạt được trên dòng đời xuôi ngược này, thì nó cũng sẽ trở lại đó, nó cũng sẽ bị cuốn trôi đi mất mà thôi. Vì thế, đạo Phật nói đơn giản là một cuộc hành trình quay  về quê nhà. Là đối diện với những khổ đau của chính mình, không lẫn tránh nó. Là biến nỗi đau thành niềm vui. Là vượt qua dòng đời đầy giông bão này, để đến bờ giác ngộ phía bên kia.
Nói đoạn, vị chân tu uống một ngụm trà và nói tiếp: Thân xác này, thật là ngắn ngũi so với cái linh hồn bất diệt của chúng ta. Nhưng nó là cái cha mẹ sinh ra, là sự tiếp nối của tổ tiên để lại, là dòng chảy của một dân tộc không bao giờ chấm dứt, Vì thế chúng ta cũng đừng nên bạc đãi nó, vì thân xác là ngôi thánh đường để cho quỷ dữ đến lễ bái. Nhưng ngôi thánh đường đó, nên được làm bằng ngọc bích hay pha lê.Vì nó mãi mãi sẽ thuộc về quá khứ....Thân xác là cái hình thức sống trên trần gian, Chúng ta sống không xa hoa lãng phí, không sa đọa trụy lạc, nhưng cũng không nên quá ép xác khổ cực, vì nó cần phải sống đàng hoàng, để chứa đựng một linh hồn lớn lao, một tình yêu lớn lao, vì con người mà sống. Cái đó là hai điều cần phải nói rõ trong quan niệm của đạo Phật. Vì tôn giáo sinh ra là bảo vệ, và quý trọng con người. Nhưng có điều này tôi cũng xin nói thêm rằng: Ở thế giới bên kia, thì tôn giáo muốn nói sao thì nói, vì nó là cái vô hình, mỗi người được phép giải thích khác nhau. Nhưng ở thế giới hiện thực này, thì tôn giáo phải nói đúng theo khoa học. Vì tôn giáo không phải là nơi để tuyên truyền mê tín dị đoan, hay nói những điều viễn vong sai trái, rồi bắt người ta phải tin. Lịch sử đã trả lời rồi, ngày nay giáo hội thiên chúa giáo đã phải xin lỗi khoa học, xin lỗi loài người, về những sai lầm của họ trước đây đã gây ra.
Sư phụ nói: Theo tôi,  nói cho cùng, thì tôn giáo đã khám phá ra cái vô hình trong tinh thần con người. Và điều này, thì tất cả các triết gia ngày nay, cũng đã cố gắng làm việc đó mà thôi. Nó như một thế giới khác với cái thế giới hiện thực này. Sự thật là như tôi đã thấy. Sau chiến tranh trên toàn thế giới, thực tại đã sụp đổ hoàn toàn trong con mắt của loài người. Thế giới như bị phủ một màu đen tối. Từ đó tinh thần con người cũng bi quan và mất phương hướng. Từ đó người ta khám phá cái vô hình, như đi vào một giấc mộng hãi hùng, mà họ gọi là hư vô. Ở trong đó không có gì hết, Nó hoang vu đến rợn người. Vì thế càng đi vô trong đó, thì tinh thần con người càng hoang mang mất phương hướng. Cái bóng đêm hư vô đã phủ trùm lên lòng người một thời gian quá dài, để khóc than cho thân phận điêu linh của con người. Nhưng ngược lại điều đó. Tôn giáo đã xây dựng được một đức tin, một con đường an lành, để loài người đi vào trong đó thì sẽ được an ủi, được nâng đở, được hồi sinh và là chổ dựa tinh thần chắc chắn nhất. Nó không còn là bóng đêm hoang vu có nhiều quỷ quái nữa. Cho nên theo tôi nghĩ. Cái bóng đêm hoang vu trong lòng người là điều đáng sợ nhất. Vì nếu nhận thức về nó sai lầm, thì mãi mãi con người sẽ khổ. Vì thế, ít hay nhiều thì con người vẫn phải cần đến tôn giáo, còn hơn là sống trong điêu linh.
Sư phụ nói xong, thì từ tạ vị chân tu kia để ra về.
55. Ông quan đại thần Xích Vân Tử trở về Đào Hoa Thôn mà như đi trên mây. Ông ta nói với sư phụ: Tôi đã lắng tai nghe ngài và vị chân tu kia nói chuyện, quả là những điều huyền diệu trong tinh thần của con người. Tôi không phải là người tu hành, nhưng tinh thần tôi nó cũng luôn được xem xét như thế. Bên trong con người tôi, là một khung trời, chứa đựng tất cả cây cỏ cảnh vật, của quê hương tôi. Đức tin của tôi là phục vụ nhân dân. Có những khi mệt mõi và ngã lòng, nhưng tôi luôn tự hỏi. Mình đang làm gì đây? Và tôi đã không có hoang mang, mà luôn có câu trả lời rằng: Tất cả những việc tôi làm là vì tổ quốc tôi, và nhân dân tôi. Điều đó nó không phải là tôn giáo, nhưng nó là cái động lực thúc giục tôi phải sống để đối diện với cuộc đời.
Sư phụ khi nghe ông quan đại thần nói như thế, thì lấy làm cảm kích lắm! Sư phụ nói: Đúng lắm! Ngài nói hay lắm! Ngài hãy theo dõi cái dòng suy nghĩ của mình không ngừng nghỉ, và để biết rằng, nó đang nghĩ gì, và đang đi về đâu, thì điều đó, nó cũng như người ta đi tu rồi. Cái bên trong lòng ngài là cả đất nước này, là dân tộc này. Điều này làm tôi kính phục ngài lắm. Cái gì nó vì con người, vì nhân dân và đất nước, thì nó cũng đều như nhau, không kể gì là tôn giáo hay không tôn giáo. Tôn giáo đích thực là nó khơi dậy cái ý chí này. Là cái ý chí phấn đấu vì con người, để bảo vệ và che chở yêu thương con người. Còn những người không có cái hùng chí đó, thì sẽ được tôn giáo che chở và yêu thương.
Ông quan đại thần nói: Vậy Đào Hoa Thôn này đã có Phật trời phụ hộ, người dân ngày nay đã được sung túc ấm no, thật là vui mừng quá…Sư phụ nói: Đúng thế, và chúng ta cũng đã đến lúc phải xa lìa cái nơi êm đềm này rồi.
Hôm nay sư phụ gọi các học trò của mình lại và bảo rằng: Chúng ta đã đi qua một đoạn đường dài, và cho đến ngày hôm nay, như các con thấy đó. Đào Hoa Thôn đã đẹp tươi rực rỡ vô cùng. Ta và các con đã trãi qua một cuộc chiến đấu gian khổ, với bọn ma quỷ, để biến nơi rừng thiên nước độc này, trở thành một thôn làng xinh đẹp. Một vùng đất chết nay đã trổ hoa. Ta nghĩ, bây giờ chúng ta sẽ lên đường thôi. Chúng ta sẽ đi về xuôi. Các con biết không? Trên đời này còn rất nhiều nơi để đi nữa đó. Chúng ta sẽ đi về kinh thành, nơi đó phố xá nhà cửa đông vui lắm. Nghe vậy Đại Hương và các bạn cùng reo lên thích thú, rồi đi rủ con rồng Thiết Long cùng đi. Con ngựa có cánh nghe vậy nên cũng vui lắm, và nó cũng luôn nhủ rằng, sẽ phải có ngày lên đường thôi. Vì cuộc đời nó luôn gắn với những chuyến đi mà…
Đêm nay ở nhà trưởng thôn có một buổi họp mặt. Ông quan đại thần lắng nghe sư phụ nói về chuyến đi sắp tới, thì đồng ý ngay. Ông ta nói: Đào Hoa Thôn này đã ổn, bây giờ chúng ta sẽ để lại cho ngài trưởng thôn Công Phu Tào Ngưu cai quản. Tôi cũng muốn đi cùng ngài, như một người phiêu lãng. Để rong chơi ngày tháng khắp mọi miền đất nước ta. Nghe vậy ông sứ thần cũng nói: Tôi cũng xin đi, tôi sẽ cùng đi với mọi người luôn nhé!
 Vậy là qua hôm sau, mọi người từ giã Đào Hoa Thôn để lên đường. Ông lão Công Phu Tào Ngưu ra tận cổng làng, để đưa tiễn mọi người đi. Ông ta nói: Chúng ta vẫn phải giữ liên lạc với nhau nhé! Nếu có gì cần tôi, thì tôi sẽ đến cùng với các bạn ngay. Vậy là mọi người ra đi. Đào Hoa Thôn khuất dần sau lưng và đã đi vào quá khứ. Từ xa xăm trong vùng kí ức của mọi người…tiếng chuông nhà thờ vẫn vang vọng, mặc dù nó đang ở rất xa rồi….
Thế là đoàn người cứ đi về xuôi, và đã chậm rãi đi qua biết bao thôn làng, cảnh vật và núi đồi, đồng cỏ và sông ngòi suối thác. Sư phụ cưởi con ngựa có cánh đi bên cạnh ông quan đại thần. Ông ta nói: Ngài hãy nói thử xem, cái gì đã hình thành nên các hình thức xã hội của chúng ta. Và bên trong nó là một đời sống tinh thần của con người ngày một cao hơn..? Sư phụ nói: Tinh thần con người, có cái bên ngoài là hữu vi, cái bên trong là vô vi. Vậy đó là gì? Đó chính là cái tư duy và sáng tạo vậy. Cái tư duy thì làm nên các hình tức xã hội .Còn cái sáng tạo, làm nên đời sống tinh thần trong các hình thức xã hội ấy. Sư phụ tiếp: Thật khó tưởng tượng, khi con người không còn sáng tạo nữa. Vì có thật nhiều thứ vật chất xung quanh bạn đi nữa, thì bạn cũng bị giam cầm trong một cuộc đời nhỏ bé quá mức. Sáng tạo là khi chúng ta làm giàu cho mình lên. Làm cho chúng ta vượt thoát ra khỏi cái thân xác nhỏ bé ấy, để đi tìm tự do. Quả thật sáng tạo mở dần ra những cánh cửa tâm hồn, để con người nhìn ngắm thực tại đẹp đẽ hơn, những gì chúng ta nhìn thấy bằng con mắt thường. Trong đó, nó vận dụng tất cả cái khả năng cảm giác của ta trước sự vật. Tất cả những con đường tự do trên trái đất này, đều bắt nguồn từ sáng tạo. Tôi nghĩ con người đã sáng tạo ra mọi thứ, để cho chúng ta sống đầy đủ hơn, Từ những cái để ứng dụng vào đời sống như những chiếc máy bay, cái nồi cơm điện, hay cái điện thoại, cho đến thượng đế và các vị thần. Những cái tưởng chừng như cao hơn con người. Xa xăm mịt mù nơi con người không thể chạm tới được. Thì tôi nghĩ, đó cũng là do con người sáng tạo ra đấy thôi. Con người đã sáng tạo ra cả cái thế giới bên kia, và làm giàu cho cái thế giới bên này. Nếu không có sáng tạo, quả thật con người chỉ sống như một động vật trong một cái chuồng nhỏ hẹp. Đó chính là một cuộc đời nhạt nhẽo, nhỏ bé và đầy khổ đau. Và nếu như khi bạn đang sáng tạo, thì đó là khi bạn đang sống ở một thế giới khác. Cái thế giới huy hoàng hơn bất cứ nơi đâu mà con người đã từng đặt chân tới.
56. Khi đoàn người đã đi ra khỏi vùng núi đồi trung du rồi, thì phía trước mặt đã mở ra một vùng đồng cỏ xanh biếc, rộng lớn như chưa từng có. Ông quan đại thần Xích Vân Tử thốt lên: Ồ! Đây là thảo nguyên bao la, phong cảnh ở đây đẹp quá, cây cỏ tốt tươi, dưới ánh nắng mặt trời ấm áp biết bao! Sư phụ thúc ngựa đi gần bên ông quan đại thần và nói: Đó! Ngài thấy chưa? Quê hương ta đẹp vô cùng, nơi nào cũng đẹp như tranh. Ngài quyết định cùng tôi du hành khắp nơi, là mở rộng tầm nhìn, để sau này về triều đình, mà an dân trị quốc. Những người lo việc chính sự chót vót trên cao, thường thiếu cái nhìn gần gũi với nhân dân là vậy đó. Họ không có thời gian để sống, và hưởng thụ một đời sống tinh thần giản dị như người dân đâu.
Ông quan đại thần hỏi: Ồ thật thoải mái quá! Mà này. Như hôm qua ngài nói rằng, tất cả những gì xung quanh ta, đều do con người sáng tạo ra hết, và cả thượng đế cùng thần linh. Nhưng theo ngài tượng đế chính xác là gì?  Và vũ trụ này ra sao? Sư phụ nói: Thượng đế chỉ có một mà thôi. Ngài là đấng toàn năng đã tạo ra thế giới này. Và đã đặt con người lên địa vị cao nhất trong muôn loài. Sở dĩ cây cỏ tốt tươi, muôn thú sống được, là do sự nuôi dưỡng của người. Con người rất khó để hiểu được điều đó, vì đó là quy luật tự nhiên, như là sự cân bằng sinh thái của thiên nhiên.
Sư phụ nói tiếp: Này nhé! Trong nhận thức của chúng ta, luôn có hai thứ gắn bó với nhau, là vật chất và tinh thần. Nhưng tinh thần của thượng đế nó rộng khắp trần gian, từ sự lay động của ngọn cỏ, đến những cơn sóng thần, bão tố trên biển khơi. Tất cả những cái đó, đều biểu thị cho cái tinh thần của thượng đế. Nếu chúng ta thấy được, thì chỉ thấy được ở đây thôi, cái ở trong tầm mắt và tâm trí của mình thôi. Còn những cái khác, ở khắp nơi trên trái đất này, thì làm sao chúng ta thấy được. Vậy thì cái chúng ta có thể nhận biết được rỏ ràng nhất, đó chính là vật chất vậy. Vật chất là tất cả cái ta đang thấy, và sống nhờ vào nó đây. Cái này rất rõ ràng, thì không cần bàn cải nhiều. Cái cần bàn, là cái tương quan lớn nhỏ, trong cách nhìn của chúng ta đó. Có nghĩa là, chúng ta không thể nhìn thấy được những cái lớn lao, nằm ngoài cái cảm quan thông thường của chúng ta. Vậy cái đó là gì? Đó chính là cái nhận thức hạn chế của chúng ta trước thực tại. Ví dụ như bạn đứng trên bờ biển. Bạn chỉ thấy rằng mặt biển là bằng phẳng? Phải không? Nhưng khi bạn là một người khổng lồ, thì bạn sẽ thấy rằng mặt biển có hình cầu. Nó cong theo chiều cong của trái đất, chứ nó không bằng phẳng nữa. Và cũng như thế, chúng ta luôn có quan niệm sơ sài về thượng đế, và cả vũ trụ này cũng y như thế thôi.
Sư phụ tiếp: Theo tôi thì thượng đế chính là năng lượng và vật chất. Và vũ trụ này luôn co giản chứ nó không đứng yên một chỗ, như cái cảm quan sơ sài của chúng ta biết đâu. Có nghĩa là, vũ trụ này nó không vô hạn mà cũng không hữu hạn. Loài người rất khó trả lời câu hỏi này, vì bao giờ họ cũng ngã về phía, vũ trụ này sẽ vô hạn, chứ không hữu hạn, vì như thế nó không thể là cái lớn nhất rồi.
Sư phụ nói tiếp: Theo tôi thì có những phần tối của vũ trụ, mà trí tuệ con người không thể với tới được. Nó như cái sân sau của cái gã khổng lồ này. Vì đó là nơi cất giấu những điều bí mật, đó là cái tinh thần của thượng đế đó. Này nhé! Khi vũ trụ giãn nỡ đến một giới hạn nào đó, thì nó sẽ co lại, và dấu mình trong cái khoảng bí mật này. Và từ đây, nó lại tiếp tục giản nở ra, trở thành một cái vũ trụ khác. Nó cứ liên tục như thế, theo cái thời gian bao la của nó. Vì thế, con người không thể nằm trong cái khoảng thời gian đó, để xác định được nó. Vì nếu bạn nhận thức được sự hiện hữu của vũ trụ quanh ta, như một đối tượng để nghiêng cứu, thì lập tức thời gian trong tay bạn sẽ biến mất. Vì đứng trước thực tại, cái mà chúng ta gọi là thời gian, thì nó cũng chỉ là những ảo ảnh mà thôi. Nó như những chiếc vẩy lấp lánh trên mình một con cá, đang bơi trong cái biển vũ trụ kia. Vậy thì chúng ta đứng trên chiếc vẩy thời gian của con cá đó, để nhận thức về vũ trụ thì thật là sai lầm biết bao…
Sư phụ tiếp: Theo tôi thì vũ trụ của chúng ta, sẽ không có hình cầu như chúng ta trước nay vẫn thường nghĩ đâu. Vì nó như một con rắn khổng lồ, nuốt bạn vào bụng rồi bạn bảo con rắn đó hình cầu à? Vì tâm lý con người luôn đúng, khi đứng trong cái gì quá lớn. Khi bị cái gì to lớn bao trùm hết, đều nghĩ nó là hình cầu trọn trịa mà thôi. Nhưng điều đó chỉ đúng với một vũ trụ giản nở vô hạn, chứ nó không thể là cái vũ trụ tương đối như tôi đang nói đây. Vì nó không có chổ cho những phần co lại và dấu kín, của cái vũ trụ thực thể, đang xảy ra trong cảm quan của thượng đế toàn năng.
Sư phụ tiếp: Vậy thì hình dáng vũ trụ là gì? Theo tôi thì nó có hai phần, Một phần co lại dấu kín, và một phần giãn nở ra ngoài. Thế thì hình dáng vũ trụ theo sự xác nhận này của tôi, là nó có hình ống như những cái tua, của một con bạch tuột khổng lồ. Con bạch tuộc này, luôn bò đi trong bóng tối vĩnh hằng, và nó không thôi co giãn những cái vòi của nó ra xung quanh. Những phần co lại của nó, bị khuất vào bóng tối, là rất lớn, Đó là phần chìm khuất của vũ trụ, mà con người không thể biết được. Trong đó chứa đựng một nguồn năng lượng khổng lồ, để vận hành vật chất chuyển động trong không gian.
Ông quan đại thần hỏi: Vậy thì cái gọi là năng lượng đó, nó như thế nào và vì sao nó lại được sinh ra? Sư phụ đáp: Vật chất luôn chuyển động theo kiểu ly tâm, trong cái khoảng không gian bao la, để hình thành nên những cư dân của vũ trụ. Vật chất đó luôn phân rã và biến đổi, rồi hội tụ lại, tạo ra các tinh cầu. Quá trình này xảy ra là nhờ có năng lượng, và từ trong sự biến đổi đó, nó cũng sinh ra năng lượng không ngừng. Phần chìm khuất của vụ trụ, thì ôm lấy hết tất cả cái năng lượng đó. Và từ đó mà thượng đế  toàn năng đã sinh ra tất cả…
Ông quan đại thần nghe đến đây, thì biết mình đã không lầm đường trong chuyến chu du này rồi…
57. Vậy là đã nhiều ngày rồi, đoàn người cứ mãi lang thang trên thảo nguyên bao la xanh ngát. Ông quan đại thần như thấy mình đang đi sát đến chân trời. Vì ở nơi tận cùng thế giới đó, là những dãi mây trắng mềm mại như lụa mỏng tan, kéo dài ra mãi. Những cánh chim trời bé nhỏ, cất cánh bay chơi vơi trên thảo nguyên. Trước mắt mọi người đâu đâu cũng là đồng cỏ xanh biếc, rì rào gió thổi. Và cuối cùng thì đoàn người đã phát hiện ra một dòng suối tronh xanh, chạy quanh trên đồng cỏ. Ông sứ thần đức vua đã đề nghị, dừng lại đây để uống nước và tắm mát. Nghe vậy sư phụ và ông quan đại thần cũng đồng ý dừng ngựa tại đây.
Lúc này Đại Hương và các bạn hồ hởi lắm, đã kéo nhau xuống tắm dưới dòng suối kia. Người ta cũng cho những con vật cưỡi xuống đây tắm luôn. Tiểu Hoa thích quá liền rủ Bạch Ngọc cùng xuống tắm. Hai cô nàng bây giờ đã là hai cô thiếu nữ xinh đẹp mặn mà. Những đường cong trên cơ thể của hai cô nàng, nổi lên dưới làn nước trong veo. Điều đó bất giác làm cho Đại Hương đỏ bừng mặt. Thiên Hùng và Đại Lực thì không dấu được vẻ bối rối. Và thế là mấy cậu ta cùng cười, rồi cất tiếng hát vang giữa thảo nguyên bao la.
Tắm mát xong, mọi người lại lên đường. Bất giác, Tiểu Hoa chỉ tay về phía mấy lùm cây, ở gần sát bên dòng suối. Mọi người nhìn về hướng đó, thì thấy có một làn khói nhỏ cuộn bay lên trời. Thì ra ở đây cũng có người ở. Sư phụ liền đề nghị đi về hướng đó xem sao?
Khi sư phụ và mọi người tới nơi, thì phát hiện ra một căn lều tranh nằm khất trong mấy lùm cây. Ở phía trước mặt gần đó, có mấy cái mô đất nhỏ nhô lên. Có cái mới cái củ, tất cả là chín cái. Sư phụ liền cùng ông sứ thần vào thăm túp lều tranh.
Chủ nhân của túp lều tranh kia, là hai ông bà già và ba đứa trẻ. Ba đứa trẻ này, như chưa bao giờ được sống trên đời. Vì tất cả chúng đều bị mù, và ba cái bộ não để suy nghĩ kia, đều chứa đầy nước! Thật kinh khủng làm sao? Sư phụ thấy thế, liền thấy trái tim mình lung lay, như cái cây đứng trước cơn gió bão. Cái cây đó từ lâu, đã đâm chồi nở hoa trong lòng sư phụ rồi. Và nhờ đó người mới thấy rằng cuộc đời này thật đẹp. Và giờ đây, khi đứng trước hoàn cảnh sống nghèo nàn và bất hạnh, của cái gia đình kia. Thì sư phụ không cầm được nước mắt. Trong khi đó thì ông quan đại thần, đang thăm hỏi hai vợ chồng du mục kia…
Ông chồng du mục trả lời:  Xưa kia, chúng tôi là hai người lính gặp nhau trên chiến trường, chúng tôi yêu thương nhau và cưới nhau trong lửa đạn. Chúng tôi đã đi qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Tôi thì còn lại nhiều vết thương trên mình. Còn bà nhà tôi thì đã mất một cái chân. Nhưng ông trời đã trừng phạt chúng tôi quá nặng nề, những đứa con của chúng tôi ra đời, đều bị như vậy hết. Nói đoạn, ông lão chỉ tay vào ba đứa con, đang ngồi ngơ ngác trong góc nhà. Ông lão nói tiếp: Có lẽ chúng bị nhiễm chất độc da cam. Chín đứa con tôi đều lần lượt chết hết, hết đứa này tới đứa khác. Và ông lão nói trong nước mắt…Chúng nó chết đi, bỏ lại chúng tôi với mấy con bò đang nuôi ở đây. Chính bàn tay tôi, đã đào huyệt chôn chúng, như các ông đã thấy đó. Những cái mô đất nhô lên kia, là những nấm mồ của chúng đó. Sư phụ nói: Sao ông không đặt những tấm bia mộ cho chúng. Ông lão nói: Những người không có trí óc, thì cần gì phải ghi tên lên mộ. Ngày chúng chết đi, tôi nghĩ đó chính là ngày, chúng đã được giải thoát rồi.
Ông quan đại thần nghe thế thì lặng người đi rất lâu. Ông ta bèn khóc nức nở và nói: Hai người đã hy sinh cho dân tộc, cho đất nước quá nhiều rồi, kể cả bản thân và những đứa con của mình. Vậy thì tại sao các người không được nhà nước quan tâm, chăm sóc chứ. Bà vợ ông lão nói: Có chứ! Hàng tháng chúng tôi vẫn nhận được tiền chế độ của nhà nước đó chứ. Nhưng nhìn các con trong cơn bạo bệnh, thì phải chạy chữa cho chúng thôi. Đứa nào còn sống, thì chúng tôi đều lo chữa chạy thuốc than. Đến khi nào chúng chết thì thôi. Nhà cửa ruộng vườn bán hết, để chữa bệnh cho con, nên bây giờ vợ chồng tôi mới ra sống nơi này đây…
Trong khi mọi người đang nói chuyện trong lều, thì Tiểu Hoa và Bạch Ngọc đang bưng mặt khóc. Hai cô nàng đã nhìn thấy, và đã nghe thấy hết, cái khổ sở đớn đau của cái gia đình kia. Lúc này Đại Hương như quên mất mình là người có phép thuật. Cậu ta cùng Thiên Hùng và Đại Lực đi ra thắp nhang lên chín ngôi mộ kia. Xong, Đại Lực nói: Anh Đại Hương ơi! Anh có quyển sách phép thuật trong tay mà. Anh hãy dùng nó để giúp đở cái gia đình bất hạnh này đi! Nghe vậy Đại Hương như tỉnh hồn trở lại. Cậu ta chạy vô lều, và tìm ba đứa trẻ bệnh hoạn kia, rồi rút quyển sách phép thuật ra. Quyển sách đó nói: Chất độc đã ngấm sâu vào thân thể của chúng rồi, không thể nào chữa trị được. Thần thánh cũng chịu thua. Vì cái chất độc này, nó đã xóa mờ thời gian tiến hóa của con người. Nó làm con người mất đi tất cả rồi, thì còn gì mà chửa trị được nữa.?
Lúc này ông lão du mục nói: Điều cần thiết mà tôi có thể làm được cho chúng nó, là đi đào ba cái hố, để chôn chúng nó mà thôi. Ôi cuộc đời cây đắng làm sao! Vinh quang của dân tộc này ư! Với chiến thắng lẩy lừng đó! Với vinh quang đó, thì có còn biết bao con người, từng giờ từng phút phải hy sinh, phải ôm mãi cái khối khổ đau để đi cùng với vinh quang của dân tộc, mà ai nào có biết đâu!!!
58. Đoàn người đã nghĩ lại trong thảo nguyên một đêm. Sáng hôm sau khi vừa thức giấc, thì Đại Hương và các bạn nghe thấy những âm thanh rộn rã bên tai, như một đoàn quân đang di chuyễn. Đại Hương vội chạy đi tìm sư phụ hỏi xem sao? Thì sư phụ nói: Ta có thấy gì đâu? Ông sứ thần cũng nói: Ta cũng có thấy đoàn quân nào đâu?... Nhưng rõ ràng Đại Hương và Thiên Hùng cùng Đại Lực, Tiểu Hoa và Bạch Ngọc cũng đều thấy hết mà?  Phía xa xa ở tận chân trời, đang nổi lên hình bóng của một đoàn quân kiêu hùng, đang đi ra mặt trận. Hình bóng đó, nó không thật như chúng ta đang xem phim, mà nó hiện ra như chúng ta đang nhìn thấy trong cái đèn kéo quân. Nó nối dài từ chân trời phía đông đi sang phía tây. Đoàn quân vừa đi vừa hát. Rồi những tiếng nổ ầm ầm nổi lên. Và chính lúc đó, cái đoàn quân đó đã tràn lên chiến đấu thật oanh liệt. Đại Hương và các bạn đứng sửng giữa cánh đồng, mà theo dõi trận chiến kia. Trận chiến cứ âm vang bên tai, và rỏ ràng trước mặt, như chính Đại Hương và các bạn, cũng có mặt trong đó vậy. Vậy mà sư phụ cùng ông quan đại thần, thì không thấy gì hết? Trong khi đó thì ông lão du mục đang ngũ trong lều cùng, với một giấc mơ về một thời oanh liệt của ông ta…
Ông lão du mục nói: Các cháu đã nhìn thấy thời trai trẻ của ta chưa? Lúc đó bọn xâm lược, đã cho máy bay hạng nặng ném bom vào thủ đô. Nó thẳng tay giết sạch, từ già đến bé. Lúc đó các thành phố lớn đều bị đánh bom, khói lửa ngất trời. Nhưng với lòng yêu nước nồng nàn, quân dân ta đã sát cánh bên nhau, ngày đêm bám sát trận địa, và đã trả đòn cho quân thù thấy rằng. Không có gì có thể dập tắt được, ý chí chiến đấu anh dũng của quân dân ta. Các cháu hãy nhìn thấy đây... trong tận chiến này… hết lớp này ngã xuống, thì tiếp tục có lớp khác tiến lên. Trong khói lửa đạn bom mịt mù, vậy mà quân dân ta vẫn theo dõi đường bay của chúng. Những nòng pháo ngày đêm vẫn chỉa lên trời nhả đạn. Những con chim sắt, bất khả chiến bại kia đã đền tội. Chúng bị quân ta bắn rơi hàng đàn. Thấy thế bọn xâm lược mới bàng hoàng mà rút lui. Đại Hương nói: Vì sao thế hệ của bác, lại ngoan cường anh dũng thế kia? Cháu không thể nào hiểu nổi. Với hai bàn chân trần, mà quân ta đã vượt núi băng rừng, mở đường đi đánh giặc. Trong khi đó, thì quân thù không thôi trút đạn bom, xuống khắp các con đường của quân ta đi. Ông lão du mục nói: Thời của ta đi đánh giặc vui lắm, sống chết có hề gì. Vì ra đi với lý tưởng cao cả trong trái tim, là quét sạch quân thù ra khỏi biên cương đất nước. Là nước ta là một, dân tộc ta là một, sông có thể cạn, núi có thể món, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi. Lúc đó biết bao người đã ngã xuống, có những gia đình có cả chục người con là liệt sỹ. Có những bà mẹ bị mù, vì đã khóc cho nổi đau thịt của dân tộc đó các cháu ơi!
Ông lão du mục nói tiếp: Quân thù rất hiểm độc, chúng càn quét đốt phá xóm làng chưa đã. Chúng lại đem chất độc hóa học trút xuống ruộng vườn, rừng núi của chúng ta. Những dòng sông bị nhiễm độc mà chết. Rừng núi đồng cỏ bao la xanh rì cũng chết hết, không còn một lá cây ngọn cỏ nào. Và cái hậu quả của nó là, làm cho con người trở thành quái thai, thành những cái cơ thể sống đời thực vật đó..Các cháu có thấy không?
Đại Hương và các bạn, lắng nghe ông lão du mục nói. Và cứ thế, những trận đánh tiếp tục hiện ra ở phía chân trời không dứt. Những đoàn quân ngày đêm nối nhau tiến ra mặt trận. Nhưng cuối cùng thì tiếng hát khải hoàn cũng đã cất lên. Đó chính là cái hồn thiêng sông núi đang hiện về trong lòng các bạn trẻ. Nó thắp lên ngọn lửa yêu nước của mỗi con người. Non sông đất nước này ôi yêu quý giá biết bao! Vì thế mới có bao nhiêu lớp người đã ngã xuống, cho độc lập tự do của đất nước…
Nhưng lúc này, trong mái lều tranh, ông lão du mục đã thức dậy rồi.
…. Sáng nay ông quan đại thần bảo mọi người đi chặc cây làm nhà, Ông ta nói: Mình phải làm một cái nhà đàng hoàng cho gia đình này ở. Điều đó sẽ làm đở khổ cho người ta. Sư phụ nói: Hai ông bà quyết định ở lại đây à? Ở đây vắng vẻ hẽo lánh quá, nếu hai người già sống ở đây thì thật là tội nghiệp. Nếu khi đau yếu bệnh hoạn xảy ra, thì hai người tính làm sao đây? Ông lão du mục nói: Ôi cái thân già của vợ chồng tôi cũng đã gần đất xa trời rồi. Sống chết có số mạng cả. Chết được thì đã là phước lắm rồi. Thôi các ngài lên đường bình an mạnh khỏe..Vợ chồng tôi rất cảm ơn sự giúp đở của các ngài. Các ngài còn có đường mà đi. Nhưng vợ chồng tôi còn biết đi đâu nữa.  Thôi cứ nhận nơi đây là nơi, để sống những ngày cuối đời là tốt lắm rồi…Các ngài có thấy không? Phong cảnh nơi đây đẹp vô cùng…Vã lại vợ chồng chúng tôi, cũng không muốn có nhiều người đến, để rồi cảm thương cho gia đình tôi đâu..
Vậy là đoàn người lại lên đường, nhưng trong lòng ai cũng cảm thấy một cái gì đó đang bắt đầu cựa quậy và lớn dần lên…
Ảo ảnh sa mạc
59. Bây giờ đoàn người vẫn tiếp tục đi, và cái thảo nguyên xanh ngát kia dần khuất sau lưng. Mọi người đang du hành về đâu cũng không ai biết được. Họ cứ đi xuyên qua các làng mạc của mọi miền đất nước…Ông quan đại thần Xích Vân Tử hào hứng nói: Thật đẹp thay non sông đất nước ta! Yêu mến thay cảnh vật và con người! Nghe thế, sư phụ cũng cười mà rằng: Chúng ta cứ đi theo hướng này, chắn chắn sẽ đi về phía biển. Nhưng từ đây đến biển còn xa lắm! Vậy thì chúng ta sẽ đi vào sa mạc rồi. Nói đoạn sư phụ thúc con ngựa trắng cho nó bay lượn lên trời. Và từ trên cao sư phụ nói vọng xuống…Ồ sa mạc kìa, chúng ta đang tiến vào sa mạc rồi đó…
Nghe vậy Đại Hương và các bạn cũng dùng phép thuật bay lên mà nhìn ngắm. Con rồng Thiết Long cũng bay lên cao. Nó tung mình lên không bay lượn khắp nơi, rồi nó lại đáp xuống và nói: Chúng ta đi thêm một đoạn nữa là đến sa mạc cháy bỏng. Mọi người hãy chuẩn bị tinh thần, vì thời tiết ở sa mạc khắc nghiệt lắm đó. Ông quan đại thần hỏi sư phụ: Sa mạc là gì và hoang mạc là gì? Sư phụ đáp: Hoang mạc là cái sa mạc hoang vu không có người ở, nơi đó khắc nghiệt đến nổi, sự sống gần như không có. Con người khi đã lọt vào đó, thì cái bản năng sinh tồn phải mạnh hơn, thì mới tồn tại được. Thôi chút nữa đi vào đó rồi, thì ngài sẽ biết chứ gì đâu! Nói xong sư phụ liền cất tiếng hát:
Giã từ, giã từ, những gì triều mến nhất...
Để ta bước đi trên con đường trước mặt
Dù gian lao khó khăn nhưng đầy mộng
Hãy với tay lấy từ mộng ra thanh kiếm
Bay khắp nhân gian nói lời ngọc ngà
... Xung quanh ta đầy ánh sáng bao la
Đầy tiếng cười vang sảng khoái
Ta với tay hái tuổi mặt trời
Ta ôm mây ngàn ngũ say
Hòa với tiếng hát và ánh trăng
Thúc dục ta bước đi trên con đường đầy mộng...
Ông quan đại thần nghe vậy, thì cười vang và hỏi sư phụ rằng: Như ngài đã nói, thì vật chất ở khắp xung quanh ta. Vậy khám phá vật chất như thế nào là chính xác nhất?
Sư phụ nói: Ngài hỏi hay lắm! Thật ra, từ trước đến nay, con người khám phá vật chất, là chỉ trong cái nhìn chủ quan của mình mà thôi. Chứ hoàn toàn không có khả năng, để đối diện với thực tại. Này nhé! Vật chất đứng ngoài tư duy con người, thì nó hùng mạnh hơn con người gấp trăm ngàn lần. Con người chỉ biết trong giới hạn của mình mà thôi. Vì thế trái đất này sẽ không bao giờ chết. Không bao giờ hết những điều để con người kiếm tìm...
Sư phụ nói tiếp: Thực tại chính là cái dòng chảy của thiên nhiên nằm ngoài nhận thức của con người. Bởi vì khi con người tự tách hẳn mình ra được với những suy nghĩ của mình, thì lúc đó thực tại sẽ hiện ra. Có nghĩa là thực tại vẫn còn đó, mà con người vẫn quan sát nó, thông qua một lăng kính chủ quan của mình. Từ đó, cũng đi đến những kết luận hoàn toàn sai lệch, với cái thực tại đích thực. Khi bạn giác ngộ và đạt được trạng thái hư không. Lúc đó bạn mới đứng ngoài mọi vật, và cũng dễ dàng đến gần với mọi vật hơn. Lúc đó, bạn mới nhìn thấy hết sự hùng mạnh của vật chất, mà bên trong nó, chứa đựng một nguồn năng lượng vô biên.Vật chất đó không phụ thuộc vào sự quan sát của con người, mà nó làm chủ con người...
Sư phụ tiếp: Thời đại hiện nay, là thời đại vật chất có linh hồn, và con người, thì là người giúp việc cho nó mà thôi. Khi cuộc chiến tranh dân chủ kết thúc, thì con người thôi hết làm nô lệ cho vật chất. Mà lúc đó, các hệ tư tưởng sẽ đi đến chổ hòa hợp, không còn phân biệt nữa. Người ta không bị phụ thuộc vào các loại ý thức hệ, để tránh cái suy nghĩ độc tài kia. Để bảo vệ cái này tốt hơn cái kia, Hay tranh cải không được, thì dùng đến bạo lực để khẳng định mình là đúng. Ngày đó mới thật sự là bình minh của loài người.
Ông quan đại thần hỏi: Vậy đi đến chổ hòa hợp là gì? Vì sao các hệ ý thức bế tắc và phải đi tới chỗ hòa hợp đó.
Sư phụ nói: Thật sự thì sự vận hành của tạo hóa rất bình thường. Và cũng từ đó mà sinh ra con người và tạo vật. Thế nhưng con người không thể chấp nhận như thế. Họ mơ mộng, và gạt đi những cái bình thường của tự nhiên. Mà tự chế ra những phương pháp mới để cải tạo tự nhiên. Họ đã tự đặt ra những học thuyết “siêu vượt” trên cả con người, để biến con người trở thành người thống trị tất cả. Tôi không bao che cho những sai lầm của thánh thần và thượng đế, khi đè nặng lên tinh thần con người quá đáng. Nhưng tôi cũng cảnh báo rằng, với những học thuyết hoang tưởng của mình, sẽ là tai họa cho loài người. Và bằng chứng là theo thời gian, những học thuyết hoang tưởng đó đã sụp đổ, rồi kéo theo hàng loạt những điều mơ mộng lý tưởng khác, sụp đổ theo. Đó chính là tư tưởng của thời đại ngày nay.
Sư phụ nói tiếp: Tư tưởng hiện nay đang hỗn loạn như thế thì gọi là hiện đại. Và sau thời đại này nữa là gì? Người ta gọi là hậu hiện đại. Vậy thì chúng ta phải xét tư tưởng hiện đại là gì?
Theo tôi thì, thành tựu của tư tưởng hiện đại, nó rất sâu rộng, như chính lịch sử tư tưởng văn hóa văn minh, của con người phát triển đến ngày nay vậy. Vì tư tưởng hiện đại, nó như một cái cây. Mà hệ tư tưởng chính thống là cái thân cây. Còn các nhánh cây, là các hệ ý thức triết học khác. Như vậy thì tư tưởng hiện đại, nó vừa có cái tư tưởng hàn lâm chính thống, và các học thuyết cách mạng trong thời đại mới, như tất cả cái cây tri thức từ gốc đến ngọn, mà chúng ta nhìn thấy đó. Nhưng như thế, cũng bế tắc, và điều bây giờ, người ta muốn kiếm tìm, là không phải tìm những điều đã có trên cái cây tư tưởng kia. Mà nó là gốc rễ của cái cây đó, đang nằm ở dưới đất. Vậy thì cái điều mới mẻ này, chúng ta đã không thể thấy được, vì nó luôn trong cái vòng vô hình mà. Và chỉ có người nào đã mặc khải chân lý, thì mới chạm tới nó thôi. Và để sửa chữa cái này, người ta mới đặt ra cái là đa nguyên. Đó như là một sự dàn xếp bề mặt, để hòa hợp. Nhưng nó cũng không thể nào giải quyết được vấn đề, vì nó chỉ giải quyết được cái bên ngoài mà thôi. Vì cái mà người ta gọi là đa nguyên đó, thì nó luôn được sinh ra từ tâm trí rối loạn, chứ không phải ở tận cùng góc rể của tư tưởng con người, là tâm thức, là chân lý. Nếu loài người đi tới chỗ này, thì mới thực sự là không có gì phân biệt nữa. Vì nó có sự cảm thông cho nhau. Cái đó là tình yêu. Là giới hạn cuối cùng của con người đó. Nếu bất cứ việc gì vượt qua cái giới hạn này, đều không cần thiết.
Ông quan đại thần vừa nghe vừa gật gù cái đầu, Ông ta lờ mờ hiểu ra rằng, bây giờ người ta đang đi đến tận cùng của cái rể cây ở dưới đất, chứ không cần cái cây đó nữa.
60. Sa mạc thật khắc nghiệt, nơi đâu cũng đầy cát bỏng phỏng rát. Từng đám bụi cát bay phủ lên đầu của đoàn người, nó quất vào mặt làm đau rát không thể chịu nổi. Loài thực vật duy nhất sống được ở đây, là những cụm sương rồng đầy gai gốc. Chúng chống đơ với hoàn cảnh sống khắc nghiệt, để trổ ra những bông hoa màu đỏ ly ty. Những con ngựa không thể nào vượt lên được nữa. Vậy là mọi người phải xuống đi bộ và dắt ngựa đi.
Đoàn người đã đi được hơn nữa ngày trong sa mạc. Mặt trời nóng đỏ treo trên đầu. Nhiệt độ đã lên rất cao, nên mọi người đều bị mất nước, và phải uống nước liên tục. Thì bổng đằng xa, khi nhìn xuyên qua những cơn bão cát. Đại Hương đã phát hiện ra một ốc đão xinh đẹp. Ở đó có những tán cây xanh, ao hồ và ngồn nước.
Thế là mọi người sung sướng la hét vui cười, và mau mau đi đến nơi đó. Tới nơi thì đã gần sắp chiều tối rồi, nên mọi người mới vào những mái nhà tranh ở đó để nghỉ ngơi. Thì ra đó là một khu lều tranh tróng trơn, không có bóng người. Ông quan đại thần Xích Vân Tử nói: Thôi chúng ta hãy ở tạm lại nơi đây để dưỡng sức, ngày mai còn đi tiếp nữa. Ông sứ thần cũng nói: Ừ chúng ta cứ nghĩ lại đây đi. Vậy là sư phụ cũng đồng ý ở lại..
Lúc này mọi người đã vào trong các căn lều, trời cũng đã về chiều. Bất thần Đại Hương nghe như có trăm ngàn bước chân người đang chạy tới rầm rập. Đại Hương liền đi báo cho mọi người biết. Thì quả là có người đến thật. Và từ bốn bên của những căn lều. Bọn cướp áo đen bịt mặt đang vung gươm xông tới. Chúng tràn vào trong những mái lều để truy sát. Trong khi đó thì những bóng đen ma quái khắp nơi trên sa mạc cũng đang hiện ra. Chúng gào thét inh ỏi, và nhào tới chập chùng bủa vây bốn bề Sư phụ vội chạy ra khỏi lều và thốt lên: Ảo giác! Ảo giác hay là sự thật đây? Vì ở sa mạc lắm ảo giác mà. Nói vậy nhưng sư phụ cũng rút gươm ra chống trả với bọn chúng quyết liệt. Ông quan đại thần Xích Vân Tử thì một mình chiến đấu trong vòng vây. Ông sứ thần của đức vua thì theo sát bên sư phụ. Trong khi đó thì Thiên Hùng đã tung cây kiếm đá linh thiêng lên trời. Cây kiếm đá linh thiêng hiện ra trăm ngàn cây kiếm khác. Nó lao vào toán cướp áo đen bịt mặt, mà chém giết vô số kể. Tiểu Hoa và Bạch Ngọc cũng đang tham chiến. Hai cô bé cũng phải tự cứu lấy thân. Bạch Ngọc liền rung liên hồi cái chuông vàng. Tức thì nó phát ra tiếng động đinh tai nhức óc. Con rồng Thiết Long thì bay lên cao, quấn lấy bọn quỷ dữ. Nó liên tục phun lửa vào bọn chúng, làm bọn chúng bị thiêu cháy thành những nắm tro tàn rơi xuống cát…
Sư phụ nói lớn: Mọi người hãy bình tỉnh, đây là những ảo giác mà thôi! Sư phụ nói dứt lời, thì có một làn gió mát thổi qua, mặt trời bắt đầu lặn xuống dưới đụn cát. Tức thì cơn gió đó, liền cuốn bay đi hết tất cả hình ảnh của bọn quỷ quái, và cả lũ cướp áo đen. Và một điều thật kinh hãi là, tất cả đã biến mất, kể cả những căn lều trên vùng sa mạc mênh mông kia.
Bây giờ mọi người đều ngồi bệt xuống cát mà thở hỗn hển. Ông quan đại thần Xích Vân Tử nói: Quái lạ! Sao chúng hiện ra thật như thế, rồi tất cả đều biến mất là sao? Sư phụ nói: Tất cả những điều đó đều là ảo giác sa mạc. Chúng ta đứng đây rất nhỏ bé trong sa mạc rộng lớn, nhưng khi chúng ta bay lên thật cao, và trong thấy cái sa mạc cát trắng này, như một tấm gương khổng lồ dưới ánh sáng mặt trời. Và thông qua tấm gương đó, nó phản chiếu cái hình ảnh của xa xưa hiện về đây, như chúng ta đã thấy. Vậy thì bây giờ chúng ta không nên lo sợ nữa, vì bây giờ là đêm tối rồi, thì hãy ngũ đi thôi. Thế là mọi người nằm xuống cát mà ngũ, như vừa đi qua một giấc mơ hãi hùng.
Đêm đó khi mọi người đã ngũ say, nhưng riêng Đại Hương thì không ngũ được. Bây giờ ánh trăng tròn đã lên cao. Còn nhiệt độ đã thay đổi đột ngột, và khắp nơi trên sa mạc đều dâng lên cái lạnh cắt da cắt thịt. Sự thay đổi đột ngột của thời tiết, đã làm cho những tảng đá bắt đầu co lại, và nức ra kêu rắc rắc. Đại Hương tự nghĩ: Đá núi mà còn nức nẻ, huống chi là con người.
Nghĩ vậy nên Đại Hương rất lấy làm lo lắng, vì trời đất ở đây hoang vu không có gì cả. Trận chiến ban chiều là điều có thật hay là ảo giác cũng không thể biết được. Vậy cho nên cậu ta không an tâm, khi mọi người đã ngũ say. Cậu ta nghĩ: Nếu lần này là bọn cướp đến thật thì sao đây? Nếu mọi người trở tay không kịp thì thật đáng tiếc. Nghĩ vậy, Đại Hương mới không ngũ nữa, mà chống gươm nhìn ngắm đến tận phía xa của chân trời….
Nhưng ở phía xa sau đụn cát lớn kia, là một bóng dáng êm đềm hiện ra. Đó là một tòa lâu đài màu xanh biếc, hiện ra dưới ánh trăng thật huyền ảo lạ lùng. Bên trong tòa lâu đài chiếu ra những ánh sáng lung linh, thông qua các của sổ của tòa lâu đài xinh đẹp. Và hình như bên trong đó cũng có người ở, đang đi đi lại lại. Rồi từ đó phát ra những tiếng hát cao vút đầy mộng mị và mê hoặc…Đại Hương không thể nào cưỡng lại được sức hấp dẫn của nó, nên lần bước đi đến đó. Và không bao xa, cậu ta đã đứng trước cửa tòa lâu đài màu xanh rồi. Cậu ta giật mình tưởng rằng mình đang mơ. Nhưng chẳng có mơ màng gì hết. Vì tất cả những gì hiện ra đều rất thực và sống động. Cậu ta sờ vào chiếc cổng của lâu đài thì nó đúng là thật. Cậu ta sờ vào mặt mình, thì thấy vẫn là mình, không thể sai khác được. Thế là cậu ta hé cổng đi vào bên trong…
61. Sáng hôm sau thức dậy, Tiểu Hoa phát hiện ra rằng, Đại Hương đã mất tiêu đâu rồi. Mọi người cuống cuồng đi tìm khắp xung quanh, cũng không thấy Đại Hương đâu. Sư phụ bèn kêu Tiểu Hoa lấy chiếc gương thần ra xem, Đại Hương giờ này đang ở tận nơi nào rồi. Thế là Tiểu Ngọc lấy chiếc gương thần ra xem.
Khi mọi người đang chăm chú nhìn vào chiếc gương thần, thì một trận bão cát ập tới. Nó tràn qua đoàn người và nhấn chìm tất cả. Vậy là mỗi người mạnh ai nấy chui ra khỏi cát để đi tìm nhau. Tiểu Hoa phủi cát trên chiếc gương và tìm xem Đại Hương giờ nơi đâu? Thì ra trong gương thần cho thấy, Đại Hương đang nằm ngũ một mình ở một nơi nào đó trên bãi sa mạc này thôi. Nhìn thấy cảnh đó Tiểu Hoa liền kêu tên Đại Hương. Nhưng Đại Hương đã ngũ rồi thì làm sao nói chuyện được đây? Sư phụ nhìn thấy cảnh ấy thì bảo rằng. Hiện giờ Đại Hương đã đi lạc đường vào các ảo ảnh của sa mạc rồi. Sa mạc thì rộng mênh mông mà biết tìm cậu ta ở đâu đây?
Tiểu Hoa hỏi sư phụ: Thưa sư phụ, ảo giác sa mạc là gì mà cuốn mất anh Đại Hương đi rồi? Sư phụ trả lời: Ảo giác sa mạc là do con người quá cô đơn mà sinh ra. Bên trong tinh thần con người cũng lắm ảo giác như vậy đó. Nhiều người đi lạc vào đó rồi không biết lối nào ra. Vì không ra được, nên họ ở mãi trong đó với những trò chơi ngôn ngữ bất tận. Như con mèo làm rối cuộn len, hay như khi ta đi lạc vào một ngôi nhà bốn bên làm bằng kiếng. Tất cả các hình ảnh hiện ra, đều để phản ánh cái ước muốn của ta. Trong đó, tâm lý con người mịt mù và luôn ước mơ. Ước mơ dữ dội đến nổi, nó hiện ra bên ngoài, như chính chúng ta đã nhìn thấy nó thật rỏ ràng. Vì linh ứng của tâm lý, là muốn gì thì sẽ được nấy. Người ta sống trong ảo giác, thì còn tốt hơn là đối diện với một sự thật trần trụi. Cái sự thật đó là sự cô đơn lẽ loi của con người, đang lang thang trong một cái sa mạc hoang vu. Nhưng nếu con người biết cách nhận thức được sự cô đơn của mình, để thanh lọc tinh thần, để làm cho tinh thần chúng ta mạnh mẻ hơn, thì đó là điều tốt. Cái tinh thần tạo ra ảo giác kia, thì gọi là cô đơn. Nó là cái bóng đêm bất tận, phủ trùm lên đời người.
Sư phụ nói tiếp: Cô đơn là một diễm phúc trời ban cho con người, nhưng các ác thần cũng xí phần trong đó. Chúng đưa ra những ly rượu mạnh, để chuốc lấy cuộc đời bạn. Nếu bạn yếu đuối và dễ sa ngã. Bạn luôn lấy những thú vui đời sống để khỏa lấp cô đơn. Nhưng cuối cùng bạn vẫn đau khổ không dứt.
Cô đơn đôi khi cũng được xài như một món hàng xa xỉ, một thứ trang sức để giao tiếp nơi những bữa tiệc tình yêu của con người. Người ta cô đơn quá đâm ra si mê lú lẫn, bướng bỉnh ngang tàng, cứng đầu cứng cổ và hay có hành động phản kháng như một tệ nạn của xã hội. Cô đơn đau khổ cũng sinh ra ích kỷ hẹp hòi và cả những tên tội phạm. Và cô đơn cũng làm cho con người dể thương đáng yêu hơn, và cũng nồng nàn hơn. Người cô đơn bất chợt chạm tới hạnh phúc, thì cảm thấy nó to lớn gấp ngàn lần người thường, đến nỗi họ lầm lẫn cả hạnh phúc và đau khổ…
Ở một số người, cô đơn được ví như những khẩu đại bác trên đồi cao suốt ngày cứ bắn ầm ầm liên tục xuống cánh đồng, mà thực ra dưới đó chẳng có gì, đến khi hết đạn thì mới hiểu mình sai lầm, và khó có thể quay lại được. Cô đơn là phải biết bơi tới bờ bên kia “đáo bỉ ngạn” mới thấy được cô đơn xinh đẹp như thế nào? Chứ cô đơn mà cứ đi tìm đường chạy trốn mãi, hoặc lao vào những cuộc vui chơi đời sống, để khỏa lấp, thì chỉ khuây khỏa được trong chóc lát, nhưng cô đơn ngày một nhiều hơn, và có thể dẫn đến tuyệt vọng mà chết.
Cô đơn còn được người ta dùng như một nhu cầu giải trí, cho những người đoan chính nhất, chung thủy nhất với gia đình mình. Họ luôn nuôi dưỡng nỗi cô đơn của mình, bằng những hình ảnh của quá khứ, mà họ cứ tưởng là thiên đàng, là bất tử trong lòng. Nỗi cô đơn này còn khổ  hơn, khi chuyện tình duyên thời tuổi trẻ không thành, và từ đó họ xây đắp mỗi ngày thêm cho nó như một nấm mồ vĩ đại, hoặc thành một thứ cung điện nguy nga tráng lệ, để mỗi ngày rảnh rổi thì họ chui vô đó vui chơi thỏa thích một mình.
Cô đơn có một sức quyến rũ rất diệu kỳ, hơn bất cứ điều gì trên đời này. Cô đơn là chén thánh, hay là một liều thuốc độc, nếu bạn biết cách lựa chọn. Cô đơn làm tiêu hủy mọi kiến thức, hiểu biết của con người, để được nhẹ nhàng hơn. Cô đơn dẫn ta đi lên núi cao, vực sâu, vào những nơi nguy biến nhất. Cô đơn là lá bùa hộ mệnh, cho những người dũng cảm, là lưỡi hái tử thần cho những kẻ yếu đuối, là ngọn gió mênh mông trên thảo nguyên, làm mơ màng say đắm cả những con thú dữ. Cô đơn là bài hát thăm thẳm trong lòng người…
Sư phụ nói tới đây thì Tiểu Hoa liền khóc nức nở rồi chạy đi tìm Đại Hương.
62. Khi Đại Hương bước chân vào trong tòa lâu đài màu xanh, thì thấy xung quanh mình thật nguy nga tráng lệ làm sao! Những bóng hình kiều diễm đang lần lượt hiện ra, cầm tay cậu ta kéo vào trong. Thế là cậu ta đi vào bên trong. Đại Hương bước vào trong đại sảnh của tòa lâu đài. Thì thấy ở đây toàn là vàng bạc châu báu, gấm vóc lụa là, lấp lánh đến chói mắt. Những chiếc đèn làm bằng pha lê chiếu sáng khắp nơi. Những cầu thang tay vịn, và ly tách trên bàn, chổ nào cũng lấp lánh lạ kỳ. Đại Hương nói với một cô gái đẹp: Đây là đâu? Mà chỗ nào cũng lấp lánh xinh đẹp thế kia? Cô nàng kia trả lời. Đây là tòa lâu đài màu xanh. Là nơi đầy lạc thú, để thưởng cho những ai đã đi vào sa mạc này. Chàng hãy ở đây và tận hưởng những phút giây hoang lạc này đi. Thế là các cô gái trong những bộ đồ mỏng như tơ, cầm tay nhau múa hát xung quanh Đại Hương. Cậu ta thích thú quá, cùng ngã nghiêng với tiếng hát, trầm bổng du dương ngân nga thật khó tả. Cậu ta đi lên lầu, và lại thấy những khung cảnh huy hoàng lại mở ra tiếp theo. Mà khung cảnh này, còn đẹp đẽ xa hoa tráng lệ hơn cái khung cảnh mà cậu ta vừa gặp dưới kia. Bất giác cậu ta tự hỏi: Mình đang mê hay tỉnh đây, mà sao chổ này lại lộng lẫy khác thường thế không biết?
Cứ thế, Đại Hương đi hết căn phòng này đến căn phòng khác, trong cái lâu đài màu xanh này. Trong mỗi căn phòng là một thế giới, khác với thế giới con người đang sống. Nó huy hoàng sáng láng khác thường làm sao. Nó là tất cả những giấc mơ đẹp nhất trên đời đã hội tụ về đây. Và bây giờ Đại Hương đang ở trong vòng tay những cô gái đẹp, họ dâng cho cậu ta những ly rượu thơm, và những thức ăn ngon. Cậu ta uống say, rồi ngã vào một chiếc ghế dài màu đỏ mà ngũ…
Khi thức dậy thì cậu ta lại chìm vào những cơn say bất tận. Bất giác cậu ta nghĩ tới Tiểu Hoa Và sư phụ cùng những người khác. Thế là cậu ta kiếm đường đi ra khỏi lâu đài, nhưng tìm mãi vẫn không thấy lối ra. Vì từ căn phòng này, nó nối liền với những căn phòng khác, rồi dẫn ra hành lang, rồi đi xuống khu vườn màu xanh. Rồi từ ngôi vườn màu xanh cậu ta lại đi lên đại sảnh…Cứ thế, cậu ta đi tìm lại những người thân quen củ, đều không thấy được ai. Mà nơi đây, chỉ thấy một khung cảnh sa hoa mà xa lạ quá. Cậu ta hốt hoảng la lớn lên, thì cũng chẳng thấy ai nghe cho, mà chỉ thấy đám con gái đẹp kia đang cười khúc khích mà thôi.
Bổng nhiên, cậu ta cảm thấy tuyệt vọng trước khung cảnh đẹp đẽ tràn đầy này. Cậu ta nghĩ rằng, mình đi vô tòa lâu đài này là một sai lầm. Nhưng cậu ta không thể thoát ra được nó. Vì nó không có những điều giản dị yêu thương, vốn gắn bó với tâm hồn của cậu ta. Cậu ta thấy sao buồn bã quá, và cậu ta bật khóc, rồi đi dần vào một giấc ngũ mê man...
Khi Đại Hương thức dậy, thì không thấy mình nằm trong tòa lâu đài tráng lệ kia nữa. Tất cả những hình bóng xa hoa lộng lẫy kia, giờ đã biến mất hết. Mà thế vào đó là một khung cảnh hoang vu đến rợn người. Tất cả đều hoang vắng hãi hùng. Ở đây không hẳn là sa mạc, mà là một cánh đồng chết chóc. Ở chốn hoang địa này, chỉ toàn là mồ mả, và tiếng quạ kêu khóc thảm thiết. Bóng tối chập chờn mù mịt khắp nơi. Nó không sáng bừng, mà cũng không tối mịt. Nó cứ mờ ảo nhập nhòe giữa sáng và tối, thật thâm u mệt mõi. Không khí như ngừng tụ lại và mất hết sức sống. Đại Hương thấy mình lẽ loi kinh khủng. Nó như một cuộc độc hành quá thê lương. Đó là sự cô độc hiển lộ, rõ ràng trong tiếng gọi thăm thẳm của lòng người.
Lần này thì Đại Hương đã khóc thật rồi. Cậu ta ngồi ôm đầu mà gào khóc to lên, nhưng chả ai nghe thấy nữa. Trong lòng cậu ta đã biết mình đang lạc đường. Cậu ta biết mình đã đi lạc quá xa, vào những nơi không hề có người ở thế giới này! Trời ơi! Sao từ khi bước chân vào sa mạc, sao có lắm trò quỷ quái thế kia? Không biết giờ này các bạn của mình ở nơi đâu? Họ đang vui vẻ bên nhau, hay mỗi người đi mỗi ngã? Có thể mỗi người đã đi lạc, vào trong những mộng mị của chính mình hết rồi. Mộng mị thì có mộng mị tốt lành, và mộng mị tối tăm. Ôi cái mộng mị tối tăm này, biết ngày nào ta mới thoát ra được nó đây?
Bây giờ Đại Hương la khóc chán rồi thì dò dẫm bước đi. Cậu ta đi tới đâu cũng chỉ thấy cảnh hoang tàn đổ nát. Nhà cửa lâu đài, thành quách cung các, đều đã sụp đổ hết, Trong cái thành phố vắng tanh này, chỉ còn lại tiếng vỗ cánh của lũ dơi bay đi ăn đêm. Chúng bay đi từng đàn và vỗ cánh rào rào như mưa. Đại Hương nghĩ: Ta là ai? Và ta đang đi về đâu đây? Khi xung quanh ta đã vắng bóng con người, mà chỉ còn in lại những cái dấu chân, đang đi tới bên bờ vực thẳm. Ồ! Đại Hương đã hiểu. Có thể loài người đã mất hút hết sau cái vực thẳm mù mịt kia chăng? Thế là Đại Hương cũng nhắm mắt lại và lao đầu xuống cái vực thẳm kia luôn…
63. Lúc này Tiểu Hoa đã thôi khóc mà trở nên yên lặng khác thường. Đoàn người đã lên đường, nhưng không còn Đại Hương nữa. Vì cậu ta đã đi lạc vào một xứ sở nào đó rồi. Sa mạc thì mênh mông biết đâu mà tìm. Cái gương thần thì không nhìn thấy gì cả. Tiểu Hoa và Bạch Ngọc ra đi lặng lẽ, nên làm cho không khí trong đoàn cũng kém vui vẽ đi. Thấy vậy sư phụ mới nói: Không có sao đâu mà lo! Vì Đại Hương là một chàng trai mạnh mẽ mà. Nó sẽ không mãi lạc lối đâu. Vì những ai đi lạc vào những nơi mộng mị của chính mình, thì chỉ có họ mới biết cách tìm đường ra. Mỗi người đều phải thắp đuốc lên mà đi. Không ai làm thay cho mình được.
Vậy là đoàn người đã quyết định đi tiếp, mà không có mặt của Đại Hương. Ông quan đại thần Xích Vân Tử nói: Chúng ta đang đi về đâu đây? Sao cái sa mạc này rộng lớn thế? Chúng ta đã ra đi nhiều ngày rồi mà cũng  không ra khỏi sa mạc? Sư phụ nói: Cứ nhằm thẳng phía trước mà đi. Cứ đi thằng và xuyên qua các ảo ảnh mà sa mạc, đã tạo ra, để đánh lừa chúng ta. Các bạn cứ đi sát bên nhau nhé! Nào chúng ta sẽ đi xuyên qua cái sa mạc nóng rát khắc nghiệt này…
Vậy là đã nhiều ngày qua, đoàn người cứ đi xuyên qua sa mạc, mặc cho những ảo giác xuất hiện rồi héo tàn. Đoàn người cứ đi vượt lên phía trước. Đã có nhiều người gục ngã, vì không thể chịu đựng nổi vất vã trên đường đi. Đám học trò của sư phụ thì cứ đi như những cái bóng vật vờ. Thiên Hùng và Đại Lực đã mệt lắm rồi. Còn Tiểu Hoa và Bạch Ngọc thì đã ngất xỉu mấy lần. Người ta đã phải chở hai cô nàng đi, như chở những bao hàng trên lưng ngựa. Sư phụ thì không nói gì, chỉ hướng mắt nhìn về phía xa xăm…
Ông quan đại thần Xích Vân Tử nói: Cứ theo cái đà này thì chết mất. Vì cái khó khăn mỗi ngày lại chồng chất cao hơn. Nghe vậy sư phụ mới nói: Ngài đừng bi quan quá mà nói như thế chứ. Không có chết dâu mà sợ. Này nhé! Ở đời này nếu cứ sống theo lẽ tự nhiên, thì tất sẽ cân bằng thôi. Vì khi nó đã đi lạc vào tai họa quá lớn, thì cũng tự nó sẽ tìm được đường ra. Cứ thông thả mà đi thì sẽ tới nơi thôi. Còn quá lo lắng, rồi cực đoan, thì sẽ bị bất trắc và thất bại. Những người gục ngã dọc đường, là vì họ thiếu niềm tin đó. Nghe thế thì ông quan đại thần mới hỏi sư phụ rằng. Vậy theo ngài thì có ngày tận thế không? Theo tôi biết, thì người ta nói ngày đó đã sắp sửa đến nơi rồi. Sư phụ trả lời: Không có. Không bao giờ có cái gọi là ngày tận thế đâu. Vì sao? Như tôi đã nói nhiều lần rồi. Con người quan sát thế giới này luôn theo cái tâm lý lo lắng và sợ hãi. Có nghĩa là con người chưa hề nhìn thấy được thực tại, mà chỉ hiểu nó theo cái nhìn chủ quan của mình mà thôi. Vì con người đa số là tư duy nhị nguyên. Để đi tới cái giới hạn cuối cùng. Mà cái tận cùng thì làm sao mà có được? Người ta không hề thấy được rằng. Cái gì đang tiến triển mãi theo một trào lưu gì đó…đi tới chỗ tới hạn, thì lập tức nó sẽ thay đổi, và quay lại để cân bằng. Người ta đi theo cái tư duy một chiều, là luôn phủ nhận những cái củ. Họ hăm hở làm điều đó, là vì họ không có những cái củ thật sự có giá trị. Tư duy một chiều là lướt đi trên bề mặt, mà không sao nắm bắt được linh hồn của sự vật. Khi người ta nhìn thấy loài người sai lầm, và gây nên tội ác nhiều quá, nên người ta sinh ra bi quan. Người ta nghĩ, ngày tận cùng của thế gian tội lổi này, đã sắp sửa tới rồi....Là ngày tận thế đó. Nhưng như tôi đã nói. Cái dự đoán đó, là cái tinh thần chủ quan của con người mà thôi. Nó chẳng có liên quan gì tới thực tại cả. Nó suy luận một chiều theo kiểu giãn nở ra mãi. Mà nó không tính tới cái chổ tới hạn, là sự vật đó nó sẽ co lại, để cân bằng theo quy luật của tự nhiên. Điều này. nó giống như là người ta đã chế tạo ra bom nguyên tử vậy. Vì bây giờ thực chất bom nguyên tử không có giá trị sử dụng nữa. Mà nó chỉ là một biểu tượng cho sự hủy diệt. Người ta đã tự biết như vậy, nên đã đi tới chổ là tiêu hủy nó đi….
Sư phụ nói tới đây, thì trời đã tối rồi. Thế là đoàn người dừng lại nghĩ ngơi…
64. Khi Đại Hương lao đầu xuống cái vực thẳm tối đen kia, thì biết mình đã chết rồi. Cậu ta đã nhìn thấy cái chết trước mặt, và một bình minh khác sẽ không có mặt của cậu ta. Tất cả đối với cậu ta chỉ là một giấc mộng. Và không biết ở phía bên kia cái chết, có còn gì nữa không? Hay nó tróng rỏng không có gì hết, vậy thì chết đi thì thật là chán rồi. Người ta nói thế giới hiện thực, thì cái gì cũng là thực. Nhưng sao cậu ta nhìn thấy cái ranh giới của nó quá mong manh. Cái này cứ lẫn lộn vào cái kia không dứt. Nó cứ cuốn cậu ta đi như cơn gió thổi bay những chiếc lá trên sân. Bây giờ cậu ta đang bay vào đâu? Hay là đang bay vào cỏi chết, để chấm dứt tất cả những ảo ảnh xen kẻ nhau, làm nên bộ mặt cuộc đời này. Và quả thật cái chết êm đềm lặng lẽ như thế, thì nó là nơi cất dấu của những cuộc đời tối tăm một cách tốt nhất rồi…
Nhưng sự thật lại không như vậy, vì Đại Hương vẫn chưa chết. Cậu ta vẫn còn động đậy, giẫy dụa trên mình ngựa. Cậu ta mở mắt ra thì thấy xung quanh là sa mạc mênh mông. Còn cậu ta như một món hàng của những kẻ xa lạ đã bắt cậu ta đi. Đại Hương biết mình vẫn chưa chết nên hét lớn..A! A!
Khi nghe tiếng cậu ta la lên, thì một người trong toán người vượt sa mạc này vội đi tới, và nói với Đại Hương rằng: Này chàng trai! Chúng tôi đi qua đây, và gặp anh nằm xỉu giữa sa mạc này. A ha! Bây giờ anh đã tỉnh lại rồi thì muốn gì đây? Đại Hương nói: Hãy tháo dây trói cho tôi, và cho tôi nước uống! Ủa! tôi vẫn còn sống sao? Người đó nói: A ha! Anh vẫn còn sống mà! Được thôi! Này nước đây. Hãy uống đi và có đi theo chúng tôi không? Đại Hương nói: Cho tôi đi theo các ngài với. Hãy dẫn tôi đi khỏi cái sa mạc quỷ quái này với..
Thế là Đại Hương đã nhập bọn với một nhóm người khác để vượt qua sa mạc.
Khi đoàn người buôn này đã vượt qua sa mạc rồi, thì họ dừng lại và đi vào một cái chợ. Họ nói với Đại Hương rằng: Bây giờ đã qua khỏi cái sa mạc khủng khiếp kia rồi, thì cậu muốn đi đâu thì đi đi. Đây là số tiền cậu cầm lấy để tiêu dùng. Hãy đi vào một ngôi làng gần đây mà kiếm việc làm để sống. Thôi cậu đi đi. Chúc lên đường bình an..
Đại Hương liền cúi đầu từ tạ những người kia, và đi vào một ngôi làng gần đó. Cậu ta đi mãi, đi mãi mà chẳng có nơi nào nhận cậu ta ở lại cả? và số tiền trong túi kia cũng đã gần sắp hết rồi.…
Một hôm, Đại Hương gặp một người đi buôn cá khô từ biển lên. Vì ông ta nhờ Đại Hương khiêng vác những bao hàng vào chợ mà. Ông ta nói: Nếu anh muốn kiếm tiền, mà sống cho qua ngày, thì hãy đi về phía biển. Từ đây tới đó cũng hơi xa. Nhưng đó là cách duy nhất mà anh có thể làm trong lúc này. Đại Hương nói: Tôi đã thất lạc bạn bè và sư phụ tôi ở trong sa mạc. Họ nói rằng sẽ đi về biển, vậy bây giờ tôi đi về biển thì có thể tìm lại được họ rồi. Vậy thì ông hãy cho tôi đi cùng với nhé! Ông ta gật đầu, thế là ngày hôm sau Đại Hương đã đi theo ông ta đi về phía biền…
Từ đó trong lòng Đại Hương như có một tiếng gọi lạ lùng, bất giác cậu ta bèn thốt lên: Về biển, về biển, về biển thôi. Biển gầm gào dữ dội. Vẫy gọi ta..Biển ngày đêm giục giã ta. Réo gọi tên ta. Ôi bầu trời kia sao trong xanh đến thế. Ôi biển bao la chập chùng sống vỗ. Đã bao lần ta chết chìm trong biển. Biển chôn đời ta sâu thẳm. Ngơ ngác trong nước biển mặn mà. Về biển, về biển, về biển thôi. Con ngựa biển hí bờm căng bọt song. Vỗ đôi cánh biển đêm ầm ào. Ôi biển bao la sẽ đưa ta về đâu. Về đâu, về đâu? Ôi lòng ta dâng triều lên như biển, đầy sóng...
Bóng ma trên biển
65. Cuối cùng thì đoàn người cũng đã đi qua sa mạc. Tiểu Hoa và Bạch Ngọc đã ngã bệnh, nên ông quan đại thần ra lệnh dừng lại nghĩ ngơi. Bây giờ đoàn người đã đến một ngôi làng chài gần biển. Người ta phải vào trong làng để mua thức ăn và nước uống. Sư phụ nói: Chúng ta hãy dựng những cái lều lên để ở tạm cái đã. Đừng nên vào làng chài làm phiền người ta. Ông quan đại thần nghe vậy thì cũng đồng ý, và ông ta bảo mọi người hãy mau mau dựng lều lên để ở.
Lúc này Tiểu Hoa và Bạch Ngọc, đã được đưa vào trong một cái lều để chăm sóc, vì hai cô nàng đã bị kiệt sức lắm rồi. Thiên Hùng và Đại Lực thì đi ra biển tắm. Còn sư phụ thì ngồi trong lều, với ông quan đại thần Xích Vân Tử. Ông quan đại thần nói: Ngài có thấy kỳ lạ không? Cái làng chài này sao chẳng thấy ai đi biển hết?Trời đất biển cả thanh bình thế kia, mà  mọi người đều ở nhà. Tôi thấy ghe thuyền của họ neo ở đây lâu rồi, nên tôi chắc rằng ngoài biển đang có điều gì đây. Sư phụ nói: Để tôi đi thăm hỏi xem sao.
Thế là sư phụ cùng ông quan đại thần đi vào trong làng chài để hỏi thăm. Hai người đã đến nhà của ông trưởng làng chài. Ông ta tiếp hai người trên một cái bàn dưới gốc dừa, và mời hai người uống nước dừa. Xong, ông ta nói: Mấy ông đến đây đã chậm trể mất rồi. Cách đây hơn một tháng, khi chúng tôi đi biển thì bị bọn hãi tặc đánh cướp tàu. Chúng đã chiếm được những hòn đảo của chúng ta từ lâu rồi. Chúng đồn trú trên đó rất đông, và không chừng có ngày chúng tràn cả vào đây đấy chứ. Vậy nên chúng tôi không dám dong thuyền lớn ra khơi được. Mà ngư dân vùng này, chỉ chèo thuyền nhỏ, đi quanh quẫn trong bờ, để bắt tôm bắt tép thôi…Nghe vậy ông quan đại thần Xích Vân Tử liền tức giận nói lớn: Không xong rồi. Tôi sẽ sai người về triều trình lên đức vua, để lấy quân đi đánh bọn cướp biển mới được. Sư phụ nói: Ngài bình tỉnh, bọn cướp biển này, chắc có liên hệ với bọn thủy quái gì đây, mới dám lộng hành như thế chứ. Theo tôi, thì ngài cứ chuẩn bị đi. Còn tôi sẽ đi tìm hiểu thêm cái đã.
Sau khi hỏi thăm và nắm tình hình, thì sư phụ biết rằng, bọn hải tặc đang ở rất gần đây. Hàng ngày nếu có ghe thuyền gì đi ngang qua, thì chúng đều tấn công và cướp bốc hết. Chúng rất hung tàn, và được trang bị vũ khí rất hiện đại. Mấy lần quân đội của triều đình ra đây, nhưng cũng bị chúng đánh bại. Vậy thì phải tính sao đây?
Một hôm, sư phụ đem chuyện này nói với ông quan đại thần, thêm một lần nữa. Ông quan đại thần nói: Tôi đã cho người trình lên đức vua rồi. Ngài yên tâm, không bao lâu nữa, chúng ta se xuất quân tiến đánh chúng thôi.
Vậy là ông quan đại thần Xích Vân Tử, đã được triều đình cấp một hải đội tàu chiến, cùng đạn dược đầy đủ. Ông ta cũng cho lập một trại lính thật to, nơi cái làng chài hẻo lánh này. Ông ta nói với sư phụ: Theo như ngài nói, thì thằng bé Đại Hương, chắc chắn đã chạy ra ngoài biển này mà thôi. Vì tính tình nó ngài rất hiểu mà. Nó đã vượt qua tất cả để được đi ra biển. Đó chính là tâm nguyện lớn nhất của nó. Vậy thì chúng ta chỉ có hai việc phải làm. Việc thứ nhất là tìm cho ra thằng bé Đại Hương kia. Việc thứ hai là tiêu diệt bọn hải tặc này. Vậy thì việc thứ nhất tôi giao cho ông làm, còn việc thứ hai thì ông hãy để tôi lo cho. Sau đó thì chúng ta sẽ về kinh gặp đức vua.
Cuối cùng, thì sư phụ cũng muốn kết thúc cuộc hành trình này thôi. Nhưng trước mắt là phải đi tìm cho ra Đại Hương cái đã, không biết giờ này nó đang ở nơi đâu. Vì sự phán đoán của sư phụ, từ trước đến giờ đều không sai, nhưng hôm nay người cũng hơi lo. Vì có khi nào đứa học trò của mình, đã chết trong sa mạc không chừng. Trừ khi nó phải được một ai đó đến cứu mà thôi.
Thế là ngày nào sư phụ cũng bảo Đại Lực, và Thiên Hùng đi tìm Đại Hương. Hai đứa nó đi tìm suốt ngày, vẫn về tay không, nên mới nói với sư phụ rằng: Sư phụ ơi! Hay sư phụ hãy thử bảo Tiểu Hoa, lấy chiếc gương thần ra xem, coi anh Đại Hương bây giờ ở đâu mà tìm, chứ tụi con tìm hoài mà chẳng thấy đâu. Sư phụ nghe vậy thì mới cho gọi Tiểu Hoa đến và bảo: Sao con không lấy chiếc gương thần ra để xem coi Đại Hương bây giờ nó nơi đâu? Tiểu Hoa nói: Lúc trước con vẫn lấy ra tìm đấy chứ, nhưng chỉ thấy mù mịt cát trong đó thôi. Từ hôm con bị bệnh tới giờ, thì quên mất. À! Hay là bây giờ mình xem coi thế nào? Nói xong Tiểu Hoa liền lấy chiếc gương thần ra xem.
Trong gương, mọi người thấy Đại Hương đang bị trói trên một chiếc tàu lạ, xung quanh đầy hải tặc. Tiểu Hoa vụt kêu tên Đại Hương thì cậu ta trả lời rằng, mình đã bị bọn hải tăc bắt, trong một chuyến ra khơi đánh cá. Nhưng mọi người đừng lo, vì cậu ta muốn thế thôi. Đêm nay cậu ta sẽ dùng phép thuật để quay về với mọi người.
Quả đúng như lời Đại Hương nói. Đêm đến cậu ta đã biến thành một con chim biển bay về trên nóc lều của sư phụ ngũ. Cậu ta kêu lên mấy tiếng, thì sư phụ thức dậy đi ra khỏi lều. Con chim đó vội đậu lên tay sư phụ mà hót líu lo. Sư phụ bảo: Này Đại Hương! Sư phụ bỏ con một mình trên sa mạc nóng rát, con có giận sư phụ không? Con chim đó liền hóa thành Đại Hương mà nói rằng: Thưa sư phụ, lỗi đó là do con ạ! Con đã ham mê những ảo ảnh trong sa mạc, nên mới đi lạc đường. Bây giờ mình gặp nhau rồi thì vui lắm ạ!
Nghe tin Đại Hương đã về, thì Bạch Ngọc và Tiểu Hoa cũng vui mừng lắm! Thiên Hùng và Đại Lực thì khỏi phải nói: Hai đứa nó ôm bổng Đại Hương lên, mà xoay mấy vòng mới chịu thả…Ông quan đại thần thấy thế thì cười bảo. Thôi như vậy tất cả đã ổn rồi. Đại Hương hãy kể lại câu chuyện hải tặc của con đi, để chúng ta còn lo việc tiêu diệt chúng đấy.
66. Hôm nay ông quan đại thần Xích Vân Tử tập họp quân lính, chuẩn bị ra khơi tấn công bọn hải tặc. Ông ta đã cho quân lính tập hợp trên những chiếc tàu, y như tàu đánh cá, để đánh lừa bọn chúng. Đoàn thuyền ra khơi lần này đông đảo và hùng mạnh lắm. Tất cả là đội quân thiện chiến nhất của triều đình. Ông quan đại thần nói với sư phụ: Ngài có đi không? Bản thân tôi cũng không quen chiến đấu trên biển. Nhưng tôi vẫn đi. Vì bọn hải tặc từ phương bắc tràn xuống, uy hiếm khắp cả vùng biển đông này rồi. Chúng rất manh động và hung hăng, không kiên dè ai cả. Sư phụ nói: Thưa ngài! Đến hôm nay bổng dưng tôi đã chán việc đi đánh nhau rồi. Vã lại tôi cũng không biết chiến đấu trên biển. Nếu tôi không đi, thì chắc các học trò tôi cũng sẽ không đi đâu. Thôi chúng tôi cứ ở đây chờ tin chiến thắng của ngài. Ông quan đại thần nói: Chiến tranh ở đâu tôi cũng không ngại, nhưng tôi chỉ ngại bọn tà ma quỷ quái thôi. Không biết trận chiến trên biển này, có bọn thủy quái không nữa. Nếu bọn quái vật đó hiện ra, thì tôi xin ngài giúp đở một tay nhé! Sư phụ gật đầu và tiễn ông quan đại thần lên tàu ra khơi…
Ông quan đại thần đi rồi, thì sư phụ cùng ông sứ thần của đức vua đi dạo trên bờ biển. Hai người đi sâu vào các làng chài gần núi. Càng đi sâu vào nơi sinh sống của người dân, thì sư phụ mới biết, người dân miền biển vẫn còn nghèo khổ quá! Họ chỉ sống trong những túp lều tạm bợ che mưa gió qua ngày. Khi cơn gió trái chiều nổi lên, thì hai vợ chồng liền khiêng hẳn túp lều lên mà chạy trốn gió. Kế đó là một bầy con, tám chín đứa trần truồng chạy theo, mà tay chúng xách những cái nồi niu thau chảo, thật là vui! Ông sứ thần đức vua bảo: Hình như lũ trẻ con này, chúng chẳng được học hành gì cả. Chúng lớn lên trong cát như loài thú hoang vậy, thật là tội nghiệp làm sao! Sư phụ nói: Đây là những người nghèo thôi, còn trong cái thị trấn kia mới là những chủ tàu giàu có đó. Họ là những nhà tư sản giàu có, thuê mướn những người dân chài nghèo này đi làm công. Mỗi người mổi kiểu trả công khác nhau, chứ chẳng có luật lệ gì. Cái này nó khác với một xã hội văn minh, là được bảo đảm mọi thứ quyền lợi cho người lao động, Tuy nhiên tôi cũng tin tưởng rằng, ở đây tình trạng bốc lột sức lao động của người làm thuê, chắc sẽ  dần chấm dứt thôi..
Sư phụ nói tiếp: Ngày nay chế độ tiền lương và an sinh xã hội, cũng như cổ phiếu tặng thưởng cho nhân viên của các công ty, phần nào đã thỏa mãn được nhu cầu phân chia quyền lợi cho người lao động, và không còn đẩy người lao động đến cảnh khốn cùng như truớc kia nữa. Nhưng nói sao thì nói, người làm được việc thì ít, mà kẻ thất nghiệp thì nhiều. Vì thế, muốn phát triển kinh tế, thì phải chấp nhận sự phân chia giàu nghèo là tất yếu. Nhưng bản thân người lao động nghèo, cũng phải có ý chí vươn lên, nếu không chả ai có thể cứu họ được đâu.
Sư phụ nói tiếp: Một nền kinh tế mở rộng ra bên ngoài thế giới, thì nó cần có tính chuyên nghiệp rất cao, để cạnh tranh trên thị trường tự do rộng lớn. Và khả năng đáp ứng theo tốc độ phát triển nhanh của nó cũng rất cao. Vì thế các công ty lớn, ngày càng thiếu nhân lực giỏi, để đáp ứng tình hình phát triển của nó. Nhưng vấn đề ở đây, không phải là thiếu người lao động. Mà là thiếu những người lao động có chuyên môn bậc cao. Vậy từ đây, liền sinh ra sự chênh lệch giữa giàu nghèo là đương nhiên. Vì người làm được việc thì ít, mà người kém cỏi thì nhiều quá. Sư phụ chỉ tay về những túp lều xơ xác trên bờ biển và nói: Đó ông thấy đó, những người dân thiếu ăn học này, thì làm sao mà làm chủ tương lai đất nước cho được. Hết đời cha rồi đến đời con, đều như vậy hết. Họ chỉ đi quanh quẫn trên các bãi biển, để mót cá vụn để ăn. Họ cam chịu đời sống khổ sở này kéo dài mãi, thành ra quen thuộc. Mà họ không biết rằng, chính họ là gánh nặng cho xã hội cho đất nước đó…
Ông sứ thần nói: Vậy theo ngài khi xã hội phát triển nhanh, là không thể có sự công bằng xã hội sao? Sư phụ đáp: Đúng vậy! Người ta nói đến công bằng, là nói đến cái ước mơ, để cho mọi người được sống hạnh phúc bên nhau mà thôi. Nhưng nguyên nhân sâu xa của nó, là từ chính bàn tay khối óc của con người kìa. Đó là cái nguyên nhân chủ quan. Vì xã hội phát triển, nhưng con người đâu phải cùng phát triển đồng đều đâu. Những vùng sâu vùng xa hẻo lánh, thì không thể bắt kịp trình độ phát triển, của các thành phố lớn năng động được. Những người nông dân không nghề nghiệp, không có tri thức đổ dồn về thành phố, cũng chẳng qua chỉ để làm việc lao động chân tay. Họ là một lực lượng đông đảo nhất trong xã hội. Nhà nước có làm hết sức đi nữa, thì cũng chỉ giúp được một phần nhỏ thôi. Vậy là người giàu thì càng giàu thêm. Còn người nghèo thì càng đông thêm. Cái nguyên nhân khách quan thứ hai, đó là do những người chiếm ưu thế trong xã hội này, đã chiếm hết các quyền lợi để phát triển, để làm giàu rồi. Cho nên, nó sẽ dẫn đến đa số khác là trắng tay.
Sư phụ nói tiếp: Người ta diễn dịch từ công bằng, là theo cái tinh thần tự do của con người, của cái sự cảm thông của tâm hồn con người với nhau thôi, của cái tình yêu thương đồng loại, khi không thể nhìn người khác bị cư xử bất công, nên người ta mới đấu tranh cho sự công bằng. Nhưng nên nhớ rằng, đó là cái bên trong của con người mà thôi. Cái bên trong thì bao giờ nó cũng muốn thỏa mản cho chính nó. Đừng hiểu nó, là cái đời sống bên ngoài. Vì con người trong thời đại ngày nay, còn có hàng tỷ phương tiện giúp ích cho họ làm giàu nữa. Nó không thể có sự so sánh như hai người tay không đứng trên võ đài được. Cái lợi thế nghiêng hẳn về nhóm người này, thì cái thất thế dĩ nhiên sẽ rơi vào tay của nhóm người kia. Do đó cái vận động của đời sống bên ngoài sẽ mãi mãi không sao cân bằng được. Từ đó nó sẽ dẫn tới bất công và và đấu tranh. Nhưng sự đấu tranh đó cũng là mãi mãi. Vì tận cùng nó cũng không thể giải quyết được hết cái bất công đâu. Người ta nói tới công bằng, là để an ủi con người mà thôi. Cái mà con người có thể làm được, chỉ có thể nói là sự cân bằng. Vì sự xáo trộn mất cân bằng, thì người ta có thể làm cho nó bớt hỗn loạn đi. Trong khi đó, thì con người vẫn không thôi mơ mộng về sự công bằng, điều đó sẽ làm chúng ta thấy dễ chịu hơn. Vì điều đó đã được chúa trao cho tinh thần con người rồi. Vã lại, nó cũng khó thấy hơn là những gì hiển hiện ra trước mắt, như một đời sống bất công này.
Sư phụ nói tới đây, thì ông sứ thần cũng chưa hiểu hết, ông ta vẫn nghĩ rằng, trên đời này phải có sự công bằng chứ làm sao không.
67. Trận chiến của ông quan đại thần chống bọn cướp biển, đã đạt được nhiều chiến thắng khả quan. Ông ta đã đánh lui bọn hải tặc đồn trú trên các hòn đảo. Nhưng không hiểu sao, khi ông rút quân đi, thì chúng lại hiện ra, và tấn công quân ta đóng trên các hòn đảo ấy. Trận chiến cứ như vậy diễn ra mãi vẫn không kết thúc được. Ông ta nói: Cái bọn hải tặc này như là người vô hình, tôi đã quét sạch chúng đi rồi. Tàu chiến của bọn chúng cũng bị tôi đánh đắm. Thế mà từ phương bắc chúng lại kéo xuống nữa. Chúng chẳng chịu buông tha cho chúng ta được yên sao? Sư phụ nói: Rất có thể lão quái vật lại hiện ra ở đây lắm đó. Vì chổ nào có tai ương khổ sở là có ngay lão ta mà..
… Thế là thời gian trôi qua đã mấy năm, nhưng cuộc chiến trên biển vẫn không thể chấm dứt. Hôm nay sư phụ cùng ông quan đại thần lại đi ra biển xem sao…
Đoàn thuyền của quân ta tiến vào các hòn đảo đó, thì bị bọn cướp biển chặn đánh dữ dội. Chúng dùng những hỏa lực mạnh nhất tiến công quân ta. Vì thế ông quan đại thần ra lệnh rút lui, để chỉnh đốn đội hình. Bất giác sư phụ hiểu rằng, đây là cuộc chiến không phải của con người. Mà là của cái lực lượng hắc ám chứa nhiều dã tâm. Nghĩ vậy, sư phụ mới đề nghị ông quan đại thần tấn công tiếp..
Thế là quân ta lại tiến công giải phóng các hòn đảo. Khi quân ta đặt chân lên đảo, thì bổng từ trên thinh không dội xuống những tiếng ầm ầm thật khủng khiếp. Mây gió kéo về một lượt u ám cả đất trời. Biển cả nổi sóng dữ dội làm nghiêng ngã những chiếc thuyền của quân ta. Từ trong đám mây đen trên cao, bổng hiện ra một hình hài quái thú. Cái hình hài mà ngày xưa ở trên vùng núi sư phụ đã gặp rồi. Bây giờ nó như một bóng ma, phủ trùm lên hết những hòn đảo yêu quý của chúng ta. Nó nói: Này lão già râu trắng kia. Hôm nay chúng ta lại gặp nhau rồi. Lúc trước, ta đánh cờ đã thua lão ba ván. Nhưng hôm nay thì khác, lão có muốn nói chuyện, hay đánh nhau với ta không?..ha ha ha! Sư phụ nói: Tôi cũng biết ông là lão quái vật ngàn năm. Ông là quỷ vương có phép thuật vô biên mà. Nếu chúng ta đánh nhau thì sẽ bất phân thắng bại. Nhưng ông bao che cho lũ cướp biển kia, thì có gì hay ho? Lão quái thú trả lời: Ha ha! Các ngươi sống thì chúng nó cũng sống. Đứng trên quan điểm của các ngươi, thì bảo chúng ta là giặc. Và cả thế giới này chả ai không biết chúng ta là giặc. Nhưng chẳng ai làm gì được ta cả. Sức mạnh của ta, đã làm cả thế giới này kinh khiếp, đó là sự thật. Còn ta có là quái vật hay không thì điều đó còn phải xem lại nhe? Ta đến đây vì linh hồn của ta đã ở đây. Và không có ai có thể đuổi chúng ta đi được cả. Và các ngươi có biết không? Vì chúng ta không phải là con người mà..ha ha ha!
Sư phụ nghe vậy thì lắc đầu, rồi ra hiệu cho ông quan đại thần lui quân. Ông quan đại thần nói: Đánh thì vẫn cứ đánh dù cho chúng có là gì đi nữa. Chúng ta không lùi bước trước những thủ đoạn của chúng, chúng ta chiến đấu là để bảo vệ quê hương mình. Nói đoạn ông quan đại thần trao quyền chỉ huy lại cho một phó tướng hải quân, rồi cùng sư phụ quay về..
Khi ông đại thần Xích Vân Tử về trại quân rồi, thì ông ta đã quyết định trở về kinh thành gặp đức vua thôi. Sư phụ nghe thế thì cũng đồng ý, và gọi các học trò lại mà bảo rằng. Này các con, những cái bửu bối sư phụ trao cho các con, bây giờ không còn dùng nữa rồi. Các con hãy trao lại hết cho con rồng Thiết Long đi. Vì từ nay, chúng ta sẽ giã từ vũ khí, mà về kinh thành chơi một chuyến. Chúng ta đã chiến đấu nhiều rồi. Bây giờ sư phụ thấy mình nên dành thời gian để nghỉ ngơi. Vậy nhé!
Thế là Tiểu Hoa, Bạch ngọc cùng Đại Lực, và Thiên Hùng liền trao lại bửu bối cho con rồng Thiết Long cất giữ. Riêng quyển sách phép thuật của Đại Hương thì đã biến mất, không sao tìm được nữa. Đại Hương mới đem điều này thưa với sư phụ. Sư phụ nói rằng; Không sao đâu. Nó đã ở trong con rồi đó. Nó biến mất đi là để trên đời này không còn có ai kiếm được nó nữa. Thôi các con chuẩn bị, ngày mai chúng ta sẽ đi về kinh thành nhe!
Qua hôm sau, đoàn người lại lên đường đi vào thành phố. Ông quan đại thần nói: Không phải tôi lẫn tránh cuộc chiến tranh trên biển kia, nhưng thời đại ngày nay, dùng vũ lực là cái người ta xếp thứ hai, thứ ba  sau cái gọi là đấu tranh chính trị. Theo tôi, chúng ta nên đấu tranh bằng con đường ngoại giao. Bằng những cái ràng buột theo luật pháp quốc tế. Lão quỷ vương hắc ám kia cứ dương dương tự đắc như thế, rồi cũng có ngày, sẽ bại vong trước một sự thật không thể chối cải được. Vì ông cha ta có câu. “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” Người nhẫn nhịn, bao giờ cũng thắng kẻ hung hăng. Chúng ta chiến đấu vì chính nghĩa, thì tất nhiên chúng ta sẽ chiến thắng. Vì sự thật rỏ rang rang ra đó rồi, còn gì nữa mà đánh.
Sư phụ nói: Cái chính nghĩa ấy, là chính là cái ý chí của toàn dân, ngài nghĩ thế, nhưng không giải thích cho dân hiểu, cái chính nghĩa trong thời hòa bình như thế nào, thì làm sao làm yên lòng dân cho được. Là dân một nước mà thấy kẻ xâm lược nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú vọ mà mắng chửi dân ta, thì ai mà chịu được. Lòng dân bao giờ cũng muốn được hòa bình yên ổn làm ăn, nhưng kẻ thù của chúng ta lại luôn quấy phá, nên trong dân chúng cũng muốn đứng lên tiêu diệt chúng lắm! Ông quan đại thần nói: Chúng ta càng nhẫn nhịn, thì hình ảnh xấu xa của chúng, càng hiện ra rỏ trong mắt của mọi người. Vì thời đại bây giờ không thể che dấu một cái gì được đâu. Nhân dân thế giới đều nhìn thấy hết, và dư luận thế giới sẽ đứng về phía chúng ta. Nếu chúng ta không biết nhẫn nhịn, thì sẽ rơi vào cái bẩy của chúng giương ra. Và lúc đó, lại hao tiền tốn của, và sinh mạng sương máu của nhân dân nhiều lắm.
Sư phụ nghe ông quan đại thần nói vậy, thì mới biết rằng, ông này là một người biết nhìn xa trong rộng, và xứng đáng là nơi tin cậy gửi gắm của nhân dân.
68. bây giờ đoàn người chỉ còn chưa đến mười người. Con rồng Thiết Long và con ngựa có cánh đã đi rồi. Chúng đã quay về dãy núi Tuyết sơn năm xưa. Bây giờ chỉ còn lại sư phụ Tuyết Sơn và năm môn đồ. Cạnh đó còn có hai ông, là ông sứ thần của đức vua và ông quan đại thần Xích vân Tử. Mọi người ra đi lặng lẽ và chỉ có những cuộc trao đổi giữa ông ông quan đại thần và sư phụ thôi. Ông ta nói: Theo ngài thì làm chính trị như thế nào là tốt nhất. Vì ngày nay để trị quốc, tôi nghĩ cần phải biết làm chính trị, sao cho linh hoạt thì sẽ chiến thắng. Sư phụ nói: Ngài nói đúng. Có những nước nhỏ mà do có tầm nhìn chính trị tốt, nên đã đưa đất nước phát triển nhanh và luôn có hòa bình. Theo tôi, làm chính trị ngày nay, là một cách tiếp cận với thế giới mới, ngày càng phải nhanh và tốt hơn. Nhưng bản chất của chính trị không còn là những điều bí mật nữa, mà nó là vấn đề của toàn dân, là của con người. Đã qua rồi cái thời mà một khi nói đến chính trị, thì con người đều sợ hãi và hoang mang. Và nhiều người cứ muốn bảo đảm rằng mình là người tốt, thì cố chứng minh rằng, mình không có gì dính líu đến chính trị hết. và thông qua điều đó, người ta luôn nhìn chính trị như là một trò chơi lừa đảo, mà những ai cầm giữ nó trong tay, đều là những người xấu. Nhưng thực ra, cái nhìn đó là cái nhìn về chính trị của những kẻ bạo quân, những tên độc tài mà thôi. Vì xưa kia, những kẻ này này luôn dùng những mưu mô sảo quyệt, để đoạt được quyền lực, và gạt sang bên những kẻ đối đầu với mình.
Nghề chính trị khi đó là một nghề nguy hiểm, chứ không quang minh lỗi lạc gì cả. Vì qua lịch sử để chúng ta thấy rồi đó, anh em dòng họ cũng giết hại lẫn nhau, để có được quyền lực, mà quyền lực trấn áp người khác là cái rất mong manh. Vì kẻ không có quyền lực, và bị trấn áp kia, thì cũng có ngày vùng lên lật đổ kẻ có quyền lực. Vì thế nói tới chính trị, là luôn nói đến quyền lực là vậy..
Sư phụ nói tiếp: Ngày nay làm chính trị, và có quyền lực đã khác rồi. Vì quyền lực là thuộc về nhân dân. Nhân dân tin cậy ai thì trao cho người đó, để bảo vệ tự do cho nhân dân. Người làm chính trị bây giờ, là những người khôn khéo mềm dẽo và hiểu lòng dân, là người biết tu thân và xả thân vì cộng đồng, vì đất nước. Và từ đó, quyền lực được phân chia phù hợp, trong từng giới hạn của quyền hành. Vì dân mà họ hy sinh, và cũng vì dân mà họ cống hiến, mà họ phục vụ cho nhân dân, chứ không chỉ nhắm vào lợi ích cá nhân mình. Và khi họ không còn nắm những chức vụ cao nữa, không còn phải làm những nhiệm vụ nặng nề nữa, và quyền hành của họ không còn nữa, thì quyền lực kia sẽ trao trả lại cho nhân dân, và bản thân họ cũng luôn được nhân dân tôn thờ. Nhưng khái niệm về quyền lực được trao, hay cướp được là thứ quyền lực mong manh mà thôi. Vì nó không có thực chất, tự thân cái sức mạnh uy quyền của con người cá nhân đó. Nhưng nó phải đúng như vậy, thì tốt hơn là một thứ quyền lực tuyệt đối tối thượng. Ngoài ra còn có những quyền lực mềm bên trong, là do tự cá nhân con người ta tạo ra. Quyền lực này có thể gọi là một thứ quyền lực đen. Nếu dùng nó làm chính trị, thì sẽ dẫn đến một thời đại u ám mà thôi…
Sư phụ nói tiếp: Nếu quyền lực được trao có giới hạn, thì quyền lực đó luôn có sự giám sát của nhân dân. Điều đó nó sẽ làm trong sáng cho đời sống chính tri hẳn lên. Vì bên cạnh quyền lực, để thực thi nhiệm vụ cao cả của dân tộc, thì nó luôn được chia sẽ bởi lòng tin tưởng của nhân dân, bởi những chức trách, nhiệm vụ được giao. Quyền lực đó, nó sẽ bảo vệ quyền lợi của tấp thể, của cộng đồng, của toàn thể nhân dân. Nó làm cho người khác thấy được tự do và hạnh phúc, và kính trọng con người có quyền lực đó. Còn người nắm giữa quyền lực đó, thì luôn phải hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hoàn thành cái sứ mệnh, mà nhờ có quyền lực đó mà mình đã đạt được, và đem về nhiều lợi ích cho mọi người hơn. Có như thế quyền lực mới thực sự là sức mạnh, vì nó phục vụ cho cái toàn thể, chứ không phải cho cái cá nhân nào cả.
Sư phụ nói tiếp: Làm chính trị luôn phải có cái công cụ, để thực thi đường lối chính trị, đó là quyền lực. Vì thế, quyền lực là công cụ cho nghề làm chính trị, chứ không phải là mục đích. Quyền lực tốt nhất là cái quyền lực có giới hạn. Còn làm chính trị tốt nhất, là biết dùng cái quyền lực đó, để làm được nhiều lợi ích cho nhân dân, cho đất nước.
Sư phụ nói tiếp: Khi cái quyền lực nào được áp dụng và có hiệu quả, chỉ khi nó đem lại sự ủng hộ của nhân dân, làm được nhiều lợi ích cho nhân dân, thì đó là một đường lối chính trị dân chủ. Điều đó nó phản ánh cái nghề chính trị đó là rất bình thường, vì nó luôn gần gũi với người dân, và không làm người dân sợ hãi nữa. Còn những cái quyền lực, do tranh giành đấu đá nhau mà có, thì nó rất mong manh theo nghĩa rất tiêu cực. Và kẻ đó khi có nó trong tay, thì luôn hiểu rằng, đó là một tai nạn cho mai sau, khi không còn quyền lực nữa. Do đó, họ mới cố thủ trong đó, cốt chỉ để làm lợi cho chính mình. Nhưng thời đại ngày nay đã khác rồi, nếu anh cố thủ bằng cái quyền lực xấu đó, được bao nhiêu năm đi nữa, thì cũng bị cộng đồng quốc tế lên án, và nhân dân sẽ đập đổ mà thôi. Đó chính là cái quyền lực sai lầm, mà ngày nay người ta không dùng nữa.
Sư phụ nói tiếp: Quyền lực tốt nhất, là nó đem về hạnh phúc cho mình, và cho người khác nữa. Chứ khi anh đã mất quyền lực rồi, thì cân đong đo đếm lại, mà mất  nhiều hơn được, thì cũng chẳng để làm gì, Đó là cái quyền lực nhất thời, mà phải đánh đổi cả cuộc đời trong sự chê bai, ca thán của mọi người đến thiên thu.
Nghe vậy, ông quan đại thần mới hỏi thêm rằng: Theo ngài thì làm chính trị tốt nhất theo tình hình hiện nay là gì? Sư phụ đáp: Đó là ổn định trong nước thật tốt, linh hoạt và mở rộng ra bên ngoài để tiếp cận thế giới. Đó chính là thực tại niết bàn. Tôi không cần biết anh làm sao cả, nhưng nếu anh đạt được hai điều đó là tốt nhất. Vì một cái là tĩnh, là bất biến. Còn một cái là động, là vô thường, là phải học tập theo người ta cho đi kịp với thời đại này…
69. Sư phụ và ông quan đại thần Xích Vân Tử mãi nói chuyện, nên không biết bây giờ trời cũng đã tối rồi. Lúc này ông sứ thần mới nhắc: Thưa đại nhân! Bây giờ tối rồi nên chúng ta nghỉ lại ở đâu đây? Sư phụ không nói gì mà đưa mắt qua ông quan đại thần. Ông ta hiểu ý và ra lệnh. Hãy đi tìm xem quanh đây có một nhà trọ nào không? Thì đến đó ở! Còn nếu không có nhà trọ, thì xin ở nhờ đâu đó qua đêm cũng được. Nghe vậy ông sứ thần vội vã chạy đi…
Một lát sau thì ông sứ thần quay lại nói: Thưa đại nhân! Quanh đây chẳng có một cái nhà trọ nào cả, tuy nhiên tôi mới tìm ra một chỗ ở qua đêm rất rộng thoáng, không biết đại nhân có đồng ý không? Ông quan đại thần nói: Chỗ nào? Ông hãy nói thử xem? Ông sứ thần nói: Gần đây có một ngôi chùa mới xây xong, rộng rãi và hoành tráng lắm. Tôi đã vào đó xin rồi. Thầy trụ trì ở đó nghe ngài là quan đại thần của triều đình, nên rất vui mừng hoan hỷ ngay. Vậy chúng ta nên vào đó nghỉ lại qua đêm nghe! Thế là ông quan đại thần đồng ý đến nghỉ lại trong chùa…
Khi mọi người đến chùa, thì được thầy trụ trì hoan hỷ đón tiếp nồng hậu lắm. Vì đây là một ngôi chùa nhỏ thôi, nó nằm lọt thỏm trong phố xá ồn ào. Ngoài kia là đường xá xe cộ lui tới tấp nập, cạnh bên hong chùa là những khu dân cư đông đúc, và huyên náo suốt ngày. Sư phụ và ông quan đại thần được nghỉ tại một phòng riêng sang trọng. Ông sứ thần thì ở cùng Đại Hương một phòng. Đại Lực thì ở cùng Thiên Hùng một phòng, còn Tiểu Hoa và Bạch Ngọc thì cũng được ở bên nhau một phòng.
Mọi người đã được nghỉ ngơi, sau một ngày đi đường mỏi mệt. Sau khi tắm rửa xong, thầy trụ trì mời mọi người lên quả đường dùng cơm chay. Trong bữa ăn, thầy trụ trì mới hỏi: Xin hỏi các ngài đi đâu mà vất vã thế? Ông quan đại thần trả lời: Chúng tôi đi công tác, ở mãi tận vùng núi Tuyết sơn cách đây xa lắm. Ông lão này là bạn kết thân, trong chuyến đi đầy thú vị của tôi. Còn đây là quan sứ thần của đức vua. Còn đây là mấy đứa đệ tử của ông lão này. Thầy trụ trì nói: Khách quý! Mấy khi nhà chùa được tiếp đãi khách quý như thế này, nhưng cửa chùa thì luôn rộng mở, và không phân biệt, Người dân quanh đây cũng hay vào nhà chùa tu tập lắm. Chúng tôi đã cố gắng hết sức, hướng dẫn cho người dân biết là chúng ta hoạt động tôn giáo, nhưng phải đúng theo pháp luật của nhà nước, chúng tôi đã mời cơm chay cho dân chúng thường xuyên. Vì chúng tôi luôn nghĩ; Phải sống tốt đời đẹp đạo, thì mới hướng đến những điều thiêng liêng cao cả hơn…
Ông quan đại thần nói: Tốt lắm thưa thầy! Chúng tôi ăn cơm chay thấy rất ngon, chúng tôi xin cám ơn quý thầy đã giúp đỡ một chỗ ngũ qua đêm, và một bữa ăn ngon miệng thắm đậm ân tình. Nói xong, ông quan đại thần chấp tay xá thầy trụ trì mấy cái, rồi mọi người đều về phòng ngũ...
Đêm đó, trong chùa thật im ắng làm sao. Tiểu Hoa không sao ngũ được, mà bây giờ khoảng mười giờ đêm rồi, cửa chùa vẫn mở, gió bốn bề thổi vi vu, làm cho những chiếc chuông gió rung lên leng keng, leng keng…Vậy là Tiểu Hoa một mình đi lên chánh điện lạy Phật.
Khi lên chánh điện, thì Tiểu Hoa bắt gặp hai cô bé gái bụ bẩm rất dễ thương, đang quỳ lạy Phật, và miệng thì râm râm cầu nguyện gì đó. Tiểu Hoa chờ cho hai cô bé cầu nguyện xong, thì mới tới hỏi han. Cô chị nói: Hai đứa con là hai chị em, từ xa lắm vô đây đi làm. Con đã được mười một tuổi còn em con mới bảy tuổi. Nói đoạn cô bé lớn ôm chầm lấy cô bé em mà khóc nức nở. Bổng nhiên Tiểu Hoa thấy mình cũng như đang rơi nước mắt. Ồ! ở chốn linh thiêng gần Phật trời đến thế, mà tại sao vẫn có người khóc tức tưởi thế kia. Cô bé chị nói: Chị ơi con phải về rồi… nếu chị có rảnh thì qua chỗ tụi con ở, chơi đi chị. Chủ nhà con khó lắm! Bây giờ là lúc nghỉ ăn cơm, nên chị em con mới chạy qua đây đó. Nói rồi cô bé chị dắt em chạy thẳng ra cửa chùa mà về nhà…
Tiểu Hoa nghe lòng mình xao xuyến kỳ lạ, và thấy yêu thương hai chị em cô bé này quá, nên mới chạy theo luôn.
Đến nơi, thì đó là một căn nhà bừa bộn đầy nhóc những thùng đựng tập vỡ của học sinh, và những cuốn biên lai khách hàng, giấy tờ này nọ kia nhiều quá xá. Hai cô bé bây giờ đang cười chúm chím, mời Tiểu hoa ngồi chơi. Tiểu Hoa nhìn quanh, thì thấy rất dông người, toàn là những cô bé nhỏ tuổi, cỡ từ bảy tám tuổi đến mười lăm tuổi là cùng. Các em có khoảng trên chục đứa, nằm ôm nhau nói chuyện xì xồ rồi cười ngặt nghẽo, bên canh những thùng giấy to. Cô bé lớn nói: Tụi con từ ngoài Bắc vào đây đi làm, tụi con lĩnh lương năm. Mỗi năm con cũng chẳng biết được bao nhiêu, nhưng bố mẹ con thì bảo cứ làm đó đi. Vì đây là nhà dì của tụi con. Tụi con làm từ năm giờ sáng đến tận mười hai giờ đêm mới được nghỉ. Một tuần được nghỉ một buổi tối, được cô chú dắt đi chơi đu quay vui lắm! Trong khi cô chị nói, thì cô em bắt đầu ngũ gục rồi, còn mấy cô bé kia thì đứa ngồi, đứa nằm và đứa đang ngũ gục. Thấy vậy Tiểu Hoa nói: Mấy đứa này nhỏ xíu làm sao mà làm việc được. Cô bé lớn nói: Việc cũng đâu khó gì chị ơi! Tụi con chỉ việc ngồi dán những quyển sổ này, thành từng tập là được rồi mà. Nhưng mấy con nhỏ này, vừa làm vừa ngũ gục không à, nên hay bị cô chú đánh, và phạt không cho ăn cơm. Tiểu Hoa nói: Sao ba mẹ các em không biết gì sao? Cô chị nói: Dạ con cũng không biết nữa. Vì nhà con nghèo lắm. Ba con là thương binh nằm một chỗ không làm gì được cả, vã lại mẹ con cũng bị bệnh. Nhưng nhà con đi làm đây là còn ít đó. Ở đây có những ba bốn chị em đi làm nữa cơ…
Tiểu Hoa nghe mấy em nhỏ này nói chuyện mà ứa nước mắt, vì thấy chúng ngây thơ hồn nhiên quá! Bổng dưng hai hàng nước mắt của Tiểu Hoa cứ đua nhau chảy xuống. Trong khi đó thì mấy đứa bé kia vẫn đang cười ngặt nghẽo, và vẫn đang làm việc không ngơi tay…
Bài hát mặt trời
70. Sáng hôm nay cả chùa dậy thật sớm. Các thầy chia nhau công việc ra làm. Người thì quét dọn, người thì nấu cơm xách nước bửa cũi. Riêng nhóm khách trọ ở chùa, thì không phải làm gì hết. Đúng năm giờ, kẻng chùa gõ ba tiếng báo giờ đi ăn sáng. Ông quan đại thần ngồi kế bên sư phụ, còn mấy đứa nhỏ thì ngồi sắp hàng ăn ngoài kia. Tiểu Hoa ngồi ăn mà cứ suy nghĩ đâu đâu, vì câu chuyện của hai chị em cô bé tối qua, cứ luẫn quẫn mãi trong đầu. Mấy lần Tiểu Hoa muốn nói cho sư phụ biết, nhưng lại thôi. Thế là Tiểu Hoa cùng mọi người ăn trong im lặng.
Ăn xong, sư phụ thông thả đi dạo trong sân chùa, và nói chuyện với ông quan đại thần: Sư phụ nói: Thưa đại nhân! Sáng nay chúng ta lên đường chứ? Ông quan đại thần nói: Ừ! Chúng ta sẽ lên đường thôi. Đường về kinh thành vẫn còn xa lắm, ngài hãy thông báo cho mấy đứa nhỏ chuẩn bị đi…
Ông quan đại thần nói tiếp: Cái chùa này mới xây, nhưng mang dáng dấp văn hóa cổ xưa thật là đẹp. Sư phụ nói: Cái kiến trúc này là quy định để người ta xây chùa rồi, vì người ta không thể xây theo kiểu mới nào khác được, nếu làm như thế thì nó không ra cái chùa. Sư phụ nói tiếp: Cái kiến trúc này là cái hình thức thôi, chứ thật sự nó cũng chẳng có văn hóa gì. Vì văn hóa là cái tâm hồn của nó, là cái hương vị của sự vật, là cái bên trong kìa. Cái gì  vượt qua thời gian, và nó trở thành hơi thở gần gũi với con người, mới là văn hóa. Tuy nhiên người ta hay sao chép cái hình thức văn hóa để quảng cáo thì cũng được. Đa số mọi người đều dễ dàng chấp nhận như thế hết…
Ông quan đại thần hỏi: Vậy thì những cái người ta lưu giữ trong bảo tàng là gì? Sư phụ nói: Cái mà người ta thương tiếc và cố gắng gìn giữ trong bảo tàng, thì đó là những cái thuộc về văn hóa đã chết rồi. Nó cũng là văn hóa, nhưng gọi là văn hóa phế tích. Còn cái văn hóa thật sự thì nó luôn sống động, và biến đổi theo thời gian. Cái đó gọi là văn hóa sinh thể…
Sư phụ nói tiếp: Người ta hay lầm lẫn giữa cái hình thức văn hóa, và bản chất thực của văn hóa. Hình thức văn hóa, thì chỉ trong một ngày, người ta có thể làm xong một cái chùa mới tinh, theo đúng cái hình thức văn hóa cổ xưa. Nhưng bản chất của văn hóa, là phải cần có thời gian. Đó là cái tinh thần của nó thấm vào trong, mà thành ra văn hóa. Một khu phố cổ thì nó vẫn sống, và nó vẫn phải tiến tới tương lai bằng chính cái tinh thần văn hóa của nó. Nó không thể là một phế tích, hay có thể so sánh với một khu phố mới, làm theo cái kiến trúc củ được. Điều này rất khác nhau thưa đại nhân!
Sư phụ nói tiếp: Cái gọi là văn hóa, nó lớn lao lắm, chứ nó không phải là cái tính địa phương cục bộ đâu. Cái văn hóa là nó khái quát cả cái tính dân tộc, những tập tục lễ nghi, và thói quen ngàn đời của con người, không thay đổi được. Nó trầm tích bên trong tinh thần của sự vật, thành một cái vốn tinh thần rất quý giá. Nó chính là hương vị của một nền học thuật, hay tín ngưỡng và đạo đức, của con người. Và chính trong con người, những ai có một tâm hồn sâu sắc, đều có thể cảm nhận được điều này. Vì thế, có những người sống, không khoác lên mình cái hình thức văn hóa củ, nhưng khi ta tiếp xúc với họ, ta cảm thấy được, là một tâm hồn văn hóa rất phong phú. Trái lại, những khu vui chơi, hay nhà hàng khách sạn, xây dựng theo kiểu kiến trúc văn hóa củ, nhưng khi chúng ta vào đó, thì chẳng thấy nó có chút văn hóa gì. Vì thế cái hình thức văn hóa, và cái tính địa phương, thì không thể gọi là văn hóa được. Mà nó là những cái bắt chước văn hóa mà thôi….
Sư phụ tiếp: Văn hóa phương đông là nhang đèn trên bàn thờ, Còn văn minh phương tây là những ngọn nến trên bàn tiệc. Văn hóa thì thuộc về tinh thần, còn văn minh thì thuộc về đời sống. Vì con người cần sống một đời sống tốt đẹp hơn, nên gọi đó là văn minh. Văn minh mỗi ngày sẽ được thay đổi, chọn lựa và nâng cấp. Còn văn hóa thì mỗi ngày cũng được đào thải bớt những tập tục lạc hậu đi, để phù hợp với văn minh. Ánh sáng văn minh đi tới đâu, thì nó sẽ xua đi bóng tối u mê đi tới đó, trong đó có cả văn hóa lạc hậu nữa. Cho nên, người ta nói văn hóa truyền thống bị mai một, là cũng phải. Nhưng cái gì cần phải thay đổi theo lẽ tự nhiên, thì cứ cho nó đổi thay. Cái văn hóa đích thực thì khó mất, còn những cái như tính địa phương, và hình thức văn hóa, thì cứ cho nó biến mất theo thời gian đi, và đừng nên luyến tiếc gì cả…
Ông quan đại thần nói: Theo như ngài nói, thì tôi lờ mờ hiểu ra rằng: Văn hóa là cái tâm hồn dân tộc, nó mang đậm nét tinh thần dân tộc, tín ngưỡng và đạo đức, học thuật của một dân tộc, Nó khác với những cái bên ngoài dễ thay đổi, như hình thức văn hóa và tính địa phương. Vì đó là sự bắt chước cái văn hóa đích thực đó mà thôi. Có đúng không? Sư phụ trả lời: Đúng vậy! Vì những cái mà chúng ta luôn lo sợ là dễ mất, dễ thay đổi, đó chỉ là những cái bên ngoài, của cái văn hóa đích thực mà thôi. Nếu Ánh sáng văn minh đi tới đó, thì nó sẽ phải biến mất. Vì cái văn hóa đích thực là cái bên trong. Đó là cái tinh thần sâu sắc của con người, và là cái hương vị ngàn năm của sự vật. Bản thân nó có một sức mạnh tiềm tàng đến nổi, cho dù có sự xâm lược bởi một luồng văn hóa khác tràn vào nó, thì theo thời gian, nó sẽ quay lại đồng hóa cả cái văn hóa ngoại lai kia luôn. Vì thế chúng ta gìn giữ văn hóa là đúng, nhưng nếu văn hóa của chúng ta không sâu sắc, thì chỉ gìn giữ được cái hình thức văn hóa mà thôi. Còn nếu như nền văn hóa của chúng ta có gốc rễ vững chắc, thì không có gì làm nó mất đi được đâu…
Ông quan đại thần gật gù và đã hiểu ra, vì cái lo lắng lâu nay vẫn đè nặng trong ông, đó là làm sao giữ được bản sắc văn hóa của dân tộc đây.
71. Sau khi đi dạo ở ngoài vườn, thì sư phụ về phòng mình, sắp xếp hành trang để lên đường. Sư phụ nói với đám học trò rằng: Thôi các con chuẩn bị đi, chúng ta lên đường thôi. Đại Hương nói: Mình về kinh thành để làm gì vậy sư phụ? Sư phụ nói: Để đi chơi mở rộng tầm mắt một chuyến. Ở kinh thành cái gì cũng đẹp lắm, vì đó là thủ đô mà. Ở đó con người sang trọng lịch lãm lắm, chứ không quê mùa như những con người, mà chúng ta đã gặp trước đây đâu. Các con đi đến đó sẽ học hỏi được rất nhiều điều. Nghe vậy, Đại Hương và các bạn vô cùng thích thú làm sao.
Vậy là mọi người đã chuẩn bị xong. Ông quan đại thần hết lời cảm ơn thầy trụ trì đã giúp đỡ cho mọi người từ hôm qua đến nay. Bây giờ đã đến giờ lên đường rồi, thôi chúng tôi cũng kính chúc quý thầy ở lại mạnh khỏe và gặp nhiều may mắn. Thầy trù trì nói: Tôi cũng kính chúc quý vị lên đường bình an, sau này có dịp, thì hãy ghé qua chùa này chơi cũng được…
Thế là đoàn người lại ra đi, lần này là chuyến đi về kinh thành. Nên càng đi sâu vào trong các thành phố lớn nối tiếp nhau. Tiểu Ngọc thích quá thốt lên: Ồ thành phố mới đẹp làm sao! Bạch Ngọc cũng xuýt xoa không kém. Khi mọi người đến gần một cái chợ, thì Tiểu Hoa và Bạch Ngọc đi vào chợ mua đồ. Còn sư phụ và ông quan đại thần, cùng Đại Hương, Đại Lực và Thiên Hùng, thì ngồi uống nước trong một cái quán bên đường. Mọi người đang ngồi uống nước, thì có một đám thanh niên đi vào hỏi thăm, có cần gì thuê mướn họ làm không, thì họ sẽ làm cho! Sư phụ nói: Các anh từ đâu lên đây? Một anh thanh niên trả lời: Chúng cháu ở dưới quê… Này cả đám chúng cháu đây này… Anh ta liền chỉ tay về phía bên kia đường, thì sư phụ thấy một đám người, đứng như trời trồng giữa mưa nắng suốt ngày, lâu lâu mới có người đến trao đổi gì đó rồi dắt họ đi. Anh thanh niên nói tiếp: Chúng cháu làm nông ở dưới quê, nhưng dạo này nông nhàn, không có việc làm, nên chúng cháu lên đây, ai thuê mướn gì thì cũng làm hết. Sư phụ liền nói: Vậy cái đám người kia gọi là gì? Anh thanh niên đó trả lời: Dạ! Người ta nói đó là cái chợ người đó ạ! Nhưng nói chính xác, là cái chợ bán sức lao động rẽ mạt của con người. Thôi các bác có biết không? Thời buổi khó khăn, gạo châu củi quế này, kiếm được đồng tiền để sống, là may mắn lắm rồi. Ông quan đại thần nói: Sao các anh không thành lập một hội đoàn gì đó, để làm ăn phải có tốt không? Anh thanh niên đó trả lời: Hội với chả đoàn, làm ngày nào xào ngày náy, mà hội đoàn cái gì. Thật sự chúng tôi một năm, thì hết tám tháng trôi nổi ở khắp các thành phố này để đi kiếm ăn rồi, chỉ còn mấy tháng là ở nhà làm nông thôi. Sống riết rồi, nó cũng quen thôi các bác ạ! Ông quan đại thần trầm tư suy nghĩ mà rằng: Quả nhiên dân mình còn có nhiều người sống nghèo khổ quá!!
Lúc này, Tiểu Hoa và Bạch Ngọc đã quay lại rồi, hai cô nàng mua nào gương lược, vãi vóc và nhiều đồ dùng cho con gái lắm. Thấy thế, Đại Hương bèn cười, nên hai cô nàng mắc cỡ chạy đến bên sư phụ, và hối thúc người đi thôi…
Khi đang đi trên đường, thì ông quan đại thần nói: Như ngài nói hồi sáng về văn hóa, thì tôi nghĩ thế này. Khi tinh thần mở cửa và đổi mới mở ra, thì sẽ có nhiều luồng văn hóa mới đi vào nước ta. Nhưng cái dễ ảnh hưởng nhất là ý thức của chúng ta thôi. Còn tâm hồn của mình, vẫn là của mình. Do đó tôi tin, văn hóa chính là cái tâm hồn dân gian, nên nó khó thay đổi được. Sư phụ nói: Đúng thế! Người ta học tập, là học tập bằng kiến thức ngày một mới hơn, và văn minh hơn, ý thức có thể khác, vì nó có thể học tập những cái khác. Nhưng tâm hồn con người thì nó có cái lý lẽ riêng của nó. Tâm hồn con người phải tự học tập lấy, thông qua những trãi nghiệm tâm lý trên đường đời. Nó không thể bị nhồi nhét bằng một cái gì ở bên ngoài đi vào, nhiều khi lý trí của chúng ta mách bảo như vậy, nhưng tâm hồn thì nó nghĩ khác, nó đi theo con đường của nó để tìm kiếm tự do. Nó phải tự làm giàu có nó lên, để thay thế cho một hình thức sống nghèo nàn chẳng hạn. Cái trưởng thành của một tâm hồn lớn, là nó biết hướng về cội nguồn dân tộc. Và cũng chính con đường này, càng làm cho nó giàu có hơn lên, càng làm cho nó vững bền theo thời gian. Và điều đó, kết tụ lại thành một sức mạnh dân tộc. Cái đó chính là văn hóa. Vì văn hóa là thế giới của cảm giác, đã được chắc lọc trở thành những biểu tượng, mà nhìn vào đó, người ta mới phân biệt được, văn hóa của dân tộc này, khác với văn hóa của dân tộc khác. Cái tâm hồn dân gian càng lâu năm, thì nó càng là cái hương chất mãnh liệt của tinh thần dân tộc, giàu lòng yêu thương, đạo đức và quả cảm. Điều này nó rất trong sáng và bất biến, cho dù có nhiều thay đổi trong cuộc sống, được gọi là văn minh đi nữa.
Sư phụ nói tới đây, thì đoàn người đã đi được một đoạn khá xa nữa rồi. Bóng dáng kinh thành, ngày một xích lại gần hơn với mọi người. Mọi người rất háo hức khi được về kinh thành chơi, và ông quan đại thần thì hứa rằng, sẽ cho mọi người đi xem hội múa hát ở kinh thành, suốt ngày suốt đêm không bao giờ chấm dứt…
Ông quan đại thần Xích Vân Tử này, càng ngày càng quý mến sư phụ hơn. Và không chút dấu diếm điều gì, ông ta nói: Quả thật cá nhân tôi, một đời cống hiến cho đất nước, không biết mệt mõi. Nhưng kỳ lạ thay, là mỗi khi về nhà, thì cái nhà của tôi nó biến mất, hay có thể gọi là nó luôn lánh xa tôi là sao? Bởi vậy, tôi vẫn mãi mịt mùng trên con đường chinh chiến, còn hơn là quay về ngôi nhà của mình. Vợ con tôi, gia đình tôi vẫn còn đó, ai cũng bước vô nhà được, nhưng riêng tôi thì thấy nó như là một ảo ảnh khó nắm bắt lắm. Có những đêm tôi trở về sau một ngày làm việc mệt mỏi, thì căn nhà tôi nó chạy ra xa, và bỏ tôi lại bơ vơ trên một cánh đồng vắng, điều này tôi chưa hề chia sẽ với ai cả. Nhưng với ngài, tôi xin hỏi như thế là sao?
Sư phụ nói: Điều ngài nói, là một điều nằm trong tâm lý của đa số mọi người, chứ không riêng gì ngài đâu mà lo. Bởi thông thường, người ta luôn phải học hành và làm việc quá nhiều, người ta luôn chiến đấu với ngoại giới, mà bỏ quên việc bếp núc của nhà mình. Đó là khi bạn đối diện với chính mình. Cái đó không phải là một sự thật dễ nắm bắt, như những con việc thông thường mà bạn đang làm, nhưng nó luôn có mặt ở đó bất kể ngày đêm. Bạn không biết điều đó, hay cố tình lãng quên nó. Và để thay thế vào đó, là cả núi công việc ngoài kia đang chờ bạn. Bạn lo làm kiếm tiền, và tranh thủ để có địa vị và quyền lực. Nhưng thực chất, những cái đó không hề làm cho bạn thỏa mãn. Vì bạn vẫn hoang mang. Mà lối về với chính mình, vẫn chập chùng mù mịt làm sao. Bạn đã có trong tay mọi thứ, và bây giờ bạn cần sự chia sẽ, cần sự thấu hiểu của người khác. Nhưng bên trong bạn, vẫn như luôn có tiếng nói của những người khác nữa. Nó luôn thôi thúc nhắc nhở bạn, hãy trả lời xem bạn là ai? Nếu bạn trả lời được câu hỏi đó, thì bạn mới được phép, bước chân vào ngôi nhà của mình. Bằng không, bạn dù đứng ở đâu trong xã hội này, thì bạn vẫn mãi mãi bơ vơ trên con đường vắng.
Ông quan đại thần bây giờ đã tỏ ra hiểu được một chút xíu, ông ta lắc đầu mấy cái rồi tiếp tục bước đi.
72. Mấy hôm nay, mọi người vừa đi đường vừa ngắm phố xá đông vui. Tiểu Hoa và Bạch Ngọc, đã thay những bộ đồ mới, để tới kinh thành dự hội. Còn Đại Hương, Thiên Hùng và Đại Lực cũng vậy, ba chàng trai này đều rất đỉnh đạt đi cạnh bên hai cô gái xinh đẹp. Sư phụ nhìn thấy đám học trò của mình thì rất vui, và nghĩ rằng. Mới đó, mà chúng nó đã lớn khôn hết rồi, trông kìa con bé Tiểu Hoa, đã biết cười duyên chúm chím. Còn Bạch Ngọc thì lúc nào cũng mắc cỡ làm sao ấy. Ôi tụi nhỏ bây giờ sống thoải mái quá! Đất nước đã hòa bình, không còn chiến tranh loạn lạc nữa, thì mọi người sẽ được sum vầy mà sống bên nhau…
Buổi sáng hôm nay mới dễ chịu làm sao. Trong khi bọn trẻ đi chơi thì sư phụ và ông quan đại thần, cùng ông sứ thần đang ngồi uống cà phê ở một quán bên đường. Nắng lên rực rỡ khắp phố phường. Mọi người hối hả đi lại, như chìm ngập trong dòng chảy của cuộc sống bận rộn…hà hà! Ông quan đại thần nói: Đời sống cứ lướt trôi ào ào như thế, nó cứ thản nhiên trôi đi không chờ đợi ai hết, nó cuốn trôi đi những tất cả.Vậy mà trong cái đầu thênh thang của ngài, vẫn mãi suy tư. Ngài gần như tách biệt, với cuộc sống này thì phải! Sư phụ nói: Thật lòng mà nói, thì tôi rất ít sống thật trong dòng chảy đời sống này. Cuộc đời tôi không lo toan dự tính gì cả, mọi vật cứ lướt qua mắt tôi như một cuộn phim. Tôi chấp nhận hết tất cả, vui buồn trên cuộc đời này dành cho tôi. Và trong suy tư, tôi đã nhìn thấy tất cả, nó như xóa mờ cái đời sống nhạt nhẽo này của tôi đi. Nó luôn tạo cho tôi những động lực để tiến lên phía trước. Đó là phải tiến lên đến gần với tôi hơn. Gần với cái bản thể tính người hơn, và nhận diện được gương mặt của thượng đế.
Ông quan đại thần nói: Vì sao ngài phải làm việc đó? Trong khi mọi người vẫn sống bình tường kia mà. Sư phụ trả lời: Vì đó gọi là khát vọng sống, để vươn tới tự do. Điều này bất cứ ai cũng có, chứ không riêng gì tôi đâu. Làm người ai cũng như thế cả, sở dĩ  mọi người lãng tránh con đường đó, là vì họ nhận thấy nó quá nguy hiểm hay vô ích, chẳng để làm gì, vì thế họ mãi mãi mất tự do. Này nhé! Con người chúng ta sống với cái thân xác nhỏ bé này, nhưng bên trong nó, chứa đựng một nguồn năng lượng vô tận. Nguồn năng lượng này, không ai biết cách khai mở cho nó cả, nên nó cứ quẫn quanh trong thân xác con người, đôi khi nó làm cho chúng ta tức giận một cách vô cớ. Nó là quá trình tích tụ quá nhiều năng lượng tâm lý tạo ra, như một sức nặng vô hình, đè mãi lên tinh thần con người. Lâu dần, người ta chỉ biết giải thích nó là số phận. Nhưng số phận là cái chúng ta không quyết định được. Khi chúng ta chấp nhận như thế, là chúng ta mất tự do rồi. Vì cái bản năng vươn lên, muốn vượt thoát ra ngoài cái thân xác bé nhỏ này vẫn còn. Nếu con người ý thức được cái này. Cũng như xã hội tôn trọng cái này, thì nó chính là tự do nội tâm.
Sư phụ tiếp: Tự do nội tâm là cái khao khát được sống mãnh liệt, vượt qua các định kiến xã hội. Nó không muốn bị ràng buộc, bởi một hệ ý thức, hay giáo điều nào. Nó muốn sáng tạo, và vươn lên dưới ánh mặt trời. Cái tinh thần đó, là cái thuộc tính mà con người phải nhận thức nó đầu tiên, khi làm người. Nhưng trong một cộng đồng, con người luôn bị áp đặt, từ hàng ngàn năm về sự gắn bó, và chia sẽ với cộng đồng, như một thứ đạo đức bắt buột. Thì những con người có tinh thần tự do nội tâm, luôn bị xem là có chủ nghĩa cá nhân. Cái quan niệm xã hội này, vô tình nó đã giết chết biết bao tài năng, để đổi lấy sự an toàn cho cộng đồng.
Sư phụ nói tiếp: Song song với tự do nội tâm, là một cuộc sống tự do của đời sống, không bị giới hạn đi lại, mà con người phải được hoạt động tùy ý muốn. Vì tự do là quyền lợi tối thượng của con người. Nhưng hiểu nó một cách tương đối thôi, vì các cá nhân cũng phải thích ứng với đời sống cộng đồng, thì mới ổn thỏa được. Hai cái đó luôn ràng buộc nhau, làm cho con người được bảo vệ, và cộng đồng được yên ổn. Nhưng nếu con người nào đạt được sự tự do nội tâm, và tự do hoạt động trong cuộc sống, là những người rất mạnh mẽ, và dũng cảm phi thường.
Sư phụ nói tiếp: Khát vọng sống, là cái động lực thúc đẩy con người vươn lên không ngừng, và không hề biết thỏa mãn. Nhưng trên con đường nó đi, cũng sinh ra rất nhiều bất cập và ngộ nhận, nên người ta luôn muốn giới hạn nó lại. Nhưng bản thân cái khát vọng kia, luôn muốn vươn lên là điều tất yếu. Người nào quyết định đi trên con đường đó, là luôn bị sự hiểu lầm của cộng đồng. Vì anh ta không chấp nhận, bất cứ định kiến, khuông mẫu ý thức nào, ràng buộc mình. Cho nên anh ta luôn bị xã hội gạt sang một bên. Anh ta phải tự lực trong việc đi tìm tự do đó. Nếu con người đó không khôn khéo, thì sẽ gặp tai họa bất cứ lúc nào, vì cái cộng đồng kia, luôn xem anh ta là thành phần bất hảo, không thể cải tạo được. Vì thế, cái khát vọng sống của con người, luôn bị các thành kiến xã hội ngăn cản. Cho nên đa số mọi người đều rời bỏ con đường này, để đổi lấy một cuộc sống bình an, mà người ta hiểu lầm rằng đó là tự do.
Sư phụ nói tiếp: Thông thường con người đang sống, và chấp nhận cuộc sống đó là ổn rồi. Thì khi sắp sửa bị mất tự do, thì người ta mới ý thức được tự do. Điều này luôn xảy ra ở số đông người không có cái khát vọng sống mãnh liệt đó. Họ đi tìm tự do vì bị mất tự do, là đi tìm cái tự do bình thường, chứ không phải là cái tự do giải thoát. Cái tự do bình thường, tối thiểu của con người, tôi gọi là cái tự do xã hội. Còn cái tự do tối thượng, để giải thoát, thì tôi gọi là tự do cá nhân. Vì thế cái tự do cá nhân đó, là cái tự do nội tâm rồi, nó luôn chứa đựng cái khát vọng sống mãnh liệt, lúc nào cũng khao khát không ngừng vươn lên. Còn cái tự do xã hội, là cái quy định của xã hội cho phép con người được hưởng tự do tới mức nào thôi. Có nghĩa là, tự do của người này, không được làm mất tự do của người khác. Điều này nó rất rỏ rang, và chúng ta có thể nhìn thấy được, trong các thiết chế xã hội đã quy định. Còn cái tự do cá nhân, là nó không bị ai giới hạn gì cả, tuy nhiên song song với sự phát triển của nó, thì nó nên tránh xa xã hội loài người, càng nhiều càng tốt, để nó còn nuôi sống cái tự do cá nhân của mình.
Sư phụ nói tiếp: Trong việc nâng cao cái tự do cá nhân, thì nó càng khó thích ứng với cái tự do xã hội. Vì xã hội loài người sống là sống thật sự, chứ không thể sống thể nghiệm được. Còn cái tự do cá nhân, là nó như một phòng thí nghiệm tâm lý cá nhân vậy. Có thể anh thất bại hay thành công, thì chính anh phải nhận lấy. Cái tự do cá nhân là đi tìm sự hiểu biết, bên trong con đường tinh thần của chính mình. Trong đó chứa đựng rất nhiều vấn đề, mà cái tự do xã hội sẽ không thể chấp nhận được. Vì quá trình đi lên của tinh thần cá nhân, nó cũng giống như quá trình hình thành của xã hội loài người. Nó phải tìm nhiều cách gạt bỏ đi những cái không cần thiết, Rút gọn và tổng hợp, để rút ra những tiêu chuẩn chung nhất về tri thức. Để nó có được sự hiểu biết tổng quát, hơn là mài giũa một thanh gươm cho bén, như người ta vẫn làm. Và sự phát triển của loài người cũng như thế thôi. Cái quy định của tự do xã hội, là cái tiêu chuẩn cho cái xã hội ấy tồn tại, một cách lâu bền và yên ổn. Cho nên giữa hai loại tự do này,  luôn có nhiều cái khắc chế nhau, kiềm tỏa lẫn nhau. Do đó, cơ hội để con người tìm được cái tự do giải thoát cá nhân, là rất mong manh.
72. Lúc này sư phụ đã ngừng nói, và nhận ra đám đông vây quanh đang nhìn ngắm mình như một vật thể lạ. Họ mĩm cười tủm tỉm và ra vẻ thông cảm về một điều xa xăm nào đó. Nhưng riêng ông quan đại thần, thì lúc nào cũng tỏ ra tôn trọng những lời nói của sư phụ. Còn ông sứ thần của đức vua, thì không thôi ngơ ngác và tỏ ra suy tư bất tận. Sư phụ nói: Thôi chúng ta về quán trọ ngũ thôi. Và lũ trẻ đi chơi cũng đã về rồi kìa. Đường đến kinh thành bây giờ đã ở trước mặt rồi. Sáng mai chúng ta đi thêm một đoạn đường nữa, là sẽ tới nơi. Nói xong thì sư phụ đứng lên, còn ông quan đại thần thì cũng vui vẻ lắm. Ông sứ thần của đức vua đi tới trả tiền cà phê cho bà chủ quán, rồi cũng đứng lên. Lúc này Đại Hương và các bạn cũng đã quay về. Thế là cả nhóm quay về nhà trọ ngủ.
Nhưng đêm nay trong lòng bọn trẻ rạo rực làm sao, chúng không thể nào ngũ sớm như vậy được. Ngoài kia là đường phố rộn rang, và như không ngũ bao giờ. Bây giờ trời đã tối. Người ta treo đèn kết hoa khắp nơi, vì mùa này là mùa của những lễ hội dân gian bất tận. Tiểu Hoa và Bạch Ngọc vui lắm, hai cô nàng cứ cười vui hớn hở, đi tới, đi lui trong phòng. Thấy vậy,  Đại Hương nói: Ở đây có rạp chiếu phim hay lắm. Vậy bây giờ mình xin phép sư phụ đi xem phim đi? Thế là cả bọn đồng ý, và đi xin phép sư phụ. Sư phụ đồng ý, thế là năm đứa nó rủ nhau đi xem phim…
Vào rạp phim, thì Tiểu Hoa và Bạch Ngọc ngồi hàng ghế trước. Còn ba chàng trai, thì ngồi hàng ghế đằng sau. Bộ phim nói về một toán người văn minh, tấn công công một bộ lạc sống trong rừng núi. Người dân của bộ lạc dưới sự chỉ huy của một chàng trai thông minh, đã bẽ gãy những cuộc tiến công của quân thù. Suốt bộ phim là cảnh bắn giết đầy bạo lực rất dã man, và cái bộ lạc kia chỉ còn sống sót có vài người đang chạy trốn, thật đáng buồn. Bất giác Đại Hương nói với các bạn: Sao con người càng văn minh, thì họ càng nhiều dã tâm đến như vậy. Ở chốn kinh thành này chắc cũng có biết bao chuyện bất công xẩy ra đây. Đại Hương nói chưa dứt lời, thì có một đám thanh niên đánh nhau trong rạp phim. Chúng truy sát rượt đuổi nhau tứ tung. Thấy vậy Đại Lực liền đứng lên nắm áo một tên lại. Tức thì tên đó la lên oai oái! Và cả bọn chúng dừng lại, nhìn thấy nhóm của Đại Hương đang xem phim. Bọn chúng nhìn thấy Tiểu Hoa và Bạch Ngọc, xinh đẹp quá nên liền xông vào. Một tên nói: Hai em ở đâu lên thành phố chơi vậy? ha ha! Đẹp đó tụi bây. Bắt tụi nó lại cho tao. Thế là bọn chúng xông vào, tính bắt Tiểu Hoa và Bạch Ngọc. Nhưng Đại Hương liền đứng dậy và nói: Các anh sao tự nhiên đánh người hả? Ở đây có còn luật lệ gì không? Tên cầm đầu cười ha hả mà rằng: Trong bóng tối này, luật lệ chính là tao. Nói rồi hắn ra hiệu cho mấy thằng khác xông vô đánh Đại Hương. Nhưng chúng có ngờ đâu, mấy trò đấm đá này, thì Đại Hương và các bạn đã chơi nhiều rồi. Bất thần một tên cầm dao nhào vào, thì bị Đại Hương đá một cái ngã gục. Còn hai tên khác thì bị Thiên Hùng và Đại Lực khống chế. Trong khi đó, thì Tiểu Hoa đang đi về phía tên cầm đầu. Tên cầm đầu thấy vậy, mới cười lên ha hả, và xông vào sàm sở với Tiểu Hoa. Nhưng nhanh như cắt, Tiểu Hoa đã tát nó hai cái vào mặt, và nó ngã xuống không còn động đậy nữa.
Thấy tên cầm đầu, mặt đầy máu gục xuống, thì cả bọn hè nhau bỏ chạy. Nhưng Đại Hương đã chặn đầu bọn chúng lại. Đại Hương liên tục, hạ gục tên này tới tên khác trong chớp mắt. Còn Đại Lực và Thiên Hùng thì dẫn Tiểu Hoa và Bạch Ngọc thoát ra ngoài rạp phim rồi…
Cả ba chạy về gặp sư phụ, thì cũng đã khuya rồi. Sư phụ nói: Các con đi đâu cũng quen tật đánh nhau là sao. Nếu người ta có gây chuyện, thì cũng làm sao tránh ra. Chứ đánh nhau mãi thế này, thì tối nay chúng sẽ tìm đến đây cho mà xem. Lúc sư phụ nói chuyện với bọn trẻ như vậy, thì ông quan đại thần nghe thấy hết. Ông ta nói: Thôi mình không ngũ ở đây nữa, để tránh phiền phức. Bây giờ chúng ta đi thẳng đến kinh thành luôn.
Vậy là nữa đêm mọi người khăn gói lên đường. Trời đêm gió se lạnh, sao mọc đầy trời. Tiểu Hoa và bạch Ngọc thì cười khúc khích mãi. Đại Hương nói: Nếu chúng ta không đánh chúng, thì bọn chúng cũng sẽ đánh chúng ta thôi. Anh đánh tụi nó là để bảo vệ cho hai em mà! Nghe thế mọi người cùng cười vang trên đường đi.
Cuộc ra đi xuyên đêm hôm nay thật lạ lung. Thành phố cũng đã tắt hết đèn, đường phố vắng hoe. Sư phụ nói: Đi trong đêm thành phố vắng vẻ thế này, là điều rất hay. Các bạn hãy trong kìa, đời sống về đêm đã thức dậy. Những quán hàng bán đồ ăn đêm, còn thao thức với đám người lao động về đêm. Ở một bến cảng, giờ này vẫn còn sáng đèn. Những người phu khuân vác, đang vác những bao hàng nặng trỉu trên lưng. Những chiếc xe chở hàng chạy đi miệt mài. Và xa xa nơi cuối đường, có những người phu đang quét đường hối hả. Họ đẩy những chiếc xe kĩu kịt chở đầy rác đi vào màn đêm thăm thẳm. Những hàng cây đứng yên trong thành phố, như những cái bóng kéo dài mãi ra. Những con người lặng lẽ di động qua lại trong đêm thật bí ẩn. Và như thế mọi người vẫn phải đi qua một đêm cuối cùng này...
73. Lúc này trời đã bắt đầu sáng. Từ phương đông mặt trời mọc lên rực rở chói lọi cả một vùng trời. Những ngôi sao đang bị chói mắt trước ánh sáng, nên nó đã mờ nhạt và lần lượt mất hết. Bầu trời hiện ra dưới mắt của mọi người thật thanh sạch, không một tý vẫn đục nào. Những đám mây trắng nhẹ nhàng lướt đi êm ái, trong gió sớm mai thật thanh bình. Đâu đây vang lên tiếng chim hót líu lo rộn rang, đón chào một ngày mới.
Bây giờ mọi người đã đến kinh thành rồi, nhìn đâu cũng thấy người xe tấp nập đi lại. Phố xá ồn ào náo nhiệt quá. Những dãy cửa hàng bán đầy hoa trái, kế đó là những dẫy cửa hàng bán đầy vãi vóc lựa là. Từng đám người ngồi ăn sáng, và uống cà phê trong các hàng quán hai bên phố. Và phía bên kia là cung điện của nhà vua thật uy nghi lẫm liệt làm sao. Ông quan đại thần nói: Chúng ta đã đến nơi rồi. Thôi các người ngồi chờ ở đây, để tôi vào gặp đức vua cái đã.
Thế là mọi người ngồi đợi phía ngoài hoàng cung, còn ông quan đại thần Xích Vân Tử, thì đi vào yến kiến đức vua.
Mọi người chờ đợi được một lát, thì có một đám thị vệ đi ra và bảo: Đức vua cho gọi ngài Lý Tuyết Sơn Minh Hạnh Túc vào gặp. Còn những người khác thì hãy về dịch quán nghỉ ngơi. Nghe vậy sư phụ liền đi vào, cùng với những người thị vệ của đức vua.
Khi sư phụ vào trong rồi, thì thấy đức vua ở trên ngai vàng bước xuống và nói: Xin chào tiên sinh! Xin chúc mừng tiên sinh đã đến đây. Sư phụ nói: Xin chào đại vương! Đại vương vẫn mạnh khỏe chứ! Tôi đến đây là để làm đúng ước hẹn với đại vương, vì tôi còn dắt mấy đứa nhỏ đi chơi ở đây nữa, Tôi không dám làm phiền đại vương nhiều, cho nên vài bữa nữa, tôi sẽ cùng đám học trò của mình trở về quê nhà. Đức vua nói: Vậy hôm nay tiên sinh có điều gì nói với ta chăng? Sư phụ trả lời: Thưa đại vương! Tôi thấy sự nghiệp của đại vương là tối thắng, lẫy lừng lắm rồi. Nên không có gì để nói nữa. Tuy nhiên, tôi chỉ nói tới một điều, mà một vị quân vương nào cũng nên giữ lấy để bảo vệ quốc gia. Đức vua nói: Đó là điều gì, xin tiên sinh cứ nói. Sư phụ nói: Thưa đại vương! Một điều khác biệt giữa một minh quân, và một u vương, đó chính là tình yêu thương. Thưa đại vương!
Sở dĩ tôi nói tới tình yêu lúc này, là vì tôi muốn nói đến cái ảo tưởng của con người thời đại này, đã sụp đổ nhiều rồi. Và tình yêu là điều không có gì là mới mẻ cả. Tuy nhiên, vì sao con người cần đến tình yêu thương, và một quân vương thì tại sao lại cần đến nó nhiều hơn cả. Thưa đại vương! Đó chính là chúng ta làm người, đều có quá nhiều đau khổ rồi. Và từ đó, chỉ có tình yêu thương là có thật trên đời, nó có thể làm cho chúng ta vơi bớt đi, biết bao khổ đau. Thưa đại vương! Vì con người chúng ta  đứng trước cuộc đời này, là như giao phó số mệnh mình cho biển cả. Thân xác con người như chiếc bè đưa chúng ta qua sông để thoát khỏi khổ đau, nhưng có mấy ai làm được điều này đâu. Vì chúng ta, đều là những con người, đang đi trên con đường đó. Đó là con đường chiến đấu với khổ đau, đè nặng lên thân phận mình. Và cuộc đời này, đại vương có thấy không? Thần dân của người thật vất vả, mới kiếm được miếng ăn qua ngày. Bao nhiêu cảnh lầm than khổ sở, đang hiện ra trước mắt. Và đại vương cần phải hiểu hết những điểu đó, thì đại vương mới có tình thương được. Đại vương mới có sự thông cảm với thân phận con người khổ đau được. Và từ đó đại vương sẽ hiểu ra rằng, chính mình là người có nhiều khổ đau nhất. Vì người phải lo lắng cho những con dân của mình. Thưa đại vương!
Sư phụ nói tiếp: Khi các thành tựu khoa học vĩ đại, đưa tới những phát minh vượt bậc, làm thay đổi bề mặt thế giới này. Và nếu như con người không có tình yêu thương, thì hởi ôi, điều gì có thể xảy ra? Vì người ta sẽ dùng các phát minh vĩ đại đó, để tiêu diệt lẫn nhau vì lòng căm thù. Thì như thế cũng chỉ là điều đáng tiếc mà thôi. Vì tất cả các học thuyết tốt đẹp nhất trên đời này, nó sẽ dẫn con người đi về đâu? Hay nó càng văn minh tối tân hơn, thì tiêu diệt con người càng nhanh hơn? Nếu như không có tình yêu thương? Người ta sợ hãi nhau, căm thù nhau, và tìm cách chiến thắng nhau, nhưng đó đều không phải là mục đích của cuộc sống này. Mục đích của cuộc sống này, là vượt qua khổ đau để mà sống. Vì khổ đau quá nhiều rồi, chúng ta không cần thêm thù hận nữa. Mà lúc này, cái mà người ta cần, thì cái đó chính là tình yêu thương. Thưa đại vương! Từ trong tình yêu thương, mà người ta nhìn ra nhau là bạn bè, chứ không phải là kẻ thù. Thì đó là điều cốt lõi để con người tồn tại bên nhau. Tại sao đại vương phải nghĩ đến điều này. Vì nhân dân của ngài đã đau khổ nhiều lắm rồi. Vì quá đau khổ nên người ta mới cần nhau, chớ không vì một lý do nào khác. Đại vương có thấy không? Khi mặt trời lên, khắp cánh đồng đều sáng bừng dưới nắng vàng, những đám mây và những bông hoa, dòng sông con suối, núi rừng và biển cả, đều đẹp tươi hẳn lên! Đại vương có biết không? Đó chính là  tình yêu thương của tạo hóa, đã tưới tắm cho nó, nên nó mới tươi đẹp như thế. Và đại vương hãy nhìn xuống muôn dân của mình đi. Nhân dân của đại vương vẫn còn nhiều cực khổ lắm. Đại vương hãy yêu thương nhân dân mình, hãy khoan hồng tha thứ cho những người mang tội, và đại vương hãy tha thứ, bao dung luôn cho cả những người chống đối mình. Có như vậy thì non sông gấm vóc này, mãi mãi sẽ đẹp tươi và vững bền, thưa đại vương!.
Sư phụ nói tới đây thì lui ra. Những tia nắng buổi sáng như những ánh chớp chiếu rọi vô tận trong cung. Nó lấp lánh khắp nơi trong cái không gian vương giả này. Bất giác đức vua nở một nụ cười rạng rở trên môi.                                 
11/6/2009
Hà Hùng
                          Theo www.daophatngaynay.com/vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Dấu chấm thang – Chùm thơ của Trần Hương Giang 4 Tháng Sáu, 2023 Biết thương cuộc sống ta bà/ Đổi thay, tôi lại thiết tha yêu đời/ Dù ...