Phân tích tâm lý
thuộc triết học tự nhiên
thuộc triết học tự nhiên

Giờ đây qua mấy chục thế kỷ con người đã biến cuộc đời như một
thứ triết học tư tưởng hay biện chứng cho một giá trị sống, không còn gọi là
triết học nhập môn; cụm từ này như một hạn chế không trở thành cái ‘thuộc về’ của
con người. Răng rứa? bởi; thuộc về triết học (philosophical) là phạm trù dành
riêng không có tính chất phổ quát. Phân tách tâm lý thuộc triết học tự nhiên
- The Nature of Philosophical Analysis. Nói chung đều chứa đựng và hòa nhập
trong một lý thuyết để tìm thấy chân lý tối thượng ở chính nó như triết thuyết
Phật giáo đã được truyền thừa từ muôn đời nay: là thuộc triết học tự nhiên.
Trong viện dẫn của Bertrand Russell miêu tả về lý thuyết như
là vật mẫu (mẫu thức của quặng) phân tích tâm lý thuộc về triết học. Nếu lý
thuyết đó thường được dùng như một luận chứng hay chứng minh thời đó là chỉ định
cho sự diễn tả chớ không phải là chuyển dịch thuộc về căn nguyên / ‘is not a
translation of the original’. Theo quan niệm mẫu thức của Russell đưa ra chỉ là
nhận thức về khoa lý luận triết học của một số triết gia khác, cốt để điều hòa
trong một tiết điệu thuộc những gì ngoại biên triết học của họ đưa ra, cho dù
dưới một thể thức nào hay lý luận nào đều đả thông và nhận biết gần như ở cách
thức tự nhiên / ‘in the most natural way’ của tự nó mà ra, cho dù; ông không
nghĩ rằng đề xuất những chuyển dịch là đúng hay sai. Ở đây Russell đã trả
lời rằng đó là trạng thái mập mờ không thể tránh né có thể xẩy ra hoặc hiện ra
tối nghĩa của một ngữ ngôn thường dùng vào những mục đích hằng ngày. Chính sự
lý đó đưa dẫn ông đến cách xử sự cho một biểu hiện ngôn ngữ tự tạo không mấy tự
nhiên trong một cơ bản chính xác (Pricipal Mathematica) đó là những gì thuộc về
lý thuyết của ông đã miêu tả bao gồm vào đó dẫu cho lý thuyết chưa xuyên
thủng qua một thứ ánh sáng trong suốt, bởi; một sự bày tỏ, diễn đạt thông thường
và cứ coi đó là mục đích quan trọng của triết học.
Lý thuyết đôi khi lộ ra một thứ ngụy biện đưa tới cho những triết gia tin tưởng vào cái sự tồn lưu, tồn lại, tồn luân (subsistent entities) là lý thuyết dựng nên từ triết học, thế nhưng; lý thuyết sẽ có thể chứa đựng một chút ít những gì không chính xác chớ không nhất thiết triết học là bày tỏ một sự chính xác rõ ràng. Đấy là xác định cụ thể hai nguồn sáng thuộc về triết thuyết như nhiên (nature of philosophical) và một thuộc triết thuyết luận bàn (philosophical arguments). Cái sự lý tợ như của Russell cho ‘lý thuyết của miêu tả / theory of descriptions’ là đứng bên cạnh đó có cái thường có; phải chăng để vơi đi cái sự tồn lưu, tồn lại tồn luân –Similarly Russell’s ‘theory of descriptions’ has other uses besides relieving us of ‘subsistent entities’. Sự cớ như thế đã xâm nhập vào trạng huống không có lý lẽ vững chắc; không chừng đưa vào cõi u minh của triết học mà không nhận ra những gì thuộc triết học.
Lý thuyết đôi khi lộ ra một thứ ngụy biện đưa tới cho những triết gia tin tưởng vào cái sự tồn lưu, tồn lại, tồn luân (subsistent entities) là lý thuyết dựng nên từ triết học, thế nhưng; lý thuyết sẽ có thể chứa đựng một chút ít những gì không chính xác chớ không nhất thiết triết học là bày tỏ một sự chính xác rõ ràng. Đấy là xác định cụ thể hai nguồn sáng thuộc về triết thuyết như nhiên (nature of philosophical) và một thuộc triết thuyết luận bàn (philosophical arguments). Cái sự lý tợ như của Russell cho ‘lý thuyết của miêu tả / theory of descriptions’ là đứng bên cạnh đó có cái thường có; phải chăng để vơi đi cái sự tồn lưu, tồn lại tồn luân –Similarly Russell’s ‘theory of descriptions’ has other uses besides relieving us of ‘subsistent entities’. Sự cớ như thế đã xâm nhập vào trạng huống không có lý lẽ vững chắc; không chừng đưa vào cõi u minh của triết học mà không nhận ra những gì thuộc triết học.
Phân tách tâm lý thuộc triết học tự nhiên: là một thứ triết học
không chứa chấp để minh định một cách cụ thể; mà đòi hỏi sáng tỏ.Thực ra đó là
những từ ngữ để diễn giải, nhưng; nhất thiết đó là minh định rõ ràng sự lý.
Trong tập lý luận ‘Lý thuyết về miêu tả / Theory of descriptions’ của Russell
như một thí dụ cho những gì thuộc triết học tự nhiên, xác định về những gì còn
nghi ngờ qua biểu tượng, xác định về những gì cấu trúc luân lý. Chất liệu là những
gì cấu trúc thuộc luân lý đạo đức ngoài cảm thức đồng tình (sense-contents) là
những gì khác biệt của chất liệu về tư tưởng; cảm thức đồng tình mà chúng ta giải
trừ thời gọi chung là vấn đề của tri giác, một giải pháp ngoài vấn đề của sự
phân tách tâm lý thuộc triết học. Xác nhận về triết học là không có một thực nghiệm
để xác nhận cho đường lối mà người ta đã dùng ngữ ngôn để diễn tả. Chất liệu cấu
trúc là để nhập vào (enter) và có chỗ để thoát ra (exit). Đó là lý giải theo
chiều hướng thuộc phép nhị-nguyên (nhà Phật) thời tất không còn thấy ngữ ngôn của
nhập môn ở đây. Răng rứa? là chỉ sờ tới chớ chưa chạm tới thì làm răng hiểu thấu
đáo và phân tách được đường lối chũ nghĩa tự do triết học một cách tự nhiên được.
Đấy là triết lý đích thực mà chỉ có nhập môn để đi vào triết lý Phật giáo mà
thôi. Rứa răng? –Chơ chi nữa; mà cứ răng với rứa. Là vì triết lý nhà Phật cho rằng
‘Môn’ là cửa có hai đầu trống không có điểm cuối (tợ cái ống rỗng hai đầu)
nghĩa là nhập môn là đi vào cửa này mà không tới cửa kia, vì; có tới rồi cũng
lui. Đạo Phật quan niệm giữa Có và Không là Nhứt Thể tức đạt được cái chân như
của con người. Đó là môn (dựa qua tư tưởng Phật giáo của Nietzsche). Môn là cửa
trước và môn là cửa sau. Hai cánh cửa này chỉ nhập và xuất chớ không hiện hữu tồn
lưu. Lưu tồn hay tồn lại là do tâm thức nhận ra và nhập định để đi vào cửa của
tánh không. Còn quan niệm triết học là dấn thân vào đời để tìm thấy chân lý hữu
thức để đạt tới cái lý như nhiên của vũ trụ. Cho nên chi khoa tâm lý triết học
tự nhiên là phân tách thế nào hữu sự và thế nào là hữu thể. Là hai tế bào rốt ráo
cho một triết học tự nhiên; chớ bi chừ đòi cho ra sự cớ: môn này ở mô và môn nọ
chỗ mô? Rõ ràng chưa đạt tới chân như của ‘nhập môn’ là gì cả; để rồi rơi vào
vòng luẩn quẩn giữa Có và Không. Triết học tự nhiên là nhân tố tạo nên.

Thuở xưa; viết về triết học của một số văn nhân chuyên khoa
triết hoặc nghiêng về triết thường nói ngoài đề của triết học, một đôi khi lý
luận thiếu cơ bản và nồng cốt hoặc sao chép từ nguyên văn của những triết gia
đi trước: chứng minh lý giải theo quan điểm chủ quan của mình hơn là do từ tư
duy sáng tạo để vạch rõ đường lối chủ nghĩa triết học. Sự cớ đó nguy hại đối với
những lớp người chưa lãnh hội về triết học. Họ đã xử dụng theo cách riêng như
nói lên sự lý chính mình; cái kiểu này khác chi ‘lấy vải thưa che mắt thánh’
cho một lý thuyết của triết gia. Chính vì thế mà đời đã mô tê, răng rứa cho là
‘triết gia’ thậm chí ‘triết gia’phải nói ra rằng tôi là ‘nhà thơ’ hay tôi là
nhà giáo, bởi; họ nhận ra được sự nhầm lẫn giữa từ ngữ triết thuyết và triết
gia. Đấy là định nghĩa chưa sáng tỏ mà đem lại một ý thức mù mờ. Thức tỉnh của
triết học là nhận thức để phân tách hữu thức và vô thức trong lý lẽ triết học tự
nhiên.Thành ra triết học tự nhiên là phân tách cái giá thành phẩm chớ không
phân tách cái giá tổng sản lượng để làm nên tác phẩm.
Sự kiện đó đã làm lệch hướng giá trị triết học thế mà vẫn duy
trì, khẳng định là đúng lập trường mà thực ra họ chỉ chứng tỏ sự nhận biết của
họ; đó là lối diễn từ chưa được hoàn hảo, vì; cái sự vụn vặt, tỷ tê của trí nhớ
trong dạng thức siêu hình là kết quả thu lượm được trong một giả thuyết ngây
ngô, khờ khạo mà cho là lối miêu tả chính xác, cụm từ đó là biểu lộ cho một ký
hiệu tượng trưng mà thôi. Từ đó chúng ta thấy rằng đây là một trong những giả
thuyết họ nói đến (dù là dựa vào hay sao y chánh bản) đều là giả tạo. Chúng ta
có thể nói rằng có hai thứ giá trị cảm thức hòa hợp trực tiếp giống nhau hoặc
cho là khác nhau nhưng thực ra không khác chi nhau mà giống nhau trong cái
nghĩa gián tiếp. Và; chúng ta cho đó là thị giác (visual) mà ra hoặc do từ xúc
giác sờ được (tactual) mà ra, cảm thức đồng tình (sense-contents) là trực tiếp
nối tiếp trong khi đó tất cả tùy thuộc vào thành quả của não thức là hội nhập
trong dạng thức nói lên sự thật hoặc có thể đó là lãnh vực cảm thức
(sense-fields) thời không có chi là khác biệt hoặc ở đó chỉ là nguyên mẫu vô định
(infinitesimal) hoàn toàn khác giữa cảm thức đồng tình và cảm thức lãnh vực. Lý
cái nầy có thể đưa tới bí tỉ cho việc nhận thức về khoa triết học. Triết học là
bày tỏ cạn ý để đi tới một lãnh hội trọn vẹn ý nghĩa của sự phân tách trong phạm
trù triết học có tính chất tự nhiên, không còn là cục bộ đông cứng giữa triết
thuyết và con người mà khai mở cho một hành trình đi vào triết học tự nhiên. Và
rồi; kết quả đó đưa dẫn tới một tiếp nhận vào lòng tin những gì thuộc siêu
hình, đúng ra; niềm tin đó nằm trong tồn lưu của bản chất vật thể hoặc là yếu tố
cơ bản mù mờ không nhận rõ –And; as a result, they may be led to adopt some
metaphysical belief, such as the belief in the existence of material substances
or invisible substrata…Và; tiện lợi của những gì xác định thuộc triết học mà những
thứ đó đã làm rối loạn, luẩn quẩn để thừa cơ từ chối; vì không đo lường được bởi
chưa hiểu thấu đáo cái sự tầm thường đó.
Để tùy thuộc vào hoàn cảnh; người ta tránh nói những gì thuộc
về triết học hay quan tâm tới ý nghĩa của biểu tượng hơn là xác định. Răng rứa?
bởi nó có cái gì tối nghĩa trong cái nghĩa của nó đưa đến nhận thức không rõ
ràng; phê nhận để phán quyết là kết quả yêu cầu thuộc triết học do từ tiêu chuẩn
chớ không thể áp dụng vào đó được, nhưng; chỉ có một điều đòi hỏi là thực nghiệm;
đấy là sự để tâm tới những gì thuộc triết học mà những thứ đó có tính chất biểu
tượng. Thế nhưng; những gì nêu ra hoàn toàn cách biệt của từng vị trí, từng
giai đoạn đều yêu cầu một cách ‘lô-gic’ để tạo nên triết học (constitute
philosophy). Cách nhìn của triết học là những gì chúng ta thu nhận, tiếp thu
như một sự lý chính đáng, có thể; là lối miêu tả theo thể thức thực nghiệm chủ
nghĩa (empiricism). Răng rứa? Xin đừng hỏi thêm mà trở nên bất khả tư nghị,
tách triết học như một phạm trù dành riêng; phải hiểu cho triết học là nguồn tự
nhiên nơi con người và vật thể xuất phát trong một dạng thức tiềm ẩn và siêu
hình. Chính vì điểm đó mà phân tách cái lý như nhiên của nó do từ lý luận triết
học mà ra.
Cho nên vai trò thực nghiệm là tránh xa siêu hình, đứng trên điạ bàn đó mọi thứ phải trung thực, phải có một liên hệ đến cảm thức kinh qua (sense-experience). Nếu cho dù ý niệm thuộc khiá cạnh triết học (philosophizing) thì đó là phạm vi hoạt động của sự phân tách, cái sự vụ này không phải là khám phá, tìm tòi trong một tập truyền qua những lý thuyết của thực nghiệm; chúng ta tìm thấy những gì ngấm ngầm trong tiến trình thực hiện. Cùng lúc đó; điều làm nên cho một triết lý tự nhiên là sáng tỏ trong việc thực nghiệm. Ở đây không nêu ra hay đặc vấn đề vào niềm tin nào hay trong bất cứ những giáo điều, học thuyết nào thuộc về triết học mà là một liên kết thông thường với những gì thực nghiệm nghĩa lý của triết học. Cho dù; nếu đây là một chủ thuyết có hiệu lực, thời giá trị của nó có thể độc lập về giá trị chuẩn mực của bất cứ luận án thuộc triết học mà thôi –For even if these doctrines were valid, their validity would be independent of the validity of any philosophical thesis. Kinh nghiệm đã cho chúng ta nhiều lý do tốt, trợ vào đó một sự chân thật của tâm lý triết học tự nhiên thuộc siêu hình hoặc chân lý đạo đức thời đó là một sự thật phổ quát, nhưng; cũng không vin vào cái gì thuộc về mình mà bảo đảm đó là chân lý. Sự thật nếu chứng thực một cách sáng tỏ lề lối tự nhiên có nghĩa là hiện đại và sống thực, vì vậy; phân tách là chứng thực của sự kiện. Vì sự thực ở đây chỉ là thứ thực nghiệm giả định –For these ‘truths’ were only empirical hypotheses. Như đã nói ở trên cả hai cửa/môn đều trống cả, là giả hợp không có chi là đầu và chả có chi là đuôi; tất cả là vô-thể mà chỉ còn lại một nhất-thể của tâm thức siêu nhiên mới định rõ nguồn cơn đâu là như nhiên và đâu là lý lẽ (triết học). Giống như những gì đã lý luận hôm nay hay những gì làm tốt cho hôm qua tất thảy đều là giả định, giả hợp –Like all empirical hypotheses, they were theoretically fallible chúng là thứ lý thuyết không có gì tin tưởng cả. Vì; tiêu chuẩn của phân tách là xác nhận cái giá trị đích thực của nó; có thể theo sau một sự giản đơn để xác định được vai trò của triết học và điều kiện đã thực hiện một cách thỏa mãn bởi những gì đưa ra như một định đề thuộc toán học.
Cho nên vai trò thực nghiệm là tránh xa siêu hình, đứng trên điạ bàn đó mọi thứ phải trung thực, phải có một liên hệ đến cảm thức kinh qua (sense-experience). Nếu cho dù ý niệm thuộc khiá cạnh triết học (philosophizing) thì đó là phạm vi hoạt động của sự phân tách, cái sự vụ này không phải là khám phá, tìm tòi trong một tập truyền qua những lý thuyết của thực nghiệm; chúng ta tìm thấy những gì ngấm ngầm trong tiến trình thực hiện. Cùng lúc đó; điều làm nên cho một triết lý tự nhiên là sáng tỏ trong việc thực nghiệm. Ở đây không nêu ra hay đặc vấn đề vào niềm tin nào hay trong bất cứ những giáo điều, học thuyết nào thuộc về triết học mà là một liên kết thông thường với những gì thực nghiệm nghĩa lý của triết học. Cho dù; nếu đây là một chủ thuyết có hiệu lực, thời giá trị của nó có thể độc lập về giá trị chuẩn mực của bất cứ luận án thuộc triết học mà thôi –For even if these doctrines were valid, their validity would be independent of the validity of any philosophical thesis. Kinh nghiệm đã cho chúng ta nhiều lý do tốt, trợ vào đó một sự chân thật của tâm lý triết học tự nhiên thuộc siêu hình hoặc chân lý đạo đức thời đó là một sự thật phổ quát, nhưng; cũng không vin vào cái gì thuộc về mình mà bảo đảm đó là chân lý. Sự thật nếu chứng thực một cách sáng tỏ lề lối tự nhiên có nghĩa là hiện đại và sống thực, vì vậy; phân tách là chứng thực của sự kiện. Vì sự thực ở đây chỉ là thứ thực nghiệm giả định –For these ‘truths’ were only empirical hypotheses. Như đã nói ở trên cả hai cửa/môn đều trống cả, là giả hợp không có chi là đầu và chả có chi là đuôi; tất cả là vô-thể mà chỉ còn lại một nhất-thể của tâm thức siêu nhiên mới định rõ nguồn cơn đâu là như nhiên và đâu là lý lẽ (triết học). Giống như những gì đã lý luận hôm nay hay những gì làm tốt cho hôm qua tất thảy đều là giả định, giả hợp –Like all empirical hypotheses, they were theoretically fallible chúng là thứ lý thuyết không có gì tin tưởng cả. Vì; tiêu chuẩn của phân tách là xác nhận cái giá trị đích thực của nó; có thể theo sau một sự giản đơn để xác định được vai trò của triết học và điều kiện đã thực hiện một cách thỏa mãn bởi những gì đưa ra như một định đề thuộc toán học.

TRANH VẼ: ‘Thiếu nữ và Sen/ Girl and Lotus’ Khổ 12”x16”
Trên giấy bìa. Acrylics+Mixed. Vẽ bằng tay và gai khươi ốc.Vcl# 2532015.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét