Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2019

Một đám cưới vào thơ

Một đám cưới vào thơ 
N
gày 20/7/1975 tại thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị có một sự kiện văn nghệ, đó là việc khai sinh bài thơ “Đưa dâu qua cầu Bến Hải” của nhà thơ Cảnh Trà.
Trong văn nghệ hiện đại Việt Nam, mà phổ biến trong thơ và nhạc, đề cập chuyện đám cưới không ít, nhưng hầu hết là nói đến chia ly, tan vỡ, ngậm ngùi. Ngày trước Nguyễn Bính viết bài thơ “Lỡ bước sang ngang” thì ngay tên gọi cũng đã thấy một cuộc tình đổ vỡ. Hay như nhạc sĩ Phạm Duy có nhạc phẩm nổi tiếng “Chuyện tình buồn” (phổ nhạc bài thơ cùng tên của thi sĩ Phạm Văn Bình - một người Quảng Trị) cũng là những day dứt, xót xa: Ngày nhà em pháo nổ/ Anh cuộn mình trong chăn... Chỉ có thời miền Bắc trước năm 1975, Phan Thị Thanh Nhàn mới có một bài thơ vui vẻ, lạc quan là “Đám cưới ngày mùa” với khổ kết khá ấn tượng: Các cụ ông say thuốc/ Các cụ bà say trầu/ Còn con trai con gái/ Chỉ nhìn mà say nhau.
Vậy thì Cảnh Trà viết về đám cưới có gì khác và đáng nói? Trước hết đây là bài thơ ra đời vào đúng ngày 20/7/1975, khi Đất nước hoàn toàn thống nhất, nhưng cách đó 21 năm, ngày 20/7/1954 cũng là ngày ký Hiệp định Giơnevơ, chia cắt hai miền, tưởng là giới tuyến tạm thời, nhưng lại kéo dài hai thập kỷ với muôn trùng xa cách, nhớ thương và đớn đau. Bởi vậy khi diễn ra sự kiện đám cưới, nhất là đưa dâu qua cầu Bến Hải thì lập tức gây chấn động lớn tâm can nhà thơ và tứ thơ được ra đời nhanh chóng như giọt nước tràn ly.
Một buổi mai nắng vàng hoa ngâu
Đám cưới đưa dâu qua cầu Bến Hải
Cầu vừa bắc xong
Sơn còn tươi rói
Đôi bờ xanh lúa mới ngậm đòng
Một cảnh tượng thoạt trông có vẻ cũng bình thường: trời đẹp, một đám cưới diễn ra trong cảnh thanh bình như bao đám cưới khác. Nhưng trong đám cưới này còn có một “nhân vật” khác im lặng nhưng hết sức quan trọng, là điểm nhấn đặc biệt, tạo nên thần thái của cả bài thơ: chiếc cầu. Nó chính là xương sống sinh thành cấu tứ bài thơ, làm bùng nổ cảm xúc một cách đột phá. Đó là chiếc cầu không bình thường, chiếc cầu chia cắt.
Nhìn lại họ qua cầu mà nước mắt
rưng rưng
Mà sung sướng vui tràn như trẻ nhỏ
Chàng trai Vĩnh Linh cưới cô gái đất Cùa,
Cam Lộ
Sông tưng bừng nhìn đôi lứa thương nhau
Gió lâng lâng con sóng vỗ chân cầu
Lạ chưa, ngày vui, nhất là song hỷ lâm môn như xưa nay quan niệm về đám cưới, dân gian thường vẫn tránh nói chuyện buồn, càng kiêng kỵ chuyện khóc lóc nhưng đám cưới này thì nước mắt rưng rưng. Vì hạnh phúc và vui mừng quá đỗi, mọi người có thể vô tư bày tỏ tình cảm chân thực của mình một cách hồn nhiên, cho thỏa những dồn nén, ẩn ức bao năm. Chỉ những người sống hai bên giới tuyến, sống trong sự chia cắt đằng đẵng như đồng bào Vĩnh Linh, Gio Linh - Quảng Trị mới thấu cảm được hết những giọt nước mắt này.
Gió lâng lâng con sóng vỗ chân cầu
Mà thắt ruột câu hò xưa tê tái
Bước chân Hiền Lương sao đường
nghẽn lại
Đáo tới Bến Hải sao gác mái tình duyên…
Đây quả thực là nỗi đau dai dẳng của dân tộc Việt Nam, hiện hữu đủ đầy tại tâm điểm là dòng sông Hiền Lương, chiếc cầu Bến Hải. Chiến tranh và những hậu quả nặng nề, trong đó có đoạn trường chia cắt thật không thể nào nói hết, vẫn để lại di chứng dài lâu đối với con Lạc cháu Hồng. Lẽ ra một sự kiện phổ biến của nhân sinh như đám cưới là câu chuyện bình thường thì lại trở nên khác thường bởi chiến tranh, chia cắt, hận thù... Vì bản chất của tình yêu, hôn nhân, đám cưới đồng nghĩa với niềm vui, hạnh phúc, đoàn viên trái ngược hẳn với những thống khổ mà chiến tranh gieo họa, trong đó có chia lìa như người xưa vẫn nói: sinh ly tử biệt.
Đám cưới hôm nay cũng tự nhiên
Như là hoa, là lá
Như là chị lấy chồng, như là tôi lấy vợ
Mà hay chưa, bỡ ngỡ như chiêm bao
Lại thêm một hậu quả của chia cắt nhiều năm. Khi nước nhà chưa thống nhất, ai cũng mong chờ ngày đại đoàn viên, được tự do thoải mái đi lại trên chiếc cầu lịch sử. Nhưng khi ngày ấy đến thì ai nấy không khỏi ngỡ ngàng, cứ tưởng trong mơ, đó chính là nghịch lý cảm xúc khi phải trải qua một trường kỳ ngăn cách.
Chừng vui quá nên cô dâu bối rối
Mắt thẹn thùng, chen trong đám chị em
Tóc cài hoa với chiếc áo thanh thiên
Mới nắng đó mà đỏ lừ đôi má
Chàng trai bâng khuâng tay đung đưa
trong gió
Sông long lanh nước sóng sánh đôi bờ
Tiếng nói cười như chim hót sau mưa.
Đoạn kết là khúc hoan ca xúc động, đó thực sự là những cảnh tượng đẹp, thanh bình, an lành đến rơi nước mắt mà chỉ những ai trải qua chinh chiến triền miên, đợi chờ vời vợi mới đồng cảm tận cùng. Chiếc cầu đã trở thành biểu tượng sum họp, Nam - Bắc một nhà.
Bài thơ thành công và lay động lòng người bởi nó đã phát hiện ra điều khác thường từ một điều bình thường và ngược lại, hai yếu tố này cứ xoắn xuýt vào nhau, tạo nên một trường liên tưởng vừa tương phản lại vừa đồng nhất, chọn được hình tượng đắc địa: đưa dâu qua chiếc cầu chia cắt bao năm. Lời thơ dung dị, chân mộc, giàu cảm xúc, chạm đến sâu thẳm tâm tư của hàng triệu con người với mong muốn muôn đời về hòa bình, thống nhất. Nói chuyện của đôi người mà thành chuyện của muôn người, chuyện thời sự mà cũng là chuyện của muôn đời. Mọi chiếc cầu chia cắt trên đời này phải sớm hóa thành chiếc cầu đoàn viên. Việc này muốn viên thành thì mọi người trong cuộc phải vượt qua những hố sâu ngăn cách, đồng tâm hiệp lực bằng cả tấm lòng.
Không có tiếng bom rơi đạn lạc, chết chóc nhưng bài thơ vẫn vang lên lời tố cáo chiến tranh và khổ đau, chia cắt. Bởi chiến tranh đi ngược lại mọi giá trị nhân văn của con người, đe dọa đến hết thảy cuộc sống và hạnh phúc của mọi người.
Bài thơ “Đưa dâu qua cầu Bến Hải” của nhà thơ Cảnh Trà cũng như nhạc phẩm “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao đã chạm vào khát vọng của cả dân tộc Việt Nam. Những sáng tác như thế thường có sức sống bền lâu.
Đưa dâu qua cầu Bến Hải
Một buổi mai nắng vàng hoa ngâu
Đám cưới đưa dâu qua cầu Bến Hải
Cầu vừa bắc xong
Sơn còn tươi rói
Đôi bờ xanh lúa mới ngậm đòng
Nhìn lại họ qua cầu mà nước mắt
rưng rưng
Mà sung sướng vui tràn như trẻ nhỏ
Chàng trai Vĩnh Linh cưới cô gái đất Cùa,
Cam Lộ
Sông tưng bừng nhìn đôi lứa thương nhau
Gió lâng lâng con sóng vỗ chân cầu
Mà thắt ruột câu hò xưa tê tái
Bước chân Hiền Lương sao đường
nghẽn lại
Đáo tới Bến Hải sao gác mái tình duyên…
Đám cưới hôm nay cũng tự nhiên
Như là hoa, là lá
Như là chị lấy chồng, như là tôi lấy vợ
Mà hay chưa, bỡ ngỡ như chiêm bao
Tôi nhìn sông, nghe sông chảy rì rào
Ai hát đó tưởng như mời tôi hát
Ngắm mây bay tôi thấy trời bát ngát
Chân người đi rộn rịp quá người ơi!
Không chỉ là tôi, ai cũng thế, bồi hồi
Ai cũng thế, niềm vui này tột đỉnh
Chúng ta đã trải qua ngàn trận đánh
Để bây giờ đất nước được vẹn nguyên
Cho con đò khỏi “gác mái tình duyên”
Và chiếc cầu, “chặng đường thôi nghẽn lại”
Chừng vui quá nên cô dâu bối rối
Mắt thẹn thùng, chen trong đám chị em
Tóc cài hoa với chiếc áo thanh thiên
Mới nắng đó mà đỏ lừ đôi má
Chàng trai bâng khuâng tay đung đưa
trong gió
Sông long lanh nước sóng sánh đôi bờ
Tiếng nói cười như chim hót sau mưa.
Thôn Hiền Lương, 20-7-1975
CẢNH TRÀ
 16/8/2019
Phạm Xuân Dũng

Theo http://tapchicuaviet.com.vn/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tác phẩm mới, cái nhìn riêng của Huỳnh Như Phương 14 Tháng Bảy, 2022 Có một “gia tài” gồm nhiều tác phẩm (giáo trình, chuyên khảo, bài...